Nhím Hoàng Kim
06-15-2007, 08:05 PM
Chương 2
Lúc ấy vào giữa buổi sáng và Winston đương rời ô phận ra phòng vệ sinh.
Một bóng cô đơn đi về phía anh từ cuối hành lang sáng chói. Đó là cô gái tóc đen. Bốn ngày đã trôi qua từ bữa anh gặp cô ta ngoài tiệm đồ cổ. Khi cô ta lại gần hơn, anh thấy cánh tay phải của cô bị băng chéo, lúc ở xa anh không để ý vì tấm băng đồng màu với bộ quần áo liền quần của cô. Có lẽ cô ta bị rập tay khi loanh quanh một trong mấy cái ống kính vạn hoa to lớn dùng để soạn thảo cốt truyện. Đó là một tai nạn thường xảy ra tại Cục Truyện.
Họ đang cách nhau khoảng bốn thước thì cô gái trợt sẩy chân ngã gần úp mặt vào sàn. Cô ta thốt lên một tiếng rên nhọn. Chắc cô ta ngã vào bàn tay bị thương. Winston dừng chân ngay lại. Cô gái đã quỳ dậy. Mặt cô ta hơi vàng kem làm nổi bật đôi môi đỏ hơn bao giờ hết của cô. Mắt cô ta nhìn chòng chọc vào mắt anh ra chiều kêu gọi với vẻ sợ hãi nhiều hơn là đau đớn.
Một cảm giác là lạ xao xuyến tim Winston. Trước mặt anh là một kẻ thù đương tìm cách giết anh: trước mặt anh cũng là một con người đang đau đớn và có thể đã bị gẫy xương. Chưa chi anh đã theo bản năng tiến về phía cô ta. Ngay lúc anh thấy cô ta ngã vào cánh tay bị băng, dường như anh cảm thấy đau trong chính người anh.
"Cô có bị thương không ?" anh hỏi.
"Không hề chi. Cánh tay tôi. Một khắc nữa nó lại như thường bây giờ," cô ta nói như thể tim cô phập phồng. Mà thực, mặt cô ta xanh hẳn lại.
"Cô có bị gẫy gì không ?"
"Không. Tôi không sao. Bị đau một hồi, thế thôi."
Cô ta giơ bàn tay lành về phía anh và anh đỡ cô ta dậy. Cô ta đã hơi hoàn sắc và có vẻ khá hơn nhiều.
"Không hề gì," cô ta nhắc xẵng lại. "Tôi chỉ bị chạm một chút vào cổ tay thôi. Cám ơn đồng chí."
Rồi cô ta tiếp tục đi về phía đang đi, nhanh nhẹn như thể thực sự không có gì. Toàn việc xảy ra không quá một nửa phút. Không để tâm tư hiện ra trên mặt là một thói quen đã trở thành tính tự nhiên, vả lại khi sự kiện xảy ra họ ở trước máy truyền hình. Tuy sao, khó lòng Winston không lộ một vẻ ngạc nhiên chốc lát, vì trong thời gian hai ba giây anh đỡ cô gái dậy, cô ta đã dúi một vật gì đó vào tay anh. Không nghi ngờ gì được, cô ta đã cố ý làm như vậy. Đó là một vật nhỏ bẹt. Khi anh qua cửa vào phòng vệ sinh, anh đút nó vào túi và lấy ngón tay dò dẫm nó. Đó là một mảnh giấy gấp làm tư.
Đứng trước chỗ tiểu tiện anh sờ soạng tờ giấy thêm một chút để giở nó ra. Thế nào cũng có tin nhắn viết trên đó. Một lúc anh toan chạy vào chuồng xí để đọc nó tức thì. Nhưng đấy là một hành động hết sức điên rồ, như anh thừa biết. Không nơi nào chắc chắn có máy truyền hình dòm ngó liên tục hơn nơi này.
Anh trở về ô phận, ngồi xuống, thung dung vất mảnh giấy vào giữa các tờ giấy khác trên bàn, đeo kính lên và kéo máy ghi âm về phía mình. "Năm phút", anh tự nhủ, "ít nhất năm phút nữa". Tim anh đập to dễ sợ trong lồng ngực anh. Cũng may công việc anh đang làm chỉ là việc thông thường, phải cải chính một bảng số, không cần lưu ý tới lắm.
Dù điều gì được ghi trên giấy chăng nữa, thế nào nó cũng có một ý nghĩa chính trị. Theo như anh biết chỉ có hai trường hợp. Một là, có lẽ trúng hơn, cô gái là một nhân viên của Cảnh Sát Tư Tưởng, đúng như anh sợ. Anh không hiểu tại sao Cảnh Sát Tư Tưởng lại chọn cái lối ấy để truyền tin, nhưng anh chắc họ có lý do của họ. Điều được viết trên tấm giấy có thể là một câu dọa nạt, một lời cảnh cáo, một lệnh bảo anh tự tử, một bẫy tả ra sao đó. Nhưng có một giả thuyết khác, rồ dại hơn, hiện lên trong óc anh, mặc dầu anh cố tình dẹp nó. Đó là thuyết mẩu tin không phải của Cảnh Sát Tư Tưởng chút nào mà là của một cơ quan ngầm nào đó. Biết đâu Hội Tình Thân cuối cùng có thực ! Biết đâu cô gái có chân trong đó ! Ý nghĩ này hẳn là vô lý nhưng nó nảy ngay trong óc anh khi anh xúc giác mảnh giấy trong tay anh. Chỉ hai phút sau anh mới liên tưởng tới sự giải thích sát thực hơn kia. Và ngay bây giờ, tuy lý trí anh bảo anh mẩu tin kia đồng nghĩa với cái chết — anh vẫn không tin thế, niềm hy vọng trái lẽ cứ tồn tại, tim anh cứ đánh trống ngực và anh khó giữ cho giọng nói khỏi run khi anh thì thầm những con số mới bịa ra trong máy ghi âm.
Anh cuốn bó tài liệu đã hoàn tất và nhét nó vào ống hơi. Tám phút đã qua. Anh sửa lại cặp kính trên mũi, thở dài, rồi kéo về phía anh sấp văn kiện kế tiếp có mẩu giấy nằm ở trên. Anh trải nó ra. Trên mặt giấy, bằng một nét chữ nguệch ngoạc được viết:
Tôi yêu anh
Trong vài giây anh quá bàng hoàng không vứt ngay vật lụy thân vào lỗ ký ức. Khi vứt nó, mặc dầu anh quá rõ mối nguy của sự tỏ quan tâm, anh không cầm mình khỏi sự đọc lại nó một lần nữa, để tin chắc rằng giòng chữ kia có thật.
Buổi sáng còn lại, làm việc đối với anh thật khó. Khổ hơn sự phải chăm chú vào một loạt việc vô nghĩa là sự cần giấu không cho máy truyền hình thấy nỗi bồn chồn trong anh. Anh có cảm tưởng lòng anh rực cháy. Ăn trưa trong quán cơm đông nghẹt là cả một cực hình. Anh hy vọng được ở một mình đôi chút trong thời gian ăn, nhưng xúi quẩy làm sao cái tên Parsons đần độn đến thả mình cạnh anh, mùi nồng của mồ hôi anh ta át hẳn mùi tanh của món canh trong khi anh ta thao thao bất tuyệt về chuyện sửa soạn Tuần Lễ Hận Thù. Anh ta đặc biệt hoan hỷ về một mô hình đầu Bác làm bằng giấy nhàu rộng hai thước sẽ do Đoàn Gián Điệp của con gái anh tạo thành nhân dịp đó. Bực một cái là giữa tiếng ồn ào Winston không nghe được rõ Parsons nói gì, cứ phải luôn luôn bảo anh ta nhắc lại mấy lời phán xét khờ dại của anh ta. Đúng một lần anh bắt gặp tia nhìn của cô gái ngồi cùng hai thiếu nữ khác tại một bàn ở tận cuối phòng. Cô ta làm như không trông thấy anh và anh không nhìn lại về phía cô nữa.
Buổi chiều dễ chịu đựng được hơn. Ngay sau bữa trưa anh được lãnh một công việc khó khăn tế nhị, phải tốn nhiều giờ và gác mọi việc khác lại mới hoàn thành nổi. Đó là việc giả mạo một loạt bài báo cáo về mức sản xuất hai năm về trước ngõ hầu hạ uy tín của một nhân vật to đầu thuộc Đảng Trong nay bị thất sủng. Đây là sở trường của Winston, và trong hơn hai tiếng anh loại được hình ảnh của cô gái khỏi óc anh. Sau đó gương mặt cô lại hiện ra trong ký ức anh, cuốn theo một sự thèm muốn được ở một mình dữ dội không chịu nổi. Không ở yên một mình anh không thể suy nghĩ được gì về diễn cảnh mới lạ này. Tối nay là một trong những tối anh phải có mặt tại Trung Tâm Cộng Đồng. Anh nuốt thêm một bữa cơm vô vị tại quán ăn trong sở, chạy nhanh tới Trung Tâm, tham gia trò hề trịnh trọng của một "nhóm thảo luận", đánh hai ván bóng bàn, nốc mấy cốc rượu gin và ngồi một nửa tiếng nghe một bài diễn văn về "Mối quan hệ giữa Anh Xã và cờ tướng". Tâm hồn anh run lên vì chán ngán, nhưng được cái lần này anh không có xung lực tránh buổi họp tại Trung Tâm. Trước mấy chữ Tôi yêu anh lòng ham sống đã trào dậy trong anh, khiến sự liều lĩnh vì chuyện nhỏ nhặt bỗng trở thành ngu xuẩn. Mãi tới hai mươi ba giờ, khi anh về tới nhà và lên giường ngủ — trong bóng tối, nơi anh được an ninh, ngay máy truyền hình anh cũng không sợ nếu anh giữ im lặng — anh mới được phép suy nghĩ liên hồi.
Vấn đề anh phải giải quyết là một vấn đề cụ thể: làm sao liên lạc được với cô gái và dàn xếp được một cuộc gặp gỡ với cô. Anh không còn đặt giả thuyết cô ta ghim bẫy anh nữa. Anh biết không phải thế, căn cứ trên sự dao động không thể lầm được của cô khi cô đưa mẩu thư cho anh. Rõ ràng cô ta sợ hãi quá sức, như đúng lẽ cô phải sợ. Mà ý nghĩ khước từ bước cầu thân của cô cũng không hề thoáng qua óc anh. Mới năm đêm trước anh còn chiêm niệm việc lấy đá đập vào sọ cô, nhưng điều đó không có gì quan trọng. Anh tưởng tới tấm thân trần truồng trẻ trung của cô như anh đã thấy trong giấc mơ. Anh đã nghi sai cô là một kẻ rồ dại như tất cả đám chúng, óc đầy dối trá và hận thù, lòng cứng như băng. Anh lên cơn sốt với ý nghĩ anh có thể mất cô, tấm thân trắng trẻ có thể lướt xa anh. Điều anh sợ hơn hết là cô có thể đổi ý nếu anh không tiếp xúc mau với cô. Nhưng sự khó khăn thể chất của một cuộc gặp mặt thật lớn lao. Tựa như sự kiếm cách tiến quân cờ khi đã bị chiếu tướng. Quay về phía nào cũng có máy truyền hình dòm ngó. Thực ra, mọi cách liên lạc với cô đã hiện ra trong óc anh nội năm phút sau khi đọc bức thư; nhưng bây giờ có thì giờ suy nghĩ anh kiểm điểm lại từng cách như thể xếp một hàng khí cụ trên bàn.
Hiển nhiên kiểu gặp gỡ hồi sáng không thể lập lại được nữa. Nếu cô gái làm việc tại Cục Văn Khố sự thể tương đối giản dị hơn, nhưng anh chỉ có một ý niệm mơ hồ về vị trí trong tòa nhà của Cục Truyện và anh lại không có cớ để tới đó. Nếu anh biết chỗ ở của cô và giờ cô rời sở, anh có thể kiếm cách gặp cô trên đường về; nhưng lò dò theo cô về nhà không ổn vì như vậy nghĩa là phải lảng vảng ngoài Bộ, một việc thế nào cũng bị để ý đến. Còn chuyện gửi thư cho cô qua bưu điện không cần bàn đến. Theo một lệ thường chẳng có chi là bí mật, thư nào qua bưu điện cũng bị mở ra đọc. Thật ra, ít ai viết thư. Vì với những tin thỉnh thoảng cần gửi, đã có thiệp in sẵn gồm cả hàng câu, chỉ gạch câu không thích ứng đi là xong. Vả lại anh không biết tên cô gái, huống chi địa chỉ của cô. Cuối cùng anh định rằng nơi an toàn nhất là quán ăn trong sở. Nếu anh gặp được cô ngồi bàn một mình, tại khoảng giữa phòng ăn, không quá gần máy truyền hình, với tiếng rì rào xung quanh đủ lớn — nếu những điều kiện đó kéo dài độ hai mươi giây, anh có thể trao đổi vài lời với cô.
Một tuần sau đó, đời sống anh trôi như một giấc mộng chập chờn. Ngày hôm sau cô gái chỉ xuất hiện tại quán ăn khi anh rời quán và khi tiếng còi đã thổi. Chắc hẳn cô bị đổi sang toán làm việc sau. Họ qua mặt nhau không một cái nhìn. Hôm sau nữa cô gái tới quán ăn vào giờ thường lệ, nhưng đi cùng với ba cô khác và ngồi ngay dưới một máy truyền hình. Rồi trong ba ngày khủng khiếp kế tiếp cô không xuất hiện chút nào. Cả tâm hồn lẫn thể xác Winston hình như mắc phải một chứng nhạy cảm ghê gớm, một tính thấu suốt khiến mỗi cử chỉ, mỗi tiếng động, mỗi sự đụng chạm, mỗi lời phải nói phải nghe trở thành một nhục hình. Ngay trong giấc ngủ anh cũng không thoát được hình ảnh cô gái. Anh không rờ tới nhật ký trong những ngày đó. Nếu có khuây khỏa thì có vào lúc anh làm việc, khi ấy anh có thể thỉnh thoảng quên mình trong mười phút liền. Anh hoàn toàn không làm sao biết được cô gái ra sao. Anh không có cách nào hỏi thăm cô. Có thể cô bị hóa hơi, có thể cô đã tự tử, có thể cô bị thuyên chuyển đi cuối chân trời Đại Dương: và khổ hơn nữa và có lẽ đúng hơn nữa, có thể cô đã đổi ý và quyết định tránh mặt anh.
Ngày sau đó, cô gái xuất hiện trở lại. Cánh tay cô không còn bị băng chéo nhưng cổ tay cô bị cuốn băng dính. Được thấy cô, anh nhẹ nhõm nhiều đến nỗi không ngăn được mình nhìn thẳng vào cô mấy giây liền. Ngày hôm sau anh suýt nói chuyện được với cô. Khi anh tới quán, cô đang ngồi khá xa tường, hoàn toàn một mình. Lúc ấy còn sớm, quán chưa đông người. Đuôi xếp hàng tiến dần và Winston gần tới quầy hàng thì phải dừng chân hai phút vì trước anh có người kèo nhèo bởi không được phát thẻ đường tinh. Nhưng cô gái vẫn ngồi một mình khi Winston bê mâm lên bắt đầu bước về phía bàn cô. Cô chỉ còn cách anh độ ba thước. Còn hai giây nữa là xong. Đúng lúc ấy có tiếng kêu gọi anh: "Smith !" Anh giả vờ không nghe thấy. "Smith !", tiếng kêu tiếp tục to hơn. Không cách nào thoát. Anh quay lại. Một thanh niên tóc vàng, có bộ mặt ngốc nghếch tên là Wilsher, chỉ quen sơ anh, đang tươi cười mời anh ngồi tại một chỗ trống cạnh anh ta. Từ chối không ổn. Đã bị nhận diện, anh không thể đến ngồi tại bàn một cô gái cô độc. Làm thế quá lộ. Anh ngồi xuống với với một nụ cười thân thiện. Mặt người thanh niên tóc vàng ngờ nghệch nở tươi nhìn anh. Winston có ảo giác thấy mình cầm cuốc bổ mạnh vào giữa khuôn mặt ấy. Vài phút sau bàn cô gái đầy người.
Nhưng chắc cô đã thấy anh đi về phía cô và có lẽ cô đã hiểu ý anh. Ngày hôm sau anh lo đến sớm. Gần như đương nhiên, cô gái ngồi tại một bàn ở khoảng chỗ cũ, và lại ngồi một mình. Người xếp hàng ngay trước anh là một người vóc bọ hung, nhỏ bé, nhanh nhẹn, có mặt phẹt và mắt ti hí đa nghi. Khi Winston bê mâm rời quầy hàng, anh thấy người đàn ông nhỏ bé đi thẳng về phía bàn cô gái. Hy vọng của anh lại chìm xuống. Có một chỗ vắng ở một bàn xa hơn, nhưng có cái gì trong dáng điệu của người nhỏ bé gợi ý hắn ta quá quan tâm đến tiện nghi bản thân thế nào cũng chọn cái bàn trống người nhất. Winston bước theo hắn với con tim giá băng. Không lợi ích gì nếu anh không được gặp cô gái một mình. Vừa lúc đó một tiếng ầm vang. Người đàn ông nhỏ bé nằm thưỡn chân thẳng cẳng, mâm hắn bị hất tung, khiến hai dòng canh và cà phê chảy lăn trên sàn. Hắn vừa kéo người dậy vừa hằn học nhìn Winston, hiển nhiên ngờ anh đã quèo chân hắn. Nhưng không sao. Năm giây sau, Winston ngồi tại bàn cô gái.
Anh không nhìn cô. Anh bỏ thức ăn ra khỏi mâm và vội bắt đầu ăn. Tối quan trọng là nói chuyện ngay trước khi có ai lại, nhưng lúc này một mối khiếp sợ xâm nhập Winston. Đã một tuần qua từ ngày cô bắt liên lạc với anh. Có thể cô đã đổi ý, chắc chắn cô đã đổi ý ! Chuyện này không thể kết cục tốt đẹp được; những chuyện tình không thể xảy ra trong đời sống thực tế. Chắc anh đã ngả lòng hẳn, không dám nói gì, nếu lúc đó anh không thấy Ampleforth, nhà thi sĩ có tai lông lá, đang khập khiễng bê mâm quanh phòng tìm một chỗ ngồi. Theo kiểu mơ hồ của ông, Ampleforth quyến luyến Winston, thế nào ông ta cũng đến ngồi cạnh anh nếu ông trông thấy anh. Còn khoảng một phút để hành động. Cả Winston lẫn cô gái đều điềm tĩnh ăn. Chất họ đang ăn là một món canh loảng, đúng ra là canh đậu. Winston bắt đầu lên tiếng thì thầm nhỏ. Cả hai không nhìn lên; họ điềm nhiên múc chất lỏng vào mồm, và giữa hai thìa trao đổi vài lời cần thiết bằng một giọng thấp không nhấn.
"Cô rời sở vào giờ nào ?"
"Mười tám giờ rưỡi."
"Mình có thể gặp nhau ở đâu ?"
"Công Trường Chiến Thắng, gần đài kỷ niệm."
"Chỗ đó đầy máy truyền hình."
"Không sao nếu đông người."
"Dấu hiệu gì không ?"
"Không. Đừng lại gần tôi trước khi tôi ở giữa đám đông. Đừng nhìn tôi. Chỉ ở đâu đó gần tôi."
"Giờ nào ?"
"Mười chín giờ."
"Được."
Ampleforth không nhìn thấy Winston và ra ngồi bàn khác. Họ không nói gì với nhau thêm, và trong chừng mực của hai người ngồi cùng bàn trước mặt nhau, họ không nhìn nhau. Cô gái ăn cơm xong nhanh rồi đi, trong khi Winston ngồi nán lại hút thuốc.
Winston tới Công Trường Chiến Thắng trước giờ hẹn. Anh đi vẩn vơ quanh bệ cột khía rãnh to lớn, trên chỏm có tượng Bác nhìn về phía nam, về phía quãng trời Bác đại thắng phi cơ Âu Á (tức phi cơ Đông Á, mấy năm trước), tại Trận Vùng Một Không Quân. Trên phố trước mặt có dựng tượng một kỵ sĩ được coi là tạc hình của Olivier Cromwell. Đã năm phút quá giờ hẹn mà cô gái chưa xuất hiện. Lại nữa, sự hãi hùng túm lấy Winston. Cô ta không đến, cô ta đã đổi ý ! Anh đi chậm về phía bắc dọc công trường, và cảm thấy một chút thú vị nhẹ khi nhận ra nhà thờ Thánh Martin có thời có chuông reo: "Mày thiếu tao ba trinh". Rồi anh thấy cô gái đứng dưới bệ đài kỷ niệm đang đọc hay giả vờ đọc một tờ yết thị xoắn vòng theo cột tới tận chỏm. Không nên lại gần cô trước khi có nhiều người bu quanh cô. Có đầy máy truyền hình gắn khắp trán tường đài. Nhưng vừa lúc ấy, một tiếng la hét ầm ĩ cùng tiếng nổ của một đoàn xe cộ nặng nề phát ra từ phía trái anh. Bỗng mọi người hình như đều muốn băng qua công trường. Cô gái lanh lẹ cắt lối quanh mấy con sư tử trên bệ đài và gia nhập đám người đang chạy. Winston chạy theo. Vừa chạy anh vừa dựa trên mấy câu bình phẩm hét to mà phỏng đoán có một đoàn xe chở tù binh Âu Á đang qua.
Chưa chi một đám đông đã chắn cả phía nam công trường. Bình thường Winston thuộc loại người lượn ra ngoài mọi nơi chen chúc, nhưng bây giờ anh cũng lấn, cũng đẩy, cũng len mình tiến lên giữa đám đông. Chẳng bao lâu anh chỉ còn cách tầm tay cô gái, nhưng lối đi bị ngăn bởi một gã dân đen to lớn và một người đàn bà đồ sộ chẳng kém, chắc hẳn là vợ anh ta, họp thành một bức tường thịt không xuyên thủng nổi. Winston uốn ngang mình lại và đổ mạnh vai vào giữa họ. Một lúc anh tưởng chừng như tạng phủ anh bị nghiền nát giữa hai bộ hông lực lưỡng, nhưng anh lọt qua họ, chỉ phải đổ mồ hôi đôi chút. Anh đã tới cạnh cô gái. Họ sánh vai nhau đi, mắt cả hai nhìn thẳng về phía trước.
Một dãy dài xe tải, được lính mặt gỗ cầm súng liên thanh đứng canh tại mỗi góc đường, chạy chậm trên phố. Trong xe tải đầy người da vàng nhỏ bé mặc đồng phục xanh lạt cũ rích ngồi xổm khít vào nhau. Gương mặt Mông Cổ buồn bã của họ nhìn qua vành xe hết sức dửng dưng. Thỉnh thoảng khi một chiếc xe xóc, một tiếng kim khí lẻng kẻng bật lên: tất cả tù nhân đều bị đóng cùm chân. Hết xe tải đầy mặt buồn này đến xe tải đầy mặt buồn kia đi qua. Winston biết họ ngồi trong đó, nhưng chỉ cách hồi anh mới thấy mặt họ. Vai cô gái và tay phải của cô tới tận khuỷu tay cọ sát vào anh. Má cô gần anh đến nỗi anh có thể cảm thấy hơi ấm của nó. Cô đã đảm nhiệm ngay tình thế, y như khi ở quán ăn. Cô bắt đầu nói bằng một giọng không nhấn như trước, môi rất ít động đậy thốt ra một tiếng thì thầm dễ lắng chìm trong tiếng nói ồn ào và tiếng nổ của xe tải.
"Anh nghe được tôi không ?"
"Có."
"Anh có thể rảnh chiều chủ nhật không ?"
"Có."
"Nghe kỹ đây. Anh sẽ phải nhớ hết. Hãy lại nhà ga Pađington — "
Với một sự chính xác kiểu nhà binh làm anh ngạc nhiên, cô vạch đường phải theo cho anh. Một nửa tiếng đi tàu hỏa; ra ngoài nhà ga quẹo tay trái; đi dọc đường cái hai cây số qua một cái cổng thiếu thanh trên; một con đường hẹp xuyên cánh đồng; một con đường mòn đầy cỏ mọc; một lối đi giữa bụi rậm; một thân cây chết phủ rêu. Làm như cô có một bản đồ trong óc. "Anh có thể nhớ hết không ?", cô tận cùng thì thầm.
"Có."
"Anh rẽ tay trái rồi tay phải, rồi lại tay trái. Và cái cổng phải không có thanh trên."
"Vâng. Vào giờ nào ?"
"Khoảng mười lăm giờ. Anh có thể phải đợi. Tôi sẽ lại bằng lối khác. Anh có chắc nhớ hết không ?"
"Có."
"Vậy anh xa tôi nhanh, càng nhanh càng tốt."
Cô không cần dặn anh điều này. Nhưng hiện họ không trích ra nổi đám đông. Xe tải vẫn tiếp tục đi qua, dân chúng vẫn há hốc mồm nhìn không biết chán. Hồi đầu có tiếng huýt nhưng chỉ xuất phát từ Đảng viên trong đám đông, và những tiếng ấy ngưng lại liền. Cảm xúc trội nhất là sự tò mò không thôi. Người ngoại quốc, dù là người Âu Á hay Đông Á, là một thứ thú kỳ dị. Dân chúng như không bao giờ được thấy mặt họ trừ phi dưới lốt tù binh, mà ngay tù binh cũng chỉ được thấy thoáng qua thôi. Không ai biết số phận họ sẽ ra sao, ngoài số ít người bị treo cổ dưới danh hiệu tội phạm chiến tranh: những người khác biến mất không hơn không kém, có lẽ bị nhốt trong trại khổ sai. Các khuôn mặt Mông Cổ tròn trịa đã được thay thế bởi những bộ mặt thuộc giống Âu Châu hơn, bẩn thỉu, râu ria, mệt mỏi. Từ trên gò má xồm xoàm mắt họ nhìn vào mắt Winston, có lúc với một cường độ lạ lùng, rồi ngoảnh phắt đi. Đoàn xe sắp qua hết. Trong xe tải cuối cùng anh thấy một ông già có lông xám đầy mặt, đứng thẳng người giơ hai cổ tay bị buộc chéo trước mặt, như thể ông ta quen bị trói. Đã gần tới lúc Winston và cô gái chia tay. Nhưng lát cuối cùng, trong khi đám đông vẫn bao quanh họ, tay cô gái tìm và khẽ siết nhanh tay anh.
Việc này chỉ kéo dài mười giây nhưng anh tưởng chừng tay hai người nắm lấy nhau một lúc lâu. Anh đã có thì giờ học từng chi tiết bàn tay cô gái. Anh thăm dò mấy ngón tay dài, mấy móng tay cong, lòng tay bị cứng vì làm việc nặng nhọc với đường nét chai cục, làn da mềm mại dưới cổ tay. Chỉ sờ vào nó anh cũng hình dung được ra nó. Đồng thời anh nghĩ rằng anh không biết màu mắt cô gái. Chắc nó phải nâu, nhưng người tóc đen cũng có khi có mắt xanh. Ngoảnh đầu lại để nhìn cô sẽ là một sự liều lĩnh điên rồ không tưởng được. Với đôi bàn tay thắt lấy nhau, không bị ai trông thấy giữa đám đông chật chội, họ nhìn thẳng trước mặt, và thay vì đôi mắt của cô gái, cặp mắt của người tù binh già vượt qua ổ tóc nhìn chòng chọc vào Winston, ai oán.
Winston tìm lối trên con đường nhỏ sáng rợp từng quãng, chân giẫm vào vũng nắng vàng mỗi khi bụi rậm giãn cách. Dưới hàng cây bên tay trái anh, hoa huệ dại phủ đầy đất. Khí trời lướt nhẹ trên da thịt anh. Hôm ấy là mồng hai tháng năm. Từ trong rừng thâm vọng lại tiếng gù của chim cu cườm.
Anh đến sớm hơn giờ hẹn một chút. Anh không gặp phải khó khăn trong chuyến du hành; quá hiển nhiên cô gái là một người từng trải, cho nên anh ít sợ hãi hơn bình thường. Chắc hẳn có thể tin được rằng cô đã kiếm ra một nơi hẹn an toàn. Thông thường miền thôn dã không thể được coi như an toàn hơn London. Đã đành là ở thôn quê không có máy truyền hình, nhưng vẫn còn mối nguy của máy ghi âm thâu lại tiếng nói của bạn để rồi vì đó bạn bị nhận dạng. Đi xa dưới một trăm cây số không cần xin chiếu khán trên thẻ thông hành, nhưng đôi khi gặp phải đội tuần tra lởn vởn quanh nhà ga, Đảng viên có thể bị xét giấy và hỏi han lôi thôi. Tuy sao Winston không thấy đội tuần tra xuất hiện, và trên đường rời nhà ga anh đã cẩn thận liếc nhìn lại phía sau mấy lần cho chắc không có ai theo dõi. Tàu hỏa đầy dân đen thản tính vì khí xuân. Toa tàu có ghế gỗ nơi anh ngồi bị tràn ngập bởi một gia đình lúc nhúc gồm từ một bà cụ móm đến một đứa bé một tháng, về quê chơi chiều nay với "ông bà xui" nhân thể kiếm một ít bơ để bán chợ đen như họ thành thật thổ lộ với anh.
Lối đi rộng ra, và một phút sau anh tới con đường mòn mà cô gái chỉ, một con đường nhỏ do vết chân bò vạch ra, lút vào giữa bụi rậm. Anh không có đồng hồ nhưng chưa thể tới mười lăm giở. Dưới chân anh hoa huệ dại rậm đến nỗi anh không tài nào tránh khỏi giẫm lên hoa. Anh quỳ xuống và ra tay hái vài mớ, vừa để cho qua thì giờ, vừa vì có ý nghĩ vẩn vơ muốn có bó hoa tặng cô gái khi giáp mặt cô. Anh hái được một bó lớn và đang ngửi mùi thơm hơi nặng của hoa thì một tiếng động, rõ ràng tiếng rắc của cành cây khô bị giẫm chân lên, làm anh ớn mình. Anh tiếp tục hái hoa. Đó là thái độ hay hơn nhất. Có thể đó là cô gái, cũng có thể vẫn có người theo dõi anh. Nhìn quanh là tỏ ra mình có hành vi tội lỗi. Anh hái hết hoa này đến hoa khác. Một bàn tay đặt nhẹ trên vai anh.
Anh ngước mắt nhìn lên. Đó là cô gái. Cô lắc đầu, hiển nhiên để ra hiệu cho anh phải giữ im lặng, rồi gạt lùm cây đi nhanh theo con đường mòn vào trong rừng. Rõ ràng cô ta từng đến nơi đây vì cô tránh né ổ lầy như người quen thói. Winston theo sau, tay vẫn ôm bó hoa. Thoạt đầu anh cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng khi nhìn vào tấm thân thanh mạnh uyển chuyển trước mặt anh với chiếc thắt lưng đỏ buộc đủ chặt để lộ đường cong của bộ hông, mặc cảm tự ti đè nặng tim anh. Ngay bây giờ anh tưởng chừng cô gái vẫn có thể chùn mình rút lui nếu cô ngoảnh mặt lại nhìn anh. Không khí êm ả và sắc xanh của lá làm anh nản lòng. Đã rồi, trên đường rời nhà ga, nắng xuân đã làm anh cảm thấy mình héo hắt dơ bẩn, đúng một động vật nội thất với lỗ da thấm bụi bồ hóng Luân Đôn. Anh chợt nghĩ rằng cho tới nay cô gái chưa bao giờ nhìn thấy anh ngoài trời dưới ánh sáng ban ngày. Họ đi đến cây sụp mà cô nói tới. Cô gái nhảy qua cây và rẽ mạnh lối qua khóm bụi rậm thoạt coi tưởng không có kẽ lọt. Lúc Winston băng theo cô, anh thấy mình ở trong một khu rừng trống thiên nhiên, một con gò nhỏ phủ cỏ, bao quanh bởi lùm cây non cao bít kín lấy nó. Cô gái ngừng chân và quay mặt lại.
"Chúng ta đã tới nơi," cô ta nói.
Anh đứng trước mặt cô, cách cô vài bước. Dường như anh chưa dám lại gần cô hơn nưă.
"Tôi không muốn nói gì trên đường mòn," cô tiếp lời, "vì sợ có máy ghâm giấu ngoài đó. Tôi không nghĩ là có máy, nhưng biết đâu đấy. Luôn luôn có cái rủi bị một tên chó săn nhận ra tiếng nói của mình. Ở đây mình không sao."
Anh vẫn không có can đảm lại gần cô. "Ở đây mình không sao thật hả ?", anh ngờ nghệch nhắc lại.
"Phải. Anh coi đám cây kia. Đó là cây tần bì nhỏ, xưa bị đốn tận gốc nhưng nay đã nảy lại thành một rừng nhánh không cành nào dày hơn cổ tay. Không có cành nào đủ lớn dể che một máy ghâm. Vả lại, tôi đã từng đến nơi này rồi."
Họ chỉ giả vờ nói chuyện. Bây giờ anh đã kiếm cách lại gần cô gái hơn. Cô đứng thật thẳng trước mặt anh, với một nụ cười hơi có vẻ riễu cợt trên môi, như thể cô tự hỏi tại sao anh hành động chậm chạp quá vậy. Hoa huệ dại đã tuôn rơi xuống đất. Hoa hình như tự ý rơi xuống. Anh cầm tay nàng. "Em có tin rằng cho tới lúc này anh không biết mắt em mầu gì không ?" anh nói. Anh nhận thấy mắt nàng nâu, mà màu nâu nhạt, dưới cặp mi đen. "Nay em nhìn rõ anh ra sao, em còn chịu để ý đến anh không ?"
"Có chứ, dễ ợt."
"Anh đã ba mươi chín tuổi. Anh đã có vợ mà không bỏ được. Anh bị bệnh giãn tĩnh mạch. Anh lại có năm chiếc răng giả."
"Chẳng can hệ gì," nàng nói.
Lát sau, khó nói được do ai khởi sự, nàng đã ngả trong lòng anh. Thoạt đầu anh không có cảm tưởng gì ngoài mối hoài nghi đơn chất. Tấm thân trẻ trung ép sát người anh, mái tóc đen xòa vào mặt anh, và thật ! Nàng vừa ngẩng mặt lên và anh đã hôn vào cái miệng đỏ rộng. Nàng vòng tay quanh cổ anh, nàng gọi anh là anh yêu, anh quý, anh cưng. Anh đẩy nàng xuống đất, nàng hoàn toàn không chống cự, anh có thể làm gì với nàng cũng được. Nhưng sự thực thì anh không có cảm giác thể xác nào ngoài xúc giác đơn sơ. Anh chỉ biết hoài nghi và tự hào. Anh sung sướng vì sự thể đang xảy ra nhưng anh không có nhục dục. Quá sớm, tuổi trẻ và sắc đẹp của nàng làm anh sợ hãi, anh quá quen sống không có đàn bà — anh không biết lý do nào đúng. Cô gái đưa mình ngồi dậy, vuốt một bông huệ dại ra khỏi tóc. Nàng ngồi sát vào anh, tay vòng quanh mình anh.
"Không sao, cưng. Không việc gì vội. Mình có cả buổi chiều lận. Chỗ ẩn này thật tuyệt, phải không anh ? Em khám phá ra nó nhân một bữa du hành tập thể bỗng bị lạc đường. Nếu có ai lại, cách một trăm thước có thể nghe thấy họ rồi.
"Tên em là gì ?" Winston hỏi.
"Julia. Em biết tên anh. Là Winston — Winston Smith."
"Sao em biết được ?"
"Cho là em giỏi khám phá mọi sự hơn cưng. Nói cho em hay. Anh nghĩ gì về em trước ngày em dúi mẩu giấy cho anh ?"
Anh không có rắp tâm nói dối nàng. Nói ra những điều tệ nhất ngay lúc đầu chính là một cách dâng hiến cho tình yêu.
"Thấy em là anh ghét," anh trả lời. "Anh muốn hiếp dâm em rồi sau đó giết em. Hai tuần trước anh thực sự tính lấy đá đập nát sọ em. Nếu em thật muốn biết, thì anh tưởng em dính dáng với Cảnh Sát Tư Tưởng."
Cô gái cười khoái trá, hiển nhiên coi đó như một sự công nhận tài ngụy trang của nàng.
"Cảnh Sát Tư Tưởng ư ? Bộ anh quả nghĩ vậy hả ?"
"Hừm, có lẽ không hẳn vậy. Nhưng theo toàn thể bộ điệu em — chỉ tại em tươi trẻ khỏe mạnh, em hiểu không — anh nghĩ có thể —"
"Anh nghĩ em là một Đảng viên tốt. Lời lẽ cũng như hành vi trong sạch. Cờ xí, đám rước, khẩu hiệu, thể thao, du hành tập thể — mọi cái trò đó. Và anh cho rằng nếu em có dịp nhỏ nào em sẽ tố cáo anh là một tội phạm tư tưởng để cho anh bị giết, phải không ?"
"Phải, đại khái như vậy. Rất nhiều cô gái trẻ như thế, em biết chứ !"
"Tại cái vật khốn kiếp này nó làm cho như vậy," nàng vừa nói vừa tháo chiếc thắt lưng nhỏ của Liên Đoàn Thanh Niên Chống Tình Dục rồi quăng nó trên một cành cây. Và như thể sờ vào bụng làm nàng nhớ tới điều gì, nàng lục túi bộ áo liền quần của nàng lôi ra một thanh xúc cô la nhỏ. Nàng bẻ nó ra làm hai, đưa cho Winston một phần. Chưa cầm nó, mới ngửi mùi anh đã biết ngay đó là một thứ xúc cô la rất khác thường. Nó đen bóng và được bọc trong giấy bạc. Thông thường xúc cô la là một chất dễ vụn mầu nâu xỉn có vị tả đúng nhất là vị khói lửa rác. Nhưng thỉnh thoảng anh có được thưởng thức thứ xúc cô la như miếng nàng cho anh. Hớp thơm đầu của nó gợi trong ký ức anh một kỷ niệm khó nhận ra nhưng mạnh mẽ, khắc khoải.
"Em kiếm ra thứ này ở đâu vậy ?", anh hỏi.
"Chợ đen," nàng thờ ơ nói. "Đúng em thuộc loại gái đáng coi chừng. Em chơi thể thao giỏi này. Em là một đoàn trưởng trong Đội Gián Điệp này. Em lại tình nguyện giúp việc cho Liên Đoàn Thanh Niên Chống Tình Dục ba tối một tuần. Em mất hàng giờ dán văn nhăng thối của chúng khắp Luân Đôn. Cuộc biểu tình nào cũng có em vác cờ. Em luôn luôn tỏ vẻ hân hoan và không bao giờ trốn việc. Bao giờ cũng hò hét với đám đông, đó là tuyên ngôn của em. Chỉ có cách ấy mới an toàn."
Mảnh xúc cô la đầu đã tan trên lưỡi Winston. Ngon lành làm sao. Nhưng cái kỷ niệm kia vẫn lởn vởn quanh tâm thức anh, mạnh mẽ nhưng không qui được vào một hình ảnh nhất định, giống như một vật nhìn qua khóe mắt. Anh gạt nó ra, duy vẫn ý thức rằng đó là ký ức của một hành động anh muốn xóa bỏ nhưng không xóa nổi.
"Em quá trẻ," anh nói. "Em kém anh những mười, mười lăm tuổi. Em thấy có gì quyến rũ trong một con người như anh ?"
"Có cái gì đó trên mặt anh. Em thấy nên xem sao. Em có tài nhận ra những kẻ không lệ thuộc. Vừa nhìn thấy anh em biết ngay anh chống chúng."
Chúng đây hẳn chỉ Đảng và đặc biệt Đảng Trong bị nàng nhắc tới với một nỗi căm thù mỉa mai ra mặt, khiến cho Winston e ngại mặc dầu anh biết nơi đây an toàn, nếu sự an toàn có thể có tại một nơi nào. Một điều nơi Julia làm anh ngạc nhiên là cách ăn nói thô tục của nàng. Đảng viên được coi như không biết chửi thề, và chính Winston rất ít khi chửi thề hay ít nhất to tiếng chửi. Thế mà Julia hình như không thể không dùng loại danh từ thấy viết phấn trên các ngõ hẻm lầy lội mỗi khi nhắc tới Đảng, nhất là Đảng Trong. Anh không ghét cách ăn nói đó. Nó chỉ là một triệu chứng của lòng phẫn nộ của nàng đối với Đảng và các đường lối của Đảng, có thể coi đó như là một phản ứng tự nhiên lành mạnh cũng như cái hắt hơi của một con ngựa ngửi thấy cỏ khô tồi. Họ đã rời khu rừng thưa và đang dạo bước trở lại dưới bóng cây ô quãng, tay người nọ choàng quanh mình người kia mỗi khi lối đi không đủ rộng cho hai người sánh đôi. Anh nhận thấy không có dây thắt, lưng nàng mềm mại hơn nhiều. Họ không nói to hơn tiếng thì thầm. Ngoài khu rừng thưa, nên giữ im lặng, Julia nói vậy. Hiện họ đã tới biên rừng nhỏ. Nàng ngăn chàng lại.
"Chớ có ra ngoài trời trống. Ngộ có ai dòm ngó. Mình chỉ an toàn nếu lấp mình sau cành cây."
Họ đang đứng dưới bóng lùm cây hạt dẻ. Ánh nắng, dù đã được lọc qua muôn lá, vẫn đốt nóng mặt họ. Winston nhìn ra phía cánh đồng bên kia rừng, và bị xúc động bởi một sự kiểm nhận lạ lùng, chậm chạp. Anh biết cảnh này kìa. Một cánh đồng cỏ xưa bị gặm sát đất, có một con đường nhỏ xuyên qua và có đất đùn lổm chổm. Tại hàng rào tơi tả bên kia đồng, cành du khẽ đong đưa dưới gió mát, lá cây nhẹ rung thành mớ như tóc đàn bà. Chắc hẳn, đâu đó gần đây, nhưng ngoài tầm mắt, có một giòng suối với nhiều vũng xanh có cá vàng bơi chăng ?
"Có một giòng suối đâu đó gần đây phải không ?" anh khẽ hỏi.
"Phải, có một con suối. Tại rìa cánh đồng kế bên, đúng ra trong đó có cá, cá rất lớn. Có thể thấy chúng vẫy đuôi bơi trong các vũng nước dưới cây liễu."
"Đây là Xứ Vàng — gần vậy," anh thì thầm.
"Xứ Vàng nào ?"
"Không có chi cả, thật ra. Đó là một phong cảnh anh thỉnh thoảng nằm mơ thấy."
"Coi kìa !" Julia xì xào.
Có một con chim chích chòe đậu trên một cành cây cách họ không tới năm thước, gần ngang mặt họ. Có lẽ nó không nhìn thấy họ. Nó ở dưới nắng, còn họ ở trong bóng rợp. Nó xòe cánh ra rồi xếp gọn cánh lại cẩn thận, cúi đầu xuống một lúc như để tỏ lòng tôn kính với mặt trời, bắt đầu tuôn ra một tràng bài hót. Giữa buổi chiều thanh vắng, âm lượng của tiếng hót mạnh kỳ lạ.
Winston và Julia bám chặt vào nhau, như bị thôi miên. Tiếng nhạc tiếp tục, phút này sang phút khác, bổng trầm khác lạ, không điệu nào lập lại điệu nào, như thể con chim cố ý trổ tài điêu luyện. Thỉnh thoảng nó ngưng vài giây, xòe cánh ra rồi gấp cánh lại, xong phồng bộ diều lốm đốm lên và bật vang tiếng hót trở lại. Winston ngắm chim với một lòng kính trọng mơ hồ. Chim hót cho ai, vì sao ? Không có bầu bạn, không có tình địch nào nhìn nó. Cái gì khiến nó đậu tại ven rừng vắng và đổ nhạc trong hư không ? Anh tự hỏi liệu cuối cùng có máy ghi âm dấu đâu gần đây không. Anh và Julia chỉ khẽ thì thầm với nhau, nên nó không thâu được tiếng họ, nhưng nó có thể ghi lại tiếng chim hót. Có thể tại đầu kia máy một tên bọ hung đang cố tình nghe ngóng — nghe đó. Nhưng dần dần suối nhạc quét mọi ưu tư khỏi óc anh. Như thể nó là một chất nước dội trên khắp ngưởi anh, pha trộn với ánh nắng xuyên qua lá. Anh thôi suy nghĩ, chỉ biết thưởng thức. Lưng người con gái trong vòng tay anh vừa mềm vừa ấm. Anh xoay người nàng lại cho hai người chạm ngực vào nhau; thân thể nàng như tan hòa vào thân thể anh. Tay anh rờ vào chỗ nào cũng thấy xiêu dịu như nước. Mồm họ gắn lấy nhau; cái hôn này khác hẳn cái hôn mạnh bạo mà họ trao đổi trước đây. Khi họ buông mặt nhau ra, cả hai thở dài não nề. Con chim sợ hãi vỗ cánh bay đi.
Winston kề môi bên tai nàng. "Bây giờ nhé" anh thì thầm.
"Không ở đây được," nàng khẽ trả lời. "Mình trở về chỗ ẩn. An toàn hơn."
Nhanh nhanh, thỉnh thoảng giẫm lên cành khô kêu rắc, họ len lối về khu rừng thưa. Khi họ vào giữa vòng cây non, nàng quay người giáp mặt với chàng. Cả hai đều thở hồng hộc, nhưng nụ cười đã tái hiện trên quanh mép miệng nàng. Nàng đứng nhìn chàng một lúc, rồi sờ vào cái khóa kéo của bộ áo liền quần của nàng. Và phải, sự thể gần như trong giấc mơ của Winston. Gần nhanh như anh mơ tưởng, nàng giứt quần áo ra, và khi nàng quẳng nó sang bên, nàng có cái cử chỉ tuyệt vời như muốn qua nó khiến cả một nền văn minh bị tiêu diệt. Thân hình nàng trắng trẻo dươi ánh mặt trời. Nhưng lúc này anh không nhìn vào thân hình nàng; mắt anh dính vào khuôn mặt đầy tàn nhang với nụ cười mỉm táo bạo. Anh quỳ xuống dưới chân nàng và cầm tay nàng trong tay anh.
"Em đã làm thế trước đây chưa ?"
"Dĩ nhiên rồi. Hàng trăm lần - hừm ít ra cũng hàng chục lần."
"Với Đảng viên ư ?"
"Vâng, luôn luôn với Đảng viên."
"Với thành viên Đảng Trong hả ?"
"Không, không đời nào với lũ chó chết ấy. Vậy mà có nhiều tên chỉ mong thế nếu được dịp. Chúng không thánh thiện như chúng giả bộ đâu."
Tim anh chồm lên. Nàng đã làm thế hàng chục lần: anh mong đó là hàng trăm hàng ngàn lần. Bất cứ gì gợi ý sự hủ hóa khiến anh đầy ngập một mối hy vọng rồ dại. Biết đâu, có thể Đảng thối nát dưới vỏ bề ngoài, có thể sự sùng bái nghị lực và lòng hy sinh chỉ là một trò bịp bợm cốt để che đậy sự đồi bại. Giá làm được cho cả đám chúng mắc phải bệnh hủi hay bệnh giang mai, anh sẽ sung sướng ra công làm sao ! Bất cứ gì làm chúng hư mục, suy yếu, xói mòn ! Anh kéo nàng xuống cho hai người quỳ trước mặt nhau.
"Em nghe đây. Em càng có nhiều cuộc dan díu với đàn ông, anh càng yêu em. Em hiểu không ?"
"Có, rõ lắm."
"Anh ghét sự tinh khiết, anh ghét sự tốt lành ! Anh không muốn có đức tính tồn tại nơi nào cả. Anh muốn mọi người ai cũng hư thối tận xương."
"Vậy thì tốt, em chắc hợp anh, cưng ạ. Em hư hỏng thấu xương cốt."
"Em thích làm thế không ? Anh không muốn nói với anh đâu: anh muốn nói làm thế vì thích thế ?"
"Em mê làm thế."
Đó là điều anh muốn nghe thấy hơn hết. Không chỉ tình yêu con người mà thú tính, tình dục đơn giản không phân hóa: đấy là sức mạnh có thể làm Đảng tan tành. Anh ghì nàng xuống cỏ giữa đám huệ dại bị rớt. Lần này không khó khăn gì. Hiện thì ngực họ đã phập phồng xuống tốc độ bình thường, và họ đã bất đắc dĩ khoan khoái buông nhau ra. Trời hình như nóng hơn. Cả hai người đều buồn ngủ. Winston với bộ áo liền quần bị vứt bên đem phủ lên một phần thân nàng. Gần lập tức họ lịm giấc và ngủ khoảng một nửa tiếng.
Winston tỉnh giấc trước. Anh ngồi dậy ngắm khuôn mặt đầy tàn nhang, vẫn ngủ yên lành, gối trên lòng bàn tay nàng. Ngoại trừ cái miệng, không thể cho là nàng đẹp được. Nếu nhìn kỹ, thấy một hai vết nhăn quanh mặt nàng. Mái tóc đen mềm dày lạ thường. Anh bỗng nghĩ rằng anh chưa biết tên họ nàng cũng như địa chỉ nàng.
Tấm thân trẻ mạnh, bây giờ bất lực trong giấc ngủ, khêu gợi trong anh lòng thương hại che chở. Nhưng lòng trìu mến vô tư cảm thấy dưới cây hạt dẻ đương lúc chim chích chòe hót, không hoàn toàn trở lại. Anh kéo bộ áo liền quần sang bên để xét bộ sườn trắng mịn của nàng. Thuở xưa, anh nghĩ, một người đàn ông ngắm thân hình một phụ nữ và thấy nó gợi tình, thế là hết chuyện. Nhưng ngày nay không thể có tình yêu hay tình dục đơn thuần. Không có cảm xúc nào đơn thuần vì cái gì cũng lẫn lộn với sợ hãi và thù hận. Cuộc giao hợp của họ là một chiến thắng. Đó là một cú mạnh chống Đảng. Đó là một hành động chính trị.
"Mình có thể tới đây một lần nữa," Julia nói. "Thường thì chỗ ẩn nào cũng dùng được hai lần một cách an toàn. Nhưng không được trở lại trước một, hai tháng, dĩ nhiên."
Mới ngủ dậy xong, nàng đổi thái độ liền. Nàng đâm lanh lẹn, bận rộn, mặc quần áo vào người, buộc thắt lưng đỏ quanh bụng, và bắt đầu sắp xếp chi tiết cho chuyến về. Nhường cho nàng việc này là lẽ tất nhiên. Rõ ràng nàng có cái trí thông minh thực tế mà Winston thiếu, cùng một sự thông thuộc chốn quê quanh London góp nhặt sau vô số cuộc du hành tập thể. Con đường về mà nàng chỉ cho anh khác hẳn con đường anh mượn khi tới, và đưa anh đến một trạm tàu hỏa khác. "Chớ bao giờ đi với về cùng một lối," nàng nói như thể phát biểu một nguyên lý đại cương. Nàng sẽ rời bước trước, và Winston phải đợi nửa tiếng nữa mới đi theo nàng.
Nàng cho chàng biết một nơi hai người có thể gặp nhau khi tan sở, bốn giờ chiều tối sau. Đó là một con phố thuộc một khu nghèo, nơi có một phiên chợ họp ngoài trời, thông thường đông đảo và náo nhiệt. Nàng sẽ lảng vảng giữa sạp hàng, giả vờ kiếm dây buộc giầy hay chỉ khâu. Nếu nàng cho rằng không có gì trở ngại, nàng sẽ xịt mũi khi chàng lại gần; nếu không chàng phải phớt lờ qua mặt nàng. Nhưng nếu gặp may, giữa đám đông, hai người có thể nói chuyện an toàn với nhau chừng mười lăm phút và sắp xếp một bữa hẹn khác.
"Bây giờ em phải đi," nàng nói sau khi chàng đã thuộc lòng điều nàng dặn." Em phải về tới nhà vào mười chín giờ rưỡi. Em phải dành hai tiếng cho Liên Đoàn Thanh Niên Chống Dục Tính, phải phát truyền đơn hay chi khác cho chúng. Thế có khốn không ? Anh phủi người cho em một chút được không ? Em có cành khô nhỏ lẫn tóc không ? Anh chắc chứ ? Thôi, chào anh, anh yêu, chào anh !"
Nàng ôm choàng lấy chàng, hôn chàng như bão táp, rồi một lát sau nàng len lối qua cây non và biến dạng trong rừng không tiếng động. Đến giờ anh vẫn chưa biết tên họ và địa chỉ nàng. Tuy sao, biết cũng chẳng hơn gì, vì không thể tưởng tượng được rằng hai người có thể gặp nhau trong nhà hay trao đổi thư từ với nhau.
Số là họ không bao giờ trở lại chốn rừng thưa. Suốt tháng năm, họ chỉ kiếm được một cơ hội khác để thực sự ân ái. Chuyện xảy ra tại một chỗ ẩn khác do Julia biết, đó là tháp chuông một nhà thờ đổ nát tại một vùng quê bị bỏ bom nguyên tử ba mươi năm trước. Chỗ ẩn ấy tốt khi vào được tới nơi, nhưng đạt tới đó rất nguy hiểm. Ngoài ra họ chỉ gặp nhau trên đường phố, mỗi chiều tối tại một nơi khác nhau, và không bao giờ quá một nửa tiếng mỗi lần. Ở ngoài đường, biết cách, thường có thể nói chuyện được với nhau. Đương lúc đưa mình trên vỉa hè giữa đám đông, không hẳn sát cánh nhau và không bao giờ nhìn vào mặt nhau, họ đeo đuổi một câu chuyện lạ lùng, gián đoạn, bật tắt như đèn pha, vụt im lìm khi có một bộ đồng phục của Đảng lại gần hay ở kế cận một máy truyền hình, rồi bắt lại giữa một câu vài phút sau, rồi bị cắt ngang tới chỗ họ đã định trước là phải rời nhau, để rồi được tiếp tục gần như không cần mào đầu ngày hẹn sau. Julia tỏ ra rất thạo kiểu nói chuyện này, được nàng mệnh danh là "nói chuyện từng đợt". Nàng cũng giỏi lạ lùng lối nói không mấp môi. Chỉ có một lần trong gần một tháng hẹn hò đêm hôm, họ trao đổi được một nụ hôn. Họ đang lặng lẽ theo một ngõ ngang (Julia không bao giờ nói gì khi họ ra khỏi phố lớn), bỗng bùng lên một tiếng nổ điếc tai, đất văng tung, trời tối đặc, và Winston thấy mình nằm nghiêng, bầm sướt và khiếp sợ. Hẳn một trái bom lửa đã đổ xuống rất gần đây. Đột nhiên anh nhận ra khuôn mặt Julia cách anh vài phân, tái mét, trắng bạch như phấn. Đến môi nàng cũng trắng. Nàng chết rồi ! Anh ôm nàng vào lòng và thấy mình hôn lên một khuôn mặt ấm áp của người sống. Nhưng môi anh chạm phải một chất phấn. Mặt của hai người phủ đầy thạch cao.
Có những chiều tối họ tới nơi hẹn nhưng phải qua mặt nhau không một dấu hiệu, vì có đội tuần tra ở ngay góc đường hay máy trực thăng lượn trên đầu họ. Mà gặp nhau có kém nguy hơn, họ cũng vẫn khó tìm ra thì giờ để hò hẹn. Winston làm việc sáu mươi tiếng một tuần, Julia còn làm nhiều hơn nữa, và ngày nghỉ của họ thay đổi tùy theo sự dồn dập của công việc, không hay trùng nhau. Dù sao chăng nữa, Julia ít khi có một chiều tối hoàn toàn nhàn rỗi. Nàng dành nhiều thì giờ phát sợ cho sự tham dự các cuộc diễn văn hay biểu tình, cho sự phát văn liệu cho Liên Đoàn Thanh Niên Chống Dục Tính, cho sự sửa soạn cờ xí cho Tuần Lễ Hận Thù, cho sự quyên tiền cho phong trào tiết kiệm, và cho nhiều hoạt động đại loại. Làm vậy có lợi, nàng nói, đó là một cách ngụy trang. Có theo được qui tắc nhỏ, mới phá được qui tắc lớn. Nàng còn xúi Winston đầu tư một buổi chiều tối của anh bằng cách nhận một việc phụ liên quan đến đạn dược, được các Đảng viên sốt sắng tham gia. Thành thử, mỗi tuần một tối, Winston mất bốn tiếng chán ngắt ngồi vặn liền vào nhau mấy mẩu kim khí nhỏ, chắc hẳn là bộ phận của bom lửa, trong một xưởng tồi tàn, thiếu ánh sáng, ầm tiếng búa đập pha trộn inh tai với tiếng nhạc phát từ máy truyền hình.
Khi họ gặp nhau tại tháp nhà thờ, những lỗ hổng trong câu chuyện ngắt đoạn của họ được bù lấp. Bữa ấy là một buổi chiều sáng chói. Không khí trong căn phòng vuông nhỏ trên chuông nóng hãm, hôi xì mùi cứt chim bồ câu. Họ ngồi nói chuyện hàng giờ trên sàn gác bụi bậm, lát cành gỗ khô, thỉnh thoảng một trong hai người đứng dậy, liếc nhìn ra ngoài qua lỗ châu mai xem có ai tới không.
Julia lên hai mươi sáu tuổi. Nàng sống trong một cư xá với ba mươi cô gái khác ("Luôn luôn sặc mùi đàn bà ! Sao em ghét đàn bà thế !" nàng chua miệng), và việc làm của nàng, như chàng dự đoán, liên quan đến máy soạn truyện tại Cục Truyện. Nàng thích công việc của nàng, phần lớn gồm việc cho chạy và tiếp liệu một máy điện mạnh nhưng phức tạp. Nàng không "thông minh" nhưng ưa dùng đến tay và thành thạo máy móc. Nàng có thể tả cả tiến trình việc soạn truyện, từ chỉ thị tổng quát xuất phát từ Ủy Ban Kế Hoạch đến bản sửa cuối cùng của Toán Tái Biên. Nhưng nàng không để ý đến sản phẩm hoàn bị. Nàng nói "không ưa đọc mấy". Sách chỉ là một phẩm vật bắt buộc phải sản xuất, cũng như thịt muối hay dây giầy.
Nàng không có kỷ niệm gì trước những năm sáu mươi, và người duy nhất hay nói chuyện về thời trước Cách Mạng mà nàng biết là một người ông mất tích khi nàng lên tám. Hồi đi học nàng là đội trưởng trong Đoàn Gián Điệp và làm thư ký ban cho Liên Đoàn Thiếu Niên trước khi gia nhập Liên Đoàn Thanh Niên Chống Dục Tính. Nàng luôn luôn được coi là một phần tử ưu tú. Nàng còn được chọn để làm việc trong Ban Khiêu Dâm (một biểu hiện chắc chắn của tiếng tốt), là một tiểu ban của Cục Truyện chuyên soạn dâm thư rẻ tiền để cung cấp cho dân đen. Ban ấy được những người làm việc trong đó đặt tên là Chuồng Phân, nàng phê. Nàng làm một năm nơi đó, giúp việc soạn những tập sách nhỏ được đóng thành bộ có nhan đề như Chuyện giật gân hay Một đêm trong trường nữ sinh được thanh niên dân đen vụng trộm mua, tưởng mua vậy là hành động bất hợp pháp.
"Các sách đó ra sao ?" Winston tò mò hỏi.
"Ồ, nhảm nhí thảm hại. Chán ngắt à, thật đấy. Chỉ có sáu cốt truyện, được đem pha trộn quanh quẩn đôi chút. Dĩ nhiên em chỉ có phận sự với kính vạn hoa thôi. Em không bao giờ có chân trong Toán Tái Biên. Em không biết hành văn, cưng ạ — dù là văn cho thứ đó."
Anh ngạc nhiên khi hay rằng mọi nhân viên trong Ban Khiêu Dâm, trừ các trưởng ban, đều là thiếu nữ. Theo lý thuyết, đàn ông khó kiềm chế bản năng sinh dục hơn đàn bà, cho nên dễ có nguy bị nhiễm uế bởi những câu văn tục tĩu do họ sử dụng.
"Ngay phụ nữ đã có chồng, chúng cũng không muốn cho làm ở đó," nàng nói thêm. "Con gái luôn luôn được coi như trong trắng hơn. Thế nhưng ít nhất có một đứa không vậy là em đây."
Nàng có chuyện dan díu đầu tiên hồi mười sáu tuổi với một Đảng viên sáu mươi tuổi sau đó phải tự tử để khỏi bị bắt. "Thế cũng hay," Julia nói, "nếu không thế nào chúng cũng khiến hắn khai ra tên em". Kế sau nàng có nhiều tình nhân khác. Đời sống theo nàng rất giản dị. Mình muốn hưởng đời; "chúng", đây chỉ Đảng, muốn ngăn mình hưởng; mình ra sức phá lệ. Nàng có vẻ coi như đương nhiên "chúng" phải muốn cướp những thú vui của con người, cũng như con người phải muốn tránh sao khỏi bị bắt. Nàng thù ghét Đảng và thể hiện cái ghét đó bằng những danh từ sống sượng nhất, nhưng nàng không phê bình Đảng một cách tổng quát. Trừ phi nó đụng tới đời sống cá nhân của nàng, nàng không quan tâm đến chủ thuyết của Đảng. Winston nhận thấy nàng không bao giờ dùng danh từ Ngôn Mới ngoại trừ những chữ đã được thông dụng. Nàng không hề nghe nói tới Hội Tình Thân và không tin vào sự hiện hữu của nó. Nàng cho cuộc nổi loạn có tổ chức nào chống Đảng cũng ngu xuẩn, vì nó bó buộc thất bại. Khôn là phải vừa phá lệ vừa sống sót. Anh mơ hồ tự hỏi có bao nhiêu người khác giống nàng trong thế hệ trẻ — những người sống trong thế giới của Cách Mạng, không biết gì hơn, chấp nhận Đảng như một hiện tượng bất di bất dịch, như trời, không nổi loạn chống uy quyền của Đảng, chỉ đơn thuần thoát ly Đảng như thỏ chuồn chó.
Họ không bàn tới chuyện cưới nhau. Chuyện này quá xa vời, không đáng nghĩ tới. Không một Ủy ban nào dám chấp thuận cho hai người lấy nhau, ngay trong trường hợp vì lẽ nào đó, Katharine, vợ Winston, không còn vướng chân anh.
"Vợ anh, chị ấy như thế nào ?" Julia hỏi.
"Cô ta đầy ý tốt, em có biết danh từ Ngôn Mới ấy không ? Có nghĩa là chính thống tự nhiên, không thể có tư tưởng xấu."
"Không, em không biết danh từ đó, nhưng em biết mẫu người ấy, quá biết."
Anh bắt đầu kể cho nàng nghe cuộc đời có vợ của anh, nhưng lạ thay nàng dường như biết những đoạn chính của câu chuyện. Làm như nàng là nhân chứng hay người trong cuộc, nàng tả cho anh sự căng thẳng mình lại của Katharine mỗi khi anh đụng tới chị ta, cách Katharine vẫn có vẻ hết sức đẩy anh ra mặc dầu tay chị ôm chặt lấy anh. Với Julia anh không ngại ngùng nói về những chuyện đó: dù sao chăng nữa, Katharine đã hết là một kỷ niệm đau đớn từ lâu, chỉ còn là một kỷ niệm khó chịu.
"Anh có thể chịu đựng được tình cảnh chừa duy một điều," anh nói. Anh kể cho nàng cái nghi thức lãnh dục nhỏ mà Katharine bắt anh phải tuân theo mỗi tuần. "Cô ta bảo thế là — nhưng em không bao giờ đoán được."
"Bổn phận của chúng ta đối với Đảng," Julia nói nhanh.
"Sao em biết ?"
"Em cũng đã từng đi học, cưng ạ. Mỗi tháng một lần nữ sinh trên mười sáu tuổi được giảng về tình dục. Tại Phong Trào Thanh Niên cũng vậy. Chúng nhồi sọ con người ta hàng năm trời: Em dám bảo chúng thành công nhiều. Nhưng dĩ nhiên khó mà chắc, vì dân chúng đạo đức giả chết đi ấy."
Nàng bắt đầu nới rộng vấn đề. Với Julia, chuyện gì cũng xoay về sinh hoạt dục tình của chính nàng. Hễ dính dáng chút nào tới chuyện này, là nàng tỏ ra rất sáng suốt. Khác với Winston, nàng nắm được thâm ý của sự chặt chẽ về tình dục của Đảng. Đó không phải chỉ vì dục tính tạo ra một thế giới riêng biệt ngoài vòng kiểm soát của Đảng cần phải bị hủy diệt nếu được. Điều quan trọng hơn là sự thiếu thốn tình dục đưa đến sự cuồng loạn, một trạng thái được Đảng mong muốn vì dễ được cải biến thành cơn sốt chiến tranh hay lòng tôn thờ kẻ lãnh đạo. Nàng giảng như sau:
"Khi mình làm tình, mình dùng hết năng lực; sau đó mình cảm thấy sung sướng chẳng màng gì tới khác. Chúng muốn mình lúc nào cũng phải sôi sục nghị lực. Các cái trò đi lên đi xuống, vỗ tay vẫy cờ chỉ là giới tính biến chua. Nếu mình sung sướng trong lòng, mình đâu cần tự kích thích với Bác, với Kế hoạch ba năm, với hai phút Hận Thù hay những trò chết thối khác của chúng ?"
