VietLang
05-30-2007, 04:49 PM
Chương 5
Trong khi tôi đứng đó ngẫm nghĩ về cái chiến thắng quá toàn vẹn của loài người thì vầng trăng tròn, vàng và đầy đặn đã nhô lên từ vùng ánh sáng phía đông bắc. Bên dưới không còn bóng người qua lại, một con cú bay qua lặng lẽ*, tôi quyết định xuống đồi tìm chỗ ngủ.
"Nhìn xung quanh để định lại phương hướng, mắt tôi chạm vào tòa sư tử nền đồng nổi bật dưới ánh trăng ở phía xa xạ Tôi thấy cây bạch thụ bên cạnh, những bụi trường thanh hiện hình như những bóng đen, và thảm cỏ quen thuộc. Nhìn lại thảm cỏ lần nữa, sự bình thản của tôi biến mất. "Không," tôi tự nói với mình, "đó không thể nào là thảm cỏ cũ."
"Nhưng đó chính là thảm cỏ cũ, vì khuôn mặt trắng bệch của con sư tử đá vẫn nhìn thẳng về phía nó. Qúy vị chắc không thể nào tưởng tượng nổi những ý nghĩ chạy qua đầu tôi lúc ấy. Chiếc máy thời gian đã biến mất!
"Tức thì, đột ngột như vừa bị một vết chém vào mặt, tôi nghĩ đến việc mình bị mất lối trở về, bị kẹt lại vĩnh viễn ở cái thế giới lạ hoắc này. Ý nghĩ đó gây cho tôi một cảm giác khủng khiếp. Tôi cảm thấy cổ họng mình nghẹn lại, như không thể nào thở nổi. Trong chớp mắt sự sợ hãi khiến tôi chạy như bay xuống đồi. Qúa vội, tôi vấp chân té sướt cả mặt. Nhưng tôi không hề lau những giọt máu rỉ xuống má, xuống cằm, mà lại nhảy dựng lên, chạy tiếp. Vừa chạy tôi vừa lẩm bẩm với chính mình: "Họ đã đẩy nó vào một bụi cây ở đâu đó thôi." Nghĩ là nghĩ vậy, tôi vẫn chạy như điên. Bởi cùng lúc, với một sự chắc chắn thường đi theo cảm giác sợ hãi, tôi biết là tôi đã tự dối mình, tôi biết chiếc máy đã bị dời đến một nơi nào đó ngoài tầm tay với của tôi. Hơi thở của tôi bắt đầu mệt nhọc và đau đớn. Từ đỉnh đồi đến thảm cỏ có lẽ đến hai dặm, tôi cũng chẳng còn trẻ gì, vậy mà chỉ chạy khoảng mười phút đồng hồ đã đến nơi. Vừa chạy tôi vừa mắng chửi mình, tự trách sự tự tin ngu xuẩn đã khiến tôi để lại chiếc máy giữa thảm cỏ trống. Tôi hét thành tiếng lớn, nhưng không có ai trả lời. Vạn vật im lìm trên mặt đất phủ đầy ánh trăng.
"Tới thảm cỏ, nỗi sợ hãi ghê gớm nhất của tôi trở thành sự thật. Không có một dấu vết gì của chiếc máy. Tôi đứng ngây người, mệt và lạnh trên vùng cỏ bao quanh bởi những bụi cây. Tôi chạy quanh thảm cỏ, rồi đứng phắt lại, vò tai bứt tóc. Ở trên cao, chiếc đầu sư tử trên bệ đồng, trắng toát, lung linh bệnh hoạn dưới ánh trăng hình như mỉm cười thích thú trước hoàn cảnh khốn đốn của tôi.
"Tôi muốn tự trấn an rằng có lẽ những người tương lai nhỏ bé kia đã đưa chiếc máy đến một nơi an toàn dùm tôi, nhưng sự yếu đuối và ngu ngốc của họ khiến tôi phải bỏ ý nghĩ ấy đi. Và đó chính là lý do khiến tôi sợ hãi: bởi như vậy tức là có một thế lực nào khác đã lấy mất chiếc máy thời gian, và tôi không hề biết gì về thế lực ấy. Tuy nhiên, có một điều khiến tôi tạm yên tâm: trừ trường hợp một thời đại nào đó có phát minh y hệt, chiếc máy chắc chắn chưa bị đẩy vào một khoảng thời gian khác. Lý do là cách gắn những chiếc cần số - mà lát nữa tôi sẽ trình bày với quý vị - khiến chuyện ấy không xảy ra được. Như vậy chiếc máy chỉ bị dời chỗ và dấu kín trong không gian thôi. Nhưng nó bị dấu ở đâu lại là một vấn đề khác.
"Hình như lúc ấy tôi nổi cơn điên. Tôi chạy một cách hung dữ từ bụi cây này đến bụi cây nọ chung quanh tòa sư tử, gây sự sợ hãi cho một con vật màu trắng mà tôi cho là một loài hươu nhỏ. Tôi cũng nhớ rõ lắm; khuya đêm đó, tôi liên tục đấm vào những lùm cây, để mặc cho tay mình chảy máu vì những cành gẫy đâm vào. Rồi, vừa khóc vừa la sảng trong nỗi đớn đau cùng cực, tôi trở lại tòa nhà bằng đá. Căn phòng lớn tối đen, lặng yên, và hoang vắng. Tôi trượt chân trên mặt sàn lồi lõm, ngã nhào vào một chiếc bàn, tưởng muốn gẫy ống quyển. Tôi đốt một que diêm soi đường qua những tấm màn cửa phủ đầy bụi đã tả trước đây.
"Trước mắt tôi là một căn phòng lớn khác, xếp đầy gối và có thật nhiều người tương lai đang ngủ. Chắc chắn họ phải thấy cách xuất hiện lần thứ hai của tôi thật là lạ lùng: phóng ra từ bóng tối, miệng kêu la, tay cầm một que diêm đang cháy. Vì họ đã quên diêm quẹt từ lâu rồi. "Chiếc máy thời gian của tôi đâu?" Tôi vừa gào vừa lay hết người này đến người khác. Hẳn nhiên, họ cho rằng tôi quái đản lắm. Vài người cười rộ, nhưng hầu hết chỉ nhìn tôi thảng thốt. Khi họ đứng lên bao quanh tôi, tôi nghĩ lại thấy mình đã làm một việc hoàn toàn vô ích. Mục đích của tôi là gây sự sợ hãi trong lòng họ; nhưng dựa theo thái độ ban ngày của họ mà xét, tôi cho rằng họ đã quên mọi nỗi sợ hãi từ lâu rồi.
"Tôi vất toẹt que diêm xuống, đẩy một người tình cờ đứng cản đường sang bên, loạng choạng trở lại căn phòng ăn vĩ đại, và bước ra ngoài ánh trăng. Tôi nghe những tiếng kêu hoảng hốt, những tiếng chân vội vàng của họ vọng theo. Tôi không nhớ hết những gì tôi làm trong suốt khoảng thời gian mặt trăng lặng lẽ đi xuyên qua bầu trời. Có lẽ sự mất mát quá bất ngờ đã làm tôi cuồng dại. Tôi tuyệt vọng vì đã bị cắt đứt khỏi thời đại của mình - một con thú lạc trong một thế giới lạ lùng. Tôi biết là tôi đã chạy qua chạy lại, kêu khóc, thống trách thượng đế và số mệnh. Tôi nhớ là trong khi đêm dần đi qua, tôi mệt mỏi lục tìm hết chỗ này đến chỗ khác, xem xét từng đống gạch đá dưới ánh trăng soi, sờ nhằm những sinh vật lạ trong bóng tối; cuối cùng, tôi nằm vật trên mặt đất gần tòa sư tử khóc nức lên trong niềm thống khổ tận cùng, rồi thiếp đi lúc nào không biết. Khi tôi tỉnh dậy đã là một ngày mới, mở mắt ra tôi thấy hai con két nhảy nhót xung quanh trong tầm tay với của tôi.*
"Tôi ngồi lên trong không khí tươi mát của buổi bình minh, cố nhớ lại tại sao mình ở chỗ này, và tại sao mình lại có cảm giác tuyệt vọng tận cùng đến thế. Rồi đầu óc tôi trở thành sáng sủa. Với sự bình thường và hợp lý của ánh sáng ban ngày, tôi bắt đầu có đủ bình tĩnh để trực diện với hoàn cảnh. Tôi thấy rõ sự dại dột của mình đêm hôm trước. "Giả sử trường hợp tệ hại nhất." Tôi tự nhủ. "Giả sử chiếc máy đã mất hẳn, ngay cả bị phá huỷ. Cách hay nhất là mình phải bình tĩnh và kiên nhẫn, làm quen với lề lối của xã hội này, nhớ lại cách chế tạo, tìm cách kiếm vật liệu; như vậy biết đâu mình có thể làm ra một chiếc máy khác." Có lẽ đó là hy vọng duy nhất của tôi; khó khăn, nhưng vẫn hơn là tuyệt vọng. Vả lại, đây là một thế giới đẹp có nhiều điều lạ lùng đáng khám phá.
"Và có lẽ chiếc máy chỉ bị mang đi đâu đó mà thôi. Dù sao, tôi vẫn phải bình tĩnh và kiên nhẫn để tìm chỗ người ta dấu nó, rồi lấy lại bằng sức mạnh hoặc sự khôn ngoan. Nghĩ thế rồi tôi nhổm chân đứng dậy nhìn quanh, tìm chỗ tắm rửa. Tôi đang mệt, khó chịu, và không lấy gì làm sạch sẽ. Sự tươi mát của buổi bình minh khiến tôi muốn hưởng một sự tươi mát tương tự. Đêm hôm trước, tôi đã đi đến tận cùng của cảm tính. Nghĩ lại, tôi không hiểu tại sao mình có thể có những thái độ và hành động thiếu suy nghĩ đến thế. Tôi xem xét xung quanh thảm cỏ, tốn phí một số thời giờ vô ích hỏi han vài người đi ngang. Không ai hiểu ý nghĩa những cử chỉ làm dấu của tôi; có người đứng nghệch ra, có người tưởng tôi đùa bèn cười đáp lại. Phải cố gắng lắm tôi mới dằn nổi ý muốn tát vào mặt họ vài cái đích đáng. Tôi biết đó là một ý muốn tệ hại, nhưng con quỷ sinh ra từ sự sợ hãi và giận dữ vẫn hoành hành trong tâm trí hoang mang của tôi. Thảm cỏ giúp tôi bình tĩnh lại, vì tôi nhìn thấy trên đó một vệt lõm, khoảng giữa cái bệ của tòa sư tử và nơi hằn những dấu chân do chính tôi tạo ra khi vật lộn với chiếc máy bị lật ngược lúc mới tới thế giới này. Có những dấu khác chứng tỏ chiếc máy bị di chuyển, cùng với vài vết chân lê lết lạ lùng. Những điều này khiến tôi chú ý đến cái bệ của tòa sư tử. Như tôi đã nói, nó bằng đồng thau, nhưng không phải là một khối phẳng, mà được trang trí tỉ mỉ thành hình những khung ở mọi phía. Tôi chạy đến, đập tay vào những khung này và khám phá là cái bệ không đặc, mà rỗng ở bên trong. Xem xét những đường viền một cách kỹ lưỡng, tôi thấy chúng không dính liền vào nhau ở mọi chỗ mà có một số khe ở giữa. Vậy thì đây phải là những cánh cửa. Vì bên ngoài không có nắm đấm, chỗ cầm tay, hoặc lỗ khóa, tất cả có lẽ đều ở phía trong. Mọi việc trở thành rõ ràng. Không cần phải suy nghĩ sâu xa gì, tôi biết ngay chiếc máy thời gian đang ở bên trong cái bệ. Nhưng ai kéo nó vào đó lại là chuyện khác.
