VietLang
05-15-2007, 03:08 PM
Nhận Xét Về Ca Dao
Nam thanh nữ tú tung ra tất cả tri thức của mình để thi tài biểu diễn. Đó là tật chung của kẻ mới làm giàu, ưa khoe của, “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Thật bực mình khi nghe những câu hò dẫn chứng nhiều điển tích sai lạc, vô nghĩa hoặc nhiều cách ngôn của Khổng Tử, tư Mã Ôn Công với danh từ lẫn lộn, ép vận, sai văn phạm cổ văn. Nhưng chúng ta chưa bi quan; trước ánh sáng của nghệ thuật, lọai hò mép nôm na (không điển tích không chữ Hán) vẫn là hình thức cao nhất, khó thành công nhứt dành riêng hco những người có chân tài, những người trầm tĩnh. Họ đã khéo léo đưa ra những câu hò từ miền Tiền Giang, Trung Phần để bẻ lại. Bẻ là uốn nắn cho hợp tình hợp cảnh: Ai về Giồng dứa qua truông,
Gió đưa bông sậy để buồn cho em.
Đã trở thành:
U Minh Rạch Giá thị quá sơn trường
Gió đưa bông sậy dạ buồn nhớ ai.
Và hình ảnh mơ hồ của cây cầu Trường Tiền ngòai Huế:
Cầu cao ba mươi sau nhịp(?)
Em theo không kịp
Nhắn lại cùng chàng:
Cái điệu tào khang.
Sao chàng vội dứt
Đêm nằm thao thức
Tưởng đó với đây
Biết nơi nao cho phụng gặp bầy
Cho le gặp bạn
Ruột đau từng đọan
Gan thắt chín lần
Đôi ta như chanh với khế, như quế với gừng
Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi!
Để thêm phần duyên dáng và để biểu diễn nghệ thuật bắt vần, nhiều người trổ tài, môi nững câu hò ngắn sẵn có. Môi tức là kéo dài thêm câu hát, đặt thêm nhiều đọan lơ lửng, vô thưởng vô phạt hoặc có dụng ý:
Anh thương em
Thương quấn thương quít
Bồng ra gốc mít, bồng xít gốc chanh
Bồng quanh đám sậy, bồng bậy vô mui
Bồng lủi sau lái, bồng ngoái trước mũi (v.v. )
Để em nằm xuống đây
Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng
Miệng đắng cơm hôi
Tiếc công anh đỡ đứng bồng ngồi
Bây giờ em vinh hiển, em bắt anh bán nồi làm chi?
Ba hình thức hò văn, hò truyện, hò mép đã tổng hợp trong một câu:
Tay cầm cục mực, cây viết vàng
Vẽ phụng vẽ loan
Vẽ Tiết Đinh San
Vẽ chàng Lâm Sĩ
Vẽ bông hoa thị
Vẽ chữ đại tường
Đem về cắm trước đầu đường
Người đi qua thấy rõ chữ kim tương (?)
Kẻ bước lại xem tường văn võ
Trách ai chận ngõ lấp truông, ngăn mấy đón gió
Để con bạn nọ phải thua buồn vì tiếng thị phi.
Theo thời gian, từ hình thức đơn giản trong sáng, câu hò lần lần trở nên nặng nề, mang nhềiu chữ nho, điển tích nhưng nghèo ý nghĩa. Lắm người tuy nổi danh hò hay, hát giỏi nhưng thật ra họ chỉ thành công nhờ làn hơi thiên phú, nếu chép lời văn ra mực đen giấy trắng thì rõ ràng là nghèo vần điệu, trùng ý, lải nhải, quá sáo:
- Nghĩa nào nặng cho bằng nghĩa tào khang.
- Đêm nằm van vái, vái van ông Tơ hồng cùng bà Nguyệt lão, xui khiến cho tôi cưới đặng con vợ đồng lòng, đồng tâm, đồng chí, phu xướng phụ tùy, phụ tùy phu xướng v.v...