Nhận xét này rất đúng, anh nghĩ. Giữa lòng trinh tiết và sự chính thống chính trị có một mối quan hệ mật thiết trực tiếp. Vì có cách nào giữ được đúng cường độ cho lòng sợ hãi, nỗi căm thù cũng như trí cuồng tín mà Đảng đòi hỏi nơi Đảng viên, ngoài cách khóa lại một bản năng mạnh mẽ để rồi dùng nó làm động lực ? Xung động tình dục nguy hiểm đối với Đảng, nên Đảng xoay chuyển nó theo hướng có lợi cho Đảng. Chúng chơi trò tương tự với tình gia đình. Gia đình thực ra không thể loại được, vậy nên dân chúng được khuyến khích yêu thương con cái, gần theo lối xưa. Mặt khác, con cái được triệt để xúi dục chống lại cha mẹ và dạy phải rình mò và báo cáo những sự trệch đường lối của cha mẹ. Gia đình đâm trở thành một chi nhánh của Cảnh Sát Tư Tưởng. Đấy là một mẹo làm cho ai cũng bị một lũ chỉ điểm thân cận vây quanh đêm ngày.
Hốt nhiên, anh lại nghĩ tới Katharine. Katharine chắc chắn đã tố cáo anh với Cảnh Sát Tư Tưởng rồi, nếu nàng không quá ngu xuẩn không dò ra tính bất chính thống của các quan điểm của anh. Nhưng cái khiến anh nhớ đến nàng lúc này là khí chiều nóng nực làm trán anh đầm đìa mồ hôi. Anh đem kể cho Julia một chuyện xảy ra, hay đúng hơn xuýt xảy ra, vào một buổi chiều hạ nực nội khác, mười một năm về trước.
Lúc đó vào khoảng ba bốn tháng sau khi anh và Katharine lấy nhau. Hai người lạc đường nhân một chuyến du hành tập thể đâu đó ở vùng Kent. Họ chỉ lẽo đẽo theo sau những người khác có vài phút, nhưng họ rẽ lầm lối và chốc sau thấy mình bị chặn ngang bởi ven một công trường đá vôi cũ. Đó là một sườn đồi cao chừng mười, hai mươi thước, lổm chổm đá bên dưới. Không có ai để hỏi đường. Khi hiểu rằng mình lạc đường, Katharine đâm ra bồn chồn khó chịu. Xa đám du hành ồn ào dù chỉ một lát đủ làm cho nàng có cảm tưởng mình hành động xấu xa. Nàng muốn quay nhanh trở lại con đường mới theo rồi tìm lối theo hướng khác. Nhưng lúc ấy Winston để ý thấy vài cụm trân châu mọc trên khe vách đá dưới chân họ. Một cụm có hai mầu, đỏ thắm và đỏ gạch, hình như mọc trên cùng một rễ. Anh chưa bao giờ thấy một chuyện như vậy trước đây, nên gọi Katharine lại xem.
"Coi kìa, Katharine ! Nhìn khóm hoa kia ! Cái cụm ở dưới chân mình. Em có thấy nó có hai mầu không ?"
Nàng đã quay đi rồi, nhưng cũng miễn cưỡng trở lại chốc lát. Nàng còn cúi mặt xuống vách đá để nhìn vào chỗ anh chỉ. Anh đứng sau lưng nàng một chút, tay đặt trên eo nàng để đỡ cho nàng đứng thẳng. Lúc đó anh bỗng nhận thấy sự hoàn toàn trơ trọi của hai người. Không một sinh vật nào xung quanh, không một nhánh lá dao động, không đến cả một con chim thức giấc. Tại một chốn như thế này, mối nguy có máy ghi âm rất nhỏ, mà có máy ghi âm chăng nữa nó cũng chỉ ghi được tiếng động thôi. Lúc đó vào giờ ngủ trưa nóng nhất. Mặt trời cháy rực trên đầu họ, mồ hôi đổ giọt trên mặt Winston. Và trong óc anh nảy ra ý nghĩ...
"Sao anh không đẩy mạnh chị ấy một cú ?" Julia nói. "Nếu là anh thì em đã làm thế rồi."
"Đúng, chắc em đã làm vậy. Anh cũng thế, nếu anh giống như anh bây giờ. Hay có thể anh cũng đã thế — anh không chắc nữa."
"Anh có tiếc đã không làm vậy không ?"
"Có. Xét cho cùng, anh có tiếc."
Họ đang ngồi cạnh nhau trên sàn bụi bậm. Anh kéo nàng sát lại gần anh hơn. Đầu nàng đặt trên vai anh, mùi thơm của tóc nàng át hẳn mùi cứt chim bồ câu. Nàng quá trẻ, anh nghĩ, nàng còn trông đợi nơi đời sống, nàng không hiểu rằng đẩy một chướng ngại nhân xuống vách đá không giải quyết gì.
"Thật ra, làm hay không làm vậy cũng như nhau," anh nói.
"Thế tại sao anh tiếc không làm vậy ?"
"Chỉ vì anh thích có một hành động tích cực hơn tiêu cực. Trong ván bài đời, mình không thắng được. Có những sự thất bại này hay hơn sự thất bại khác, thế thôi."
Anh cảm thấy vai nàng nhún lên phản đối. Nàng luôn luôn nói ngược anh khi anh nói vậy. Nàng không chấp nhận như một định luật của tạo hóa sự cá nhân bao giờ cũng thất bại. Có thể nói, nàng ý thức nàng bị kết án, trước sau gì Cảnh Sát Tư Tưởng cũng bắt giết nàng, nhưng trong một phần tâm tư nàng nàng tin rằng sao đó, con người có thể xây dựng được một thế giới thầm kín để thỏa lòng sống trong đó. Chỉ cần có may mắn, mưu mô và bạo dạn. Nàng không hiểu rằng hạnh phúc là một thứ không hề có, sự đắc thắng duy nhất nằm trong một tương lai xa xôi, rất lâu sau khi mình đã chết, khi mình bắt đầu tuyên chiến với Đảng nên coi mình như một thây ma là hơn.
"Chúng ta là kẻ chết," anh nói.
"Chúng ta chưa chết," Julia bình dị chữa.
"Chỉ thể xác chúng ta còn thôi. Cho còn sáu tháng, một năm — năm năm nữa đi. Anh sợ chết. Em còn trẻ nên có lẽ em còn sợ hơn anh. Dĩ nhiên chúng ta sẽ hết sức đẩy lui cái chết. Nhưng làm thế chẳng thay đổi gì mấy. Con người còn giữ tính chất con người, cái chết với cái sống như một."
"Ồ, bậy nào ! Mới đây anh ngủ với ai, với em hay một thây ma ? Anh không vui sống sao ? Anh không thích cảm giác: đây là tôi, đây là tay tôi, đây là chân tôi, tôi có thật, tôi chắc nịch, tôi sống ! hay sao ? Anh không thích thế này à ?"
Nàng xoay người lại và áp ngực vào anh. Anh cảm thấy ngực nàng chín chắc qua bộ áo liền quần của nàng. Thân hình nàng hình như đổ ra một ít sức trẻ mạnh vào người anh.
"Có, anh thích chứ."
"Vậy thì anh ngưng nói chuyện chết chóc đi. Nghe này cưng, mình phải ấn định cuộc hẹn sau. Mình có thể trở lại chỗ trong rừng. Mình để yên chỗ ấy khá lâu rồi. Nhưng lần này anh phải tới đó bằng lối khác. Em trù tính hết cho anh. Anh lấy tàu — nhưng coi, để em vẽ ra cho anh."
Và theo tính thực tiễn của nàng, nàng gạt bụi lại thành một đống vuông, rồi với một cành khô nhỏ rút từ ổ chim câu, nàng bắt đầu họa một bản đồ trên sàn gác.
Winston nhìn quanh căn phòng ở trên gác cửa tiệm ông Charrington. Cạnh cửa sổ, cái giường kếch sù đã được làm sẵn với khăn phủ rách và gối ống không áo. Chiếc đồng hồ cổ xưa với cái mặt chia làm mười hai giờ kêu tích tắc trên hòm sưởi. Trong góc, trên chiếc bàn gấp, cái chặn giấy thủy tinh được anh mua bữa trước lóe sáng nhẹ dưới bóng mờ.
Trong chỗ chắn lò sưởi có một cái bếp dầu bằng thiếc rập, một cái xoong và hai cái tách do ông Charrington cấp. Winston châm mỏ đốt, đặt xoong nước lên đun. Anh có mang theo một bao thư đầy cà phê Chiến Thắng và vài thẻ đường tinh. Kim đồng hồ chỉ mười giờ rưỡi: thực ra là mười chín giờ hai mươi. Nàng sẽ đến vào lúc mười chín giờ rưỡi.
Điên rồ, điên rồ, tim anh không ngưng bảo anh vậy: một sự điên rồ ý thức, vô cớ, tự sát. Trong các tội trạng một Đảng viên có thể phạm phải, tội này khó giấu diếm nhất. Thực thì ý tưởng đã lởn vởn đầu tiên trong óc anh dưới lốt hình ảnh của cái chặn giấy thủy tinh chiếu trên mặt bàn gấp. Như anh dự đoán, ông Charrington không làm khó dễ trong việc cho thuê buồng. Ông ta vui mừng rõ rệt trước mấy đôn lời kiếm được. Và ông ta không tỏ vẻ khó chịu hay đồng tình thô bỉ khi hiểu Winston muốn dùng căn phòng làm nơi hẹn hò ân ái. Ngược lại, ông ta nhìn ra khoảng trung và nói chuyện xã giao, một cách ý nhị đến nỗi anh có cảm tưởng ông ta gần như vô hình. Sự đơn mật, ông ta nói, là một điều quý giá. Ai cũng muốn có một nơi để thỉnh thoảng được ở yên một mình. Và khi ai kiếm được một nơi chốn như vậy, lẽ lịch sự thông thường bắt người khác biết được phải giữ kín sự biết đó. Ông ta còn nói thêm, và khi nói vậy ông ta gần như thoát trần, căn nhà có hai lối ra vào, trong đó có một lối thông qua sân sau dẫn tới một ngõ hẻm.
Dưới cửa sổ có một người đang hát. Mặt trời tháng sáu vẫn còn cao trên không và ngoài sân đầy nắng ở dưới, một người đàn bà khổng lồ, chắc như cột Rô Man, có cánh tay đỏ vạm vỡ và một chiếc tạp dề vải buộc bụng, đang loạng choạng giữa một chậu giặt và một dây quần áo, phơi lên một loạt thứ trắng vuông được Winston nhận ra là tã con nít. Mỗi khi miệng không ngậm kẹp áo, bà ta hát lên bằng một giọng nữ trầm mạnh:
Đó chỉ là một giấc mơ vô vọng,
Thoáng qua như một buổi xuân,
Một cái nhìn, một lời nói, khuấy bao mơ mộng !
Cuỗm xa đi mất trái tim tôi !
Bài hát này lan tràn Luân Đôn mấy tuần nay. Đó là một trong vô số bản hát tương tự do một tiểu ban thuộc Cục Ca Nhạc phát hành cho dân đen. Lời của những bài đó được soạn trên một khí cụ gọi là máy làm thơ, không cần sự can thiệp của một người nào. Nhưng người đàn bà hát với một giọng du dương đến nỗi cái khúc ngớ ngẩn dễ sợ biến thành một bản ca hợp tai. Anh nghe thấy cả tiếng hát của người đàn bà lẫn tiếng giầy bà ta cào trên đá lát, tiếng la ó của trẻ con ngoài phố cùng tiếng ầm nhẹ của xe cộ ngoài xa đâu đó, mặc vậy căn phòng hình như yên tịnh lạ, nhờ sự vắng mặt của máy truyền hình.
Điên rồ, điên rồ, điên rồ ! anh lại nghĩ. Không thể tưởng tưởng được rằng hai người có thể tới lui chốn này hơn vài tuần mà không bị bắt. Nhưng sự thèm muốn có một chỗ ẩn thực sự của họ, ngay trong nhà và ở gần, quá lớn đối với họ. Một thời gian sau lần gặp nhau tại gác chuông nhà thờ, họ không sắp xếp được một cuộc hẹn nào. Giờ làm việc bị tăng khắc nghiệt để chuẩn bị Tuần Lễ Hận Thù. Còn hơn một tháng nữa mới tới tuần lễ này, nhưng công vụ sửa soạn đồ sộ phức tạp mà nó đòi hỏi đổ thêm việc vào đầu mọi người. Cuối cùng hai người sắp được một buổi chiều rảnh cùng một ngày. Họ đồng tình trở lại chỗ rừng thưa. Tới hôm trước ngày hẹn, họ gặp nhau một lát ngoài phố. Như thường lệ, Winston chỉ hé nhìn Julia khi hai người đưa mình về phía nhau, nhưng qua cái liếc đó anh thấy nàng có vẻ xanh xao hơn bình thường.
"Hỏng rồi," nàng thì thầm khi nàng thấy có thể cất tiếng an toàn. "Em muốn nói ngày mai ấy."
"Sao vậy ?"
"Chiều mai. Em không thể lại được."
"Sao vậy ?"
"Ồ, lý do thường lệ. Lần này bắt đầu sớm hơn."
Trong một lúc, anh nổi cơn phẫn nộ. Trong tháng giao du với nàng, tình dục của anh đối với nàng đã đổi chất. Hồi đầu có ít thú vui nhục dục trong đó. Sự làm tình đầu tiên của họ chỉ là một hành động của ý chí. Nhưng sau lần thứ hai, nó khác hẳn. Mùi tóc nàng, vị mồm nàng, xúc giác về da thịt nàng hình như ăn vào người anh hay vào không khí quanh anh. Nàng đã trở thành một nhu cầu thể xác, một thứ không những anh cần mà anh còn cảm thấy có quyền có. Khi nàng nói nàng không thể tới nơi hẹn được, anh có cảm tưởng nàng lừa dối anh. Nhưng đúng lúc đó, đám đông ép họ lại gần nhau và bàn tay họ vô tình chạm nhau. Nàng bóp nhanh đầu ngón tay anh, cái bóp có vẻ như không phải gợi tình dục mà tình thương của anh. Anh chợt nghĩ rằng khi sống với một phụ nữ, sự thất vọng đặc biệt này là một sự kiện bình thường, định kỳ; và một sự trìu mến thắm thiết như anh chưa từng cảm thấy trước đây đối với nàng, bỗng xâm nhập anh. Anh ước ao hai người là một cặp vợ chồng lấy nhau đã được mười năm. Anh ước ao anh đang đi chơi ngoài phố với nàng như bây giờ, nhưng một cách công khai, không sợ hãi, vừa đi vừa nói chuyện tầm phào và mua hàng lặt vặt cho gia đình. Anh ao ước nhất có một chỗ cho hai người có thể ở một mình với nhau, không có cảm tưởng bắt buộc phải làm tình mỗi khi gặp nhau. Thực ra, không phải lúc đó mà ngày hôm sau anh mới nghĩ tới việc thuê căn phòng của ông Charrington. Khi anh nêu ý đó ra với Julia, nàng chấp thuận một cách nhanh nhẩu bất ngờ. Cả hai đều biết đó là một sự điên khùng. Như thể họ cố ý tiến sát mồ họ. Ngồi đợi trên mép giường, anh lại nghĩ tới hầm Bộ Tình Yêu. Lạ sao cái ấn tượng ghê rợn tiền định ấy cứ ẩn hiện trong tâm thức anh. Kìa nó đó, ấn định trong tương lai, dẫn theo cái chết, chắc nịch như 99 đứng trước 100. Không thể tránh nó được, nhưng may ra hoãn được nó: nhưng mặc vậy, có nhiều lúc bằng một hành động hữu ý tự nguyện con người vẫn chọn rút ngắn quãng thời hoãn đó.
Anh nghĩ tới đây thì có tiếng chân bước nhanh trên cầu thang. Julia xông vào phòng. Nàng xách một túi dụng cụ bằng vải thô nâu như anh thỉnh thoảng thấy nàng xách qua lại trong Bộ. Anh nhào ra ôm lấy nàng vào lòng, nhưng nàng thoát người ra khá vội vàng, có phần vì nàng còn cầm túi dụng cụ.
"Nửa giây nữa nào," nàng nói. "Để em cho anh xem em mang gì đến hãng. Anh có đem một ít cà phê Chiến Thắng thổ tả tới không ? Em cho là có. Anh có thể bỏ nó lại, vì mình sẽ không cần tới nó. Coi này."
Nàng quỳ xuống, mở rộng túi ra và lôi ra một vài cái chìa vặn cùng một cái chìa vít chất trên mặt túi. Ở dưới là một số gói bọc giấy gọn ghẽ. Gói thứ nhất nàng đưa cho Winston có một vẻ lạ lùng tuy hơi quen thuộc. Nó đầy một chất nặng giống như cát, vụn tan mỗi khi chạm vào.
"Có phải đường đây không ?" anh hỏi.
"Đường thật. Đường, không phải đường tinh. Và đây là một ổ bánh mì — đúng là bánh mì trắng chứ không phải cái hàng chết tiệt của tụi mình đâu — và đây là một lọ mứt nhỏ. Đây nữa là một hộp sữa — nhưng coi này ! Cái này thì em thật lấy làm hãnh diện. Em phải lấy ít vải bọc nó vì —"
Nhưng nàng không cần cho chàng biết tại sao nàng phải bọc nó lại. Mùi thơm đã tỏa ra đầy phòng, một mùi thơm dồi dào ấm áp như xuất phát từ thời thơ ấu của anh, ngày nay cũng có khi bắt đón được, lúc bay ra từ một ngõ hẻm trước khi cửa đập mạnh, lúc phảng phất một cách huyền bí giữa đường phố đông người, được hít một lát sau tan biến mất.
"Đây là cà phê," anh thì thầm, "cà phê thật."
"Đó là cà phê của Đảng Trong. Có cả một ký đây này," nàng nói.
"Làm sao em kiếm ra các thứ này ?"
"Toàn là thực phẩm của Đảng Trong. Không có gì, không gì mà lũ lợn đó không có. Nhưng dĩ nhiên, bồi bàn, đầy tớ với dân chúng ăn cắp ra, mà coi này, em có cả một gói trà nhỏ nữa."
Winston đã ngồi xổm xuống cạnh nàng. Anh xé một góc gói ra.
"Đây là trà thật. Không phải lá dâu."
"Gần đây có một lô trà xuất hiện. Chúng mới chiếm được Ấn Độ hay sao đó," nàng mơ hồ nói. " Nhưng nghe này, cưng. Em muốn anh xây lưng lại em độ ba phút. Anh ra ngồi bên kia mép giường. Chớ có lại gần cửa sổ. Và chớ ngoảnh mặt lại trước khi em bảo anh."
Winston lơ đãng nhìn qua màn the. Ở dưới sân người đàn bà có cánh tay đỏ vẫn đi đi lại lại từ chậu giặt tới dây phơi quần áo. Bà ta rút thêm hai cái kẹp ra khỏi miệng rồi hát lên một cách thắm thiết:
Họ nói thời gian hàn mọi vết,
Họ nói ta luôn luôn quên hết;
Nhưng tháng năm tiếng cười với nước mắt
Vẫn quặn đau mãi mãi phím lòng ta.
Ra chiều bà ta thuộc lòng bài hát lẩm cẩm. Giọng bà ta bay bổng lên cao với khí hạ êm dịu, thật du dương nhưng đượm một vẻ buồn mãn nguyện. Có cảm tưởng như bà ta sẽ hoàn toàn vừa lòng nếu buổi chiều tối tháng sáu này bất tận, và nếu số tã vô hạn để bà ta đứng đây muôn ngàn năm phơi tã với hát lảm nhảm. Anh đột thấy lạ rằng anh chưa bao giờ được nghe một Đảng viên tự nhiên ca hát một mình. Hành động đó sẽ bị coi như hơi bất chính thống, như một sự kỳ quặc nguy hiểm, tương tự như sự nói chuyện một mình. Có lẽ chỉ khi nào dân chúng tới mức gần chết đói, họ mới có lý do để hát.
"Anh có thể quay lại được rồi," Julia nói.
Anh ngoảnh mặt lại và trong một giây anh suýt không nhận ra nàng. Thật ra anh tưởng sẽ thấy nàng lõa thể. Nhưng nàng không lõa thể. Sự biến hóa còn bất ngờ hơn thế nữa. Nàng đã vẽ mặt.
Chắc nàng đã lẻn vào một tiệm nào đó trong khu dân đen và đã mua cho mình một bộ son phấn đầy đủ. Môi nàng được tô đỏ sẫm, má nàng được đánh hồng và mũi nàng được điểm phấn lên; có cả một chút chất gì dưới mắt làm cho mắt sáng hơn. Nàng điểm trang không khéo mấy, nhưng chuẩn tắc của Winston về vấn đề này không cao lắm.
Trước đây anh chưa bao giờ thấy hay tưởng tượng ra một nữ Đảng viên với bộ mặt chát son phấn. Sự tăng sắc của nàng làm anh giật mình. Với vài vệt màu đúng chỗ, nàng trở thành không những xinh đẹp hơn nhiều, mà trên hết còn có nữ tính hơn nhiều. Mái tóc ngắn và bộ áo liền quần trẻ trung chỉ gia tăng tác hiệu đó. Khi anh ôm nàng vào lòng một luồng mùi hoa tím trút vào mũi anh. Anh liên tưởng đến một cảnh tối mờ trong hầm bếp và một miệng đàn bà hang hốc. Bà ta cũng dùng thứ nước hoa này, nhưng hiện điều đó không quan hệ.
"Cả nước hoa nữa !" anh nói.
"Phải, cả nước hoa nữa đó, cưng. Và anh có biết em sẽ làm gì nay mai không ? Em sẽ kiếm ra đâu đó một bộ đồ đàn bà thực sự, rồi mặc nó vào thay vì cái quần chết tiệt này. Em sẽ đeo bí tất lụa và đi giầy cao gót ! Trong buồng này em sẽ là một thiếu phụ chứ không phải là một đồng chí Đảng."
Họ vứt tung quần áo và leo lên cái giường to lớn bằng gỗ gụ. Đây là lần đầu tiên anh cởi truồng trước mặt nàng. Cho tới bây giờ anh quá xấu hổ vì tấm thân xanh còm của anh với tĩnh mạch trướng lồi trên bắp chân và vết khử mầu nơi mắt cá. Giường không có khăn trải, nhưng tấm khăn phủ dưới người họ sờn mịn, và kích thước cũng như đàn tính của giường làm cả hai ngạc nhiên. "Chắc nó đầy rệp, nhưng thây kệ," Julia nói. Ngày nay, chẳng thấy đâu có giường hai người, trừ phi tại nhà dân đen. Winston đã được thỉnh thoảng ngủ trong một cái giường như vậy hồi thiếu thời. Nhớ lại thế nào, Julia cũng thấy mình chưa được nằm trong đó trước đây bao giờ.
Chẳng bao lâu họ thiếp đi một giấc ngắn. Khi Winston tỉnh dậy, kim đồng hồ đã quay gần tới số chín. Anh không đụng đậy vì Julia còn ngủ gối đầu trên tay anh. Phần lớn son phấn của nàng đã chuyển sang mặt anh hay gối ống, nhưng một vết son đỏ nhẹ vẫn làm nổi bật nét đẹp của gò má nàng. Một tia nắng xế chiều rớt ngang chân giường, chiếu sáng lò sưởi nơi xoong nước đang sôi sùng sục. Dưới sân, người đàn bà đã ngưng hát, nhưng tiếng kêu của trẻ con vẫn dạt vào từ ngoài phố. Anh mơ hồ tự hỏi, nằm trên giường như thế này, trong khí ấm áp của một buổi chiều hạ, một người đàn ông với một người đàn bà lõa thể, làm tình với nhau khi hứng, nói chuyện với nhau về điều muốn nói, không cảm thấy bắt buộc phải dậy, chỉ nằm đó nghe tiếng an tịnh bên ngoài, liệu trong quá khứ đã bị hủy diệt, một sự như vậy có là một kinh nghiệm bình thường không ? Chắc không bao giờ có thời điều đó được coi như chuyện thường. Julia tỉnh giấc, rụi mắt và nhắc người trên khuỷu tay nhìn vào bếp dầu.
"Nước cạn mất một nửa rồi," nàng nói. " Để em dậy làm một ít cà phê. Mình còn một giờ nữa. Điện khu nhà anh bị cúp vào giờ nào ?"
"Hai mươi ba giờ rưỡi."
"Ở cư xá em họ cúp vào lúc hai mươi ba giờ. Nhưng phải về sớm hơn vì — Ê ! Cút đi, đồ súc sinh gớm ghiếc !"
Nàng bỗng xoắn người lại trên giường, vồ lấy một chiếc giầy trên sàn gác ném mạnh vào góc phòng, cánh tay tráng kiện bật như lò so, hệt như anh thấy nàng ném quyển tự vị vào Goldstein, buổi sáng trước, trong hai phút Hận Thù.
"Cái gì vậy ?" anh ngạc nhiên hỏi.
"Một con chuột. Em thấy nó thò cái mõm quỷ của nó ra ngoài bản gỗ bọc tường. Dưới đó có một lỗ hổng. Gì thì em cũng làm cho nó một phen bở vía."
"Chuột !" Winston lẩm bẩm. "Trong căn phòng này !"
"Đâu chẳng có chúng," Julia thản nhiên vừa nói vừa nằm xuống trở lại. "Tại cư xá em chúng ở ngay trong bếp. Có nhiều khu Luân Đôn đầy nhúc chuột. Anh có biết chúng tấn công con nít không ? Thật đó, ở vài phố, các bà không dám để trẻ con một mình tới hai phút. Dữ là cái giống to con, mầu nâu ấy. Gớm nhất là cái của quỷ ấy bao giờ cũng —"
"Đừng nói tiếp nữa !". Winston ngắt, mắt nhắm chặt.
"Cưng ơi là cưng ! Mặt anh tái mét à. Sao thế ? Bộ chúng làm anh buồn nôn ư ?"
"Khắp thế giới cái khủng khiếp nhất — một con chuột !"
Nàng ép người vào anh và vòng tay ôm anh như để làm anh vững lòng nhờ khí nóng của thân thể nàng. Anh không mở mắt ra ngay. Trong vài lát anh có cảm tưởng trở về cơn ác mộng vẫn thỉnh thoảng ám ảnh đời anh. Nó luôn luôn diễn ra tương tự. Anh đứng trước một bức tường đen tối, phía bên kia có một vật ngoài sức chịu đựng, một vật quá hãi hùng không thể chạm mặt được. Trong giấc mơ, cảm tưởng sâu đậm nhất của anh bao giờ cũng là sự tự dối lòng, vì thực ra anh biết rõ cái gì nấp sau bức tường đen. Nếu cố gắng chí tử, làm như móc một mẩu óc mình ra, anh có thể lôi vật đó ra ngoài ánh sáng. Luôn luôn khi tỉnh giấc, anh không khám phá được ra vật đó là gì: nhưng có thể nói là nó dính dáng tới điều Julia đang nói khi anh ngắt lời nàng.
"Anh xin lỗi em," anh nói. "Không có gì cả. Anh không thích chuột, thế thôi."
"Đừng phiền, cưng, mình sẽ không để cho lũ quỷ đó phá ở đây. Em sẽ bịt cái lỗ kia với ít rẻ trước khi mình ra về. Lần sau tới đây em sẽ mang một ít thạch cao bít kín nó lại."
Chửa chi chốc kinh hoảng đen tối đã có phần bị quên lãng. Hơi sượng mình, Winston ngồi dựa lưng vào đầu giường. Julia ra khỏi giường, mặc bộ áo liền quần vào rồi đi pha cà phê. Mùi thơm thoát ra từ xoong mạnh và kích thích đến nỗi họ phải đóng cửa sổ lại kẻo có người ở ngoài để ý rồi đâm tò mò. Điều thích thú hơn vị cà phê là cái thể chất sánh mịn của nó do đường gây ra, một cảm giác mà Winston đã gần như quên mất sau bao năm dùng đường tinh. Một tay đút túi quần, một tay cầm một khúc bánh mì giăm bông, Julia rảo bước quanh phòng, lơ đãng nhìn vào kệ sách, chỉ cách sửa chữa hay nhất cái bàn gấp, ném mình vào chiếc ghế bành rách xem nó có tiện khoái không, ngắm nghía cái đồng hồ hai mươi tư tiếng vô nghĩa với một điệu đùa bỡn khoan dung. Nàng mang cái chặn giấy thủy tinh tới giường để ngắm nó dưới nhiều ánh sáng hơn. Anh nhấc nó lên khỏi tay nàng, bị thôi miên như lúc đầu bởi vẻ dịu như nước mưa của thủy tinh.
"Theo anh, cái này là gì vậy ?" Julia hỏi.
"Anh cho nó chẳng là vật gì cả — Anh muốn nói, anh nghĩ nó chẳng bao giờ cốt dùng vào việc gì. Đó là điều anh thích nơi nó. Nó là một mảnh lịch sử chúng đã quên ngụy tạo. Nó là một mẩu tin xuất phát từ trăm năm trước nếu mình biết cách đọc nó."
"Còn tấm tranh kia ?" — nàng hất mặt về phía bức tranh khắc bên kia tường — "nó có được một thế kỷ không ?"
"Hơn nữa. Dám hai thế kỷ lắm. Chẳng biết chừng. Ngày nay, không thể phát giác ra tuổi tác của bất cứ vật gì."
Nàng đi lại phía bức tranh để ngắm kỹ nó. " Đây là chỗ cái con quỷ kia thò mõm ra," nàng vừa nói vừa đá vào tấm bản gỗ ở ngay dưới tranh. "Nơi này là nơi nào nhỉ ? Em đã thấy nó đâu đó trước đây rồi."
"Đó là một nhà thờ, hay ít nhất nó từng là vậy. Lấy tên Thánh Clement Danes". Đoạn bài hát mà ông Charrington dạy anh hiện lại trong óc anh, và anh nói thêm với phần luyến tiếc: "Cam với chanh, chuông Thánh Clement reo ".
Trước sự ngạc nhiên của anh, nàng tiếp lời:
Anh nợ tôi ba xu, chuông Thánh Martin reo,
Khi nào anh trả tôi ? Chuông Già Bailey reo —
"Em không nhớ sau câu đó là gì. Nhưng dầu sao, em nhớ bài này tận cùng bằng: Đây là nến để đưa anh đi ngủ, đây là dao để chặt cái đầu anh."
Y như hai nửa phần chữ tiếp ký. Phải có một câu khác sau "Chuông Già Bailey". May ra nặn được nó khỏi ký ức ông Charrington nếu khéo khích lệ ông ta.
"Ai dạy em thế ?" anh hỏi.
"Ông em. Ông thường hát bài ấy cho em khi em còn nhỏ. Ông đã bị hóa hơi khi em lên tám — dù sao chăng nữa, ông mất tích. Không hiểu chanh là gì nhỉ ?" nàng bất nhất nói thêm. "Em đã được thấy cam. Đó là một thứ quả vàng tròn, có vỏ dày."
"Anh còn nhớ quả chanh," Winston nói. "Đó là một hàng rất thường vào những năm năm mươi. Nó chua đến nỗi ngửi nó thôi cũng thấy ê răng."
"Em cuộc tấm hình này có rệp đằng sau," Julia nói. " Sẽ có ngày em tháo nó xuống lau cho thật sạch. Em ước chừng đã tới giờ mình phải đi. Em phải rửa cho hết son phấn đã. Ngại ghê ! Sau thì em sẽ chùi mặt cho anh khỏi vết son."
Winston đợi vài phút nữa mới dậy. Căn phòng sầm tối. Anh quay mình về phía ánh sáng, nằm nhìn cái chặn giấy thủy tinh. Điều vô cùng thú vị không phải là mảnh san hô mà chính là cái mặt trong của thủy tinh. Nó sâu thẳm làm sao, thế mà nó lại gần trong suốt như không khí. Làm như thể mặt thủy tinh là vòm trời, bao gồm một thế giới nhỏ bé với đầy đủ khí quyển. Anh có cảm tưởng anh có thể vào trong đó, và thực sự anh đang ở trong đó cùng cái giường gỗ gụ, cái bàn gấp, cái đồng hồ và tấm tranh khắc cùng chính cái chặn giấy. Cái chặn giấy là căn phòng anh đang ở, và miếng san hô là cuộc đời Julia với cuộc đời anh được đóng chặt kiểu như muôn kiếp trong lòng thủy tinh.
Syme đã biến mất. Một buổi sáng anh không đến sở: vài người không biết nghĩ bình phẩm sự vắng mặt của anh. Ngày hôm sau không còn ai nhắc tới anh. Ngày thứ ba Winston ra tiền sảnh thuộc Cục Văn Khố xem bảng thông cáo. Một bản bố cáo kê danh sách thành phần Ủy Ban Cờ Tướng trong đó vẫn có Syme. Tờ bố cáo coi gần giống hệt trước — không có gì bị gạch — nhưng ngắn hơn một tên. Thế là đủ. Syme đã hết sống: anh không bao giờ sống trên đời.
Trời hừng nóng. Trong trận đồ Bộ, các phòng không cửa sổ được điều hòa không khí vẫn giữ nhiệt độ bình thường, nhưng bên ngoài, đá lát đốt rát chân và mùi hôi trong tàu hầm vào giờ nghẹt thật gớm. Việc chuẩn bị Tuần Lễ Hận Thù đương lúc tột độ, nhân viên các Bộ phải làm việc quá giờ. Các đám rước, phiên họp, duyệt binh, diễn văn, hình sáp, triển lãm, phim ảnh, chương trình truyền hình, việc nào cũng cần được tổ chức; phải dựng gian hàng, đắp hình nộm, đề biểu ngữ, viết bài ca, phao tin đồn, mạo hình ảnh. Đơn vị của Julia trong Cục Truyện được cất việc sản xuất truyện dài và dồn dập xuất bản một loạt văn đả kích tàn bạo. Winston, ngoài việc thường lệ, mất rất nhiều thì giờ xem lại các tập Thời Báo cũ để sửa sai hay tô điểm những tin tức sẽ được nhắc tới trong các bài diễn văn. Đêm khuya, khi đám dân đen ồn ào lũ lượt dạo phố, thành phố có vẻ bồn chồn kỳ lạ. Bom lửa đổ xuống thường hơn bao giờ hết, và thỉnh thoảng ngoài xa tít có tiếng nổ to tát không ai giải thích được xuôi nên nhiều tin đồn hoang dại.
Bản nhạc mới sẽ được dùng làm bài ca chủ đề của Tuần Lễ Hận Thù (được gọi là Hận ca) đã được soạn xong và không ngưng phát thanh trên máy truyền hình. Nó có một điệu sủa man dại, không thể được gọi hẳn là nhạc, nhưng giống tiếng trống đánh. Gào bởi hàng trăm giọng cùng nhịp với tiếng chân đi ình ịch, nó thật hãi hùng. Dân đen say mê bản đó, và nửa đêm trên đường phố nó cạnh tranh với bản "Đó là một giấc mơ vô vọng" vẫn được ưa chuộng. Con nhà Parsons chơi bản ấy vào mọi giờ ngày đêm trên lược hay giấy vệ sinh, không chịu đựng nổi. Buổi chiều tối của Winston bận rộn hơn bao giờ. Các toán tình nguyện do Parsons tổ chức sắp sửa phố cho Tuần Lễ Hận Thù, họ khâu cờ hiệu, dựng cán cờ trên mái nhà, liều mạng ném dây băng phố để chăng biểu ngữ. Parsons huyênh hoang rằng một mình Căn Nhà Chiến Thắng sẽ phô trương được bốn trăm thước cờ xí. Anh ta ở trong môi trường bẩm sinh của mình nên vui như chim sơn ca. Trời nóng và việc chân tay cho anh cớ để mặc quần đùi và áo hở ngực vào chiều tối. Anh ta có mặt một lúc khắp nơi, nào đẩy, nào kéo, nào cưa, đập lúa, ứng tác, vỗ về mọi người bằng những lời khuyến khích thân mật, và toát ra từ từng nếp thân hình anh một khối mồ hôi chua vô tận.
Một tấm bích chương mới bỗng nhiên xuất hiện khắp Luân Đôn. Nó không có chú từ, chỉ hình dung hình dáng quái dị của một tên lính Âu Á, cao ba bốn thước, đang tiến bước với khuôn mặt Mông Cổ trơ ì và đôi giầy ống kếch sù, một khẩu súng máy chĩa ra từ hông hắn. Bạn nhìn tấm bích chương từ góc nào chăng nữa, mõm súng được phóng đại bởi thuật thâu phóng vẫn hình như chĩa thẳng vào bạn. Cái ấy được dán tại khắp chỗ trống trên mọi bức tường, nhiều hơn cả hình Bác. Dân đen, thường ra thờ ơ đối với chiến tranh, bị cài vào một trận yêu nước nồng nhiệt định kỳ. Như để hòa âm với tính khí chung, bom lửa giết nhiều người hơn thường lệ. Một quả rơi xuống một rạp chiếu bóng tại Stepney, chôn vùi hàng trăm nhân mạng dưới đống nhà đổ nát. Toàn thể dân chúng vùng lân cận đến dự đám ma kéo dài dằng dặc hàng tiếng, nhưng kỳ thực đấy là một cuộc biểu tình bất bình. Một trái bom khác rớt xuống một miếng đất bỏ hoang dùng làm sân chơi, khiến hàng tá trẻ con bị tung thành mảnh. Sau đó lại có nhiều cuộc biểu tình giận dữ, hình nộm Goldstein bị đốt, hàng trăm bích chương hình dung lính Âu Á bị xé rách vứt vào lửa, và một số cửa tiệm bị cướp nhân lúc lộn xộn; rồi có tin đồn rằng bom lửa do quân gián điệp hướng dẫn nhờ làn sóng điện, và một cặp vợ chồng già bị nghi là người gốc ngoại quốc bị đốt nhà chết ngạt trong đó.
Trong căn phòng ở trên cửa tiệm ông Charrington, lúc họ tới đó được, Julia và Winston nằm cạnh nhau trên chiếc giường không khăn trải, trần truồng cho mát dưới cửa sổ mở toang. Con chuột không hề trở lại, nhưng trời nóng làm rệp sinh sản gấp bội phát gớm. Thế cũng chẳng sao. Bẩn hay sạch, căn phòng là thiên đàng. Tới nơi là họ rắc ngay khắp nơi hồ tiêu mua tại chợ đen, cởi quần áo ra và làm tình với thân thể ướt đẫm mồ hôi, rồi ngủ thiếp đi và tỉnh dậy để thấy đàn rệp đã tụ họp nhau lại sẵn sàng phản công.
Trong tháng sáu họ gặp nhau bốn, năm, sáu — bẩy lần. Winston đã bỏ thói uống rượu gin vào bất cứ giờ nào. Anh cơ hồ không thấy nó cần thiết nữa. Anh mập ra, chứng loét giãn tĩnh mạch đã lặn biến để lại một vết nâu ngoài da dưới đầu gối, cơn ho sáng sớm của anh đã ngưng. Cuộc đời không còn bất kham nữa, anh không còn xung lực nhăn mặt về phía máy truyền hình hay gân cổ chửi thề. Nay họ có một chỗ ẩn an toàn gần như một tổ ấm rồi, sự họ hiếm khi gặp nhau và mỗi lần chỉ được vài tiếng không còn làm họ đau buồn nữa. Điều quan trọng là cái căn phòng trên tiệm đồ cũ có thực. Biết nó còn đó, không bị ai xâm phạm, cũng gần như ở đó. Căn phòng là một thế giới, một túi quá khứ trong đó thú vật đã tuyệt giống còn đi lại được. Ông Charrington, theo Winston, là một thứ thú tuyệt giống ấy. Anh thường dừng chân nói chuyện với ông ta vài phút trên đường lên cầu thang. Ông già có vẻ ít khi ra khỏi nhà, và mặt khác dường như không có khách hàng. Ông ta sống một cuộc đời ma quái giữa cửa tiệm nhỏ bé tối đen và một căn bếp sau nhỏ hơn nữa, là nơi ông soạn cơm và chứa nhiều đồ đạc trong đó có một cỗ máy hát cũ kỹ với cái vành loa kếch sù. Ông ta có vẻ thích thú được dịp chuyện trò. Khi ông đi giữa khối hàng vô giá trị, với cái mũi dài dưới cặp kính dày và đôi vai khom trong chiếc vét nhung, ông luôn luôn mơ hồ có dáng của một nhà sưu tập hơn là một nhà buôn. Với một thứ nhiệt tình lỗi thời, ông có thói mân mê mảnh vật này hay mảnh vật kia — một lọ sành, một nắp hộp thuốc hít vỡ có họa màu, một chiếc mề đay bằng vàng giả đựng một cuộn tóc trẻ con đã chết từ lâu —, nhưng ông không bao giờ bảo Winston mua nó, chỉ khiến anh ngắm nó thôi. Nói chuyện với ông cũng như nghe tiếng leng keng của một hộp nhạc cũ rích. Ông đã lôi được ra khỏi ký ức ông vài mẩu nhạc đã bị quên bẵng. Có một khúc nói về hai mươi tư con chim sáo, một khúc khác nói về một con bò cái gẫy sừng, và một khúc khác nữa về cái chết của con gà Robin đáng thương. "Tôi bỗng chợt nghĩ có thể ông ưa bản này chăng ?" ông ta thường vừa nói vừa cười trừ nhẹ mỗi khi ông xướng một mẩu nhạc mới. Nhưng bài nào ông ta cũng không bao giờ nhớ nhiều hơn vài giòng.
Cả Julia lẫn Winston đều biết — có thể nói ý nghĩ này không bao giờ rời họ — rằng chuyện đang xảy ra cho họ không thể kéo dài lâu được. Có những lúc cái chết sắp đến nơi cơ hồ có thể sờ thấy được cũng như cái giường đang nằm lên, và họ ôm chặt lấy nhau với cả mối tình dục tuyệt vọng, y như một linh hồn phải sa địa ngục cố bíu lấy thú vui cuối cùng năm phút trước khi giờ điểm. Nhưng cũng có lúc họ có ảo tưởng không những được an toàn, mà còn được vĩnh cửu. Cả hai cảm thấy rằng họ còn ở trong căn phòng này, không có gì hại được họ. Tới nơi vừa khó vừa nguy hiểm, nhưng vào trong, căn phòng là một điện kín. Hệt như khi Winston nhìn vào lòng tấm chặn giấy với cảm tưởng có thể bước được vào trong thế giới thủy tinh và rồi ngăn chặn được thời gian khi vào tới trong. Nhiều khi họ thả mình mơ màng chuyện thoát ly. Vận may của họ sẽ vững mãi, họ sẽ tiếp tục dan díu như thế này cho tới mãn kiếp thiên nhiên của họ. Hay Katharine sẽ chết và nhờ khéo vận động Winston và Julia sẽ được phép lấy nhau. Hay họ sẽ tự tử cùng nhau. Hay họ sẽ biến mất, cải trang cho không ai nhận ra được, học nói giọng dân đen, kiếm việc làm tại một xưởng máy, và sống suốt đời không bị lộ tẩy trong một phố hẻo lánh. Toàn là chuyện ngớ ngẩn, cả hai đều biết vậy. Thực ra, không có lối thoát. Ngay cái dự tính có thể thực hành được, tức là tự tử, họ cũng không có ý định đem ra thực hiện. Bám vào ngày này sang ngày khác, tuần này sang tuần khác, kéo dài một hiện tại không tương lai cơ hồ là một bản năng không dằn được, hệt như buồng phổi mãi mãi hít thở khi còn không khí để thở.
Thỉnh thoảng họ cũng nói chuyện lao đầu vào sự phản kháng tích cực chống Đảng, nhưng họ không biết bước đầu phải làm sao. Dù cho Hội Tình Thân có thật, vẫn còn sự khó khăn kiếm ra cách vào hội. Anh kể cho nàng tình thân thiết lạ lùng đã có, hay hình như có, giữa anh và ÓBrien, cái động lực có khi thúc đẩy anh đến thẳng trước mặt ÓBrien khai với ông ta anh là kẻ thù của Đảng và yêu cầu ông ta giúp đỡ. Khá lạ lùng, điều này không làm nàng sửng sốt và cho là một hành động khinh suất. Nàng quen theo mặt xét người, và đối với nàng đương nhiên Winston có thể căn cứ trên cường độ của ánh mắt mà tin ÓBrien. Lại nữa, nàng cho rằng mặc nhiên mọi người hay gần hết mọi người thầm ghét Đảng và sẵn sàng phá lệ nếu làm vậy vẫn an toàn. Nhưng nàng từ chối tin là có, hay có thể có, một tổ chức đối lập rộng rãi. Những chuyện về Goldstein và đội quân ngầm của ông, theo nàng, chỉ là một tràng tin nhảm do Đảng bịa ra vì mục đích riêng, mình phải giả vờ tin. Quá nhiều lần, tại các buổi tập họp của Đảng và các cuộc biểu tình tự phát, nàng đã ra sức hét đòi xử tử những người nàng không bao giờ nghe thấy tên, bị khép vào tội nàng không hề tin có thật. Khi xảy ra các vụ xử án công cộng, nàng có chân trong biệt đội Liên Đoàn Thanh Niên bao quanh tòa án từ sáng tới tối thỉnh thoảng hát câu: "Xử tử quân phản nghịch !" Trong Hai Phút Hận Thù nàng luôn luôn vượt hết mọi người trong việc chửi Goldstein. Thế nhưng nàng chỉ có một ý niệm rất mơ hồ về Goldstein và những học thuyết mà ông mang tiếng biểu thị. Nàng lớn lên sau Cách Mạng và còn quá trẻ để có kỷ niệm về những cuộc đấu tranh tư tưởng thời các năm năm mươi, sáu mươi. Một phong trào chính trị độc lập là một chuyện ngoài sức tưởng tượng của nàng: dù sao chăng nữa Đảng vô địch. Đảng bao giờ cũng có và sẽ mãi mãi như vậy. Chỉ có thể chống Đảng bằng cách bất tuân ngầm, hay quá lắm, bằng những hành động lẻ tẻ như giết một người hay làm nổ vật gì.
Trên vài phương diện, nàng sáng suốt hơn Winston nhiều, và ít bị nhiễm bởi sự tuyên truyền của Đảng hơn. Có một lần, nhân trong một câu chuyện anh có nhắc qua tới chiến tranh chống Âu Á, nàng làm anh sửng sốt vì thản nhiên bảo anh rằng, theo ý nàng, chiến tranh không hề xảy ra. Các trái bom lửa đổ hàng ngày xuống Luân Đôn hẳn do chính Chính Phủ Đại Dương thả, "vừa đủ để giữ cho dân chúng khiếp sợ". Đó là một ý tưởng không bao giờ lòe trong óc anh. Nàng cũng gợi trong anh một chút lòng ganh tị khi kể cho anh rằng trong Hai Phút Hận Thù nỗi khó khăn lớn của nàng là làm sao nhịn phá lên cười. Nhưng nàng chỉ đặt thành vấn đề sự dạy bảo của Đảng khi nó có cơ dính dáng đến đời sống của chính nàng. Thường nàng sẵn sàng chấp nhận huyền thoại chính thức, chỉ vì sự khác biệt giữa sự thật và sự giả dối không quan hệ đối với nàng. Giả dụ, nàng tin Đảng sáng chế ra tàu bay vì đã học như thế ở trường. (Winston nhớ rằng thời anh còn đi học, vào những năm cuối năm mươi, Đảng chỉ tuyên bố chế ra trực thăng; mười hai năm sau, khi Julia đi học, Đảng đã nhận tàu bay do Đảng phát minh; một thế hệ nữa, sẽ tới lúc Đảng đòi chế ra máy hơi.) Và khi anh bảo nàng tàu bay có từ trước khi anh ra đời, trước Cách Mạng nhiều, nàng ngạc nhiên cho điều đó hoàn toàn không đáng lưu tâm đến. Vả lại, biết ai là kẻ sáng chế ra tàu bay có tích sự gì ? Anh khá bị xúc động hơn khi tình cờ phát giác nàng không nhớ rằng bốn năm trước Đại Dương đánh nhau với Đông Á và hòa với Âu Á. Đã đành nàng coi cả cuộc chiến như một trò hề: nhưng hiển nhiên nàng không để ý cả đến sự tên kẻ địch đã thay đổi. "Em tưởng bao giờ mình cũng đánh nhau với Âu Á," nàng mơ hồ nói. Điều này làm anh hơi sợ hãi. Việc sáng chế tàu bay có từ lâu trước khi nàng ra đời, nhưng sự thay đổi chiều hướng chiến tranh xảy ra có bốn năm trước, khi nàng đã khôn lớn. Anh tranh luận với nàng về điều đó khoảng chừng mười lăm phút. Cuối cùng anh thành công bắt nàng ôn lại ký ức cho tới khi nàng nhớ lờ mờ rằng có thời kẻ thù là Đông Á chứ không phải là Âu Á. Nhưng vấn đề đối với nàng vẫn không quan trọng gì. "Ai mà để ý ?" nàng sốt ruột nói. "Đó chỉ là một cuộc chiến chết băm này đến cuộc chiến chết tiệt kia, với lại các tin tức đều là tin bịa cả."
Có lúc anh nói chuyện với nàng về Cục Văn Khố và các sự giả mạo do anh làm trong đó. Những việc này không có vẻ làm nàng ghê tởm. Nàng không cảm thấy vực thẳm mở rộng dưới chân nàng khi nghĩ tới những sự dối trá trở thành sự thật. Anh kể cho nàng chuyện Jones, Aaronson và Rutherford, và mảnh giấy chủ yếu mà anh đã có lần cầm giữa ngón tay. Điều này không gây xúc động cho nàng. Vả lại, thoạt đầu nàng không nắm được mấu chốt chuyện.
"Họ có phải là bạn của anh không ?" nàng hỏi.
"Không, anh không hề biết họ. Họ là thành viên Đảng Trong. Ngoài ra, họ lớn tuổi hơn anh nhiều. Họ thuộc về những ngày xa xưa, trước Cách Mạng. Anh chỉ hơi biết mặt họ thôi."
"Vậy có việc gì phiền đến anh ? Lúc nào chẳng có người bị giết, không phải ư ?"
Anh cố gắng giảng cho nàng hiểu. "Đây là một trường hợp đặc biệt. Không phải chỉ là một chuyện giết ngưòi. Em có ý thức rằng quá khứ, kể từ hôm qua, đã thực sự bị hủy diệt không ? Nếu nó tồn tại nơi nào, nó chỉ ở tại vài vật bền chắc không có liên hệ với ngôn ngữ như tấm thủy tinh này. Chưa chi mình cơ hồ hoàn toàn không biết gì về Cách Mạng và những năm trước Cách Mạng. Mọi tài liệu đã bị tiêu hủy hay giả mạo, mọi sách báo đã bị viết lại, mọi hình ảnh đã bị tô lại, mọi pho tượng, đường phố hay dinh thự đã bị đổi tên, mọi ngày tháng đã bị sửa đổi. Và quá trình này ngày ngày phút phút tiếp tục. Lịch sử đã ngừng lại. Không còn gì ngoài một hiện tại vô tận trong đó Đảng luôn luôn có lý. Dĩ nhiên anh biết rằng quá khứ bị giả mạo, nhưng anh không bao giờ có thể chứng minh được điều đó, dù chính anh làm công việc giả mạo. Sau khi việc hoàn tất, không còn chứng cớ nào tồn tại. Bằng cứ độc nhất nằm trong chính óc anh, và anh không biết chắc có người nào khác chia cùng kỷ niệm với anh không. Đúng chỉ một lần, trong cả đời anh, anh cầm được một bằng chứng cụ thể sau sự kiện, hàng năm sau đó."
"Nó có lợi ích gì ?"
"Không ích lợi gì cả vì anh vứt nó đi vài phút sau. Nhưng nếu việc đó xảy ra ngày nay, anh sẽ giữ nó lại."
"Thế ư, em thì không vậy," Julia nói. "Em rất sẵn sàng liều vì nhiều chuyện xứng đáng, chứ không vì vài mẩu báo cũ. Ngay nếu anh giữ được nó, anh làm gì được với nó ?"
"Có lẽ chẳng làm được gì mấy. Nhưng nó là một bằng chứng. Nó có thể gieo hoài nghi nếu anh dám cho người khác thấy. Anh không nghĩ rằng mình có thể thay đổi gì trong sinh thời mình. Nhưng có thể tưởng tượng rằng vài nút chống đối sẽ nẩy nở đây đó — vài nhóm người liên kết với nhau và lớn mạnh dần, có thể để lại một ít tài liệu để các thế hệ sau tiếp tục công việc bỏ dở."
"Em không quan tâm đến thế hệ sau, cưng ạ. Em chỉ để ý đến chúng mình thôi."
"Em chỉ là một kẻ nổi loạn từ eo trở xuống," anh bảo nàng.
Nàng cho câu ấy hết sức dí dỏm và khoái chí choàng tay quanh người anh.
Nàng không mảy may chú tâm đến các phân nhánh trong chủ thuyết của Đảng. Mỗi khi anh bắt đầu nói chuyện về nguyên lý của Anh Xã, về ý đôi, về tính đổi thay của quá khứ, về sự phủ định thực tế khách quan, và mỗi khi anh dùng danh từ Ngôn Mới, nàng đâm chán chường, bối rối và nói nàng không bao giờ lưu ý đến những vấn đề đó. Đã biết đó là chuyện tầm phào, sao cứ để mình bận lòng với nó hoài ? Nàng biết khi nào phải hoan hô, khi nào phải hò hét, và chỉ cần biết vậy. Nếu anh cứ tiếp tục nói chuyện về những vấn đề trên, nàng có cái thói ngủ gật bất cứ giờ nào trong bất cứ tư thế nào. Nhờ nói chuyện với nàng, anh hiểu rằng tỏ vẻ chính thống trong khi mình không hề rõ chính thống nghĩa là gì thật là dễ. Có thể nói, thế giới quan của Đảng được ép nhận với nhiều thành công nhất trong lớp dân không có tư cách hiểu nó. Họ có thể bị khiến chấp nhận những sự vi phạm thực tế rõ ràng nhất, vì họ không bao giờ thấu được nỗi quá đáng của sự đòi hỏi nơi họ, vì họ không đủ óc quan tâm đến việc công để lưu ý đến sự thể đang xảy ra. Nhờ thiếu hiểu biết họ giữ được óc lành mạnh. Họ chỉ nuốt chửng mọi điều, và điều họ nuốt không làm hại họ vì nó không để lại cặn bã, y như một hạt lúa mì xuyên qua thân chim mà không bị tiêu hóa.
Cuối cùng sự việc đã xảy ra. Tin mong đợi đã tới. Cơ hồ đối với Winston, cả cuộc đời anh anh đã đợi sự này xảy ra.
Anh đang đi dọc hành lang trong Bộ, và anh gần tới chỗ Julia dúi mẩu thư trong tay anh, thì bỗng anh ý thức có một người to lớn hơn anh nhiều đang đi sau lưng anh. Người đó, là ai chăng nữa, khẽ ho, hiển nhiên như để bắt chuyện. Winston vụt dừng chân quay lại. Đó là ÓBrien.
Tận cùng họ chạm mặt nhau, nhưng Winston tựa như chỉ có một động lực duy nhất là chạy chốn. Tim anh đập mạnh. Liệu như anh không nói được lên lời. Thế nhưng ÓBrien tiếp tục tiến bước đều như cũ, tay ông đặt thân thiện trên cánh tay Winston khiến cho hai người sánh vai nhau. Ông ta bắt đầu nói với phép lịch sự đặc biệt làm ông tách hẳn phần đông thành viên Đảng Trong.
"Tôi hy vọng có cơ hội nói chuyện với anh," ông ta bảo. "Tôi có đọc một bài Ngôn mới trong Thời Báo do anh viết hôm trước. Anh quan tâm đến Ngôn Mới với tinh thần một nhà nghiên cứu, tôi nghĩ vậy có đúng chăng ?"
Winston đã lấy lại được một phần bình tĩnh. "Khó mà sánh tôi với một nhà nghiên cứu," anh nói. "Tôi không có chuyên. Đó không phải là môn của tôi. Tôi không hề dính dáng gì với việc xây dựng cụ thể ngôn ngữ đó."
"Nhưng anh viết văn mới rất trôi chẩy," ÓBrien đáp. "Đó không chỉ là ý kiến của tôi. Tôi có nói chuyện mới đây với một người bạn anh, chắc hẳn là một chuyên viên. Hiện tôi không nhớ ra tên anh ta."
Lại nữa tim Winston xao xuyến đến đau đớn. Không thể nghĩ rằng câu đó ám chỉ một người khác lạ hơn Syme. Nhưng Syme không những đã chết, anh đã bị hủy diệt thành một vô nhân. Bất cứ lời nào nhắc tới anh cũng cực kỳ nguy hiểm. Nhận xét của ÓBrien rõ ràng phải có chủ ý, như một ám hiệu, một mật mã. Với sự chia xẻ một tội tư tưởng nhỏ, ông ta đã biến hai người thành đồng lõa. Họ tiếp tục rảo bước chậm chạp trên hành lang được một lúc thì ÓBrien dừng chân lại. Với vẻ cởi mở thân thuộc mà ông luôn luôn có cách đặt trong cử chỉ, ông chỉnh đốn cặp kính trên mũi. Rồi ông ta nói tiếp:
"Điều tôi thực sự định nói là trong bài của anh tôi để ý thấy anh dùng hai danh từ đã lỗi thời. Nhưng hai chữ đó mới chỉ thành hủ lậu gần đây thôi. Anh đã xem quyển Từ Điển Ngôn Mới bản thứ mười chưa ?"
"Chưa," Winston nói. " Tôi không biết nó đã được xuất bản. Chúng tôi vẫn dùng bản thứ chín trong Cục Văn Khố."
"Tôi chắc phải vài tháng nữa bản thứ mười mới được phép phát hành. Nhưng đã có vài tiền bản được phổ biến. Chính tôi có một bản. Anh muốn xem qua nó chăng ?"
"Dạ, muốn lắm," Winston vừa nói vừa hiểu ngay câu chuyện đưa tới đâu.
"Có vài tiến triển rất tài tình. Như sự giảm bớt số động từ — tôi thiết nghĩ đó là điểm khích trí anh. Xem nào, tôi có nên phái người mang từ điển đến anh không nhỉ ? Phải cái tôi sợ thế nào cũng quên khuấy đi mất việc đó. Liệu anh có thể đến nhà tôi lấy nó vào ngày giờ thích hợp với anh không ? Đợi chút. Để tôi cho anh địa chỉ tôi."
Họ đang đứng trước máy truyền hình. Với một vẻ coi như vô tư, ÓBrien sờ vào hai túi quần lôi ra một cuốn sổ tay bọc da và một cây bút mực bằng vàng. Ngay dưới máy truyền hình, trong một tư thế ai đang nhìn bên kia máy cũng có thể đọc được điều ông viết, ông ngoáy một địa chỉ và xé trang giấy đưa cho Winston.
"Tôi thường có nhà vào chiều tối," ông ta nói. "Nếu không, người làm của tôi sẽ đưa quyển từ điển cho anh."
Ông ta rảo bước, bỏ lại Winston đang cầm mẩu giấy, lần này không cần giấu giếm. Tuy nhiên, anh cẩn thận ghi nhớ điều ghi trên giấy và vài giờ sau vứt nó vào lỗ ký ức cùng với một sấp giấy khác.
Họ nói chuyện với nhau độ vài phút là nhiều nhất. Giai đoạn chỉ có thể có một ý nghĩa thôi. Nó là một cách sắp đặt cho Winston biết địa chỉ ÓBrien. Nó cần thiết, vì ngoài sự hỏi thẳng, không bao giờ khám phá được chỗ ở của ai. Không có loại danh bạ nào để tra cả. "Nếu bao giờ anh muốn gặp tôi, đây là nơi kiếm được ra tôi," đó là điều ÓBrien đã nói với anh. Có thể còn có một thông điệp giấu đâu đó trong từ điển. Nhưng dù sao đi nữa, có một điều chắc chắn. Cuộc đồng mưu mà anh mơ tưởng tới có thật, và anh đã đạt được ngoại biên của nó.
Anh biết trước sau gì anh cũng sẽ tuân theo đề nghị của ÓBrien. Có thể ngày mai, có thể sau một thời gian dài — anh không biết chắc. Điều xảy ra chỉ là hậu quả của một quá trình đã khởi sự từ hàng năm trước. Bước đầu là một ý nghĩ thầm kín, không chủ tâm, bước thứ hai là sự khai trương cuốn nhật ký. Anh đã chuyển ý tưởng sang lời văn, và lời văn sang hành động. Bước cuối cùng là một sự sẽ xảy ra trong Bộ Tình Yêu. Anh đã chấp nhận điều ấy. Kết cục được chứa trong bước đầu. Nhưng nó ghê rợn: hay đúng hơn, nó giống như tiền vị của cái chết, như một sự giảm sinh lực. Ngay khi anh đang nói chuyện với ÓBrien, khi ý nghĩa của câu nói thấm ngầm anh, một cơn rùng mình lạnh buốt xâm nhập anh. Anh có cảm giác bước trên đất ẩm của một nấm mồ, và sự vẫn biết rằng ngôi mộ nằm đó đợi anh không giúp anh vững dạ chút nào.
Winston tỉnh dậy nước mắt đầm đìa. Julia ngái ngủ xoay mình sát lại anh, lẩm bẩm điều gì giống như: "Chuyện gì vây ?"
"Anh nằm mơ —," anh bắt đầu trả lời rồi im bặt. Giấc mơ quá phức tạp, không diễn tả được. Ngoài giấc mơ, còn có kỷ niệm liên hệ đến nó đã lướt qua óc anh vài giây sau khi anh tỉnh giấc.
Anh nằm nhắm mắt trở lại, vẫn đắm mình trong không khí chiêm bao. Đó là một giấc mơ sáng rộng trong đó cả cuộc đời anh hình như trải ra trước mắt anh, y hệt quang cảnh một chiều hạ sau cơn mưa. Nó trọn vẹn xảy ra trong lòng tấm chặn giấy thủy tinh, nhưng mặt thủy tinh lại là vòm trời, và dưới vòm trời mọi thứ ngập trong một ánh sang êm dịu cho phép nhìn ra quãng xa vô tận. Giấc mơ có thể đuợc bao gồm trong — còn có thể nói nó đặc là — một cử chỉ cánh tay của mẹ anh, được lập lại ba mươi năm sau bởi ngưòi đàn bà Do Thái anh đã thấy trong cuốn phim thời sự, cố đỡ đạn cho đứa bé trai nhỏ trước khi trực thăng bắn tan cả hai.
"Em biết không," anh nói, "cho tới giờ anh cứ tưởng anh đã giết mẹ anh ?"
"Tại sao anh lại giết mẹ anh ?" Julia vẫn ngái ngủ hỏi.
"Anh không giết mẹ. Không giết một cách cụ thể."
Trong giấc mơ anh đã nhớ lại hình ảnh cuối cùng của mẹ anh, và trong vài giây khi tỉnh giấc, chùm sự kiện nhỏ quanh đó tái hiện trong óc anh. Đấy là một ký ức anh đã phải cố tình đẩy lui hàng năm trời khỏi tâm thức anh. Anh không chắc chắn ngày tháng, nhưng khi chuyện xảy ra anh không thể dưới mười tuổi, mà ước chừng mười hai tuổi.
Cha anh đã mất tích khoảng trước đó, bao nhiêu lâu trước thì anh không nhớ ra được. Anh nhớ rõ hơn hoàn cảnh ồn ào khó khăn của thời bấy giờ: những cơn kinh hoảng định kỳ trước các cuộc dội bom và những sự trú ẩn trong trạm tàu hầm, những chồng vôi gạch đổ nát khắp nơi, những bản thông cáo khó hiểu dán ở các góc phố, những bọn cướp trẻ mặc áo đồng mầu, những đuôi khổng lồ ngoài tiệm bánh mì, tiếng súng máy nổ từng đợt ngoài xa — trên hết, sự không bao giờ có đủ ăn. Anh nhớ lại những buổi chiều dài anh cùng lũ nhỏ khác ăn chực quanh thùng và đống rác, nhặt nhạnh sống lá cải, vỏ khoai tây, có khi cả vụn vỡ bánh mì được anh và lũ nhỏ cạo tro cẩn thận; anh và chúng còn đợi các xe vận tải, được biết là chở thức ăn cho súc vật chăn nuôi, trên một con đường chắc chắn xe phải đi ngang, vì khi xe xóc trên ổ gà ngoài đường, có cơ xe đánh rắc một ít mẩu bã dầu.
Khi cha anh mất tích, mẹ anh không tỏ chút ngạc nhiên hay đau buồn mạnh mẽ nào, nhưng bà bỗng thay đổi hẳn. Bà đâm hình như mất hết sinh lực. Ngay Winston cũng thấy rõ ràng bà đợi chờ một chuyện bà biết thế nào cũng sẽ xảy ra. Bà làm mọi việc cần phải làm — nấu ăn, giặt giũ, khâu vá, làm giường, quét nhà, phủi bụi trên mặt lò sưởi — luôn luôn một cách thật chậm chạp, lạ lùng là không với một cử động thừa nào, như một người mẫu tự động của nghệ sĩ. Thân hình hộ pháp cân đối của bà dường như quay về thế bất động một cách tự nhiên. Có lúc bà ngồi yên hàng giờ trên giường, ẵm em gái anh, một đứa trẻ nhỏ độ hai, ba tuổi, ốm yếu và rất lặng lẽ, có một khuôn mặt gầy choắt như khỉ. Cũng có khi, nhưng rất hiếm, bà ôm Winston vào lòng và siết chặt anh thật lâu không nói một lời. Mặc dầu còn trẻ và ích kỷ, anh ý thức rằng thái độ của mẹ anh liên quan tới sự kiện không bao giờ được nhắc tới sắp sửa xảy ra.