"Tôi thấy hai người mặc áo màu cam đi giữa những bụi trường thanh, tới phía dưới những cây táo phủ đầy hoa, rồi hướng về phía tôi. Tôi quay người, cười với họ và ra dấu cho họ đến gần. Khi họ đến nơi, tôi chỉ tay về phía cái bệ đồng, cố cho họ hiểu ý muốn của tôi là mở nó ra. Nhưng chỉ một cử chỉ đầu tiên của tôi đã đủ khiến họ có phản ứng hết sức lạ lùng. Tôi không biết phải làm sao để diễn tả thái độ của họ. Giả sử quý vị làm một cử chỉ vô cùng thiếu lịch sự với một phụ nữ hết sức gia giáo, có lẽ người ấy cũng chỉ phản ứng đến mức như thế. Hai người ấy bỏ đi, như thể vừa bị làm nhục đến mức không thể chịu đựng nổi. Kế tiếp tôi thử một anh chàng mặc đồ trắng, với kết quả (hay hậu quả) y hệt. Có một cái gì đó trong phản ứng của hắn khiến tôi đâm ra hổ thẹn với chính mình. Nhưng, như quý vị biết, tôi cần lấy lại chiếc máy thời gian, nên tôi lại thử ra dấu với hắn một lần nữa. Khi hắn quay lưng đi như hai người lúc nãy, tôi không còn dằn nổi nóng giận. Chạy vài bước tôi đã bắt kịp hắn. Tôi chụp tay vào cổ áo kéo hắn xềnh xệch về phía toà sư tử. Nhưng rồi tôi thấy trên mặt hắn nét kinh hoàng và ghê tởm. Tôi sững sờ buông tay, để mặc hắn chạy đi.
"Vẫn chưa chịu thua, tôi đấm tay thùm thụp vào thành bệ. Bên trong hình như có tiếng động, nói rõ hơn, hình như có tiếng cười vọng ra; nhưng tôi cho là tôi đã nghe lầm. Tôi xuống sông lấy một cục đá lớn, đập mãi vào thành bệ cho đến khi một vòng tròn khắc nổi trên đó bị lõm xuống và những teng đồng vụn lả tả rơi ra. Những người tương lai yếu đuối ở xa hàng dặm chắc còn nghe thấy tiếng đập tuyệt vọng của tôi. Tôi thấy một đám đông đứng trên sườn đồi nhìn tôi bằng những cặp mắt bất lực. Cuối cùng, vì nóng và vì mệt, tôi đành ngồi xuống nhìn cái bệ chăm chăm. Nhưng tâm lý quá tây phương của tôi khiến tôi không thể nhìn lâu. Tôi có thể miệt mài suy nghĩ về một vấn đề nhiều năm trời, nhưng ngồi đợi mà không làm gì cả trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ lại là chuyện hoàn toàn khác.
"Một lát sau tôi đứng dậy, đi một cách vô định giữa những bụi cây về phía sườn đồi. "Phải kiên nhẫn," tôi nói với chính mình. "Nếu mày muốn tìm lại cái máy thì mày có đập móp cái thành đồng đó cũng vô dụng mà thôi. Và nếu người ta muốn trả chiếc máy lại cho mày, thì nó sẽ trở lại với mày khi mày yêu cầu đúng lúc. Đừng cố gắng làm việc vô vọng, vì như vậy mà chỉ hóa điên thôi. Hãy đối diện với thế giới này, học đường lối của nó; cẩn thận, đừng kết luận vội vàng, rồi cuối cùng mày sẽ khám phá ra mọi mấu chốt cần thiết." Đột nhiên tôi nghĩ đến sự ngộ nghĩnh của hoàn cảnh lúc đó: bao nhiêu năm trời nghiên cứu và làm việc nhọc mệt chỉ cốt để đi đến tương lai, rồi khi đã ở tương lai lại phải lo lắng tìm cách trở về hiện tại. Tôi đã tự quàng vào mình cái bẫy phức tạp nhất và khó thoát nhất mà loài người từng chế tạo. Mặc dù nạn nhân chính là tôi, tôi cũng không khỏi thấy buồn cười. Thế là tôi cười lên ha hả.
"Khi trở về tòa nhà cũ, hình như những người tương lai đều tránh né tôi. Có thể tôi tưởng tượng, cũng có thể đây là hậu quả của việc tôi đập vào cái bệ đồng lúc nãy. Dù sao, tôi khá chắc chắn cảm tưởng của mình là đúng. Thận trọng, tôi cũng làm bộ như không để ý đến họ. Một hai ngày sau thì mọi việc trở lại bình thường. Về ngôn ngữ, tôi đạt mọi bước tiến có thể đạt được; ngoài ra tôi cũng làm việc dò xét chỗ này chỗ kia một ít. Nếu tôi không lầm thì tiếng nói của những người tương lai này rất đơn giản, gần như chỉ gồm những danh từ cụ thể và động từ. Có rất ít, nếu không muốn nói là hoàn toàn không có, những từ ngữ cần thiết cho sự diễn tả hoàn cảnh hoặc tình cảm. Hầu hết những câu nói của họ chỉ gồm hai chữ. Nhưng chính vì sự đơn giản đó mà tôi gặp khó khăn trong việc tìm hiểu họ cũng như làm cho họ hiểu mình.
"Tôi đã quyết định tạm quên chiếc máy thời gian, tòa sư tử và cái bệ đồng có cửa đóng kín, cho đến khi sự hiểu biết của tôi giúp tôi đạt mục đích mong muốn một cách tự nhiên. Nhưng, chắc quý vị hiểu, như có trực giác xui khiến, tôi chỉ lẩn quẩn trong một chu vi vài dặm tính từ chỗ đến đầu tiên với chiếc máy thời gian.
"Dựa theo những gì tôi thấy, có lẽ toàn thể địa cầu đều có nét đẹp phong phú như dòng Thames. Leo lên bất cứ ngọn đồi nào, nhìn ra xa tôi đều thấy những lâu đài dinh thự nguy nga, kiến trúc nhiều kiểu khác nhau và được xây cất bằng những vật liệu khác nhau, những đám trường thanh mát mẻ, những cây đầy hoa, những cỏ êm mượt. Đây đó những dòng nước chảy óng ánh như bạc, mặt đất nổi lên thành những ngọn đồi xanh, chạy xa dần, mờ lẫn vào chân trời êm lặng.
"Óc tò mò khiến tôi chú ý đến sự hiện diện của một số giếng tròn, có lẽ khá sâu. Một cái nằm ở trên đường dẫn lên đồi mà tôi đã thấy trong chuyến đi bộ đầu tiên. Như tất cả những cái khác, miệng giếng này được bọc bằng một lớp đồng thau đúc lạ lùng, và được che khỏi nắng mưa bằng một cái nắp nhỏ hình vòng cung. Ngồi cạnh giếng nhìn xuống, tôi chỉ thấy một màu đen, không có ánh nước, không có gì phản chiếu lại, ngay cả khi đốt diêm soi xuống. Nhưng tôi lại nghe một thứ tiếng động ầm ầm ầm như tiếng kêu của một loại máy lớn. Dựa theo chiều của ánh lửa que diêm, tôi khám phá rằng không khí được liên tục hút xuống giếng một cách đều đặn. Tôi vất thử một mẩu giấy nhỏ xuống giếng, thay vì chỉ rơi chậm, mẩu giấy tức thì bị hút nhanh mất dạng.
"Một thời gian sau, tôi tìm ra sự liên quan giữa những chiếc giếng và vài cái cột cao rải rác trên sườn đồi. Trên những cột này thỉnh thoảng lại hiện một gợn không khí như chúng ta thường thấy trên các bãi biển vào những ngày mặt trời chiếu nóng. Gom tất cả mọi dữ kiện, tôi kết luận đây là một hệ thống thông hơi dưới lòng đất vô cùng phức tạp. Nhưng mục đích của nó là gì thì quả là khó đoán. Lúc đầu tôi tưởng đó là hệ thống vệ sinh của những con người tương lai mà tôi đã gặp. Một kết luận khá hiển nhiên, nhưng là một kết luận hoàn toàn sai.
"Phải thú nhận là tôi gần như chẳng học được gì về cống rãnh, phương pháp chuyển vận, hoặc những tiện nghi tương tự khi còn ở thế giới đó. Trong những sách vở dự đoán tương lai, tôi đã đọc rất nhiều chi tiết về kiến trúc nhà cửa, về cách xếp đặt xã hội, vân vân. Nhưng ghi nhận những chi tiết đó bằng óc tưởng tượng thì dễ, mà bằng cách thực sự đối diện lại vô cùng khó khăn. Qúy vị thử nghĩ những câu chuyện do một người da đen ở Trung Phi ghé vội sang Luân Đôn rồi trở lại kể cho bộ lạc của anh ta! Anh ta biết gì về các hãng xe lửa, các phong trào xã hội, về điện thoại, điện tín, về bưu điện, về các hãng gửi đồ? Đó là chúng ta đã vui lòng giải thích mọi việc cho anh ta nghe! Và giả sử anh ta hiểu hết thì cũng chắc gì giải thích nổi cho những người bạn chưa du lịch cùng hiểu hoặc tối thiểu tin là anh ta không nói dối? Còn nữa, hãy nghĩ về cái khoảng cách nhỏ bé giữa anh da đen và người da trắng ở thời đại chúng ta, và cái khoảng cách vô cùng lớn giữa tôi và những người ở thời đại vàng son của tương lai! Tôi cảm nhận được hầu hết những gì tôi không được thấy, và điều đó khiến tôi phần nào thoải mái; nhưng trừ cái cảm tưởng tổng quát của một xã hội siêu tổ chức, tôi e rằng tôi không thể diễn tả cho quý vị hiểu sự khác biệt giữa thời đại chúng ta và thời đại tương lai.
"Chuyện tang tế chẳng hạn, tôi không hề thấy một địa điểm hỏa táng, cũng không hề thấy dấu hiệu nào của những nấm mộ. Nhưng tôi lại nghĩ, rất có thể các nghĩa địa và nơi hỏa táng đều nằm ngoài khu vực mà tôi biết tới. Đây là một câu hỏi tôi tự đặt với chính mình, và sự tò mò của tôi tạm thời được giải tỏa bằng cách giải thích vừa kể. Điều khiến tôi ngạc nhiên, rồi chú ý, để rồi ngạc nhiên thêm nữa là trong xã hội ở tương lai không hề có người già và người bệnh.
"Tôi phải nhìn nhận thuyết của tôi về một nền "văn minh tự động" và diễn trình thoái hóa của nhân loại chẳng đứng vững được bao lâu. Nhưng tôi không tìm ra cách giải thích nào khác. Tôi xin được trình bày vài khúc mắc. Những tòa lâu đài mà tôi đã vào chỉ là những chung cư vĩ đại để người ta ăn, ở, và ngủ. Tôi không thấy máy móc, không thấy bất cứ một phương tiện nào. Vậy mà những người tương lai này lại có những y phục đẹp mắt cần thỉnh thoảng thay đổi; những đôi sandals của họ, dù sơ sài nhưng vẫn có phần bằng kim loại phải được chế tạo. Đó là chưa kể họ tỏ ra chẳng có một khả năng sáng tạo nào hết. Không có hàng quán, cửa tiệm, nơi thu đồ nhập cảng ở bất cứ đâu. Chỉ có những con người tản bộ trên bờ, tắm gội dưới sông, làm tình như đùa giỡn, ăn trái cây, và ngủ. Tôi chẳng thấy lý do nào để một xã hội như vậy có thể tồn tại.
"Còn chiếc máy thời gian. Tôi không biết ai đã đem nó dấu bên trong cái bệ rỗng của tòa sư tử. Để làm gì? Tôi không thể nghĩ ra. Những chiếc giếng không có nước, những cột thông hơi. Rõ ràng phải có một bí mật nào đó mà tôi chưa biết. Tôi có cảm tưởng - tôi phải trình bày như thế nào nhỉ? Giả sử quý vị gặp một bản văn tự, trên đó có những dòng tiếng Anh giản dị xen giữa là những chữ, những câu mà quý vị chưa từng thấy bao giờ. Vâng, trong ngày thứ ba của cuộc viếng thăm của tôi, đó là cảm tưởng của tôi về cái thế giới của năm tám trăm lẻ hai ngàn bảy trăm lẻ một.
"Cũng ngày đó tôi làm quen với một người bạn, có thể tạm gọi như thế. Tôi có mặt trong khi một số người tương lai đang tắm ở một chỗ nước không sâu. Một người trong bọn họ vọp bẻ bị nước cuốn đi. Dòng nước chảy khá nhanh, nhưng không lấy gì là xiết, ngay cả đối với người có khả năng bơi lội thuộc hạng trung bình. Qúy vị có thể hình dung được phần nào mức thụ của động của những con người tương lai khi tôi kể cho quý vị nghe rằng mặc dù kẻ sắp chết đuối la lên cầu cứu, chẳng hề có ai tỏ một thái độ hoặc hành động nào cả. Thấy vậy, tôi vội cởi quần áo ngoài, đi lần ra, kéo người bị nạn vào bờ. Đó là một cô gái. Chỉ xoa nắn một chùt, cô gái trở lại bình thường, và tôi có niềm vui được nhìn thấy cô hồi phục trước khi bỏ đi nơi khác. Vì quá coi thường chủng tộc của cô, tôi không cho rằng cô biết ngỏ lời cám ơn. Nhưng, riêng chuyện này, tôi đã sai lầm.