Thế sự ngày càng đổi thay, nếp sống xáo trộn ít nhiều là điều dĩ nhiên. Năm 1938, 1940, nếu được dịp dự một buổi lễ thành hôn ở vùng kinh Xáng Ngã Năm, Ngã Bảy ta càng ngạc nhiên hơn. Đó là những xóm chạy thẳng ở hai bên đường giao thông thủy bộ, làm ruộng làm rẫy nhưng cũng bán hàng xén, hớt tọc, trong gian nhà có cửa sổ, có đèn “măng xông”. Bộ quần áo mặc ngủ (pijama) và đôi giày “săn đan” trở thành lể phục chánh thức (thay thế cho khăn đóng áo dài) khi chàng rể ra mắt bà con hai họ và bái từ đường! Lúc đãi tiệc, một cậu thanh niên đứng dậy trình bày với cử tọa bài “văn chúc” theo kiểu:
“Thưa quí ông, quí bà, quí cô bác, các bạn thanh nhiên, mấy chị phụ nữ.”
Hôm nay là ngày... tháng...là ngày lễ thành hôn của bạn tôi là Mỗ sánh duyên cùng cô Mỗ. Trong khi hai họ sum vầy dự tiệc, tôi là người tài thô trí thiển lẽ thì phải lặng lặng để nghe người trí thức giải bày “tâm lý” để cho tôi là kẻ thiếu học được dịp học thêm, nhưng tôi xin mạn phép đọc bài văn chúc nầy. Sách có câu chữ rằng: Châu Trần nhứt thôn vì kết hảo, Tấn Tần lưỡng quốc dĩ thành hôn...Tôi rất đáng khen bạn tôi biết vâng lời giáo huấn, chẳng học thói Sở khanh, đợi đến tuổi trưởng thành cho cha mẹ định đôi mới gọi rằng lưỡng tòan trung hiếu. Tôi thầm khen cô Mỗ biết giữ câu tiết trinh liêm sỉ và biết giữ danh gia cho cha mẹ, chẳng học thói chơi hơn nhà ta nhơ tiết...Thưa quí ông, quí bà, cô bác, các bạn thanh niên, mấy chị phụ nữ, tới đây, tôi xin “gác bút” và ngưng lời.. “
Tới phần giải trí của buổi lễ một cụ già mặc áo “bành tô” xin trình bày bài “Vè thời sự” mới sáng tác.
Thí dụ như:
Ất hợi niên (135) chánh ngọat
Chợ Phước Long đại ách rõ ràng
Người tha phương đen đến tai nàn
Ngày 29, cuối tháng giêng năm đó
Tám giờ rưỡi, chợ đương đông đen đỏ
Chiếc xáng Năn (Nantes) múc tới ngang thành
Chết máy rồi, thầy thợ sọan sành
Xúm nhau lại sửa sang máy móc
Ông Tây (coi) máy chăm non săn sóc
Chỉ đầu kia đầu nọ lăng xăng
Nồi “xốt de” thiếu nước không bằng
Cặp rằng (coi) lửa bẩm ông: Nước ít!
Rủi bữa đó ghe nước về không kịp
Còn ông Tây nóng việc không phòng
Biểu chụm càn, chạy đỡ cũng xong..
Rồi lát nữa ghe nước về sẽ lấy
Rủi nhiều việc, đồng hồ kẹt máy
Củi chụm hòai không thấy đúng giờ
...
Nghe cái rầm như đất lỡ trời nghiêng
Người trong chợ thiếu điều té ngửa..
...Nghe hết rền, thiên hạ đến coi.
Thương hại thay mười mấy mạng người
Ông phó xáng văng xuông kinh gần chết
Nhờ thầy Kiệt mau chơn lội vớt
Chớ phải không hồn lặn âm cung
Vớt lên bờ mình mẩy lấm bùn
Đứng run rẩy tiếng Tây quên nói.
...
chừng xáng nổ người bay trên mười thước
Ba người đó, co hai người dài phước
Bay lên rồi bay rớt xuống sông
Còn một người bay bổng trên không
Cũng may quá rớt nhằm bùn nước
..Ngồi ngẫm nghĩ tình đời thêm mệt
Câu nhân tình ấm lạnh điếc tai
Nghe người đồn lộn xộn vắn dài
Kẻ nói nọ, người nói kia mà đặt để
Dầu trật trúng xin quí ông miễn lễ
Tôi bận việc nhà không quan sát được rõ ràng.."