Anh nhớ lại căn phòng gia đình anh ở, một phòng tối tăm, hấp hơi, choán mất nửa bởi chiếc giường có chăn phủ trắng. Trong phòng có một lò bếp khí trong kẽ chắn lò sưởi và một kệ đựng thức ăn, ngoài thềm có một chậu rửa bát bằng sành nâu dùng chung với nhiều phòng. Anh hồi tưởng tấm thân giống tượng của mẹ anh khom mình trên bếp khí, ngoáy chất gì đó trong xoong. Trên hết anh nhớ lại cơn đói liên tục của anh và những trận cãi vã gay gắt bần tiện vào bữa ăn. Anh thường kêu ca eo sèo đi đi lại lại với mẹ, tại sao không có thêm thức ăn, anh la hét giận dữ với bà (anh nhớ cả giọng nói của anh lúc đó, sớm bắt đầu vỡ và thỉnh thoảng rít lên một cách đặc biệt), hay anh gắng ra giọng mếu máo đáng thương để được ăn nhiều hơn em gái. Mẹ anh rất sẵn sàng phân nhiều cho anh hơn. Bà coi như đương nhiên, anh, "cậu con trai", phải có phần lớn hơn. Bữa ăn nào bà cũng van anh chớ ích kỷ và nhớ rằng em gái anh đau ốm cũng cần thức ăn, nhưng vô ích. Anh vẫn hét giận dữ khi bà ngưng phát thức ăn cho anh, anh thường giằng lấy thìa múc khỏi tay bà, hoặc bốc mẩu đồ ăn trên đĩa em. Anh biết anh bỏ đói mẹ và em anh, nhưng anh không dằn được mình; anh còn cảm thấy anh có quyền làm vậy. Cơn đói gào trong bụng anh dường như biện bạch cho anh. Giữa hai bữa ăn, nếu mẹ anh không canh chừng, anh thường bốc vụng trong kho thức ăn thảm thương dự trữ trên kệ.
Một hôm khẩu phần xúc cô la được đem ra phát. Đã từ mấy tuần hay mấy tháng qua, không có chuyện này. Anh nhớ rất rõ miếng xúc cô la nhỏ quý hóa ấy. Đó là một thanh hai ông xơ (hồi đó danh từ ông xơ vẫn được dùng) chung cho cả ba người trong gia đình anh. Hiển nhiên phải chia nó ra ba phần ngang nhau. Bất thần, như thể thốt ra từ một người lạ, Winston nghe thấy mình lên tiếng gầm to đòi bằng được cả thanh xúc cô la. Mẹ anh bảo anh không được ăn tham. Thế là có một cuộc cãi quấy lâu dài, quanh đi quẩn lại, với tiếng hò, tiếng rên, nước mắt, lời mắng, lời mặc cả. Em gái choắt bé của anh ôm chặt hai tay lấy mẹ, y hệt một con khỉ con, nhìn anh qua vai mẹ với đôi mắt to buồn tẻ. Cuối cùng mẹ anh bẻ ba phần tư thanh xúc cô la cho anh, và đưa phần còn lại cho em anh. Đứa bé cầm lấy phần mình và ủ ê ngắm nó, có lẽ không hiểu đó là gì. Winston nhìn nó một hồi. Rồi anh bồng nhẩy nhanh vồ lấy mảnh xúc cô la trên tay em, chạy ra cửa.
"Winston, Winston !" mẹ anh gọi anh trở lại. "Về ngay ! Trả lại em mày miếng xúc cô la của nó."
Anh dừng chân nhưng không trở về. Đôi mắt ưu tư của mẹ anh đính vào mặt anh. Ngay hiện tại khi nghĩ lại sự thể, anh không biết sự sắp sửa xảy ra bấy giờ là sự gì. Em gái anh, ý thức mình bị cướp vật gì đó, khẽ thốt lên một tiếng rên. Mẹ anh quàng tay qua đứa bé ép mặt nó vào ngực mình. Có cái gì trong cử chỉ của bà bảo anh rằng em gái anh sắp chết. Anh quay người chạy xuống cầu thang với mảnh xúc cô la đã dính tay.
Anh không bao giờ gặp lại mẹ anh. Sau khi nuốt hết xúc cô la anh hơi cảm thấy xấu hổ về mình, và lang thang hàng giờ ngoài phố cho tới khi cơn đói kéo anh về nhà. Khi anh trở về, mẹ anh đã mất dạng. Thuở đó sự mất tích đã thành chuyện thường tình. Trong căn phòng không có gì mất đi, ngoài mẹ anh và em gái anh. Không thiếu một quần áo nào, kể cả chiếc áo choàng của mẹ anh. Cho tới nay anh không chắc mẹ anh đã chết. Rất có thể bà chỉ bị gửi đi một trại khổ sai. Về phần em anh, nó có thể, như chính anh, bị đưa vào một trong những trại trẻ con vô gia đình (được gọi là Trung Tâm Thu Hồi) phát triển với cuộc nội chiến, hay có thể nó bị gửi đi trại khổ sai cùng mẹ, hay giản dị hơn, có thể nó đã bị bỏ rơi rồi chết đâu đó.
Giấc mơ vẫn dai dẳng trong óc anh, nhất là cái cử chỉ ôm choàng che chở của cánh tay chứa đựng toàn thể ý nghĩa cơn chiêm bao. Tâm tư anh quay về một giấc mơ khác nằm thấy hai tháng trước. Y như khi mẹ anh ngồi trên chiếc giường phủ khăn trắng với đứa nhỏ bám vào mẹ, mẹ anh đã ngồi trên chiếc tàu đắm, xa dưới chân anh, chìm sâu dần mỗi phút, vẫn nhìn anh qua làn nước đã ngả đen.
Anh kể cho Julia chuyện mất tích của mẹ anh. Vẫn không mở mắt, nàng xoay người lại để thu mình vào một thế thoải mái hơn.
"Em dám chắc thuở ấy anh là một của quỷ thối," nàng nói không rõ tiếng. "Trẻ con đứa nào cũng là quỷ cả."
"Phải. Nhưng điểm thực của câu chuyện là —"
Theo hơi thở của nàng, hiển nhiên nàng sắp thiếp ngủ trở lại. Anh muốn tiếp tục nói về mẹ anh. Theo như anh có thể nhớ về bà, anh cho bà không phải là một thiếu phụ khác thường, lại càng không phải là một người thông minh; mặc vậy bà có một tư chất quý phái, trong sạch, chỉ vì bà tuân theo mẫu mực cá nhân. Tình cảm của bà xuất phát ngay tự bà, không thể biển chất vì ngoại cảnh. Ý nghĩ rằng một hành động vì vô hiệu hóa ra vô nghĩa không thể đến với bà. Nếu mình yêu ai, mình yêu người đó, khi mình không cho được gì khác, mình còn cho được tình yêu. Khi miếng xúc cô la cuối cùng đã mất, mẹ anh đã ôm chặt đứa bé trong lòng. Như vậy không tích sự gì, chẳng thay đổi được gì, không sinh ra được thêm xúc cô la, không cản được cái chết của đứa bé hay của chính bà; nhưng đó là cử chỉ tự nhiên đối với bà. Người đàn bà tị nạn trong thuyền cũng bao phủ đứa bé trai với cánh tay mình, một hành động không hữu ích hơn sự lấy giấy chống bom đạn. Tác động hãi hùng của Đảng là đã vừa thuyết phục được con người rằng các xung động và cảm tình đơn thuần không đáng kể, vừa cướp giựt khỏi tay họ mọi quyền lực trên thế giới vật chất. Một khi bạn đã rơi vào tròng của Đảng, điều bạn cảm thấy hay không cảm thấy, điều bạn làm hay dằn không làm, hoàn toàn không khác gì nhau. Gì thì gì, bạn cũng biến mất, và bạn cũng như hành động của bạn không được ai biết đến nữa. Bạn bị thải sạch khỏi giòng lịch sử. Thế nhưng đối với dân chỉ hai thế hệ trước, sự thể trên không được coi là trọng, vì họ không có định ý biến đổi lịch sử. Họ bị chi phối bởi những mối trung nghĩa riêng tư mà họ không có ý nghĩ đặt thành vấn đề. Điều cốt yếu là liên hệ cá nhân, và một cử chỉ đầy bất lực như một cái hôn, một giọt nước mắt, một lời nói với người hấp hối, có giá trị riêng của nó. Winston bỗng nghĩ rằng dân đen còn ở trong hoàn cảnh đó. Họ không chung thành với một đảng, một quốc gia hay một lý tưởng, họ trung thành với nhau. Lần đầu tiên trong đời anh, anh không khinh rẻ dân đen hay nghĩ tới họ như một lực lượng trơ ì sẽ có ngày sống dậy và tái tạo thế giới. Dân đen đã giữ được tính người. Họ không bị chai cứng trong lòng. Họ đã vịn vào những cảm xúc nguyên thủy mà anh phải ra tâm cố gắng mới học lại được. Và đương nghĩ vậy, anh có liên tưởng, không hiển nhiên đúng lúc, về sự hai tuần trước anh thấy một bàn tay cụt nằm trên vỉa hè và đá nó xuống cống như thể nó là một lõi cải.
"Dân đen là người," anh nói to. "Chúng ta không phải là người."
"Tại sao không ?" Julia đã tỉnh dậy trở lại hỏi.
Anh ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: "Em có khi nào nghĩ rằng hay nhất cho chúng mình chính là bước khỏi chốn này trước khi quá muộn, và không bao giờ gặp lại nhau nữa không ?"
"Có chứ cưng, điều ấy có thoáng trong óc em nhiều lần. Nhưng gì thì gì, em cũng sẽ không làm thế."
"Cho tới giờ chúng mình hên," anh nói. "Nhưng vận may không thể kéo dài lâu hơn nữa. Em còn trẻ. Em có vẻ bình thường vô tội. Nếu em tránh những người như anh, em có thể sống thêm năm chục năm nữa."
"Không, em đã suy nghĩ chín rồi. Anh làm gì, em làm đó. Anh chớ có xuống tinh thần. Em khá giỏi việc giữ mình sống sót."
"Chúng mình có thể ở với nhau sáu tháng nữa — cho là một năm đi — không sao biết được. Tận cùng chúng mình chắc chắn sẽ phải lìa nhau. Em có ý thức mình sẽ hết sức cô đơn như thế nào không ? Một khi chúng bắt được mình sẽ không có gì, hoàn toàn không có gì mình giúp được nhau. Nếu anh thú tội chúng sẽ bắn em, mà dù anh không chịu khai, chúng cũng vẫn bắn em. Không có điều gì anh có thể làm hay nói, hay dằn không nói, hoãn nổi dù chỉ năm phút cái chết của em. Ngay không đứa nào trong hai đứa mình sẽ biết được đứa kia còn sống hay chết. Chúng mình sẽ hoàn toàn mất hết năng lực. Điều duy nhất đáng kể là chúng mình sẽ không phản bội nhau, dù điều đó chẳng thể thay đổi gì."
"Nếu anh ám chỉ sự cung xưng," nàng bảo, "chắc chắn chúng mình sẽ khai hết. Ai ai cũng thú. Không thú không được. Chúng tra tấn người ta."
"Anh không muốn nói đến sự thú tội. Cung xưng không có nghĩa là bội phản. Mình nói gì hay làm gì không quan trọng: chỉ có tình cảm đáng kể thôi. Nếu chúng làm được cho anh hết yêu em — đó mới là sự phản bội thực sự."
Nàng ngẫm nghĩ một hồi: "Chúng không thể làm vậy được. Đó là điều duy nhất chúng không thể làm được. Chúng có thể khiến anh nói bất cứ điều gì — bất cứ điều gì nhưng chúng không thể làm anh tin điều ấy. Chúng không thể đi được vào lòng anh."
"Không," anh hơi thêm hy vọng một chút nói, "không; thật đúng thế. Chúng không thể nắm được lòng mình. Nếu mình cảm thấy rằng giữ nhân tính là một việc bõ làm, ngay khi kết quả chẳng thể có được, mình thắng chúng."
Anh nghĩ tới máy truyền hình với cái tai không bao giờ khép của nó. Chúng có thể rình bạn đêm ngày, nhưng nếu bạn giữ được mình tỉnh táo, bạn có thể đánh lừa chúng. Với tất cả trí thông minh của chúng, chúng chưa hề chế ngự được bí quyết cho phép khám phá ra người khác nghĩ gì. Có lẽ điều này bớt đúng khi bạn thực sự rơi vào tay chúng. Không sao biết được những gì xảy ra trong Bộ Tình Yêu, nhưng có thể đoán: các cuộc tra tấn, các thuốc thang, các máy móc tinh vi đo phản ứng thần kinh của bạn, sự giảm từ từ tinh thần vì trạng thiếu ngủ, cô độc và bị tra tấn luôn hồi. Dầu sao chăng nữa, không thể giấu kín được sự kiện. Chúng sẽ tìm ra manh mối, chúng sẽ vắt nó ra khỏi bạn nhờ sự tra tấn. Nhưng nếu mục đích không phải là sinh tồn mà là giữ nhân tính, cuối cùng khai hay không khai nào khác gì ? Chúng không thể biến hóa tình cảm của bạn: về việc này chính bạn cũng không đổi được, dù bạn muốn. Chúng có thể vạch trần ra từng chi tiết mọi hành động, lời nói hay tư tưởng cúa bạn; nhưng thâm tâm bạn, mà sự vận hành bí mật ngay cả đối với bạn, chúng không thể vi phạm.
Họ đã dám, cuối cùng họ đã dám !
Họ đang đứng trong một căn phòng dài sáng dịu. Máy truyền hình khẽ tiếng tới mức thì thầm; sự sang trọng của tấm thảm xanh lơ cho họ cảm tưởng bước trên nhung. Tại tận cuối phòng, ÓBrien đang ngồi trước bàn dưới một ngọn đèn có chao xanh lục, với mỗi bên người một đống giấy lớn. Ông ta không thèm ngẩng mặt lên khi người hầu dẫn Julia và Winston vào phòng.
Tim Winston đập thình thịch mạnh đến nỗi anh sợ không nói nổi lên lời. Họ đã dám, cuối cùng họ đã dám, anh chỉ nghĩ được có thế. Tới nơi đây đã là hành động khinh suất, tới cùng nhau quả là cư xử điên rồ; mặc dầu thực ra họ tới đây bằng lối khác nhau và chỉ gặp nhau trước thềm nhà ÓBrien. Nhưng nội việc bước vào một nơi như thế này cũng cần sự gắng gượng của thần kinh. Chỉ trong rất hiếm cơ hội mới thấy được nội thất của người Đảng Trong, hoặc vào được khu thành phố dành cho họ ở. Toàn thể không khí của khối căn nhà đồ sộ, sự sang trọng và rộng rãi của mọi thứ, những mùi thơm lạ của thức ăn ngon và thuốc lá hảo hạng, những thang máy êm nhanh không tưởng tưởng được lướt lên lướt xuống, những người hầu mặc áo đuôi tôm trắng vội vàng qua lại — mọi sự khiến họ rụt rè e sợ. Tuy anh có một lý do chính đáng để tới đây, anh bị ám ảnh mỗi bước bởi mối lo sợ một tên lính canh mặc y phục đen thình lình xuất hiện từ một góc lối, đòi xét giấy anh và ra lệnh cho anh cút đi. Thế nhưng người hầu của ÓBrien không lưỡng lự tiếp đón hai người. Hắn ta là một người tóc đen nhỏ vóc, mặc áo đuôi tôm trắng, với một khuôn mặt hình thoi hết sức lì lợm, có lẽ là mặt người Hoa. Họ được hắn dẫn qua một hành lang trải thảm êm ru với hai bên tường có dán giấy kem và lớp phủ trắng, cả thảy tuyệt sạch. Điều này cũng làm họ rụt rè. Winston không hề nhớ đã thấy trước đây một lối đi với tường không bị dơ bẩn bởi sự cọ sát với thân người.
ÓBrien cầm trên tay một mẩu giấy ra chiều nghiền ngẫm. Khuôn mặt dày của ông coi bộ vừa to lớn vừa thông minh cúi xuống cho thấy đường sống mũi. Trong khoảng hai mươi giây ông ngồi không đụng đậy. Rồi ông kéo máy ghi âm về phía mình, phóng tin vào đó bằng biệt ngữ ghép dùng trong các Bộ.
"Khoản một phẩy năm phẩy bẩy toàn chuẩn chấm nghị giữ khoản sáu bội lố gần tội tưởng bỏ chấm không tiến xây trước được ước thêm tổng phí máy móc chấm hết tin."
Ông thung dung đứng dậy khỏi ghế tiến bước về phía hai người qua tấm thảm êm lặng. Một chút không khí công quyền hình như bay xa ông cùng với những từ Ngôn Mới, nhưng sắc mặt ông nghiêm ngặt hơn thường lệ, làm như ông bất bình vì bị quấy rầy. Sự khiếp sợ sẵn nhập Winston bỗng bị xuyên bởi một phát lúng túng thông thường. Anh thấy rất có thể anh đã phạm một lỗi lầm rồ dại. Thực ra anh có bằng cớ gì để cho ÓBrien là một kẻ mưu phản chính trị ? Không có gì trừ một ánh mắt và chỉ một lời nhận xét nước đôi; ngoài ra chỉ có sự tưởng tượng thầm kín của chính anh, dựa trên một giấc mơ. Anh không còn lùi bước với cớ anh đến mượn từ điển được nữa, vì trong trường hợp này không tài nào giải thích được sự hiện diện của Julia. Khi ÓBrien đi qua máy truyền hình, một ý nghĩ hình như đập óc ông. Ông dừng chân, quay sang bên bấm một nút trên tường. Có một tiếng tách nhẹ. Giọng nói ngưng bặt.
Julia thốt lên một tiếng khẽ, một thứ tiếng ủa ngạc nhiên. Ngay trong cơn kinh hoàng, Winston quá bàng hoàng không giữ im được:
"Ông tắt được máy ư ?" anh hỏi.
"Phải," ÓBrien nói, "tôi tắt được nó. Chúng tôi có đặc quyền đó."
Bây giờ ông đối diện họ. Thân hình chắc nịch của ông át hẳn hai người, và sắc mặt ông vẫn khó đoán. Ông ta chờ Winston lên tiếng với một vẻ khá nghiêm trọng, nhưng nói gì đây ? Ngay lúc này vẫn có thể cho ông chỉ là một người bận rộn đang bực mình tự hỏi lý do nào xúi họ đến quấy rầy ông. Không ai nói gì. Từ lúc máy truyền hình tắt, căn phòng im lặng như tờ. Giây phút qua nhanh ghê gớm, Winston khó khăn lắm mới tiếp tục nhìn thẳng được vào mặt ÓBrien. Bỗng nhiên gương mặt nghiêm nghị dịu xuống gần như hé cười. Bằng cử chỉ đặc biệt của ông ta, ÓBrien chỉnh đốn lại cặp kính trên mũi.
"Để tôi nói hay anh nói ?" ông ta hỏi.
"Tôi xin nói," Winston nhanh miệng. "Cái của này có tắt thật không ?"
"Có, toàn máy bị tắt. Chúng ta một mình."
"Chúng tôi đến đây vì —"
Anh ngưng tiếng, lần đầu tiên ý thức ra sự mơ hồ của những động cơ thúc đẩy anh. Anh không biết thực ra anh mong đợi sự giúp đỡ gì nơi ÓBrien, khó nói được vì lẽ gì anh tới đây. Anh nói tiếp tuy hiểu rằng lời lẽ của anh có vẻ vừa yếu vừa tự phụ.
"Chúng tôi tin có một cuộc âm mưu, một thứ tổ chức mật hoạt động chống Đảng, và chúng tôi tin ông có chân trong đó. Chúng tôi muốn gia nhập và hoạt động cho tổ chức đó. Chúng tôi là kẻ thù của Đảng. Chúng tôi không tin vào các nguyên lý của Anh Xã. Chúng tôi là tội phạm tư tưởng. Chúng tôi còn là kẻ ngoại tình. Tôi khai hết cho ông vì chúng tôi muốn đặt mình trong tay ông. Nếu ông muốn chúng tôi lụy mình cách khác, chúng tôi xin sẵn sàng."
Anh ngưng bặt và nhìn qua vai với cảm giác cánh cửa vừa mở. Quả nhiên, người hầu mặt mũi da vàng nhỏ vóc không gõ cửa mà bước vào phòng. Winston thấy hắn bưng một chiếc khay đựng bình và cốc.
"Martin thuộc phe chúng ta," ÓBrien thản nhiên nói. "Mang khay lại đây, Martin. Đặt cả trên cái bàn tròn. Có đủ ghế không ? Vậy mình nên ngồi xuống nói chuyện cho tiện. Martin, anh hãy mang lại một chiếc ghế cho anh. Đây là công chuyện. Anh có thể ngưng đóng vai người hầu trong vòng mười phút."
Gã đàn ông nhỏ bé ngồi xuống, rất tự nhiên, nhưng vẫn giữ vẻ một ngưòi hầu, vẻ của một tên bồi được hưởng đặc ân. Winston liếc mắt nhìn hắn. Anh chợt nghĩ cả đời người đó phải đóng kịch, hắn thừa hiểu rằng từ bỏ vai trò đã chấp nhận dù chỉ một lát là một điều nguy hiểm. ÓBrien nắm cổ bình nhấc lên rót vào các cốc một chất nước đỏ thẫm. Nó gợi cho Winston ký ức lờ mờ của một vật đã thấy từ lâu lắm trên một bức tường hay bờ rào — một chai lớn hình dung bởi đèn điện tuồng như ngã lên ngã xuống rót vào một cốc chất chứa bên trong. Nhìn từ trên xuống chất nước gần như đen, nhưng trong bình nó sáng như ngọc hồng bào. Nó có một vị chua ngọt. Anh thấy Julia nâng cốc lên ngửi một cách tò mò rõ ràng.
"Đây là rượu vang," ÓBrien vừa nói vừa cười nhẹ. "Anh chị chắc đã được đọc về nó trong sách. Tôi e rất ít rượu vang tới tay Đảng Ngoài." Mặt ông nghiêm nghị trở lại và ông nâng cốc lên. "Theo tôi chúng ta nên trước tiên chúc rượu mừng. Cho thủ lãnh của chúng ta: Cho Emmanuel Goldstein."
Winston khá hăng hái nhấc cốc lên. Rượu vang là một thứ anh đã đọc và mơ tới. Như tấm chặn giấy thủy tinh hay bài hát nhớ nửa chừng của ông Charrington, nó thuộc về quá khứ lãng mạn đã tiêu tan, về cái thời xa xưa như anh thích gọi nó trong thâm tâm anh. Vì lẽ gì đó anh vẫn nghĩ tới rượu vang như một chất có vị tuyệt ngọt như mứt dâu tằm, và có hiệu quả làm say tức thì. Trên thực tế, khi anh nuốt nó, anh thấy chất ấy làm anh thất vọng rõ rệt. Sự thật là sau hàng năm uống rượu gin anh không thể nếm được rượu vang. Anh đặt cốc cạn xuống bàn.
"Vậy Goldstein là một ngưòi có thật ư ?" anh nói.
"Phải, ông có thật, và ông còn sống. Ở đâu thì tôi không biết."
"Còn cuộc âm mưu — tổ chức thì sao ? Có thật không ? Nó không phải là một sự bịa đặt của Cảnh Sát Tư Tưởng chứ ?"
"Không, nó có thật. Chúng tôi đặt tên nó là Hội Tình Thân. Anh chị sẽ không biết gì nhiều hơn về Hội Tình Thân ngoài sự nó có thật và anh chị ở trong đó. Chốc nữa tôi sẽ nhắc lại điều này." Ông nhìn vào đồng hồ đeo tay. "Tắt máy truyền hình hơn một nửa tiếng là một việc không nên ngay cả đối với thành viên Đảng Trong. Đáng nhẽ anh chị không được tới đây cùng nhau, khi về anh chị phải về riêng rẽ. Đồng chí đây" — ông gật đầu về phía Julia — "sẽ rời nơi này trước. Chúng ta có chừng hai mươi phút để bàn luận. Anh chị hiểu cho, tôi phải hỏi anh chị vài câu. Một cách tổng quát, anh chị sẵn sàng làm gì ?"
"Bất cứ gì chúng tôi có thể làm được," Winston nói.
ÓBrien đã xoay mình trong ghế để đối diện Winston. Ông gần như không để ý đến Julia, coi như tất nhiên Winston có thể nói thay nàng. Ông chớp mí một lúc. Rồi ông bắt đầu hỏi bằng một giọng thiếu diễn cảm như thể đó là một việc quen thuộc, một bài giáo lý mà những lời đáp phần đông đã được biết trước.
"Anh chị có sẵn sàng hy sinh tính mạng mình không ?"
"Có."
"Anh chị có sẵn sàng giết người không ?"
"Có."
"Sẵn sàng phá hoại có thể khiến cho hàng trăm kẻ vô tội chết không ?"
"Có."
"Sẵn sàng lừa dối, giả mạo, dọa nạt, hủ hóa óc trẻ con, phát độc dược làm người ta nghiện, khuyến khích mãi dâm, truyền bệnh hoa liễu — làm bất cứ điều gì có thể gây sự mất tinh thần và thuyên giảm uy quyền của Đảng không ?"
"Có."
"Tỷ dụ, nếu để có cơ phục vụ quyền lợi của chúng ta, phải tạt lưu toan vào mặt một đứa trẻ — anh chị có sẵn sàng làm không ?"
"Có."
"Anh chị có sẵn sàng mất căn cước và sống chuỗi đời còn lại như một người hầu bàn hay một phu bến tàu không ?"
"Có."
"Anh chị có sẵn sàng tự tử, nếu và khi chúng tôi ra lệnh không ?"
"Có."
"Cả hai có sẵn sàng xa nhau và không bao giờ gặp nhau trở lại không ?"
"Không !" Julia buột miệng.
Winston có cảm tưởng thời gian trôi lâu trước khi anh trả lời. Trong một lát anh tựa như mất cả khả năng nói lên lời. Lưỡi anh cử động không ra tiếng, cố lập lên âm tiết của chữ này đến âm tiết của của chữ khác, lập đi lập lại. Cho tới khi anh nói ra được, anh không biết mình sắp nói gì. "Không," anh tận cùng nói.
"Anh chị cho tôi biết vậy là phải," ÓBrien bảo. "Chúng tôi cần rõ mọi điều."
Ông quay lại phía Julia và nói thêm bằng một giọng diễn cảm hơn:
"Chị có hiểu rằng nếu anh ấy sống sót, anh ấy có thể trở thành một người khác hẳn không ? Chúng tôi có thể bó buộc phải cho anh ấy một căn cước khác. Mặt mũi, cử chỉ, hình tay, màu tóc — ngay cả giọng nói cũng có thể khác. Và chính chị cũng có thể trở thành một người khác. Giải phẫu gia của chúng tôi có thể cải dạng người đến độ không nhận diện ra. Có khi cần phải làm vậy. Có khi chúng tôi phải cắt cụt chân tay."
Winston không dằn được lòng liếc một lần nữa vào khuôn mặt Mông Cổ của Martin. Anh không thấy một vết sẹo nào trên đó. Sắc mặt Julia lạt ra làm nổi bật vết tàng nhan của nàng, nhưng nàng bạo dạn đương đầu với ÓBrien.
"Tốt. Thế là quyết định xong."
Có một hộp thuốc lá bằng bạc trên bàn. Một cách lơ đãng, ÓBrien đẩy thuốc lá về phía mấy người khác; chính ông cầm một điếu lên, rồi đứng dậy bắt đầu chậm chạp đi đi lại lại như thể đi đứng ông suy nghĩ được hơn. Thuốc lá rất ngon, thật dày và cuốn chắc, có giấy bọc mịn khác thường. ÓBrien nhìn đồng hồ đeo tay một lần nữa.
"Martin, anh nên trở vào gian hầu dọn," ông ta nói. "Tôi sẽ bật máy lại khoảng mười lăm phút nữa. Anh hãy nhìn kỹ mặt hai đồng chí này trước khi ra khỏi đây. Anh sẽ gặp lại họ. Tôi thì không thể gặp lại được."
Hệt như lúc ở ngoài cửa nhà, đôi mắt đen của người đàn ông nhỏ bé lướt trên mặt họ. Không có một dấu thân thiện nào hiện trong điệu bộ của hắn. Hắn ghi nhớ hình dáng họ, nhưng hắn không thấy hay không có vẻ thấy họ đáng lưu tâm đến. Winston chợt nghĩ rằng một gương mặt hóa hợp có lẽ không thể đổi sắc. Không nói hay không chào hỏi gì, Martin ra ngoài, lặng lẽ đóng cửa sau hắn. ÓBrien vẫn đi lên đi xuống, một tay thọc trong túi bộ áo liền quần, một tay cầm điếu thuốc lá.
"Anh chị phải hiểu rằng anh chị sẽ tranh đấu trong bóng tối," ông nói. "Anh chị sẽ luôn luôn ở trong bóng tối. Anh chị sẽ nhận lệnh và sẽ phải tuân theo dù không biết lý do. Sau này tôi sẽ gửi cho anh chị một cuốn sách giảng dạy bản chất thực thụ của xã hội trong đó chúng ta sống, cùng chiến lược mà chúng ta theo để phá hủy nó. Khi đọc xong sách, anh chị sẽ là hội viên trọn vẹn của Hội Tình Thân. Nhưng giữa các mục tiêu đại cương mà chúng ta nhằm và những phận sự tức thời, anh chị sẽ không bao giờ biết gì. Tôi bảo anh chị Hội Tình Thân có thật, nhưng tôi không thể cho anh chị hay số hội viên là một trăm hay mười triệu. Dựa trên kinh nghiệm riêng của anh chị, anh chị sẽ không bao giờ nói nổi Hội có tới một tá người hay không. Anh chị sẽ có ba bốn liên lạc viên, những người đó có thể thay đổi trong trường hợp họ mất tích. Vì anh chị tiếp xúc với tôi để bắt liên lạc, sự tiếp xúc này sẽ được duy trì. Khi anh chị nhận lệnh, lệnh đó sẽ là do tôi phát. Nếu chúng tôi thấy cần phải liên lạc với anh chị, chúng tôi sẽ qua trung gian của Martin. Khi rốt cuộc anh chị bị bắt, anh chị sẽ thú tội. Điều đó không thể tránh được. Nhưng anh chị sẽ có rất ít điều để khai ngoài hành động của chính anh chị. Anh chị sẽ không thể phản được quá một nắm người không quan trọng. Có lẽ ngay tôi anh chị cũng sẽ không phản được. Từ giờ tới đó, tôi có thể đã chết, hay đã biến thành một người khác, với một khuôn mặt khác."
Ông tiếp tục đi đi lại lại trên tấm thảm êm. Mặc dầu thân hình của ông vạm vỡ, cử động của ông có một vẻ duyên dáng đặc biệt. Nó phát hiện ngay trong cử chỉ thọc tay vào túi hay cầm điếu hút của ông. Hơn cả sức mạnh, ông gây ấn tượng của sự tự tín và trí thông minh pha chút mỉa mai. Dù hăng say thế nào, ông không hề có óc định kiến của kẻ cuồng tín. Khi ông nói về ám sát, tự tử, bệnh hoa liễu, tay chân cắt cụt, mặt mũi biến đổi, lời ông có một vẻ chế giễu nhẹ. "Điều này không thể tránh được," giọng ông hình như nói; "đấy là điều mình phải làm, không được núng lòng. Nhưng đó không phải là điều chúng ta sẽ làm khi đời đáng sống trở lại." Một luồng cảm phục gần như tôn thờ trào từ Winston về phía ÓBrien. Lúc này anh quên bẵng hình ảnh rầu rĩ của Goldstein. Khi nhìn vào đôi vai lực lưỡng và gương mặt cứng nét vừa xấu xí mà vừa lịch sự của ÓBrien, không thể tin được rằng ông ta có thể thất bại. Không một mưu kế nào mà ông không đương đầu nổi, không một nguy cơ nào mà ông không tiên đoán ra. Ngay Julia hầu như cũng bị xúc động. Nàng đã rút thuốc lá ra khỏi miệng và chăm chú nghe. ÓBrien nói tiếp:
"Anh chị đã được nghe tin đồn về Hội Tình Thân. Chắc hẳn anh chị đã có một ý niệm về nó. Có lẽ anh chị mường tượng một tổ chức mưu phản ngầm rộng lớn với các hội viên bí mật gặp nhau trong hầm, nguệch ngoạc tin tức trên tường, nhận ra nhau nhờ mật mã hay cử chỉ đặc biệt. Không có trò như vậy. Các hội viên Hội Tình Thân không có cách nào nhận ra nhau và không một hội viên nào biết được căn cước của hơn vài ngưòi khác. Ngay Goldstein, nếu rơi vào tay Cảnh Sát Tư Tưởng, cũng không thể cho chúng một danh sách hội viên đầy đủ hay tin tức gì có thể dẫn tới danh sách đó. Không có một thứ danh sách như vậy. Hội Tình Thân không thể bị tiêu diệt vì không phải là một tổ chức theo nghĩa thường. Không có gì kết hợp Hội trừ một lý tưởng không thể bị hủy diệt. Ngoài lý tưởng anh chị sẽ không nương tựa được vào đâu. Anh chị sẽ không có bạn bè và sẽ không có người khích lệ. Sau cùng, khi anh chị bị bắt, anh chị sẽ không được giúp đỡ. Chúng tôi không bao giờ giúp đỡ hội viên. Quá lắm, nếu nhất thiết phải khóa khẩu tù nhân nào, chúng tôi có thể cho đem lẻn dao cạo vào xà lim họ. Anh chị sẽ phải tập sống không kết quả và không hy vọng. Anh chị sẽ làm việc một thời gian, anh chị sẽ bị bắt, anh chị sẽ thú tội, và anh chị sẽ chết. Đó là kết quả duy nhất anh chị sẽ thấy được. Không thể có một sự thay đổi nhận thấy được nào xảy ra trong sinh thời của chúng ta. Chúng ta là kẻ chết. Đời sống thực sự duy nhất của chúng ta nằm trong tương lai. Chúng ta sẽ tham gia thời ấy dưới hình thức nắm bụi hay mảnh xương vụn. Nhưng tương lai ấy còn bao xa, không tài nào biết được. Có thể là một ngàn năm nữa. Hiện tại không thể làm gì hơn việc nới rộng dần dần khu vực tinh thần lành mạnh. Chúng ta không thể hoạt động tập thể. Chúng ta chỉ có thể truyền bá sự hiểu biết của chúng ta, từ cá nhân cho cá nhân, hết thế hệ này đến thế hệ khác. Đối đầu với Cảnh Sát Tư Tưởng không có cách gì khác."
Ông ngưng tiếng và nhìn lần thứ ba vào đồng hồ đeo tay.
"Sắp tới giờ đồng chí phải đi," ông nói với Julia. "Đợi chút. Bình rượu còn đầy nửa."
Ông rót đầy ba cốc và cầm chân cốc của ông nâng lên.
"Lần này chúc mừng gì đây ?" ông nói vẫn với chút mỉa mai nhẹ. "Chúc cho Cảnh Sát Tư Tưởng bị bối rối ? Chúc cho Bác chết ? Chúc cho nhân loại ư ? Chúc cho tương lai ?"
"Chúc cho quá khứ," Winston nói.
"Quá khứ quan trọng hơn," ÓBrien trịnh trọng tán thành.
Họ uống cạn cốc và một lát sau Julia đứng dậy ra về. ÓBrien lấy từ trên nóc tủ nhiều ngăn một hộp nhỏ và đưa cho nàng một viên trắng bẹt dặn nàng để nó trên lưỡi. Ông nói, cốt yếu là ra ngoài không được bốc mùi rượu vang: các tên hầu thang máy rất có óc quan sát. Cánh cửa vừa đập sau lưng nàng, ông tuồng như đã quên sự hiện hữu của nàng. Ông bước đi bước lại một hai lần nữa rồi dừng chân.
"Có vài chi tiết cần được giải quyết," ông nói. "Tôi phỏng đoán anh có một nơi trú ẩn chứ ?"
Winston giải thích về căn phòng trên tiệm của ông Charrington.
"Thế hiện được. Sau này chúng tôi sẽ thu xếp một nơi khác cho anh. Thay đổi luôn luôn chỗ ẩn là một điều quan trọng. Trong khi chờ đợi tôi sẽ gửi cho anh càng sớm cành hay một bản quyển sách" — ngay ÓBrien, Winston để ý, hình như cũng phát âm từ đó như thể nó là chữ nghiêng — "sách của Goldstein ấy mà. Phải vài ngày nữa tôi mới kiếm được ra một bổn. Không còn mấy quyển tồn tại, như anh có thể đoán. Chúng tôi chưa xuất bản xong sách, Cảnh Sát Tư Tưởng đã truy tầm kịp và tiêu hủy nó. Không hề gì mấy. Quyển sách không thể bị hủy diệt. Nếu bản cuối mất đi, chúng tôi có thể sao lại sách gần như từng chữ một. Anh có mang cặp đi làm không ?" ông nói thêm.
"Bình thường, có."
"Nó như thế nào ?"
"Đen, cũ rích. Có hai đai."
"Đen, hai đai, cũ rích — tốt. Có ngày khá gần đây — tôi không cho được rõ ngày — một trong những mẩu tin thuộc công việc anh sẽ gồm một chữ in sai và anh sẽ phải xin một bản khác. Ngày hôm sau anh sẽ không mang cặp đi làm. Ngày hôm đó, sẽ có lúc ở ngoài phố có người đụng vào tay anh và nói: "Thiết tưởng ông đánh rơi cặp của ông". Chiếc cặp người ta đưa cho anh sẽ đựng một bản sách của Goldstein. Anh sẽ trả lại sách nội mười bốn ngày."
Họ im lặng một hồi.
"Còn hai phút nữa anh phải đi," ÓBrien nói. "Chúng ta sẽ gặp lại nhau — nếu chúng ta phải gặp lại nhau —"
Winston ngước mắt nhìn ông. "Tại nơi không có bóng tối ?" anh do dự nói.
ÓBrien gật đầu không lộ vẻ ngạc nhiên. "Tại nơi không có bóng tối," ông lập lại làm như ông đã nhận ra lời ám chỉ. "Trong khi chờ đợi, anh có điều gì muốn nói trước khi ra đi không ? Có nhắn gì không ? Có hỏi gì không ?"
Winston suy nghĩ. Cơ hồ không còn điều gì anh muốn hỏi: anh lại càng không có ý định thốt ra những lời khái luận kêu to rỗng tuếch. Thay vì một sự liên quan trực tiếp tới ÓBrien hay Hội Tình Thân, hiện ra trong óc anh hình ảnh lẫn lộn của căn phòng đen tối nơi mẹ anh sống chuỗi ngày cuối cùng của bà, với căn phòng nhỏ trên cửa tiệm của ông Charrington, cùng tấm chặn giấy thủy tinh và bức tranh khắc thép trong khung gỗ trắc. Gần như ngẫu nhiên anh hỏi:
"Liệu ông có biết một bản nhạc xưa bắt đầu bằng ""Cam với chanh, chuông Thánh Clement reo"" không ?"
Lại nữa ÓBrien gật đầu. Với một điệu phong nhã trịnh trọng ông đọc hết đoạn thơ:
Cam với chanh, chuông Thánh Clement reo,
Anh nợ tôi ba xu, chuông Thánh Martin reo,
Khi nào anh trả tôi ? chuông Già Bailey reo,
Khi nào tôi giàu có, chuông Shoreditch reo.
"Ông biết câu cuối !" Winston nói.
"Phải, tôi biết câu cuối. Và bây giờ tôi e là lúc anh phải về. Nhưng đợi chút. Anh nên để tôi cho anh một viên này."
Khi Winston đứng dậy, ÓBrien giơ tay ra. Nắm tay mạnh mẽ của ông bóp nát xương lòng tay anh. Tới cửa Winston ngoảnh mặt nhìn lại, nhưng ÓBrien hầu như sắp gạt anh ra khỏi tâm trí. Ông đứng đợi, tay đặt trên nút bấm chỉ huy máy truyền hình. Qua mình ông, Winston có thể thấy cái bàn giấy với ngọn đèn có chao xanh lục, máy ghi âm và sọt lưới đầy ngập giấy. Sự kiện đã kết thúc. Nội ba mươi giây nữa, anh chợt nghĩ, ÓBrien sẽ vì Đảng trở về với công việc quan trọng bị bỏ dở.
Winston keo người vì mệt. Dùng chữ keo là đúng. Từ đó nảy tự nhiên trong óc anh. Thân hình anh tuồng như không những nhũn như keo mà còn trong suốt giống keo nũa. Anh có cảm tưởng nếu anh giơ tay lên cao anh sẽ nhìn được ánh sáng xuyên qua nó. Hồng và bạch huyết của anh đã rút hết khỏi người anh vì sự làm việc quá lạm, chỉ chừa lại một cấu trúc mảnh dẻ gồm thần kinh, xương và da. Các cảm giác của anh hình như bị phóng đại. Bộ áo liền quần của anh cưa vai anh, mặt đưòng lát cào chân anh, ngay cả sự khép hay mở tay ra cũng là một sự cố gắng làm các khớp xương tay kêu rắc.
Anh đã làm việc hơn chín mươi tiếng trong năm ngày. Ai ở trong Bộ cũng làm việc như vậy. Nay việc đã xong và anh hoàn toàn không có gì để làm, không có việc Đảng nào trước sáng mai. Anh có thể đến ở sáu tiếng nơi chỗ trú ẩn và về nhà nằm giường chín tiếng. Dưới nắng chiều dịu, anh bước chân chậm chạp trên một con phố tồi tàn về phía cửa tiệm ông Charrington, một mắt canh chừng các đội tuần tra, tuy tin một cách phi lý trong lòng rằng chiều nay không có nguy có kẻ phiền nhiễu anh. Chiếc cặp nặng mà anh đang xách dập vào đầu gối anh mỗi khi anh bước, truyền từ trên xuống dưới da cẳng anh một cảm giác ngứa ngáy. Trong cặp là Quyển sách anh giữ từ sáu ngày nay nhưng chưa mở ra, chưa cả nhìn nữa.
Vào ngày thứ sáu của Tuần Lễ Hận Thù, sau các đám rước, các bài diễn văn, sau các trò hô hào, hát xướng, biểu ngữ, bích chương, phim ảnh, hình sáp, lăn trống, tru kèn, dậm chân thình thịch, sau xích xe tăng kèn kẹt, đoàn máy bay ồ ồ, súng pháo ầm ĩ — sau sáu ngày như vậy, khi đại nhục khoái bập bùng tới điểm cực lạc và nỗi oán hận chung đối với Âu Á sôi điên cuồng đến độ nếu đám đông tóm được cả hai ngàn tên tội phạm chiến tranh Âu Á sẽ bị xử treo trước công chúng vào ngày cuối quá trình, thế nào họ cũng sẽ xé tan xác chúng — đúng lúc ấy có tin sau rót Đại Dương không đánh nhau với Âu Á. Đại Dương đánh nhau với Đông Á. Âu Á là đồng minh.
Dĩ nhiên, không có lời công nhận nào về một sự thay đổi đã xảy ra. Chỉ thấy, bỗng thình lình lập tức khắp nơi, có tin Đông Á chứ không phải là Âu Á là kẻ thù. Winston đang tham gia một cuộc biểu tình tại một quảng trường ở trung tâm Luân Đôn khi sự kiện diễn biến. Lúc đó vào đêm, các khuôn mặt trắng và cờ xí đỏ sáng nhợt dưới đèn. Quảng trường đông nghẹt hàng ngàn người, kể cả một khu gồm khoảng một nghìn học sinh trong y phục của Đoàn Gián Điệp. Trên một bục phủ vải đỏ, một diễn giả thuộc Đảng Trong, một người đàn ông nhỏ gầy có tay dài quá khổ và một cái đầu to trên đó lún phún vài mớ tóc rễ tre, đang hô hào dân chúng. Như một người nộm nhỏ bé queo lại vì căm hờn, hắn đưa một tay nắm chặt cổ máy ghi âm, trong khi tay kia, kếch xù cuối một cánh tay xương xẩu, cào hăm dọa không khí trên đầu hắn. Giọng hắn đanh kim qua máy phóng thanh, gầm ra một bảng kê khai bất tận kể lể những sự ác nghiệt, giết chóc, giam đày, cướp bóc, hiếp hãm, tra tấn tù binh, oanh tạc thường dân, tuyên truyền dối trá, tấn công vô cớ, vi phạm thỏa ước. Nghe hắn nói hầu như không thể không bị thuyết phục và điên tiết lên. Cứ chốc chốc sự cuồng nhiệt của đám đông lại sôi lên sùng sục và tiếng của diễn giả bị chìm dưới tiếng thú dại gầm hét không kềm nổi bật ra từ hàng ngàn cuống họng. Những tiếng hét man dại nhất thoát ra từ đám học sinh. Bài diễn văn kéo dài được chừng hai mươi phút thì có một người đưa tin chạy đến bục nhét một mẩu giấy vào tay diễn giả. Hắn mở giấy ra đọc nhưng không ngưng diễn thuyết. Không có gì thay đổi trong giọng nói hay điệu bộ hắn cũng như trong nội dung câu văn hắn, nhưng đột nhiên danh tính khác hẳn. Không có lời giải thích nhưng sự hiểu biết lan trong đám đông. Đại Dương đánh nhau với Đông Á ! Phút chốc có một cuộc chấn động lớn. Các cờ xí và bích chương trang hoàng quảng trường đều sai cả ! Gần nửa vẽ mặt sai. Có sự phá hoại ! Cán bộ của Goldstein ra tay đó ! Thể là có một gian khúc náo động để giật bích chương khỏi tường, để xé và giẫm nát cờ xí. Đoàn Gián Điệp trổ tài lạ trong việc trèo lên mái nhà cắt cờ đuôi nheo phất phơ trên ống khói. Nhưng nội hai ba phút cuộc náo động chấm dứt. Một tay nắm chặt cổ máy ghi âm, vai ấn mình về phía trước, tay rảnh cào không khí, diễn giả từ nẫy vẫn tiếp tục diễn thuyết. Phút sau, những tiếng gầm giận dữ hung bạo lại bật lên từ đám đông. Cơn Hận Thù tiếp tục y như trước ngoại trừ sự thay đổi đối tượng.
Điều làm Winston xúc động khi nghĩ lại là việc diễn giả nhảy từ đường lối này sang đường lối khác giữa câu, mà không ngập ngừng, không cả phạm cú pháp. Nhưng lúc đó anh có nhiều chuyện bận lòng hơn. Đương lúc lộn xộn khi bích chương bị xé giật, có một người đàn ông anh không rõ mặt đập tay vào vai anh và nói: "Xin lỗi, dường như ông đã đánh rơi chiếc cặp này." Không nói gì, anh lơ đãng cầm lấy cặp. Anh biết phải lâu ngày nữa anh mới có cơ hội nhìn vào trong đó. Khi cuộc biểu tình chấm dứt anh trở về Bộ Sự Thật mặc dầu lúc ấy đã gần hai mươi ba giờ. Toàn thể nhân viên trong Bộ đều làm vậy. Lệnh đã ra trên máy truyền hình gọi họ về nơi làm việc gần như không cần thiết.
Đại Dương đánh nhau với Đông Á: Đại Dương vẫn đánh nhau với Đông Á. Một phần lớn văn thư chính trị từ năm năm nay bây giờ đâm thành hoàn toàn hủ lậu. Các bản tường trình và tài liệu các loại, báo chí, sách vở, văn đả kích, phim, băng đĩa, hình ảnh, mọi thứ phải được cấp tốc sửa lại. Tuy không có chỉ thị, ai cũng biết rằng các trưởng Cục muốn nội một tuần không một chứng cứ nào về chiến tranh với Âu Á hay hiệp ước với Đông Á được tồn tại bất cứ đâu. Công việc nặng nhọc, nhất là vì thêm vào đó không được gọi đúng tên quá trình phải thực hiện. Ai ở trong Cục Văn Khố cũng làm việc mười tám trên hai mươi tư tiếng với hai đoạn giấc ba tiếng. Nệm được khiêng lên từ hầm trải khắp hành lang: cơm nước gồm bánh mì kẹp nhân và cà phê Chiến Thắng do nhân viên quán ăn đẩy xe mang tới. Mỗi lần ngưng tay vì tới phiên anh đi ngủ, Winston cố thu xếp cho không còn việc trên bàn, nhưng khi anh bò về bàn với mắt còn dính và người nhức mỏi, đã thấy một xấp cuốn giấy phủ bàn anh như một đống tuyết, vùi nửa chừng máy ghi âm và tràn xuống sàn, thành thử công việc đầu tiên của anh bao giờ cũng là sắp giấy lại thành chồng ngăn nắp để có chỗ làm việc. Điều ngán nhất là công việc không đơn thuần máy móc chút nào. Có khi chỉ cần thay tên này vào tên khác, nhưng bản tường trình nào cũng đòi hỏi sự cẩn thận và trí tưởng tượng. Ngay tầm hiểu biết về địa dư để chuyển chiến tranh từ địa phương này sang địa phận khác cũng cần phải lớn lao.
Ngày thứ ba mắt anh đau không thể chịu được và cứ vài phút anh lại phải lau kính. Cơ hồ anh đang đương đầu với một công việc thể chất nặng nề, một việc anh có quyền từ chối, song le anh cứ bồn chồn lo lắng hoàn tất nó. Theo như bấy nhiêu anh nhớ, anh không bị xúc động bởi sự mỗi chữ anh thì thầm trong máy ghi âm, mỗi dấu bút mực của anh là một điều quyết ý giả dối. Như mọi người khác trong Cục anh chỉ lo cho sự giả mạo được hoàn hảo. Vào sáng ngày thứ sáu mức tuôn cuộn giấy giảm xuống. Trong đến một nửa tiếng không có gì tuột ra khỏi ống; rồi thêm một cuộn, rồi không thấy gì. Khắp nơi khoảng cùng một lúc công việc nhẹ đi. Một hơi thở dài tuy thầm kín lan khắp Cục. Một công chuyện khổng lồ không bao giờ được nhắc tới đã kết thúc. Bây giờ không một ai có thể dẫn chứng bằng tài liệu sự chiến tranh với Âu Á đã từng xảy ra. Tới mười hai trăm có thông cáo bất ngờ cho phép mọi nhân viên trong Bộ được nghỉ tới sáng hôm sau. Winston về nhà, xách theo chiếc cặp được anh kẹp giữ dưới chân khi làm việc và đặt dưới người khi đi ngủ, cạo râu, rồi suýt ngủ gật trong khi tắm mặc dầu nước chẳng ấm gì.
Khớp xương anh bẻ rắc một cách thú vị khi anh leo cầu thang lên gác cửa tiệm ông Charrington. Anh mệt mỏi nhưng không còn buồn ngủ nữa. Anh mở cửa sổ ra, châm cái bếp dầu nhỏ bẩn, và đặt một xoong nước để làm cà phê lên. Julia sắp sửa tới. Trong khi chờ đợi có Quyển sách. Anh ngồi xuống cái ghế bành cũ rích và tháo đai cặp ra.
Một quyển sách dày đen, do một người không chuyên nghề đóng, không có tên tác giả hay nhan đề ngoài bìa. Chữ in cũng có vẻ không đều mấy. Trang bị nhàu ở mép và dễ rách rời làm như cuốn sách đã qua nhiều tay. Câu đề ghi trên trang đầu như sau:
LÝ THUYẾT VÀ THỰC HÀNH CỦA
CHỦ NGHĨA TẬP THỂ QUẢ ĐẦU
do
Emmanuel Goldstein soạn
Winston bắt đầu đọc:
Chương I: Sự ngu xuẩn là sức mạnh
Suốt lịch sử, và có lẽ từ thời đại Tân thạch khí, có ba loại dân trên thế giới, loại Thượng, loại Trung và loại Hạ. Những loại đó phân ra nhiều chi có không biết bao tên khác nhau, và thành phần của mỗi loại cũng như thái độ của mỗi loại đối với nhau, thay đổi từ thời này sang thời kia: nhưng cơ cấu cốt yếu của xã hội không bao giờ biến chất. Ngay cả sau các vụ đột khởi và các biến đổi bất khả truất bãi, cấu trúc cũ luôn luôn tự tái lập, hệt như máy quay hồi chuyển luôn luôn quay về thế thăng bằng, dù bị đẩy xa đến đâu về phía này hay phía kia.
Mục đích của các nhóm đó hoàn toàn không dung hòa được với nhaụ..
Winston ngưng đọc, đặc biệt để thưởng thức sự anh đang đọc trong cảnh tiện nghi an toàn. Anh có một mình: không có máy truyền hình, không có tai áp sau lỗ khóa, không có xung động thần kinh làm anh liếc nhìn sau vai hay lấy tay che trang giấy. Khí hạ dịu mơn trớn má anh. Từ đâu đó đằng xa khẽ vọng lại tiếng la của trẻ nhỏ: ngay trong phòng không có tiếng động nào ngoài tiếng sâu bọ của đồng hồ. Anh lùn người sâu hơn vào chiếc ghế bành và đặt chân trên tấm chắn lò sưởi. Đây là đại hạnh, đây là đời đời. Bỗng nhiên, như ngưòi ta thường làm với một cuốn sách mình biết cuối cùng mình sẽ đọc đi đọc lại từng chữ, anh giở sách sang trang khác vào đúng chương III. Anh tiếp tục đọc:
Chương III: Chiến tranh là hòa bình
Sự phân chia thế giới ra làm ba siêu quốc là một sự kiện có thể và đã được tiên đoán trước giữa thế kỷ hai mươi. Với sự sát nhập Âu Châu vào Nga và Đế quốc Anh vào Hoa Kỳ, hai trong ba cường quốc hiện hữu, Âu Á và Đại Dương, đã thực sự thai nghén. Cường quốc thứ ba, Đông Á, chỉ xuất hiện như một nước thống nhất sau thêm mười năm rối ren. Ranh giới giữa ba siêu quốc được định một cách độc đoán tại vài nơi, di động theo vận mệnh chiến tranh tại nơi khác, nhưng nói chung nó tùy theo tuyến đường địa dư. Âu Á gồm toàn thể bắc phần Âu Châu và đại thổ Á Châu, từ Bồ Đào Nha đến eo biển Behring. Đại Dương gồm Mỹ Châu, các đảo Đại Tây Dương kể cả quần đảo Anh, Úc Châu và phần nam Phi Châu. Đông Á nhỏ hơn hai nước kia và có ranh giới mé tây kém phần đích xác, bao gồm Trung Hoa và các xứ phía nam, quần đảo Nhật Bản, và một phần đất lớn tuy hay di dịch của Mãn Châu, Mông Cổ và Tây Tạng.
Kết hợp thế này hay thế khác, ba siêu quốc luôn luôn đánh nhau và cứ thế từ hai mươi nhăm năm nay. Song le, chiến tranh không còn là cuộc chiến tuyệt vọng mòn mỏi như nó từng như vậy trong mấy chục năm đầu thế kỷ hai mươi. Đây là một cuộc chiến có mục tiêu hạn định giữa những địch thủ không thể tiêu diệt được nhau, không có lý do cụ thể để đánh nhau, không bị chia rẽ bởi một sự khác biệt chủ nghĩa xác thực nào. Thế không có nghĩa là sự điều khiển chiến tranh hay thái độ ưu thắng đối với nó kém tàn bạo hay hào hiệp hơn. Ngược lại, chứng cuồng chiến tiếp diễn và thịnh hành khắp nơi, và những hành động như hãm hiếp, cướp bóc, giết trẻ con, biến toàn cư dân thành nô lệ, trả thù tù binh tới mức đun sôi, chôn sống họ, được coi như bình thường và đáng khen thưởng nếu do quân phe mình thay vì phe địch phạm phải. Nhưng trên thực tế, chiến tranh liên hệ tới rất ít người, phần đông là chuyên viên được huấn luyện kỹ càng, và tương đối gây ít thiệt hại. Trận đánh, nếu có, xảy ra tại một vùng biên giới mù mịt mà thường dân chỉ đoán được ra nơi chốn, hay quanh các Pháo Đài Nổi canh giữ những điểm chiến lược trên đường biển. Tại các trung tâm khai hóa, chiến tranh không có nghĩa gì ngoài một sự khan hiếm hàng hóa liên tục, và sự đôi khi bom lửa làm vài chục người chết. Chiến tranh thực ra đã đổi chất. Đúng hơn, những lý do gây ra chiến tranh đã đổi thứ tự quan trọng. Những duyên cớ từng có mặt ở một mức độ nhỏ trong các cuộc đại chiến hồi đầu thế kỷ hai mươi, nay trội hẳn, được công nhận và được tính đến trong hành động.
Muốn hiểu bản chất của chiến tranh hiện tại — vì mặc dầu sự thay đổi liên minh xảy ra cứ vài năm một, nó lúc nào cũng vậy — phải ý thức rằng nó không thể có tính cách quyết định. Không một trong ba siêu quốc nào có thể bị xâm chiếm hẳn dù bởi cả hai nước kia hợp nhau lại. Ba nước quá ngang nhau và các phương tiện phòng thủ thiên nhiên của cả ba quá lớn lao. Âu Á được che chở bởi khoảng đất rộng rãi của nó, Đại Dương bởi sự bao la của Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, Đông Á bởi khả năng sinh sản và sự cần mẫn của dân bản xứ. Sau đó, cụ thể ra, không còn gì đáng được tranh đấu cho nữa. Với sự thành lập kinh tế tự túc trong đó sản xuất và tiêu thụ được gắn liền nhau, sự tranh giành thị trường là lý do chính của các cuộc chiến trước kia nay không còn nữa, đồng thời sự tranh đoạt nguyên liệu hết là một vấn đề sống chết. Vả lại, siêu quốc nào cũng đủ lớn để có thể thu được hầu hết vật liệu cần thiết trong ranh giới mình. Nếu bảo rằng chiến tranh phải có một mục tiêu kinh tế trực tiếp, thì đây là một cuộc chiến giành nhân công. Giữa ranh giới của ba siêu quốc, không thuộc lâu bất cứ siêu quốc nào, có một khu đại khái hình bốn cạnh với góc đặt trên Tanger, Brazzaville, Darwin và Hồng Kông, gồm một phần năm dân số thế giới. Chính vì quyền sở hữu trên các vùng đông dân cư đó và trên vùng mũi đá bắc cực mà ba siêu quốc luôn luôn đánh nhau. Trên thực tế không một cường quốc nào kiểm soát được toàn thể vùng tranh giành. Nhiều phần vùng đó luôn luôn đổi chủ, và chính thói thừa cơ lừa đánh để chiếm mảnh đất này hay mảnh đất kia xui nên sự thay đổi vô tận đồng minh.
Các đất đai tranh giành chứa đựng nhiều khoáng vật quý giá, một vài vùng sản xuất nhiều thực vật quan trọng, ví như cao xu, một chất mà các xứ có khí hậu lạnh phải hóa hợp bằng phương pháp so ra tốn kém hơn. Nhưng trên hết, các vùng đó có một trữ lượng nhân công rẻ tiền. Cường quốc nào kiểm soát được vùng xích đạo Phi Châu hay các xứ Trung Đông hoặc Nam Ấn Dộ, hay bán đảo Nam Dương, đương nhiên được sử dụng hàng chục hay trăm triệu cu li ăn ít lương mà làm việc nặng nhiều. Dân cư các vùng ấy bị dồn công khai ít nhiều vào cảnh nô lệ, không ngớt qua tay hết kẻ chinh phục này đến kẻ chinh phục kia, và bị đẩy như thể than dầu vào cuộc tranh đua sản xuất nhiều binh khí hơn, chiếm đóng nhiều đất đai hơn, kiểm soát nhiều nhân công hơn, và cứ như vậy mãi mãi. Phải lưu ý rằng cuộc chiến không bao giờ thực sự di dịch ngoài lề vùng tranh giành. Biên giới của Âu Á chạy qua chạy lại giữa bồn Congo và bờ bắc Địa Trung Hải; các đảo Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương bị luôn luôn chiếm đi chiếm lại bởi Đại Dương hay Đông Á; tại Mông Cổ ranh giới giữa Âu Á và Đông Á không bao giờ vững; quanh Bắc Cực cả ba cường quốc đều sách hoàn nhiều đất đai rộng lớn phần đông không có người ở và chưa được ai thám hiểm: nhưng cán cân quyền lực vẫn luôn luôn gần thế quân bình, và lãnh thổ nằm trong trung địa của mỗi siêu quốc không bao giờ bị xâm phạm. Lại nữa, sức lao động của các dân cư bị bóc lột quanh Xích Đạo không thực cần thiết cho kinh tế thế giới. Nó không thêm gì vào tài sản thế giới vì những thức gì nó sản xuất cũng bị dùng vào chiến tranh, và mục tiêu của chiến tranh bao giờ cũng là chiếm ưu thế để giao một cuộc chiến khác. Qua sức lao động của họ, các quần dân nô lệ giúp cho tốc độ chiến tranh liên tục gia tăng. Nhưng nếu không có họ, thực chất cơ cấu xã hội thế giới và tiến trình khiến nó tự duy trì sẽ chẳng đổi khác.
Mục đích đầu tiên của chiến tranh hiện đại (theo nguyên tắc ý đôi, mục đích này vừa được công nhận vừa không được công nhận bởi các đầu não chỉ đạo thuộc Đảng Trong) là tận dụng các sản phẩm của guồng máy tuy không nâng cao mức sống tổng quát. Ngay từ hồi cuối thế kỷ mười chín, vấn đề phải thanh toán thặng số hàng tiêu thụ tiềm tàng trong xã hội công nghiệp. Ngày nay, khi ít người có đủ ăn, vấn đề đó hiển nhiên không còn cấp bách, và nó không thể trở thành cấp bách dù không phương thức tàn phá giả tạo nào được thi hành. Thế giới ngày nay là một chốn trống trơn, đói khát, hoang tàn, so với thế giới thời trước năm 1914, và càng thế hơn khi so với tương lai tưởng tượng mà dân thời đó phác họa. Vào đầu thế kỷ hai mươi, viễn tượng của một xã hội tương lai hết sức giàu có, thư thái, ngăn nắp và hữu hiệu — một thế giới sát trùng bóng loáng của thủy tinh, thép sắt và xi măng trắng như tuyết — ngụ trong trí óc của hầu hết mọi người biết chữ. Hồi đó khoa học và kỹ thuật phát triển theo một tốc độ nhanh chóng lạ lùng, và đương nhiên ai cũng cho rằng nó sẽ tiếp tục phát triển. Điều này không xảy ra, một phần vì sự bần cùng hóa do một tràng chiến tranh và cách mạng gây nên, một phần vì sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật lệ thuộc thói suy nghĩ thực nghiệm, một thói không thể tồn tại trong một xã hội tập hợp chặt chẽ. Đại để thế giới ngày nay ban sơ hơn năm mươi năm về trước. Vài vùng lạc hậu có tiến triển, và một số máy móc luôn luôn có liên hệ sao đó với chiến tranh và điệp vụ có được phát triển, nhưng các cuộc thí nghiệm và các phát minh phần lớn đã ngưng đọng, và các tàn phá của chiến tranh nguyên tử vào quãng năm 1919-59 không bao giờ được tu sửa. Tuy nhiên những mối nguy vốn sẵn trong máy móc vẫn còn đó. Ngay khi máy móc xuất hiện lần đầu tiên, đối với những ai biết suy nghĩ, rõ ràng sự làm ăn vất vả của con người với hậu quả lớn là sự bất bình đẳng trong nhân loại không còn cần thiết nữa. Nếu máy móc được cố ý dùng vào mục đích này, nội vài thế hệ, nạn đói kém, sự lao lực, sự bẩn thỉu, nạn mù chữ và bệnh tật sẽ bị loại hẳn. Và trên thực tế, tuy không được dùng vào một mục tiêu tương tự, nhưng theo một thứ quá trình tự động — do sự sản xuất những của cải không thể không phân phối — máy móc đã nâng cao rất nhiều mức sống của thường dân trong khoảng năm mươi năm vào cuối thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi.
Nhưng cũng rõ ràng, một sự gia tăng tài sản toàn diện để phá hủy — mà thật, cũng nói được nó tức là sự phá hủy — một xã hội dựa trên cấp bậc. Trong một thế giới ai ai cũng làm việc ít giờ, có đủ ăn, sống trong một căn nhà có phòng tắm và máy lạnh, có một xe hơi hay ngay cả một máy bay, hình thức hiển nhiên nhất và có lẽ đáng kể nhất của sự bất bình đẳng sẽ biến mất. Chắc chắn có thể tưởng tượng được một xã hội trong đó tài sản, theo nghĩa của cải và tiện nghi cá nhân, được phân phối đều, trong khi quyền lực nằm trong tay một giai cấp nhỏ được ưu đãi. Nhưng trên thực tế một xã hội như vậy không thể vững bền. Vì nếu sự nhàn rỗi và an ninh được hưởng bởi mọi người ngang nhau, đám đông dân chúng đáng nhẽ bị ngu độn vì nghèo khổ sẽ biết chữ nghĩa và sẽ học suy nghĩ lấy một mình; và khi họ làm được như vậy, sớm muộn gì họ cũng ý thức rằng thiểu số có đặc quyền không có công dụng gì, và họ sẽ quét bay chúng. Với thời gian, một xã hội có giai cấp chỉ tồn tại được trên sự nghèo khổ và ngu xuẩn. Trở về quá khứ nông nghiệp, như vài tư tưởng gia hồi đầu thế kỷ hai mươi mơ mộng, là một giải pháp không thể thực hiện được. Nó chống chọi với xu hướng máy móc hóa đã gần thành bản năng tính trên khắp thế giới. Lại nữa, nước nào còn chậm tiến về kỹ nghệ, tất bất lực về mặt quân sự, và đâm bị các địch thủ tân tiến hơn đô hộ một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Giữ quần chúng trong cảnh nghèo đói bằng cách hạn chế sự sản xuất hóa phẩm cũng không phải là một giải pháp mỹ mãn. Điều này phần lớn xảy ra trong giai đoạn cuối của chế độ tư bản, vào khoảng giữa 1920 và 1940. Kinh tế của nhiều nước được phép đình trệ, đất đai không được cày cấy, vốn liếng trang cụ không được bổ sung, hàng đám dân chúng bị cản không được làm việc và bị khép vào cảnh sống dở nhờ sự bố thí của Nhà Nước. Nhưng biện pháp này cũng vậy, đưa đến sự suy nhược về quân sự, và vì những sự thiếu thốn do nó ép chịu rõ ràng không cần thiết, nó không tránh được sự chống đối. Vấn đề là làm sao giữ cho bánh xe kỹ nghệ vẫn quay mà không gia tăng tài sản thực sự của thế giới. Hàng hóa phải được sản xuất, nhưng không được phân phối. Và trong thực hành, phương cách độc nhất để đạt kết quả ấy là giao chiến liên tục.