"Vừa cứu buổi sáng thì buổi chiều tôi gặp lại "nàng" nhỏ bé của tôi - tôi tạm gọi như thế - khi tôi trở về từ một chuyến thăm dò địa hình. Nàng chào tôi bằng những tiếng reo sung sướng và trao cho tôi một vòng hoa. Vòng hoa này rõ ràng đã được kết cho tôi và chỉ cho tôi mà thôi. Hành động của nàng khiến tôi vô cùng xúc động. Có thể tâm thần của tôi đã ở trạng thái tuyệt vọng chăng? Không biết, nhưng tôi cố hết sức tỏ cho nàng biết rằng tôi rất thích món quà tặng của nàng. Một lát sau, chúng tôi đã ngồi cạnh nhau trên một tảng đá, bắt đầu cuộc trò chuyện, không bằng lời lẽ mà gần như chỉ bằng những nụ cười. Sự thân thiện của cô gái gây cho tôi những cảm tưởng y hệt như khi đối diện với một đứa trẻ dễ thương. Chúng tôi trao nhau những đóa hoa. Nàng hôn bàn tay tôi, và tôi hôn bàn tay nàng. Tôi cố diễn tả bằng lời nói, và biết được tên nàng là Weenạ Tôi không hiểu Weena có ý nghĩa gì, nhưng thấy là một cái tên thật thích hợp. Đó là điểm khởi đầu của một tình bạn lạ lùng kéo dài một tuần lễ và rồi chấm dứt, như tôi sẽ kể cho quý vị nghe.
"Nàng y hệt như một đứa bé, luôn luôn muốn ở cạnh tôi, luôn luôn muốn theo tôi từng bước. Trong chuyến đi tiếp đó, tôi cố bước thật nhanh để nàng không theo kịp, nàng quá mệt chỉ biết kêu tôi từ phía sau. Nhưng còn quá nhiều vấn đề phải giải quyết. Tôi tự nhủ, đâu phải mình đến tương lai để có một người tình nhỏ bé. Tuy thế, sự đau khổ của nàng khi bị tôi bỏ rơi thật ghê gớm, những cử chỉ của nàng lúc ấy như điên dại. Vả lại, tôi ngẫm nghĩ, sự tha thiết của nàng dù có gây phiền toái cũng đồng thời là một nguồn an ủi rất lớn cho tôi. Thoạt đầu tôi cho rằng lý do khiến nàng muốn ở cạnh tôi chỉ là một loại tình cảm trẻ con. Khi tôi hiểu rõ sự đau khổ của nàng lúc phải rời xa tôi, cũng như sự quan trọng của nàng đối với tôi thì mọi việc đã quá trễ rồi. Vì, chỉ cần những hành động hết sức yếu đuối và vô vọng mà nàng dành cho tôi đã đủ khiến tôi mỗi lần đến gần tòa sư tử trắng có cảm tưởng gần như mình đang trở về một mái nhà thân yêu. Và vì thế, mỗi lần đi khỏi ngọn đồi tôi đều dõi mắt tìm kiếm bóng dáng nhỏ bé quen thuộc trong bộ nhất y hai màu trắng và vàng của nàng.
"Chính nhờ nàng mà tôi biết là sự sợ hãi chưa biến mất trên mặt địa cầu. Ban ngày nàng rất bạo dạn, và nàng tin tưởng tôi một cách tuyệt đối. Có lần trong một phút giây không suy nghĩ tôi nhăm mặt cố ý dọa nàng, nàng chỉ cười phá lên đáp lại. Nhưng nàng sợ đêm tối, sợ những bóng mờ, sợ những vật màu đen. Bóng đêm với nàng là cả một mối đe dọa. Tâm lý đặc biệt này khiến tôi phải suy nghĩ và chú ý. Sau đó tôi khám phá rắng mỗi đêm những con người nhỏ bé của tương lai đều ngủ tụ lại với nhau thành nhóm trong những dinh thự lớn. Chỉ cần bước vào thình lình, tay cầm lửa là đủ gây cho họ một cảnh náo loạn đầy sợ hãi. Tôi không hề thấy một người nào ngủ ngoài trời, hoặc ngủ một mình trong nhà khi đêm xuống. Nhưng tôi ngốc quá nên vẫn không hiểu ra bài học của sự sợ hãi ở thế giới tương lai, và mặc dầu Weena tỏ ra rất khổ sở, tôi vẫn nhất định không ngủ chung với những đám đông này.
"Nàng hết sức lo ngại, nhưng mối tình cảm kỳ lạ mà nàng dành cho tôi đã chiến thắng, và trong năm đêm chúng tôi quen nhau, kể cả đêm cuối cùng, nàng ngủ dựa đầu lên tay tôi. Nhưng, mải kể về nàng tôi đã lạc đề mất rồi. Trở lại câu chuyện, hình như ngay cái đêm trước ngày tôi cứu Weena thì phải. Trong giấc ngủ mệt mỏi, tôi nằm mơ thấy mình chết đuối, mặt bị phủ đầy những cánh hoa biển. Giật mình tỉnh dậy, tôi có cảm giác mơ hồ như thấy một con vật màu xam xám vừa chạy khỏi phòng. Tôi cố ngủ lại, nhưng thấy người khó chịu, trăn trở không yên. Lúc ấy trời gần sáng, khoảng thời gian mà vạn vật đều thiếu màu sắc và mơ màng như không có thật dưới mắt con người. Tôi đứng dậy, đi qua căn phòng lớn, ra phía trước tòa lâu đài để nhìn cảnh mặt trời mọc.
"Những tia cuối cùng của mặt trăng đang lặn trộn với ánh sáng yếu ớt của mặt trời sắp lên tạo thành một sắc ma quái. Những bụi cây đen như mực, mặt đất xám ngắt, bầu trời không màu ảm đạm. Trên sườn đồi hình như tôi thấy mạ Đảo mắt qua lại vài lần; quả thật là những bóng trắng. Có đến hai lần, tôi cho rằng mình thấy một con vật trắng, hình dạng như khỉ chạy khá nhanh lên đồi. Một lần, tôi thấy một đám những con vật tương tự đang khiêng một bóng màu đen cạnh những di tích đổ nát. Chúng di chuyển vội vàng, không biết về đâu, nhưng dường như mất dạng gần những bụi cây. Qúy vị phải hiểu lúc ấy trời còn tranh tối tranh sáng. Tôi vẫn còn có cái cảm giác thiếu chắc chắn của một người ngái ngủ. Tôi không tin ở mắt tôi.
"Khi bầu trời phía đông bắt đầu rực rỡ hơn, và ánh sáng của ban ngày đã trao lại màu sắc cho thế giới, tôi quan sát kỹ lại một lần nữa. Nhưng không còn dấu vết gì của những bóng trắng lúc nãy. Phải chăng chúng chỉ là ảo ảnh? "Chắc là ma," tôi tự nhủ "không hiểu họ chết từ bao giờ." Tôi nhớ lại một ý tưởng ngộ nghĩnh của Grant Allen và cười một mình. Ông ta lập luận: nếu mọi thế hệ khi chết đi đều để lại những con ma, thì cuối cùng thế giới sẽ đầy ngập những bóng mạ Theo ý tưởng đó, thì hơn tám trăm ngàn năm nữa (tính từ thời chúng ta) số bóng ma trên thế giới này sẽ nhiều đến mức không ai đếm xuể, vậy nếu thấy bốn con ma một lúc cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng ý tưởng ngộ nghĩnh đó dĩ nhiên không thể làm tôi thỏa mãn. Tôi nghĩ mãi về những bóng trắng suốt buổi sáng, mãi đến khi cứu Weena mới quên chúng đi. Tôi đoán chúng có liên quan đến con vật bị tôi làm cho sợ hãi trong cái đêm tôi điên cuồng tìm chiếc máy thời gian. Weena là một hình ảnh đáng giữ hơn trong tâm tưởng, nhưng số mệnh đã định là những bóng trắng đó sẽ trở thành ám ảnh lớn trong đầu óc tôi sau này.
"Hình như tôi đã cho quý vị biết là khí hậu của thời tương lai vàng son đó nóng bức hơn thời chúng ta rất nhiều. Tôi không hiểu hiện tượng này. Có thể là mặt trời nóng hơn, có thể là trái đất tiến đến gần mặt trời hơn. Theo lẽ thường thì phải đoán là mặt trời sẽ càng ngày càng giảm nhiệt độ. Nhưng người ta, vì không biết tới những thuyết tương tự như của Darwin, quên rằng cuối cùng tất cả mọi hành tinh sẽ lần lượt rơi trở về ngôi sao mẹ của chúng. mỗi lần như vậy, mặt trời sẽ tăng thêm năng lượng. Rất có thể đây đã là số phận của một hành tinh nào đó ở trong khoảng giữa mặt trời và trái đất. Nhưng bất kể vì lý do gì, sự thật vẫn là mặt trời tương lai nóng hơn mặt trời hiện tại của chúng ta.
"Một buổi sáng rất nóng - buổi sáng thứ tư, tôi nghĩ thế. Trong khi đang tìm nơi trốn sức nóng và ánh sáng của mặt trời cạnh đống tàn tích khổng lồ gần tòa lâu đài nơi tôi ăn ngủ, tôi gặp một chuyện lạ lùng. Trong khi đi lần theo những đống vụn gạch đá tôi khám phá một phòng triển lãm hẹp với tất cả mọi cửa sổ, bên hông cũng như ở hai đầu, bị che bởi những tảng đá có lẽ rơi từ trên cao xuống vào một thời xa xưa nào đó. So với ánh nắng chói chan ngoài trời, căn phòng ấy hiện dưới mắt tôi như một chỗ hết sức tối tăm. Tôi luồn theo những chỗ hở dò từng bước đi vào. Sự đổi thay từ ánh sáng vào bóng tối khiến mắt tôi như thấy vô vàn ngôi sao bay nhảy. Đột nhiên, tôi sửng sốt đứng lại. Vì có ánh sáng từ bên ngoài phản chiếu, tôi thấy rõ một đôi mắt đang theo dõi tôi trong bóng tối.
"Lòng tôi rợn lên nỗi sợ hãi của một người bình thường khi đối diện loài thú dữ. Tôi nắm chặt tay nhìn vào đôi mắt ấy mà không dám xoay người. Tôi nghĩ đến ý tưởng trước đây của mình về tình trạng an toàn tuyệt đối mà tôi cho rằng con người tương lai đã đạt tới, và rồi liên tưởng đến sự sợ hãi kỳ lạ của họ đối với bóng đêm. Chế ngự được phần nào sự sợ hãi của mình, tôi vừa bước tới một bước vừa lên tiếng. Tôi phải thú nhận là giọng tôi lúc ấy rất khan và không mấy bình tĩnh. Đưa tay ra phía trước tôi chạm vào một vật mềm. Tức thì đôi mắt sáng kia chuyển sang hướng khác, và một vật màu trắng chạy xẹt ngang tôi. Tôi há hốc miệng, quay đầu nhìn theo thấy một thân hình như khỉ, đầu cúi thấp một cách lạ kỳ, chạy xuyên qua vùng ánh sáng sau lưng tôi. Nó vấp vào một khối cẩm thạch, loạng choạng, nhưng rồi chỉ trong nháy mắt đã lẩn vào khoảng tối dưới một đống gạch đá.