Tiếng vỗ tay vang rân khi dàn cổ nhạc bắt đầu lên dây. Buổi đờn ca kéo dài đến quá nữa khuya. Nhiều người vẫn chưa về, ngồi lì mãi tại chiếu, thách đố uống rượu, thưởng tài lẫn nhau qua câu vọng cổ Bạc Liêu, hát mãi mà không thỏa mãn!
* *
*
Vì bản Vọng cổ Bạc Liêu như bức chân dung không bao giờ vẽ xong. Nó giống như tranh tố nữ chỉ có đôi mắt u buồn là rõ rệt; mái tóc, làn môi, nếp áo thì để chìm trong sương hói, mặc ai muốn thêm bớt tô điểm thế nào cũng được. Ngay cái tên của nó cũng đáng bàn cãi. Vào năm 1923, ông Cao Văn Lầu khởi tác bản hòai Lang bằng chữ hò của điệu Lưu Thủy Trường, lời ca không ngòai ý tứ của điển tích Tô Huệ trông chồng. Bản Hòai Lang lần lần đổi tên, thêm nhịp để nuôi nấng những tình cảm phức tạp hơn. Điều hò đối đáp đã tìm được ở bản Hòai Lang một hình thức tương đối sang trong mà nương náu. Người ca không cần bới óc tìm điển tích, cách ngôn hoặc luyện tài để bẻ, để môi như trước. Bài và bản vọng Cổ là điệu hò bào chế sẳn – như món đồ hộp – tập trung và phát triển những sầu muộn mà họ muốn giải bày mãi mãi.
Bản Vọng Cổ Hòai Lang đứng vững trong lòng dân tộc nhờ căn bản quê mùacủa nó, căn bản của tiếng hát câu hò. Ở đây ta hểiu “quê mùa” theo nghĩa: tánh chất nông thôn, miền lục tỉnh. Quê mùa là một sắc thái văn hóa, một nhu cầu tình cảm tất yếu của người ở thôn quê và cũng là của người ở thành thị (provincialisme). Nó sống, không ngưng động quá lâu ở sắc thái cố định nào cả.
Nhưng văn minh kỹ thuật lan tràn thêm sau Để nhị thế chiến. Chân trời hểiu biết của giời bình dân không còn bị hạn chế ở Minh Tâm Bữu Giám, truyện Tam quốc, Tần Đường nữa đâu! Thiết tưởng ngày nay người yêu ca dao chớ nên phí thì giờ và tâm trí để du lịch về đồng quê vì mùa gặt hái của hò truyện, hò văn.. đã mãn, chỉ còn lại cảnh “tót rả cơm khô” Thà cứ ở đô thành ngồi nghe những buổi truyền thanh Vọng Cổ qua làn sóng điện, hoặc dừng bước lãng du, ghé rạp xem tuồng cải lương vào những lớp “áo não, lâm ly, gay cấn” để thông cảm với cô đào chánh đang cau mày cố gắng vô Vọng Cổ cho thật ngọt thật mùi trong lúc ánh đèn đổi màu! Tiếng vỗ tay của thính giả rộ lên để chào đón một thế giới tình cảm quen thuộc nhưng chưa nhàm, một thiên đàng đã mất những đang sống lại trong ảo giác! Bình tĩnh mà xét, ta thấy người đẹp đứng “chết bộ” khi ca sáu câu Vọng cổ quá dài, hai tay nàng chỉ biết xòe ra, nắm lại, quơ lên, quơ xuống như cố gắng tìm cho được một cây chèo, cây nọc cấy, một cái dàn xay lúc hò hát xa xưa là bám cho đỡ ngượng ngập. Tuy mái tóc đã uốn theo kiểu Brigitte Bardot, nàng vẫn là cô đào thuở trước sùng bái ông tổ hát bội, tôn trọng những điều cấm kỵ thần bị (không đem trái thị vào hậu trường, không đi guốc vông, thổi ống tiêu...) Y phục ánh sáng chỉ là hình thức phù du nay vầy mai khác, duy có đôi mắt chung thủy của nàng đang hướng về khán giả như để dò hỏi trong tương lại; đôi mắt đẹp như những vì sao lấp lánh trong vòm trời nghệ thuật, từ xưa cho đến tận bao giờ?