Động tác chủ yếu của chiến tranh là phá hủy, không nhất thiết hủy diệt nhân mạng, chỉ cốt sao tiêu hủy sản phẩm nhân công. Chiến tranh là một cách làm nổ tan thành mảnh, làm bay tan trong tầng tĩnh khí, hay làm chìm sâu dưới đáy biển, những vật liệu có thể nếu không sẽ được dùng vào sự khiến cho quần chúng được quá khỏe khoắn và nhờ thế dần dà quá thông minh. Ngay trong trường hợp các binh khí không bị phá hủy, sự chế tạo chúng vẫn là một phương cách tiện lợi để làm hao tổn nhân công mà không sản xuất gì có thể tiêu thụ được. Ví dụ, một Pháo Đài Nổi giam vào nó một số nhân công đáng lẽ dùng để xây hàng trăm tàu vận tải. Tận cùng nó bị vứt bỏ làm sắt vụn vì lỗi thời sau khi chẳng mang lại ích lợi gì cho ai, rồi một Pháo Đài Nổi khác được xây với một sự phí phạm nhân công lớn hơn. Trên nguyên tắc, nỗ lực chiến tranh luôn luôn được trù tính sao cho tiêu hóa mọi dư khoản có thể có sau khi các nhu cầu tối thiểu của dân chúng được ứng đáp. Trong thực hành, nhu cầu của dân chúng luôn luôn bị định non giá, với hậu quả là một sự khan hiếm kinh niên của một nửa số nhu yếu phẩm; nhưng sự khan hiếm bị coi như một lợi khí. Đó là một chính sách có dụng tâm giữ ngay càc đoàn thể được ưu đãi kề cảnh thiếu thốn, vì một tình trạng khan hiếm chung gia tăng tầm quan trọng của những đặc quyền nhỏ, và như vậy biểu dương sự khác biệt giữa đoàn thể này với đoàn thể kia. Theo tiêu chuẩn của đầu thế kỷ hai mươi, ngay một thành viên Đảng Trong cũng có một lối sống cần mẫn khắc khổ. Tuy nhiên, vài sự xa hoa mà họ được hưởng — như nhà cửa rộng rãi trang bị tử tế, vải may quần áo tốt hơn, thức ăn nước uống và thuốc lá ngon hơn, hai ba tên đầy tớ, xe hơi hay trực thăng riêng — đặt họ trong một thế giới khác biệt với đảng viên Đảng Ngoài, và đảng viên Đảng Ngoài cũng có lợi lộc tương tự so với đám quần chúng bị đô hộ mà chúng ta gọi là "dân đen". Không khí xã hội là không khí của một thành phố bị bao vây, trong đó sự chấp hữu một miếng thịt ngựa cũng đủ phân biệt kẻ sang với kẻ hèn. Đồng thời, ý thức đang sống trong cảnh chinh chiến tức trong cảnh nguy khốn, khiến sự trao toàn quyền cho một đẳng cấp nhỏ tuồng như là một điều kiện sống còn tự nhiên không tránh nổi.
Chiến tranh, ta sẽ thấy, thực hiện sự phá hủy cần thiết, nhưng thực hiện nó một cách dễ chấp nhận về mặt tâm lý. Trên nguyên tắc, muốn hao tận sức nhân công dư thừa trên thế giới, giản dị nhất là xây cất đền đài và kim tự tháp, là đào lỗ và đắp lỗ lại, hay cả là sản xuất thật nhiều hàng hóa rồi đem đốt nó đi. Nhưng làm thế là chỉ đặt cơ sở kinh tế chứ không cấp căn bản xúc cảm cho một xã hội có giai cấp. Điều quan hệ đây không phải là tinh thần của quần chúng, vì thái độ của quần chúng không đáng kể miễn sao họ được nghiêm giữ trong kiếp lao động, mà là tinh thần của chính Đảng. Ngay đảng viên thấp kém nhất cũng được đòi hỏi phải biết việc, chăm chỉ, và cả thông minh trong một phạm vi nhỏ hẹp, nhưng ngoài ra cũng cần họ phải là một kẻ cuồng tín cả tin và ngu xuẩn mà đặc tính là óc sợ sệt, oán thù, nịnh bợ, và khoái trá tự đắc. Nói một cách khác, họ cần phải có tâm địa thích hợp với một tình trạng chiến tranh. Chiến tranh có thực sự xảy ra không không quan hệ, và vì một cuộc chiến thắng quyết định không thể có được, cuộc chiến có thắng hay bại không ăn thua gì. Điều thiết yếu là tình trạng chiến tranh phải có. Sự phân tán trí khôn mà Đảng đòi hỏi nơi đảng viên, dễ thực hiện hơn trong không khí chiến tranh, ngày nay gần như đã phổ cập, mà cấp bậc của đảng viên càng cao, sự phân não đó càng mạnh. Chính tại Đảng Trong, óc cuồng chiến và hận thù kẻ địch dữ nhất. Trong khả năng quản trị, thành viên Đảng Trong thường cần biết tin tức chiến tranh nào sai, và họ thường có dịp hiểu rằng toàn thể cuộc chiến bị ngụy tạo, hoặc không xảy ra, hoặc được giao vì những lý do khác hẳn lý do được tuyên bố: nhưng sự hiểu biết đó dễ thành vô hiệu vì phép ý đôi. Đồng thời không một thành viên Đảng Trong nào bị nao núng một giây trong niềm tin tưởng thần bí rằng chiến tranh có thực, rằng nó phải kết cục bằng sự đắc thắng với Đại Dương hiển nhiên biến thành bá chủ hoàn cầu.
Mọi thành viên Đảng Trong tin vào sự chinh phục sắp tới như một giáo điều. Nó sẽ được hoàn thành, hoặc nhờ sự chiếm dần đất đai và nhân đó xây dựng một thế ưu thặng, hoặc nhờ sự sáng chế ra một binh khí mới không có phản công. Sự tìm kiếm khí giới mới không ngừng tiếp tục và là một trong số ít hoạt động còn lại cho phép loại trí óc có sáng kiến và ưa suy luận lộ diện. Tại Đại Dương ngày nay, Khoa học, theo nghĩa xưa, gần như không còn nữa. Trong Ngôn Mới không có chữ "Khoa học". Phương pháp suy tưởng thực nghiệm làm cơ sở cho mọi thực hiện khoa học trong quá khứ, chống lại những nguyên tắc căn bản nhất của Anh Xã. Ngay sự tiến bộ kỹ thuật cũng chỉ được chấp nhận nếu sản phẩm của nó có thể được mang dùng vào sự giảm bớt tự do con người. Trong mọi ngành nghệ thuật hữu ích, thế giới hoặc đứng yên hoặc lùi bước. Cánh đồng được cày với bừa do ngựa kéo, trong khi sách do máy viết. Nhưng trong những sự việc tối quan trọng — thực ra có nghĩa là trong việc chiến tranh và điệp vụ cảnh sát — óc tìm hiểu khoa học vẫn được khuyến khích hay ít nhất được dung túng. Đảng có hai mục tiêu là chinh phục toàn thể diện tích trái đất và tiêu diệt cho sạch mọi khả năng suy tưởng biệt lập. Vì lẽ đó Đảng phải giải quyết hai vấn đề lớn. Một là làm sao cưỡng ý kẻ khác để khám phá xem họ nghĩ gì, hai là làm sao giết được hàng trăm triệu dân trong khoảng vài giây mà không để họ biết trước. Sự nghiên cứu khoa học có được tiếp tục cũng chỉ trong khổ vấn đề đó. Nhà khoa học ngày nay, hoặc là một nhà tâm lý học và một viên truy tà hỗn hợp, tra xét một cách thật tỉ mỉ bình thường ý nghĩa của nét mặt, cử chỉ và giọng nói, thực nghiệm hiệu quả của thuốc làm khai sự thật, của liệu pháp đột kích, của phép thôi miên và sự tra tấn thể xác; hoặc họ là một nhà hóa học, một nhà vật lý học hay một nhà sinh học chỉ lưu tâm đến phần chuyên môn liên quan đến việc hủy diệt sự sống. Trong các phòng thí nghiệm rộng rãi của Bộ Hòa Bình và tại các trại thí nghiệm ẩn trong rừng Ba Tây, trong sa mạc Úc Châu hay trên các đảo hẻo lánh vùng Nam Cực, hàng toán chuyên viên làm việc không biết mệt. Có người chỉ lo kế hoạch hóa việc phối hợp tiếp vận các cuộc chiến tương lai, người thì nghĩ cách cho bom lửa càng ngày càng lớn hơn, cho chất nổ càng ngày càng mạnh hơn, cho vỏ binh khí càng ngày càng khó xuyên qua hơn; có người tìm kiếm chất hơi mới lạ sát sinh hữu hiệu hơn, hay chất độc dễ tan có thể sản xuất được đủ nhiều để tiêu hủy cây cối của các lục địa, hay giống mầm miễn dịch chống mọi kháng thể; còn kẻ gắng chế tạo một loại xe có thể đi được dưới đất giống như tàu ngầm dưới nước, hay một loại tàu bay không phụ thuộc căn cứ như thuyền buồm; thêm kẻ nghiên cứu ngay cả những khả năng xa vời như tập trung ánh mặt trời qua thấu kính treo trong không gian cách trái đất hàng ngàn cây số, hay gây nên những vụ động đất và sóng thần nhân tạo bằng cách đụng vào nhiệt độ trong lòng địa cầu.
Nhưng không bao giờ một dự án trên nào đi tới giai đoạn thực hiện, và không một trong ba siêu quốc nào dẫn đầu được hai nước kia một cách rõ rệt. Điều đáng kể là cả ba đã có với bom nguyên tử một binh khí mạnh hơn bất cứ khí giới nào có thể được phát minh bởi các cơ quan nghiên cứu hiện hữu. Mặc dầu Đảng, theo thói quen, nhận sáng chế về mình, bom nguyên tử xuất hiện lần đầu tiên khá sớm, vào những năm bốn mươi, và được sử dụng trên đại quy mô khoảng mười năm sau. Vào thời đó hàng trăm trái bom được đổ xuống các trung tâm kỹ nghệ, đặc biệt tại Âu Nga, Tây Âu và Bắc Mỹ. Kết quả các nhóm cầm quyền mọi nước nhận thức rằng thêm vài trái bom nguyên tử nữa là xã hội có tổ chức tức quyền thế của họ sẽ kết thúc. Cho nên sau đó, tuy không có thoả ước chính thức nào được nhắc tới, không còn sự thả bom nguyên tử nữa. Cả ba cường quốc chỉ tiếp tục sản xuất bom nguyên tử để trữ, phòng cơ hội quyết định mà họ tin sớm muộn gì cũng sẽ đến. Và trong khi chờ đợi chiến thuật gần như không biến chuyển suốt ba bốn chục năm. Trực thăng được dùng nhiều hơn trước, phi cơ oanh tạc được thay thế bởi tạc đạn tự phóng, và chiếc tàu chiến mỏng mảnh nhường chỗ cho Pháo Đài Nổi; nhưng ngoài ra có ít tiến triển. Xe tăng, tàu ngầm, ngư lôi, ngay cả súng ống lựu đạn vẫn được dùng. Và bất kể những cuộc tàn sát bất tận được phóng sự trên báo chí và máy truyền hình, những trận đánh tuyệt vọng kiểu thời các cuộc chiến trước, trong đó hàng trăm ngàn hay cả hàng triệu người bị giết trong vài tuần, không bao giờ tái diễn.
Không một trong ba siêu quốc nào dám toan tính một thao lược có nguy đưa đến một sự thất bại trầm trọng. Nếu có một cuộc tác chiến lớn, thông thường đó là một vụ đột kích chống đồng minh. Chiến thuật mà cả ba siêu quốc theo hay tự dối là theo y hệt nhau. Kế hoạch là vừa đánh vừa mặc cả, vừa tấn công lừa đúng lúc, cốt chiếm hữu một chuỗi căn cứ bao vây trọn vẹn một nước chư hầu địch, để rồi ký thỏa hiệp với địch và sống hòa thuận với họ đủ lâu năm để ru ngủ được lòng nghi kỵ của họ. Trong khi đó hỏa tiễn chứa bom nguyên tử được tập trung tại các điểm chiến lược; sau cùng các hỏa tiễn sẽ được bắn cùng một lúc với những hậu quả tàn phá mạnh đến nỗi sự trả đũa không thể có được. Lúc đó sẽ là lúc ký một hiệp ước với cường quốc còn lại, trong khi chuẩn bị một cuộc tấn công khác. Khỏi cần phải nói, mưu lược trên chỉ là một giấc mơ ban ngày, không thể thực hiện được. Lại nữa, không hề có một trận đánh nào xảy ra ngoài các vùng tranh giành quanh Xích Đạo và Bắc Cực: không bao giờ thấy cử một cuộc xâm lấn đất địch nào. Điều này giải thích vì sao tại vài nơi, biên giới giữa các siêu quốc được định một cách độc đoán. Ví dụ, Âu Á có thể xâm chiếm dễ dàng các đảo Anh thuộc Âu Châu, mặt khác Đại Dương có thể đẩy biên giới tới sông Rhin hay tới tận sông Vistule. Nhưng làm thế hóa ra vi phạm nguyên tắc toàn vẹn văn hóa do mọi bên tuân theo dù không nói ra. Nếu Đại Dương phải chiếm đóng những vùng trước kia có tên là Pháp và Đức, cần phải hoặc tận sát dân cư các vùng đó, một công việc cụ thể ra rất khó khăn, hoặc đồng hóa một dân số khoảng một trăm triệu người gần ngang trình độ dân Đại Dương về mặt tiến triển kỹ thuật. Cả ba siêu quốc đều có vấn đề tương tự. Tối cần thiết cho cơ cấu của cả ba là không để cho dân tiếp xúc với người ngoại quốc trừ trong giới hạn đó là tù binh hay nô lệ da màu. Ngay đồng minh chính thức đương thời cũng luôn luôn bị ngờ vực là có ý đồ đen tối. Ngoài tù binh ra, thường dân không bao giờ được nhìn thấy người Âu Á hay Đông Á, họ còn bị cấm không được học ngoại ngữ. Nếu họ được phép tiếp xúc với người ngoại quốc họ sẽ khám phá ra rằng những người này giống hệt họ, rằng hầu hết những điều nói về dân ngoại quốc là lời nói dối. Thế giới niêm phong trong đó họ sống sẽ đổ vỡ, và lòng sợ hãi, nỗi oán thù và niềm tin nơi sự chính tâm của họ, được dựng làm nền tảng của luân lý, sẽ tan biến. Vì lẽ vậy, cả ba bên đều hiểu rằng dù Ba Tư, Ai Cập, Java hay Tích Lan có thay đổi chủ mấy lần đi nữa, không thể có chuyện xâm phạm ranh giới chính với bất cứ gì ngoài bom đạn.
Ngụ dưới những ý trên có một sự thể không bao giờ được nhắc tới, nhưng được hiểu ngầm và tôn theo: đó chính là sự điều kiện sống tại cả ba siêu quốc y hệt nhau. Tại Đại Dương triết thuyết đặc trưng có tên là Anh Xã, tại Âu Á nó được gọi là Tân Xích, và tại Đông Á nó có một tên Tàu thường được dịch là Tử Sùng nhưng có lẽ phải dịch là Kỷ Vong mới đúng. Công dân Đại Dương không được phép biết gì về nội dung hai chủ thuyết kia, nhưng được dạy phải ghê tởm những thuyết đó vì chúng man rợ, xúc phạm luân lý cùng lẽ thường tình. Thật ra khó phân biệt được ba triết thuyết ấy, và những chế độ do chúng dung dưỡng cũng chẳng khác biệt nhau chút nào. Nơi nào cũng một cơ cấu hình tháp, với một sự tôn thờ lãnh tụ gần ngang thiên thần, cùng một nền kinh tế xây dựng nhờ và cho chiến tranh liên tục. Cho nên ba siêu quốc không những không thể chinh phục được nhau, còn không có lợi lộc gì nếu làm thế. Ngược lại họ còn đánh nhau, họ còn nâng đỡ được nhau, như thể ba bó lúa. Và như thường lệ, nhóm lãnh đạo thuộc ba cường quốc vừa ý thức vừa không ý thức hành động của mình. Đời sống họ được dâng hiến cho sự chinh phục thế giới, nhưng họ cũng biết rằng chiến tranh cần phải tiếp tục không ngưng và không thắng lợi. Đồng thời sự không có mối nguy bị chinh phục nuôi dưỡng sự chối bỏ thực tế, và điều này là đặc điểm của Anh Xã cùng các ý hệ địch. Đến đây cần phải nhắc lại điều đã nói ở trên, rằng vì trở thành liên tục chiến tranh đã hoàn toàn biến tính.
Thời xưa, chiến tranh, gần như theo định nghĩa, là một tình trạng sớm muộn gì cũng kết liễu, thường sau một cuộc thắng lợi hay thất bại không thể chối cãi. Cũng trong quá khứ, chiến tranh là một trong những phương tiện khiến xã hội loài người giữ liên lạc với thực tế thể chất. Các nhà lãnh đạo các thời đều muốn ép môn đồ chấp nhận một thế giới quan lệch lạc, nhưng họ không dám khuyến khích ảo tưởng nào có xu thế làm hại hiệu lực quân sự. Sự thất bại còn có nghĩa là sự mất độc lập hay một hậu quả bất hảo khác, việc phòng ngừa thất bại còn được coi trọng. Sự kiện thể chất không thể bị bỏ quên. Trong triết thuyết, trong tôn giáo, trong luân lý hay trong chính trị, hai cộng hai có thể thành năm, nhưng khi phác họa súng ống hay tàu bay, hai với hai phải là bốn. Các quốc gia vô hiệu sớm muộn gì cũng bị xâm chiếm, và sự tranh thủ hiệu quả đối nghịch với ảo tưởng. Lại nữa, muốn có hiệu năng cần phải biết học hỏi quá khứ, tức phải có một ý niệm đúng về sự kiện đã xảy ra trong quá khứ. Dĩ nhiên, báo chí và sách vở luôn luôn bị tô điểm hay thiên vị, nhưng sự giả mạo kiểu được thực hiện ngày nay không thể có. Chiến tranh là một cách bảo toàn chắc chắn óc lành mạnh, và trong chừng mực nó liên quan đến giai cấp lãnh đạo, nó có lẽ là cách bảo toàn hệ trọng nhất. Khi chiến tranh có thắng có bại, không một giai cấp lãnh đạo nào có thể hoàn toàn vô trách nhiệm.
Nhưng khi chiến tranh trở thành thực sự liên tục, nó thôi nguy hiểm. Khi chiến tranh liên tục, không còn nhu cầu quân sự. Sự tiến bộ kỹ thuật có thể ngưng, và những sự kiện sờ sờ nhất có thể bị chối bỏ hay coi thường. Như chúng ta đã thấy, những công cuộc nghiên cứu đáng được gọi là khoa học vẫn được theo đuổi vì mục tiêu chiến tranh, nhưng đấy vốn là một thứ mộng ban ngày, và sự bất trưng kết quả nghiên cứu không quan trọng. Hiệu suất, ngay cả hiệu suất quân sự, không còn được cần đến. Không có gì có hiệu năng tại Đại Dương ngoài Cảnh Sát Tư Tưởng. Vì không một trong ba siêu quốc nào có thể bị chinh phục, mỗi siêu quốc thực ra là một vũ trụ riêng biệt trong đó hầu như mọi loạn ý có thể yên hành. Thực tế chỉ có áp lực qua những nhu cầu của đời sống hàng ngày — nhu cầu ăn uống, có chỗ trú ngụ và có quần áo mặc, tránh nuốt thuốc độc hay bước qua cửa sổ một tầng lầu cao, đại loại như vậy. Giữa cái sống và cái chết, giữa thú vui thể xác và nỗi đau thể xác, vẫn có một sự khác biệt, nhưng chỉ thế thôi. Bị cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài và với quá khứ, công dân Đại Dương giống như một người ở trong không gian liên tinh, không có cách nào biết được hướng nào ở trên, hướng nào ở dưới. Lãnh tụ của một nước như vậy có quyền chuyên chế hơn vua chúa Ai Cập và La Mã nhiều. Họ bắt buộc phải tránh không để môn đồ của họ chết đói đông đảo tới mức phiền phức, và họ bó buộc phải giữ một trình độ kỹ thuật quân sự thấp ngang địch thủ của họ; nhưng một khi điều kiện tối thiểu đó được thỏa mãn, họ có thể bóp méo thực tế thành bất cứ hình thù gì tùy ý họ.
Chiến tranh, vì lẽ vậy, nếu được xét theo tiêu chuẩn của các cuộc chiến xưa, chỉ là một sự lừa bịp. Nó tựa như các cuộc đấu giữa những động vật nhai lại có cặp sừng mọc theo một góc cạnh đặc biệt khiến chúng không thể gây thương tích cho nhau. Nhưng dù nó không thật, nó không phải là vô nghĩa lý. Nó nuốt đi thặng số hàng tiêu thụ, và giúp sự phòng giữ không khí tinh thần cần thiết cho một xã hội có giai cấp. Chiến tranh, chúng ta sẽ thấy, hiện nay là một vấn đề nội bộ thuần túy. Trong quá khứ, dù phải công nhận quyền lợi chung của họ và vì thế phải giới hạn sự tàn phá của chiến tranh, các nhóm lãnh đạo của mọi nước đánh nhau thực sự, và kẻ thắng trận bao giờ cũng cướp phá kẻ thua trận. Ngày nay của chúng ta, họ không đánh nhau chút nào. Mỗi nhóm lãnh đạo giao chiến chống chính dân mình, và mục đích của chiến tranh không phải là xâm chiếm lãnh thổ hay ngăn chặn sự xâm lăng đó, mà là giữ cho cơ cấu xã hội được nguyên vẹn. Danh từ "chiến tranh", đâm vì thế mà lệch lạc. Có lẽ muốn đúng phải nói rằng, vì chiến tranh trở thành liên tục, nó đã thôi tồn tại. Áp lực đặc biệt của nó trên con người từ thời Tân Thạch Khí tới đầu thế kỷ hai mươi đã biến mất và được thay thế bởi một thứ khác hẳn. Hậu quả sẽ tương tự nếu ba siêu quốc, thay vì đánh nhau, thỏa thuận sống vĩnh viễn hòa bình với nhau, không nước nào bị xâm phạm trong ranh giới của mình. Vì trong trường hợp này, mỗi nước vẫn là một vũ trụ tự bế tỏa, mãi mãi thoát khỏi ảnh hưởng đánh thức tỉnh của mối nguy bên ngoài. Một cuộc hòa bình thực sự trường tồn sẽ y hệt một cuộc chiến tranh vĩnh cửu. Điều này — tuy phần lớn Đảng viên hiểu nó theo một nghĩa hẹp hòi — là thâm ý của khẩu hiệu Đảng: Chiến tranh là hòa bình.
Winston ngưng đọc một lúc. Đâu đó ngoài xa một trái bom lửa gầm lên. Cảm giác sung sướng được ở một mình với một quyển sách cấm, trong một căn phòng không có máy truyền hình, không tiêu tan. Cô độc và an toàn là những cảm giác thuộc thể xác, lẫn lộn sao đó với sự mệt mỏi của tinh thần anh, với sự êm ái của chiếc ghế và thoáng gió nhẹ từ cửa sổ đùa trên má anh. Quyển sách thôi miên anh, hay đúng hơn nó làm anh yên tâm. Theo lẽ ra, nó không cho anh biết điều gì mới lạ, nhưng phần quyến rũ chính ở đó. Nó nói lên điều anh đã nói nếu anh sắp xếp được thành trật tự những tư tưởng tản mát của anh. Nó là sản phẩm của một trí óc giống như óc anh nhưng mạnh mẽ hơn nhiều, có phương pháp hơn và ít sợ sệt hơn. Những sách hay nhất, anh nhận thấy, là những quyển nói ra những điều mình đã biết. Anh vừa giở lại chương I thì anh nghe thấy tiếng chân Julia trên cầu thang và anh vụt ra khỏi ghế để đón nàng. Nàng đặt túi dụng cụ nâu xuống sàn rồi lao mình vào tay anh. Đã hơn một tuần hai người chưa gặp lại nhau.
"Anh đã nhận được quyển sách," anh nói khi hai người buông nhau ra.
"Ồ, anh có nó rồi ư ? Tốt," nàng không mấy hứng thú đáp, rồi ngay tức thì nàng ngồi xuống cạnh lò dầu làm cà phê.
Họ không nhắc lại vấn đề trước khi nằm với nhau trên giường được nửa tiếng. Khí chiều đủ ấm để bỏ lật khăn phủ giường lên. Từ dưới nhà vẳng lên tiếng hát quen thuộc và tiếng giầy ống cọ trên đá lát. Người đàn bà có bắp tay đỏ mà Winston thấy mặt bữa đầu tiên tới đây gần như đóng đinh ngoài sân. Cơ hồ không có ngày giờ nào bà ta không đi đi lại lại giữa chậu giặt và giây phơi áo, luân phiên hết bỏ kẹp vào miệng ngậm lại cất lên tiếng hát lả lơi. Julia đã nằm nghiêng mình lại và sắp thiếp ngủ. Anh với tay lấy quyển sách đang lê trên sàn và ngồi tựa vào đầu giường.
"Mình phải đọc quyển này," anh nói. "Cả em nữa. Hội viên Hội Tình Thân nào cũng phải đọc nó."
"Anh đọc đi," nàng nhắm mắt nói. "Đọc to vào. Đó là cách hay nhất. Rồi có gì anh giảng dần cho em."
Kim đồng hồ đánh số sáu, có nghĩa là mười tám. Họ còn ba bốn giờ nữa. Anh kẹp quyển sách vào đầu gối và bắt dầu đọc:
Chương I: Dốt nát là sức mạnh
Trải qua lịch sử và có lẽ từ thời Tân Thạch Khí, có ba hạng dân trên thế giới, Thượng Lưu, Trung Lưu và Hạ Lưu. Có nhiều cách phân chia ba hạng ấy, chúng có vô số tên khác nhau và tổng số mỗi hạng cũng như thái độ của hạng này đối với hạng kia thay đổi từ thời này qua thời khác: nhưng cơ cấu cốt yếu của xã hội không bao giờ biến chất. Ngay cả sau các vụ nổi loạn lớn và các vụ đổi thay tưởng như không thể cải hồi, cơ cấu cũ bao giờ cũng được tái lập, y như một con quay hồi chuyển luôn luôn trở về trạng thái quân bình, dù có bị đẩy xa về phía nào chăng nữa.
"Julia, em còn thức không ?" Winston hỏi.
"Còn, anh yêu, em đang nghe anh. Anh đọc tiếp đi. Tuyệt lắm."
Anh tiếp tục đọc:
Chủ đích của ba hạng hoàn toàn không thể hợp nhau. Chủ đích của Thượng Lưu là giữ mình ngồi tại chỗ. Chủ đích của Trung Lưu là đổi chỗ với Thượng Lưu. Chủ đích của Hạ Lưu, khi họ có chủ đích — vì một đặc điểm thường trực của Hạ Lưu là họ bị khổ dịch đè ép quá độ, họa chừng mới ý thức được điều gì nằm ngoài đời sống hàng ngày của họ — là hủy bỏ mọi sự phân biệt và thành lập một xã hội trong đó mọi người sẽ ngang nhau. Cho nên, trải qua lịch sử một cuộc đấu tranh không đổi bản sắc diễn đi diễn lại không ngừng. Hàng thời kỳ dài, Thượng Lưu tưởng như cầm quyền yên ổn, nhưng chẳng sớm thì muộn cũng tới lúc họ mất hoặc niềm tự tín hoặc khả năng cai trị hữu hiệu, hoặc cả hai. Rồi sau đó, họ bị Trung Lưu lật đổ, nhờ giới này kết nạp được Hạ Lưu bằng cách giả vờ tranh đấu cho tự do và công lý. Vừa đạt được mục tiêu, Trung Lưu gạt liền Hạ Lưu cho họ về địa vị tôi đòi cũ, và chính họ biến thành Thượng Lưu. Tiếp đó, một giới Trung Lưu mới tách hiện từ một trong hai giới kia hay từ cả hai, và cuộc tranh đấu bắt đầu trở lại. Trong ba giới chỉ có Hạ Lưu là không bao giờ thành công, dù một cách tạm thời, trong việc đeo đuổi chủ đích. Thật quá ngoa nếu nói rằng trải qua lịch sử không hề có một sự tiến bộ cụ thể nào. Ngay ngày nay, đương lúc suy thời, thường dân có một đời sống vật chất khá hơn thường dân mấy thế kỷ trước. Nhưng không một sự tăng sản, một sự thuần phong, một cuộc cải cách hay một cuộc cách mạng nào xích lại gần nổi hơn một ly sự bình đẳng giữa con người. Theo quan điểm của Hạ Lưu, không một sự thay đổi nào có nghĩa nhiều hơn một sự thay đổi tên cho quan thầy họ.
Vào khoảng cuối thế kỷ mười chín, tính hồi quy của mô hình trên đã trở thành hiển nhiên đối với nhiều quan sát viên. Vì thế thời đó nẩy ra vài phái tư tưởng gia giải thích lịch sử như một quá trình tuần hoàn, và đòi chứng minh sự bất bình đẳng là một luật đời bất di bất dịch. Thuyết này dĩ nhiên lúc nào cũng có kẻ tán đồng, nhưng có một sự thay đổi hữu ý trong cách nó được phô trình ngày nay. Thuở xưa, sự cần có một xã hội có giai cấp là chủ thuyết đặc thù của Thượng Lưu. Nó được giảng dạy bởi vua chúa và quý tộc cùng các giáo sĩ, luật gia và đồng bọn là những kẻ ăn bám họ, và nó được xoa dịu bởi những lời hứa về sự bù trừ trong một thế giới tưởng tượng bên kia nấm mồ. Còn Trung Lưu, đương khi họ tranh quyền, bao giờ họ cũng dùng những danh từ như tự do, công lý, tình thân. Song ngày nay, khái niệm tình thân giữa loài người bắt đầu bị tố cáo bởi những kẻ chưa ở địa vị chỉ huy nhưng chỉ hy vọng sớm có địa vị đó. Trong quá khứ, Trung Lưu làm cách mạng dưới ngọn cờ bình đẳng, lật đổ được bạo quyền cũ tức thì họ lập một tân bạo chính. Các giới Trung Lưu mới thực ra tuyên bố trước bạo chính của họ. Chủ thuyết xã hội, vì xuất hiện vào đầu thế kỷ mười chín và là đốt cuối của một mạch tư tưởng bắt nguồn từ những cuộc nổi loạn của dân nô lệ thời thượng cổ, hãy còn bị thâm nhiễm bởi Trí Không Tưởng đời xưa. Nhưng trong các dị thuyết xã hội xuất hiện từ khoảng 1900 trở đi, mục đích thiết lập tự do và bình đẳng càng ngày càng bị công khai từ bỏ. Các phong trào mới xuất hiện vào giữa thế kỷ hai mươi như Anh Xã tại Đại Dương, Tân Xích tại Âu Á, Tử Sùng, theo danh từ thông dụng, tại Đông Á, có mục đích rõ ràng là lưu truyền sự vô tự do và bất bình đẳng. Những phong trào mới này dĩ nhiên sinh trưởng trên các phong trào cũ và có khuynh hướng giữ lại tên cũ và hâm mộ bằng đầu lưỡi chủ thuyết cũ. Nhưng tất cả đều có mục tiêu chặn đứng sự tiến bộ và kết đọng lịch sử tại lúc đã chọn. Quả lúc lắc quen thuộc của đồng hồ được cử động một lần nữa rồi phải ngưng bặt. Như thường lệ, Thượng Lưu sẽ bị Trung Lưu lật đổ và Trung Lưu sẽ trở thành Thượng Lưu; nhưng lần này, nhờ biết chiến thuật, Thượng Lưu sẽ duy trì được vĩnh viễn địa vị.
Các chủ thuyết nổi lên một phần vì sự tích tụ của kiến thức sử học và sự trưởng thành của ý nghĩa lịch sử không có trước thế kỷ mười chín. Ngày nay sự vận hành chu kỳ của lịch sử dễ hiểu hay có vẻ dễ hiểu; và nếu hiểu được nó, có thể biến hóa được nó. Nhưng nguyên nhân ngầm chính là ngay từ đầu thế kỷ hai mươi mộng bình đẳng giữa con người có thể đạt được nhờ kỹ thuật. Thực thì con người vẫn không bình đẳng về khiếu bẩm sinh, và sự bắt buộc phải phân công theo chuyên môn khiến người này được ưu đãi hơn người kia; nhưng sự phân biệt giai cấp và sự khác biệt lớn về tài sản không còn thật sự cần thiết nữa. Thuở xa xưa, sự phân chia giai cấp không những không thể tránh được mà còn là điều mong muốn. Bất bình đẳng là giá phải trả cho nền văn minh. Tuy nhiên, với sự phát triển của ngành sản xuất máy móc, vấn đề biến đổi. Dù con người vẫn còn cần phải làm những công việc khác nhau, không còn nhu cầu bắt họ sống theo mức xã hội và kinh tế khác nhau. Cho nên, theo quan điểm của các nhóm mới sắp nắm chính quyền, sự bình đẳng không còn là một lý tưởng để đeo đuổi nữa, mà là một mối nguy phải tránh. Vào những thời buổi ban sơ hơn, khi trên thực tế không thể có một xã hội công bình và an lành, tin vào đó rất dễ. Ý niệm về một thiên đàng trần tục trong đó con người chung sống trong tình huynh đệ không cần luật lệ và không phải cực nhọc đã ám ảnh nhân trí trong hàng ngàn năm. Và mộng tưởng đó đã có một ảnh hưởng rõ rệt, ngay cả trên những nhóm đã lợi dụng được các biến chuyển lịch sử. Các thừa kế của những cách mạng Pháp, Anh, Mỹ đã tin một phần vào chính lời tuyên bố của họ về nhân quyền, tự do ngôn luận, bình đẳng trước pháp luật, và đã cả cho phép hành động của họ bị chi phối bởi những lý tưởng đó. Nhưng vào thập niên thứ tư của thế kỷ hai mươi, mọi trào lưu tư tưởng chính trị đâm ra độc đoán. Thiên đàng trần tục mất uy tín đúng lúc có thể thực hiện được nó. Chính thuyết mới nào, dưới tên nào chăng nữa, cũng quay về cấp bậc và tập hợp. Và trong phối cảnh nặng nề chung xảy ra khoảng 1930, những biện pháp đã bị bỏ từ lâu, có khi từ hàng trăm năm — như bỏ tù không cần xử, dùng tù binh làm nô lệ, hành hình công cộng, tra tấn để lấy khẩu cung, dùng con tin, di đày quần chúng — không những trở thành thông thường, còn được chấp nhận và bênh vực bởi những kẻ tự cho mình là sáng suốt tiến bộ.
Phải sau gần mười năm ngoại chiến, nội chiến, cách mạng và phản cách mạng tại khắp nơi trên thế giới, Anh Xã và địch thủ mới lộ diện là chính thuyết tác toàn. Nhưng chúng đã được báo hiệu bởi một vài chế độ, thường được gọi là chế độ cực quyền, xuất hiện cũng vào thế kỷ hai mươi nhưng sớm hơn, và những đường nét chính của thế giới sẽ nhô khỏi cảnh hỗn độn đã được thấy rõ từ lâu. Loại dân nào sẽ cai trị thế giới cũng đã thấy được rõ. Tân quý tộc phần lớn gồm các viên chức, khoa học gia, kỹ thuật gia, trưởng nghiệp đoàn, chuyên viên quảng cáo, xã hội học gia, giáo sư, ký giả và chính trị gia chuyên nghiệp. Những người này, xuất thân từ giai cấp công nhân trung lưu và thượng đẳng giai cấp thợ thuyền, đã được đào tạo và tập họp bởi thế giới bạc bẽo của kỹ nghệ độc quyền và trung ương tập quyền. So với đồng nghiệp họ thuở xưa, họ ít tham hơn, ít bị cám dỗ bởi sự xa hoa hơn, ham quyền lực thuần túy hơn, và trên hết ý thức hơn những điều họ làm cùng quyết tâm đàn áp đối lập hơn. Sự khác biệt này là điểm chủ yếu. Sánh với cảnh ngày nay, mọi bạo quyền trong quá khứ đều thiếu nhẫn tâm và không hữu hiệu. Các nhóm cầm quyền xưa luôn luôn có phần bị tiêm nhiễm bởi tư tưởng tự do, và vui lòng thả lỏng khắp nơi, chỉ xét đến hành động công khai mà bất kể những ý nghĩ của dân họ. Ngay giáo hội Công Giáo thời Trung Cổ cũng tỏ ra khoan dung theo tiêu chuẩn hiện đại. Một phần lý do là thuở xưa không một chính quyền nào có khả năng quản thúc thường trực công dân mình. Song le, sự phát minh ra máy in khiến sự thao tác dư luận dễ dàng hơn, phim ảnh và máy phát thanh làm diễn trình đó tiến xa hơn nữa. Với sự phát triển máy truyền hình và sự tiến bộ kỹ thuật cho phép vừa thâu vừa phát trên một chiếc máy, đời sống riêng tư kết thúc. Mỗi công dân, hay ít nhất mỗi công dân đủ quan trọng để đáng được giám thị, có thể bị đặt hai mươi tư tiếng mỗi ngày dưới sự soi mói của cảnh sát và trong lời tuyên truyền của nhà chức trách, trong khi các ngõ thông tin khác bị đóng kín. Lần đầu tiên ngày nay, có thể áp đặt không những lòng hoàn toàn phục tùng ý muốn nhà nước, mà cả sự đồng quan điểm trọn vẹn về mọi vấn đề.
Sau thời cách mạng vào những năm năm mươi, sáu mươi, xã hội kết hợp lại, vẫn như bao giờ, thành Thượng Lưu, Trung Lưu và Hạ Lưu. Nhưng giới Thượng Lưu mới, khác với tiền nhân, không hành động theo linh tính mà biết phải làm gì để bảo vệ địa vị. Đã từ lâu người ta nhận thức rằng nền tảng vững chãi nhất của chế độ quả đầu là chủ nghĩa tập thể. Tài sản và đặc quyền dễ được bảo vệ nhất khi chúng thuộc quyền sở hữu chung. Sự gọi là "bãi bỏ quyền sở hữu tư" xảy ra vào những năm giữa thế kỷ, thật ra, có nghĩa là tập trung quyền sở hữu vào ít tay hơn trước: nhưng với sự khác biệt là các sở hữu chủ mới là một nhóm thay vì một đám tư nhân. Về mặt cá thể, không một Đảng viên nào chiếm hữu gì, trừ vài vật dụng riêng không đáng kể. Về mặt tập thể Đảng chiếm hữu mọi thứ tại Đại Dương, vì Đảng kiểm soát mọi thứ, và tùy nghi sử dụng các sản phẩm. Vào những năm sau Cách Mạng, Đảng có thể bước vào địa vị lãnh đạo mà không gặp sự đối kháng nhờ toàn thể quá trình được miêu tả như một cuộc tập thể hóa. Đã tự bao giờ có sự thừa nhận rằng nếu giai cấp tư bản bị cướp quyền sở hữu, Xã Hội Chủ Nghĩa thế nào cũng nối tiếp: và không chối cãi được, dân tư bản đã bị truất hết tài sản. Các xưởng, mỏ, đất, nhà, xe — mọi thứ đã được tước khỏi tay họ: và vì những thức đó không còn là tài sản tư, nó phải là của công. Anh Xã, vì xuất phát từ phong trào xã hội và thừa kế ngữ cú rỗng của nó, đã thực ra thi hành điều chính của chương trình xã hội; với kết quả đã thấy và định trước là sự bất bình đẳng kinh tế trở thành vĩnh viễn.
Nhưng những vấn đề lưu truyền một xã hội có cấp bậc sâu xa hơn thế. Chỉ có bốn cách khiến một nhóm lãnh đạo mất quyền. Hoặc họ bị chinh phục bởi ngoại lai, hoặc họ cai trị thiếu hiệu quả đến nỗi quần chúng bị kích động nổi loạn, hoặc họ để cho một giới Trung Lưu mạnh và bất mãn thành hình, hoặc họ mất tự tín và ý chí cai trị. Những lý do này không có tác dụng đơn độc, và theo thường lệ cả bốn đều góp mặt ít nhiều. Giai cấp lãnh đạo nào có thể phòng ngừa được cả bốn trường hợp trên có thể cầm quyền mãi mãi. Tận cùng yếu tố quyết định chính là thái độ tinh thần của giai cấp lãnh đạo.
Sau giữa thế kỷ hiện tại, mối nguy đầu thật ra đã biến mất. Trên thực tế, nước nào trong ba cường quốc đang chia nhau thế giới cũng không thể bị xâm chiếm nổi, và chỉ có thể bị chinh phục nhờ sự biến đổi dần dần dân số, một điều mà một chính phủ có quyền rộng rãi tránh được dễ dàng. Mối nguy thứ hai cũng chỉ là một mối nguy trên lý thuyết. Quần chúng không bao giờ tự động chống đối, và họ không bao giờ nổi loạn vì bị áp bức. Quả vậy, họ còn không được phép có tiêu chuẩn để so sánh, họ còn không bao giờ ý thức được sự họ bị ức hiếp. Những vụ khủng hoảng kinh tế thuở xưa hoàn toàn không có tính tất yếu và bây giờ không được phép xảy ra, còn nhiều cuộc hỗn độn khác mạnh chẳng kém có thể và đã có nhưng không có hậu quả chính trị bởi không có cách nào nói lên sự bất mãn. Về vấn đề sản xuất dư thừa, tiềm tàng trong xã hội của chúng ta từ khi kỹ thuật máy móc phát triển, nó được giải quyết bằng mẹo chiến tranh liên tục (xem chương III), một mánh khóe còn có ích lợi khép tinh thần dân chúng vào mức cần thiết. Cho nên, theo quan điểm của những nhà lãnh đạo của chúng ta, những mối nguy thật tình đáng kể là sự tách hợp của một nhóm dân mới có khả năng, không được dùng đúng sức và ham quyền, cùng sự sinh trưởng của óc tự do và hoài nghi trong chính hàng ngũ họ. Có thể nói, vấn đề liên quan đến giáo dục. Đó là làm sao không ngưng uốn nắn tâm thức của cả nhóm chỉ huy lẫn nhóm thừa hành đông đảo ở dưới. Tâm thức quần chúng chỉ cần bị ảnh hưởng một cách tiêu cực thôi.
Biết bối cảnh trên, có thể suy ra nếu chưa rõ, cơ cấu tổng quát của xã hội Đại Dương. Trên đỉnh cao của kim tự tháp là Bác. Bác không thể sai lầm và đầy uy lực. Mỗi thành công, mỗi thành quả, mỗi thắng lợi, mỗi khám phá khoa học, mọi hiểu biết, mọi khôn ngoan, mọi hạnh phúc, mọi đức tính, được coi như xuất từ sự hướng dẫn và gợi hứng của Bác. Chưa ai nhìn thấy Bác bao giờ. Bác là một khuôn mặt trên biển tường, một tiếng nói trong máy truyền hình. Chúng ta có thể khá chắc rằng Bác không bao giờ chết, còn Bác sinh ngày nào là một điểm rất khó nhất quyết. Bác là trá hình được Đảng chọn để tự trình diện với thế giới. Nhiệm vụ của Bác cốt là thành tiêu điểm cho tình yêu, hận thù và sùng kính là những cảm xúc dễ hướng về một cá nhân hơn là về một tổ chức. Dưới Bác là Đảng Trong, với số thành viên giới hạn đến sáu triệu, hay không đến hai phần trăm tổng số dân Đại Dương. Dưới Đảng Trong là Đảng Ngoài, có thể được coi là tay chân nếu Đảng Trong được mô tả như khối óc của nhà nước. Dưới hơn là đám quần chúng đần độn mà chúng ta quen gọi là "dân đen", gần khoảng tám mươi nhăm phần trăm dân số. Theo danh từ dùng trong đoạn phân loại trên, dân đen là Hạ Lưu: còn đám dân nô lệ ở vùng đất Xích Đạo, luôn luôn qua hết tay kẻ chinh phục này đến tay kẻ chinh phục kia, họ không phải là một phần tử thường trực hay thiết yếu của cơ cấu.
Trên nguyên tắc, sự thuộc thành phần ba giới không theo cha truyền con nối. Theo lý thuyết con của thành viên Đảng không sinh ra thuộc Đảng Trong. Sự gia nhập chi Đảng nào cũng qua một cuộc thi cử vào lúc mười sáu tuổi. Không có sự kỳ thị chủng tộc hay ưu thế của một tỉnh này trên tỉnh kia. Dân Do Thái, dân da đen, dân Nam Mỹ thuần chủng thổ dân, được giữ chức vụ tối thượng trong Đảng, và quản trị viên của vùng nào bao giờ cũng được chọn trong dân cư vùng đó. Không tại một phần Đại Dương nào dân chúng có cảm tưởng mình bị đô hộ và cai trị từ một thủ đô xa xăm. Đại Dương không có thủ đô và vị nguyên thủ quốc gia không ai biết ở đâu. Trừ việc Anh ngữ là thông ngôn chính và Ngôn Mới là ngôn ngữ chính thức, Đại Dương không trung ương tập quyền chút nào. Những người lãnh đạo không gắn bó với nhau vì máu mủ mà vì sự tán đồng một chủ nghĩa chung. Quả thì xã hội của chúng ta phân tầng và phân tầng một cách rất khắt khe, thoạt nhìn tưởng theo phép cha truyền con nối. Sự di động giữa các đoàn thể khác nhau ít xảy ra hơn duới thời tư bản hay cả dưới thời tiền kỹ nghệ. Giữa hai chi Đảng có một chút trao đổi nhưng chỉ vừa đủ để bảo đảm sự loại trừ kẻ yếu kém khỏi Đảng Trong, và sự vô hại hóa đảng viên Đảng Ngoài có tham vọng bằng cách cho họ lên chức. Trong thực hành, dân đen không được phép thi đậu vào Đảng. Những người có khiếu nhất trong đám họ, có thể biến thành ổ bất mãn, bị Cảnh Sát Tư Tưởng điểm mặt và trừ khử, thế thôi. Nhưng sự thể này không nhất thiết phải vĩnh viễn, và cũng không phải là một vấn đề nguyên tắc. Đảng không phải là một giai cấp theo nghĩa xưa. Đảng không nhằm truyền quyền cho con cái mình vì chúng là con cái; và nếu không có cách nào khác để giữ những người có khả năng nhất nơi tột đỉnh, Đảng rất sẫn sàng tuyển lựa cả một thế hệ mới từ hàng ngũ dân đen. Trong những năm mấu chốt, sự Đảng không phải là một tổ chức di truyền đã có công dụng làm tê liệt phe đối lập. Thứ đảng viên xã hội cũ, được huấn luyện để chống đối cái gọi là "đặc quyền giai cấp", tin rằng cái gì không được di truyền không thể bền lâu. Họ không hiểu rằng sự liên tục của một nhóm trùm đầu không cần có thể chất, họ không ngẫm rằng các giới quý tộc kế tập luôn luôn chóng tàn, trong khi những tổ chức dưỡng tuyển như giáo hội Gia Tô kéo dài có khi cả trăm hay nghìn năm. Bản chất của phép quả đầu không phải là sự cha truyền con nối mà là sự dai dẳng của một thế giới quan và một lối sống do người chết áp người sống phải theo. Một nhóm chỉ đạo còn là một nhóm chỉ đạo nếu chỉ định được kẻ kế vị. Đảng không lo lưu truyền máu mủ của mình mà lo lưu truyền chính mình. Ai là kẻ nắm quyền không quan trọng, miễn cơ cấu đẳng cấp vẫn y nguyên.
Mọi tín ngưỡng, tập tục, sở thích, cảm xúc, thái độ tinh thần đặc trưng của thời chúng ta thực ra có phận sự giữ vững sự thần bí của Đảng và ngăn sự nhận thức thực chất của xã hội ngày nay. Hiện giờ sự phản kháng cụ thể hay bất cứ động tác chống đối sơ khởi nào cũng không thể có được. Từ dân đen không có gì đáng ngại. Để mặc họ yên, họ sẽ tiếp tục làm việc, sinh sản rồi chết, hết thế hệ này đến thế hệ kia, từ thế kỷ trước sang thế kỷ sau, không những không có xung lực phản kháng mà còn không có tư cách hiểu rằng thế giới có thể có bộ mặt khác. Họ chỉ có thể trở thành nguy hiểm nếu sự tiến bộ kỹ thuật công nghiệp buộc phải nâng cao trình độ giáo dục của họ; nhưng vì sự tranh đua quân sự và thương mại không quan hệ nữa, trình độ giáo dục quần chúng hiện nay suy giảm. Quần chúng có hay không có quan niệm gì bị coi như không đáng kể. Có thể để cho họ có tự do tư tưởng vì họ không có trí tuệ. Trái lại, nơi Đảng viên, không thể dung thứ một sự lệch lạc quan điểm nhỏ nhặt về một vấn đề tầm phào nhất nào.
Đảng viên sống từ lúc sinh ra tới lúc chết dưới mắt của Cảnh Sát Tư Tưởng. Ngay khi họ ở một mình, họ không bao giờ chắc được họ có một mình. Dù ở đâu chăng nữa, lúc ngủ hay lúc thức, khi làm việc hay nghỉ ngơi, trong bồn tắm hay trong giường, họ cũng có thể bị giám sát thình lình mà không được cảnh cáo và kbông được biết rằng mình đang bị dò xét. Tình giao hảo, thú giải trí, cách cư xử đối với vợ con, sắc mặt khi ở một mình, những lời lẩm bẩm trong giấc ngủ, cả những cử động đặc biệt của thân xác, việc gì của họ cũng bị quan sát tỉ mỉ. Không những bất cứ hành vi quả thật xấu nào của họ, mà bất cứ thái độ khác thường nào, dù nhỏ, bất cứ sự thay đổi thói quen nào, bất cứ điệu bộ bối rối nào, có thể là triệu chứng của một cuộc chiến đấu nội tâm, đều chắc chắn bị điều tra ra. Họ không có tự do chọn lựa bất cứ chiều hướng gì. Mặt khác, hành vi của họ không được luật pháp hay một bộ qui lệ cư xử định chế rõ ràng. Tại Đại Dương không có luật lệ. Những tư tưởng hay hành động chắc chắn đưa đến cái chết nếu bị bại lộ không bị chính thức cấm, và những cuộc thanh trừ vô tận, những vụ bắt bớ, tra tấn, bỏ tù và hóa hơi không bị bắt chịu như hình phạt của tội thực sự phạm phải, mà cốt tiêu diệt những kẻ có thể phạm tội khi nào đó trong tương lai. Đảng viên bắt buộc phải có không những lập trường đúng mà cả bản năng đúng. Nhiều tín điều và thái độ đòi hỏi nơi họ không bao giờ được tuyên bố trắng ra, và không thể phát biểu chúng mà không lột trần mâu thuẫn nội tại Anh Xã. Nếu Đảng viên là một kẻ chính thống tự nhiên (theo Ngôn Mới là một kẻ ý tốt), trong mọi trường hợp, không cần suy nghĩ, họ sẽ biết thế nào là lòng tin đúng hay cảm xúc mong muốn. Nhưng dù sao đi nữa, một sự huấn luyện tinh thần kỹ càng bắt đầu từ thuở thiếu thời tập trung quanh những danh từ Ngôn Mới như chặn tội, trắng đen, ý đôi, khiến họ không có khả năng suy nghĩ quá sâu xa về bất cứ vấn đề gì.
Đảng viên được trông đợi không có cảm xúc riêng tư và không ngớt hăng hái. Họ được kể như sống trong một sự cuồng nhiệt liên tục của hận thù đối với quân ngoại địch và nội phản, của niềm hân hoan chiến thắng, của sự tự hạ trước uy quyền và óc khôn ngoan của Đảng. Những sự bất mãn gây ra bởi nếp sống trơ trụi không thỏa ý của họ được quyết tâm hướng ra ngoài và được làm tan biến nhờ những kỹ xảo như Hai Phút Hận Thù, và những lập luận có thể đưa đến một thái độ ngờ vực hay phản nghịch bị bóp chết trước nhờ kỷ luật nội tâm sớm luyện đạt của họ. Chặng kỷ luật đầu tiên và đơn giản nhất, có thể được dạy cho trẻ nhỏ, có tên là chặn tội theo Ngôn Mới.Chặn tội chỉ năng khiếu dừng bặt, như thể do linh tính, trước ngưỡng cửa của một tư tưởng nguy hiểm. Nó bao gồm khả năng không tóm lấy những sự tương tự, không nhận thấy những sự sai lầm luận lý, không hiểu những lý lẽ giản dị nhất nếu chúng nghịch với Anh Xã, và chán ngán hay ghét bỏ bất cứ dòng tư tưởng nào có thể dẫn đến một hướng tà thuyết. Chặn tội, tóm lại, chỉ sự đần độn tự vệ. Nhưng ngu độn không đủ. Ngược lại, sự chính thống theo toàn nghĩa đòi hỏi một sự kềm chế diễn trình tư tưởng cá nhân trọn vẹn như sự kềm chế thân xác của người làm trò nhào lộn vặn vẹo. Xã hội Đại Dương tận cùng dựa trên niềm tin Bác có sức vạn năng và Đảng không thể lầm lẫn. Nhưng vì thực ra Bác không có sức vạn năng và Đảng có lầm lẫn, cần có một sự uyển chuyển dẻo dai từng giây từng phút trong việc bàn giải sự kiện. Bí quyết đây là trắng đen. Như nhiều danh từ Ngôn Mới, chữ này đồng thời có hai nghĩa trái ngược nhau. Áp dụng cho kẻ đối nghịch, nó chỉ cái thói trâng tráo nói đen thành trắng ngược với sự thể hiển nhiên. Áp dụng cho một Đảng viên nó chỉ một ý chí chính trực nói trắng thành đen khi kỷ luật Đảng đòi hỏi. Nhưng nó cũng chỉ khả năng tin rằng đen là trắng, và hơn nữa,biết rằng đen là trắng và quên đi sự mình đã từng tin ngược lại. Điều này đòi hỏi một sự xuyên tạc quá khứ liên tục thực hiện được nhờ hệ thống tư tưởng bao gồm mọi thứ được mệnh danh là ý đôi trong Ngôn Mới.
Sự xuyên tạc quá khứ cần thiết vì hai lý do, trong đó có môt lý do phụ, có thể nói là phòng ngừa. Lý do phụ là sự Đảng viên cũng như dân đen chịu đựng cảnh hiện tại một phần vì họ không có tiêu chuẩn để so sánh. Họ phải bị cắt khỏi quá khứ, hệt như họ phải bị cúp khỏi các nước ngoài, vì họ cần phải tin rằng họ sướng hơn tổ tiên họ, rằng mức tiện nghi vật chất trung bình luôn luôn lên cao. Nhưng lý do quan trọng hơn nhiều của sự tu chỉnh quá khứ là nhu cầu bảo vệ sự không thể lầm lẫn của Đảng. Không những chỉ vì các bài diễn văn, các bản thống kê, các tài liệu đủ loại luôn luôn cần được cập nhật hóa với mục đích chứng tỏ rằng các dự đoán của Đảng lúc nào cũng đúng. Mà cũng vì không bao giờ một sự thay đổi trong chủ thuyết hay đường lối chính trị nào có thể được chấp nhận. Bởi đổi ý hay đổi chính sách là thú nhận sự kém cỏi. Nếu ví dụ, Âu Á hay Đông Á (nước nào cũng được) là kẻ thù hôm nay, nước đó phải mãi mãi là kẻ thù. Và nếu sự kiện nói khác thì sự kiện phải bị sửa đổi. Thành thử lịch sử luôn luôn bị viết lại. Sự giả mạo hàng ngày quá khứ này, do Bộ Sự Thật đảm trách, cần thiết cho sự vững chắc của chế độ chẳng kém việc đàn áp và dò thám của Bộ Tình Yêu.
Tính đổi thay của quá khứ là trung căn của Anh Xã. Theo lập cứ, những sự kiện xảy ra trong quá khứ không có sự hiện hữu khách quan, chỉ tồn tại trong văn kiện hay ký ức con người. Quá khứ là điều gì tài liệu và ký ức đều thừa nhận. Và vì Đảng có toàn quyền kiểm soát mọi tài liệu cũng như toàn quyền kiểm soát trí óc Đảng viên, do đó quá khứ là điều gì Đảng khiến vậy. Kết quả cũng là mặc dầu quá khứ bị sửa đổi, nó không bao giờ biến chất trong bất cứ trường hợp nào. Vì khi nó đã được tái tạo dưới bất cứ hình thức nào theo nhu cầu đương thời, thuyết mới là quá khứ, và không một quá khứ nào khác đã từng được có bao giờ. Luận điệu này vẫn vững ngay khi, như thường xảy ra, cùng một sự kiện bị sửa đi sửa lại nhiều lần trong năm đến nỗi không thể nhận ra được. Lúc nào Đảng cũng nắm trong tay sự thật tuyệt đối, và hiển nhiên sự tuyệt đối không bao giờ khác nay. Ta sẽ thấy rằng sự kiểm soát quá khứ trên hết tùy thuộc sự huấn luyện trí nhớ. Khiến chắc mọi văn kiện trùng hợp với sự chính thống nhất thời chỉ là một hành động máy móc. Còn cần phải nhớ rằng sự kiện đã xảy ra theo cách muốn. Và nếu cần phải sắp lại kỷ niệm hay sửa lại văn kiện, cũng cần phải quên mình đã làm vậy. Phép quên đó có thể học được như bất cứ thuật tinh thần nào khác. Nó được luyện bởi phần lớn Đảng viên, và chắc chắn bởi hết những kẻ vừa thông minh vừa chính thống. Theo Ngôn Cũ nó được gọi một cách trắng trợn là "kiểm soát thực tế". Theo Ngôn Mới nó là ý đôi, tuy ý đôi có nghĩa rộng hơn thế.
Ý đôi chỉ khả năng giữ đồng thời trong tâm trí hai niềm tin trái nghịch nhau và chấp nhận cả hai. Nhà trí thức của Đảng biết ký ức của mình phải biến đổi theo chiều hướng nào; do đó họ biết họ đùa với thực tế, nhưng nhờ thi triển ý đôi họ cũng tự an lòng đã không xúc phạm thực tế. Quá trình này phải được ý thức kẻo không được thực hành với đủ chính xác, nhưng nó cũng cần sự vô ý thức kẻo mang theo mặc cảm giả dối và tội lỗi nối tiếp. Ý đôi nằm ngay trong lòng Anh Xã, và tác động cốt yếu của Đảng là vừa sử dụng tính lừa bịp có ý thức vừa lưu giữ sự bền chí đi đôi với tính trung thực trọn vẹn. Cố ý nói dối trong khi tin thực vào lời nói dối, quên đi bất cứ sự kiện nào đã trở thành bất tiện, rồi, khi lại thấy cần, lôi sự kiện đó ra khỏi quên lãng đúng đủ thời gian cần thiết, chối bỏ sự hiện hữu của thực tế khách quan đồng thời kể đến thực tế do mình chối bỏ — toàn quá trình đó là một sự tất yếu nhất thiết. Ngay lúc dùng từ ý đôi cần phải thi triển ý đôi. Vì sử dụng từ đó tức là công nhận mình gian lận với thực tế; nhờ một sự thực hành ý đôi mới, có thể xóa bỏ sự hiểu biết này, và cứ như vậy mãi mãi với sự dối trá đi trước sự thật một bước. Tận cùng nhờ ý đôi Đảng đã có thể — và có lẽ, theo như ta biết, tiếp tục có thể trong hàng ngàn năm — khiến dòng lịch sử ngưng đọng.
Mọi quả đầu chế trong quá khứ đã mất quyền, hoặc vì bị cốt hóa, hoặc vì trở nên nhu nhược. Hoặc họ đâm ngu độn và ngạo nghễ, không biết tự sửa cho hợp với biến cảnh rồi bị lật đổ; hoặc họ đâm cởi mở và nhút nhát, nhượng bộ khi phải dùng võ lực, rồi cũng bị lật đổ. Có thể nói, họ bị hạ hoặc bởi sự có ý thức, hoặc bởi sự vô ý thức. Thành quả của Đảng là đã dựng lên một hệ thống tư tưởng trong đó cả hai điều kiện có thể cùng tồn tại. Và nền thống trị của Đảng, muốn vĩnh cửu, không thể dựa trên một căn bản tinh thần khác. Nếu muốn cai trị và tiếp tục cai trị phải biết phân tán óc thực tế. Bởi bí quyết của sự cầm quyền là phối hợp niềm tin nơi tính vô quá của chính mình với khả năng rút bài học từ những lầm lỗi qua.
Chẳng cần phải nói, những kẻ xử dụng ý đôi một cách tinh tế nhất là những kẻ đã sáng chế ra ý đôi và biết nó là một hệ thống gian lận tinh thần rộng lớn. Trong xã hội chúng ta, những kẻ biết nhiều nhất những sự xảy ra cũng là những kẻ ít thấy rõ nhất thực trạng của thế giới. Thông thường, sự hiểu biết càng rộng, ảo tưởng càng lớn; càng thông minh, càng loạn trí. Một bằng chứng hiển nhiên là óc cuồng chiến tăng cường độ với sự thăng tiến trên bực thang xã hội. Những kẻ có thái độ gần như hợp lý nhất đối với chiến tranh là những dân bị đô hộ tại các vùng đất tranh giành. Trong quan điểm họ, chiến tranh chỉ là một tai họa liên tục quét đi quét lại tấm thân họ như thể một đợt sóng triều. Phe nào thắng hay bại là một vấn đề hoàn toàn dửng dưng đối với họ. Họ thừa hiểu rằng một sự thay đổi bá chủ chỉ có nghĩa là họ sẽ làm việc y như trước cho chủ mới và chủ mới sẽ đối xử với họ y hệt chủ cũ. Đám dân lao động được ưu đãi hơn một chút mà chúng ta gọi là "dân đen" chỉ có ý thức từng cơn về chiến tranh. Khi cần có thể dồn họ vào cơn cuồng hãi và cuồng hận, nhưng được để yên, họ có thể quên bẵng thật lâu sự đang hiện hữu của chiến tranh. Chỉ trong hàng ngũ của Đảng, và trên hết tại Đảng Trong, mới thấy được lòng hăng hái say chiến tranh thực sự. Sự chinh phục thế giới được tin chắc vào nhất bởi những kẻ biết không thể đạt được nó. Mối liên lạc đặc biệt của hai nghịch trạng — sự hiểu biết với sự ngu xuẩn, sự vô luân với sự cuồng tín — là một trong những điểm đặc trưng của xã hội Đại Dương. Chủ thuyết chính thức đầy rẫy mâu thuẫn ngay khi không có lý do thực tiễn khiến phải mâu thuẫn. Nên chi, Đảng bác bỏ và chê bai mọi nguyên tắc do phong trào xã hội khởi xướng, nhưng Đảng chọn làm như vậy nhân danh thuyết xã hội. Đảng giảng dạy một sự khinh khi dân lao động chưa từng thấy qua các thế kỷ, nhưng Đảng bắt Đảng viên mặc một bộ đồng phục có thời dành riêng cho dân thợ thuyền và vì lẽ đó được chấp nhận. Đảng triệt để ngầm phá tình đoàn kết trong gia đình, nhưng Đảng gọi vị lãnh đạo của mình bằng một tên trực tiếp nhắc đến lòng trung đối với gia đình. Ngay cả tên của bốn Bộ cai trị chúng ta cũng phô bày một tính trâng tráo trong sự cố ý đảo lộn sự tình. Bộ Hòa Bình liên hệ với chiến tranh, Bộ Sự Thật với sự dối trá, Bộ Tình Yêu với sự tra tấn và Bộ Sung Túc với sự đói kém. Những mâu thuẫn trên không ngẫu nhiên mà cũng không là kết quả của tính giả dối thường tình, đó là những sự quyết tâm thực hành ý đôi. Bởi phải dung hòa các mâu thuẫn mới giữ vững được quyền hành. Không thể phá vỡ được chu trình cũ bằng cách nào khác. Nếu muốn tránh hẳn sự bình đẳng giữa con người — nếu Thượng Lưu, như ta gọi giới cầm đầu, muốn giữ mãi mãi địa vị của mình — thì điều kiện tinh thần át trội phải là trạng thái điên loạn kiềm chế.