"Những gì tôi ghi nhận dĩ nhiên không được hoàn hảo; nhưng tôi biết đó là một con vật màu trắng xỉn, hai mắt lớn lạ kỳ màu đỏ pha sắc xám, ngoài ra, trên đầu nó có lông dài màu vàng hoe, và phía sau lưng cũng thế. Nhưng, như tôi đã kể, nó chạy nhanh quá nên tôi không thể nào nhìn rỗ. Tôi cũng không chắc là nó chạy bằng cả hai tay hai chân, hay là chỉ để khuỷu tay quá gần mặt đất. Một chút phân vân, tôi theo nó đến đống gạch đá thứ nhì. Có một lúc tôi mất dấu nó; nhưng, lần mò làm sao tôi lại đến cạnh một cái giếng bị che phân nửa bởi một cái cột sập đổ lên. Loại giếng mà tôi đã kể cho quý vị nghe. Một ý nghĩ đột ngột đến với tôi. Có thể nào con vật đó đã biến xuống giếng không? Tôi đốt một que diêm, nhìn xuống. Tôi thấy một bóng dáng nhỏ, màu trắng, với đôi mắt to và sáng vừa chăm chú nhìn tôi vừa tuột xuống thoăn thoắt. Tôi rùng mình. Bóng dáng ấy quá giống một con nhện hình người đang rút vào lòng đất. Đó là lần đầu tiên tôi thấy những thanh kim loại nằm ngang tạo thành một cái thang xuôi theo thành giếng. Ngọn lửa của que diêm cháy vào tay tôi và tắt ngúm khi tôi buông nó ra. Khi tôi đốt que diêm khác, con quái vật nhỏ bé đã biến mất dạng.
"Tôi không nhớ tôi đã chăm chăm nhìn xuống lòng giếng đó bao lâu, và phải mất bao lâu tôi mới thuyết phục được chính mình rằng con vật tôi thấy chính là một con người. Nhưng sự thật dần trở thành sáng tỏ: nhân loại không còn là một, mà đã tách thành hai loài khác nhau. Những con cháu đẹp đẽ của tôi ở thế giới bên trên không phải là hậu duệ duy nhất của thế hệ chúng ta: mà con vật trắng bệch, kinh tởm của bóng đêm đã chạy trước mắt tôi cũng là truyền nhân của bao nhiêu niên kỷ loài người.
"Tôi nghĩ tới những cây cột lung linh ánh không khí và giả thuyết của tôi về một hệ thống thông hơi ngầm dưới đất. Tôi bắt đầu nghi ngờ công dụng đích thực của những cây cột này. Tôi tự hỏi, loài người giống khỉ kia đóng vai trò gì trong giả thuyết của tôi về một hệ thống xã hội tuyệt đối quân bằng. Loài ấy liên quan thế nào với những người sống trên mặt đất? Những gì được ẩn dấu dưới đáy giếng kiả Tôi ngồi bên cạnh giếng tự nhủ rằng chẳng có gì để sợ hãi, rằng tôi phải xuống đáy giếng để tìm ra cách giải quyết tình trạng khó khăn của tôi. Nó vậy chứ tôi không sợ sao được. Trong khi tôi đang phân vân, hai người trên mặt đất chạy ngang, một nam một nữ. Họ đang đuổi nhau trong một trò chơi tình ái. Người nam vừa chạy vừa ném những bông hoa về phía người nữ đằng trước anh ta.
"Họ tỏ ra sợ sệt khi thấy tôi tì tay lên cây cột ngang miệng giếng, chăm chăm nhìn xuống dưới. Hiển nhiên việc xem xét những chiếc giếng bị coi là không thể chấp nhận được đối với thế giới này, vì khi tôi chỉ vào cái giếng và cố đặt một câu hỏi bằng ngôn ngữ của họ, cả hai vẫn giữ nét sợ sệt như cũ, và làm như muốn bỏ đi nơi khác. Nhưng họ thích que diêm đang cháy mà tôi cầm trên taỵ Thấy vậy, tôi đốt vài que diêm nữa để giữ chân họ và tìm cách hỏi họ một lần nữa về cái giếng, nhưng vẫn vô ích. Tôi đành để họ đi, định bụng sẽ về hỏi Weena xem nàng có thể cho tôi biết thêm chút nào không. Dù sao, tôi đang trải qua một cuộc cách mạng suy tư với những ước đoán và cảm tưởng khác hẳn lúc đầu. Tôi đã tìm ra mấu chốt của sự liên quan giữa những chiếc giếng và những cột thông hơi với cái bí mật của những bóng mạ Đó là chưa nói đến những cánh cửa bằng đồng và số phận của chiếc máy thời gian! Đồng thời, tôi cũng bắt đầu mường tượng ra lời giải của bài toán kinh tế tương lai đã từng khiến tôi phải điên đầu.
"Đây là quan điểm mới của tôi. Hiển nhiên, loài người thứ hai sống dưới lòng đất. Có ba bằng cớ khiến tôi kết luận sự xuất hiện hiếm hoi của họ trên mặt đất là hậu quả bình thường của những sinh vật quen sống trong bóng tối - loài cá trắng ở những hốc đá vùng Kentucky chẳng hạn. Đôi mắt lớn, với khả năng phản chiếu ánh sáng, là đặc điểm của những loài sinh hoạt trong đêm - như loài cú hoặc mèo. Cuối cùng, sự hoảng hốt dưới ánh mặt trời, sự vội vàng và vụng về khi trốn vào chỗ tối, và cách cúi đầu kỳ lạ khi ở ngoài ánh sáng - tất cả đều là biển hiện của một sinh vật có hai đồng tử mắt cực kỳ nhạy cảm.
"Như vậy, dưới chân tôi, lòng đất có vô số địa đạo, và những địa đạo này là chỗ sống của một loài người mới. Sự hiện diện của những cột thông hơi và những chiếc giếng dọc theo sườn đồi - và mọi nơi khác, trừ khu vực thung lũng của dòng sông - chứng minh điều đó. Vậy có giả thuyết nào hiển nhiên bằng giả thuyết cho rằng những phương tiện của thế giới trên mặt đất là công trình được thực hiện bởi cái thế giới nhân tạo dưới lòng đất kiả Quan điểm này quá hợp lý, đến nỗi tôi phải chấp nhận tức thì, và dựa theo đó mà suy ra diễn trình tách đôi của nhân loại. Chắc quý vị có thể đoán trước giả thuyết của tôi đại khái như thế nào. Riêng phần tôi, chẳng bao lâu sau tôi lại khám phá mình vẫn còn quá rời xa sự thật.
"Trước hết, dựa theo những vấn đề của thời đại chúng ta, tôi thấy rõ như ban ngày rằng sự khác biệt tăng dần giữa hai giai cấp tư bản và nhân công là nguyên nhân gây ra tất cả. Tôi nhìn nhận sự khác biệt này trong thời chúng ta còn rất nhỏ, vì vậy quý vị có thể cho rằng giả thuyết của tôi quá cường điệu và không thể nào đúng được. Nhưng ngay trong hiện tại đã có những hoàn cảnh thiên về chiều hướng mà tôi nói tới. Con người trong thời đại chúng ta đã có khuynh hướng xử dụng lòng đất cho những phương tiện văn minh không đòi hỏi bề ngoài đẹp đẽ. Đường xe lửa ngầm trong thành phố Luân Đôn chẳng hạn, lối đi ngầm. Cũng phải kể những nơi làm việc và nhà hàng dưới lòng đất, với số lượng càng ngày càng tăng thêm. Hiển nhiên, tôi nghĩ, khuynh hướng này sẽ phát triển mãi cho đến khi kỹ nghệ mất hẳn chỗ đứng của nó dưới ánh mặt trời. Ý tôi muốn nói rằng các ngành kỹ nghệ sẽ đầu tư sâu hơn và sâu hơn vào những nhà máy dưới lòng đất, giờ làm việc ở đó càng lúc càng tăng, cho đến cuối cùng... ! Mà ngay bây giờ, chẳng phải là một công nhân tiểu biểu ở phía đông thành phố đang sống trong những điều kiện nhân tạo khiến anh ta coi như đã bị tách rời hẳn cuộc đời trên mặt đất rồi đó sao?
"Hơn nữa, khuynh hướng đặc biệt của giai cấp giàu có - kết quả của nền giáo dục càng ngày càng hoàn hảo mà họ được hưởng và khoảng cách càng ngày càng tăng giữa họ và những người nghèo khó thô kệch - hiện đã dẫn đến tình trạng một phần lớn diện tích đất được giữ cho riêng họ mà thôi. Ở khu vực Luân Đôn, chẳng hạn, có lẽ phân nửa những vùng đất tốt đã ở vào tình trạng ấy. Vì thời gian đòi hỏi quá dài và phí tổn quá lớn cho giáo dục cao cấp, lại thêm phương tiện thuận lợi cũng như khuynh hướng có sẵn khiến người giàu càng ngày càng củng cố vững vàng thêm vị trí của mình, khoảng cách giữa hai giai cấp sẽ càng ngày càng lớn. Trong diễn trình đó, sự trao đổi giữa các giai cấp - thể hiện bình thường bằng các cuộc hôn nhân tạm thời ngăn cản sự phân chia nhân loại theo tiêu chuẩn xã hội - sẽ càng ngày càng ít xảy ra. Cuối cùng, trên mặt đất sẽ là những người CÓ, theo đuổi lạc thú và thẩm mỹ, dưới lòng đất sẽ là những người KHÔNG CÓ, những nhân công dần trở thành quen thuộc với hoàn cảnh lao động. Một khi ở đó, họ phải trả tiền mướn chỗ ở, và một phần không nhỏ cho nhu cầu thông hơi. Nếu chống đối họ sẽ bị bỏ đói cho chết ngộp. Những kẻ bẩm sinh yếu đuối hoặc bướng bỉnh sẽ bị tiêu diệt. Cuối cùng, mức quân bình trở thành vĩnh viễn, những kẻ sống còn trở nên phù hợp với đời sống dưới mặt đất, và cũng hạnh phúc trong lối nhìn riêng của họ y hệt như những người sống trên mặt đất. Với tôi, vẻ đẹp hoàn hảo và nét trắng bệch vì thiếu nắng của hai loại người tương lai chỉ là kết quả đương nhiên.
"Cái chiến thắng vĩ đại của loài người mà tôi mơ tưởng đã đổi khác trong tâm trí tôi. Đó không phải là chiến thắng của giáo dục luân lý và hợp tác toàn vẹn như tôi tưởng tượng. Thay vì vậy, tôi thấy một giai cấp quý tộc, trang bị bằng một khoa học hoàn hảo để đưa hệ thống kỹ nghệ hiện tại của chúng ta đến một đoạn kết tất yếu. Cái chiến thắng của họ không phải chỉ là một chiến thắng trên thiên nhiên, mà là một chiến thắng trên những người đồng loại. Điều này, cần nhắc với quý vị, là giả thuyết của tôi lúc ấy. Lập luận của tôi trái ngược với những sách viết về một thế giới lý tưởng. Giả thuyết của tôi có thể hoàn toàn sai, nhưng ngay bây giờ tôi vẫn cho nó là giả thuyết hợp lý nhất. Nhưng, ngay cả với giả thuyết này, ở thế giới tôi đến, nền văn minh quân bình đó hẳn đã vượt quá cao điểm và đi vào giai đoạn suy đốn từ lâu. Sự an toàn quá hoàn hảo của những người trên mặt đất đã khiến họ dần thoái hóa, hình dạng nhỏ đi, sức mạnh và trí thông minh giảm xuống. Điều ấy tôi đã thấy rõ ràng. Những gì đã xảy ra cho thế giới dưới đất thì tôi chưa biết, nhưng dựa theo những gì tôi thấy về giống Morlock - đó là tên của họ - tôi đoán những thay đổi của loài người dưới đất có lẽ còn ghê gớm hơn giống Eloi, giống người đẹp mà tôi đã biết.
"Vẫn còn những điều khó hiểu. Tại sao người Morlock lại lấy cái máy thời gian của tôi? (Tôi đoán chắc họ đã làm việc ấy) Lại nữa, nếu những người Eloi là chủ, tại sao họ không thể giúp tôi lấy lại cái máy? Tại sao họ quá sợ bóng tối như vậy? Như đã nói từ trước, tôi hỏi Weena về thế giới dưới đất, và tôi đã thất vọng. Thoạt đầu, nàng không hiểu tôi nói gì, khi đã hiểu, nàng nhất định không trả lời tôi. Nàng run rẩy, làm như đó là một đề tài mà nàng không thể nào nghe nổi. Rồi khi tôi ép nàng trả lời, có lẽ hơi quá đáng, nàng bật khóc nức nở. Đó là những giọt nước mắt duy nhất, ngoài nước mắt của chính tôi, mà tôi thấy trong thời tương lai vàng son. Những giọt nước mắt ấy khiến tôi tức khắc quên hẳn giống Morlock, cố tìm mọi cách làm biến mất cái di sản buồn bã của loài người trên đôi mắt nàng. Chỉ một lát sau nàng đã vỗ tay cười thích thú nhìn tôi nghiêm trang đốt một que diêm.