Nam thanh nữ tú tung ra tất cả tri thức của mình để thi tài biểu diễn. Đó là tật chung của kẻ mới làm giàu, ưa khoe của, “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Thật bực mình khi nghe những câu hò dẫn chứng nhiều điển tích sai lạc, vô nghĩa hoặc nhiều cách ngôn của Khổng Tử, tư Mã Ôn Công với danh từ lẫn lộn, ép vận, sai văn phạm cổ văn. Nhưng chúng ta chưa bi quan; trước ánh sáng của nghệ thuật, lọai hò mép nôm na (không điển tích không chữ Hán) vẫn là hình thức cao nhất, khó thành công nhứt dành riêng hco những người có chân tài, những người trầm tĩnh. Họ đã khéo léo đưa ra những câu hò từ miền Tiền Giang, Trung Phần để bẻ lại. Bẻ là uốn nắn cho hợp tình hợp cảnh: Ai về Giồng dứa qua truông,
Gió đưa bông sậy để buồn cho em.
Đã trở thành:
U Minh Rạch Giá thị quá sơn trường
Gió đưa bông sậy dạ buồn nhớ ai.
Và hình ảnh mơ hồ của cây cầu Trường Tiền ngòai Huế:
Cầu cao ba mươi sau nhịp(?)
Em theo không kịp
Nhắn lại cùng chàng:
Cái điệu tào khang.
Sao chàng vội dứt
Đêm nằm thao thức
Tưởng đó với đây
Biết nơi nao cho phụng gặp bầy
Cho le gặp bạn
Ruột đau từng đọan
Gan thắt chín lần
Đôi ta như chanh với khế, như quế với gừng
Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi!
Để thêm phần duyên dáng và để biểu diễn nghệ thuật bắt vần, nhiều người trổ tài, môi nững câu hò ngắn sẵn có. Môi tức là kéo dài thêm câu hát, đặt thêm nhiều đọan lơ lửng, vô thưởng vô phạt hoặc có dụng ý:
Anh thương em
Thương quấn thương quít
Bồng ra gốc mít, bồng xít gốc chanh
Bồng quanh đám sậy, bồng bậy vô mui
Bồng lủi sau lái, bồng ngoái trước mũi (v.v. )
Để em nằm xuống đây
Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng
Miệng đắng cơm hôi
Tiếc công anh đỡ đứng bồng ngồi
Bây giờ em vinh hiển, em bắt anh bán nồi làm chi?
Ba hình thức hò văn, hò truyện, hò mép đã tổng hợp trong một câu:
Tay cầm cục mực, cây viết vàng
Vẽ phụng vẽ loan
Vẽ Tiết Đinh San
Vẽ chàng Lâm Sĩ
Vẽ bông hoa thị
Vẽ chữ đại tường
Đem về cắm trước đầu đường
Người đi qua thấy rõ chữ kim tương (?)
Kẻ bước lại xem tường văn võ
Trách ai chận ngõ lấp truông, ngăn mấy đón gió
Để con bạn nọ phải thua buồn vì tiếng thị phi.
Theo thời gian, từ hình thức đơn giản trong sáng, câu hò lần lần trở nên nặng nề, mang nhềiu chữ nho, điển tích nhưng nghèo ý nghĩa. Lắm người tuy nổi danh hò hay, hát giỏi nhưng thật ra họ chỉ thành công nhờ làn hơi thiên phú, nếu chép lời văn ra mực đen giấy trắng thì rõ ràng là nghèo vần điệu, trùng ý, lải nhải, quá sáo:
- Nghĩa nào nặng cho bằng nghĩa tào khang.
- Đêm nằm van vái, vái van ông Tơ hồng cùng bà Nguyệt lão, xui khiến cho tôi cưới đặng con vợ đồng lòng, đồng tâm, đồng chí, phu xướng phụ tùy, phụ tùy phu xướng v.v...