Nhưng có một câu hỏi mà cho tới lúc này chúng ta gần như bỏ qua. Đó là tại sao lại phải tránh sự bình đẳng giữa con người ? Cho là cơ chế quá trình đã được mô tả đúng, đâu là động cơ của sự cố gắng lớn lao có kế hoạch kỹ càng hòng làm ngưng đọng lịch sử tại một đặc điểm thời gian ấy ?
Đây chúng ta đụng phải điều bí mật trọng yếu. Như chúng ta đã thấy, tính thần bí của Đảng, và trên hết của Đảng Trong, tùy thuộc ý đôi. Nhưng nằm sâu hơn ở dưới là động cơ nguyên thủy, cái bản năng không bao giờ bị đặt thành vấn đề đã đầu tiên đưa đến sự giành quyền và mang lại ý đôi, Cảnh Sát Tư Tưởng, chiến tranh liên tục, và các trò tạp nhạp cần thiết khác. Động cơ đó thật ra là...
Winston chợt nhận thức sự im lặng như người bỗng để ý đến một âm thanh mới. Anh có cảm tưởng Julia im tiếng từ khá lâu. Nàng nằm nghiêng, cởi trần từ eo trở lên, má gối trên tay, một lọn tóc đen phủ xòa xuống mắt. Ngực nàng phập phồng chậm chạp và đều đặn.
"Julia."
Không có tiếng trả lời.
"Julia, em còn thức không ?"
Không có trả lời. Nàng đã ngủ. Anh đóng sách lại, đặt nó cẩn thận trên sàn, nằm xuống và kéo khăn phủ giường lên trên hai người.
Anh nghĩ rằng anh vẫn chưa biết điều bí mật cuối cùng là gì. Anh hiểu như sau; nhưng anh không hiểu tại sao. Chương I cũng như chương III thực ra không cho anh biết điều gì anh chưa biết, nó chỉ hệ thống hóa sự hiểu biết sẵn có của anh. Nhưng đọc nó xong anh hiểu rõ hơn trước anh không điên. Thuộc về một thiểu số, dù là một thiểu số có một người, không có nghĩa là điên. Có sự thật và sự không thật, và nếu mình bám vào sự thật dù là chống lại toàn thể thế giới, mình không điên. Một ánh vàng từ mặt trời xế tàn len qua cửa sổ rớt xuống gối. Anh nhắm mắt lại. Mặt trời trên mặt anh và tấm thân mịn màng của cô gái sát người anh gây trong anh một cảm giác mạnh mẽ, êm ru và tự tín. Anh được an toàn, mọi sự tốt đẹp. Anh vừa thiếp đi vừa lẩm bẩm: "Trí lành mạnh không thuộc sự thống kê," với cảm tưởng nhận xét này chứa đựng một đạo lý sâu xa.
Khi anh tỉnh dậy anh có cảm giác anh đã ngủ một giấc dài, nhưng một cái liếc vào chiếc đồng hồ cũ kỹ cho anh biết mới có hai mươi giờ ba mươi. Anh nằm ngủ gà một lúc; rồi tiếng hát to vang thường lệ vọng từ dưới sân lên:
Đó chỉ là một giấc mơ vô vọng,
Thoáng qua như một ngày xuân,
Nhưng một cái nhìn, một tiếng nói với mộng vàng theo đó
Đã cướp đi mất trái tim tôi !
Bài hát lẩm cẩm có vẻ vẫn được ưa chuộng. Vẫn nghe thấy nó khắp nơi. Nó sống lâu hơn bản Hận Ca. Julia thức dậy với tiếng hát, khoan khoái vươn mình rồi ra khỏi giường.
"Em đói," nàng nói. "Mình làm thêm một ít cà phê đi. Chết chửa ? Bếp tắt rồi và nước lạnh nguyên." Nàng nhấc bếp dầu lên lắc. "Hết dầu bên trong."
"Anh nghĩ thường mình có thể xin già Charrington một ít."
"Lạ là em đã canh chừng cho bếp đầy dầu. Em phải mặc áo quần vào mới được," nàng nói tiếp. "Trời có vẻ lạnh hơn."
Winston cũng đứng dậy mặc quần áo. Tiếng hát không biết mệt tiếp tục:
Người ta nói thời gian hàn mọi sự,
Người ta nói mình luôn luôn quên được;
Nhưng nụ cười với nước mắt bao năm
Vẫn quặn đau phím sợi cõi lòng tôi.
Anh vừa buộc thắt lưng trên bộ áo liền quần vừa bước ra cửa sổ. Mặt trời chắc đã lặn sau dãy nhà; nó không còn chiếu xuống sân nữa. Các hòn đá lát ướt như thể chúng đã được lau rửa, và anh có cảm tưởng trời cũng đã được rửa vì màu xanh giữa các ống khói quá tươi lạt. Người đàn bà đi qua đi lại không thấy mệt, miệng hết ngậm lại há, khi hát khi im, lấy tã phơi thêm, càng lúc càng nhiều. Anh tự hỏi không hiểu bà ta giặt giũ vì kế sinh nhai hay bà chỉ làm nô lệ cho hai ba chục đứa cháu nhỏ. Julia đã đến cạnh anh, cả hai như bị thôi miên nhìn xuống thân hình vạm vỡ dưới sân. Ngó ngưòi đàn bà trong giáng điệu đặc biệt của bà ta, với đôi cánh tay ụ giương lên phía dây tã, với bộ mông lực lưỡng như mông ngựa, lần đầu tiên anh bỗng thấy bà ta đẹp. Trước đây anh chưa bao giờ nghĩ rằng thân thể một người đàn bà cỡ năm mươi tuổi, sồ sề tới mức quái đản vì sinh đẻ, bị chai cứng và sần sùi vì việc nặng đến độ phát thô tận thớ giống như một củ cải quá chín, lại có thể đẹp được. Nhưng sự thể là vậy, vả lại, anh nghĩ, sao lại không được ? Tấm thân rắn chắc không đường cong y như một tảng đá hoa cương, và làn da ráp đỏ, so với thân hình của một cô gái tựa như quả cây hoa hồng sánh với hoa hồng. Tại sao lại coi quả kém hoa ?
"Bà ta đẹp," anh lẩm bẩm.
"Dễ chừng mông bà ta đo được một thước," Julia nói.
"Đấy là kiểu sắc đẹp của bà ta," Winston đáp.
Anh vòng tay dễ dàng quanh tấm eo mảnh dẻ của Julia. Từ háng tới đầu gối, hông của nàng cọ sát người anh. Từ thân thể họ sẽ không nẩy ra một đứa nhỏ nào. Đó là điều đáng kể họ không bao giờ làm được. Họ chỉ có thể truyền điều bí mật bằng lời nói, từ tâm trí này qua tâm trí kia. Người đàn bà dưới sân không có tâm trí, bà ta chỉ có đôi cánh tay vạm vỡ, một trái tim đầy nhiệt tình, và một cái bụng mắn đẻ. Anh tự hỏi bà ta đã sinh được bao nhiêu con. Dễ thường mười lăm người. Bà ta đã từng có kỳ thanh sắc khai hoa nhất thời của đóa hồng dại, trong khoảng một năm, xong bà ta đã bỗng phình lên như một trái cây màu mỡ, và đâm cứng đỏ thô, để rồi đời sống của bà toàn là giặt giũ, kỳ cọ, vá mạng, bếp nước, quét dọn, lau chùi, gắn sửa, cọ chải, giặt giũ, trước là cho con, sau là cho cháu, suốt ba mươi năm liền. Rốt cuộc bà ta vẫn còn hát. Lòng tôn kính của anh đối với bà lẫn trộn sao đó với cảnh trời lạt không mây duỗi trên không gian vô tận sau các ống khói. Kể cũng lạ khi nghĩ rằng trời y hệt đối với mọi người, tại Âu Á hay ở Đông Á cũng như tại nơi đây. Và dưới bầu trời, dân chúng cũng thật y nhau — khắp nơi, khắp thế giới, hàng trăm ngàn triệu người như thế cả, những người không biết đến sự hiện hữu của nhau, bị ngăn cách nhau bởi bức tường thù hận và dối trá, tuy gần giống nhau như lột — những người dân không bao giờ học nghĩ nhưng tích trữ trong trong tim gan thớ thịt cái sức mạnh sẽ có ngày đảo lộn thế giới. Nếu có hy vọng, nó nằm nơi dân đen ! Không cần đọc đoạn kết của quyển sách, anh biết đó phải là lời ủy thác cuối cùng của Goldstein. Tương lai thuộc về dân đen. Liệu anh có chắc rằng, khi thời đến, thế giới do họ xây dựng sẽ không xa lạ đối với anh, Winston Smith, chẳng kém gì thế giới của Đảng không ? Có chứ, vì ít nhất nó sẽ là một thế giới lành mạnh. Nơi nào có sự bình đẳng, có thể có sự lành mạnh. Chẳng sớm thì muộn, chuyện đó sẽ xảy ra, sức mạnh sẽ biến thành ý thức. Dân đen bất tử, không thể nghi ngờ điều này được khi nhìn vào dáng vóc kiên cường dưới sân. Tận cùng giờ thức tỉnh của dân đen sẽ đến. Và cho tới khi đó, dù phải một nghìn năm nữa, họ sẽ giữ mình sống sót chống mọi vận rủi, như thể chim muông, truyền cho nhau từ thân xác này qua thân xác kia nguồn sinh lực mà Đảng không dự chia được và cũng không sao diệt nổi.
"Em còn nhớ con chim chích chòe hát cho chúng mình hôm đầu tiên đó không, tại ven rừng ấy ?" anh hỏi.
"Nó không hát cho chúng mình," Julia cãi. "Nó hát để tự chiều nó. Không phải thế nữa. Nó chỉ hát, thế thôi."
Chim hát, dân đen hát, Đảng không hát. Khắp quanh thế giới, Tại Luân Đôn hay Nữu Ước, ở Phi Châu hay Ba Tây, tại những đất cấm bí ẩn bên kia biên giới, ngoài phố Ba Lê hay Bá Linh, tại các làng trên đồng bằng Nga vô tận, trong các tiệm tạp hóa ở Trung Hoa và Nhật Bản — khắp nơi đứng sững một bóng người vững chắc không thể khắc phục được, một hình thù trở thành quái dị vì làm lụng và thai nghén, cực nhọc từ ngày sinh đến lúc chết, nhưng vẫn hát. Từ những bộ hông mạnh mẽ đó một giống người có ý thức sẽ có ngày ra đời. Mình là kẻ chết, tương lai thuộc về họ. Nhưng mình có thể tham dự tương lai đó nếu mình biết bảo tồn tinh thần như họ duy trì thể xác, và lưu truyền án lý mật bảo rằng hai cộng hai là bốn.
"Mình là kẻ chết," anh nói.
"Minh là kẻ chết," Julia ngoan ngoãn lặp lại.
"Các ngươi là kẻ chết," một giọng đanh thép cất tiếng đằng sau họ.
Họ nhẩy xa nhau. Ruột Winston như băng lại. Anh có thể thấy lòng trắng bao quanh mống mắt Julia. Mặt nàng quay vàng sữa. Vết phấn đỏ còn điểm má nàng bật hẳn lên làm như chúng không dính líu gì với làn da ở dưới.
"Các ngươi là kẻ chết," giọng đanh thép nhắc lại.
"Ở đằng sau bức tranh," Julia nói như thở.
"Ở đằng sau bức tranh," giọng kia nhái. "Đứng yên tại chỗ ! Không được đụng đậy trước khi có lệnh !"
Sự đã đến, cuối cùng sự đã đến ! Họ không thể làm gì được hơn là đứng nhìn vào mặt nhau. Chạy trốn, ra khỏi nhà trước khi quá muộn — không một ý nào tương tự hiện qua óc họ. Không thể tưởng tới việc bất tuân giọng đanh thép từ tường vọng ra. Có tiếng cách như thể một chốt cửa bị vặn ngược và có tiếng kính vỡ. Bức tranh rớt xuống đất để lộ ra chiếc máy truyền hình đằng sau.
"Bây giờ chúng nhìn thấy được mình," Julia nói.
"Bây giờ chúng ta nhìn thấy được các ngươi," giọng nói tiếp lời. "Đứng ra giữa phòng. Xây lưng lại nhau. Khoanh tay sau đầu. Không được đụng vào nhau."
Họ không đụng vào nhau, nhưng anh tuồng như cảm thấy được sự run rẩy của thân thể Julia. Hay có lẽ đó chỉ là sự run rẩy của chính người anh. Anh có đủ sức ngăn được răng anh khỏi đánh lập cập, nhưng anh không kiềm chế nổi đầu gối anh. Có tiếng giầy ống thình thịch ở dưới, trong nhà và ngoài nhà. Sân hình như đầy người. Có vật gì bị kéo lê trên đá lát. Tiếng hát của người đàn bà đã vụt tắt. Có tiếng lăn ầm dài như thể chậu giặt bị quẳng qua sân, rồi có tiếng giận dữ hỗn độn kết cục bằng một tiếng kêu đau đớn.
"Nhà bị vây," Winston nói.
"Nhà bị vây," giọng nói lặp lại.
Anh nghe thấy Julia nghiến răng lại: "Em nghĩ mình nên từ giã nhau đây cho phải," nàng nói.
"Các ngươi từ giã nhau đi là đúng," giọng nói tiếp lời. Rồi một giọng nói khác hẳn, một giọng nhẹ, có học, mà Winston có cảm tưởng đã nghe được trước đây, xen vào; "Và nhân tiện, đương lúc còn câu chuyện, "Đây là cây nến để đưa anh đi ngủ, đây là thanh đao để chém cái đầu anh." !"
Có vật gì đập vào giường sau lưng Winston. Đầu một cái thang được ném qua cửa sổ đã chạm phải khung giường. Có người chèo qua lối cửa sổ. Có tiếng giầy ống giẫm trên cầu thang. Căn phòng đầy đàn ông lực lưỡng mặc đồng phục đen, chân đi giầy ống bịt sắt, tay cầm dùi cui.
Winston không còn run rẩy nữa. Ngay mắt, anh cũng không chớp mấy. Chỉ có một điều hệ trọng: giữ bình tĩnh, giữ bình tĩnh, không cho chúng cớ để đánh mình ! Một tên có bộ quai hàm nhẵn của võ sĩ quyền thuật trên đó cái miệng chỉ là vết gạch, ra đứng trước mặt anh, lắc lư dùi cui giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ với một vẻ đăm chiêu. Winston bắt gặp mắt hắn. Cảm tưởng như ở truồng, với tay để sau đầu và mặt mũi cùng thân thể phơi ra đó, gần như quá sức chịu đựng. Tên võ sĩ lè đầu một cái lưỡi trắng ra liếm chỗ đáng nhẽ là môi hắn, rồi bước qua mặt anh. Có một tiếng ầm khác. Có kẻ đã nhấc tấm chặn giấy thủy tinh lên khỏi bàn và đập nó tan thành mảnh trên đá lò.
Mảnh san hô, một vật uốn hồng nhỏ bé như một nụ hồng bằng đường gắn trên bánh ngọt, lăn qua tấm chùi chân. Nó nhỏ bé làm sao, Winston nghĩ, nó vẫn nhỏ bé làm sao ! Có tiếng hổn hển và tiếng đấm đằng sau anh, và anh bị đá mạnh vào đầu gối suýt mất thăng bằng. Một tên đàn ông đã đấm vào nhật tùng Julia, làm nàng gấp người lại làm hai như một cái thước kẻ bỏ túi. Nàng dãy dụa trên sàn cố lấy lại hơi. Winston không dám quay đầu lại dù chỉ một ly nhỏ, nhưng thỉnh thoảng gương mặt tái mét hổn hển của nàng hiện trong góc thị giác anh. Ngay trong cơn hãi hùng, cơ hồ anh cảm thấy đau đớn trong chính người anh, nhưng nỗi đau chết điếng không khẩn cấp bằng sự tranh đấu lấy lại hơi. Anh biết thế là thế nào; nỗi đau đớn ghê gớm dồn dập vẫn nằm đó nhưng chưa được thấy đau vì trước hết phải thở được đã. Rồi có hai tên đàn ông nắm vai và đầu gối nàng kéo nàng dậy, lôi nàng như một cái bị ra khỏi phòng. Winston thoáng thấy mặt nàng rũ xuống, vàng và quẹo lại, đôi mắt nhắm nghiền, vết phấn đỏ vẫn nguyên trên má, và đó là hình ảnh cuối cùng của nàng mà anh được thấy.
Anh đứng chết lặng. Chưa ai đánh anh. Nhiều tư tưởng tự động nhưng hình như hoàn toàn vô tích sự bắt đầu xuyên qua óc anh. Anh tự hỏi không biết chúng đã bắt ông Charrington chưa. Anh tự hỏi chúng đã đối xử ra sao với người đàn bà ngoài sân. Anh thấy buồn đi tiểu hết sức, và hơi lạ vì anh mới đái hai ba giờ trước. Anh để ý thấy đồng hồ trên bàn sưởi chỉ vào số chín, có nghĩa là hai mươi mốt giờ. Nhưng ánh sáng có vẻ quá mạnh. Ánh sáng không giảm độ vào lúc hai mươi mốt giờ vào một buổi chiều tháng tám sao ? Anh tự hỏi liệu anh và Julia đã nhầm giờ chăng — đã ngủ cả thời gian kim đồng hồ quay tròn và nghĩ rằng bây giờ là hai mươi mốt giờ trong khi thực ra đã là tám giờ ba mươi sáng ngày hôm sau. Nhưng anh không nghĩ xa hơn. Không thú vị gì.
Có tiếng bước khác, nhẹ hơn, trong lối đi. Ông Charrington vào phòng. Bộ điệu của mấy tên đàn ông mặc đồng phục đen bỗng thuần hơn. Cũng có cái gì thay đổi trong dáng điệu của ông Charrington. Mắt ông nhìn vào những mảnh chặn giấy thủy tinh.
"Nhặt các mảnh kia lên !" ông nói sẵng.
Một tên cúi xuống tuân lệnh. Giọng nói bình dân đã biến mất; Winston chợt hiểu anh đã nghe thấy giọng nói của ai mấy lúc trước trong máy truyền hình. Ông Charrington vẫn mặc chiếc áo khoác nhung cũ, nhưng tóc ông, trước đây gần bạc, đã hóa ra đen. Thêm vào ông không còn đeo kính. Ông ta đưa mắt sắc bén nhìn Winston có một lần như để kiểm tra căn cước anh, rồi không thèm để ý đến anh nữa. Ông ta vẫn dễ nhận ra, nhưng không còn là người cũ nữa. Thân hình ông ta đã thẳng lại và có vẻ lớn hơn. Mặt ông ta thay đổi rất ít, song le những thay đổi nhỏ đã làm ông hóa dạng hẳn. Cặp lông mày đen ít rậm hơn, những nét nhăn đã biến mất, các nét mặt dường như đã khác biệt; ngay cả mũi trông như ngắn hơn. Đó là khuôn mặt lanh lợi, lạnh lùng của một gã đàn ông chừng ba mươi nhăm tuổi. Winston sực nghĩ rằng lần thứ nhất trong đời anh, anh nhìn thấy và nhận ra một viên Cảnh Sát Tư Tưởng.
Lúc ấy vào giữa buổi sáng và Winston đương rời ô phận ra phòng vệ sinh.
Một bóng cô đơn đi về phía anh từ cuối hành lang sáng chói. Đó là cô gái tóc đen. Bốn ngày đã trôi qua từ bữa anh gặp cô ta ngoài tiệm đồ cổ. Khi cô ta lại gần hơn, anh thấy cánh tay phải của cô bị băng chéo, lúc ở xa anh không để ý vì tấm băng đồng màu với bộ quần áo liền quần của cô. Có lẽ cô ta bị rập tay khi loanh quanh một trong mấy cái ống kính vạn hoa to lớn dùng để soạn thảo cốt truyện. Đó là một tai nạn thường xảy ra tại Cục Truyện.
Họ đang cách nhau khoảng bốn thước thì cô gái trợt sẩy chân ngã gần úp mặt vào sàn. Cô ta thốt lên một tiếng rên nhọn. Chắc cô ta ngã vào bàn tay bị thương. Winston dừng chân ngay lại. Cô gái đã quỳ dậy. Mặt cô ta hơi vàng kem làm nổi bật đôi môi đỏ hơn bao giờ hết của cô. Mắt cô ta nhìn chòng chọc vào mắt anh ra chiều kêu gọi với vẻ sợ hãi nhiều hơn là đau đớn.
Một cảm giác là lạ xao xuyến tim Winston. Trước mặt anh là một kẻ thù đương tìm cách giết anh: trước mặt anh cũng là một con người đang đau đớn và có thể đã bị gẫy xương. Chưa chi anh đã theo bản năng tiến về phía cô ta. Ngay lúc anh thấy cô ta ngã vào cánh tay bị băng, dường như anh cảm thấy đau trong chính người anh.
"Cô có bị thương không ?" anh hỏi.
"Không hề chi. Cánh tay tôi. Một khắc nữa nó lại như thường bây giờ," cô ta nói như thể tim cô phập phồng. Mà thực, mặt cô ta xanh hẳn lại.
"Cô có bị gẫy gì không ?"
"Không. Tôi không sao. Bị đau một hồi, thế thôi."
Cô ta giơ bàn tay lành về phía anh và anh đỡ cô ta dậy. Cô ta đã hơi hoàn sắc và có vẻ khá hơn nhiều.
"Không hề gì," cô ta nhắc xẵng lại. "Tôi chỉ bị chạm một chút vào cổ tay thôi. Cám ơn đồng chí."
Rồi cô ta tiếp tục đi về phía đang đi, nhanh nhẹn như thể thực sự không có gì. Toàn việc xảy ra không quá một nửa phút. Không để tâm tư hiện ra trên mặt là một thói quen đã trở thành tính tự nhiên, vả lại khi sự kiện xảy ra họ ở trước máy truyền hình. Tuy sao, khó lòng Winston không lộ một vẻ ngạc nhiên chốc lát, vì trong thời gian hai ba giây anh đỡ cô gái dậy, cô ta đã dúi một vật gì đó vào tay anh. Không nghi ngờ gì được, cô ta đã cố ý làm như vậy. Đó là một vật nhỏ bẹt. Khi anh qua cửa vào phòng vệ sinh, anh đút nó vào túi và lấy ngón tay dò dẫm nó. Đó là một mảnh giấy gấp làm tư.
Đứng trước chỗ tiểu tiện anh sờ soạng tờ giấy thêm một chút để giở nó ra. Thế nào cũng có tin nhắn viết trên đó. Một lúc anh toan chạy vào chuồng xí để đọc nó tức thì. Nhưng đấy là một hành động hết sức điên rồ, như anh thừa biết. Không nơi nào chắc chắn có máy truyền hình dòm ngó liên tục hơn nơi này.
Anh trở về ô phận, ngồi xuống, thung dung vất mảnh giấy vào giữa các tờ giấy khác trên bàn, đeo kính lên và kéo máy ghi âm về phía mình. "Năm phút", anh tự nhủ, "ít nhất năm phút nữa". Tim anh đập to dễ sợ trong lồng ngực anh. Cũng may công việc anh đang làm chỉ là việc thông thường, phải cải chính một bảng số, không cần lưu ý tới lắm.
Dù điều gì được ghi trên giấy chăng nữa, thế nào nó cũng có một ý nghĩa chính trị. Theo như anh biết chỉ có hai trường hợp. Một là, có lẽ trúng hơn, cô gái là một nhân viên của Cảnh Sát Tư Tưởng, đúng như anh sợ. Anh không hiểu tại sao Cảnh Sát Tư Tưởng lại chọn cái lối ấy để truyền tin, nhưng anh chắc họ có lý do của họ. Điều được viết trên tấm giấy có thể là một câu dọa nạt, một lời cảnh cáo, một lệnh bảo anh tự tử, một bẫy tả ra sao đó. Nhưng có một giả thuyết khác, rồ dại hơn, hiện lên trong óc anh, mặc dầu anh cố tình dẹp nó. Đó là thuyết mẩu tin không phải của Cảnh Sát Tư Tưởng chút nào mà là của một cơ quan ngầm nào đó. Biết đâu Hội Tình Thân cuối cùng có thực ! Biết đâu cô gái có chân trong đó ! Ý nghĩ này hẳn là vô lý nhưng nó nảy ngay trong óc anh khi anh xúc giác mảnh giấy trong tay anh. Chỉ hai phút sau anh mới liên tưởng tới sự giải thích sát thực hơn kia. Và ngay bây giờ, tuy lý trí anh bảo anh mẩu tin kia đồng nghĩa với cái chết — anh vẫn không tin thế, niềm hy vọng trái lẽ cứ tồn tại, tim anh cứ đánh trống ngực và anh khó giữ cho giọng nói khỏi run khi anh thì thầm những con số mới bịa ra trong máy ghi âm.
Anh cuốn bó tài liệu đã hoàn tất và nhét nó vào ống hơi. Tám phút đã qua. Anh sửa lại cặp kính trên mũi, thở dài, rồi kéo về phía anh sấp văn kiện kế tiếp có mẩu giấy nằm ở trên. Anh trải nó ra. Trên mặt giấy, bằng một nét chữ nguệch ngoạc được viết:
Tôi yêu anh
Trong vài giây anh quá bàng hoàng không vứt ngay vật lụy thân vào lỗ ký ức. Khi vứt nó, mặc dầu anh quá rõ mối nguy của sự tỏ quan tâm, anh không cầm mình khỏi sự đọc lại nó một lần nữa, để tin chắc rằng giòng chữ kia có thật.
Buổi sáng còn lại, làm việc đối với anh thật khó. Khổ hơn sự phải chăm chú vào một loạt việc vô nghĩa là sự cần giấu không cho máy truyền hình thấy nỗi bồn chồn trong anh. Anh có cảm tưởng lòng anh rực cháy. Ăn trưa trong quán cơm đông nghẹt là cả một cực hình. Anh hy vọng được ở một mình đôi chút trong thời gian ăn, nhưng xúi quẩy làm sao cái tên Parsons đần độn đến thả mình cạnh anh, mùi nồng của mồ hôi anh ta át hẳn mùi tanh của món canh trong khi anh ta thao thao bất tuyệt về chuyện sửa soạn Tuần Lễ Hận Thù. Anh ta đặc biệt hoan hỷ về một mô hình đầu Bác làm bằng giấy nhàu rộng hai thước sẽ do Đoàn Gián Điệp của con gái anh tạo thành nhân dịp đó. Bực một cái là giữa tiếng ồn ào Winston không nghe được rõ Parsons nói gì, cứ phải luôn luôn bảo anh ta nhắc lại mấy lời phán xét khờ dại của anh ta. Đúng một lần anh bắt gặp tia nhìn của cô gái ngồi cùng hai thiếu nữ khác tại một bàn ở tận cuối phòng. Cô ta làm như không trông thấy anh và anh không nhìn lại về phía cô nữa.
Buổi chiều dễ chịu đựng được hơn. Ngay sau bữa trưa anh được lãnh một công việc khó khăn tế nhị, phải tốn nhiều giờ và gác mọi việc khác lại mới hoàn thành nổi. Đó là việc giả mạo một loạt bài báo cáo về mức sản xuất hai năm về trước ngõ hầu hạ uy tín của một nhân vật to đầu thuộc Đảng Trong nay bị thất sủng. Đây là sở trường của Winston, và trong hơn hai tiếng anh loại được hình ảnh của cô gái khỏi óc anh. Sau đó gương mặt cô lại hiện ra trong ký ức anh, cuốn theo một sự thèm muốn được ở một mình dữ dội không chịu nổi. Không ở yên một mình anh không thể suy nghĩ được gì về diễn cảnh mới lạ này. Tối nay là một trong những tối anh phải có mặt tại Trung Tâm Cộng Đồng. Anh nuốt thêm một bữa cơm vô vị tại quán ăn trong sở, chạy nhanh tới Trung Tâm, tham gia trò hề trịnh trọng của một "nhóm thảo luận", đánh hai ván bóng bàn, nốc mấy cốc rượu gin và ngồi một nửa tiếng nghe một bài diễn văn về "Mối quan hệ giữa Anh Xã và cờ tướng". Tâm hồn anh run lên vì chán ngán, nhưng được cái lần này anh không có xung lực tránh buổi họp tại Trung Tâm. Trước mấy chữ Tôi yêu anh lòng ham sống đã trào dậy trong anh, khiến sự liều lĩnh vì chuyện nhỏ nhặt bỗng trở thành ngu xuẩn. Mãi tới hai mươi ba giờ, khi anh về tới nhà và lên giường ngủ — trong bóng tối, nơi anh được an ninh, ngay máy truyền hình anh cũng không sợ nếu anh giữ im lặng — anh mới được phép suy nghĩ liên hồi.
Vấn đề anh phải giải quyết là một vấn đề cụ thể: làm sao liên lạc được với cô gái và dàn xếp được một cuộc gặp gỡ với cô. Anh không còn đặt giả thuyết cô ta ghim bẫy anh nữa. Anh biết không phải thế, căn cứ trên sự dao động không thể lầm được của cô khi cô đưa mẩu thư cho anh. Rõ ràng cô ta sợ hãi quá sức, như đúng lẽ cô phải sợ. Mà ý nghĩ khước từ bước cầu thân của cô cũng không hề thoáng qua óc anh. Mới năm đêm trước anh còn chiêm niệm việc lấy đá đập vào sọ cô, nhưng điều đó không có gì quan trọng. Anh tưởng tới tấm thân trần truồng trẻ trung của cô như anh đã thấy trong giấc mơ. Anh đã nghi sai cô là một kẻ rồ dại như tất cả đám chúng, óc đầy dối trá và hận thù, lòng cứng như băng. Anh lên cơn sốt với ý nghĩ anh có thể mất cô, tấm thân trắng trẻ có thể lướt xa anh. Điều anh sợ hơn hết là cô có thể đổi ý nếu anh không tiếp xúc mau với cô. Nhưng sự khó khăn thể chất của một cuộc gặp mặt thật lớn lao. Tựa như sự kiếm cách tiến quân cờ khi đã bị chiếu tướng. Quay về phía nào cũng có máy truyền hình dòm ngó. Thực ra, mọi cách liên lạc với cô đã hiện ra trong óc anh nội năm phút sau khi đọc bức thư; nhưng bây giờ có thì giờ suy nghĩ anh kiểm điểm lại từng cách như thể xếp một hàng khí cụ trên bàn.
Hiển nhiên kiểu gặp gỡ hồi sáng không thể lập lại được nữa. Nếu cô gái làm việc tại Cục Văn Khố sự thể tương đối giản dị hơn, nhưng anh chỉ có một ý niệm mơ hồ về vị trí trong tòa nhà của Cục Truyện và anh lại không có cớ để tới đó. Nếu anh biết chỗ ở của cô và giờ cô rời sở, anh có thể kiếm cách gặp cô trên đường về; nhưng lò dò theo cô về nhà không ổn vì như vậy nghĩa là phải lảng vảng ngoài Bộ, một việc thế nào cũng bị để ý đến. Còn chuyện gửi thư cho cô qua bưu điện không cần bàn đến. Theo một lệ thường chẳng có chi là bí mật, thư nào qua bưu điện cũng bị mở ra đọc. Thật ra, ít ai viết thư. Vì với những tin thỉnh thoảng cần gửi, đã có thiệp in sẵn gồm cả hàng câu, chỉ gạch câu không thích ứng đi là xong. Vả lại anh không biết tên cô gái, huống chi địa chỉ của cô. Cuối cùng anh định rằng nơi an toàn nhất là quán ăn trong sở. Nếu anh gặp được cô ngồi bàn một mình, tại khoảng giữa phòng ăn, không quá gần máy truyền hình, với tiếng rì rào xung quanh đủ lớn — nếu những điều kiện đó kéo dài độ hai mươi giây, anh có thể trao đổi vài lời với cô.
Một tuần sau đó, đời sống anh trôi như một giấc mộng chập chờn. Ngày hôm sau cô gái chỉ xuất hiện tại quán ăn khi anh rời quán và khi tiếng còi đã thổi. Chắc hẳn cô bị đổi sang toán làm việc sau. Họ qua mặt nhau không một cái nhìn. Hôm sau nữa cô gái tới quán ăn vào giờ thường lệ, nhưng đi cùng với ba cô khác và ngồi ngay dưới một máy truyền hình. Rồi trong ba ngày khủng khiếp kế tiếp cô không xuất hiện chút nào. Cả tâm hồn lẫn thể xác Winston hình như mắc phải một chứng nhạy cảm ghê gớm, một tính thấu suốt khiến mỗi cử chỉ, mỗi tiếng động, mỗi sự đụng chạm, mỗi lời phải nói phải nghe trở thành một nhục hình. Ngay trong giấc ngủ anh cũng không thoát được hình ảnh cô gái. Anh không rờ tới nhật ký trong những ngày đó. Nếu có khuây khỏa thì có vào lúc anh làm việc, khi ấy anh có thể thỉnh thoảng quên mình trong mười phút liền. Anh hoàn toàn không làm sao biết được cô gái ra sao. Anh không có cách nào hỏi thăm cô. Có thể cô bị hóa hơi, có thể cô đã tự tử, có thể cô bị thuyên chuyển đi cuối chân trời Đại Dương: và khổ hơn nữa và có lẽ đúng hơn nữa, có thể cô đã đổi ý và quyết định tránh mặt anh.
Ngày sau đó, cô gái xuất hiện trở lại. Cánh tay cô không còn bị băng chéo nhưng cổ tay cô bị cuốn băng dính. Được thấy cô, anh nhẹ nhõm nhiều đến nỗi không ngăn được mình nhìn thẳng vào cô mấy giây liền. Ngày hôm sau anh suýt nói chuyện được với cô. Khi anh tới quán, cô đang ngồi khá xa tường, hoàn toàn một mình. Lúc ấy còn sớm, quán chưa đông người. Đuôi xếp hàng tiến dần và Winston gần tới quầy hàng thì phải dừng chân hai phút vì trước anh có người kèo nhèo bởi không được phát thẻ đường tinh. Nhưng cô gái vẫn ngồi một mình khi Winston bê mâm lên bắt đầu bước về phía bàn cô. Cô chỉ còn cách anh độ ba thước. Còn hai giây nữa là xong. Đúng lúc ấy có tiếng kêu gọi anh: "Smith !" Anh giả vờ không nghe thấy. "Smith !", tiếng kêu tiếp tục to hơn. Không cách nào thoát. Anh quay lại. Một thanh niên tóc vàng, có bộ mặt ngốc nghếch tên là Wilsher, chỉ quen sơ anh, đang tươi cười mời anh ngồi tại một chỗ trống cạnh anh ta. Từ chối không ổn. Đã bị nhận diện, anh không thể đến ngồi tại bàn một cô gái cô độc. Làm thế quá lộ. Anh ngồi xuống với với một nụ cười thân thiện. Mặt người thanh niên tóc vàng ngờ nghệch nở tươi nhìn anh. Winston có ảo giác thấy mình cầm cuốc bổ mạnh vào giữa khuôn mặt ấy. Vài phút sau bàn cô gái đầy người.
Nhưng chắc cô đã thấy anh đi về phía cô và có lẽ cô đã hiểu ý anh. Ngày hôm sau anh lo đến sớm. Gần như đương nhiên, cô gái ngồi tại một bàn ở khoảng chỗ cũ, và lại ngồi một mình. Người xếp hàng ngay trước anh là một người vóc bọ hung, nhỏ bé, nhanh nhẹn, có mặt phẹt và mắt ti hí đa nghi. Khi Winston bê mâm rời quầy hàng, anh thấy người đàn ông nhỏ bé đi thẳng về phía bàn cô gái. Hy vọng của anh lại chìm xuống. Có một chỗ vắng ở một bàn xa hơn, nhưng có cái gì trong dáng điệu của người nhỏ bé gợi ý hắn ta quá quan tâm đến tiện nghi bản thân thế nào cũng chọn cái bàn trống người nhất. Winston bước theo hắn với con tim giá băng. Không lợi ích gì nếu anh không được gặp cô gái một mình. Vừa lúc đó một tiếng ầm vang. Người đàn ông nhỏ bé nằm thưỡn chân thẳng cẳng, mâm hắn bị hất tung, khiến hai dòng canh và cà phê chảy lăn trên sàn. Hắn vừa kéo người dậy vừa hằn học nhìn Winston, hiển nhiên ngờ anh đã quèo chân hắn. Nhưng không sao. Năm giây sau, Winston ngồi tại bàn cô gái.
Anh không nhìn cô. Anh bỏ thức ăn ra khỏi mâm và vội bắt đầu ăn. Tối quan trọng là nói chuyện ngay trước khi có ai lại, nhưng lúc này một mối khiếp sợ xâm nhập Winston. Đã một tuần qua từ ngày cô bắt liên lạc với anh. Có thể cô đã đổi ý, chắc chắn cô đã đổi ý ! Chuyện này không thể kết cục tốt đẹp được; những chuyện tình không thể xảy ra trong đời sống thực tế. Chắc anh đã ngả lòng hẳn, không dám nói gì, nếu lúc đó anh không thấy Ampleforth, nhà thi sĩ có tai lông lá, đang khập khiễng bê mâm quanh phòng tìm một chỗ ngồi. Theo kiểu mơ hồ của ông, Ampleforth quyến luyến Winston, thế nào ông ta cũng đến ngồi cạnh anh nếu ông trông thấy anh. Còn khoảng một phút để hành động. Cả Winston lẫn cô gái đều điềm tĩnh ăn. Chất họ đang ăn là một món canh loảng, đúng ra là canh đậu. Winston bắt đầu lên tiếng thì thầm nhỏ. Cả hai không nhìn lên; họ điềm nhiên múc chất lỏng vào mồm, và giữa hai thìa trao đổi vài lời cần thiết bằng một giọng thấp không nhấn.
"Cô rời sở vào giờ nào ?"
"Mười tám giờ rưỡi."
"Mình có thể gặp nhau ở đâu ?"
"Công Trường Chiến Thắng, gần đài kỷ niệm."
"Chỗ đó đầy máy truyền hình."
"Không sao nếu đông người."
"Dấu hiệu gì không ?"
"Không. Đừng lại gần tôi trước khi tôi ở giữa đám đông. Đừng nhìn tôi. Chỉ ở đâu đó gần tôi."
"Giờ nào ?"
"Mười chín giờ."
"Được."
Ampleforth không nhìn thấy Winston và ra ngồi bàn khác. Họ không nói gì với nhau thêm, và trong chừng mực của hai người ngồi cùng bàn trước mặt nhau, họ không nhìn nhau. Cô gái ăn cơm xong nhanh rồi đi, trong khi Winston ngồi nán lại hút thuốc.
Winston tới Công Trường Chiến Thắng trước giờ hẹn. Anh đi vẩn vơ quanh bệ cột khía rãnh to lớn, trên chỏm có tượng Bác nhìn về phía nam, về phía quãng trời Bác đại thắng phi cơ Âu Á (tức phi cơ Đông Á, mấy năm trước), tại Trận Vùng Một Không Quân. Trên phố trước mặt có dựng tượng một kỵ sĩ được coi là tạc hình của Olivier Cromwell. Đã năm phút quá giờ hẹn mà cô gái chưa xuất hiện. Lại nữa, sự hãi hùng túm lấy Winston. Cô ta không đến, cô ta đã đổi ý ! Anh đi chậm về phía bắc dọc công trường, và cảm thấy một chút thú vị nhẹ khi nhận ra nhà thờ Thánh Martin có thời có chuông reo: "Mày thiếu tao ba trinh". Rồi anh thấy cô gái đứng dưới bệ đài kỷ niệm đang đọc hay giả vờ đọc một tờ yết thị xoắn vòng theo cột tới tận chỏm. Không nên lại gần cô trước khi có nhiều người bu quanh cô. Có đầy máy truyền hình gắn khắp trán tường đài. Nhưng vừa lúc ấy, một tiếng la hét ầm ĩ cùng tiếng nổ của một đoàn xe cộ nặng nề phát ra từ phía trái anh. Bỗng mọi người hình như đều muốn băng qua công trường. Cô gái lanh lẹ cắt lối quanh mấy con sư tử trên bệ đài và gia nhập đám người đang chạy. Winston chạy theo. Vừa chạy anh vừa dựa trên mấy câu bình phẩm hét to mà phỏng đoán có một đoàn xe chở tù binh Âu Á đang qua.
Chưa chi một đám đông đã chắn cả phía nam công trường. Bình thường Winston thuộc loại người lượn ra ngoài mọi nơi chen chúc, nhưng bây giờ anh cũng lấn, cũng đẩy, cũng len mình tiến lên giữa đám đông. Chẳng bao lâu anh chỉ còn cách tầm tay cô gái, nhưng lối đi bị ngăn bởi một gã dân đen to lớn và một người đàn bà đồ sộ chẳng kém, chắc hẳn là vợ anh ta, họp thành một bức tường thịt không xuyên thủng nổi. Winston uốn ngang mình lại và đổ mạnh vai vào giữa họ. Một lúc anh tưởng chừng như tạng phủ anh bị nghiền nát giữa hai bộ hông lực lưỡng, nhưng anh lọt qua họ, chỉ phải đổ mồ hôi đôi chút. Anh đã tới cạnh cô gái. Họ sánh vai nhau đi, mắt cả hai nhìn thẳng về phía trước.
Một dãy dài xe tải, được lính mặt gỗ cầm súng liên thanh đứng canh tại mỗi góc đường, chạy chậm trên phố. Trong xe tải đầy người da vàng nhỏ bé mặc đồng phục xanh lạt cũ rích ngồi xổm khít vào nhau. Gương mặt Mông Cổ buồn bã của họ nhìn qua vành xe hết sức dửng dưng. Thỉnh thoảng khi một chiếc xe xóc, một tiếng kim khí lẻng kẻng bật lên: tất cả tù nhân đều bị đóng cùm chân. Hết xe tải đầy mặt buồn này đến xe tải đầy mặt buồn kia đi qua. Winston biết họ ngồi trong đó, nhưng chỉ cách hồi anh mới thấy mặt họ. Vai cô gái và tay phải của cô tới tận khuỷu tay cọ sát vào anh. Má cô gần anh đến nỗi anh có thể cảm thấy hơi ấm của nó. Cô đã đảm nhiệm ngay tình thế, y như khi ở quán ăn. Cô bắt đầu nói bằng một giọng không nhấn như trước, môi rất ít động đậy thốt ra một tiếng thì thầm dễ lắng chìm trong tiếng nói ồn ào và tiếng nổ của xe tải.
"Anh nghe được tôi không ?"
"Có."
"Anh có thể rảnh chiều chủ nhật không ?"
"Có."
"Nghe kỹ đây. Anh sẽ phải nhớ hết. Hãy lại nhà ga Pađington — "
Với một sự chính xác kiểu nhà binh làm anh ngạc nhiên, cô vạch đường phải theo cho anh. Một nửa tiếng đi tàu hỏa; ra ngoài nhà ga quẹo tay trái; đi dọc đường cái hai cây số qua một cái cổng thiếu thanh trên; một con đường hẹp xuyên cánh đồng; một con đường mòn đầy cỏ mọc; một lối đi giữa bụi rậm; một thân cây chết phủ rêu. Làm như cô có một bản đồ trong óc. "Anh có thể nhớ hết không ?", cô tận cùng thì thầm.
"Có."
"Anh rẽ tay trái rồi tay phải, rồi lại tay trái. Và cái cổng phải không có thanh trên."
"Vâng. Vào giờ nào ?"
"Khoảng mười lăm giờ. Anh có thể phải đợi. Tôi sẽ lại bằng lối khác. Anh có chắc nhớ hết không ?"
"Có."
"Vậy anh xa tôi nhanh, càng nhanh càng tốt."
Cô không cần dặn anh điều này. Nhưng hiện họ không trích ra nổi đám đông. Xe tải vẫn tiếp tục đi qua, dân chúng vẫn há hốc mồm nhìn không biết chán. Hồi đầu có tiếng huýt nhưng chỉ xuất phát từ Đảng viên trong đám đông, và những tiếng ấy ngưng lại liền. Cảm xúc trội nhất là sự tò mò không thôi. Người ngoại quốc, dù là người Âu Á hay Đông Á, là một thứ thú kỳ dị. Dân chúng như không bao giờ được thấy mặt họ trừ phi dưới lốt tù binh, mà ngay tù binh cũng chỉ được thấy thoáng qua thôi. Không ai biết số phận họ sẽ ra sao, ngoài số ít người bị treo cổ dưới danh hiệu tội phạm chiến tranh: những người khác biến mất không hơn không kém, có lẽ bị nhốt trong trại khổ sai. Các khuôn mặt Mông Cổ tròn trịa đã được thay thế bởi những bộ mặt thuộc giống Âu Châu hơn, bẩn thỉu, râu ria, mệt mỏi. Từ trên gò má xồm xoàm mắt họ nhìn vào mắt Winston, có lúc với một cường độ lạ lùng, rồi ngoảnh phắt đi. Đoàn xe sắp qua hết. Trong xe tải cuối cùng anh thấy một ông già có lông xám đầy mặt, đứng thẳng người giơ hai cổ tay bị buộc chéo trước mặt, như thể ông ta quen bị trói. Đã gần tới lúc Winston và cô gái chia tay. Nhưng lát cuối cùng, trong khi đám đông vẫn bao quanh họ, tay cô gái tìm và khẽ siết nhanh tay anh.
Việc này chỉ kéo dài mười giây nhưng anh tưởng chừng tay hai người nắm lấy nhau một lúc lâu. Anh đã có thì giờ học từng chi tiết bàn tay cô gái. Anh thăm dò mấy ngón tay dài, mấy móng tay cong, lòng tay bị cứng vì làm việc nặng nhọc với đường nét chai cục, làn da mềm mại dưới cổ tay. Chỉ sờ vào nó anh cũng hình dung được ra nó. Đồng thời anh nghĩ rằng anh không biết màu mắt cô gái. Chắc nó phải nâu, nhưng người tóc đen cũng có khi có mắt xanh. Ngoảnh đầu lại để nhìn cô sẽ là một sự liều lĩnh điên rồ không tưởng được. Với đôi bàn tay thắt lấy nhau, không bị ai trông thấy giữa đám đông chật chội, họ nhìn thẳng trước mặt, và thay vì đôi mắt của cô gái, cặp mắt của người tù binh già vượt qua ổ tóc nhìn chòng chọc vào Winston, ai oán.
Winston tìm lối trên con đường nhỏ sáng rợp từng quãng, chân giẫm vào vũng nắng vàng mỗi khi bụi rậm giãn cách. Dưới hàng cây bên tay trái anh, hoa huệ dại phủ đầy đất. Khí trời lướt nhẹ trên da thịt anh. Hôm ấy là mồng hai tháng năm. Từ trong rừng thâm vọng lại tiếng gù của chim cu cườm.
Anh đến sớm hơn giờ hẹn một chút. Anh không gặp phải khó khăn trong chuyến du hành; quá hiển nhiên cô gái là một người từng trải, cho nên anh ít sợ hãi hơn bình thường. Chắc hẳn có thể tin được rằng cô đã kiếm ra một nơi hẹn an toàn. Thông thường miền thôn dã không thể được coi như an toàn hơn London. Đã đành là ở thôn quê không có máy truyền hình, nhưng vẫn còn mối nguy của máy ghi âm thâu lại tiếng nói của bạn để rồi vì đó bạn bị nhận dạng. Đi xa dưới một trăm cây số không cần xin chiếu khán trên thẻ thông hành, nhưng đôi khi gặp phải đội tuần tra lởn vởn quanh nhà ga, Đảng viên có thể bị xét giấy và hỏi han lôi thôi. Tuy sao Winston không thấy đội tuần tra xuất hiện, và trên đường rời nhà ga anh đã cẩn thận liếc nhìn lại phía sau mấy lần cho chắc không có ai theo dõi. Tàu hỏa đầy dân đen thản tính vì khí xuân. Toa tàu có ghế gỗ nơi anh ngồi bị tràn ngập bởi một gia đình lúc nhúc gồm từ một bà cụ móm đến một đứa bé một tháng, về quê chơi chiều nay với "ông bà xui" nhân thể kiếm một ít bơ để bán chợ đen như họ thành thật thổ lộ với anh.
Lối đi rộng ra, và một phút sau anh tới con đường mòn mà cô gái chỉ, một con đường nhỏ do vết chân bò vạch ra, lút vào giữa bụi rậm. Anh không có đồng hồ nhưng chưa thể tới mười lăm giở. Dưới chân anh hoa huệ dại rậm đến nỗi anh không tài nào tránh khỏi giẫm lên hoa. Anh quỳ xuống và ra tay hái vài mớ, vừa để cho qua thì giờ, vừa vì có ý nghĩ vẩn vơ muốn có bó hoa tặng cô gái khi giáp mặt cô. Anh hái được một bó lớn và đang ngửi mùi thơm hơi nặng của hoa thì một tiếng động, rõ ràng tiếng rắc của cành cây khô bị giẫm chân lên, làm anh ớn mình. Anh tiếp tục hái hoa. Đó là thái độ hay hơn nhất. Có thể đó là cô gái, cũng có thể vẫn có người theo dõi anh. Nhìn quanh là tỏ ra mình có hành vi tội lỗi. Anh hái hết hoa này đến hoa khác. Một bàn tay đặt nhẹ trên vai anh.
Anh ngước mắt nhìn lên. Đó là cô gái. Cô lắc đầu, hiển nhiên để ra hiệu cho anh phải giữ im lặng, rồi gạt lùm cây đi nhanh theo con đường mòn vào trong rừng. Rõ ràng cô ta từng đến nơi đây vì cô tránh né ổ lầy như người quen thói. Winston theo sau, tay vẫn ôm bó hoa. Thoạt đầu anh cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng khi nhìn vào tấm thân thanh mạnh uyển chuyển trước mặt anh với chiếc thắt lưng đỏ buộc đủ chặt để lộ đường cong của bộ hông, mặc cảm tự ti đè nặng tim anh. Ngay bây giờ anh tưởng chừng cô gái vẫn có thể chùn mình rút lui nếu cô ngoảnh mặt lại nhìn anh. Không khí êm ả và sắc xanh của lá làm anh nản lòng. Đã rồi, trên đường rời nhà ga, nắng xuân đã làm anh cảm thấy mình héo hắt dơ bẩn, đúng một động vật nội thất với lỗ da thấm bụi bồ hóng Luân Đôn. Anh chợt nghĩ rằng cho tới nay cô gái chưa bao giờ nhìn thấy anh ngoài trời dưới ánh sáng ban ngày. Họ đi đến cây sụp mà cô nói tới. Cô gái nhảy qua cây và rẽ mạnh lối qua khóm bụi rậm thoạt coi tưởng không có kẽ lọt. Lúc Winston băng theo cô, anh thấy mình ở trong một khu rừng trống thiên nhiên, một con gò nhỏ phủ cỏ, bao quanh bởi lùm cây non cao bít kín lấy nó. Cô gái ngừng chân và quay mặt lại.
"Chúng ta đã tới nơi," cô ta nói.
Anh đứng trước mặt cô, cách cô vài bước. Dường như anh chưa dám lại gần cô hơn nưă.
"Tôi không muốn nói gì trên đường mòn," cô tiếp lời, "vì sợ có máy ghâm giấu ngoài đó. Tôi không nghĩ là có máy, nhưng biết đâu đấy. Luôn luôn có cái rủi bị một tên chó săn nhận ra tiếng nói của mình. Ở đây mình không sao."
Anh vẫn không có can đảm lại gần cô. "Ở đây mình không sao thật hả ?", anh ngờ nghệch nhắc lại.
"Phải. Anh coi đám cây kia. Đó là cây tần bì nhỏ, xưa bị đốn tận gốc nhưng nay đã nảy lại thành một rừng nhánh không cành nào dày hơn cổ tay. Không có cành nào đủ lớn dể che một máy ghâm. Vả lại, tôi đã từng đến nơi này rồi."
Họ chỉ giả vờ nói chuyện. Bây giờ anh đã kiếm cách lại gần cô gái hơn. Cô đứng thật thẳng trước mặt anh, với một nụ cười hơi có vẻ riễu cợt trên môi, như thể cô tự hỏi tại sao anh hành động chậm chạp quá vậy. Hoa huệ dại đã tuôn rơi xuống đất. Hoa hình như tự ý rơi xuống. Anh cầm tay nàng. "Em có tin rằng cho tới lúc này anh không biết mắt em mầu gì không ?" anh nói. Anh nhận thấy mắt nàng nâu, mà màu nâu nhạt, dưới cặp mi đen. "Nay em nhìn rõ anh ra sao, em còn chịu để ý đến anh không ?"
"Có chứ, dễ ợt."
"Anh đã ba mươi chín tuổi. Anh đã có vợ mà không bỏ được. Anh bị bệnh giãn tĩnh mạch. Anh lại có năm chiếc răng giả."
"Chẳng can hệ gì," nàng nói.
Lát sau, khó nói được do ai khởi sự, nàng đã ngả trong lòng anh. Thoạt đầu anh không có cảm tưởng gì ngoài mối hoài nghi đơn chất. Tấm thân trẻ trung ép sát người anh, mái tóc đen xòa vào mặt anh, và thật ! Nàng vừa ngẩng mặt lên và anh đã hôn vào cái miệng đỏ rộng. Nàng vòng tay quanh cổ anh, nàng gọi anh là anh yêu, anh quý, anh cưng. Anh đẩy nàng xuống đất, nàng hoàn toàn không chống cự, anh có thể làm gì với nàng cũng được. Nhưng sự thực thì anh không có cảm giác thể xác nào ngoài xúc giác đơn sơ. Anh chỉ biết hoài nghi và tự hào. Anh sung sướng vì sự thể đang xảy ra nhưng anh không có nhục dục. Quá sớm, tuổi trẻ và sắc đẹp của nàng làm anh sợ hãi, anh quá quen sống không có đàn bà — anh không biết lý do nào đúng. Cô gái đưa mình ngồi dậy, vuốt một bông huệ dại ra khỏi tóc. Nàng ngồi sát vào anh, tay vòng quanh mình anh.
"Không sao, cưng. Không việc gì vội. Mình có cả buổi chiều lận. Chỗ ẩn này thật tuyệt, phải không anh ? Em khám phá ra nó nhân một bữa du hành tập thể bỗng bị lạc đường. Nếu có ai lại, cách một trăm thước có thể nghe thấy họ rồi.
"Tên em là gì ?" Winston hỏi.
"Julia. Em biết tên anh. Là Winston — Winston Smith."
"Sao em biết được ?"
"Cho là em giỏi khám phá mọi sự hơn cưng. Nói cho em hay. Anh nghĩ gì về em trước ngày em dúi mẩu giấy cho anh ?"
Anh không có rắp tâm nói dối nàng. Nói ra những điều tệ nhất ngay lúc đầu chính là một cách dâng hiến cho tình yêu.
"Thấy em là anh ghét," anh trả lời. "Anh muốn hiếp dâm em rồi sau đó giết em. Hai tuần trước anh thực sự tính lấy đá đập nát sọ em. Nếu em thật muốn biết, thì anh tưởng em dính dáng với Cảnh Sát Tư Tưởng."
Cô gái cười khoái trá, hiển nhiên coi đó như một sự công nhận tài ngụy trang của nàng.
"Cảnh Sát Tư Tưởng ư ? Bộ anh quả nghĩ vậy hả ?"
"Hừm, có lẽ không hẳn vậy. Nhưng theo toàn thể bộ điệu em — chỉ tại em tươi trẻ khỏe mạnh, em hiểu không — anh nghĩ có thể —"
"Anh nghĩ em là một Đảng viên tốt. Lời lẽ cũng như hành vi trong sạch. Cờ xí, đám rước, khẩu hiệu, thể thao, du hành tập thể — mọi cái trò đó. Và anh cho rằng nếu em có dịp nhỏ nào em sẽ tố cáo anh là một tội phạm tư tưởng để cho anh bị giết, phải không ?"
"Phải, đại khái như vậy. Rất nhiều cô gái trẻ như thế, em biết chứ !"
"Tại cái vật khốn kiếp này nó làm cho như vậy," nàng vừa nói vừa tháo chiếc thắt lưng nhỏ của Liên Đoàn Thanh Niên Chống Tình Dục rồi quăng nó trên một cành cây. Và như thể sờ vào bụng làm nàng nhớ tới điều gì, nàng lục túi bộ áo liền quần của nàng lôi ra một thanh xúc cô la nhỏ. Nàng bẻ nó ra làm hai, đưa cho Winston một phần. Chưa cầm nó, mới ngửi mùi anh đã biết ngay đó là một thứ xúc cô la rất khác thường. Nó đen bóng và được bọc trong giấy bạc. Thông thường xúc cô la là một chất dễ vụn mầu nâu xỉn có vị tả đúng nhất là vị khói lửa rác. Nhưng thỉnh thoảng anh có được thưởng thức thứ xúc cô la như miếng nàng cho anh. Hớp thơm đầu của nó gợi trong ký ức anh một kỷ niệm khó nhận ra nhưng mạnh mẽ, khắc khoải.
"Em kiếm ra thứ này ở đâu vậy ?", anh hỏi.
"Chợ đen," nàng thờ ơ nói. "Đúng em thuộc loại gái đáng coi chừng. Em chơi thể thao giỏi này. Em là một đoàn trưởng trong Đội Gián Điệp này. Em lại tình nguyện giúp việc cho Liên Đoàn Thanh Niên Chống Tình Dục ba tối một tuần. Em mất hàng giờ dán văn nhăng thối của chúng khắp Luân Đôn. Cuộc biểu tình nào cũng có em vác cờ. Em luôn luôn tỏ vẻ hân hoan và không bao giờ trốn việc. Bao giờ cũng hò hét với đám đông, đó là tuyên ngôn của em. Chỉ có cách ấy mới an toàn."
Mảnh xúc cô la đầu đã tan trên lưỡi Winston. Ngon lành làm sao. Nhưng cái kỷ niệm kia vẫn lởn vởn quanh tâm thức anh, mạnh mẽ nhưng không qui được vào một hình ảnh nhất định, giống như một vật nhìn qua khóe mắt. Anh gạt nó ra, duy vẫn ý thức rằng đó là ký ức của một hành động anh muốn xóa bỏ nhưng không xóa nổi.
"Em quá trẻ," anh nói. "Em kém anh những mười, mười lăm tuổi. Em thấy có gì quyến rũ trong một con người như anh ?"
"Có cái gì đó trên mặt anh. Em thấy nên xem sao. Em có tài nhận ra những kẻ không lệ thuộc. Vừa nhìn thấy anh em biết ngay anh chống chúng."
Chúng đây hẳn chỉ Đảng và đặc biệt Đảng Trong bị nàng nhắc tới với một nỗi căm thù mỉa mai ra mặt, khiến cho Winston e ngại mặc dầu anh biết nơi đây an toàn, nếu sự an toàn có thể có tại một nơi nào. Một điều nơi Julia làm anh ngạc nhiên là cách ăn nói thô tục của nàng. Đảng viên được coi như không biết chửi thề, và chính Winston rất ít khi chửi thề hay ít nhất to tiếng chửi. Thế mà Julia hình như không thể không dùng loại danh từ thấy viết phấn trên các ngõ hẻm lầy lội mỗi khi nhắc tới Đảng, nhất là Đảng Trong. Anh không ghét cách ăn nói đó. Nó chỉ là một triệu chứng của lòng phẫn nộ của nàng đối với Đảng và các đường lối của Đảng, có thể coi đó như là một phản ứng tự nhiên lành mạnh cũng như cái hắt hơi của một con ngựa ngửi thấy cỏ khô tồi. Họ đã rời khu rừng thưa và đang dạo bước trở lại dưới bóng cây ô quãng, tay người nọ choàng quanh mình người kia mỗi khi lối đi không đủ rộng cho hai người sánh đôi. Anh nhận thấy không có dây thắt, lưng nàng mềm mại hơn nhiều. Họ không nói to hơn tiếng thì thầm. Ngoài khu rừng thưa, nên giữ im lặng, Julia nói vậy. Hiện họ đã tới biên rừng nhỏ. Nàng ngăn chàng lại.
"Chớ có ra ngoài trời trống. Ngộ có ai dòm ngó. Mình chỉ an toàn nếu lấp mình sau cành cây."
Họ đang đứng dưới bóng lùm cây hạt dẻ. Ánh nắng, dù đã được lọc qua muôn lá, vẫn đốt nóng mặt họ. Winston nhìn ra phía cánh đồng bên kia rừng, và bị xúc động bởi một sự kiểm nhận lạ lùng, chậm chạp. Anh biết cảnh này kìa. Một cánh đồng cỏ xưa bị gặm sát đất, có một con đường nhỏ xuyên qua và có đất đùn lổm chổm. Tại hàng rào tơi tả bên kia đồng, cành du khẽ đong đưa dưới gió mát, lá cây nhẹ rung thành mớ như tóc đàn bà. Chắc hẳn, đâu đó gần đây, nhưng ngoài tầm mắt, có một giòng suối với nhiều vũng xanh có cá vàng bơi chăng ?
"Có một giòng suối đâu đó gần đây phải không ?" anh khẽ hỏi.
"Phải, có một con suối. Tại rìa cánh đồng kế bên, đúng ra trong đó có cá, cá rất lớn. Có thể thấy chúng vẫy đuôi bơi trong các vũng nước dưới cây liễu."
"Đây là Xứ Vàng — gần vậy," anh thì thầm.
"Xứ Vàng nào ?"
"Không có chi cả, thật ra. Đó là một phong cảnh anh thỉnh thoảng nằm mơ thấy."
"Coi kìa !" Julia xì xào.
Có một con chim chích chòe đậu trên một cành cây cách họ không tới năm thước, gần ngang mặt họ. Có lẽ nó không nhìn thấy họ. Nó ở dưới nắng, còn họ ở trong bóng rợp. Nó xòe cánh ra rồi xếp gọn cánh lại cẩn thận, cúi đầu xuống một lúc như để tỏ lòng tôn kính với mặt trời, bắt đầu tuôn ra một tràng bài hót. Giữa buổi chiều thanh vắng, âm lượng của tiếng hót mạnh kỳ lạ.
Winston và Julia bám chặt vào nhau, như bị thôi miên. Tiếng nhạc tiếp tục, phút này sang phút khác, bổng trầm khác lạ, không điệu nào lập lại điệu nào, như thể con chim cố ý trổ tài điêu luyện. Thỉnh thoảng nó ngưng vài giây, xòe cánh ra rồi gấp cánh lại, xong phồng bộ diều lốm đốm lên và bật vang tiếng hót trở lại. Winston ngắm chim với một lòng kính trọng mơ hồ. Chim hót cho ai, vì sao ? Không có bầu bạn, không có tình địch nào nhìn nó. Cái gì khiến nó đậu tại ven rừng vắng và đổ nhạc trong hư không ? Anh tự hỏi liệu cuối cùng có máy ghi âm dấu đâu gần đây không. Anh và Julia chỉ khẽ thì thầm với nhau, nên nó không thâu được tiếng họ, nhưng nó có thể ghi lại tiếng chim hót. Có thể tại đầu kia máy một tên bọ hung đang cố tình nghe ngóng — nghe đó. Nhưng dần dần suối nhạc quét mọi ưu tư khỏi óc anh. Như thể nó là một chất nước dội trên khắp ngưởi anh, pha trộn với ánh nắng xuyên qua lá. Anh thôi suy nghĩ, chỉ biết thưởng thức. Lưng người con gái trong vòng tay anh vừa mềm vừa ấm. Anh xoay người nàng lại cho hai người chạm ngực vào nhau; thân thể nàng như tan hòa vào thân thể anh. Tay anh rờ vào chỗ nào cũng thấy xiêu dịu như nước. Mồm họ gắn lấy nhau; cái hôn này khác hẳn cái hôn mạnh bạo mà họ trao đổi trước đây. Khi họ buông mặt nhau ra, cả hai thở dài não nề. Con chim sợ hãi vỗ cánh bay đi.
Winston kề môi bên tai nàng. "Bây giờ nhé" anh thì thầm.
"Không ở đây được," nàng khẽ trả lời. "Mình trở về chỗ ẩn. An toàn hơn."
Nhanh nhanh, thỉnh thoảng giẫm lên cành khô kêu rắc, họ len lối về khu rừng thưa. Khi họ vào giữa vòng cây non, nàng quay người giáp mặt với chàng. Cả hai đều thở hồng hộc, nhưng nụ cười đã tái hiện trên quanh mép miệng nàng. Nàng đứng nhìn chàng một lúc, rồi sờ vào cái khóa kéo của bộ áo liền quần của nàng. Và phải, sự thể gần như trong giấc mơ của Winston. Gần nhanh như anh mơ tưởng, nàng giứt quần áo ra, và khi nàng quẳng nó sang bên, nàng có cái cử chỉ tuyệt vời như muốn qua nó khiến cả một nền văn minh bị tiêu diệt. Thân hình nàng trắng trẻo dươi ánh mặt trời. Nhưng lúc này anh không nhìn vào thân hình nàng; mắt anh dính vào khuôn mặt đầy tàn nhang với nụ cười mỉm táo bạo. Anh quỳ xuống dưới chân nàng và cầm tay nàng trong tay anh.
"Em đã làm thế trước đây chưa ?"
"Dĩ nhiên rồi. Hàng trăm lần - hừm ít ra cũng hàng chục lần."
"Với Đảng viên ư ?"
"Vâng, luôn luôn với Đảng viên."
"Với thành viên Đảng Trong hả ?"
"Không, không đời nào với lũ chó chết ấy. Vậy mà có nhiều tên chỉ mong thế nếu được dịp. Chúng không thánh thiện như chúng giả bộ đâu."