Trong khi tôi đứng đó ngẫm nghĩ về cái chiến thắng quá toàn vẹn của loài người thì vầng trăng tròn, vàng và đầy đặn đã nhô lên từ vùng ánh sáng phía đông bắc. Bên dưới không còn bóng người qua lại, một con cú bay qua lặng lẽ*, tôi quyết định xuống đồi tìm chỗ ngủ.
"Nhìn xung quanh để định lại phương hướng, mắt tôi chạm vào tòa sư tử nền đồng nổi bật dưới ánh trăng ở phía xa xạ Tôi thấy cây bạch thụ bên cạnh, những bụi trường thanh hiện hình như những bóng đen, và thảm cỏ quen thuộc. Nhìn lại thảm cỏ lần nữa, sự bình thản của tôi biến mất. "Không," tôi tự nói với mình, "đó không thể nào là thảm cỏ cũ."
"Nhưng đó chính là thảm cỏ cũ, vì khuôn mặt trắng bệch của con sư tử đá vẫn nhìn thẳng về phía nó. Qúy vị chắc không thể nào tưởng tượng nổi những ý nghĩ chạy qua đầu tôi lúc ấy. Chiếc máy thời gian đã biến mất!
"Tức thì, đột ngột như vừa bị một vết chém vào mặt, tôi nghĩ đến việc mình bị mất lối trở về, bị kẹt lại vĩnh viễn ở cái thế giới lạ hoắc này. Ý nghĩ đó gây cho tôi một cảm giác khủng khiếp. Tôi cảm thấy cổ họng mình nghẹn lại, như không thể nào thở nổi. Trong chớp mắt sự sợ hãi khiến tôi chạy như bay xuống đồi. Qúa vội, tôi vấp chân té sướt cả mặt. Nhưng tôi không hề lau những giọt máu rỉ xuống má, xuống cằm, mà lại nhảy dựng lên, chạy tiếp. Vừa chạy tôi vừa lẩm bẩm với chính mình: "Họ đã đẩy nó vào một bụi cây ở đâu đó thôi." Nghĩ là nghĩ vậy, tôi vẫn chạy như điên. Bởi cùng lúc, với một sự chắc chắn thường đi theo cảm giác sợ hãi, tôi biết là tôi đã tự dối mình, tôi biết chiếc máy đã bị dời đến một nơi nào đó ngoài tầm tay với của tôi. Hơi thở của tôi bắt đầu mệt nhọc và đau đớn. Từ đỉnh đồi đến thảm cỏ có lẽ đến hai dặm, tôi cũng chẳng còn trẻ gì, vậy mà chỉ chạy khoảng mười phút đồng hồ đã đến nơi. Vừa chạy tôi vừa mắng chửi mình, tự trách sự tự tin ngu xuẩn đã khiến tôi để lại chiếc máy giữa thảm cỏ trống. Tôi hét thành tiếng lớn, nhưng không có ai trả lời. Vạn vật im lìm trên mặt đất phủ đầy ánh trăng.
"Tới thảm cỏ, nỗi sợ hãi ghê gớm nhất của tôi trở thành sự thật. Không có một dấu vết gì của chiếc máy. Tôi đứng ngây người, mệt và lạnh trên vùng cỏ bao quanh bởi những bụi cây. Tôi chạy quanh thảm cỏ, rồi đứng phắt lại, vò tai bứt tóc. Ở trên cao, chiếc đầu sư tử trên bệ đồng, trắng toát, lung linh bệnh hoạn dưới ánh trăng hình như mỉm cười thích thú trước hoàn cảnh khốn đốn của tôi.
"Tôi muốn tự trấn an rằng có lẽ những người tương lai nhỏ bé kia đã đưa chiếc máy đến một nơi an toàn dùm tôi, nhưng sự yếu đuối và ngu ngốc của họ khiến tôi phải bỏ ý nghĩ ấy đi. Và đó chính là lý do khiến tôi sợ hãi: bởi như vậy tức là có một thế lực nào khác đã lấy mất chiếc máy thời gian, và tôi không hề biết gì về thế lực ấy. Tuy nhiên, có một điều khiến tôi tạm yên tâm: trừ trường hợp một thời đại nào đó có phát minh y hệt, chiếc máy chắc chắn chưa bị đẩy vào một khoảng thời gian khác. Lý do là cách gắn những chiếc cần số - mà lát nữa tôi sẽ trình bày với quý vị - khiến chuyện ấy không xảy ra được. Như vậy chiếc máy chỉ bị dời chỗ và dấu kín trong không gian thôi. Nhưng nó bị dấu ở đâu lại là một vấn đề khác.
"Hình như lúc ấy tôi nổi cơn điên. Tôi chạy một cách hung dữ từ bụi cây này đến bụi cây nọ chung quanh tòa sư tử, gây sự sợ hãi cho một con vật màu trắng mà tôi cho là một loài hươu nhỏ. Tôi cũng nhớ rõ lắm; khuya đêm đó, tôi liên tục đấm vào những lùm cây, để mặc cho tay mình chảy máu vì những cành gẫy đâm vào. Rồi, vừa khóc vừa la sảng trong nỗi đớn đau cùng cực, tôi trở lại tòa nhà bằng đá. Căn phòng lớn tối đen, lặng yên, và hoang vắng. Tôi trượt chân trên mặt sàn lồi lõm, ngã nhào vào một chiếc bàn, tưởng muốn gẫy ống quyển. Tôi đốt một que diêm soi đường qua những tấm màn cửa phủ đầy bụi đã tả trước đây.
"Trước mắt tôi là một căn phòng lớn khác, xếp đầy gối và có thật nhiều người tương lai đang ngủ. Chắc chắn họ phải thấy cách xuất hiện lần thứ hai của tôi thật là lạ lùng: phóng ra từ bóng tối, miệng kêu la, tay cầm một que diêm đang cháy. Vì họ đã quên diêm quẹt từ lâu rồi. "Chiếc máy thời gian của tôi đâu?" Tôi vừa gào vừa lay hết người này đến người khác. Hẳn nhiên, họ cho rằng tôi quái đản lắm. Vài người cười rộ, nhưng hầu hết chỉ nhìn tôi thảng thốt. Khi họ đứng lên bao quanh tôi, tôi nghĩ lại thấy mình đã làm một việc hoàn toàn vô ích. Mục đích của tôi là gây sự sợ hãi trong lòng họ; nhưng dựa theo thái độ ban ngày của họ mà xét, tôi cho rằng họ đã quên mọi nỗi sợ hãi từ lâu rồi.
"Tôi vất toẹt que diêm xuống, đẩy một người tình cờ đứng cản đường sang bên, loạng choạng trở lại căn phòng ăn vĩ đại, và bước ra ngoài ánh trăng. Tôi nghe những tiếng kêu hoảng hốt, những tiếng chân vội vàng của họ vọng theo. Tôi không nhớ hết những gì tôi làm trong suốt khoảng thời gian mặt trăng lặng lẽ đi xuyên qua bầu trời. Có lẽ sự mất mát quá bất ngờ đã làm tôi cuồng dại. Tôi tuyệt vọng vì đã bị cắt đứt khỏi thời đại của mình - một con thú lạc trong một thế giới lạ lùng. Tôi biết là tôi đã chạy qua chạy lại, kêu khóc, thống trách thượng đế và số mệnh. Tôi nhớ là trong khi đêm dần đi qua, tôi mệt mỏi lục tìm hết chỗ này đến chỗ khác, xem xét từng đống gạch đá dưới ánh trăng soi, sờ nhằm những sinh vật lạ trong bóng tối; cuối cùng, tôi nằm vật trên mặt đất gần tòa sư tử khóc nức lên trong niềm thống khổ tận cùng, rồi thiếp đi lúc nào không biết. Khi tôi tỉnh dậy đã là một ngày mới, mở mắt ra tôi thấy hai con két nhảy nhót xung quanh trong tầm tay với của tôi.*
"Tôi ngồi lên trong không khí tươi mát của buổi bình minh, cố nhớ lại tại sao mình ở chỗ này, và tại sao mình lại có cảm giác tuyệt vọng tận cùng đến thế. Rồi đầu óc tôi trở thành sáng sủa. Với sự bình thường và hợp lý của ánh sáng ban ngày, tôi bắt đầu có đủ bình tĩnh để trực diện với hoàn cảnh. Tôi thấy rõ sự dại dột của mình đêm hôm trước. "Giả sử trường hợp tệ hại nhất." Tôi tự nhủ. "Giả sử chiếc máy đã mất hẳn, ngay cả bị phá huỷ. Cách hay nhất là mình phải bình tĩnh và kiên nhẫn, làm quen với lề lối của xã hội này, nhớ lại cách chế tạo, tìm cách kiếm vật liệu; như vậy biết đâu mình có thể làm ra một chiếc máy khác." Có lẽ đó là hy vọng duy nhất của tôi; khó khăn, nhưng vẫn hơn là tuyệt vọng. Vả lại, đây là một thế giới đẹp có nhiều điều lạ lùng đáng khám phá.
"Và có lẽ chiếc máy chỉ bị mang đi đâu đó mà thôi. Dù sao, tôi vẫn phải bình tĩnh và kiên nhẫn để tìm chỗ người ta dấu nó, rồi lấy lại bằng sức mạnh hoặc sự khôn ngoan. Nghĩ thế rồi tôi nhổm chân đứng dậy nhìn quanh, tìm chỗ tắm rửa. Tôi đang mệt, khó chịu, và không lấy gì làm sạch sẽ. Sự tươi mát của buổi bình minh khiến tôi muốn hưởng một sự tươi mát tương tự. Đêm hôm trước, tôi đã đi đến tận cùng của cảm tính. Nghĩ lại, tôi không hiểu tại sao mình có thể có những thái độ và hành động thiếu suy nghĩ đến thế. Tôi xem xét xung quanh thảm cỏ, tốn phí một số thời giờ vô ích hỏi han vài người đi ngang. Không ai hiểu ý nghĩa những cử chỉ làm dấu của tôi; có người đứng nghệch ra, có người tưởng tôi đùa bèn cười đáp lại. Phải cố gắng lắm tôi mới dằn nổi ý muốn tát vào mặt họ vài cái đích đáng. Tôi biết đó là một ý muốn tệ hại, nhưng con quỷ sinh ra từ sự sợ hãi và giận dữ vẫn hoành hành trong tâm trí hoang mang của tôi. Thảm cỏ giúp tôi bình tĩnh lại, vì tôi nhìn thấy trên đó một vệt lõm, khoảng giữa cái bệ của tòa sư tử và nơi hằn những dấu chân do chính tôi tạo ra khi vật lộn với chiếc máy bị lật ngược lúc mới tới thế giới này. Có những dấu khác chứng tỏ chiếc máy bị di chuyển, cùng với vài vết chân lê lết lạ lùng. Những điều này khiến tôi chú ý đến cái bệ của tòa sư tử. Như tôi đã nói, nó bằng đồng thau, nhưng không phải là một khối phẳng, mà được trang trí tỉ mỉ thành hình những khung ở mọi phía. Tôi chạy đến, đập tay vào những khung này và khám phá là cái bệ không đặc, mà rỗng ở bên trong. Xem xét những đường viền một cách kỹ lưỡng, tôi thấy chúng không dính liền vào nhau ở mọi chỗ mà có một số khe ở giữa. Vậy thì đây phải là những cánh cửa. Vì bên ngoài không có nắm đấm, chỗ cầm tay, hoặc lỗ khóa, tất cả có lẽ đều ở phía trong. Mọi việc trở thành rõ ràng. Không cần phải suy nghĩ sâu xa gì, tôi biết ngay chiếc máy thời gian đang ở bên trong cái bệ. Nhưng ai kéo nó vào đó lại là chuyện khác.