Thế sự ngày càng đổi thay, nếp sống xáo trộn ít nhiều là điều dĩ nhiên. Năm 1938, 1940, nếu được dịp dự một buổi lễ thành hôn ở vùng kinh Xáng Ngã Năm, Ngã Bảy ta càng ngạc nhiên hơn. Đó là những xóm chạy thẳng ở hai bên đường giao thông thủy bộ, làm ruộng làm rẫy nhưng cũng bán hàng xén, hớt tọc, trong gian nhà có cửa sổ, có đèn “măng xông”. Bộ quần áo mặc ngủ (pijama) và đôi giày “săn đan” trở thành lể phục chánh thức (thay thế cho khăn đóng áo dài) khi chàng rể ra mắt bà con hai họ và bái từ đường! Lúc đãi tiệc, một cậu thanh niên đứng dậy trình bày với cử tọa bài “văn chúc” theo kiểu:
“Thưa quí ông, quí bà, quí cô bác, các bạn thanh nhiên, mấy chị phụ nữ.”
Hôm nay là ngày... tháng...là ngày lễ thành hôn của bạn tôi là Mỗ sánh duyên cùng cô Mỗ. Trong khi hai họ sum vầy dự tiệc, tôi là người tài thô trí thiển lẽ thì phải lặng lặng để nghe người trí thức giải bày “tâm lý” để cho tôi là kẻ thiếu học được dịp học thêm, nhưng tôi xin mạn phép đọc bài văn chúc nầy. Sách có câu chữ rằng: Châu Trần nhứt thôn vì kết hảo, Tấn Tần lưỡng quốc dĩ thành hôn...Tôi rất đáng khen bạn tôi biết vâng lời giáo huấn, chẳng học thói Sở khanh, đợi đến tuổi trưởng thành cho cha mẹ định đôi mới gọi rằng lưỡng tòan trung hiếu. Tôi thầm khen cô Mỗ biết giữ câu tiết trinh liêm sỉ và biết giữ danh gia cho cha mẹ, chẳng học thói chơi hơn nhà ta nhơ tiết...Thưa quí ông, quí bà, cô bác, các bạn thanh niên, mấy chị phụ nữ, tới đây, tôi xin “gác bút” và ngưng lời.. “
Tới phần giải trí của buổi lễ một cụ già mặc áo “bành tô” xin trình bày bài “Vè thời sự” mới sáng tác.
Thí dụ như:
Ất hợi niên (135) chánh ngọat
Chợ Phước Long đại ách rõ ràng
Người tha phương đen đến tai nàn
Ngày 29, cuối tháng giêng năm đó
Tám giờ rưỡi, chợ đương đông đen đỏ
Chiếc xáng Năn (Nantes) múc tới ngang thành
Chết máy rồi, thầy thợ sọan sành
Xúm nhau lại sửa sang máy móc
Ông Tây (coi) máy chăm non săn sóc
Chỉ đầu kia đầu nọ lăng xăng
Nồi “xốt de” thiếu nước không bằng
Cặp rằng (coi) lửa bẩm ông: Nước ít!
Rủi bữa đó ghe nước về không kịp
Còn ông Tây nóng việc không phòng
Biểu chụm càn, chạy đỡ cũng xong..
Rồi lát nữa ghe nước về sẽ lấy
Rủi nhiều việc, đồng hồ kẹt máy
Củi chụm hòai không thấy đúng giờ
...
Nghe cái rầm như đất lỡ trời nghiêng
Người trong chợ thiếu điều té ngửa..
...Nghe hết rền, thiên hạ đến coi.
Thương hại thay mười mấy mạng người
Ông phó xáng văng xuông kinh gần chết
Nhờ thầy Kiệt mau chơn lội vớt
Chớ phải không hồn lặn âm cung
Vớt lên bờ mình mẩy lấm bùn
Đứng run rẩy tiếng Tây quên nói.
...
chừng xáng nổ người bay trên mười thước
Ba người đó, co hai người dài phước
Bay lên rồi bay rớt xuống sông
Còn một người bay bổng trên không
Cũng may quá rớt nhằm bùn nước
..Ngồi ngẫm nghĩ tình đời thêm mệt
Câu nhân tình ấm lạnh điếc tai
Nghe người đồn lộn xộn vắn dài
Kẻ nói nọ, người nói kia mà đặt để
Dầu trật trúng xin quí ông miễn lễ
Tôi bận việc nhà không quan sát được rõ ràng.."