Tim anh chồm lên. Nàng đã làm thế hàng chục lần: anh mong đó là hàng trăm hàng ngàn lần. Bất cứ gì gợi ý sự hủ hóa khiến anh đầy ngập một mối hy vọng rồ dại. Biết đâu, có thể Đảng thối nát dưới vỏ bề ngoài, có thể sự sùng bái nghị lực và lòng hy sinh chỉ là một trò bịp bợm cốt để che đậy sự đồi bại. Giá làm được cho cả đám chúng mắc phải bệnh hủi hay bệnh giang mai, anh sẽ sung sướng ra công làm sao ! Bất cứ gì làm chúng hư mục, suy yếu, xói mòn ! Anh kéo nàng xuống cho hai người quỳ trước mặt nhau.
"Em nghe đây. Em càng có nhiều cuộc dan díu với đàn ông, anh càng yêu em. Em hiểu không ?"
"Có, rõ lắm."
"Anh ghét sự tinh khiết, anh ghét sự tốt lành ! Anh không muốn có đức tính tồn tại nơi nào cả. Anh muốn mọi người ai cũng hư thối tận xương."
"Vậy thì tốt, em chắc hợp anh, cưng ạ. Em hư hỏng thấu xương cốt."
"Em thích làm thế không ? Anh không muốn nói với anh đâu: anh muốn nói làm thế vì thích thế ?"
"Em mê làm thế."
Đó là điều anh muốn nghe thấy hơn hết. Không chỉ tình yêu con người mà thú tính, tình dục đơn giản không phân hóa: đấy là sức mạnh có thể làm Đảng tan tành. Anh ghì nàng xuống cỏ giữa đám huệ dại bị rớt. Lần này không khó khăn gì. Hiện thì ngực họ đã phập phồng xuống tốc độ bình thường, và họ đã bất đắc dĩ khoan khoái buông nhau ra. Trời hình như nóng hơn. Cả hai người đều buồn ngủ. Winston với bộ áo liền quần bị vứt bên đem phủ lên một phần thân nàng. Gần lập tức họ lịm giấc và ngủ khoảng một nửa tiếng.
Winston tỉnh giấc trước. Anh ngồi dậy ngắm khuôn mặt đầy tàn nhang, vẫn ngủ yên lành, gối trên lòng bàn tay nàng. Ngoại trừ cái miệng, không thể cho là nàng đẹp được. Nếu nhìn kỹ, thấy một hai vết nhăn quanh mặt nàng. Mái tóc đen mềm dày lạ thường. Anh bỗng nghĩ rằng anh chưa biết tên họ nàng cũng như địa chỉ nàng.
Tấm thân trẻ mạnh, bây giờ bất lực trong giấc ngủ, khêu gợi trong anh lòng thương hại che chở. Nhưng lòng trìu mến vô tư cảm thấy dưới cây hạt dẻ đương lúc chim chích chòe hót, không hoàn toàn trở lại. Anh kéo bộ áo liền quần sang bên để xét bộ sườn trắng mịn của nàng. Thuở xưa, anh nghĩ, một người đàn ông ngắm thân hình một phụ nữ và thấy nó gợi tình, thế là hết chuyện. Nhưng ngày nay không thể có tình yêu hay tình dục đơn thuần. Không có cảm xúc nào đơn thuần vì cái gì cũng lẫn lộn với sợ hãi và thù hận. Cuộc giao hợp của họ là một chiến thắng. Đó là một cú mạnh chống Đảng. Đó là một hành động chính trị.
"Mình có thể tới đây một lần nữa," Julia nói. "Thường thì chỗ ẩn nào cũng dùng được hai lần một cách an toàn. Nhưng không được trở lại trước một, hai tháng, dĩ nhiên."
Mới ngủ dậy xong, nàng đổi thái độ liền. Nàng đâm lanh lẹn, bận rộn, mặc quần áo vào người, buộc thắt lưng đỏ quanh bụng, và bắt đầu sắp xếp chi tiết cho chuyến về. Nhường cho nàng việc này là lẽ tất nhiên. Rõ ràng nàng có cái trí thông minh thực tế mà Winston thiếu, cùng một sự thông thuộc chốn quê quanh London góp nhặt sau vô số cuộc du hành tập thể. Con đường về mà nàng chỉ cho anh khác hẳn con đường anh mượn khi tới, và đưa anh đến một trạm tàu hỏa khác. "Chớ bao giờ đi với về cùng một lối," nàng nói như thể phát biểu một nguyên lý đại cương. Nàng sẽ rời bước trước, và Winston phải đợi nửa tiếng nữa mới đi theo nàng.
Nàng cho chàng biết một nơi hai người có thể gặp nhau khi tan sở, bốn giờ chiều tối sau. Đó là một con phố thuộc một khu nghèo, nơi có một phiên chợ họp ngoài trời, thông thường đông đảo và náo nhiệt. Nàng sẽ lảng vảng giữa sạp hàng, giả vờ kiếm dây buộc giầy hay chỉ khâu. Nếu nàng cho rằng không có gì trở ngại, nàng sẽ xịt mũi khi chàng lại gần; nếu không chàng phải phớt lờ qua mặt nàng. Nhưng nếu gặp may, giữa đám đông, hai người có thể nói chuyện an toàn với nhau chừng mười lăm phút và sắp xếp một bữa hẹn khác.
"Bây giờ em phải đi," nàng nói sau khi chàng đã thuộc lòng điều nàng dặn." Em phải về tới nhà vào mười chín giờ rưỡi. Em phải dành hai tiếng cho Liên Đoàn Thanh Niên Chống Dục Tính, phải phát truyền đơn hay chi khác cho chúng. Thế có khốn không ? Anh phủi người cho em một chút được không ? Em có cành khô nhỏ lẫn tóc không ? Anh chắc chứ ? Thôi, chào anh, anh yêu, chào anh !"
Nàng ôm choàng lấy chàng, hôn chàng như bão táp, rồi một lát sau nàng len lối qua cây non và biến dạng trong rừng không tiếng động. Đến giờ anh vẫn chưa biết tên họ và địa chỉ nàng. Tuy sao, biết cũng chẳng hơn gì, vì không thể tưởng tượng được rằng hai người có thể gặp nhau trong nhà hay trao đổi thư từ với nhau.
Số là họ không bao giờ trở lại chốn rừng thưa. Suốt tháng năm, họ chỉ kiếm được một cơ hội khác để thực sự ân ái. Chuyện xảy ra tại một chỗ ẩn khác do Julia biết, đó là tháp chuông một nhà thờ đổ nát tại một vùng quê bị bỏ bom nguyên tử ba mươi năm trước. Chỗ ẩn ấy tốt khi vào được tới nơi, nhưng đạt tới đó rất nguy hiểm. Ngoài ra họ chỉ gặp nhau trên đường phố, mỗi chiều tối tại một nơi khác nhau, và không bao giờ quá một nửa tiếng mỗi lần. Ở ngoài đường, biết cách, thường có thể nói chuyện được với nhau. Đương lúc đưa mình trên vỉa hè giữa đám đông, không hẳn sát cánh nhau và không bao giờ nhìn vào mặt nhau, họ đeo đuổi một câu chuyện lạ lùng, gián đoạn, bật tắt như đèn pha, vụt im lìm khi có một bộ đồng phục của Đảng lại gần hay ở kế cận một máy truyền hình, rồi bắt lại giữa một câu vài phút sau, rồi bị cắt ngang tới chỗ họ đã định trước là phải rời nhau, để rồi được tiếp tục gần như không cần mào đầu ngày hẹn sau. Julia tỏ ra rất thạo kiểu nói chuyện này, được nàng mệnh danh là "nói chuyện từng đợt". Nàng cũng giỏi lạ lùng lối nói không mấp môi. Chỉ có một lần trong gần một tháng hẹn hò đêm hôm, họ trao đổi được một nụ hôn. Họ đang lặng lẽ theo một ngõ ngang (Julia không bao giờ nói gì khi họ ra khỏi phố lớn), bỗng bùng lên một tiếng nổ điếc tai, đất văng tung, trời tối đặc, và Winston thấy mình nằm nghiêng, bầm sướt và khiếp sợ. Hẳn một trái bom lửa đã đổ xuống rất gần đây. Đột nhiên anh nhận ra khuôn mặt Julia cách anh vài phân, tái mét, trắng bạch như phấn. Đến môi nàng cũng trắng. Nàng chết rồi ! Anh ôm nàng vào lòng và thấy mình hôn lên một khuôn mặt ấm áp của người sống. Nhưng môi anh chạm phải một chất phấn. Mặt của hai người phủ đầy thạch cao.
Có những chiều tối họ tới nơi hẹn nhưng phải qua mặt nhau không một dấu hiệu, vì có đội tuần tra ở ngay góc đường hay máy trực thăng lượn trên đầu họ. Mà gặp nhau có kém nguy hơn, họ cũng vẫn khó tìm ra thì giờ để hò hẹn. Winston làm việc sáu mươi tiếng một tuần, Julia còn làm nhiều hơn nữa, và ngày nghỉ của họ thay đổi tùy theo sự dồn dập của công việc, không hay trùng nhau. Dù sao chăng nữa, Julia ít khi có một chiều tối hoàn toàn nhàn rỗi. Nàng dành nhiều thì giờ phát sợ cho sự tham dự các cuộc diễn văn hay biểu tình, cho sự phát văn liệu cho Liên Đoàn Thanh Niên Chống Dục Tính, cho sự sửa soạn cờ xí cho Tuần Lễ Hận Thù, cho sự quyên tiền cho phong trào tiết kiệm, và cho nhiều hoạt động đại loại. Làm vậy có lợi, nàng nói, đó là một cách ngụy trang. Có theo được qui tắc nhỏ, mới phá được qui tắc lớn. Nàng còn xúi Winston đầu tư một buổi chiều tối của anh bằng cách nhận một việc phụ liên quan đến đạn dược, được các Đảng viên sốt sắng tham gia. Thành thử, mỗi tuần một tối, Winston mất bốn tiếng chán ngắt ngồi vặn liền vào nhau mấy mẩu kim khí nhỏ, chắc hẳn là bộ phận của bom lửa, trong một xưởng tồi tàn, thiếu ánh sáng, ầm tiếng búa đập pha trộn inh tai với tiếng nhạc phát từ máy truyền hình.
Khi họ gặp nhau tại tháp nhà thờ, những lỗ hổng trong câu chuyện ngắt đoạn của họ được bù lấp. Bữa ấy là một buổi chiều sáng chói. Không khí trong căn phòng vuông nhỏ trên chuông nóng hãm, hôi xì mùi cứt chim bồ câu. Họ ngồi nói chuyện hàng giờ trên sàn gác bụi bậm, lát cành gỗ khô, thỉnh thoảng một trong hai người đứng dậy, liếc nhìn ra ngoài qua lỗ châu mai xem có ai tới không.
Julia lên hai mươi sáu tuổi. Nàng sống trong một cư xá với ba mươi cô gái khác ("Luôn luôn sặc mùi đàn bà ! Sao em ghét đàn bà thế !" nàng chua miệng), và việc làm của nàng, như chàng dự đoán, liên quan đến máy soạn truyện tại Cục Truyện. Nàng thích công việc của nàng, phần lớn gồm việc cho chạy và tiếp liệu một máy điện mạnh nhưng phức tạp. Nàng không "thông minh" nhưng ưa dùng đến tay và thành thạo máy móc. Nàng có thể tả cả tiến trình việc soạn truyện, từ chỉ thị tổng quát xuất phát từ Ủy Ban Kế Hoạch đến bản sửa cuối cùng của Toán Tái Biên. Nhưng nàng không để ý đến sản phẩm hoàn bị. Nàng nói "không ưa đọc mấy". Sách chỉ là một phẩm vật bắt buộc phải sản xuất, cũng như thịt muối hay dây giầy.
Nàng không có kỷ niệm gì trước những năm sáu mươi, và người duy nhất hay nói chuyện về thời trước Cách Mạng mà nàng biết là một người ông mất tích khi nàng lên tám. Hồi đi học nàng là đội trưởng trong Đoàn Gián Điệp và làm thư ký ban cho Liên Đoàn Thiếu Niên trước khi gia nhập Liên Đoàn Thanh Niên Chống Dục Tính. Nàng luôn luôn được coi là một phần tử ưu tú. Nàng còn được chọn để làm việc trong Ban Khiêu Dâm (một biểu hiện chắc chắn của tiếng tốt), là một tiểu ban của Cục Truyện chuyên soạn dâm thư rẻ tiền để cung cấp cho dân đen. Ban ấy được những người làm việc trong đó đặt tên là Chuồng Phân, nàng phê. Nàng làm một năm nơi đó, giúp việc soạn những tập sách nhỏ được đóng thành bộ có nhan đề như Chuyện giật gân hay Một đêm trong trường nữ sinh được thanh niên dân đen vụng trộm mua, tưởng mua vậy là hành động bất hợp pháp.
"Các sách đó ra sao ?" Winston tò mò hỏi.
"Ồ, nhảm nhí thảm hại. Chán ngắt à, thật đấy. Chỉ có sáu cốt truyện, được đem pha trộn quanh quẩn đôi chút. Dĩ nhiên em chỉ có phận sự với kính vạn hoa thôi. Em không bao giờ có chân trong Toán Tái Biên. Em không biết hành văn, cưng ạ — dù là văn cho thứ đó."
Anh ngạc nhiên khi hay rằng mọi nhân viên trong Ban Khiêu Dâm, trừ các trưởng ban, đều là thiếu nữ. Theo lý thuyết, đàn ông khó kiềm chế bản năng sinh dục hơn đàn bà, cho nên dễ có nguy bị nhiễm uế bởi những câu văn tục tĩu do họ sử dụng.
"Ngay phụ nữ đã có chồng, chúng cũng không muốn cho làm ở đó," nàng nói thêm. "Con gái luôn luôn được coi như trong trắng hơn. Thế nhưng ít nhất có một đứa không vậy là em đây."
Nàng có chuyện dan díu đầu tiên hồi mười sáu tuổi với một Đảng viên sáu mươi tuổi sau đó phải tự tử để khỏi bị bắt. "Thế cũng hay," Julia nói, "nếu không thế nào chúng cũng khiến hắn khai ra tên em". Kế sau nàng có nhiều tình nhân khác. Đời sống theo nàng rất giản dị. Mình muốn hưởng đời; "chúng", đây chỉ Đảng, muốn ngăn mình hưởng; mình ra sức phá lệ. Nàng có vẻ coi như đương nhiên "chúng" phải muốn cướp những thú vui của con người, cũng như con người phải muốn tránh sao khỏi bị bắt. Nàng thù ghét Đảng và thể hiện cái ghét đó bằng những danh từ sống sượng nhất, nhưng nàng không phê bình Đảng một cách tổng quát. Trừ phi nó đụng tới đời sống cá nhân của nàng, nàng không quan tâm đến chủ thuyết của Đảng. Winston nhận thấy nàng không bao giờ dùng danh từ Ngôn Mới ngoại trừ những chữ đã được thông dụng. Nàng không hề nghe nói tới Hội Tình Thân và không tin vào sự hiện hữu của nó. Nàng cho cuộc nổi loạn có tổ chức nào chống Đảng cũng ngu xuẩn, vì nó bó buộc thất bại. Khôn là phải vừa phá lệ vừa sống sót. Anh mơ hồ tự hỏi có bao nhiêu người khác giống nàng trong thế hệ trẻ — những người sống trong thế giới của Cách Mạng, không biết gì hơn, chấp nhận Đảng như một hiện tượng bất di bất dịch, như trời, không nổi loạn chống uy quyền của Đảng, chỉ đơn thuần thoát ly Đảng như thỏ chuồn chó.
Họ không bàn tới chuyện cưới nhau. Chuyện này quá xa vời, không đáng nghĩ tới. Không một Ủy ban nào dám chấp thuận cho hai người lấy nhau, ngay trong trường hợp vì lẽ nào đó, Katharine, vợ Winston, không còn vướng chân anh.
"Vợ anh, chị ấy như thế nào ?" Julia hỏi.
"Cô ta đầy ý tốt, em có biết danh từ Ngôn Mới ấy không ? Có nghĩa là chính thống tự nhiên, không thể có tư tưởng xấu."
"Không, em không biết danh từ đó, nhưng em biết mẫu người ấy, quá biết."
Anh bắt đầu kể cho nàng nghe cuộc đời có vợ của anh, nhưng lạ thay nàng dường như biết những đoạn chính của câu chuyện. Làm như nàng là nhân chứng hay người trong cuộc, nàng tả cho anh sự căng thẳng mình lại của Katharine mỗi khi anh đụng tới chị ta, cách Katharine vẫn có vẻ hết sức đẩy anh ra mặc dầu tay chị ôm chặt lấy anh. Với Julia anh không ngại ngùng nói về những chuyện đó: dù sao chăng nữa, Katharine đã hết là một kỷ niệm đau đớn từ lâu, chỉ còn là một kỷ niệm khó chịu.
"Anh có thể chịu đựng được tình cảnh chừa duy một điều," anh nói. Anh kể cho nàng cái nghi thức lãnh dục nhỏ mà Katharine bắt anh phải tuân theo mỗi tuần. "Cô ta bảo thế là — nhưng em không bao giờ đoán được."
"Bổn phận của chúng ta đối với Đảng," Julia nói nhanh.
"Sao em biết ?"
"Em cũng đã từng đi học, cưng ạ. Mỗi tháng một lần nữ sinh trên mười sáu tuổi được giảng về tình dục. Tại Phong Trào Thanh Niên cũng vậy. Chúng nhồi sọ con người ta hàng năm trời: Em dám bảo chúng thành công nhiều. Nhưng dĩ nhiên khó mà chắc, vì dân chúng đạo đức giả chết đi ấy."
Nàng bắt đầu nới rộng vấn đề. Với Julia, chuyện gì cũng xoay về sinh hoạt dục tình của chính nàng. Hễ dính dáng chút nào tới chuyện này, là nàng tỏ ra rất sáng suốt. Khác với Winston, nàng nắm được thâm ý của sự chặt chẽ về tình dục của Đảng. Đó không phải chỉ vì dục tính tạo ra một thế giới riêng biệt ngoài vòng kiểm soát của Đảng cần phải bị hủy diệt nếu được. Điều quan trọng hơn là sự thiếu thốn tình dục đưa đến sự cuồng loạn, một trạng thái được Đảng mong muốn vì dễ được cải biến thành cơn sốt chiến tranh hay lòng tôn thờ kẻ lãnh đạo. Nàng giảng như sau:
"Khi mình làm tình, mình dùng hết năng lực; sau đó mình cảm thấy sung sướng chẳng màng gì tới khác. Chúng muốn mình lúc nào cũng phải sôi sục nghị lực. Các cái trò đi lên đi xuống, vỗ tay vẫy cờ chỉ là giới tính biến chua. Nếu mình sung sướng trong lòng, mình đâu cần tự kích thích với Bác, với Kế hoạch ba năm, với hai phút Hận Thù hay những trò chết thối khác của chúng ?"
Nhận xét này rất đúng, anh nghĩ. Giữa lòng trinh tiết và sự chính thống chính trị có một mối quan hệ mật thiết trực tiếp. Vì có cách nào giữ được đúng cường độ cho lòng sợ hãi, nỗi căm thù cũng như trí cuồng tín mà Đảng đòi hỏi nơi Đảng viên, ngoài cách khóa lại một bản năng mạnh mẽ để rồi dùng nó làm động lực ? Xung động tình dục nguy hiểm đối với Đảng, nên Đảng xoay chuyển nó theo hướng có lợi cho Đảng. Chúng chơi trò tương tự với tình gia đình. Gia đình thực ra không thể loại được, vậy nên dân chúng được khuyến khích yêu thương con cái, gần theo lối xưa. Mặt khác, con cái được triệt để xúi dục chống lại cha mẹ và dạy phải rình mò và báo cáo những sự trệch đường lối của cha mẹ. Gia đình đâm trở thành một chi nhánh của Cảnh Sát Tư Tưởng. Đấy là một mẹo làm cho ai cũng bị một lũ chỉ điểm thân cận vây quanh đêm ngày.
Hốt nhiên, anh lại nghĩ tới Katharine. Katharine chắc chắn đã tố cáo anh với Cảnh Sát Tư Tưởng rồi, nếu nàng không quá ngu xuẩn không dò ra tính bất chính thống của các quan điểm của anh. Nhưng cái khiến anh nhớ đến nàng lúc này là khí chiều nóng nực làm trán anh đầm đìa mồ hôi. Anh đem kể cho Julia một chuyện xảy ra, hay đúng hơn xuýt xảy ra, vào một buổi chiều hạ nực nội khác, mười một năm về trước.
Lúc đó vào khoảng ba bốn tháng sau khi anh và Katharine lấy nhau. Hai người lạc đường nhân một chuyến du hành tập thể đâu đó ở vùng Kent. Họ chỉ lẽo đẽo theo sau những người khác có vài phút, nhưng họ rẽ lầm lối và chốc sau thấy mình bị chặn ngang bởi ven một công trường đá vôi cũ. Đó là một sườn đồi cao chừng mười, hai mươi thước, lổm chổm đá bên dưới. Không có ai để hỏi đường. Khi hiểu rằng mình lạc đường, Katharine đâm ra bồn chồn khó chịu. Xa đám du hành ồn ào dù chỉ một lát đủ làm cho nàng có cảm tưởng mình hành động xấu xa. Nàng muốn quay nhanh trở lại con đường mới theo rồi tìm lối theo hướng khác. Nhưng lúc ấy Winston để ý thấy vài cụm trân châu mọc trên khe vách đá dưới chân họ. Một cụm có hai mầu, đỏ thắm và đỏ gạch, hình như mọc trên cùng một rễ. Anh chưa bao giờ thấy một chuyện như vậy trước đây, nên gọi Katharine lại xem.
"Coi kìa, Katharine ! Nhìn khóm hoa kia ! Cái cụm ở dưới chân mình. Em có thấy nó có hai mầu không ?"
Nàng đã quay đi rồi, nhưng cũng miễn cưỡng trở lại chốc lát. Nàng còn cúi mặt xuống vách đá để nhìn vào chỗ anh chỉ. Anh đứng sau lưng nàng một chút, tay đặt trên eo nàng để đỡ cho nàng đứng thẳng. Lúc đó anh bỗng nhận thấy sự hoàn toàn trơ trọi của hai người. Không một sinh vật nào xung quanh, không một nhánh lá dao động, không đến cả một con chim thức giấc. Tại một chốn như thế này, mối nguy có máy ghi âm rất nhỏ, mà có máy ghi âm chăng nữa nó cũng chỉ ghi được tiếng động thôi. Lúc đó vào giờ ngủ trưa nóng nhất. Mặt trời cháy rực trên đầu họ, mồ hôi đổ giọt trên mặt Winston. Và trong óc anh nảy ra ý nghĩ...
"Sao anh không đẩy mạnh chị ấy một cú ?" Julia nói. "Nếu là anh thì em đã làm thế rồi."
"Đúng, chắc em đã làm vậy. Anh cũng thế, nếu anh giống như anh bây giờ. Hay có thể anh cũng đã thế — anh không chắc nữa."
"Anh có tiếc đã không làm vậy không ?"
"Có. Xét cho cùng, anh có tiếc."
Họ đang ngồi cạnh nhau trên sàn bụi bậm. Anh kéo nàng sát lại gần anh hơn. Đầu nàng đặt trên vai anh, mùi thơm của tóc nàng át hẳn mùi cứt chim bồ câu. Nàng quá trẻ, anh nghĩ, nàng còn trông đợi nơi đời sống, nàng không hiểu rằng đẩy một chướng ngại nhân xuống vách đá không giải quyết gì.
"Thật ra, làm hay không làm vậy cũng như nhau," anh nói.
"Thế tại sao anh tiếc không làm vậy ?"
"Chỉ vì anh thích có một hành động tích cực hơn tiêu cực. Trong ván bài đời, mình không thắng được. Có những sự thất bại này hay hơn sự thất bại khác, thế thôi."
Anh cảm thấy vai nàng nhún lên phản đối. Nàng luôn luôn nói ngược anh khi anh nói vậy. Nàng không chấp nhận như một định luật của tạo hóa sự cá nhân bao giờ cũng thất bại. Có thể nói, nàng ý thức nàng bị kết án, trước sau gì Cảnh Sát Tư Tưởng cũng bắt giết nàng, nhưng trong một phần tâm tư nàng nàng tin rằng sao đó, con người có thể xây dựng được một thế giới thầm kín để thỏa lòng sống trong đó. Chỉ cần có may mắn, mưu mô và bạo dạn. Nàng không hiểu rằng hạnh phúc là một thứ không hề có, sự đắc thắng duy nhất nằm trong một tương lai xa xôi, rất lâu sau khi mình đã chết, khi mình bắt đầu tuyên chiến với Đảng nên coi mình như một thây ma là hơn.
"Chúng ta là kẻ chết," anh nói.
"Chúng ta chưa chết," Julia bình dị chữa.
"Chỉ thể xác chúng ta còn thôi. Cho còn sáu tháng, một năm — năm năm nữa đi. Anh sợ chết. Em còn trẻ nên có lẽ em còn sợ hơn anh. Dĩ nhiên chúng ta sẽ hết sức đẩy lui cái chết. Nhưng làm thế chẳng thay đổi gì mấy. Con người còn giữ tính chất con người, cái chết với cái sống như một."
"Ồ, bậy nào ! Mới đây anh ngủ với ai, với em hay một thây ma ? Anh không vui sống sao ? Anh không thích cảm giác: đây là tôi, đây là tay tôi, đây là chân tôi, tôi có thật, tôi chắc nịch, tôi sống ! hay sao ? Anh không thích thế này à ?"
Nàng xoay người lại và áp ngực vào anh. Anh cảm thấy ngực nàng chín chắc qua bộ áo liền quần của nàng. Thân hình nàng hình như đổ ra một ít sức trẻ mạnh vào người anh.
"Có, anh thích chứ."
"Vậy thì anh ngưng nói chuyện chết chóc đi. Nghe này cưng, mình phải ấn định cuộc hẹn sau. Mình có thể trở lại chỗ trong rừng. Mình để yên chỗ ấy khá lâu rồi. Nhưng lần này anh phải tới đó bằng lối khác. Em trù tính hết cho anh. Anh lấy tàu — nhưng coi, để em vẽ ra cho anh."
Và theo tính thực tiễn của nàng, nàng gạt bụi lại thành một đống vuông, rồi với một cành khô nhỏ rút từ ổ chim câu, nàng bắt đầu họa một bản đồ trên sàn gác.
Winston nhìn quanh căn phòng ở trên gác cửa tiệm ông Charrington. Cạnh cửa sổ, cái giường kếch sù đã được làm sẵn với khăn phủ rách và gối ống không áo. Chiếc đồng hồ cổ xưa với cái mặt chia làm mười hai giờ kêu tích tắc trên hòm sưởi. Trong góc, trên chiếc bàn gấp, cái chặn giấy thủy tinh được anh mua bữa trước lóe sáng nhẹ dưới bóng mờ.
Trong chỗ chắn lò sưởi có một cái bếp dầu bằng thiếc rập, một cái xoong và hai cái tách do ông Charrington cấp. Winston châm mỏ đốt, đặt xoong nước lên đun. Anh có mang theo một bao thư đầy cà phê Chiến Thắng và vài thẻ đường tinh. Kim đồng hồ chỉ mười giờ rưỡi: thực ra là mười chín giờ hai mươi. Nàng sẽ đến vào lúc mười chín giờ rưỡi.
Điên rồ, điên rồ, tim anh không ngưng bảo anh vậy: một sự điên rồ ý thức, vô cớ, tự sát. Trong các tội trạng một Đảng viên có thể phạm phải, tội này khó giấu diếm nhất. Thực thì ý tưởng đã lởn vởn đầu tiên trong óc anh dưới lốt hình ảnh của cái chặn giấy thủy tinh chiếu trên mặt bàn gấp. Như anh dự đoán, ông Charrington không làm khó dễ trong việc cho thuê buồng. Ông ta vui mừng rõ rệt trước mấy đôn lời kiếm được. Và ông ta không tỏ vẻ khó chịu hay đồng tình thô bỉ khi hiểu Winston muốn dùng căn phòng làm nơi hẹn hò ân ái. Ngược lại, ông ta nhìn ra khoảng trung và nói chuyện xã giao, một cách ý nhị đến nỗi anh có cảm tưởng ông ta gần như vô hình. Sự đơn mật, ông ta nói, là một điều quý giá. Ai cũng muốn có một nơi để thỉnh thoảng được ở yên một mình. Và khi ai kiếm được một nơi chốn như vậy, lẽ lịch sự thông thường bắt người khác biết được phải giữ kín sự biết đó. Ông ta còn nói thêm, và khi nói vậy ông ta gần như thoát trần, căn nhà có hai lối ra vào, trong đó có một lối thông qua sân sau dẫn tới một ngõ hẻm.
Dưới cửa sổ có một người đang hát. Mặt trời tháng sáu vẫn còn cao trên không và ngoài sân đầy nắng ở dưới, một người đàn bà khổng lồ, chắc như cột Rô Man, có cánh tay đỏ vạm vỡ và một chiếc tạp dề vải buộc bụng, đang loạng choạng giữa một chậu giặt và một dây quần áo, phơi lên một loạt thứ trắng vuông được Winston nhận ra là tã con nít. Mỗi khi miệng không ngậm kẹp áo, bà ta hát lên bằng một giọng nữ trầm mạnh:
Đó chỉ là một giấc mơ vô vọng,
Thoáng qua như một buổi xuân,
Một cái nhìn, một lời nói, khuấy bao mơ mộng !
Cuỗm xa đi mất trái tim tôi !
Bài hát này lan tràn Luân Đôn mấy tuần nay. Đó là một trong vô số bản hát tương tự do một tiểu ban thuộc Cục Ca Nhạc phát hành cho dân đen. Lời của những bài đó được soạn trên một khí cụ gọi là máy làm thơ, không cần sự can thiệp của một người nào. Nhưng người đàn bà hát với một giọng du dương đến nỗi cái khúc ngớ ngẩn dễ sợ biến thành một bản ca hợp tai. Anh nghe thấy cả tiếng hát của người đàn bà lẫn tiếng giầy bà ta cào trên đá lát, tiếng la ó của trẻ con ngoài phố cùng tiếng ầm nhẹ của xe cộ ngoài xa đâu đó, mặc vậy căn phòng hình như yên tịnh lạ, nhờ sự vắng mặt của máy truyền hình.
Điên rồ, điên rồ, điên rồ ! anh lại nghĩ. Không thể tưởng tưởng được rằng hai người có thể tới lui chốn này hơn vài tuần mà không bị bắt. Nhưng sự thèm muốn có một chỗ ẩn thực sự của họ, ngay trong nhà và ở gần, quá lớn đối với họ. Một thời gian sau lần gặp nhau tại gác chuông nhà thờ, họ không sắp xếp được một cuộc hẹn nào. Giờ làm việc bị tăng khắc nghiệt để chuẩn bị Tuần Lễ Hận Thù. Còn hơn một tháng nữa mới tới tuần lễ này, nhưng công vụ sửa soạn đồ sộ phức tạp mà nó đòi hỏi đổ thêm việc vào đầu mọi người. Cuối cùng hai người sắp được một buổi chiều rảnh cùng một ngày. Họ đồng tình trở lại chỗ rừng thưa. Tới hôm trước ngày hẹn, họ gặp nhau một lát ngoài phố. Như thường lệ, Winston chỉ hé nhìn Julia khi hai người đưa mình về phía nhau, nhưng qua cái liếc đó anh thấy nàng có vẻ xanh xao hơn bình thường.
"Hỏng rồi," nàng thì thầm khi nàng thấy có thể cất tiếng an toàn. "Em muốn nói ngày mai ấy."
"Sao vậy ?"
"Chiều mai. Em không thể lại được."
"Sao vậy ?"
"Ồ, lý do thường lệ. Lần này bắt đầu sớm hơn."
Trong một lúc, anh nổi cơn phẫn nộ. Trong tháng giao du với nàng, tình dục của anh đối với nàng đã đổi chất. Hồi đầu có ít thú vui nhục dục trong đó. Sự làm tình đầu tiên của họ chỉ là một hành động của ý chí. Nhưng sau lần thứ hai, nó khác hẳn. Mùi tóc nàng, vị mồm nàng, xúc giác về da thịt nàng hình như ăn vào người anh hay vào không khí quanh anh. Nàng đã trở thành một nhu cầu thể xác, một thứ không những anh cần mà anh còn cảm thấy có quyền có. Khi nàng nói nàng không thể tới nơi hẹn được, anh có cảm tưởng nàng lừa dối anh. Nhưng đúng lúc đó, đám đông ép họ lại gần nhau và bàn tay họ vô tình chạm nhau. Nàng bóp nhanh đầu ngón tay anh, cái bóp có vẻ như không phải gợi tình dục mà tình thương của anh. Anh chợt nghĩ rằng khi sống với một phụ nữ, sự thất vọng đặc biệt này là một sự kiện bình thường, định kỳ; và một sự trìu mến thắm thiết như anh chưa từng cảm thấy trước đây đối với nàng, bỗng xâm nhập anh. Anh ước ao hai người là một cặp vợ chồng lấy nhau đã được mười năm. Anh ước ao anh đang đi chơi ngoài phố với nàng như bây giờ, nhưng một cách công khai, không sợ hãi, vừa đi vừa nói chuyện tầm phào và mua hàng lặt vặt cho gia đình. Anh ao ước nhất có một chỗ cho hai người có thể ở một mình với nhau, không có cảm tưởng bắt buộc phải làm tình mỗi khi gặp nhau. Thực ra, không phải lúc đó mà ngày hôm sau anh mới nghĩ tới việc thuê căn phòng của ông Charrington. Khi anh nêu ý đó ra với Julia, nàng chấp thuận một cách nhanh nhẩu bất ngờ. Cả hai đều biết đó là một sự điên khùng. Như thể họ cố ý tiến sát mồ họ. Ngồi đợi trên mép giường, anh lại nghĩ tới hầm Bộ Tình Yêu. Lạ sao cái ấn tượng ghê rợn tiền định ấy cứ ẩn hiện trong tâm thức anh. Kìa nó đó, ấn định trong tương lai, dẫn theo cái chết, chắc nịch như 99 đứng trước 100. Không thể tránh nó được, nhưng may ra hoãn được nó: nhưng mặc vậy, có nhiều lúc bằng một hành động hữu ý tự nguyện con người vẫn chọn rút ngắn quãng thời hoãn đó.
Anh nghĩ tới đây thì có tiếng chân bước nhanh trên cầu thang. Julia xông vào phòng. Nàng xách một túi dụng cụ bằng vải thô nâu như anh thỉnh thoảng thấy nàng xách qua lại trong Bộ. Anh nhào ra ôm lấy nàng vào lòng, nhưng nàng thoát người ra khá vội vàng, có phần vì nàng còn cầm túi dụng cụ.
"Nửa giây nữa nào," nàng nói. "Để em cho anh xem em mang gì đến hãng. Anh có đem một ít cà phê Chiến Thắng thổ tả tới không ? Em cho là có. Anh có thể bỏ nó lại, vì mình sẽ không cần tới nó. Coi này."
Nàng quỳ xuống, mở rộng túi ra và lôi ra một vài cái chìa vặn cùng một cái chìa vít chất trên mặt túi. Ở dưới là một số gói bọc giấy gọn ghẽ. Gói thứ nhất nàng đưa cho Winston có một vẻ lạ lùng tuy hơi quen thuộc. Nó đầy một chất nặng giống như cát, vụn tan mỗi khi chạm vào.
"Có phải đường đây không ?" anh hỏi.
"Đường thật. Đường, không phải đường tinh. Và đây là một ổ bánh mì — đúng là bánh mì trắng chứ không phải cái hàng chết tiệt của tụi mình đâu — và đây là một lọ mứt nhỏ. Đây nữa là một hộp sữa — nhưng coi này ! Cái này thì em thật lấy làm hãnh diện. Em phải lấy ít vải bọc nó vì —"
Nhưng nàng không cần cho chàng biết tại sao nàng phải bọc nó lại. Mùi thơm đã tỏa ra đầy phòng, một mùi thơm dồi dào ấm áp như xuất phát từ thời thơ ấu của anh, ngày nay cũng có khi bắt đón được, lúc bay ra từ một ngõ hẻm trước khi cửa đập mạnh, lúc phảng phất một cách huyền bí giữa đường phố đông người, được hít một lát sau tan biến mất.
"Đây là cà phê," anh thì thầm, "cà phê thật."
"Đó là cà phê của Đảng Trong. Có cả một ký đây này," nàng nói.
"Làm sao em kiếm ra các thứ này ?"
"Toàn là thực phẩm của Đảng Trong. Không có gì, không gì mà lũ lợn đó không có. Nhưng dĩ nhiên, bồi bàn, đầy tớ với dân chúng ăn cắp ra, mà coi này, em có cả một gói trà nhỏ nữa."
Winston đã ngồi xổm xuống cạnh nàng. Anh xé một góc gói ra.
"Đây là trà thật. Không phải lá dâu."
"Gần đây có một lô trà xuất hiện. Chúng mới chiếm được Ấn Độ hay sao đó," nàng mơ hồ nói. " Nhưng nghe này, cưng. Em muốn anh xây lưng lại em độ ba phút. Anh ra ngồi bên kia mép giường. Chớ có lại gần cửa sổ. Và chớ ngoảnh mặt lại trước khi em bảo anh."
Winston lơ đãng nhìn qua màn the. Ở dưới sân người đàn bà có cánh tay đỏ vẫn đi đi lại lại từ chậu giặt tới dây phơi quần áo. Bà ta rút thêm hai cái kẹp ra khỏi miệng rồi hát lên một cách thắm thiết:
Họ nói thời gian hàn mọi vết,
Họ nói ta luôn luôn quên hết;
Nhưng tháng năm tiếng cười với nước mắt
Vẫn quặn đau mãi mãi phím lòng ta.
Ra chiều bà ta thuộc lòng bài hát lẩm cẩm. Giọng bà ta bay bổng lên cao với khí hạ êm dịu, thật du dương nhưng đượm một vẻ buồn mãn nguyện. Có cảm tưởng như bà ta sẽ hoàn toàn vừa lòng nếu buổi chiều tối tháng sáu này bất tận, và nếu số tã vô hạn để bà ta đứng đây muôn ngàn năm phơi tã với hát lảm nhảm. Anh đột thấy lạ rằng anh chưa bao giờ được nghe một Đảng viên tự nhiên ca hát một mình. Hành động đó sẽ bị coi như hơi bất chính thống, như một sự kỳ quặc nguy hiểm, tương tự như sự nói chuyện một mình. Có lẽ chỉ khi nào dân chúng tới mức gần chết đói, họ mới có lý do để hát.
"Anh có thể quay lại được rồi," Julia nói.
Anh ngoảnh mặt lại và trong một giây anh suýt không nhận ra nàng. Thật ra anh tưởng sẽ thấy nàng lõa thể. Nhưng nàng không lõa thể. Sự biến hóa còn bất ngờ hơn thế nữa. Nàng đã vẽ mặt.
Chắc nàng đã lẻn vào một tiệm nào đó trong khu dân đen và đã mua cho mình một bộ son phấn đầy đủ. Môi nàng được tô đỏ sẫm, má nàng được đánh hồng và mũi nàng được điểm phấn lên; có cả một chút chất gì dưới mắt làm cho mắt sáng hơn. Nàng điểm trang không khéo mấy, nhưng chuẩn tắc của Winston về vấn đề này không cao lắm.
Trước đây anh chưa bao giờ thấy hay tưởng tượng ra một nữ Đảng viên với bộ mặt chát son phấn. Sự tăng sắc của nàng làm anh giật mình. Với vài vệt màu đúng chỗ, nàng trở thành không những xinh đẹp hơn nhiều, mà trên hết còn có nữ tính hơn nhiều. Mái tóc ngắn và bộ áo liền quần trẻ trung chỉ gia tăng tác hiệu đó. Khi anh ôm nàng vào lòng một luồng mùi hoa tím trút vào mũi anh. Anh liên tưởng đến một cảnh tối mờ trong hầm bếp và một miệng đàn bà hang hốc. Bà ta cũng dùng thứ nước hoa này, nhưng hiện điều đó không quan hệ.
"Cả nước hoa nữa !" anh nói.
"Phải, cả nước hoa nữa đó, cưng. Và anh có biết em sẽ làm gì nay mai không ? Em sẽ kiếm ra đâu đó một bộ đồ đàn bà thực sự, rồi mặc nó vào thay vì cái quần chết tiệt này. Em sẽ đeo bí tất lụa và đi giầy cao gót ! Trong buồng này em sẽ là một thiếu phụ chứ không phải là một đồng chí Đảng."
Họ vứt tung quần áo và leo lên cái giường to lớn bằng gỗ gụ. Đây là lần đầu tiên anh cởi truồng trước mặt nàng. Cho tới bây giờ anh quá xấu hổ vì tấm thân xanh còm của anh với tĩnh mạch trướng lồi trên bắp chân và vết khử mầu nơi mắt cá. Giường không có khăn trải, nhưng tấm khăn phủ dưới người họ sờn mịn, và kích thước cũng như đàn tính của giường làm cả hai ngạc nhiên. "Chắc nó đầy rệp, nhưng thây kệ," Julia nói. Ngày nay, chẳng thấy đâu có giường hai người, trừ phi tại nhà dân đen. Winston đã được thỉnh thoảng ngủ trong một cái giường như vậy hồi thiếu thời. Nhớ lại thế nào, Julia cũng thấy mình chưa được nằm trong đó trước đây bao giờ.
Chẳng bao lâu họ thiếp đi một giấc ngắn. Khi Winston tỉnh dậy, kim đồng hồ đã quay gần tới số chín. Anh không đụng đậy vì Julia còn ngủ gối đầu trên tay anh. Phần lớn son phấn của nàng đã chuyển sang mặt anh hay gối ống, nhưng một vết son đỏ nhẹ vẫn làm nổi bật nét đẹp của gò má nàng. Một tia nắng xế chiều rớt ngang chân giường, chiếu sáng lò sưởi nơi xoong nước đang sôi sùng sục. Dưới sân, người đàn bà đã ngưng hát, nhưng tiếng kêu của trẻ con vẫn dạt vào từ ngoài phố. Anh mơ hồ tự hỏi, nằm trên giường như thế này, trong khí ấm áp của một buổi chiều hạ, một người đàn ông với một người đàn bà lõa thể, làm tình với nhau khi hứng, nói chuyện với nhau về điều muốn nói, không cảm thấy bắt buộc phải dậy, chỉ nằm đó nghe tiếng an tịnh bên ngoài, liệu trong quá khứ đã bị hủy diệt, một sự như vậy có là một kinh nghiệm bình thường không ? Chắc không bao giờ có thời điều đó được coi như chuyện thường. Julia tỉnh giấc, rụi mắt và nhắc người trên khuỷu tay nhìn vào bếp dầu.
"Nước cạn mất một nửa rồi," nàng nói. " Để em dậy làm một ít cà phê. Mình còn một giờ nữa. Điện khu nhà anh bị cúp vào giờ nào ?"
"Hai mươi ba giờ rưỡi."
"Ở cư xá em họ cúp vào lúc hai mươi ba giờ. Nhưng phải về sớm hơn vì — Ê ! Cút đi, đồ súc sinh gớm ghiếc !"
Nàng bỗng xoắn người lại trên giường, vồ lấy một chiếc giầy trên sàn gác ném mạnh vào góc phòng, cánh tay tráng kiện bật như lò so, hệt như anh thấy nàng ném quyển tự vị vào Goldstein, buổi sáng trước, trong hai phút Hận Thù.
"Cái gì vậy ?" anh ngạc nhiên hỏi.
"Một con chuột. Em thấy nó thò cái mõm quỷ của nó ra ngoài bản gỗ bọc tường. Dưới đó có một lỗ hổng. Gì thì em cũng làm cho nó một phen bở vía."
"Chuột !" Winston lẩm bẩm. "Trong căn phòng này !"
"Đâu chẳng có chúng," Julia thản nhiên vừa nói vừa nằm xuống trở lại. "Tại cư xá em chúng ở ngay trong bếp. Có nhiều khu Luân Đôn đầy nhúc chuột. Anh có biết chúng tấn công con nít không ? Thật đó, ở vài phố, các bà không dám để trẻ con một mình tới hai phút. Dữ là cái giống to con, mầu nâu ấy. Gớm nhất là cái của quỷ ấy bao giờ cũng —"
"Đừng nói tiếp nữa !". Winston ngắt, mắt nhắm chặt.
"Cưng ơi là cưng ! Mặt anh tái mét à. Sao thế ? Bộ chúng làm anh buồn nôn ư ?"
"Khắp thế giới cái khủng khiếp nhất — một con chuột !"
Nàng ép người vào anh và vòng tay ôm anh như để làm anh vững lòng nhờ khí nóng của thân thể nàng. Anh không mở mắt ra ngay. Trong vài lát anh có cảm tưởng trở về cơn ác mộng vẫn thỉnh thoảng ám ảnh đời anh. Nó luôn luôn diễn ra tương tự. Anh đứng trước một bức tường đen tối, phía bên kia có một vật ngoài sức chịu đựng, một vật quá hãi hùng không thể chạm mặt được. Trong giấc mơ, cảm tưởng sâu đậm nhất của anh bao giờ cũng là sự tự dối lòng, vì thực ra anh biết rõ cái gì nấp sau bức tường đen. Nếu cố gắng chí tử, làm như móc một mẩu óc mình ra, anh có thể lôi vật đó ra ngoài ánh sáng. Luôn luôn khi tỉnh giấc, anh không khám phá được ra vật đó là gì: nhưng có thể nói là nó dính dáng tới điều Julia đang nói khi anh ngắt lời nàng.
"Anh xin lỗi em," anh nói. "Không có gì cả. Anh không thích chuột, thế thôi."
"Đừng phiền, cưng, mình sẽ không để cho lũ quỷ đó phá ở đây. Em sẽ bịt cái lỗ kia với ít rẻ trước khi mình ra về. Lần sau tới đây em sẽ mang một ít thạch cao bít kín nó lại."
Chửa chi chốc kinh hoảng đen tối đã có phần bị quên lãng. Hơi sượng mình, Winston ngồi dựa lưng vào đầu giường. Julia ra khỏi giường, mặc bộ áo liền quần vào rồi đi pha cà phê. Mùi thơm thoát ra từ xoong mạnh và kích thích đến nỗi họ phải đóng cửa sổ lại kẻo có người ở ngoài để ý rồi đâm tò mò. Điều thích thú hơn vị cà phê là cái thể chất sánh mịn của nó do đường gây ra, một cảm giác mà Winston đã gần như quên mất sau bao năm dùng đường tinh. Một tay đút túi quần, một tay cầm một khúc bánh mì giăm bông, Julia rảo bước quanh phòng, lơ đãng nhìn vào kệ sách, chỉ cách sửa chữa hay nhất cái bàn gấp, ném mình vào chiếc ghế bành rách xem nó có tiện khoái không, ngắm nghía cái đồng hồ hai mươi tư tiếng vô nghĩa với một điệu đùa bỡn khoan dung. Nàng mang cái chặn giấy thủy tinh tới giường để ngắm nó dưới nhiều ánh sáng hơn. Anh nhấc nó lên khỏi tay nàng, bị thôi miên như lúc đầu bởi vẻ dịu như nước mưa của thủy tinh.
"Theo anh, cái này là gì vậy ?" Julia hỏi.
"Anh cho nó chẳng là vật gì cả — Anh muốn nói, anh nghĩ nó chẳng bao giờ cốt dùng vào việc gì. Đó là điều anh thích nơi nó. Nó là một mảnh lịch sử chúng đã quên ngụy tạo. Nó là một mẩu tin xuất phát từ trăm năm trước nếu mình biết cách đọc nó."
"Còn tấm tranh kia ?" — nàng hất mặt về phía bức tranh khắc bên kia tường — "nó có được một thế kỷ không ?"
"Hơn nữa. Dám hai thế kỷ lắm. Chẳng biết chừng. Ngày nay, không thể phát giác ra tuổi tác của bất cứ vật gì."
Nàng đi lại phía bức tranh để ngắm kỹ nó. " Đây là chỗ cái con quỷ kia thò mõm ra," nàng vừa nói vừa đá vào tấm bản gỗ ở ngay dưới tranh. "Nơi này là nơi nào nhỉ ? Em đã thấy nó đâu đó trước đây rồi."
"Đó là một nhà thờ, hay ít nhất nó từng là vậy. Lấy tên Thánh Clement Danes". Đoạn bài hát mà ông Charrington dạy anh hiện lại trong óc anh, và anh nói thêm với phần luyến tiếc: "Cam với chanh, chuông Thánh Clement reo ".
Trước sự ngạc nhiên của anh, nàng tiếp lời:
Anh nợ tôi ba xu, chuông Thánh Martin reo,
Khi nào anh trả tôi ? Chuông Già Bailey reo —
"Em không nhớ sau câu đó là gì. Nhưng dầu sao, em nhớ bài này tận cùng bằng: Đây là nến để đưa anh đi ngủ, đây là dao để chặt cái đầu anh."
Y như hai nửa phần chữ tiếp ký. Phải có một câu khác sau "Chuông Già Bailey". May ra nặn được nó khỏi ký ức ông Charrington nếu khéo khích lệ ông ta.
"Ai dạy em thế ?" anh hỏi.
"Ông em. Ông thường hát bài ấy cho em khi em còn nhỏ. Ông đã bị hóa hơi khi em lên tám — dù sao chăng nữa, ông mất tích. Không hiểu chanh là gì nhỉ ?" nàng bất nhất nói thêm. "Em đã được thấy cam. Đó là một thứ quả vàng tròn, có vỏ dày."
"Anh còn nhớ quả chanh," Winston nói. "Đó là một hàng rất thường vào những năm năm mươi. Nó chua đến nỗi ngửi nó thôi cũng thấy ê răng."
"Em cuộc tấm hình này có rệp đằng sau," Julia nói. " Sẽ có ngày em tháo nó xuống lau cho thật sạch. Em ước chừng đã tới giờ mình phải đi. Em phải rửa cho hết son phấn đã. Ngại ghê ! Sau thì em sẽ chùi mặt cho anh khỏi vết son."
Winston đợi vài phút nữa mới dậy. Căn phòng sầm tối. Anh quay mình về phía ánh sáng, nằm nhìn cái chặn giấy thủy tinh. Điều vô cùng thú vị không phải là mảnh san hô mà chính là cái mặt trong của thủy tinh. Nó sâu thẳm làm sao, thế mà nó lại gần trong suốt như không khí. Làm như thể mặt thủy tinh là vòm trời, bao gồm một thế giới nhỏ bé với đầy đủ khí quyển. Anh có cảm tưởng anh có thể vào trong đó, và thực sự anh đang ở trong đó cùng cái giường gỗ gụ, cái bàn gấp, cái đồng hồ và tấm tranh khắc cùng chính cái chặn giấy. Cái chặn giấy là căn phòng anh đang ở, và miếng san hô là cuộc đời Julia với cuộc đời anh được đóng chặt kiểu như muôn kiếp trong lòng thủy tinh.
Syme đã biến mất. Một buổi sáng anh không đến sở: vài người không biết nghĩ bình phẩm sự vắng mặt của anh. Ngày hôm sau không còn ai nhắc tới anh. Ngày thứ ba Winston ra tiền sảnh thuộc Cục Văn Khố xem bảng thông cáo. Một bản bố cáo kê danh sách thành phần Ủy Ban Cờ Tướng trong đó vẫn có Syme. Tờ bố cáo coi gần giống hệt trước — không có gì bị gạch — nhưng ngắn hơn một tên. Thế là đủ. Syme đã hết sống: anh không bao giờ sống trên đời.
Trời hừng nóng. Trong trận đồ Bộ, các phòng không cửa sổ được điều hòa không khí vẫn giữ nhiệt độ bình thường, nhưng bên ngoài, đá lát đốt rát chân và mùi hôi trong tàu hầm vào giờ nghẹt thật gớm. Việc chuẩn bị Tuần Lễ Hận Thù đương lúc tột độ, nhân viên các Bộ phải làm việc quá giờ. Các đám rước, phiên họp, duyệt binh, diễn văn, hình sáp, triển lãm, phim ảnh, chương trình truyền hình, việc nào cũng cần được tổ chức; phải dựng gian hàng, đắp hình nộm, đề biểu ngữ, viết bài ca, phao tin đồn, mạo hình ảnh. Đơn vị của Julia trong Cục Truyện được cất việc sản xuất truyện dài và dồn dập xuất bản một loạt văn đả kích tàn bạo. Winston, ngoài việc thường lệ, mất rất nhiều thì giờ xem lại các tập Thời Báo cũ để sửa sai hay tô điểm những tin tức sẽ được nhắc tới trong các bài diễn văn. Đêm khuya, khi đám dân đen ồn ào lũ lượt dạo phố, thành phố có vẻ bồn chồn kỳ lạ. Bom lửa đổ xuống thường hơn bao giờ hết, và thỉnh thoảng ngoài xa tít có tiếng nổ to tát không ai giải thích được xuôi nên nhiều tin đồn hoang dại.
Bản nhạc mới sẽ được dùng làm bài ca chủ đề của Tuần Lễ Hận Thù (được gọi là Hận ca) đã được soạn xong và không ngưng phát thanh trên máy truyền hình. Nó có một điệu sủa man dại, không thể được gọi hẳn là nhạc, nhưng giống tiếng trống đánh. Gào bởi hàng trăm giọng cùng nhịp với tiếng chân đi ình ịch, nó thật hãi hùng. Dân đen say mê bản đó, và nửa đêm trên đường phố nó cạnh tranh với bản "Đó là một giấc mơ vô vọng" vẫn được ưa chuộng. Con nhà Parsons chơi bản ấy vào mọi giờ ngày đêm trên lược hay giấy vệ sinh, không chịu đựng nổi. Buổi chiều tối của Winston bận rộn hơn bao giờ. Các toán tình nguyện do Parsons tổ chức sắp sửa phố cho Tuần Lễ Hận Thù, họ khâu cờ hiệu, dựng cán cờ trên mái nhà, liều mạng ném dây băng phố để chăng biểu ngữ. Parsons huyênh hoang rằng một mình Căn Nhà Chiến Thắng sẽ phô trương được bốn trăm thước cờ xí. Anh ta ở trong môi trường bẩm sinh của mình nên vui như chim sơn ca. Trời nóng và việc chân tay cho anh cớ để mặc quần đùi và áo hở ngực vào chiều tối. Anh ta có mặt một lúc khắp nơi, nào đẩy, nào kéo, nào cưa, đập lúa, ứng tác, vỗ về mọi người bằng những lời khuyến khích thân mật, và toát ra từ từng nếp thân hình anh một khối mồ hôi chua vô tận.
Một tấm bích chương mới bỗng nhiên xuất hiện khắp Luân Đôn. Nó không có chú từ, chỉ hình dung hình dáng quái dị của một tên lính Âu Á, cao ba bốn thước, đang tiến bước với khuôn mặt Mông Cổ trơ ì và đôi giầy ống kếch sù, một khẩu súng máy chĩa ra từ hông hắn. Bạn nhìn tấm bích chương từ góc nào chăng nữa, mõm súng được phóng đại bởi thuật thâu phóng vẫn hình như chĩa thẳng vào bạn. Cái ấy được dán tại khắp chỗ trống trên mọi bức tường, nhiều hơn cả hình Bác. Dân đen, thường ra thờ ơ đối với chiến tranh, bị cài vào một trận yêu nước nồng nhiệt định kỳ. Như để hòa âm với tính khí chung, bom lửa giết nhiều người hơn thường lệ. Một quả rơi xuống một rạp chiếu bóng tại Stepney, chôn vùi hàng trăm nhân mạng dưới đống nhà đổ nát. Toàn thể dân chúng vùng lân cận đến dự đám ma kéo dài dằng dặc hàng tiếng, nhưng kỳ thực đấy là một cuộc biểu tình bất bình. Một trái bom khác rớt xuống một miếng đất bỏ hoang dùng làm sân chơi, khiến hàng tá trẻ con bị tung thành mảnh. Sau đó lại có nhiều cuộc biểu tình giận dữ, hình nộm Goldstein bị đốt, hàng trăm bích chương hình dung lính Âu Á bị xé rách vứt vào lửa, và một số cửa tiệm bị cướp nhân lúc lộn xộn; rồi có tin đồn rằng bom lửa do quân gián điệp hướng dẫn nhờ làn sóng điện, và một cặp vợ chồng già bị nghi là người gốc ngoại quốc bị đốt nhà chết ngạt trong đó.
Trong căn phòng ở trên cửa tiệm ông Charrington, lúc họ tới đó được, Julia và Winston nằm cạnh nhau trên chiếc giường không khăn trải, trần truồng cho mát dưới cửa sổ mở toang. Con chuột không hề trở lại, nhưng trời nóng làm rệp sinh sản gấp bội phát gớm. Thế cũng chẳng sao. Bẩn hay sạch, căn phòng là thiên đàng. Tới nơi là họ rắc ngay khắp nơi hồ tiêu mua tại chợ đen, cởi quần áo ra và làm tình với thân thể ướt đẫm mồ hôi, rồi ngủ thiếp đi và tỉnh dậy để thấy đàn rệp đã tụ họp nhau lại sẵn sàng phản công.
Trong tháng sáu họ gặp nhau bốn, năm, sáu — bẩy lần. Winston đã bỏ thói uống rượu gin vào bất cứ giờ nào. Anh cơ hồ không thấy nó cần thiết nữa. Anh mập ra, chứng loét giãn tĩnh mạch đã lặn biến để lại một vết nâu ngoài da dưới đầu gối, cơn ho sáng sớm của anh đã ngưng. Cuộc đời không còn bất kham nữa, anh không còn xung lực nhăn mặt về phía máy truyền hình hay gân cổ chửi thề. Nay họ có một chỗ ẩn an toàn gần như một tổ ấm rồi, sự họ hiếm khi gặp nhau và mỗi lần chỉ được vài tiếng không còn làm họ đau buồn nữa. Điều quan trọng là cái căn phòng trên tiệm đồ cũ có thực. Biết nó còn đó, không bị ai xâm phạm, cũng gần như ở đó. Căn phòng là một thế giới, một túi quá khứ trong đó thú vật đã tuyệt giống còn đi lại được. Ông Charrington, theo Winston, là một thứ thú tuyệt giống ấy. Anh thường dừng chân nói chuyện với ông ta vài phút trên đường lên cầu thang. Ông già có vẻ ít khi ra khỏi nhà, và mặt khác dường như không có khách hàng. Ông ta sống một cuộc đời ma quái giữa cửa tiệm nhỏ bé tối đen và một căn bếp sau nhỏ hơn nữa, là nơi ông soạn cơm và chứa nhiều đồ đạc trong đó có một cỗ máy hát cũ kỹ với cái vành loa kếch sù. Ông ta có vẻ thích thú được dịp chuyện trò. Khi ông đi giữa khối hàng vô giá trị, với cái mũi dài dưới cặp kính dày và đôi vai khom trong chiếc vét nhung, ông luôn luôn mơ hồ có dáng của một nhà sưu tập hơn là một nhà buôn. Với một thứ nhiệt tình lỗi thời, ông có thói mân mê mảnh vật này hay mảnh vật kia — một lọ sành, một nắp hộp thuốc hít vỡ có họa màu, một chiếc mề đay bằng vàng giả đựng một cuộn tóc trẻ con đã chết từ lâu —, nhưng ông không bao giờ bảo Winston mua nó, chỉ khiến anh ngắm nó thôi. Nói chuyện với ông cũng như nghe tiếng leng keng của một hộp nhạc cũ rích. Ông đã lôi được ra khỏi ký ức ông vài mẩu nhạc đã bị quên bẵng. Có một khúc nói về hai mươi tư con chim sáo, một khúc khác nói về một con bò cái gẫy sừng, và một khúc khác nữa về cái chết của con gà Robin đáng thương. "Tôi bỗng chợt nghĩ có thể ông ưa bản này chăng ?" ông ta thường vừa nói vừa cười trừ nhẹ mỗi khi ông xướng một mẩu nhạc mới. Nhưng bài nào ông ta cũng không bao giờ nhớ nhiều hơn vài giòng.
Cả Julia lẫn Winston đều biết — có thể nói ý nghĩ này không bao giờ rời họ — rằng chuyện đang xảy ra cho họ không thể kéo dài lâu được. Có những lúc cái chết sắp đến nơi cơ hồ có thể sờ thấy được cũng như cái giường đang nằm lên, và họ ôm chặt lấy nhau với cả mối tình dục tuyệt vọng, y như một linh hồn phải sa địa ngục cố bíu lấy thú vui cuối cùng năm phút trước khi giờ điểm. Nhưng cũng có lúc họ có ảo tưởng không những được an toàn, mà còn được vĩnh cửu. Cả hai cảm thấy rằng họ còn ở trong căn phòng này, không có gì hại được họ. Tới nơi vừa khó vừa nguy hiểm, nhưng vào trong, căn phòng là một điện kín. Hệt như khi Winston nhìn vào lòng tấm chặn giấy với cảm tưởng có thể bước được vào trong thế giới thủy tinh và rồi ngăn chặn được thời gian khi vào tới trong. Nhiều khi họ thả mình mơ màng chuyện thoát ly. Vận may của họ sẽ vững mãi, họ sẽ tiếp tục dan díu như thế này cho tới mãn kiếp thiên nhiên của họ. Hay Katharine sẽ chết và nhờ khéo vận động Winston và Julia sẽ được phép lấy nhau. Hay họ sẽ tự tử cùng nhau. Hay họ sẽ biến mất, cải trang cho không ai nhận ra được, học nói giọng dân đen, kiếm việc làm tại một xưởng máy, và sống suốt đời không bị lộ tẩy trong một phố hẻo lánh. Toàn là chuyện ngớ ngẩn, cả hai đều biết vậy. Thực ra, không có lối thoát. Ngay cái dự tính có thể thực hành được, tức là tự tử, họ cũng không có ý định đem ra thực hiện. Bám vào ngày này sang ngày khác, tuần này sang tuần khác, kéo dài một hiện tại không tương lai cơ hồ là một bản năng không dằn được, hệt như buồng phổi mãi mãi hít thở khi còn không khí để thở.
Thỉnh thoảng họ cũng nói chuyện lao đầu vào sự phản kháng tích cực chống Đảng, nhưng họ không biết bước đầu phải làm sao. Dù cho Hội Tình Thân có thật, vẫn còn sự khó khăn kiếm ra cách vào hội. Anh kể cho nàng tình thân thiết lạ lùng đã có, hay hình như có, giữa anh và ÓBrien, cái động lực có khi thúc đẩy anh đến thẳng trước mặt ÓBrien khai với ông ta anh là kẻ thù của Đảng và yêu cầu ông ta giúp đỡ. Khá lạ lùng, điều này không làm nàng sửng sốt và cho là một hành động khinh suất. Nàng quen theo mặt xét người, và đối với nàng đương nhiên Winston có thể căn cứ trên cường độ của ánh mắt mà tin ÓBrien. Lại nữa, nàng cho rằng mặc nhiên mọi người hay gần hết mọi người thầm ghét Đảng và sẵn sàng phá lệ nếu làm vậy vẫn an toàn. Nhưng nàng từ chối tin là có, hay có thể có, một tổ chức đối lập rộng rãi. Những chuyện về Goldstein và đội quân ngầm của ông, theo nàng, chỉ là một tràng tin nhảm do Đảng bịa ra vì mục đích riêng, mình phải giả vờ tin. Quá nhiều lần, tại các buổi tập họp của Đảng và các cuộc biểu tình tự phát, nàng đã ra sức hét đòi xử tử những người nàng không bao giờ nghe thấy tên, bị khép vào tội nàng không hề tin có thật. Khi xảy ra các vụ xử án công cộng, nàng có chân trong biệt đội Liên Đoàn Thanh Niên bao quanh tòa án từ sáng tới tối thỉnh thoảng hát câu: "Xử tử quân phản nghịch !" Trong Hai Phút Hận Thù nàng luôn luôn vượt hết mọi người trong việc chửi Goldstein. Thế nhưng nàng chỉ có một ý niệm rất mơ hồ về Goldstein và những học thuyết mà ông mang tiếng biểu thị. Nàng lớn lên sau Cách Mạng và còn quá trẻ để có kỷ niệm về những cuộc đấu tranh tư tưởng thời các năm năm mươi, sáu mươi. Một phong trào chính trị độc lập là một chuyện ngoài sức tưởng tượng của nàng: dù sao chăng nữa Đảng vô địch. Đảng bao giờ cũng có và sẽ mãi mãi như vậy. Chỉ có thể chống Đảng bằng cách bất tuân ngầm, hay quá lắm, bằng những hành động lẻ tẻ như giết một người hay làm nổ vật gì.