"Tôi thấy hai người mặc áo màu cam đi giữa những bụi trường thanh, tới phía dưới những cây táo phủ đầy hoa, rồi hướng về phía tôi. Tôi quay người, cười với họ và ra dấu cho họ đến gần. Khi họ đến nơi, tôi chỉ tay về phía cái bệ đồng, cố cho họ hiểu ý muốn của tôi là mở nó ra. Nhưng chỉ một cử chỉ đầu tiên của tôi đã đủ khiến họ có phản ứng hết sức lạ lùng. Tôi không biết phải làm sao để diễn tả thái độ của họ. Giả sử quý vị làm một cử chỉ vô cùng thiếu lịch sự với một phụ nữ hết sức gia giáo, có lẽ người ấy cũng chỉ phản ứng đến mức như thế. Hai người ấy bỏ đi, như thể vừa bị làm nhục đến mức không thể chịu đựng nổi. Kế tiếp tôi thử một anh chàng mặc đồ trắng, với kết quả (hay hậu quả) y hệt. Có một cái gì đó trong phản ứng của hắn khiến tôi đâm ra hổ thẹn với chính mình. Nhưng, như quý vị biết, tôi cần lấy lại chiếc máy thời gian, nên tôi lại thử ra dấu với hắn một lần nữa. Khi hắn quay lưng đi như hai người lúc nãy, tôi không còn dằn nổi nóng giận. Chạy vài bước tôi đã bắt kịp hắn. Tôi chụp tay vào cổ áo kéo hắn xềnh xệch về phía toà sư tử. Nhưng rồi tôi thấy trên mặt hắn nét kinh hoàng và ghê tởm. Tôi sững sờ buông tay, để mặc hắn chạy đi.
"Vẫn chưa chịu thua, tôi đấm tay thùm thụp vào thành bệ. Bên trong hình như có tiếng động, nói rõ hơn, hình như có tiếng cười vọng ra; nhưng tôi cho là tôi đã nghe lầm. Tôi xuống sông lấy một cục đá lớn, đập mãi vào thành bệ cho đến khi một vòng tròn khắc nổi trên đó bị lõm xuống và những teng đồng vụn lả tả rơi ra. Những người tương lai yếu đuối ở xa hàng dặm chắc còn nghe thấy tiếng đập tuyệt vọng của tôi. Tôi thấy một đám đông đứng trên sườn đồi nhìn tôi bằng những cặp mắt bất lực. Cuối cùng, vì nóng và vì mệt, tôi đành ngồi xuống nhìn cái bệ chăm chăm. Nhưng tâm lý quá tây phương của tôi khiến tôi không thể nhìn lâu. Tôi có thể miệt mài suy nghĩ về một vấn đề nhiều năm trời, nhưng ngồi đợi mà không làm gì cả trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ lại là chuyện hoàn toàn khác.
"Một lát sau tôi đứng dậy, đi một cách vô định giữa những bụi cây về phía sườn đồi. "Phải kiên nhẫn," tôi nói với chính mình. "Nếu mày muốn tìm lại cái máy thì mày có đập móp cái thành đồng đó cũng vô dụng mà thôi. Và nếu người ta muốn trả chiếc máy lại cho mày, thì nó sẽ trở lại với mày khi mày yêu cầu đúng lúc. Đừng cố gắng làm việc vô vọng, vì như vậy mà chỉ hóa điên thôi. Hãy đối diện với thế giới này, học đường lối của nó; cẩn thận, đừng kết luận vội vàng, rồi cuối cùng mày sẽ khám phá ra mọi mấu chốt cần thiết." Đột nhiên tôi nghĩ đến sự ngộ nghĩnh của hoàn cảnh lúc đó: bao nhiêu năm trời nghiên cứu và làm việc nhọc mệt chỉ cốt để đi đến tương lai, rồi khi đã ở tương lai lại phải lo lắng tìm cách trở về hiện tại. Tôi đã tự quàng vào mình cái bẫy phức tạp nhất và khó thoát nhất mà loài người từng chế tạo. Mặc dù nạn nhân chính là tôi, tôi cũng không khỏi thấy buồn cười. Thế là tôi cười lên ha hả.
"Khi trở về tòa nhà cũ, hình như những người tương lai đều tránh né tôi. Có thể tôi tưởng tượng, cũng có thể đây là hậu quả của việc tôi đập vào cái bệ đồng lúc nãy. Dù sao, tôi khá chắc chắn cảm tưởng của mình là đúng. Thận trọng, tôi cũng làm bộ như không để ý đến họ. Một hai ngày sau thì mọi việc trở lại bình thường. Về ngôn ngữ, tôi đạt mọi bước tiến có thể đạt được; ngoài ra tôi cũng làm việc dò xét chỗ này chỗ kia một ít. Nếu tôi không lầm thì tiếng nói của những người tương lai này rất đơn giản, gần như chỉ gồm những danh từ cụ thể và động từ. Có rất ít, nếu không muốn nói là hoàn toàn không có, những từ ngữ cần thiết cho sự diễn tả hoàn cảnh hoặc tình cảm. Hầu hết những câu nói của họ chỉ gồm hai chữ. Nhưng chính vì sự đơn giản đó mà tôi gặp khó khăn trong việc tìm hiểu họ cũng như làm cho họ hiểu mình.
"Tôi đã quyết định tạm quên chiếc máy thời gian, tòa sư tử và cái bệ đồng có cửa đóng kín, cho đến khi sự hiểu biết của tôi giúp tôi đạt mục đích mong muốn một cách tự nhiên. Nhưng, chắc quý vị hiểu, như có trực giác xui khiến, tôi chỉ lẩn quẩn trong một chu vi vài dặm tính từ chỗ đến đầu tiên với chiếc máy thời gian.
"Dựa theo những gì tôi thấy, có lẽ toàn thể địa cầu đều có nét đẹp phong phú như dòng Thames. Leo lên bất cứ ngọn đồi nào, nhìn ra xa tôi đều thấy những lâu đài dinh thự nguy nga, kiến trúc nhiều kiểu khác nhau và được xây cất bằng những vật liệu khác nhau, những đám trường thanh mát mẻ, những cây đầy hoa, những cỏ êm mượt. Đây đó những dòng nước chảy óng ánh như bạc, mặt đất nổi lên thành những ngọn đồi xanh, chạy xa dần, mờ lẫn vào chân trời êm lặng.
"Óc tò mò khiến tôi chú ý đến sự hiện diện của một số giếng tròn, có lẽ khá sâu. Một cái nằm ở trên đường dẫn lên đồi mà tôi đã thấy trong chuyến đi bộ đầu tiên. Như tất cả những cái khác, miệng giếng này được bọc bằng một lớp đồng thau đúc lạ lùng, và được che khỏi nắng mưa bằng một cái nắp nhỏ hình vòng cung. Ngồi cạnh giếng nhìn xuống, tôi chỉ thấy một màu đen, không có ánh nước, không có gì phản chiếu lại, ngay cả khi đốt diêm soi xuống. Nhưng tôi lại nghe một thứ tiếng động ầm ầm ầm như tiếng kêu của một loại máy lớn. Dựa theo chiều của ánh lửa que diêm, tôi khám phá rằng không khí được liên tục hút xuống giếng một cách đều đặn. Tôi vất thử một mẩu giấy nhỏ xuống giếng, thay vì chỉ rơi chậm, mẩu giấy tức thì bị hút nhanh mất dạng.
"Một thời gian sau, tôi tìm ra sự liên quan giữa những chiếc giếng và vài cái cột cao rải rác trên sườn đồi. Trên những cột này thỉnh thoảng lại hiện một gợn không khí như chúng ta thường thấy trên các bãi biển vào những ngày mặt trời chiếu nóng. Gom tất cả mọi dữ kiện, tôi kết luận đây là một hệ thống thông hơi dưới lòng đất vô cùng phức tạp. Nhưng mục đích của nó là gì thì quả là khó đoán. Lúc đầu tôi tưởng đó là hệ thống vệ sinh của những con người tương lai mà tôi đã gặp. Một kết luận khá hiển nhiên, nhưng là một kết luận hoàn toàn sai.
"Phải thú nhận là tôi gần như chẳng học được gì về cống rãnh, phương pháp chuyển vận, hoặc những tiện nghi tương tự khi còn ở thế giới đó. Trong những sách vở dự đoán tương lai, tôi đã đọc rất nhiều chi tiết về kiến trúc nhà cửa, về cách xếp đặt xã hội, vân vân. Nhưng ghi nhận những chi tiết đó bằng óc tưởng tượng thì dễ, mà bằng cách thực sự đối diện lại vô cùng khó khăn. Qúy vị thử nghĩ những câu chuyện do một người da đen ở Trung Phi ghé vội sang Luân Đôn rồi trở lại kể cho bộ lạc của anh ta! Anh ta biết gì về các hãng xe lửa, các phong trào xã hội, về điện thoại, điện tín, về bưu điện, về các hãng gửi đồ? Đó là chúng ta đã vui lòng giải thích mọi việc cho anh ta nghe! Và giả sử anh ta hiểu hết thì cũng chắc gì giải thích nổi cho những người bạn chưa du lịch cùng hiểu hoặc tối thiểu tin là anh ta không nói dối? Còn nữa, hãy nghĩ về cái khoảng cách nhỏ bé giữa anh da đen và người da trắng ở thời đại chúng ta, và cái khoảng cách vô cùng lớn giữa tôi và những người ở thời đại vàng son của tương lai! Tôi cảm nhận được hầu hết những gì tôi không được thấy, và điều đó khiến tôi phần nào thoải mái; nhưng trừ cái cảm tưởng tổng quát của một xã hội siêu tổ chức, tôi e rằng tôi không thể diễn tả cho quý vị hiểu sự khác biệt giữa thời đại chúng ta và thời đại tương lai.
"Chuyện tang tế chẳng hạn, tôi không hề thấy một địa điểm hỏa táng, cũng không hề thấy dấu hiệu nào của những nấm mộ. Nhưng tôi lại nghĩ, rất có thể các nghĩa địa và nơi hỏa táng đều nằm ngoài khu vực mà tôi biết tới. Đây là một câu hỏi tôi tự đặt với chính mình, và sự tò mò của tôi tạm thời được giải tỏa bằng cách giải thích vừa kể. Điều khiến tôi ngạc nhiên, rồi chú ý, để rồi ngạc nhiên thêm nữa là trong xã hội ở tương lai không hề có người già và người bệnh.
"Tôi phải nhìn nhận thuyết của tôi về một nền "văn minh tự động" và diễn trình thoái hóa của nhân loại chẳng đứng vững được bao lâu. Nhưng tôi không tìm ra cách giải thích nào khác. Tôi xin được trình bày vài khúc mắc. Những tòa lâu đài mà tôi đã vào chỉ là những chung cư vĩ đại để người ta ăn, ở, và ngủ. Tôi không thấy máy móc, không thấy bất cứ một phương tiện nào. Vậy mà những người tương lai này lại có những y phục đẹp mắt cần thỉnh thoảng thay đổi; những đôi sandals của họ, dù sơ sài nhưng vẫn có phần bằng kim loại phải được chế tạo. Đó là chưa kể họ tỏ ra chẳng có một khả năng sáng tạo nào hết. Không có hàng quán, cửa tiệm, nơi thu đồ nhập cảng ở bất cứ đâu. Chỉ có những con người tản bộ trên bờ, tắm gội dưới sông, làm tình như đùa giỡn, ăn trái cây, và ngủ. Tôi chẳng thấy lý do nào để một xã hội như vậy có thể tồn tại.
"Còn chiếc máy thời gian. Tôi không biết ai đã đem nó dấu bên trong cái bệ rỗng của tòa sư tử. Để làm gì? Tôi không thể nghĩ ra. Những chiếc giếng không có nước, những cột thông hơi. Rõ ràng phải có một bí mật nào đó mà tôi chưa biết. Tôi có cảm tưởng - tôi phải trình bày như thế nào nhỉ? Giả sử quý vị gặp một bản văn tự, trên đó có những dòng tiếng Anh giản dị xen giữa là những chữ, những câu mà quý vị chưa từng thấy bao giờ. Vâng, trong ngày thứ ba của cuộc viếng thăm của tôi, đó là cảm tưởng của tôi về cái thế giới của năm tám trăm lẻ hai ngàn bảy trăm lẻ một.
"Cũng ngày đó tôi làm quen với một người bạn, có thể tạm gọi như thế. Tôi có mặt trong khi một số người tương lai đang tắm ở một chỗ nước không sâu. Một người trong bọn họ vọp bẻ bị nước cuốn đi. Dòng nước chảy khá nhanh, nhưng không lấy gì là xiết, ngay cả đối với người có khả năng bơi lội thuộc hạng trung bình. Qúy vị có thể hình dung được phần nào mức thụ của động của những con người tương lai khi tôi kể cho quý vị nghe rằng mặc dù kẻ sắp chết đuối la lên cầu cứu, chẳng hề có ai tỏ một thái độ hoặc hành động nào cả. Thấy vậy, tôi vội cởi quần áo ngoài, đi lần ra, kéo người bị nạn vào bờ. Đó là một cô gái. Chỉ xoa nắn một chùt, cô gái trở lại bình thường, và tôi có niềm vui được nhìn thấy cô hồi phục trước khi bỏ đi nơi khác. Vì quá coi thường chủng tộc của cô, tôi không cho rằng cô biết ngỏ lời cám ơn. Nhưng, riêng chuyện này, tôi đã sai lầm.