Tiếng vỗ tay vang rân khi dàn cổ nhạc bắt đầu lên dây. Buổi đờn ca kéo dài đến quá nữa khuya. Nhiều người vẫn chưa về, ngồi lì mãi tại chiếu, thách đố uống rượu, thưởng tài lẫn nhau qua câu vọng cổ Bạc Liêu, hát mãi mà không thỏa mãn!
* *
*
Vì bản Vọng cổ Bạc Liêu như bức chân dung không bao giờ vẽ xong. Nó giống như tranh tố nữ chỉ có đôi mắt u buồn là rõ rệt; mái tóc, làn môi, nếp áo thì để chìm trong sương hói, mặc ai muốn thêm bớt tô điểm thế nào cũng được. Ngay cái tên của nó cũng đáng bàn cãi. Vào năm 1923, ông Cao Văn Lầu khởi tác bản hòai Lang bằng chữ hò của điệu Lưu Thủy Trường, lời ca không ngòai ý tứ của điển tích Tô Huệ trông chồng. Bản Hòai Lang lần lần đổi tên, thêm nhịp để nuôi nấng những tình cảm phức tạp hơn. Điều hò đối đáp đã tìm được ở bản Hòai Lang một hình thức tương đối sang trong mà nương náu. Người ca không cần bới óc tìm điển tích, cách ngôn hoặc luyện tài để bẻ, để môi như trước. Bài và bản vọng Cổ là điệu hò bào chế sẳn – như món đồ hộp – tập trung và phát triển những sầu muộn mà họ muốn giải bày mãi mãi.
Bản Vọng Cổ Hòai Lang đứng vững trong lòng dân tộc nhờ căn bản quê mùacủa nó, căn bản của tiếng hát câu hò. Ở đây ta hểiu “quê mùa” theo nghĩa: tánh chất nông thôn, miền lục tỉnh. Quê mùa là một sắc thái văn hóa, một nhu cầu tình cảm tất yếu của người ở thôn quê và cũng là của người ở thành thị (provincialisme). Nó sống, không ngưng động quá lâu ở sắc thái cố định nào cả.
Nhưng văn minh kỹ thuật lan tràn thêm sau Để nhị thế chiến. Chân trời hểiu biết của giời bình dân không còn bị hạn chế ở Minh Tâm Bữu Giám, truyện Tam quốc, Tần Đường nữa đâu! Thiết tưởng ngày nay người yêu ca dao chớ nên phí thì giờ và tâm trí để du lịch về đồng quê vì mùa gặt hái của hò truyện, hò văn.. đã mãn, chỉ còn lại cảnh “tót rả cơm khô” Thà cứ ở đô thành ngồi nghe những buổi truyền thanh Vọng Cổ qua làn sóng điện, hoặc dừng bước lãng du, ghé rạp xem tuồng cải lương vào những lớp “áo não, lâm ly, gay cấn” để thông cảm với cô đào chánh đang cau mày cố gắng vô Vọng Cổ cho thật ngọt thật mùi trong lúc ánh đèn đổi màu! Tiếng vỗ tay của thính giả rộ lên để chào đón một thế giới tình cảm quen thuộc nhưng chưa nhàm, một thiên đàng đã mất những đang sống lại trong ảo giác! Bình tĩnh mà xét, ta thấy người đẹp đứng “chết bộ” khi ca sáu câu Vọng cổ quá dài, hai tay nàng chỉ biết xòe ra, nắm lại, quơ lên, quơ xuống như cố gắng tìm cho được một cây chèo, cây nọc cấy, một cái dàn xay lúc hò hát xa xưa là bám cho đỡ ngượng ngập. Tuy mái tóc đã uốn theo kiểu Brigitte Bardot, nàng vẫn là cô đào thuở trước sùng bái ông tổ hát bội, tôn trọng những điều cấm kỵ thần bị (không đem trái thị vào hậu trường, không đi guốc vông, thổi ống tiêu...) Y phục ánh sáng chỉ là hình thức phù du nay vầy mai khác, duy có đôi mắt chung thủy của nàng đang hướng về khán giả như để dò hỏi trong tương lại; đôi mắt đẹp như những vì sao lấp lánh trong vòm trời nghệ thuật, từ xưa cho đến tận bao giờ?