Trên vài phương diện, nàng sáng suốt hơn Winston nhiều, và ít bị nhiễm bởi sự tuyên truyền của Đảng hơn. Có một lần, nhân trong một câu chuyện anh có nhắc qua tới chiến tranh chống Âu Á, nàng làm anh sửng sốt vì thản nhiên bảo anh rằng, theo ý nàng, chiến tranh không hề xảy ra. Các trái bom lửa đổ hàng ngày xuống Luân Đôn hẳn do chính Chính Phủ Đại Dương thả, "vừa đủ để giữ cho dân chúng khiếp sợ". Đó là một ý tưởng không bao giờ lòe trong óc anh. Nàng cũng gợi trong anh một chút lòng ganh tị khi kể cho anh rằng trong Hai Phút Hận Thù nỗi khó khăn lớn của nàng là làm sao nhịn phá lên cười. Nhưng nàng chỉ đặt thành vấn đề sự dạy bảo của Đảng khi nó có cơ dính dáng đến đời sống của chính nàng. Thường nàng sẵn sàng chấp nhận huyền thoại chính thức, chỉ vì sự khác biệt giữa sự thật và sự giả dối không quan hệ đối với nàng. Giả dụ, nàng tin Đảng sáng chế ra tàu bay vì đã học như thế ở trường. (Winston nhớ rằng thời anh còn đi học, vào những năm cuối năm mươi, Đảng chỉ tuyên bố chế ra trực thăng; mười hai năm sau, khi Julia đi học, Đảng đã nhận tàu bay do Đảng phát minh; một thế hệ nữa, sẽ tới lúc Đảng đòi chế ra máy hơi.) Và khi anh bảo nàng tàu bay có từ trước khi anh ra đời, trước Cách Mạng nhiều, nàng ngạc nhiên cho điều đó hoàn toàn không đáng lưu tâm đến. Vả lại, biết ai là kẻ sáng chế ra tàu bay có tích sự gì ? Anh khá bị xúc động hơn khi tình cờ phát giác nàng không nhớ rằng bốn năm trước Đại Dương đánh nhau với Đông Á và hòa với Âu Á. Đã đành nàng coi cả cuộc chiến như một trò hề: nhưng hiển nhiên nàng không để ý cả đến sự tên kẻ địch đã thay đổi. "Em tưởng bao giờ mình cũng đánh nhau với Âu Á," nàng mơ hồ nói. Điều này làm anh hơi sợ hãi. Việc sáng chế tàu bay có từ lâu trước khi nàng ra đời, nhưng sự thay đổi chiều hướng chiến tranh xảy ra có bốn năm trước, khi nàng đã khôn lớn. Anh tranh luận với nàng về điều đó khoảng chừng mười lăm phút. Cuối cùng anh thành công bắt nàng ôn lại ký ức cho tới khi nàng nhớ lờ mờ rằng có thời kẻ thù là Đông Á chứ không phải là Âu Á. Nhưng vấn đề đối với nàng vẫn không quan trọng gì. "Ai mà để ý ?" nàng sốt ruột nói. "Đó chỉ là một cuộc chiến chết băm này đến cuộc chiến chết tiệt kia, với lại các tin tức đều là tin bịa cả."
Có lúc anh nói chuyện với nàng về Cục Văn Khố và các sự giả mạo do anh làm trong đó. Những việc này không có vẻ làm nàng ghê tởm. Nàng không cảm thấy vực thẳm mở rộng dưới chân nàng khi nghĩ tới những sự dối trá trở thành sự thật. Anh kể cho nàng chuyện Jones, Aaronson và Rutherford, và mảnh giấy chủ yếu mà anh đã có lần cầm giữa ngón tay. Điều này không gây xúc động cho nàng. Vả lại, thoạt đầu nàng không nắm được mấu chốt chuyện.
"Họ có phải là bạn của anh không ?" nàng hỏi.
"Không, anh không hề biết họ. Họ là thành viên Đảng Trong. Ngoài ra, họ lớn tuổi hơn anh nhiều. Họ thuộc về những ngày xa xưa, trước Cách Mạng. Anh chỉ hơi biết mặt họ thôi."
"Vậy có việc gì phiền đến anh ? Lúc nào chẳng có người bị giết, không phải ư ?"
Anh cố gắng giảng cho nàng hiểu. "Đây là một trường hợp đặc biệt. Không phải chỉ là một chuyện giết ngưòi. Em có ý thức rằng quá khứ, kể từ hôm qua, đã thực sự bị hủy diệt không ? Nếu nó tồn tại nơi nào, nó chỉ ở tại vài vật bền chắc không có liên hệ với ngôn ngữ như tấm thủy tinh này. Chưa chi mình cơ hồ hoàn toàn không biết gì về Cách Mạng và những năm trước Cách Mạng. Mọi tài liệu đã bị tiêu hủy hay giả mạo, mọi sách báo đã bị viết lại, mọi hình ảnh đã bị tô lại, mọi pho tượng, đường phố hay dinh thự đã bị đổi tên, mọi ngày tháng đã bị sửa đổi. Và quá trình này ngày ngày phút phút tiếp tục. Lịch sử đã ngừng lại. Không còn gì ngoài một hiện tại vô tận trong đó Đảng luôn luôn có lý. Dĩ nhiên anh biết rằng quá khứ bị giả mạo, nhưng anh không bao giờ có thể chứng minh được điều đó, dù chính anh làm công việc giả mạo. Sau khi việc hoàn tất, không còn chứng cớ nào tồn tại. Bằng cứ độc nhất nằm trong chính óc anh, và anh không biết chắc có người nào khác chia cùng kỷ niệm với anh không. Đúng chỉ một lần, trong cả đời anh, anh cầm được một bằng chứng cụ thể sau sự kiện, hàng năm sau đó."
"Nó có lợi ích gì ?"
"Không ích lợi gì cả vì anh vứt nó đi vài phút sau. Nhưng nếu việc đó xảy ra ngày nay, anh sẽ giữ nó lại."
"Thế ư, em thì không vậy," Julia nói. "Em rất sẵn sàng liều vì nhiều chuyện xứng đáng, chứ không vì vài mẩu báo cũ. Ngay nếu anh giữ được nó, anh làm gì được với nó ?"
"Có lẽ chẳng làm được gì mấy. Nhưng nó là một bằng chứng. Nó có thể gieo hoài nghi nếu anh dám cho người khác thấy. Anh không nghĩ rằng mình có thể thay đổi gì trong sinh thời mình. Nhưng có thể tưởng tượng rằng vài nút chống đối sẽ nẩy nở đây đó — vài nhóm người liên kết với nhau và lớn mạnh dần, có thể để lại một ít tài liệu để các thế hệ sau tiếp tục công việc bỏ dở."
"Em không quan tâm đến thế hệ sau, cưng ạ. Em chỉ để ý đến chúng mình thôi."
"Em chỉ là một kẻ nổi loạn từ eo trở xuống," anh bảo nàng.
Nàng cho câu ấy hết sức dí dỏm và khoái chí choàng tay quanh người anh.
Nàng không mảy may chú tâm đến các phân nhánh trong chủ thuyết của Đảng. Mỗi khi anh bắt đầu nói chuyện về nguyên lý của Anh Xã, về ý đôi, về tính đổi thay của quá khứ, về sự phủ định thực tế khách quan, và mỗi khi anh dùng danh từ Ngôn Mới, nàng đâm chán chường, bối rối và nói nàng không bao giờ lưu ý đến những vấn đề đó. Đã biết đó là chuyện tầm phào, sao cứ để mình bận lòng với nó hoài ? Nàng biết khi nào phải hoan hô, khi nào phải hò hét, và chỉ cần biết vậy. Nếu anh cứ tiếp tục nói chuyện về những vấn đề trên, nàng có cái thói ngủ gật bất cứ giờ nào trong bất cứ tư thế nào. Nhờ nói chuyện với nàng, anh hiểu rằng tỏ vẻ chính thống trong khi mình không hề rõ chính thống nghĩa là gì thật là dễ. Có thể nói, thế giới quan của Đảng được ép nhận với nhiều thành công nhất trong lớp dân không có tư cách hiểu nó. Họ có thể bị khiến chấp nhận những sự vi phạm thực tế rõ ràng nhất, vì họ không bao giờ thấu được nỗi quá đáng của sự đòi hỏi nơi họ, vì họ không đủ óc quan tâm đến việc công để lưu ý đến sự thể đang xảy ra. Nhờ thiếu hiểu biết họ giữ được óc lành mạnh. Họ chỉ nuốt chửng mọi điều, và điều họ nuốt không làm hại họ vì nó không để lại cặn bã, y như một hạt lúa mì xuyên qua thân chim mà không bị tiêu hóa.
Cuối cùng sự việc đã xảy ra. Tin mong đợi đã tới. Cơ hồ đối với Winston, cả cuộc đời anh anh đã đợi sự này xảy ra.
Anh đang đi dọc hành lang trong Bộ, và anh gần tới chỗ Julia dúi mẩu thư trong tay anh, thì bỗng anh ý thức có một người to lớn hơn anh nhiều đang đi sau lưng anh. Người đó, là ai chăng nữa, khẽ ho, hiển nhiên như để bắt chuyện. Winston vụt dừng chân quay lại. Đó là ÓBrien.
Tận cùng họ chạm mặt nhau, nhưng Winston tựa như chỉ có một động lực duy nhất là chạy chốn. Tim anh đập mạnh. Liệu như anh không nói được lên lời. Thế nhưng ÓBrien tiếp tục tiến bước đều như cũ, tay ông đặt thân thiện trên cánh tay Winston khiến cho hai người sánh vai nhau. Ông ta bắt đầu nói với phép lịch sự đặc biệt làm ông tách hẳn phần đông thành viên Đảng Trong.
"Tôi hy vọng có cơ hội nói chuyện với anh," ông ta bảo. "Tôi có đọc một bài Ngôn mới trong Thời Báo do anh viết hôm trước. Anh quan tâm đến Ngôn Mới với tinh thần một nhà nghiên cứu, tôi nghĩ vậy có đúng chăng ?"
Winston đã lấy lại được một phần bình tĩnh. "Khó mà sánh tôi với một nhà nghiên cứu," anh nói. "Tôi không có chuyên. Đó không phải là môn của tôi. Tôi không hề dính dáng gì với việc xây dựng cụ thể ngôn ngữ đó."
"Nhưng anh viết văn mới rất trôi chẩy," ÓBrien đáp. "Đó không chỉ là ý kiến của tôi. Tôi có nói chuyện mới đây với một người bạn anh, chắc hẳn là một chuyên viên. Hiện tôi không nhớ ra tên anh ta."
Lại nữa tim Winston xao xuyến đến đau đớn. Không thể nghĩ rằng câu đó ám chỉ một người khác lạ hơn Syme. Nhưng Syme không những đã chết, anh đã bị hủy diệt thành một vô nhân. Bất cứ lời nào nhắc tới anh cũng cực kỳ nguy hiểm. Nhận xét của ÓBrien rõ ràng phải có chủ ý, như một ám hiệu, một mật mã. Với sự chia xẻ một tội tư tưởng nhỏ, ông ta đã biến hai người thành đồng lõa. Họ tiếp tục rảo bước chậm chạp trên hành lang được một lúc thì ÓBrien dừng chân lại. Với vẻ cởi mở thân thuộc mà ông luôn luôn có cách đặt trong cử chỉ, ông chỉnh đốn cặp kính trên mũi. Rồi ông ta nói tiếp:
"Điều tôi thực sự định nói là trong bài của anh tôi để ý thấy anh dùng hai danh từ đã lỗi thời. Nhưng hai chữ đó mới chỉ thành hủ lậu gần đây thôi. Anh đã xem quyển Từ Điển Ngôn Mới bản thứ mười chưa ?"
"Chưa," Winston nói. " Tôi không biết nó đã được xuất bản. Chúng tôi vẫn dùng bản thứ chín trong Cục Văn Khố."
"Tôi chắc phải vài tháng nữa bản thứ mười mới được phép phát hành. Nhưng đã có vài tiền bản được phổ biến. Chính tôi có một bản. Anh muốn xem qua nó chăng ?"
"Dạ, muốn lắm," Winston vừa nói vừa hiểu ngay câu chuyện đưa tới đâu.
"Có vài tiến triển rất tài tình. Như sự giảm bớt số động từ — tôi thiết nghĩ đó là điểm khích trí anh. Xem nào, tôi có nên phái người mang từ điển đến anh không nhỉ ? Phải cái tôi sợ thế nào cũng quên khuấy đi mất việc đó. Liệu anh có thể đến nhà tôi lấy nó vào ngày giờ thích hợp với anh không ? Đợi chút. Để tôi cho anh địa chỉ tôi."
Họ đang đứng trước máy truyền hình. Với một vẻ coi như vô tư, ÓBrien sờ vào hai túi quần lôi ra một cuốn sổ tay bọc da và một cây bút mực bằng vàng. Ngay dưới máy truyền hình, trong một tư thế ai đang nhìn bên kia máy cũng có thể đọc được điều ông viết, ông ngoáy một địa chỉ và xé trang giấy đưa cho Winston.
"Tôi thường có nhà vào chiều tối," ông ta nói. "Nếu không, người làm của tôi sẽ đưa quyển từ điển cho anh."
Ông ta rảo bước, bỏ lại Winston đang cầm mẩu giấy, lần này không cần giấu giếm. Tuy nhiên, anh cẩn thận ghi nhớ điều ghi trên giấy và vài giờ sau vứt nó vào lỗ ký ức cùng với một sấp giấy khác.
Họ nói chuyện với nhau độ vài phút là nhiều nhất. Giai đoạn chỉ có thể có một ý nghĩa thôi. Nó là một cách sắp đặt cho Winston biết địa chỉ ÓBrien. Nó cần thiết, vì ngoài sự hỏi thẳng, không bao giờ khám phá được chỗ ở của ai. Không có loại danh bạ nào để tra cả. "Nếu bao giờ anh muốn gặp tôi, đây là nơi kiếm được ra tôi," đó là điều ÓBrien đã nói với anh. Có thể còn có một thông điệp giấu đâu đó trong từ điển. Nhưng dù sao đi nữa, có một điều chắc chắn. Cuộc đồng mưu mà anh mơ tưởng tới có thật, và anh đã đạt được ngoại biên của nó.
Anh biết trước sau gì anh cũng sẽ tuân theo đề nghị của ÓBrien. Có thể ngày mai, có thể sau một thời gian dài — anh không biết chắc. Điều xảy ra chỉ là hậu quả của một quá trình đã khởi sự từ hàng năm trước. Bước đầu là một ý nghĩ thầm kín, không chủ tâm, bước thứ hai là sự khai trương cuốn nhật ký. Anh đã chuyển ý tưởng sang lời văn, và lời văn sang hành động. Bước cuối cùng là một sự sẽ xảy ra trong Bộ Tình Yêu. Anh đã chấp nhận điều ấy. Kết cục được chứa trong bước đầu. Nhưng nó ghê rợn: hay đúng hơn, nó giống như tiền vị của cái chết, như một sự giảm sinh lực. Ngay khi anh đang nói chuyện với ÓBrien, khi ý nghĩa của câu nói thấm ngầm anh, một cơn rùng mình lạnh buốt xâm nhập anh. Anh có cảm giác bước trên đất ẩm của một nấm mồ, và sự vẫn biết rằng ngôi mộ nằm đó đợi anh không giúp anh vững dạ chút nào.
Winston tỉnh dậy nước mắt đầm đìa. Julia ngái ngủ xoay mình sát lại anh, lẩm bẩm điều gì giống như: "Chuyện gì vây ?"
"Anh nằm mơ —," anh bắt đầu trả lời rồi im bặt. Giấc mơ quá phức tạp, không diễn tả được. Ngoài giấc mơ, còn có kỷ niệm liên hệ đến nó đã lướt qua óc anh vài giây sau khi anh tỉnh giấc.
Anh nằm nhắm mắt trở lại, vẫn đắm mình trong không khí chiêm bao. Đó là một giấc mơ sáng rộng trong đó cả cuộc đời anh hình như trải ra trước mắt anh, y hệt quang cảnh một chiều hạ sau cơn mưa. Nó trọn vẹn xảy ra trong lòng tấm chặn giấy thủy tinh, nhưng mặt thủy tinh lại là vòm trời, và dưới vòm trời mọi thứ ngập trong một ánh sang êm dịu cho phép nhìn ra quãng xa vô tận. Giấc mơ có thể đuợc bao gồm trong — còn có thể nói nó đặc là — một cử chỉ cánh tay của mẹ anh, được lập lại ba mươi năm sau bởi ngưòi đàn bà Do Thái anh đã thấy trong cuốn phim thời sự, cố đỡ đạn cho đứa bé trai nhỏ trước khi trực thăng bắn tan cả hai.
"Em biết không," anh nói, "cho tới giờ anh cứ tưởng anh đã giết mẹ anh ?"
"Tại sao anh lại giết mẹ anh ?" Julia vẫn ngái ngủ hỏi.
"Anh không giết mẹ. Không giết một cách cụ thể."
Trong giấc mơ anh đã nhớ lại hình ảnh cuối cùng của mẹ anh, và trong vài giây khi tỉnh giấc, chùm sự kiện nhỏ quanh đó tái hiện trong óc anh. Đấy là một ký ức anh đã phải cố tình đẩy lui hàng năm trời khỏi tâm thức anh. Anh không chắc chắn ngày tháng, nhưng khi chuyện xảy ra anh không thể dưới mười tuổi, mà ước chừng mười hai tuổi.
Cha anh đã mất tích khoảng trước đó, bao nhiêu lâu trước thì anh không nhớ ra được. Anh nhớ rõ hơn hoàn cảnh ồn ào khó khăn của thời bấy giờ: những cơn kinh hoảng định kỳ trước các cuộc dội bom và những sự trú ẩn trong trạm tàu hầm, những chồng vôi gạch đổ nát khắp nơi, những bản thông cáo khó hiểu dán ở các góc phố, những bọn cướp trẻ mặc áo đồng mầu, những đuôi khổng lồ ngoài tiệm bánh mì, tiếng súng máy nổ từng đợt ngoài xa — trên hết, sự không bao giờ có đủ ăn. Anh nhớ lại những buổi chiều dài anh cùng lũ nhỏ khác ăn chực quanh thùng và đống rác, nhặt nhạnh sống lá cải, vỏ khoai tây, có khi cả vụn vỡ bánh mì được anh và lũ nhỏ cạo tro cẩn thận; anh và chúng còn đợi các xe vận tải, được biết là chở thức ăn cho súc vật chăn nuôi, trên một con đường chắc chắn xe phải đi ngang, vì khi xe xóc trên ổ gà ngoài đường, có cơ xe đánh rắc một ít mẩu bã dầu.
Khi cha anh mất tích, mẹ anh không tỏ chút ngạc nhiên hay đau buồn mạnh mẽ nào, nhưng bà bỗng thay đổi hẳn. Bà đâm hình như mất hết sinh lực. Ngay Winston cũng thấy rõ ràng bà đợi chờ một chuyện bà biết thế nào cũng sẽ xảy ra. Bà làm mọi việc cần phải làm — nấu ăn, giặt giũ, khâu vá, làm giường, quét nhà, phủi bụi trên mặt lò sưởi — luôn luôn một cách thật chậm chạp, lạ lùng là không với một cử động thừa nào, như một người mẫu tự động của nghệ sĩ. Thân hình hộ pháp cân đối của bà dường như quay về thế bất động một cách tự nhiên. Có lúc bà ngồi yên hàng giờ trên giường, ẵm em gái anh, một đứa trẻ nhỏ độ hai, ba tuổi, ốm yếu và rất lặng lẽ, có một khuôn mặt gầy choắt như khỉ. Cũng có khi, nhưng rất hiếm, bà ôm Winston vào lòng và siết chặt anh thật lâu không nói một lời. Mặc dầu còn trẻ và ích kỷ, anh ý thức rằng thái độ của mẹ anh liên quan tới sự kiện không bao giờ được nhắc tới sắp sửa xảy ra.
Anh nhớ lại căn phòng gia đình anh ở, một phòng tối tăm, hấp hơi, choán mất nửa bởi chiếc giường có chăn phủ trắng. Trong phòng có một lò bếp khí trong kẽ chắn lò sưởi và một kệ đựng thức ăn, ngoài thềm có một chậu rửa bát bằng sành nâu dùng chung với nhiều phòng. Anh hồi tưởng tấm thân giống tượng của mẹ anh khom mình trên bếp khí, ngoáy chất gì đó trong xoong. Trên hết anh nhớ lại cơn đói liên tục của anh và những trận cãi vã gay gắt bần tiện vào bữa ăn. Anh thường kêu ca eo sèo đi đi lại lại với mẹ, tại sao không có thêm thức ăn, anh la hét giận dữ với bà (anh nhớ cả giọng nói của anh lúc đó, sớm bắt đầu vỡ và thỉnh thoảng rít lên một cách đặc biệt), hay anh gắng ra giọng mếu máo đáng thương để được ăn nhiều hơn em gái. Mẹ anh rất sẵn sàng phân nhiều cho anh hơn. Bà coi như đương nhiên, anh, "cậu con trai", phải có phần lớn hơn. Bữa ăn nào bà cũng van anh chớ ích kỷ và nhớ rằng em gái anh đau ốm cũng cần thức ăn, nhưng vô ích. Anh vẫn hét giận dữ khi bà ngưng phát thức ăn cho anh, anh thường giằng lấy thìa múc khỏi tay bà, hoặc bốc mẩu đồ ăn trên đĩa em. Anh biết anh bỏ đói mẹ và em anh, nhưng anh không dằn được mình; anh còn cảm thấy anh có quyền làm vậy. Cơn đói gào trong bụng anh dường như biện bạch cho anh. Giữa hai bữa ăn, nếu mẹ anh không canh chừng, anh thường bốc vụng trong kho thức ăn thảm thương dự trữ trên kệ.
Một hôm khẩu phần xúc cô la được đem ra phát. Đã từ mấy tuần hay mấy tháng qua, không có chuyện này. Anh nhớ rất rõ miếng xúc cô la nhỏ quý hóa ấy. Đó là một thanh hai ông xơ (hồi đó danh từ ông xơ vẫn được dùng) chung cho cả ba người trong gia đình anh. Hiển nhiên phải chia nó ra ba phần ngang nhau. Bất thần, như thể thốt ra từ một người lạ, Winston nghe thấy mình lên tiếng gầm to đòi bằng được cả thanh xúc cô la. Mẹ anh bảo anh không được ăn tham. Thế là có một cuộc cãi quấy lâu dài, quanh đi quẩn lại, với tiếng hò, tiếng rên, nước mắt, lời mắng, lời mặc cả. Em gái choắt bé của anh ôm chặt hai tay lấy mẹ, y hệt một con khỉ con, nhìn anh qua vai mẹ với đôi mắt to buồn tẻ. Cuối cùng mẹ anh bẻ ba phần tư thanh xúc cô la cho anh, và đưa phần còn lại cho em anh. Đứa bé cầm lấy phần mình và ủ ê ngắm nó, có lẽ không hiểu đó là gì. Winston nhìn nó một hồi. Rồi anh bồng nhẩy nhanh vồ lấy mảnh xúc cô la trên tay em, chạy ra cửa.
"Winston, Winston !" mẹ anh gọi anh trở lại. "Về ngay ! Trả lại em mày miếng xúc cô la của nó."
Anh dừng chân nhưng không trở về. Đôi mắt ưu tư của mẹ anh đính vào mặt anh. Ngay hiện tại khi nghĩ lại sự thể, anh không biết sự sắp sửa xảy ra bấy giờ là sự gì. Em gái anh, ý thức mình bị cướp vật gì đó, khẽ thốt lên một tiếng rên. Mẹ anh quàng tay qua đứa bé ép mặt nó vào ngực mình. Có cái gì trong cử chỉ của bà bảo anh rằng em gái anh sắp chết. Anh quay người chạy xuống cầu thang với mảnh xúc cô la đã dính tay.
Anh không bao giờ gặp lại mẹ anh. Sau khi nuốt hết xúc cô la anh hơi cảm thấy xấu hổ về mình, và lang thang hàng giờ ngoài phố cho tới khi cơn đói kéo anh về nhà. Khi anh trở về, mẹ anh đã mất dạng. Thuở đó sự mất tích đã thành chuyện thường tình. Trong căn phòng không có gì mất đi, ngoài mẹ anh và em gái anh. Không thiếu một quần áo nào, kể cả chiếc áo choàng của mẹ anh. Cho tới nay anh không chắc mẹ anh đã chết. Rất có thể bà chỉ bị gửi đi một trại khổ sai. Về phần em anh, nó có thể, như chính anh, bị đưa vào một trong những trại trẻ con vô gia đình (được gọi là Trung Tâm Thu Hồi) phát triển với cuộc nội chiến, hay có thể nó bị gửi đi trại khổ sai cùng mẹ, hay giản dị hơn, có thể nó đã bị bỏ rơi rồi chết đâu đó.
Giấc mơ vẫn dai dẳng trong óc anh, nhất là cái cử chỉ ôm choàng che chở của cánh tay chứa đựng toàn thể ý nghĩa cơn chiêm bao. Tâm tư anh quay về một giấc mơ khác nằm thấy hai tháng trước. Y như khi mẹ anh ngồi trên chiếc giường phủ khăn trắng với đứa nhỏ bám vào mẹ, mẹ anh đã ngồi trên chiếc tàu đắm, xa dưới chân anh, chìm sâu dần mỗi phút, vẫn nhìn anh qua làn nước đã ngả đen.
Anh kể cho Julia chuyện mất tích của mẹ anh. Vẫn không mở mắt, nàng xoay người lại để thu mình vào một thế thoải mái hơn.
"Em dám chắc thuở ấy anh là một của quỷ thối," nàng nói không rõ tiếng. "Trẻ con đứa nào cũng là quỷ cả."
"Phải. Nhưng điểm thực của câu chuyện là —"
Theo hơi thở của nàng, hiển nhiên nàng sắp thiếp ngủ trở lại. Anh muốn tiếp tục nói về mẹ anh. Theo như anh có thể nhớ về bà, anh cho bà không phải là một thiếu phụ khác thường, lại càng không phải là một người thông minh; mặc vậy bà có một tư chất quý phái, trong sạch, chỉ vì bà tuân theo mẫu mực cá nhân. Tình cảm của bà xuất phát ngay tự bà, không thể biển chất vì ngoại cảnh. Ý nghĩ rằng một hành động vì vô hiệu hóa ra vô nghĩa không thể đến với bà. Nếu mình yêu ai, mình yêu người đó, khi mình không cho được gì khác, mình còn cho được tình yêu. Khi miếng xúc cô la cuối cùng đã mất, mẹ anh đã ôm chặt đứa bé trong lòng. Như vậy không tích sự gì, chẳng thay đổi được gì, không sinh ra được thêm xúc cô la, không cản được cái chết của đứa bé hay của chính bà; nhưng đó là cử chỉ tự nhiên đối với bà. Người đàn bà tị nạn trong thuyền cũng bao phủ đứa bé trai với cánh tay mình, một hành động không hữu ích hơn sự lấy giấy chống bom đạn. Tác động hãi hùng của Đảng là đã vừa thuyết phục được con người rằng các xung động và cảm tình đơn thuần không đáng kể, vừa cướp giựt khỏi tay họ mọi quyền lực trên thế giới vật chất. Một khi bạn đã rơi vào tròng của Đảng, điều bạn cảm thấy hay không cảm thấy, điều bạn làm hay dằn không làm, hoàn toàn không khác gì nhau. Gì thì gì, bạn cũng biến mất, và bạn cũng như hành động của bạn không được ai biết đến nữa. Bạn bị thải sạch khỏi giòng lịch sử. Thế nhưng đối với dân chỉ hai thế hệ trước, sự thể trên không được coi là trọng, vì họ không có định ý biến đổi lịch sử. Họ bị chi phối bởi những mối trung nghĩa riêng tư mà họ không có ý nghĩ đặt thành vấn đề. Điều cốt yếu là liên hệ cá nhân, và một cử chỉ đầy bất lực như một cái hôn, một giọt nước mắt, một lời nói với người hấp hối, có giá trị riêng của nó. Winston bỗng nghĩ rằng dân đen còn ở trong hoàn cảnh đó. Họ không chung thành với một đảng, một quốc gia hay một lý tưởng, họ trung thành với nhau. Lần đầu tiên trong đời anh, anh không khinh rẻ dân đen hay nghĩ tới họ như một lực lượng trơ ì sẽ có ngày sống dậy và tái tạo thế giới. Dân đen đã giữ được tính người. Họ không bị chai cứng trong lòng. Họ đã vịn vào những cảm xúc nguyên thủy mà anh phải ra tâm cố gắng mới học lại được. Và đương nghĩ vậy, anh có liên tưởng, không hiển nhiên đúng lúc, về sự hai tuần trước anh thấy một bàn tay cụt nằm trên vỉa hè và đá nó xuống cống như thể nó là một lõi cải.
"Dân đen là người," anh nói to. "Chúng ta không phải là người."
"Tại sao không ?" Julia đã tỉnh dậy trở lại hỏi.
Anh ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: "Em có khi nào nghĩ rằng hay nhất cho chúng mình chính là bước khỏi chốn này trước khi quá muộn, và không bao giờ gặp lại nhau nữa không ?"
"Có chứ cưng, điều ấy có thoáng trong óc em nhiều lần. Nhưng gì thì gì, em cũng sẽ không làm thế."
"Cho tới giờ chúng mình hên," anh nói. "Nhưng vận may không thể kéo dài lâu hơn nữa. Em còn trẻ. Em có vẻ bình thường vô tội. Nếu em tránh những người như anh, em có thể sống thêm năm chục năm nữa."
"Không, em đã suy nghĩ chín rồi. Anh làm gì, em làm đó. Anh chớ có xuống tinh thần. Em khá giỏi việc giữ mình sống sót."
"Chúng mình có thể ở với nhau sáu tháng nữa — cho là một năm đi — không sao biết được. Tận cùng chúng mình chắc chắn sẽ phải lìa nhau. Em có ý thức mình sẽ hết sức cô đơn như thế nào không ? Một khi chúng bắt được mình sẽ không có gì, hoàn toàn không có gì mình giúp được nhau. Nếu anh thú tội chúng sẽ bắn em, mà dù anh không chịu khai, chúng cũng vẫn bắn em. Không có điều gì anh có thể làm hay nói, hay dằn không nói, hoãn nổi dù chỉ năm phút cái chết của em. Ngay không đứa nào trong hai đứa mình sẽ biết được đứa kia còn sống hay chết. Chúng mình sẽ hoàn toàn mất hết năng lực. Điều duy nhất đáng kể là chúng mình sẽ không phản bội nhau, dù điều đó chẳng thể thay đổi gì."
"Nếu anh ám chỉ sự cung xưng," nàng bảo, "chắc chắn chúng mình sẽ khai hết. Ai ai cũng thú. Không thú không được. Chúng tra tấn người ta."
"Anh không muốn nói đến sự thú tội. Cung xưng không có nghĩa là bội phản. Mình nói gì hay làm gì không quan trọng: chỉ có tình cảm đáng kể thôi. Nếu chúng làm được cho anh hết yêu em — đó mới là sự phản bội thực sự."
Nàng ngẫm nghĩ một hồi: "Chúng không thể làm vậy được. Đó là điều duy nhất chúng không thể làm được. Chúng có thể khiến anh nói bất cứ điều gì — bất cứ điều gì nhưng chúng không thể làm anh tin điều ấy. Chúng không thể đi được vào lòng anh."
"Không," anh hơi thêm hy vọng một chút nói, "không; thật đúng thế. Chúng không thể nắm được lòng mình. Nếu mình cảm thấy rằng giữ nhân tính là một việc bõ làm, ngay khi kết quả chẳng thể có được, mình thắng chúng."
Anh nghĩ tới máy truyền hình với cái tai không bao giờ khép của nó. Chúng có thể rình bạn đêm ngày, nhưng nếu bạn giữ được mình tỉnh táo, bạn có thể đánh lừa chúng. Với tất cả trí thông minh của chúng, chúng chưa hề chế ngự được bí quyết cho phép khám phá ra người khác nghĩ gì. Có lẽ điều này bớt đúng khi bạn thực sự rơi vào tay chúng. Không sao biết được những gì xảy ra trong Bộ Tình Yêu, nhưng có thể đoán: các cuộc tra tấn, các thuốc thang, các máy móc tinh vi đo phản ứng thần kinh của bạn, sự giảm từ từ tinh thần vì trạng thiếu ngủ, cô độc và bị tra tấn luôn hồi. Dầu sao chăng nữa, không thể giấu kín được sự kiện. Chúng sẽ tìm ra manh mối, chúng sẽ vắt nó ra khỏi bạn nhờ sự tra tấn. Nhưng nếu mục đích không phải là sinh tồn mà là giữ nhân tính, cuối cùng khai hay không khai nào khác gì ? Chúng không thể biến hóa tình cảm của bạn: về việc này chính bạn cũng không đổi được, dù bạn muốn. Chúng có thể vạch trần ra từng chi tiết mọi hành động, lời nói hay tư tưởng cúa bạn; nhưng thâm tâm bạn, mà sự vận hành bí mật ngay cả đối với bạn, chúng không thể vi phạm.
Họ đã dám, cuối cùng họ đã dám !
Họ đang đứng trong một căn phòng dài sáng dịu. Máy truyền hình khẽ tiếng tới mức thì thầm; sự sang trọng của tấm thảm xanh lơ cho họ cảm tưởng bước trên nhung. Tại tận cuối phòng, ÓBrien đang ngồi trước bàn dưới một ngọn đèn có chao xanh lục, với mỗi bên người một đống giấy lớn. Ông ta không thèm ngẩng mặt lên khi người hầu dẫn Julia và Winston vào phòng.
Tim Winston đập thình thịch mạnh đến nỗi anh sợ không nói nổi lên lời. Họ đã dám, cuối cùng họ đã dám, anh chỉ nghĩ được có thế. Tới nơi đây đã là hành động khinh suất, tới cùng nhau quả là cư xử điên rồ; mặc dầu thực ra họ tới đây bằng lối khác nhau và chỉ gặp nhau trước thềm nhà ÓBrien. Nhưng nội việc bước vào một nơi như thế này cũng cần sự gắng gượng của thần kinh. Chỉ trong rất hiếm cơ hội mới thấy được nội thất của người Đảng Trong, hoặc vào được khu thành phố dành cho họ ở. Toàn thể không khí của khối căn nhà đồ sộ, sự sang trọng và rộng rãi của mọi thứ, những mùi thơm lạ của thức ăn ngon và thuốc lá hảo hạng, những thang máy êm nhanh không tưởng tưởng được lướt lên lướt xuống, những người hầu mặc áo đuôi tôm trắng vội vàng qua lại — mọi sự khiến họ rụt rè e sợ. Tuy anh có một lý do chính đáng để tới đây, anh bị ám ảnh mỗi bước bởi mối lo sợ một tên lính canh mặc y phục đen thình lình xuất hiện từ một góc lối, đòi xét giấy anh và ra lệnh cho anh cút đi. Thế nhưng người hầu của ÓBrien không lưỡng lự tiếp đón hai người. Hắn ta là một người tóc đen nhỏ vóc, mặc áo đuôi tôm trắng, với một khuôn mặt hình thoi hết sức lì lợm, có lẽ là mặt người Hoa. Họ được hắn dẫn qua một hành lang trải thảm êm ru với hai bên tường có dán giấy kem và lớp phủ trắng, cả thảy tuyệt sạch. Điều này cũng làm họ rụt rè. Winston không hề nhớ đã thấy trước đây một lối đi với tường không bị dơ bẩn bởi sự cọ sát với thân người.
ÓBrien cầm trên tay một mẩu giấy ra chiều nghiền ngẫm. Khuôn mặt dày của ông coi bộ vừa to lớn vừa thông minh cúi xuống cho thấy đường sống mũi. Trong khoảng hai mươi giây ông ngồi không đụng đậy. Rồi ông kéo máy ghi âm về phía mình, phóng tin vào đó bằng biệt ngữ ghép dùng trong các Bộ.
"Khoản một phẩy năm phẩy bẩy toàn chuẩn chấm nghị giữ khoản sáu bội lố gần tội tưởng bỏ chấm không tiến xây trước được ước thêm tổng phí máy móc chấm hết tin."
Ông thung dung đứng dậy khỏi ghế tiến bước về phía hai người qua tấm thảm êm lặng. Một chút không khí công quyền hình như bay xa ông cùng với những từ Ngôn Mới, nhưng sắc mặt ông nghiêm ngặt hơn thường lệ, làm như ông bất bình vì bị quấy rầy. Sự khiếp sợ sẵn nhập Winston bỗng bị xuyên bởi một phát lúng túng thông thường. Anh thấy rất có thể anh đã phạm một lỗi lầm rồ dại. Thực ra anh có bằng cớ gì để cho ÓBrien là một kẻ mưu phản chính trị ? Không có gì trừ một ánh mắt và chỉ một lời nhận xét nước đôi; ngoài ra chỉ có sự tưởng tượng thầm kín của chính anh, dựa trên một giấc mơ. Anh không còn lùi bước với cớ anh đến mượn từ điển được nữa, vì trong trường hợp này không tài nào giải thích được sự hiện diện của Julia. Khi ÓBrien đi qua máy truyền hình, một ý nghĩ hình như đập óc ông. Ông dừng chân, quay sang bên bấm một nút trên tường. Có một tiếng tách nhẹ. Giọng nói ngưng bặt.
Julia thốt lên một tiếng khẽ, một thứ tiếng ủa ngạc nhiên. Ngay trong cơn kinh hoàng, Winston quá bàng hoàng không giữ im được:
"Ông tắt được máy ư ?" anh hỏi.
"Phải," ÓBrien nói, "tôi tắt được nó. Chúng tôi có đặc quyền đó."
Bây giờ ông đối diện họ. Thân hình chắc nịch của ông át hẳn hai người, và sắc mặt ông vẫn khó đoán. Ông ta chờ Winston lên tiếng với một vẻ khá nghiêm trọng, nhưng nói gì đây ? Ngay lúc này vẫn có thể cho ông chỉ là một người bận rộn đang bực mình tự hỏi lý do nào xúi họ đến quấy rầy ông. Không ai nói gì. Từ lúc máy truyền hình tắt, căn phòng im lặng như tờ. Giây phút qua nhanh ghê gớm, Winston khó khăn lắm mới tiếp tục nhìn thẳng được vào mặt ÓBrien. Bỗng nhiên gương mặt nghiêm nghị dịu xuống gần như hé cười. Bằng cử chỉ đặc biệt của ông ta, ÓBrien chỉnh đốn lại cặp kính trên mũi.
"Để tôi nói hay anh nói ?" ông ta hỏi.
"Tôi xin nói," Winston nhanh miệng. "Cái của này có tắt thật không ?"
"Có, toàn máy bị tắt. Chúng ta một mình."
"Chúng tôi đến đây vì —"
Anh ngưng tiếng, lần đầu tiên ý thức ra sự mơ hồ của những động cơ thúc đẩy anh. Anh không biết thực ra anh mong đợi sự giúp đỡ gì nơi ÓBrien, khó nói được vì lẽ gì anh tới đây. Anh nói tiếp tuy hiểu rằng lời lẽ của anh có vẻ vừa yếu vừa tự phụ.
"Chúng tôi tin có một cuộc âm mưu, một thứ tổ chức mật hoạt động chống Đảng, và chúng tôi tin ông có chân trong đó. Chúng tôi muốn gia nhập và hoạt động cho tổ chức đó. Chúng tôi là kẻ thù của Đảng. Chúng tôi không tin vào các nguyên lý của Anh Xã. Chúng tôi là tội phạm tư tưởng. Chúng tôi còn là kẻ ngoại tình. Tôi khai hết cho ông vì chúng tôi muốn đặt mình trong tay ông. Nếu ông muốn chúng tôi lụy mình cách khác, chúng tôi xin sẵn sàng."
Anh ngưng bặt và nhìn qua vai với cảm giác cánh cửa vừa mở. Quả nhiên, người hầu mặt mũi da vàng nhỏ vóc không gõ cửa mà bước vào phòng. Winston thấy hắn bưng một chiếc khay đựng bình và cốc.
"Martin thuộc phe chúng ta," ÓBrien thản nhiên nói. "Mang khay lại đây, Martin. Đặt cả trên cái bàn tròn. Có đủ ghế không ? Vậy mình nên ngồi xuống nói chuyện cho tiện. Martin, anh hãy mang lại một chiếc ghế cho anh. Đây là công chuyện. Anh có thể ngưng đóng vai người hầu trong vòng mười phút."
Gã đàn ông nhỏ bé ngồi xuống, rất tự nhiên, nhưng vẫn giữ vẻ một ngưòi hầu, vẻ của một tên bồi được hưởng đặc ân. Winston liếc mắt nhìn hắn. Anh chợt nghĩ cả đời người đó phải đóng kịch, hắn thừa hiểu rằng từ bỏ vai trò đã chấp nhận dù chỉ một lát là một điều nguy hiểm. ÓBrien nắm cổ bình nhấc lên rót vào các cốc một chất nước đỏ thẫm. Nó gợi cho Winston ký ức lờ mờ của một vật đã thấy từ lâu lắm trên một bức tường hay bờ rào — một chai lớn hình dung bởi đèn điện tuồng như ngã lên ngã xuống rót vào một cốc chất chứa bên trong. Nhìn từ trên xuống chất nước gần như đen, nhưng trong bình nó sáng như ngọc hồng bào. Nó có một vị chua ngọt. Anh thấy Julia nâng cốc lên ngửi một cách tò mò rõ ràng.
"Đây là rượu vang," ÓBrien vừa nói vừa cười nhẹ. "Anh chị chắc đã được đọc về nó trong sách. Tôi e rất ít rượu vang tới tay Đảng Ngoài." Mặt ông nghiêm nghị trở lại và ông nâng cốc lên. "Theo tôi chúng ta nên trước tiên chúc rượu mừng. Cho thủ lãnh của chúng ta: Cho Emmanuel Goldstein."
Winston khá hăng hái nhấc cốc lên. Rượu vang là một thứ anh đã đọc và mơ tới. Như tấm chặn giấy thủy tinh hay bài hát nhớ nửa chừng của ông Charrington, nó thuộc về quá khứ lãng mạn đã tiêu tan, về cái thời xa xưa như anh thích gọi nó trong thâm tâm anh. Vì lẽ gì đó anh vẫn nghĩ tới rượu vang như một chất có vị tuyệt ngọt như mứt dâu tằm, và có hiệu quả làm say tức thì. Trên thực tế, khi anh nuốt nó, anh thấy chất ấy làm anh thất vọng rõ rệt. Sự thật là sau hàng năm uống rượu gin anh không thể nếm được rượu vang. Anh đặt cốc cạn xuống bàn.
"Vậy Goldstein là một ngưòi có thật ư ?" anh nói.
"Phải, ông có thật, và ông còn sống. Ở đâu thì tôi không biết."
"Còn cuộc âm mưu — tổ chức thì sao ? Có thật không ? Nó không phải là một sự bịa đặt của Cảnh Sát Tư Tưởng chứ ?"
"Không, nó có thật. Chúng tôi đặt tên nó là Hội Tình Thân. Anh chị sẽ không biết gì nhiều hơn về Hội Tình Thân ngoài sự nó có thật và anh chị ở trong đó. Chốc nữa tôi sẽ nhắc lại điều này." Ông nhìn vào đồng hồ đeo tay. "Tắt máy truyền hình hơn một nửa tiếng là một việc không nên ngay cả đối với thành viên Đảng Trong. Đáng nhẽ anh chị không được tới đây cùng nhau, khi về anh chị phải về riêng rẽ. Đồng chí đây" — ông gật đầu về phía Julia — "sẽ rời nơi này trước. Chúng ta có chừng hai mươi phút để bàn luận. Anh chị hiểu cho, tôi phải hỏi anh chị vài câu. Một cách tổng quát, anh chị sẵn sàng làm gì ?"
"Bất cứ gì chúng tôi có thể làm được," Winston nói.
ÓBrien đã xoay mình trong ghế để đối diện Winston. Ông gần như không để ý đến Julia, coi như tất nhiên Winston có thể nói thay nàng. Ông chớp mí một lúc. Rồi ông bắt đầu hỏi bằng một giọng thiếu diễn cảm như thể đó là một việc quen thuộc, một bài giáo lý mà những lời đáp phần đông đã được biết trước.
"Anh chị có sẵn sàng hy sinh tính mạng mình không ?"
"Có."
"Anh chị có sẵn sàng giết người không ?"
"Có."
"Sẵn sàng phá hoại có thể khiến cho hàng trăm kẻ vô tội chết không ?"
"Có."
"Sẵn sàng lừa dối, giả mạo, dọa nạt, hủ hóa óc trẻ con, phát độc dược làm người ta nghiện, khuyến khích mãi dâm, truyền bệnh hoa liễu — làm bất cứ điều gì có thể gây sự mất tinh thần và thuyên giảm uy quyền của Đảng không ?"
"Có."
"Tỷ dụ, nếu để có cơ phục vụ quyền lợi của chúng ta, phải tạt lưu toan vào mặt một đứa trẻ — anh chị có sẵn sàng làm không ?"
"Có."
"Anh chị có sẵn sàng mất căn cước và sống chuỗi đời còn lại như một người hầu bàn hay một phu bến tàu không ?"
"Có."
"Anh chị có sẵn sàng tự tử, nếu và khi chúng tôi ra lệnh không ?"
"Có."
"Cả hai có sẵn sàng xa nhau và không bao giờ gặp nhau trở lại không ?"
"Không !" Julia buột miệng.
Winston có cảm tưởng thời gian trôi lâu trước khi anh trả lời. Trong một lát anh tựa như mất cả khả năng nói lên lời. Lưỡi anh cử động không ra tiếng, cố lập lên âm tiết của chữ này đến âm tiết của của chữ khác, lập đi lập lại. Cho tới khi anh nói ra được, anh không biết mình sắp nói gì. "Không," anh tận cùng nói.
"Anh chị cho tôi biết vậy là phải," ÓBrien bảo. "Chúng tôi cần rõ mọi điều."
Ông quay lại phía Julia và nói thêm bằng một giọng diễn cảm hơn:
"Chị có hiểu rằng nếu anh ấy sống sót, anh ấy có thể trở thành một người khác hẳn không ? Chúng tôi có thể bó buộc phải cho anh ấy một căn cước khác. Mặt mũi, cử chỉ, hình tay, màu tóc — ngay cả giọng nói cũng có thể khác. Và chính chị cũng có thể trở thành một người khác. Giải phẫu gia của chúng tôi có thể cải dạng người đến độ không nhận diện ra. Có khi cần phải làm vậy. Có khi chúng tôi phải cắt cụt chân tay."
Winston không dằn được lòng liếc một lần nữa vào khuôn mặt Mông Cổ của Martin. Anh không thấy một vết sẹo nào trên đó. Sắc mặt Julia lạt ra làm nổi bật vết tàng nhan của nàng, nhưng nàng bạo dạn đương đầu với ÓBrien.
"Tốt. Thế là quyết định xong."
Có một hộp thuốc lá bằng bạc trên bàn. Một cách lơ đãng, ÓBrien đẩy thuốc lá về phía mấy người khác; chính ông cầm một điếu lên, rồi đứng dậy bắt đầu chậm chạp đi đi lại lại như thể đi đứng ông suy nghĩ được hơn. Thuốc lá rất ngon, thật dày và cuốn chắc, có giấy bọc mịn khác thường. ÓBrien nhìn đồng hồ đeo tay một lần nữa.
"Martin, anh nên trở vào gian hầu dọn," ông ta nói. "Tôi sẽ bật máy lại khoảng mười lăm phút nữa. Anh hãy nhìn kỹ mặt hai đồng chí này trước khi ra khỏi đây. Anh sẽ gặp lại họ. Tôi thì không thể gặp lại được."
Hệt như lúc ở ngoài cửa nhà, đôi mắt đen của người đàn ông nhỏ bé lướt trên mặt họ. Không có một dấu thân thiện nào hiện trong điệu bộ của hắn. Hắn ghi nhớ hình dáng họ, nhưng hắn không thấy hay không có vẻ thấy họ đáng lưu tâm đến. Winston chợt nghĩ rằng một gương mặt hóa hợp có lẽ không thể đổi sắc. Không nói hay không chào hỏi gì, Martin ra ngoài, lặng lẽ đóng cửa sau hắn. ÓBrien vẫn đi lên đi xuống, một tay thọc trong túi bộ áo liền quần, một tay cầm điếu thuốc lá.
"Anh chị phải hiểu rằng anh chị sẽ tranh đấu trong bóng tối," ông nói. "Anh chị sẽ luôn luôn ở trong bóng tối. Anh chị sẽ nhận lệnh và sẽ phải tuân theo dù không biết lý do. Sau này tôi sẽ gửi cho anh chị một cuốn sách giảng dạy bản chất thực thụ của xã hội trong đó chúng ta sống, cùng chiến lược mà chúng ta theo để phá hủy nó. Khi đọc xong sách, anh chị sẽ là hội viên trọn vẹn của Hội Tình Thân. Nhưng giữa các mục tiêu đại cương mà chúng ta nhằm và những phận sự tức thời, anh chị sẽ không bao giờ biết gì. Tôi bảo anh chị Hội Tình Thân có thật, nhưng tôi không thể cho anh chị hay số hội viên là một trăm hay mười triệu. Dựa trên kinh nghiệm riêng của anh chị, anh chị sẽ không bao giờ nói nổi Hội có tới một tá người hay không. Anh chị sẽ có ba bốn liên lạc viên, những người đó có thể thay đổi trong trường hợp họ mất tích. Vì anh chị tiếp xúc với tôi để bắt liên lạc, sự tiếp xúc này sẽ được duy trì. Khi anh chị nhận lệnh, lệnh đó sẽ là do tôi phát. Nếu chúng tôi thấy cần phải liên lạc với anh chị, chúng tôi sẽ qua trung gian của Martin. Khi rốt cuộc anh chị bị bắt, anh chị sẽ thú tội. Điều đó không thể tránh được. Nhưng anh chị sẽ có rất ít điều để khai ngoài hành động của chính anh chị. Anh chị sẽ không thể phản được quá một nắm người không quan trọng. Có lẽ ngay tôi anh chị cũng sẽ không phản được. Từ giờ tới đó, tôi có thể đã chết, hay đã biến thành một người khác, với một khuôn mặt khác."
Ông tiếp tục đi đi lại lại trên tấm thảm êm. Mặc dầu thân hình của ông vạm vỡ, cử động của ông có một vẻ duyên dáng đặc biệt. Nó phát hiện ngay trong cử chỉ thọc tay vào túi hay cầm điếu hút của ông. Hơn cả sức mạnh, ông gây ấn tượng của sự tự tín và trí thông minh pha chút mỉa mai. Dù hăng say thế nào, ông không hề có óc định kiến của kẻ cuồng tín. Khi ông nói về ám sát, tự tử, bệnh hoa liễu, tay chân cắt cụt, mặt mũi biến đổi, lời ông có một vẻ chế giễu nhẹ. "Điều này không thể tránh được," giọng ông hình như nói; "đấy là điều mình phải làm, không được núng lòng. Nhưng đó không phải là điều chúng ta sẽ làm khi đời đáng sống trở lại." Một luồng cảm phục gần như tôn thờ trào từ Winston về phía ÓBrien. Lúc này anh quên bẵng hình ảnh rầu rĩ của Goldstein. Khi nhìn vào đôi vai lực lưỡng và gương mặt cứng nét vừa xấu xí mà vừa lịch sự của ÓBrien, không thể tin được rằng ông ta có thể thất bại. Không một mưu kế nào mà ông không đương đầu nổi, không một nguy cơ nào mà ông không tiên đoán ra. Ngay Julia hầu như cũng bị xúc động. Nàng đã rút thuốc lá ra khỏi miệng và chăm chú nghe. ÓBrien nói tiếp:
"Anh chị đã được nghe tin đồn về Hội Tình Thân. Chắc hẳn anh chị đã có một ý niệm về nó. Có lẽ anh chị mường tượng một tổ chức mưu phản ngầm rộng lớn với các hội viên bí mật gặp nhau trong hầm, nguệch ngoạc tin tức trên tường, nhận ra nhau nhờ mật mã hay cử chỉ đặc biệt. Không có trò như vậy. Các hội viên Hội Tình Thân không có cách nào nhận ra nhau và không một hội viên nào biết được căn cước của hơn vài ngưòi khác. Ngay Goldstein, nếu rơi vào tay Cảnh Sát Tư Tưởng, cũng không thể cho chúng một danh sách hội viên đầy đủ hay tin tức gì có thể dẫn tới danh sách đó. Không có một thứ danh sách như vậy. Hội Tình Thân không thể bị tiêu diệt vì không phải là một tổ chức theo nghĩa thường. Không có gì kết hợp Hội trừ một lý tưởng không thể bị hủy diệt. Ngoài lý tưởng anh chị sẽ không nương tựa được vào đâu. Anh chị sẽ không có bạn bè và sẽ không có người khích lệ. Sau cùng, khi anh chị bị bắt, anh chị sẽ không được giúp đỡ. Chúng tôi không bao giờ giúp đỡ hội viên. Quá lắm, nếu nhất thiết phải khóa khẩu tù nhân nào, chúng tôi có thể cho đem lẻn dao cạo vào xà lim họ. Anh chị sẽ phải tập sống không kết quả và không hy vọng. Anh chị sẽ làm việc một thời gian, anh chị sẽ bị bắt, anh chị sẽ thú tội, và anh chị sẽ chết. Đó là kết quả duy nhất anh chị sẽ thấy được. Không thể có một sự thay đổi nhận thấy được nào xảy ra trong sinh thời của chúng ta. Chúng ta là kẻ chết. Đời sống thực sự duy nhất của chúng ta nằm trong tương lai. Chúng ta sẽ tham gia thời ấy dưới hình thức nắm bụi hay mảnh xương vụn. Nhưng tương lai ấy còn bao xa, không tài nào biết được. Có thể là một ngàn năm nữa. Hiện tại không thể làm gì hơn việc nới rộng dần dần khu vực tinh thần lành mạnh. Chúng ta không thể hoạt động tập thể. Chúng ta chỉ có thể truyền bá sự hiểu biết của chúng ta, từ cá nhân cho cá nhân, hết thế hệ này đến thế hệ khác. Đối đầu với Cảnh Sát Tư Tưởng không có cách gì khác."
Ông ngưng tiếng và nhìn lần thứ ba vào đồng hồ đeo tay.
"Sắp tới giờ đồng chí phải đi," ông nói với Julia. "Đợi chút. Bình rượu còn đầy nửa."
Ông rót đầy ba cốc và cầm chân cốc của ông nâng lên.
"Lần này chúc mừng gì đây ?" ông nói vẫn với chút mỉa mai nhẹ. "Chúc cho Cảnh Sát Tư Tưởng bị bối rối ? Chúc cho Bác chết ? Chúc cho nhân loại ư ? Chúc cho tương lai ?"
"Chúc cho quá khứ," Winston nói.
"Quá khứ quan trọng hơn," ÓBrien trịnh trọng tán thành.
Họ uống cạn cốc và một lát sau Julia đứng dậy ra về. ÓBrien lấy từ trên nóc tủ nhiều ngăn một hộp nhỏ và đưa cho nàng một viên trắng bẹt dặn nàng để nó trên lưỡi. Ông nói, cốt yếu là ra ngoài không được bốc mùi rượu vang: các tên hầu thang máy rất có óc quan sát. Cánh cửa vừa đập sau lưng nàng, ông tuồng như đã quên sự hiện hữu của nàng. Ông bước đi bước lại một hai lần nữa rồi dừng chân.
"Có vài chi tiết cần được giải quyết," ông nói. "Tôi phỏng đoán anh có một nơi trú ẩn chứ ?"
Winston giải thích về căn phòng trên tiệm của ông Charrington.
"Thế hiện được. Sau này chúng tôi sẽ thu xếp một nơi khác cho anh. Thay đổi luôn luôn chỗ ẩn là một điều quan trọng. Trong khi chờ đợi tôi sẽ gửi cho anh càng sớm cành hay một bản quyển sách" — ngay ÓBrien, Winston để ý, hình như cũng phát âm từ đó như thể nó là chữ nghiêng — "sách của Goldstein ấy mà. Phải vài ngày nữa tôi mới kiếm được ra một bổn. Không còn mấy quyển tồn tại, như anh có thể đoán. Chúng tôi chưa xuất bản xong sách, Cảnh Sát Tư Tưởng đã truy tầm kịp và tiêu hủy nó. Không hề gì mấy. Quyển sách không thể bị hủy diệt. Nếu bản cuối mất đi, chúng tôi có thể sao lại sách gần như từng chữ một. Anh có mang cặp đi làm không ?" ông nói thêm.
"Bình thường, có."
"Nó như thế nào ?"
"Đen, cũ rích. Có hai đai."
"Đen, hai đai, cũ rích — tốt. Có ngày khá gần đây — tôi không cho được rõ ngày — một trong những mẩu tin thuộc công việc anh sẽ gồm một chữ in sai và anh sẽ phải xin một bản khác. Ngày hôm sau anh sẽ không mang cặp đi làm. Ngày hôm đó, sẽ có lúc ở ngoài phố có người đụng vào tay anh và nói: "Thiết tưởng ông đánh rơi cặp của ông". Chiếc cặp người ta đưa cho anh sẽ đựng một bản sách của Goldstein. Anh sẽ trả lại sách nội mười bốn ngày."
Họ im lặng một hồi.
"Còn hai phút nữa anh phải đi," ÓBrien nói. "Chúng ta sẽ gặp lại nhau — nếu chúng ta phải gặp lại nhau —"
Winston ngước mắt nhìn ông. "Tại nơi không có bóng tối ?" anh do dự nói.
ÓBrien gật đầu không lộ vẻ ngạc nhiên. "Tại nơi không có bóng tối," ông lập lại làm như ông đã nhận ra lời ám chỉ. "Trong khi chờ đợi, anh có điều gì muốn nói trước khi ra đi không ? Có nhắn gì không ? Có hỏi gì không ?"
Winston suy nghĩ. Cơ hồ không còn điều gì anh muốn hỏi: anh lại càng không có ý định thốt ra những lời khái luận kêu to rỗng tuếch. Thay vì một sự liên quan trực tiếp tới ÓBrien hay Hội Tình Thân, hiện ra trong óc anh hình ảnh lẫn lộn của căn phòng đen tối nơi mẹ anh sống chuỗi ngày cuối cùng của bà, với căn phòng nhỏ trên cửa tiệm của ông Charrington, cùng tấm chặn giấy thủy tinh và bức tranh khắc thép trong khung gỗ trắc. Gần như ngẫu nhiên anh hỏi:
"Liệu ông có biết một bản nhạc xưa bắt đầu bằng ""Cam với chanh, chuông Thánh Clement reo"" không ?"
Lại nữa ÓBrien gật đầu. Với một điệu phong nhã trịnh trọng ông đọc hết đoạn thơ:
Cam với chanh, chuông Thánh Clement reo,
Anh nợ tôi ba xu, chuông Thánh Martin reo,
Khi nào anh trả tôi ? chuông Già Bailey reo,
Khi nào tôi giàu có, chuông Shoreditch reo.
"Ông biết câu cuối !" Winston nói.
"Phải, tôi biết câu cuối. Và bây giờ tôi e là lúc anh phải về. Nhưng đợi chút. Anh nên để tôi cho anh một viên này."
Khi Winston đứng dậy, ÓBrien giơ tay ra. Nắm tay mạnh mẽ của ông bóp nát xương lòng tay anh. Tới cửa Winston ngoảnh mặt nhìn lại, nhưng ÓBrien hầu như sắp gạt anh ra khỏi tâm trí. Ông đứng đợi, tay đặt trên nút bấm chỉ huy máy truyền hình. Qua mình ông, Winston có thể thấy cái bàn giấy với ngọn đèn có chao xanh lục, máy ghi âm và sọt lưới đầy ngập giấy. Sự kiện đã kết thúc. Nội ba mươi giây nữa, anh chợt nghĩ, ÓBrien sẽ vì Đảng trở về với công việc quan trọng bị bỏ dở.
Winston keo người vì mệt. Dùng chữ keo là đúng. Từ đó nảy tự nhiên trong óc anh. Thân hình anh tuồng như không những nhũn như keo mà còn trong suốt giống keo nũa. Anh có cảm tưởng nếu anh giơ tay lên cao anh sẽ nhìn được ánh sáng xuyên qua nó. Hồng và bạch huyết của anh đã rút hết khỏi người anh vì sự làm việc quá lạm, chỉ chừa lại một cấu trúc mảnh dẻ gồm thần kinh, xương và da. Các cảm giác của anh hình như bị phóng đại. Bộ áo liền quần của anh cưa vai anh, mặt đưòng lát cào chân anh, ngay cả sự khép hay mở tay ra cũng là một sự cố gắng làm các khớp xương tay kêu rắc.
Anh đã làm việc hơn chín mươi tiếng trong năm ngày. Ai ở trong Bộ cũng làm việc như vậy. Nay việc đã xong và anh hoàn toàn không có gì để làm, không có việc Đảng nào trước sáng mai. Anh có thể đến ở sáu tiếng nơi chỗ trú ẩn và về nhà nằm giường chín tiếng. Dưới nắng chiều dịu, anh bước chân chậm chạp trên một con phố tồi tàn về phía cửa tiệm ông Charrington, một mắt canh chừng các đội tuần tra, tuy tin một cách phi lý trong lòng rằng chiều nay không có nguy có kẻ phiền nhiễu anh. Chiếc cặp nặng mà anh đang xách dập vào đầu gối anh mỗi khi anh bước, truyền từ trên xuống dưới da cẳng anh một cảm giác ngứa ngáy. Trong cặp là Quyển sách anh giữ từ sáu ngày nay nhưng chưa mở ra, chưa cả nhìn nữa.
Vào ngày thứ sáu của Tuần Lễ Hận Thù, sau các đám rước, các bài diễn văn, sau các trò hô hào, hát xướng, biểu ngữ, bích chương, phim ảnh, hình sáp, lăn trống, tru kèn, dậm chân thình thịch, sau xích xe tăng kèn kẹt, đoàn máy bay ồ ồ, súng pháo ầm ĩ — sau sáu ngày như vậy, khi đại nhục khoái bập bùng tới điểm cực lạc và nỗi oán hận chung đối với Âu Á sôi điên cuồng đến độ nếu đám đông tóm được cả hai ngàn tên tội phạm chiến tranh Âu Á sẽ bị xử treo trước công chúng vào ngày cuối quá trình, thế nào họ cũng sẽ xé tan xác chúng — đúng lúc ấy có tin sau rót Đại Dương không đánh nhau với Âu Á. Đại Dương đánh nhau với Đông Á. Âu Á là đồng minh.
Dĩ nhiên, không có lời công nhận nào về một sự thay đổi đã xảy ra. Chỉ thấy, bỗng thình lình lập tức khắp nơi, có tin Đông Á chứ không phải là Âu Á là kẻ thù. Winston đang tham gia một cuộc biểu tình tại một quảng trường ở trung tâm Luân Đôn khi sự kiện diễn biến. Lúc đó vào đêm, các khuôn mặt trắng và cờ xí đỏ sáng nhợt dưới đèn. Quảng trường đông nghẹt hàng ngàn người, kể cả một khu gồm khoảng một nghìn học sinh trong y phục của Đoàn Gián Điệp. Trên một bục phủ vải đỏ, một diễn giả thuộc Đảng Trong, một người đàn ông nhỏ gầy có tay dài quá khổ và một cái đầu to trên đó lún phún vài mớ tóc rễ tre, đang hô hào dân chúng. Như một người nộm nhỏ bé queo lại vì căm hờn, hắn đưa một tay nắm chặt cổ máy ghi âm, trong khi tay kia, kếch xù cuối một cánh tay xương xẩu, cào hăm dọa không khí trên đầu hắn. Giọng hắn đanh kim qua máy phóng thanh, gầm ra một bảng kê khai bất tận kể lể những sự ác nghiệt, giết chóc, giam đày, cướp bóc, hiếp hãm, tra tấn tù binh, oanh tạc thường dân, tuyên truyền dối trá, tấn công vô cớ, vi phạm thỏa ước. Nghe hắn nói hầu như không thể không bị thuyết phục và điên tiết lên. Cứ chốc chốc sự cuồng nhiệt của đám đông lại sôi lên sùng sục và tiếng của diễn giả bị chìm dưới tiếng thú dại gầm hét không kềm nổi bật ra từ hàng ngàn cuống họng. Những tiếng hét man dại nhất thoát ra từ đám học sinh. Bài diễn văn kéo dài được chừng hai mươi phút thì có một người đưa tin chạy đến bục nhét một mẩu giấy vào tay diễn giả. Hắn mở giấy ra đọc nhưng không ngưng diễn thuyết. Không có gì thay đổi trong giọng nói hay điệu bộ hắn cũng như trong nội dung câu văn hắn, nhưng đột nhiên danh tính khác hẳn. Không có lời giải thích nhưng sự hiểu biết lan trong đám đông. Đại Dương đánh nhau với Đông Á ! Phút chốc có một cuộc chấn động lớn. Các cờ xí và bích chương trang hoàng quảng trường đều sai cả ! Gần nửa vẽ mặt sai. Có sự phá hoại ! Cán bộ của Goldstein ra tay đó ! Thể là có một gian khúc náo động để giật bích chương khỏi tường, để xé và giẫm nát cờ xí. Đoàn Gián Điệp trổ tài lạ trong việc trèo lên mái nhà cắt cờ đuôi nheo phất phơ trên ống khói. Nhưng nội hai ba phút cuộc náo động chấm dứt. Một tay nắm chặt cổ máy ghi âm, vai ấn mình về phía trước, tay rảnh cào không khí, diễn giả từ nẫy vẫn tiếp tục diễn thuyết. Phút sau, những tiếng gầm giận dữ hung bạo lại bật lên từ đám đông. Cơn Hận Thù tiếp tục y như trước ngoại trừ sự thay đổi đối tượng.