"Vừa cứu buổi sáng thì buổi chiều tôi gặp lại "nàng" nhỏ bé của tôi - tôi tạm gọi như thế - khi tôi trở về từ một chuyến thăm dò địa hình. Nàng chào tôi bằng những tiếng reo sung sướng và trao cho tôi một vòng hoa. Vòng hoa này rõ ràng đã được kết cho tôi và chỉ cho tôi mà thôi. Hành động của nàng khiến tôi vô cùng xúc động. Có thể tâm thần của tôi đã ở trạng thái tuyệt vọng chăng? Không biết, nhưng tôi cố hết sức tỏ cho nàng biết rằng tôi rất thích món quà tặng của nàng. Một lát sau, chúng tôi đã ngồi cạnh nhau trên một tảng đá, bắt đầu cuộc trò chuyện, không bằng lời lẽ mà gần như chỉ bằng những nụ cười. Sự thân thiện của cô gái gây cho tôi những cảm tưởng y hệt như khi đối diện với một đứa trẻ dễ thương. Chúng tôi trao nhau những đóa hoa. Nàng hôn bàn tay tôi, và tôi hôn bàn tay nàng. Tôi cố diễn tả bằng lời nói, và biết được tên nàng là Weenạ Tôi không hiểu Weena có ý nghĩa gì, nhưng thấy là một cái tên thật thích hợp. Đó là điểm khởi đầu của một tình bạn lạ lùng kéo dài một tuần lễ và rồi chấm dứt, như tôi sẽ kể cho quý vị nghe.
"Nàng y hệt như một đứa bé, luôn luôn muốn ở cạnh tôi, luôn luôn muốn theo tôi từng bước. Trong chuyến đi tiếp đó, tôi cố bước thật nhanh để nàng không theo kịp, nàng quá mệt chỉ biết kêu tôi từ phía sau. Nhưng còn quá nhiều vấn đề phải giải quyết. Tôi tự nhủ, đâu phải mình đến tương lai để có một người tình nhỏ bé. Tuy thế, sự đau khổ của nàng khi bị tôi bỏ rơi thật ghê gớm, những cử chỉ của nàng lúc ấy như điên dại. Vả lại, tôi ngẫm nghĩ, sự tha thiết của nàng dù có gây phiền toái cũng đồng thời là một nguồn an ủi rất lớn cho tôi. Thoạt đầu tôi cho rằng lý do khiến nàng muốn ở cạnh tôi chỉ là một loại tình cảm trẻ con. Khi tôi hiểu rõ sự đau khổ của nàng lúc phải rời xa tôi, cũng như sự quan trọng của nàng đối với tôi thì mọi việc đã quá trễ rồi. Vì, chỉ cần những hành động hết sức yếu đuối và vô vọng mà nàng dành cho tôi đã đủ khiến tôi mỗi lần đến gần tòa sư tử trắng có cảm tưởng gần như mình đang trở về một mái nhà thân yêu. Và vì thế, mỗi lần đi khỏi ngọn đồi tôi đều dõi mắt tìm kiếm bóng dáng nhỏ bé quen thuộc trong bộ nhất y hai màu trắng và vàng của nàng.
"Chính nhờ nàng mà tôi biết là sự sợ hãi chưa biến mất trên mặt địa cầu. Ban ngày nàng rất bạo dạn, và nàng tin tưởng tôi một cách tuyệt đối. Có lần trong một phút giây không suy nghĩ tôi nhăm mặt cố ý dọa nàng, nàng chỉ cười phá lên đáp lại. Nhưng nàng sợ đêm tối, sợ những bóng mờ, sợ những vật màu đen. Bóng đêm với nàng là cả một mối đe dọa. Tâm lý đặc biệt này khiến tôi phải suy nghĩ và chú ý. Sau đó tôi khám phá rắng mỗi đêm những con người nhỏ bé của tương lai đều ngủ tụ lại với nhau thành nhóm trong những dinh thự lớn. Chỉ cần bước vào thình lình, tay cầm lửa là đủ gây cho họ một cảnh náo loạn đầy sợ hãi. Tôi không hề thấy một người nào ngủ ngoài trời, hoặc ngủ một mình trong nhà khi đêm xuống. Nhưng tôi ngốc quá nên vẫn không hiểu ra bài học của sự sợ hãi ở thế giới tương lai, và mặc dầu Weena tỏ ra rất khổ sở, tôi vẫn nhất định không ngủ chung với những đám đông này.
"Nàng hết sức lo ngại, nhưng mối tình cảm kỳ lạ mà nàng dành cho tôi đã chiến thắng, và trong năm đêm chúng tôi quen nhau, kể cả đêm cuối cùng, nàng ngủ dựa đầu lên tay tôi. Nhưng, mải kể về nàng tôi đã lạc đề mất rồi. Trở lại câu chuyện, hình như ngay cái đêm trước ngày tôi cứu Weena thì phải. Trong giấc ngủ mệt mỏi, tôi nằm mơ thấy mình chết đuối, mặt bị phủ đầy những cánh hoa biển. Giật mình tỉnh dậy, tôi có cảm giác mơ hồ như thấy một con vật màu xam xám vừa chạy khỏi phòng. Tôi cố ngủ lại, nhưng thấy người khó chịu, trăn trở không yên. Lúc ấy trời gần sáng, khoảng thời gian mà vạn vật đều thiếu màu sắc và mơ màng như không có thật dưới mắt con người. Tôi đứng dậy, đi qua căn phòng lớn, ra phía trước tòa lâu đài để nhìn cảnh mặt trời mọc.
"Những tia cuối cùng của mặt trăng đang lặn trộn với ánh sáng yếu ớt của mặt trời sắp lên tạo thành một sắc ma quái. Những bụi cây đen như mực, mặt đất xám ngắt, bầu trời không màu ảm đạm. Trên sườn đồi hình như tôi thấy mạ Đảo mắt qua lại vài lần; quả thật là những bóng trắng. Có đến hai lần, tôi cho rằng mình thấy một con vật trắng, hình dạng như khỉ chạy khá nhanh lên đồi. Một lần, tôi thấy một đám những con vật tương tự đang khiêng một bóng màu đen cạnh những di tích đổ nát. Chúng di chuyển vội vàng, không biết về đâu, nhưng dường như mất dạng gần những bụi cây. Qúy vị phải hiểu lúc ấy trời còn tranh tối tranh sáng. Tôi vẫn còn có cái cảm giác thiếu chắc chắn của một người ngái ngủ. Tôi không tin ở mắt tôi.
"Khi bầu trời phía đông bắt đầu rực rỡ hơn, và ánh sáng của ban ngày đã trao lại màu sắc cho thế giới, tôi quan sát kỹ lại một lần nữa. Nhưng không còn dấu vết gì của những bóng trắng lúc nãy. Phải chăng chúng chỉ là ảo ảnh? "Chắc là ma," tôi tự nhủ "không hiểu họ chết từ bao giờ." Tôi nhớ lại một ý tưởng ngộ nghĩnh của Grant Allen và cười một mình. Ông ta lập luận: nếu mọi thế hệ khi chết đi đều để lại những con ma, thì cuối cùng thế giới sẽ đầy ngập những bóng mạ Theo ý tưởng đó, thì hơn tám trăm ngàn năm nữa (tính từ thời chúng ta) số bóng ma trên thế giới này sẽ nhiều đến mức không ai đếm xuể, vậy nếu thấy bốn con ma một lúc cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng ý tưởng ngộ nghĩnh đó dĩ nhiên không thể làm tôi thỏa mãn. Tôi nghĩ mãi về những bóng trắng suốt buổi sáng, mãi đến khi cứu Weena mới quên chúng đi. Tôi đoán chúng có liên quan đến con vật bị tôi làm cho sợ hãi trong cái đêm tôi điên cuồng tìm chiếc máy thời gian. Weena là một hình ảnh đáng giữ hơn trong tâm tưởng, nhưng số mệnh đã định là những bóng trắng đó sẽ trở thành ám ảnh lớn trong đầu óc tôi sau này.
"Hình như tôi đã cho quý vị biết là khí hậu của thời tương lai vàng son đó nóng bức hơn thời chúng ta rất nhiều. Tôi không hiểu hiện tượng này. Có thể là mặt trời nóng hơn, có thể là trái đất tiến đến gần mặt trời hơn. Theo lẽ thường thì phải đoán là mặt trời sẽ càng ngày càng giảm nhiệt độ. Nhưng người ta, vì không biết tới những thuyết tương tự như của Darwin, quên rằng cuối cùng tất cả mọi hành tinh sẽ lần lượt rơi trở về ngôi sao mẹ của chúng. mỗi lần như vậy, mặt trời sẽ tăng thêm năng lượng. Rất có thể đây đã là số phận của một hành tinh nào đó ở trong khoảng giữa mặt trời và trái đất. Nhưng bất kể vì lý do gì, sự thật vẫn là mặt trời tương lai nóng hơn mặt trời hiện tại của chúng ta.
"Một buổi sáng rất nóng - buổi sáng thứ tư, tôi nghĩ thế. Trong khi đang tìm nơi trốn sức nóng và ánh sáng của mặt trời cạnh đống tàn tích khổng lồ gần tòa lâu đài nơi tôi ăn ngủ, tôi gặp một chuyện lạ lùng. Trong khi đi lần theo những đống vụn gạch đá tôi khám phá một phòng triển lãm hẹp với tất cả mọi cửa sổ, bên hông cũng như ở hai đầu, bị che bởi những tảng đá có lẽ rơi từ trên cao xuống vào một thời xa xưa nào đó. So với ánh nắng chói chan ngoài trời, căn phòng ấy hiện dưới mắt tôi như một chỗ hết sức tối tăm. Tôi luồn theo những chỗ hở dò từng bước đi vào. Sự đổi thay từ ánh sáng vào bóng tối khiến mắt tôi như thấy vô vàn ngôi sao bay nhảy. Đột nhiên, tôi sửng sốt đứng lại. Vì có ánh sáng từ bên ngoài phản chiếu, tôi thấy rõ một đôi mắt đang theo dõi tôi trong bóng tối.
"Lòng tôi rợn lên nỗi sợ hãi của một người bình thường khi đối diện loài thú dữ. Tôi nắm chặt tay nhìn vào đôi mắt ấy mà không dám xoay người. Tôi nghĩ đến ý tưởng trước đây của mình về tình trạng an toàn tuyệt đối mà tôi cho rằng con người tương lai đã đạt tới, và rồi liên tưởng đến sự sợ hãi kỳ lạ của họ đối với bóng đêm. Chế ngự được phần nào sự sợ hãi của mình, tôi vừa bước tới một bước vừa lên tiếng. Tôi phải thú nhận là giọng tôi lúc ấy rất khan và không mấy bình tĩnh. Đưa tay ra phía trước tôi chạm vào một vật mềm. Tức thì đôi mắt sáng kia chuyển sang hướng khác, và một vật màu trắng chạy xẹt ngang tôi. Tôi há hốc miệng, quay đầu nhìn theo thấy một thân hình như khỉ, đầu cúi thấp một cách lạ kỳ, chạy xuyên qua vùng ánh sáng sau lưng tôi. Nó vấp vào một khối cẩm thạch, loạng choạng, nhưng rồi chỉ trong nháy mắt đã lẩn vào khoảng tối dưới một đống gạch đá.
