Divo
06-03-2007, 08:50 AM
CHƯƠNG III
ẤN CHỨNG THIÊNG LIÊNG
* * * * *
Danh hiệu của những đạo hữu có thọ lãnh chơn truyền tu theo phái "Vô-Vi Tam-Thanh" đã chứng quả vị và có giáng đàn từ năm Bính Dần (1926) đến năm Canh Dần (1950).
____________
15 tháng 8 - Bính Tý (1936)
ÐÀN RA KINH ÐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO
Thi:
GIÁC ngộ Ðơn-thơ luyện pháp mầu,
BỬU đài an hưởng thể dài lâu,
NƯƠNG chơn bước thẳng đàng Tiên Phật,
NƯƠNG bóng Từ-Bi tránh bể dâu.
Chào chư đạo-tâm nam nữ lưỡng phái.
Trường Thiên:
Chán đời tầm Ðạo thoát thân,
Nhảy ra cho khỏi lưới trần bao vây.
Gẫm suy cơ tạo vần xây,
Người đời sống đó thác đây mấy hồi!
Ưa gì những bã tanh hôi,
Lợi danh vốn thiệt miếng mồi quỉ câu.
Trần gian mai thảm chiều sầu,
Không lo nhảy tránh cái bầu tang thương.
Tập tành Ðạo-đức làm gương,
Phủi mùi thế tục tầm đường quang minh.
Ðời người mộng ảo phù sinh,
Chắc chi an lạc chôn mình bến mê.
Biết đi sao chẳng biết về?
Biết khôn sao cứ dựa kề bẫy hang?
Trước ta cũng ở thế gian,
Cũng mê, cũng mết cũng lòng chuộng ưa.
Ðến sau thức tỉnh bỏ chừa,
An vui cùng Ðạo sớm trưa tu hành.
Mùi đời đã biết hôi tanh,
Thì đâu có giựt có giành làm chi!
Học câu bác-ái từ-bi,
Giữ tâm thanh-tịnh vô-vi rất nhàn.
Luyện đơn nấu thuốc Tiên-bang,
Chí tâm trao tánh vững vàng chín ươm.
Ðời là vũng máu núi gươm,
Mưa dầu nắng lửa họa chung tràn đồng.
Chi bằng phủi sạch bụi hồng,
Ngoài vòng cương tỏa tâm không mới mầu.
Mò trăng chi đáy nước sâu,
Sắc mầu hình tướng có đâu vững vàng!
Cảnh Tiên chi xiết là nhàn,
Phồn hoa náo nhiệt rộn ràng mừng lo.
Miễn đời mặc ấm ăn no,
Gia thê đái tử lo cho đủ đầy.
Luyến trần phải chịu đắng cay,
Sừng lông biến kiếp lôi cầy, kéo xe. (Cười. . .)
Thi:
Xe loan đẩy thẳng đến đàn Tiên,
Mừng hội Tam-Thanh chuyển Ðạo huyền,
Kinh báu một pho đầy nghĩa lý,
Ắt là nhơn loại đứng ngồi yên.
Tôi xin kiếu chư Ðạo-tâm nam nữ. Thăng.
ẤN CHỨNG THIÊNG LIÊNG
* * * * *
Danh hiệu của những đạo hữu có thọ lãnh chơn truyền tu theo phái "Vô-Vi Tam-Thanh" đã chứng quả vị và có giáng đàn từ năm Bính Dần (1926) đến năm Canh Dần (1950).
____________
15 tháng 8 - Bính Tý (1936)
ÐÀN RA KINH ÐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO
Thi:
GIÁC ngộ Ðơn-thơ luyện pháp mầu,
BỬU đài an hưởng thể dài lâu,
NƯƠNG chơn bước thẳng đàng Tiên Phật,
NƯƠNG bóng Từ-Bi tránh bể dâu.
Chào chư đạo-tâm nam nữ lưỡng phái.
Trường Thiên:
Chán đời tầm Ðạo thoát thân,
Nhảy ra cho khỏi lưới trần bao vây.
Gẫm suy cơ tạo vần xây,
Người đời sống đó thác đây mấy hồi!
Ưa gì những bã tanh hôi,
Lợi danh vốn thiệt miếng mồi quỉ câu.
Trần gian mai thảm chiều sầu,
Không lo nhảy tránh cái bầu tang thương.
Tập tành Ðạo-đức làm gương,
Phủi mùi thế tục tầm đường quang minh.
Ðời người mộng ảo phù sinh,
Chắc chi an lạc chôn mình bến mê.
Biết đi sao chẳng biết về?
Biết khôn sao cứ dựa kề bẫy hang?
Trước ta cũng ở thế gian,
Cũng mê, cũng mết cũng lòng chuộng ưa.
Ðến sau thức tỉnh bỏ chừa,
An vui cùng Ðạo sớm trưa tu hành.
Mùi đời đã biết hôi tanh,
Thì đâu có giựt có giành làm chi!
Học câu bác-ái từ-bi,
Giữ tâm thanh-tịnh vô-vi rất nhàn.
Luyện đơn nấu thuốc Tiên-bang,
Chí tâm trao tánh vững vàng chín ươm.
Ðời là vũng máu núi gươm,
Mưa dầu nắng lửa họa chung tràn đồng.
Chi bằng phủi sạch bụi hồng,
Ngoài vòng cương tỏa tâm không mới mầu.
Mò trăng chi đáy nước sâu,
Sắc mầu hình tướng có đâu vững vàng!
Cảnh Tiên chi xiết là nhàn,
Phồn hoa náo nhiệt rộn ràng mừng lo.
Miễn đời mặc ấm ăn no,
Gia thê đái tử lo cho đủ đầy.
Luyến trần phải chịu đắng cay,
Sừng lông biến kiếp lôi cầy, kéo xe. (Cười. . .)
Thi:
Xe loan đẩy thẳng đến đàn Tiên,
Mừng hội Tam-Thanh chuyển Ðạo huyền,
Kinh báu một pho đầy nghĩa lý,
Ắt là nhơn loại đứng ngồi yên.
Tôi xin kiếu chư Ðạo-tâm nam nữ. Thăng.