"Những gì tôi ghi nhận dĩ nhiên không được hoàn hảo; nhưng tôi biết đó là một con vật màu trắng xỉn, hai mắt lớn lạ kỳ màu đỏ pha sắc xám, ngoài ra, trên đầu nó có lông dài màu vàng hoe, và phía sau lưng cũng thế. Nhưng, như tôi đã kể, nó chạy nhanh quá nên tôi không thể nào nhìn rỗ. Tôi cũng không chắc là nó chạy bằng cả hai tay hai chân, hay là chỉ để khuỷu tay quá gần mặt đất. Một chút phân vân, tôi theo nó đến đống gạch đá thứ nhì. Có một lúc tôi mất dấu nó; nhưng, lần mò làm sao tôi lại đến cạnh một cái giếng bị che phân nửa bởi một cái cột sập đổ lên. Loại giếng mà tôi đã kể cho quý vị nghe. Một ý nghĩ đột ngột đến với tôi. Có thể nào con vật đó đã biến xuống giếng không? Tôi đốt một que diêm, nhìn xuống. Tôi thấy một bóng dáng nhỏ, màu trắng, với đôi mắt to và sáng vừa chăm chú nhìn tôi vừa tuột xuống thoăn thoắt. Tôi rùng mình. Bóng dáng ấy quá giống một con nhện hình người đang rút vào lòng đất. Đó là lần đầu tiên tôi thấy những thanh kim loại nằm ngang tạo thành một cái thang xuôi theo thành giếng. Ngọn lửa của que diêm cháy vào tay tôi và tắt ngúm khi tôi buông nó ra. Khi tôi đốt que diêm khác, con quái vật nhỏ bé đã biến mất dạng.
"Tôi không nhớ tôi đã chăm chăm nhìn xuống lòng giếng đó bao lâu, và phải mất bao lâu tôi mới thuyết phục được chính mình rằng con vật tôi thấy chính là một con người. Nhưng sự thật dần trở thành sáng tỏ: nhân loại không còn là một, mà đã tách thành hai loài khác nhau. Những con cháu đẹp đẽ của tôi ở thế giới bên trên không phải là hậu duệ duy nhất của thế hệ chúng ta: mà con vật trắng bệch, kinh tởm của bóng đêm đã chạy trước mắt tôi cũng là truyền nhân của bao nhiêu niên kỷ loài người.
"Tôi nghĩ tới những cây cột lung linh ánh không khí và giả thuyết của tôi về một hệ thống thông hơi ngầm dưới đất. Tôi bắt đầu nghi ngờ công dụng đích thực của những cây cột này. Tôi tự hỏi, loài người giống khỉ kia đóng vai trò gì trong giả thuyết của tôi về một hệ thống xã hội tuyệt đối quân bằng. Loài ấy liên quan thế nào với những người sống trên mặt đất? Những gì được ẩn dấu dưới đáy giếng kiả Tôi ngồi bên cạnh giếng tự nhủ rằng chẳng có gì để sợ hãi, rằng tôi phải xuống đáy giếng để tìm ra cách giải quyết tình trạng khó khăn của tôi. Nó vậy chứ tôi không sợ sao được. Trong khi tôi đang phân vân, hai người trên mặt đất chạy ngang, một nam một nữ. Họ đang đuổi nhau trong một trò chơi tình ái. Người nam vừa chạy vừa ném những bông hoa về phía người nữ đằng trước anh ta.
"Họ tỏ ra sợ sệt khi thấy tôi tì tay lên cây cột ngang miệng giếng, chăm chăm nhìn xuống dưới. Hiển nhiên việc xem xét những chiếc giếng bị coi là không thể chấp nhận được đối với thế giới này, vì khi tôi chỉ vào cái giếng và cố đặt một câu hỏi bằng ngôn ngữ của họ, cả hai vẫn giữ nét sợ sệt như cũ, và làm như muốn bỏ đi nơi khác. Nhưng họ thích que diêm đang cháy mà tôi cầm trên taỵ Thấy vậy, tôi đốt vài que diêm nữa để giữ chân họ và tìm cách hỏi họ một lần nữa về cái giếng, nhưng vẫn vô ích. Tôi đành để họ đi, định bụng sẽ về hỏi Weena xem nàng có thể cho tôi biết thêm chút nào không. Dù sao, tôi đang trải qua một cuộc cách mạng suy tư với những ước đoán và cảm tưởng khác hẳn lúc đầu. Tôi đã tìm ra mấu chốt của sự liên quan giữa những chiếc giếng và những cột thông hơi với cái bí mật của những bóng mạ Đó là chưa nói đến những cánh cửa bằng đồng và số phận của chiếc máy thời gian! Đồng thời, tôi cũng bắt đầu mường tượng ra lời giải của bài toán kinh tế tương lai đã từng khiến tôi phải điên đầu.
"Đây là quan điểm mới của tôi. Hiển nhiên, loài người thứ hai sống dưới lòng đất. Có ba bằng cớ khiến tôi kết luận sự xuất hiện hiếm hoi của họ trên mặt đất là hậu quả bình thường của những sinh vật quen sống trong bóng tối - loài cá trắng ở những hốc đá vùng Kentucky chẳng hạn. Đôi mắt lớn, với khả năng phản chiếu ánh sáng, là đặc điểm của những loài sinh hoạt trong đêm - như loài cú hoặc mèo. Cuối cùng, sự hoảng hốt dưới ánh mặt trời, sự vội vàng và vụng về khi trốn vào chỗ tối, và cách cúi đầu kỳ lạ khi ở ngoài ánh sáng - tất cả đều là biển hiện của một sinh vật có hai đồng tử mắt cực kỳ nhạy cảm.
"Như vậy, dưới chân tôi, lòng đất có vô số địa đạo, và những địa đạo này là chỗ sống của một loài người mới. Sự hiện diện của những cột thông hơi và những chiếc giếng dọc theo sườn đồi - và mọi nơi khác, trừ khu vực thung lũng của dòng sông - chứng minh điều đó. Vậy có giả thuyết nào hiển nhiên bằng giả thuyết cho rằng những phương tiện của thế giới trên mặt đất là công trình được thực hiện bởi cái thế giới nhân tạo dưới lòng đất kiả Quan điểm này quá hợp lý, đến nỗi tôi phải chấp nhận tức thì, và dựa theo đó mà suy ra diễn trình tách đôi của nhân loại. Chắc quý vị có thể đoán trước giả thuyết của tôi đại khái như thế nào. Riêng phần tôi, chẳng bao lâu sau tôi lại khám phá mình vẫn còn quá rời xa sự thật.
"Trước hết, dựa theo những vấn đề của thời đại chúng ta, tôi thấy rõ như ban ngày rằng sự khác biệt tăng dần giữa hai giai cấp tư bản và nhân công là nguyên nhân gây ra tất cả. Tôi nhìn nhận sự khác biệt này trong thời chúng ta còn rất nhỏ, vì vậy quý vị có thể cho rằng giả thuyết của tôi quá cường điệu và không thể nào đúng được. Nhưng ngay trong hiện tại đã có những hoàn cảnh thiên về chiều hướng mà tôi nói tới. Con người trong thời đại chúng ta đã có khuynh hướng xử dụng lòng đất cho những phương tiện văn minh không đòi hỏi bề ngoài đẹp đẽ. Đường xe lửa ngầm trong thành phố Luân Đôn chẳng hạn, lối đi ngầm. Cũng phải kể những nơi làm việc và nhà hàng dưới lòng đất, với số lượng càng ngày càng tăng thêm. Hiển nhiên, tôi nghĩ, khuynh hướng này sẽ phát triển mãi cho đến khi kỹ nghệ mất hẳn chỗ đứng của nó dưới ánh mặt trời. Ý tôi muốn nói rằng các ngành kỹ nghệ sẽ đầu tư sâu hơn và sâu hơn vào những nhà máy dưới lòng đất, giờ làm việc ở đó càng lúc càng tăng, cho đến cuối cùng... ! Mà ngay bây giờ, chẳng phải là một công nhân tiểu biểu ở phía đông thành phố đang sống trong những điều kiện nhân tạo khiến anh ta coi như đã bị tách rời hẳn cuộc đời trên mặt đất rồi đó sao?
"Hơn nữa, khuynh hướng đặc biệt của giai cấp giàu có - kết quả của nền giáo dục càng ngày càng hoàn hảo mà họ được hưởng và khoảng cách càng ngày càng tăng giữa họ và những người nghèo khó thô kệch - hiện đã dẫn đến tình trạng một phần lớn diện tích đất được giữ cho riêng họ mà thôi. Ở khu vực Luân Đôn, chẳng hạn, có lẽ phân nửa những vùng đất tốt đã ở vào tình trạng ấy. Vì thời gian đòi hỏi quá dài và phí tổn quá lớn cho giáo dục cao cấp, lại thêm phương tiện thuận lợi cũng như khuynh hướng có sẵn khiến người giàu càng ngày càng củng cố vững vàng thêm vị trí của mình, khoảng cách giữa hai giai cấp sẽ càng ngày càng lớn. Trong diễn trình đó, sự trao đổi giữa các giai cấp - thể hiện bình thường bằng các cuộc hôn nhân tạm thời ngăn cản sự phân chia nhân loại theo tiêu chuẩn xã hội - sẽ càng ngày càng ít xảy ra. Cuối cùng, trên mặt đất sẽ là những người CÓ, theo đuổi lạc thú và thẩm mỹ, dưới lòng đất sẽ là những người KHÔNG CÓ, những nhân công dần trở thành quen thuộc với hoàn cảnh lao động. Một khi ở đó, họ phải trả tiền mướn chỗ ở, và một phần không nhỏ cho nhu cầu thông hơi. Nếu chống đối họ sẽ bị bỏ đói cho chết ngộp. Những kẻ bẩm sinh yếu đuối hoặc bướng bỉnh sẽ bị tiêu diệt. Cuối cùng, mức quân bình trở thành vĩnh viễn, những kẻ sống còn trở nên phù hợp với đời sống dưới mặt đất, và cũng hạnh phúc trong lối nhìn riêng của họ y hệt như những người sống trên mặt đất. Với tôi, vẻ đẹp hoàn hảo và nét trắng bệch vì thiếu nắng của hai loại người tương lai chỉ là kết quả đương nhiên.
"Cái chiến thắng vĩ đại của loài người mà tôi mơ tưởng đã đổi khác trong tâm trí tôi. Đó không phải là chiến thắng của giáo dục luân lý và hợp tác toàn vẹn như tôi tưởng tượng. Thay vì vậy, tôi thấy một giai cấp quý tộc, trang bị bằng một khoa học hoàn hảo để đưa hệ thống kỹ nghệ hiện tại của chúng ta đến một đoạn kết tất yếu. Cái chiến thắng của họ không phải chỉ là một chiến thắng trên thiên nhiên, mà là một chiến thắng trên những người đồng loại. Điều này, cần nhắc với quý vị, là giả thuyết của tôi lúc ấy. Lập luận của tôi trái ngược với những sách viết về một thế giới lý tưởng. Giả thuyết của tôi có thể hoàn toàn sai, nhưng ngay bây giờ tôi vẫn cho nó là giả thuyết hợp lý nhất. Nhưng, ngay cả với giả thuyết này, ở thế giới tôi đến, nền văn minh quân bình đó hẳn đã vượt quá cao điểm và đi vào giai đoạn suy đốn từ lâu. Sự an toàn quá hoàn hảo của những người trên mặt đất đã khiến họ dần thoái hóa, hình dạng nhỏ đi, sức mạnh và trí thông minh giảm xuống. Điều ấy tôi đã thấy rõ ràng. Những gì đã xảy ra cho thế giới dưới đất thì tôi chưa biết, nhưng dựa theo những gì tôi thấy về giống Morlock - đó là tên của họ - tôi đoán những thay đổi của loài người dưới đất có lẽ còn ghê gớm hơn giống Eloi, giống người đẹp mà tôi đã biết.
"Vẫn còn những điều khó hiểu. Tại sao người Morlock lại lấy cái máy thời gian của tôi? (Tôi đoán chắc họ đã làm việc ấy) Lại nữa, nếu những người Eloi là chủ, tại sao họ không thể giúp tôi lấy lại cái máy? Tại sao họ quá sợ bóng tối như vậy? Như đã nói từ trước, tôi hỏi Weena về thế giới dưới đất, và tôi đã thất vọng. Thoạt đầu, nàng không hiểu tôi nói gì, khi đã hiểu, nàng nhất định không trả lời tôi. Nàng run rẩy, làm như đó là một đề tài mà nàng không thể nào nghe nổi. Rồi khi tôi ép nàng trả lời, có lẽ hơi quá đáng, nàng bật khóc nức nở. Đó là những giọt nước mắt duy nhất, ngoài nước mắt của chính tôi, mà tôi thấy trong thời tương lai vàng son. Những giọt nước mắt ấy khiến tôi tức khắc quên hẳn giống Morlock, cố tìm mọi cách làm biến mất cái di sản buồn bã của loài người trên đôi mắt nàng. Chỉ một lát sau nàng đã vỗ tay cười thích thú nhìn tôi nghiêm trang đốt một que diêm.