Điều làm Winston xúc động khi nghĩ lại là việc diễn giả nhảy từ đường lối này sang đường lối khác giữa câu, mà không ngập ngừng, không cả phạm cú pháp. Nhưng lúc đó anh có nhiều chuyện bận lòng hơn. Đương lúc lộn xộn khi bích chương bị xé giật, có một người đàn ông anh không rõ mặt đập tay vào vai anh và nói: "Xin lỗi, dường như ông đã đánh rơi chiếc cặp này." Không nói gì, anh lơ đãng cầm lấy cặp. Anh biết phải lâu ngày nữa anh mới có cơ hội nhìn vào trong đó. Khi cuộc biểu tình chấm dứt anh trở về Bộ Sự Thật mặc dầu lúc ấy đã gần hai mươi ba giờ. Toàn thể nhân viên trong Bộ đều làm vậy. Lệnh đã ra trên máy truyền hình gọi họ về nơi làm việc gần như không cần thiết.
Đại Dương đánh nhau với Đông Á: Đại Dương vẫn đánh nhau với Đông Á. Một phần lớn văn thư chính trị từ năm năm nay bây giờ đâm thành hoàn toàn hủ lậu. Các bản tường trình và tài liệu các loại, báo chí, sách vở, văn đả kích, phim, băng đĩa, hình ảnh, mọi thứ phải được cấp tốc sửa lại. Tuy không có chỉ thị, ai cũng biết rằng các trưởng Cục muốn nội một tuần không một chứng cứ nào về chiến tranh với Âu Á hay hiệp ước với Đông Á được tồn tại bất cứ đâu. Công việc nặng nhọc, nhất là vì thêm vào đó không được gọi đúng tên quá trình phải thực hiện. Ai ở trong Cục Văn Khố cũng làm việc mười tám trên hai mươi tư tiếng với hai đoạn giấc ba tiếng. Nệm được khiêng lên từ hầm trải khắp hành lang: cơm nước gồm bánh mì kẹp nhân và cà phê Chiến Thắng do nhân viên quán ăn đẩy xe mang tới. Mỗi lần ngưng tay vì tới phiên anh đi ngủ, Winston cố thu xếp cho không còn việc trên bàn, nhưng khi anh bò về bàn với mắt còn dính và người nhức mỏi, đã thấy một xấp cuốn giấy phủ bàn anh như một đống tuyết, vùi nửa chừng máy ghi âm và tràn xuống sàn, thành thử công việc đầu tiên của anh bao giờ cũng là sắp giấy lại thành chồng ngăn nắp để có chỗ làm việc. Điều ngán nhất là công việc không đơn thuần máy móc chút nào. Có khi chỉ cần thay tên này vào tên khác, nhưng bản tường trình nào cũng đòi hỏi sự cẩn thận và trí tưởng tượng. Ngay tầm hiểu biết về địa dư để chuyển chiến tranh từ địa phương này sang địa phận khác cũng cần phải lớn lao.
Ngày thứ ba mắt anh đau không thể chịu được và cứ vài phút anh lại phải lau kính. Cơ hồ anh đang đương đầu với một công việc thể chất nặng nề, một việc anh có quyền từ chối, song le anh cứ bồn chồn lo lắng hoàn tất nó. Theo như bấy nhiêu anh nhớ, anh không bị xúc động bởi sự mỗi chữ anh thì thầm trong máy ghi âm, mỗi dấu bút mực của anh là một điều quyết ý giả dối. Như mọi người khác trong Cục anh chỉ lo cho sự giả mạo được hoàn hảo. Vào sáng ngày thứ sáu mức tuôn cuộn giấy giảm xuống. Trong đến một nửa tiếng không có gì tuột ra khỏi ống; rồi thêm một cuộn, rồi không thấy gì. Khắp nơi khoảng cùng một lúc công việc nhẹ đi. Một hơi thở dài tuy thầm kín lan khắp Cục. Một công chuyện khổng lồ không bao giờ được nhắc tới đã kết thúc. Bây giờ không một ai có thể dẫn chứng bằng tài liệu sự chiến tranh với Âu Á đã từng xảy ra. Tới mười hai trăm có thông cáo bất ngờ cho phép mọi nhân viên trong Bộ được nghỉ tới sáng hôm sau. Winston về nhà, xách theo chiếc cặp được anh kẹp giữ dưới chân khi làm việc và đặt dưới người khi đi ngủ, cạo râu, rồi suýt ngủ gật trong khi tắm mặc dầu nước chẳng ấm gì.
Khớp xương anh bẻ rắc một cách thú vị khi anh leo cầu thang lên gác cửa tiệm ông Charrington. Anh mệt mỏi nhưng không còn buồn ngủ nữa. Anh mở cửa sổ ra, châm cái bếp dầu nhỏ bẩn, và đặt một xoong nước để làm cà phê lên. Julia sắp sửa tới. Trong khi chờ đợi có Quyển sách. Anh ngồi xuống cái ghế bành cũ rích và tháo đai cặp ra.
Một quyển sách dày đen, do một người không chuyên nghề đóng, không có tên tác giả hay nhan đề ngoài bìa. Chữ in cũng có vẻ không đều mấy. Trang bị nhàu ở mép và dễ rách rời làm như cuốn sách đã qua nhiều tay. Câu đề ghi trên trang đầu như sau:
LÝ THUYẾT VÀ THỰC HÀNH CỦA
CHỦ NGHĨA TẬP THỂ QUẢ ĐẦU
do
Emmanuel Goldstein soạn
Winston bắt đầu đọc:
Chương I: Sự ngu xuẩn là sức mạnh
Suốt lịch sử, và có lẽ từ thời đại Tân thạch khí, có ba loại dân trên thế giới, loại Thượng, loại Trung và loại Hạ. Những loại đó phân ra nhiều chi có không biết bao tên khác nhau, và thành phần của mỗi loại cũng như thái độ của mỗi loại đối với nhau, thay đổi từ thời này sang thời kia: nhưng cơ cấu cốt yếu của xã hội không bao giờ biến chất. Ngay cả sau các vụ đột khởi và các biến đổi bất khả truất bãi, cấu trúc cũ luôn luôn tự tái lập, hệt như máy quay hồi chuyển luôn luôn quay về thế thăng bằng, dù bị đẩy xa đến đâu về phía này hay phía kia.
Mục đích của các nhóm đó hoàn toàn không dung hòa được với nhaụ..
Winston ngưng đọc, đặc biệt để thưởng thức sự anh đang đọc trong cảnh tiện nghi an toàn. Anh có một mình: không có máy truyền hình, không có tai áp sau lỗ khóa, không có xung động thần kinh làm anh liếc nhìn sau vai hay lấy tay che trang giấy. Khí hạ dịu mơn trớn má anh. Từ đâu đó đằng xa khẽ vọng lại tiếng la của trẻ nhỏ: ngay trong phòng không có tiếng động nào ngoài tiếng sâu bọ của đồng hồ. Anh lùn người sâu hơn vào chiếc ghế bành và đặt chân trên tấm chắn lò sưởi. Đây là đại hạnh, đây là đời đời. Bỗng nhiên, như ngưòi ta thường làm với một cuốn sách mình biết cuối cùng mình sẽ đọc đi đọc lại từng chữ, anh giở sách sang trang khác vào đúng chương III. Anh tiếp tục đọc:
Chương III: Chiến tranh là hòa bình
Sự phân chia thế giới ra làm ba siêu quốc là một sự kiện có thể và đã được tiên đoán trước giữa thế kỷ hai mươi. Với sự sát nhập Âu Châu vào Nga và Đế quốc Anh vào Hoa Kỳ, hai trong ba cường quốc hiện hữu, Âu Á và Đại Dương, đã thực sự thai nghén. Cường quốc thứ ba, Đông Á, chỉ xuất hiện như một nước thống nhất sau thêm mười năm rối ren. Ranh giới giữa ba siêu quốc được định một cách độc đoán tại vài nơi, di động theo vận mệnh chiến tranh tại nơi khác, nhưng nói chung nó tùy theo tuyến đường địa dư. Âu Á gồm toàn thể bắc phần Âu Châu và đại thổ Á Châu, từ Bồ Đào Nha đến eo biển Behring. Đại Dương gồm Mỹ Châu, các đảo Đại Tây Dương kể cả quần đảo Anh, Úc Châu và phần nam Phi Châu. Đông Á nhỏ hơn hai nước kia và có ranh giới mé tây kém phần đích xác, bao gồm Trung Hoa và các xứ phía nam, quần đảo Nhật Bản, và một phần đất lớn tuy hay di dịch của Mãn Châu, Mông Cổ và Tây Tạng.
Kết hợp thế này hay thế khác, ba siêu quốc luôn luôn đánh nhau và cứ thế từ hai mươi nhăm năm nay. Song le, chiến tranh không còn là cuộc chiến tuyệt vọng mòn mỏi như nó từng như vậy trong mấy chục năm đầu thế kỷ hai mươi. Đây là một cuộc chiến có mục tiêu hạn định giữa những địch thủ không thể tiêu diệt được nhau, không có lý do cụ thể để đánh nhau, không bị chia rẽ bởi một sự khác biệt chủ nghĩa xác thực nào. Thế không có nghĩa là sự điều khiển chiến tranh hay thái độ ưu thắng đối với nó kém tàn bạo hay hào hiệp hơn. Ngược lại, chứng cuồng chiến tiếp diễn và thịnh hành khắp nơi, và những hành động như hãm hiếp, cướp bóc, giết trẻ con, biến toàn cư dân thành nô lệ, trả thù tù binh tới mức đun sôi, chôn sống họ, được coi như bình thường và đáng khen thưởng nếu do quân phe mình thay vì phe địch phạm phải. Nhưng trên thực tế, chiến tranh liên hệ tới rất ít người, phần đông là chuyên viên được huấn luyện kỹ càng, và tương đối gây ít thiệt hại. Trận đánh, nếu có, xảy ra tại một vùng biên giới mù mịt mà thường dân chỉ đoán được ra nơi chốn, hay quanh các Pháo Đài Nổi canh giữ những điểm chiến lược trên đường biển. Tại các trung tâm khai hóa, chiến tranh không có nghĩa gì ngoài một sự khan hiếm hàng hóa liên tục, và sự đôi khi bom lửa làm vài chục người chết. Chiến tranh thực ra đã đổi chất. Đúng hơn, những lý do gây ra chiến tranh đã đổi thứ tự quan trọng. Những duyên cớ từng có mặt ở một mức độ nhỏ trong các cuộc đại chiến hồi đầu thế kỷ hai mươi, nay trội hẳn, được công nhận và được tính đến trong hành động.
Muốn hiểu bản chất của chiến tranh hiện tại — vì mặc dầu sự thay đổi liên minh xảy ra cứ vài năm một, nó lúc nào cũng vậy — phải ý thức rằng nó không thể có tính cách quyết định. Không một trong ba siêu quốc nào có thể bị xâm chiếm hẳn dù bởi cả hai nước kia hợp nhau lại. Ba nước quá ngang nhau và các phương tiện phòng thủ thiên nhiên của cả ba quá lớn lao. Âu Á được che chở bởi khoảng đất rộng rãi của nó, Đại Dương bởi sự bao la của Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, Đông Á bởi khả năng sinh sản và sự cần mẫn của dân bản xứ. Sau đó, cụ thể ra, không còn gì đáng được tranh đấu cho nữa. Với sự thành lập kinh tế tự túc trong đó sản xuất và tiêu thụ được gắn liền nhau, sự tranh giành thị trường là lý do chính của các cuộc chiến trước kia nay không còn nữa, đồng thời sự tranh đoạt nguyên liệu hết là một vấn đề sống chết. Vả lại, siêu quốc nào cũng đủ lớn để có thể thu được hầu hết vật liệu cần thiết trong ranh giới mình. Nếu bảo rằng chiến tranh phải có một mục tiêu kinh tế trực tiếp, thì đây là một cuộc chiến giành nhân công. Giữa ranh giới của ba siêu quốc, không thuộc lâu bất cứ siêu quốc nào, có một khu đại khái hình bốn cạnh với góc đặt trên Tanger, Brazzaville, Darwin và Hồng Kông, gồm một phần năm dân số thế giới. Chính vì quyền sở hữu trên các vùng đông dân cư đó và trên vùng mũi đá bắc cực mà ba siêu quốc luôn luôn đánh nhau. Trên thực tế không một cường quốc nào kiểm soát được toàn thể vùng tranh giành. Nhiều phần vùng đó luôn luôn đổi chủ, và chính thói thừa cơ lừa đánh để chiếm mảnh đất này hay mảnh đất kia xui nên sự thay đổi vô tận đồng minh.
Các đất đai tranh giành chứa đựng nhiều khoáng vật quý giá, một vài vùng sản xuất nhiều thực vật quan trọng, ví như cao xu, một chất mà các xứ có khí hậu lạnh phải hóa hợp bằng phương pháp so ra tốn kém hơn. Nhưng trên hết, các vùng đó có một trữ lượng nhân công rẻ tiền. Cường quốc nào kiểm soát được vùng xích đạo Phi Châu hay các xứ Trung Đông hoặc Nam Ấn Dộ, hay bán đảo Nam Dương, đương nhiên được sử dụng hàng chục hay trăm triệu cu li ăn ít lương mà làm việc nặng nhiều. Dân cư các vùng ấy bị dồn công khai ít nhiều vào cảnh nô lệ, không ngớt qua tay hết kẻ chinh phục này đến kẻ chinh phục kia, và bị đẩy như thể than dầu vào cuộc tranh đua sản xuất nhiều binh khí hơn, chiếm đóng nhiều đất đai hơn, kiểm soát nhiều nhân công hơn, và cứ như vậy mãi mãi. Phải lưu ý rằng cuộc chiến không bao giờ thực sự di dịch ngoài lề vùng tranh giành. Biên giới của Âu Á chạy qua chạy lại giữa bồn Congo và bờ bắc Địa Trung Hải; các đảo Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương bị luôn luôn chiếm đi chiếm lại bởi Đại Dương hay Đông Á; tại Mông Cổ ranh giới giữa Âu Á và Đông Á không bao giờ vững; quanh Bắc Cực cả ba cường quốc đều sách hoàn nhiều đất đai rộng lớn phần đông không có người ở và chưa được ai thám hiểm: nhưng cán cân quyền lực vẫn luôn luôn gần thế quân bình, và lãnh thổ nằm trong trung địa của mỗi siêu quốc không bao giờ bị xâm phạm. Lại nữa, sức lao động của các dân cư bị bóc lột quanh Xích Đạo không thực cần thiết cho kinh tế thế giới. Nó không thêm gì vào tài sản thế giới vì những thức gì nó sản xuất cũng bị dùng vào chiến tranh, và mục tiêu của chiến tranh bao giờ cũng là chiếm ưu thế để giao một cuộc chiến khác. Qua sức lao động của họ, các quần dân nô lệ giúp cho tốc độ chiến tranh liên tục gia tăng. Nhưng nếu không có họ, thực chất cơ cấu xã hội thế giới và tiến trình khiến nó tự duy trì sẽ chẳng đổi khác.
Mục đích đầu tiên của chiến tranh hiện đại (theo nguyên tắc ý đôi, mục đích này vừa được công nhận vừa không được công nhận bởi các đầu não chỉ đạo thuộc Đảng Trong) là tận dụng các sản phẩm của guồng máy tuy không nâng cao mức sống tổng quát. Ngay từ hồi cuối thế kỷ mười chín, vấn đề phải thanh toán thặng số hàng tiêu thụ tiềm tàng trong xã hội công nghiệp. Ngày nay, khi ít người có đủ ăn, vấn đề đó hiển nhiên không còn cấp bách, và nó không thể trở thành cấp bách dù không phương thức tàn phá giả tạo nào được thi hành. Thế giới ngày nay là một chốn trống trơn, đói khát, hoang tàn, so với thế giới thời trước năm 1914, và càng thế hơn khi so với tương lai tưởng tượng mà dân thời đó phác họa. Vào đầu thế kỷ hai mươi, viễn tượng của một xã hội tương lai hết sức giàu có, thư thái, ngăn nắp và hữu hiệu — một thế giới sát trùng bóng loáng của thủy tinh, thép sắt và xi măng trắng như tuyết — ngụ trong trí óc của hầu hết mọi người biết chữ. Hồi đó khoa học và kỹ thuật phát triển theo một tốc độ nhanh chóng lạ lùng, và đương nhiên ai cũng cho rằng nó sẽ tiếp tục phát triển. Điều này không xảy ra, một phần vì sự bần cùng hóa do một tràng chiến tranh và cách mạng gây nên, một phần vì sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật lệ thuộc thói suy nghĩ thực nghiệm, một thói không thể tồn tại trong một xã hội tập hợp chặt chẽ. Đại để thế giới ngày nay ban sơ hơn năm mươi năm về trước. Vài vùng lạc hậu có tiến triển, và một số máy móc luôn luôn có liên hệ sao đó với chiến tranh và điệp vụ có được phát triển, nhưng các cuộc thí nghiệm và các phát minh phần lớn đã ngưng đọng, và các tàn phá của chiến tranh nguyên tử vào quãng năm 1919-59 không bao giờ được tu sửa. Tuy nhiên những mối nguy vốn sẵn trong máy móc vẫn còn đó. Ngay khi máy móc xuất hiện lần đầu tiên, đối với những ai biết suy nghĩ, rõ ràng sự làm ăn vất vả của con người với hậu quả lớn là sự bất bình đẳng trong nhân loại không còn cần thiết nữa. Nếu máy móc được cố ý dùng vào mục đích này, nội vài thế hệ, nạn đói kém, sự lao lực, sự bẩn thỉu, nạn mù chữ và bệnh tật sẽ bị loại hẳn. Và trên thực tế, tuy không được dùng vào một mục tiêu tương tự, nhưng theo một thứ quá trình tự động — do sự sản xuất những của cải không thể không phân phối — máy móc đã nâng cao rất nhiều mức sống của thường dân trong khoảng năm mươi năm vào cuối thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi.
Nhưng cũng rõ ràng, một sự gia tăng tài sản toàn diện để phá hủy — mà thật, cũng nói được nó tức là sự phá hủy — một xã hội dựa trên cấp bậc. Trong một thế giới ai ai cũng làm việc ít giờ, có đủ ăn, sống trong một căn nhà có phòng tắm và máy lạnh, có một xe hơi hay ngay cả một máy bay, hình thức hiển nhiên nhất và có lẽ đáng kể nhất của sự bất bình đẳng sẽ biến mất. Chắc chắn có thể tưởng tượng được một xã hội trong đó tài sản, theo nghĩa của cải và tiện nghi cá nhân, được phân phối đều, trong khi quyền lực nằm trong tay một giai cấp nhỏ được ưu đãi. Nhưng trên thực tế một xã hội như vậy không thể vững bền. Vì nếu sự nhàn rỗi và an ninh được hưởng bởi mọi người ngang nhau, đám đông dân chúng đáng nhẽ bị ngu độn vì nghèo khổ sẽ biết chữ nghĩa và sẽ học suy nghĩ lấy một mình; và khi họ làm được như vậy, sớm muộn gì họ cũng ý thức rằng thiểu số có đặc quyền không có công dụng gì, và họ sẽ quét bay chúng. Với thời gian, một xã hội có giai cấp chỉ tồn tại được trên sự nghèo khổ và ngu xuẩn. Trở về quá khứ nông nghiệp, như vài tư tưởng gia hồi đầu thế kỷ hai mươi mơ mộng, là một giải pháp không thể thực hiện được. Nó chống chọi với xu hướng máy móc hóa đã gần thành bản năng tính trên khắp thế giới. Lại nữa, nước nào còn chậm tiến về kỹ nghệ, tất bất lực về mặt quân sự, và đâm bị các địch thủ tân tiến hơn đô hộ một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Giữ quần chúng trong cảnh nghèo đói bằng cách hạn chế sự sản xuất hóa phẩm cũng không phải là một giải pháp mỹ mãn. Điều này phần lớn xảy ra trong giai đoạn cuối của chế độ tư bản, vào khoảng giữa 1920 và 1940. Kinh tế của nhiều nước được phép đình trệ, đất đai không được cày cấy, vốn liếng trang cụ không được bổ sung, hàng đám dân chúng bị cản không được làm việc và bị khép vào cảnh sống dở nhờ sự bố thí của Nhà Nước. Nhưng biện pháp này cũng vậy, đưa đến sự suy nhược về quân sự, và vì những sự thiếu thốn do nó ép chịu rõ ràng không cần thiết, nó không tránh được sự chống đối. Vấn đề là làm sao giữ cho bánh xe kỹ nghệ vẫn quay mà không gia tăng tài sản thực sự của thế giới. Hàng hóa phải được sản xuất, nhưng không được phân phối. Và trong thực hành, phương cách độc nhất để đạt kết quả ấy là giao chiến liên tục.
Động tác chủ yếu của chiến tranh là phá hủy, không nhất thiết hủy diệt nhân mạng, chỉ cốt sao tiêu hủy sản phẩm nhân công. Chiến tranh là một cách làm nổ tan thành mảnh, làm bay tan trong tầng tĩnh khí, hay làm chìm sâu dưới đáy biển, những vật liệu có thể nếu không sẽ được dùng vào sự khiến cho quần chúng được quá khỏe khoắn và nhờ thế dần dà quá thông minh. Ngay trong trường hợp các binh khí không bị phá hủy, sự chế tạo chúng vẫn là một phương cách tiện lợi để làm hao tổn nhân công mà không sản xuất gì có thể tiêu thụ được. Ví dụ, một Pháo Đài Nổi giam vào nó một số nhân công đáng lẽ dùng để xây hàng trăm tàu vận tải. Tận cùng nó bị vứt bỏ làm sắt vụn vì lỗi thời sau khi chẳng mang lại ích lợi gì cho ai, rồi một Pháo Đài Nổi khác được xây với một sự phí phạm nhân công lớn hơn. Trên nguyên tắc, nỗ lực chiến tranh luôn luôn được trù tính sao cho tiêu hóa mọi dư khoản có thể có sau khi các nhu cầu tối thiểu của dân chúng được ứng đáp. Trong thực hành, nhu cầu của dân chúng luôn luôn bị định non giá, với hậu quả là một sự khan hiếm kinh niên của một nửa số nhu yếu phẩm; nhưng sự khan hiếm bị coi như một lợi khí. Đó là một chính sách có dụng tâm giữ ngay càc đoàn thể được ưu đãi kề cảnh thiếu thốn, vì một tình trạng khan hiếm chung gia tăng tầm quan trọng của những đặc quyền nhỏ, và như vậy biểu dương sự khác biệt giữa đoàn thể này với đoàn thể kia. Theo tiêu chuẩn của đầu thế kỷ hai mươi, ngay một thành viên Đảng Trong cũng có một lối sống cần mẫn khắc khổ. Tuy nhiên, vài sự xa hoa mà họ được hưởng — như nhà cửa rộng rãi trang bị tử tế, vải may quần áo tốt hơn, thức ăn nước uống và thuốc lá ngon hơn, hai ba tên đầy tớ, xe hơi hay trực thăng riêng — đặt họ trong một thế giới khác biệt với đảng viên Đảng Ngoài, và đảng viên Đảng Ngoài cũng có lợi lộc tương tự so với đám quần chúng bị đô hộ mà chúng ta gọi là "dân đen". Không khí xã hội là không khí của một thành phố bị bao vây, trong đó sự chấp hữu một miếng thịt ngựa cũng đủ phân biệt kẻ sang với kẻ hèn. Đồng thời, ý thức đang sống trong cảnh chinh chiến tức trong cảnh nguy khốn, khiến sự trao toàn quyền cho một đẳng cấp nhỏ tuồng như là một điều kiện sống còn tự nhiên không tránh nổi.
Chiến tranh, ta sẽ thấy, thực hiện sự phá hủy cần thiết, nhưng thực hiện nó một cách dễ chấp nhận về mặt tâm lý. Trên nguyên tắc, muốn hao tận sức nhân công dư thừa trên thế giới, giản dị nhất là xây cất đền đài và kim tự tháp, là đào lỗ và đắp lỗ lại, hay cả là sản xuất thật nhiều hàng hóa rồi đem đốt nó đi. Nhưng làm thế là chỉ đặt cơ sở kinh tế chứ không cấp căn bản xúc cảm cho một xã hội có giai cấp. Điều quan hệ đây không phải là tinh thần của quần chúng, vì thái độ của quần chúng không đáng kể miễn sao họ được nghiêm giữ trong kiếp lao động, mà là tinh thần của chính Đảng. Ngay đảng viên thấp kém nhất cũng được đòi hỏi phải biết việc, chăm chỉ, và cả thông minh trong một phạm vi nhỏ hẹp, nhưng ngoài ra cũng cần họ phải là một kẻ cuồng tín cả tin và ngu xuẩn mà đặc tính là óc sợ sệt, oán thù, nịnh bợ, và khoái trá tự đắc. Nói một cách khác, họ cần phải có tâm địa thích hợp với một tình trạng chiến tranh. Chiến tranh có thực sự xảy ra không không quan hệ, và vì một cuộc chiến thắng quyết định không thể có được, cuộc chiến có thắng hay bại không ăn thua gì. Điều thiết yếu là tình trạng chiến tranh phải có. Sự phân tán trí khôn mà Đảng đòi hỏi nơi đảng viên, dễ thực hiện hơn trong không khí chiến tranh, ngày nay gần như đã phổ cập, mà cấp bậc của đảng viên càng cao, sự phân não đó càng mạnh. Chính tại Đảng Trong, óc cuồng chiến và hận thù kẻ địch dữ nhất. Trong khả năng quản trị, thành viên Đảng Trong thường cần biết tin tức chiến tranh nào sai, và họ thường có dịp hiểu rằng toàn thể cuộc chiến bị ngụy tạo, hoặc không xảy ra, hoặc được giao vì những lý do khác hẳn lý do được tuyên bố: nhưng sự hiểu biết đó dễ thành vô hiệu vì phép ý đôi. Đồng thời không một thành viên Đảng Trong nào bị nao núng một giây trong niềm tin tưởng thần bí rằng chiến tranh có thực, rằng nó phải kết cục bằng sự đắc thắng với Đại Dương hiển nhiên biến thành bá chủ hoàn cầu.
Mọi thành viên Đảng Trong tin vào sự chinh phục sắp tới như một giáo điều. Nó sẽ được hoàn thành, hoặc nhờ sự chiếm dần đất đai và nhân đó xây dựng một thế ưu thặng, hoặc nhờ sự sáng chế ra một binh khí mới không có phản công. Sự tìm kiếm khí giới mới không ngừng tiếp tục và là một trong số ít hoạt động còn lại cho phép loại trí óc có sáng kiến và ưa suy luận lộ diện. Tại Đại Dương ngày nay, Khoa học, theo nghĩa xưa, gần như không còn nữa. Trong Ngôn Mới không có chữ "Khoa học". Phương pháp suy tưởng thực nghiệm làm cơ sở cho mọi thực hiện khoa học trong quá khứ, chống lại những nguyên tắc căn bản nhất của Anh Xã. Ngay sự tiến bộ kỹ thuật cũng chỉ được chấp nhận nếu sản phẩm của nó có thể được mang dùng vào sự giảm bớt tự do con người. Trong mọi ngành nghệ thuật hữu ích, thế giới hoặc đứng yên hoặc lùi bước. Cánh đồng được cày với bừa do ngựa kéo, trong khi sách do máy viết. Nhưng trong những sự việc tối quan trọng — thực ra có nghĩa là trong việc chiến tranh và điệp vụ cảnh sát — óc tìm hiểu khoa học vẫn được khuyến khích hay ít nhất được dung túng. Đảng có hai mục tiêu là chinh phục toàn thể diện tích trái đất và tiêu diệt cho sạch mọi khả năng suy tưởng biệt lập. Vì lẽ đó Đảng phải giải quyết hai vấn đề lớn. Một là làm sao cưỡng ý kẻ khác để khám phá xem họ nghĩ gì, hai là làm sao giết được hàng trăm triệu dân trong khoảng vài giây mà không để họ biết trước. Sự nghiên cứu khoa học có được tiếp tục cũng chỉ trong khổ vấn đề đó. Nhà khoa học ngày nay, hoặc là một nhà tâm lý học và một viên truy tà hỗn hợp, tra xét một cách thật tỉ mỉ bình thường ý nghĩa của nét mặt, cử chỉ và giọng nói, thực nghiệm hiệu quả của thuốc làm khai sự thật, của liệu pháp đột kích, của phép thôi miên và sự tra tấn thể xác; hoặc họ là một nhà hóa học, một nhà vật lý học hay một nhà sinh học chỉ lưu tâm đến phần chuyên môn liên quan đến việc hủy diệt sự sống. Trong các phòng thí nghiệm rộng rãi của Bộ Hòa Bình và tại các trại thí nghiệm ẩn trong rừng Ba Tây, trong sa mạc Úc Châu hay trên các đảo hẻo lánh vùng Nam Cực, hàng toán chuyên viên làm việc không biết mệt. Có người chỉ lo kế hoạch hóa việc phối hợp tiếp vận các cuộc chiến tương lai, người thì nghĩ cách cho bom lửa càng ngày càng lớn hơn, cho chất nổ càng ngày càng mạnh hơn, cho vỏ binh khí càng ngày càng khó xuyên qua hơn; có người tìm kiếm chất hơi mới lạ sát sinh hữu hiệu hơn, hay chất độc dễ tan có thể sản xuất được đủ nhiều để tiêu hủy cây cối của các lục địa, hay giống mầm miễn dịch chống mọi kháng thể; còn kẻ gắng chế tạo một loại xe có thể đi được dưới đất giống như tàu ngầm dưới nước, hay một loại tàu bay không phụ thuộc căn cứ như thuyền buồm; thêm kẻ nghiên cứu ngay cả những khả năng xa vời như tập trung ánh mặt trời qua thấu kính treo trong không gian cách trái đất hàng ngàn cây số, hay gây nên những vụ động đất và sóng thần nhân tạo bằng cách đụng vào nhiệt độ trong lòng địa cầu.
Nhưng không bao giờ một dự án trên nào đi tới giai đoạn thực hiện, và không một trong ba siêu quốc nào dẫn đầu được hai nước kia một cách rõ rệt. Điều đáng kể là cả ba đã có với bom nguyên tử một binh khí mạnh hơn bất cứ khí giới nào có thể được phát minh bởi các cơ quan nghiên cứu hiện hữu. Mặc dầu Đảng, theo thói quen, nhận sáng chế về mình, bom nguyên tử xuất hiện lần đầu tiên khá sớm, vào những năm bốn mươi, và được sử dụng trên đại quy mô khoảng mười năm sau. Vào thời đó hàng trăm trái bom được đổ xuống các trung tâm kỹ nghệ, đặc biệt tại Âu Nga, Tây Âu và Bắc Mỹ. Kết quả các nhóm cầm quyền mọi nước nhận thức rằng thêm vài trái bom nguyên tử nữa là xã hội có tổ chức tức quyền thế của họ sẽ kết thúc. Cho nên sau đó, tuy không có thoả ước chính thức nào được nhắc tới, không còn sự thả bom nguyên tử nữa. Cả ba cường quốc chỉ tiếp tục sản xuất bom nguyên tử để trữ, phòng cơ hội quyết định mà họ tin sớm muộn gì cũng sẽ đến. Và trong khi chờ đợi chiến thuật gần như không biến chuyển suốt ba bốn chục năm. Trực thăng được dùng nhiều hơn trước, phi cơ oanh tạc được thay thế bởi tạc đạn tự phóng, và chiếc tàu chiến mỏng mảnh nhường chỗ cho Pháo Đài Nổi; nhưng ngoài ra có ít tiến triển. Xe tăng, tàu ngầm, ngư lôi, ngay cả súng ống lựu đạn vẫn được dùng. Và bất kể những cuộc tàn sát bất tận được phóng sự trên báo chí và máy truyền hình, những trận đánh tuyệt vọng kiểu thời các cuộc chiến trước, trong đó hàng trăm ngàn hay cả hàng triệu người bị giết trong vài tuần, không bao giờ tái diễn.
Không một trong ba siêu quốc nào dám toan tính một thao lược có nguy đưa đến một sự thất bại trầm trọng. Nếu có một cuộc tác chiến lớn, thông thường đó là một vụ đột kích chống đồng minh. Chiến thuật mà cả ba siêu quốc theo hay tự dối là theo y hệt nhau. Kế hoạch là vừa đánh vừa mặc cả, vừa tấn công lừa đúng lúc, cốt chiếm hữu một chuỗi căn cứ bao vây trọn vẹn một nước chư hầu địch, để rồi ký thỏa hiệp với địch và sống hòa thuận với họ đủ lâu năm để ru ngủ được lòng nghi kỵ của họ. Trong khi đó hỏa tiễn chứa bom nguyên tử được tập trung tại các điểm chiến lược; sau cùng các hỏa tiễn sẽ được bắn cùng một lúc với những hậu quả tàn phá mạnh đến nỗi sự trả đũa không thể có được. Lúc đó sẽ là lúc ký một hiệp ước với cường quốc còn lại, trong khi chuẩn bị một cuộc tấn công khác. Khỏi cần phải nói, mưu lược trên chỉ là một giấc mơ ban ngày, không thể thực hiện được. Lại nữa, không hề có một trận đánh nào xảy ra ngoài các vùng tranh giành quanh Xích Đạo và Bắc Cực: không bao giờ thấy cử một cuộc xâm lấn đất địch nào. Điều này giải thích vì sao tại vài nơi, biên giới giữa các siêu quốc được định một cách độc đoán. Ví dụ, Âu Á có thể xâm chiếm dễ dàng các đảo Anh thuộc Âu Châu, mặt khác Đại Dương có thể đẩy biên giới tới sông Rhin hay tới tận sông Vistule. Nhưng làm thế hóa ra vi phạm nguyên tắc toàn vẹn văn hóa do mọi bên tuân theo dù không nói ra. Nếu Đại Dương phải chiếm đóng những vùng trước kia có tên là Pháp và Đức, cần phải hoặc tận sát dân cư các vùng đó, một công việc cụ thể ra rất khó khăn, hoặc đồng hóa một dân số khoảng một trăm triệu người gần ngang trình độ dân Đại Dương về mặt tiến triển kỹ thuật. Cả ba siêu quốc đều có vấn đề tương tự. Tối cần thiết cho cơ cấu của cả ba là không để cho dân tiếp xúc với người ngoại quốc trừ trong giới hạn đó là tù binh hay nô lệ da màu. Ngay đồng minh chính thức đương thời cũng luôn luôn bị ngờ vực là có ý đồ đen tối. Ngoài tù binh ra, thường dân không bao giờ được nhìn thấy người Âu Á hay Đông Á, họ còn bị cấm không được học ngoại ngữ. Nếu họ được phép tiếp xúc với người ngoại quốc họ sẽ khám phá ra rằng những người này giống hệt họ, rằng hầu hết những điều nói về dân ngoại quốc là lời nói dối. Thế giới niêm phong trong đó họ sống sẽ đổ vỡ, và lòng sợ hãi, nỗi oán thù và niềm tin nơi sự chính tâm của họ, được dựng làm nền tảng của luân lý, sẽ tan biến. Vì lẽ vậy, cả ba bên đều hiểu rằng dù Ba Tư, Ai Cập, Java hay Tích Lan có thay đổi chủ mấy lần đi nữa, không thể có chuyện xâm phạm ranh giới chính với bất cứ gì ngoài bom đạn.
Ngụ dưới những ý trên có một sự thể không bao giờ được nhắc tới, nhưng được hiểu ngầm và tôn theo: đó chính là sự điều kiện sống tại cả ba siêu quốc y hệt nhau. Tại Đại Dương triết thuyết đặc trưng có tên là Anh Xã, tại Âu Á nó được gọi là Tân Xích, và tại Đông Á nó có một tên Tàu thường được dịch là Tử Sùng nhưng có lẽ phải dịch là Kỷ Vong mới đúng. Công dân Đại Dương không được phép biết gì về nội dung hai chủ thuyết kia, nhưng được dạy phải ghê tởm những thuyết đó vì chúng man rợ, xúc phạm luân lý cùng lẽ thường tình. Thật ra khó phân biệt được ba triết thuyết ấy, và những chế độ do chúng dung dưỡng cũng chẳng khác biệt nhau chút nào. Nơi nào cũng một cơ cấu hình tháp, với một sự tôn thờ lãnh tụ gần ngang thiên thần, cùng một nền kinh tế xây dựng nhờ và cho chiến tranh liên tục. Cho nên ba siêu quốc không những không thể chinh phục được nhau, còn không có lợi lộc gì nếu làm thế. Ngược lại họ còn đánh nhau, họ còn nâng đỡ được nhau, như thể ba bó lúa. Và như thường lệ, nhóm lãnh đạo thuộc ba cường quốc vừa ý thức vừa không ý thức hành động của mình. Đời sống họ được dâng hiến cho sự chinh phục thế giới, nhưng họ cũng biết rằng chiến tranh cần phải tiếp tục không ngưng và không thắng lợi. Đồng thời sự không có mối nguy bị chinh phục nuôi dưỡng sự chối bỏ thực tế, và điều này là đặc điểm của Anh Xã cùng các ý hệ địch. Đến đây cần phải nhắc lại điều đã nói ở trên, rằng vì trở thành liên tục chiến tranh đã hoàn toàn biến tính.
Thời xưa, chiến tranh, gần như theo định nghĩa, là một tình trạng sớm muộn gì cũng kết liễu, thường sau một cuộc thắng lợi hay thất bại không thể chối cãi. Cũng trong quá khứ, chiến tranh là một trong những phương tiện khiến xã hội loài người giữ liên lạc với thực tế thể chất. Các nhà lãnh đạo các thời đều muốn ép môn đồ chấp nhận một thế giới quan lệch lạc, nhưng họ không dám khuyến khích ảo tưởng nào có xu thế làm hại hiệu lực quân sự. Sự thất bại còn có nghĩa là sự mất độc lập hay một hậu quả bất hảo khác, việc phòng ngừa thất bại còn được coi trọng. Sự kiện thể chất không thể bị bỏ quên. Trong triết thuyết, trong tôn giáo, trong luân lý hay trong chính trị, hai cộng hai có thể thành năm, nhưng khi phác họa súng ống hay tàu bay, hai với hai phải là bốn. Các quốc gia vô hiệu sớm muộn gì cũng bị xâm chiếm, và sự tranh thủ hiệu quả đối nghịch với ảo tưởng. Lại nữa, muốn có hiệu năng cần phải biết học hỏi quá khứ, tức phải có một ý niệm đúng về sự kiện đã xảy ra trong quá khứ. Dĩ nhiên, báo chí và sách vở luôn luôn bị tô điểm hay thiên vị, nhưng sự giả mạo kiểu được thực hiện ngày nay không thể có. Chiến tranh là một cách bảo toàn chắc chắn óc lành mạnh, và trong chừng mực nó liên quan đến giai cấp lãnh đạo, nó có lẽ là cách bảo toàn hệ trọng nhất. Khi chiến tranh có thắng có bại, không một giai cấp lãnh đạo nào có thể hoàn toàn vô trách nhiệm.
Nhưng khi chiến tranh trở thành thực sự liên tục, nó thôi nguy hiểm. Khi chiến tranh liên tục, không còn nhu cầu quân sự. Sự tiến bộ kỹ thuật có thể ngưng, và những sự kiện sờ sờ nhất có thể bị chối bỏ hay coi thường. Như chúng ta đã thấy, những công cuộc nghiên cứu đáng được gọi là khoa học vẫn được theo đuổi vì mục tiêu chiến tranh, nhưng đấy vốn là một thứ mộng ban ngày, và sự bất trưng kết quả nghiên cứu không quan trọng. Hiệu suất, ngay cả hiệu suất quân sự, không còn được cần đến. Không có gì có hiệu năng tại Đại Dương ngoài Cảnh Sát Tư Tưởng. Vì không một trong ba siêu quốc nào có thể bị chinh phục, mỗi siêu quốc thực ra là một vũ trụ riêng biệt trong đó hầu như mọi loạn ý có thể yên hành. Thực tế chỉ có áp lực qua những nhu cầu của đời sống hàng ngày — nhu cầu ăn uống, có chỗ trú ngụ và có quần áo mặc, tránh nuốt thuốc độc hay bước qua cửa sổ một tầng lầu cao, đại loại như vậy. Giữa cái sống và cái chết, giữa thú vui thể xác và nỗi đau thể xác, vẫn có một sự khác biệt, nhưng chỉ thế thôi. Bị cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài và với quá khứ, công dân Đại Dương giống như một người ở trong không gian liên tinh, không có cách nào biết được hướng nào ở trên, hướng nào ở dưới. Lãnh tụ của một nước như vậy có quyền chuyên chế hơn vua chúa Ai Cập và La Mã nhiều. Họ bắt buộc phải tránh không để môn đồ của họ chết đói đông đảo tới mức phiền phức, và họ bó buộc phải giữ một trình độ kỹ thuật quân sự thấp ngang địch thủ của họ; nhưng một khi điều kiện tối thiểu đó được thỏa mãn, họ có thể bóp méo thực tế thành bất cứ hình thù gì tùy ý họ.
Chiến tranh, vì lẽ vậy, nếu được xét theo tiêu chuẩn của các cuộc chiến xưa, chỉ là một sự lừa bịp. Nó tựa như các cuộc đấu giữa những động vật nhai lại có cặp sừng mọc theo một góc cạnh đặc biệt khiến chúng không thể gây thương tích cho nhau. Nhưng dù nó không thật, nó không phải là vô nghĩa lý. Nó nuốt đi thặng số hàng tiêu thụ, và giúp sự phòng giữ không khí tinh thần cần thiết cho một xã hội có giai cấp. Chiến tranh, chúng ta sẽ thấy, hiện nay là một vấn đề nội bộ thuần túy. Trong quá khứ, dù phải công nhận quyền lợi chung của họ và vì thế phải giới hạn sự tàn phá của chiến tranh, các nhóm lãnh đạo của mọi nước đánh nhau thực sự, và kẻ thắng trận bao giờ cũng cướp phá kẻ thua trận. Ngày nay của chúng ta, họ không đánh nhau chút nào. Mỗi nhóm lãnh đạo giao chiến chống chính dân mình, và mục đích của chiến tranh không phải là xâm chiếm lãnh thổ hay ngăn chặn sự xâm lăng đó, mà là giữ cho cơ cấu xã hội được nguyên vẹn. Danh từ "chiến tranh", đâm vì thế mà lệch lạc. Có lẽ muốn đúng phải nói rằng, vì chiến tranh trở thành liên tục, nó đã thôi tồn tại. Áp lực đặc biệt của nó trên con người từ thời Tân Thạch Khí tới đầu thế kỷ hai mươi đã biến mất và được thay thế bởi một thứ khác hẳn. Hậu quả sẽ tương tự nếu ba siêu quốc, thay vì đánh nhau, thỏa thuận sống vĩnh viễn hòa bình với nhau, không nước nào bị xâm phạm trong ranh giới của mình. Vì trong trường hợp này, mỗi nước vẫn là một vũ trụ tự bế tỏa, mãi mãi thoát khỏi ảnh hưởng đánh thức tỉnh của mối nguy bên ngoài. Một cuộc hòa bình thực sự trường tồn sẽ y hệt một cuộc chiến tranh vĩnh cửu. Điều này — tuy phần lớn Đảng viên hiểu nó theo một nghĩa hẹp hòi — là thâm ý của khẩu hiệu Đảng: Chiến tranh là hòa bình.
Winston ngưng đọc một lúc. Đâu đó ngoài xa một trái bom lửa gầm lên. Cảm giác sung sướng được ở một mình với một quyển sách cấm, trong một căn phòng không có máy truyền hình, không tiêu tan. Cô độc và an toàn là những cảm giác thuộc thể xác, lẫn lộn sao đó với sự mệt mỏi của tinh thần anh, với sự êm ái của chiếc ghế và thoáng gió nhẹ từ cửa sổ đùa trên má anh. Quyển sách thôi miên anh, hay đúng hơn nó làm anh yên tâm. Theo lẽ ra, nó không cho anh biết điều gì mới lạ, nhưng phần quyến rũ chính ở đó. Nó nói lên điều anh đã nói nếu anh sắp xếp được thành trật tự những tư tưởng tản mát của anh. Nó là sản phẩm của một trí óc giống như óc anh nhưng mạnh mẽ hơn nhiều, có phương pháp hơn và ít sợ sệt hơn. Những sách hay nhất, anh nhận thấy, là những quyển nói ra những điều mình đã biết. Anh vừa giở lại chương I thì anh nghe thấy tiếng chân Julia trên cầu thang và anh vụt ra khỏi ghế để đón nàng. Nàng đặt túi dụng cụ nâu xuống sàn rồi lao mình vào tay anh. Đã hơn một tuần hai người chưa gặp lại nhau.
"Anh đã nhận được quyển sách," anh nói khi hai người buông nhau ra.
"Ồ, anh có nó rồi ư ? Tốt," nàng không mấy hứng thú đáp, rồi ngay tức thì nàng ngồi xuống cạnh lò dầu làm cà phê.
Họ không nhắc lại vấn đề trước khi nằm với nhau trên giường được nửa tiếng. Khí chiều đủ ấm để bỏ lật khăn phủ giường lên. Từ dưới nhà vẳng lên tiếng hát quen thuộc và tiếng giầy ống cọ trên đá lát. Người đàn bà có bắp tay đỏ mà Winston thấy mặt bữa đầu tiên tới đây gần như đóng đinh ngoài sân. Cơ hồ không có ngày giờ nào bà ta không đi đi lại lại giữa chậu giặt và giây phơi áo, luân phiên hết bỏ kẹp vào miệng ngậm lại cất lên tiếng hát lả lơi. Julia đã nằm nghiêng mình lại và sắp thiếp ngủ. Anh với tay lấy quyển sách đang lê trên sàn và ngồi tựa vào đầu giường.
"Mình phải đọc quyển này," anh nói. "Cả em nữa. Hội viên Hội Tình Thân nào cũng phải đọc nó."
"Anh đọc đi," nàng nhắm mắt nói. "Đọc to vào. Đó là cách hay nhất. Rồi có gì anh giảng dần cho em."
Kim đồng hồ đánh số sáu, có nghĩa là mười tám. Họ còn ba bốn giờ nữa. Anh kẹp quyển sách vào đầu gối và bắt dầu đọc:
Chương I: Dốt nát là sức mạnh
Trải qua lịch sử và có lẽ từ thời Tân Thạch Khí, có ba hạng dân trên thế giới, Thượng Lưu, Trung Lưu và Hạ Lưu. Có nhiều cách phân chia ba hạng ấy, chúng có vô số tên khác nhau và tổng số mỗi hạng cũng như thái độ của hạng này đối với hạng kia thay đổi từ thời này qua thời khác: nhưng cơ cấu cốt yếu của xã hội không bao giờ biến chất. Ngay cả sau các vụ nổi loạn lớn và các vụ đổi thay tưởng như không thể cải hồi, cơ cấu cũ bao giờ cũng được tái lập, y như một con quay hồi chuyển luôn luôn trở về trạng thái quân bình, dù có bị đẩy xa về phía nào chăng nữa.
"Julia, em còn thức không ?" Winston hỏi.
"Còn, anh yêu, em đang nghe anh. Anh đọc tiếp đi. Tuyệt lắm."
Anh tiếp tục đọc:
Chủ đích của ba hạng hoàn toàn không thể hợp nhau. Chủ đích của Thượng Lưu là giữ mình ngồi tại chỗ. Chủ đích của Trung Lưu là đổi chỗ với Thượng Lưu. Chủ đích của Hạ Lưu, khi họ có chủ đích — vì một đặc điểm thường trực của Hạ Lưu là họ bị khổ dịch đè ép quá độ, họa chừng mới ý thức được điều gì nằm ngoài đời sống hàng ngày của họ — là hủy bỏ mọi sự phân biệt và thành lập một xã hội trong đó mọi người sẽ ngang nhau. Cho nên, trải qua lịch sử một cuộc đấu tranh không đổi bản sắc diễn đi diễn lại không ngừng. Hàng thời kỳ dài, Thượng Lưu tưởng như cầm quyền yên ổn, nhưng chẳng sớm thì muộn cũng tới lúc họ mất hoặc niềm tự tín hoặc khả năng cai trị hữu hiệu, hoặc cả hai. Rồi sau đó, họ bị Trung Lưu lật đổ, nhờ giới này kết nạp được Hạ Lưu bằng cách giả vờ tranh đấu cho tự do và công lý. Vừa đạt được mục tiêu, Trung Lưu gạt liền Hạ Lưu cho họ về địa vị tôi đòi cũ, và chính họ biến thành Thượng Lưu. Tiếp đó, một giới Trung Lưu mới tách hiện từ một trong hai giới kia hay từ cả hai, và cuộc tranh đấu bắt đầu trở lại. Trong ba giới chỉ có Hạ Lưu là không bao giờ thành công, dù một cách tạm thời, trong việc đeo đuổi chủ đích. Thật quá ngoa nếu nói rằng trải qua lịch sử không hề có một sự tiến bộ cụ thể nào. Ngay ngày nay, đương lúc suy thời, thường dân có một đời sống vật chất khá hơn thường dân mấy thế kỷ trước. Nhưng không một sự tăng sản, một sự thuần phong, một cuộc cải cách hay một cuộc cách mạng nào xích lại gần nổi hơn một ly sự bình đẳng giữa con người. Theo quan điểm của Hạ Lưu, không một sự thay đổi nào có nghĩa nhiều hơn một sự thay đổi tên cho quan thầy họ.
Vào khoảng cuối thế kỷ mười chín, tính hồi quy của mô hình trên đã trở thành hiển nhiên đối với nhiều quan sát viên. Vì thế thời đó nẩy ra vài phái tư tưởng gia giải thích lịch sử như một quá trình tuần hoàn, và đòi chứng minh sự bất bình đẳng là một luật đời bất di bất dịch. Thuyết này dĩ nhiên lúc nào cũng có kẻ tán đồng, nhưng có một sự thay đổi hữu ý trong cách nó được phô trình ngày nay. Thuở xưa, sự cần có một xã hội có giai cấp là chủ thuyết đặc thù của Thượng Lưu. Nó được giảng dạy bởi vua chúa và quý tộc cùng các giáo sĩ, luật gia và đồng bọn là những kẻ ăn bám họ, và nó được xoa dịu bởi những lời hứa về sự bù trừ trong một thế giới tưởng tượng bên kia nấm mồ. Còn Trung Lưu, đương khi họ tranh quyền, bao giờ họ cũng dùng những danh từ như tự do, công lý, tình thân. Song ngày nay, khái niệm tình thân giữa loài người bắt đầu bị tố cáo bởi những kẻ chưa ở địa vị chỉ huy nhưng chỉ hy vọng sớm có địa vị đó. Trong quá khứ, Trung Lưu làm cách mạng dưới ngọn cờ bình đẳng, lật đổ được bạo quyền cũ tức thì họ lập một tân bạo chính. Các giới Trung Lưu mới thực ra tuyên bố trước bạo chính của họ. Chủ thuyết xã hội, vì xuất hiện vào đầu thế kỷ mười chín và là đốt cuối của một mạch tư tưởng bắt nguồn từ những cuộc nổi loạn của dân nô lệ thời thượng cổ, hãy còn bị thâm nhiễm bởi Trí Không Tưởng đời xưa. Nhưng trong các dị thuyết xã hội xuất hiện từ khoảng 1900 trở đi, mục đích thiết lập tự do và bình đẳng càng ngày càng bị công khai từ bỏ. Các phong trào mới xuất hiện vào giữa thế kỷ hai mươi như Anh Xã tại Đại Dương, Tân Xích tại Âu Á, Tử Sùng, theo danh từ thông dụng, tại Đông Á, có mục đích rõ ràng là lưu truyền sự vô tự do và bất bình đẳng. Những phong trào mới này dĩ nhiên sinh trưởng trên các phong trào cũ và có khuynh hướng giữ lại tên cũ và hâm mộ bằng đầu lưỡi chủ thuyết cũ. Nhưng tất cả đều có mục tiêu chặn đứng sự tiến bộ và kết đọng lịch sử tại lúc đã chọn. Quả lúc lắc quen thuộc của đồng hồ được cử động một lần nữa rồi phải ngưng bặt. Như thường lệ, Thượng Lưu sẽ bị Trung Lưu lật đổ và Trung Lưu sẽ trở thành Thượng Lưu; nhưng lần này, nhờ biết chiến thuật, Thượng Lưu sẽ duy trì được vĩnh viễn địa vị.
Các chủ thuyết nổi lên một phần vì sự tích tụ của kiến thức sử học và sự trưởng thành của ý nghĩa lịch sử không có trước thế kỷ mười chín. Ngày nay sự vận hành chu kỳ của lịch sử dễ hiểu hay có vẻ dễ hiểu; và nếu hiểu được nó, có thể biến hóa được nó. Nhưng nguyên nhân ngầm chính là ngay từ đầu thế kỷ hai mươi mộng bình đẳng giữa con người có thể đạt được nhờ kỹ thuật. Thực thì con người vẫn không bình đẳng về khiếu bẩm sinh, và sự bắt buộc phải phân công theo chuyên môn khiến người này được ưu đãi hơn người kia; nhưng sự phân biệt giai cấp và sự khác biệt lớn về tài sản không còn thật sự cần thiết nữa. Thuở xa xưa, sự phân chia giai cấp không những không thể tránh được mà còn là điều mong muốn. Bất bình đẳng là giá phải trả cho nền văn minh. Tuy nhiên, với sự phát triển của ngành sản xuất máy móc, vấn đề biến đổi. Dù con người vẫn còn cần phải làm những công việc khác nhau, không còn nhu cầu bắt họ sống theo mức xã hội và kinh tế khác nhau. Cho nên, theo quan điểm của các nhóm mới sắp nắm chính quyền, sự bình đẳng không còn là một lý tưởng để đeo đuổi nữa, mà là một mối nguy phải tránh. Vào những thời buổi ban sơ hơn, khi trên thực tế không thể có một xã hội công bình và an lành, tin vào đó rất dễ. Ý niệm về một thiên đàng trần tục trong đó con người chung sống trong tình huynh đệ không cần luật lệ và không phải cực nhọc đã ám ảnh nhân trí trong hàng ngàn năm. Và mộng tưởng đó đã có một ảnh hưởng rõ rệt, ngay cả trên những nhóm đã lợi dụng được các biến chuyển lịch sử. Các thừa kế của những cách mạng Pháp, Anh, Mỹ đã tin một phần vào chính lời tuyên bố của họ về nhân quyền, tự do ngôn luận, bình đẳng trước pháp luật, và đã cả cho phép hành động của họ bị chi phối bởi những lý tưởng đó. Nhưng vào thập niên thứ tư của thế kỷ hai mươi, mọi trào lưu tư tưởng chính trị đâm ra độc đoán. Thiên đàng trần tục mất uy tín đúng lúc có thể thực hiện được nó. Chính thuyết mới nào, dưới tên nào chăng nữa, cũng quay về cấp bậc và tập hợp. Và trong phối cảnh nặng nề chung xảy ra khoảng 1930, những biện pháp đã bị bỏ từ lâu, có khi từ hàng trăm năm — như bỏ tù không cần xử, dùng tù binh làm nô lệ, hành hình công cộng, tra tấn để lấy khẩu cung, dùng con tin, di đày quần chúng — không những trở thành thông thường, còn được chấp nhận và bênh vực bởi những kẻ tự cho mình là sáng suốt tiến bộ.
Phải sau gần mười năm ngoại chiến, nội chiến, cách mạng và phản cách mạng tại khắp nơi trên thế giới, Anh Xã và địch thủ mới lộ diện là chính thuyết tác toàn. Nhưng chúng đã được báo hiệu bởi một vài chế độ, thường được gọi là chế độ cực quyền, xuất hiện cũng vào thế kỷ hai mươi nhưng sớm hơn, và những đường nét chính của thế giới sẽ nhô khỏi cảnh hỗn độn đã được thấy rõ từ lâu. Loại dân nào sẽ cai trị thế giới cũng đã thấy được rõ. Tân quý tộc phần lớn gồm các viên chức, khoa học gia, kỹ thuật gia, trưởng nghiệp đoàn, chuyên viên quảng cáo, xã hội học gia, giáo sư, ký giả và chính trị gia chuyên nghiệp. Những người này, xuất thân từ giai cấp công nhân trung lưu và thượng đẳng giai cấp thợ thuyền, đã được đào tạo và tập họp bởi thế giới bạc bẽo của kỹ nghệ độc quyền và trung ương tập quyền. So với đồng nghiệp họ thuở xưa, họ ít tham hơn, ít bị cám dỗ bởi sự xa hoa hơn, ham quyền lực thuần túy hơn, và trên hết ý thức hơn những điều họ làm cùng quyết tâm đàn áp đối lập hơn. Sự khác biệt này là điểm chủ yếu. Sánh với cảnh ngày nay, mọi bạo quyền trong quá khứ đều thiếu nhẫn tâm và không hữu hiệu. Các nhóm cầm quyền xưa luôn luôn có phần bị tiêm nhiễm bởi tư tưởng tự do, và vui lòng thả lỏng khắp nơi, chỉ xét đến hành động công khai mà bất kể những ý nghĩ của dân họ. Ngay giáo hội Công Giáo thời Trung Cổ cũng tỏ ra khoan dung theo tiêu chuẩn hiện đại. Một phần lý do là thuở xưa không một chính quyền nào có khả năng quản thúc thường trực công dân mình. Song le, sự phát minh ra máy in khiến sự thao tác dư luận dễ dàng hơn, phim ảnh và máy phát thanh làm diễn trình đó tiến xa hơn nữa. Với sự phát triển máy truyền hình và sự tiến bộ kỹ thuật cho phép vừa thâu vừa phát trên một chiếc máy, đời sống riêng tư kết thúc. Mỗi công dân, hay ít nhất mỗi công dân đủ quan trọng để đáng được giám thị, có thể bị đặt hai mươi tư tiếng mỗi ngày dưới sự soi mói của cảnh sát và trong lời tuyên truyền của nhà chức trách, trong khi các ngõ thông tin khác bị đóng kín. Lần đầu tiên ngày nay, có thể áp đặt không những lòng hoàn toàn phục tùng ý muốn nhà nước, mà cả sự đồng quan điểm trọn vẹn về mọi vấn đề.
Sau thời cách mạng vào những năm năm mươi, sáu mươi, xã hội kết hợp lại, vẫn như bao giờ, thành Thượng Lưu, Trung Lưu và Hạ Lưu. Nhưng giới Thượng Lưu mới, khác với tiền nhân, không hành động theo linh tính mà biết phải làm gì để bảo vệ địa vị. Đã từ lâu người ta nhận thức rằng nền tảng vững chãi nhất của chế độ quả đầu là chủ nghĩa tập thể. Tài sản và đặc quyền dễ được bảo vệ nhất khi chúng thuộc quyền sở hữu chung. Sự gọi là "bãi bỏ quyền sở hữu tư" xảy ra vào những năm giữa thế kỷ, thật ra, có nghĩa là tập trung quyền sở hữu vào ít tay hơn trước: nhưng với sự khác biệt là các sở hữu chủ mới là một nhóm thay vì một đám tư nhân. Về mặt cá thể, không một Đảng viên nào chiếm hữu gì, trừ vài vật dụng riêng không đáng kể. Về mặt tập thể Đảng chiếm hữu mọi thứ tại Đại Dương, vì Đảng kiểm soát mọi thứ, và tùy nghi sử dụng các sản phẩm. Vào những năm sau Cách Mạng, Đảng có thể bước vào địa vị lãnh đạo mà không gặp sự đối kháng nhờ toàn thể quá trình được miêu tả như một cuộc tập thể hóa. Đã tự bao giờ có sự thừa nhận rằng nếu giai cấp tư bản bị cướp quyền sở hữu, Xã Hội Chủ Nghĩa thế nào cũng nối tiếp: và không chối cãi được, dân tư bản đã bị truất hết tài sản. Các xưởng, mỏ, đất, nhà, xe — mọi thứ đã được tước khỏi tay họ: và vì những thức đó không còn là tài sản tư, nó phải là của công. Anh Xã, vì xuất phát từ phong trào xã hội và thừa kế ngữ cú rỗng của nó, đã thực ra thi hành điều chính của chương trình xã hội; với kết quả đã thấy và định trước là sự bất bình đẳng kinh tế trở thành vĩnh viễn.
Nhưng những vấn đề lưu truyền một xã hội có cấp bậc sâu xa hơn thế. Chỉ có bốn cách khiến một nhóm lãnh đạo mất quyền. Hoặc họ bị chinh phục bởi ngoại lai, hoặc họ cai trị thiếu hiệu quả đến nỗi quần chúng bị kích động nổi loạn, hoặc họ để cho một giới Trung Lưu mạnh và bất mãn thành hình, hoặc họ mất tự tín và ý chí cai trị. Những lý do này không có tác dụng đơn độc, và theo thường lệ cả bốn đều góp mặt ít nhiều. Giai cấp lãnh đạo nào có thể phòng ngừa được cả bốn trường hợp trên có thể cầm quyền mãi mãi. Tận cùng yếu tố quyết định chính là thái độ tinh thần của giai cấp lãnh đạo.
Sau giữa thế kỷ hiện tại, mối nguy đầu thật ra đã biến mất. Trên thực tế, nước nào trong ba cường quốc đang chia nhau thế giới cũng không thể bị xâm chiếm nổi, và chỉ có thể bị chinh phục nhờ sự biến đổi dần dần dân số, một điều mà một chính phủ có quyền rộng rãi tránh được dễ dàng. Mối nguy thứ hai cũng chỉ là một mối nguy trên lý thuyết. Quần chúng không bao giờ tự động chống đối, và họ không bao giờ nổi loạn vì bị áp bức. Quả vậy, họ còn không được phép có tiêu chuẩn để so sánh, họ còn không bao giờ ý thức được sự họ bị ức hiếp. Những vụ khủng hoảng kinh tế thuở xưa hoàn toàn không có tính tất yếu và bây giờ không được phép xảy ra, còn nhiều cuộc hỗn độn khác mạnh chẳng kém có thể và đã có nhưng không có hậu quả chính trị bởi không có cách nào nói lên sự bất mãn. Về vấn đề sản xuất dư thừa, tiềm tàng trong xã hội của chúng ta từ khi kỹ thuật máy móc phát triển, nó được giải quyết bằng mẹo chiến tranh liên tục (xem chương III), một mánh khóe còn có ích lợi khép tinh thần dân chúng vào mức cần thiết. Cho nên, theo quan điểm của những nhà lãnh đạo của chúng ta, những mối nguy thật tình đáng kể là sự tách hợp của một nhóm dân mới có khả năng, không được dùng đúng sức và ham quyền, cùng sự sinh trưởng của óc tự do và hoài nghi trong chính hàng ngũ họ. Có thể nói, vấn đề liên quan đến giáo dục. Đó là làm sao không ngưng uốn nắn tâm thức của cả nhóm chỉ huy lẫn nhóm thừa hành đông đảo ở dưới. Tâm thức quần chúng chỉ cần bị ảnh hưởng một cách tiêu cực thôi.
Biết bối cảnh trên, có thể suy ra nếu chưa rõ, cơ cấu tổng quát của xã hội Đại Dương. Trên đỉnh cao của kim tự tháp là Bác. Bác không thể sai lầm và đầy uy lực. Mỗi thành công, mỗi thành quả, mỗi thắng lợi, mỗi khám phá khoa học, mọi hiểu biết, mọi khôn ngoan, mọi hạnh phúc, mọi đức tính, được coi như xuất từ sự hướng dẫn và gợi hứng của Bác. Chưa ai nhìn thấy Bác bao giờ. Bác là một khuôn mặt trên biển tường, một tiếng nói trong máy truyền hình. Chúng ta có thể khá chắc rằng Bác không bao giờ chết, còn Bác sinh ngày nào là một điểm rất khó nhất quyết. Bác là trá hình được Đảng chọn để tự trình diện với thế giới. Nhiệm vụ của Bác cốt là thành tiêu điểm cho tình yêu, hận thù và sùng kính là những cảm xúc dễ hướng về một cá nhân hơn là về một tổ chức. Dưới Bác là Đảng Trong, với số thành viên giới hạn đến sáu triệu, hay không đến hai phần trăm tổng số dân Đại Dương. Dưới Đảng Trong là Đảng Ngoài, có thể được coi là tay chân nếu Đảng Trong được mô tả như khối óc của nhà nước. Dưới hơn là đám quần chúng đần độn mà chúng ta quen gọi là "dân đen", gần khoảng tám mươi nhăm phần trăm dân số. Theo danh từ dùng trong đoạn phân loại trên, dân đen là Hạ Lưu: còn đám dân nô lệ ở vùng đất Xích Đạo, luôn luôn qua hết tay kẻ chinh phục này đến tay kẻ chinh phục kia, họ không phải là một phần tử thường trực hay thiết yếu của cơ cấu.
Trên nguyên tắc, sự thuộc thành phần ba giới không theo cha truyền con nối. Theo lý thuyết con của thành viên Đảng không sinh ra thuộc Đảng Trong. Sự gia nhập chi Đảng nào cũng qua một cuộc thi cử vào lúc mười sáu tuổi. Không có sự kỳ thị chủng tộc hay ưu thế của một tỉnh này trên tỉnh kia. Dân Do Thái, dân da đen, dân Nam Mỹ thuần chủng thổ dân, được giữ chức vụ tối thượng trong Đảng, và quản trị viên của vùng nào bao giờ cũng được chọn trong dân cư vùng đó. Không tại một phần Đại Dương nào dân chúng có cảm tưởng mình bị đô hộ và cai trị từ một thủ đô xa xăm. Đại Dương không có thủ đô và vị nguyên thủ quốc gia không ai biết ở đâu. Trừ việc Anh ngữ là thông ngôn chính và Ngôn Mới là ngôn ngữ chính thức, Đại Dương không trung ương tập quyền chút nào. Những người lãnh đạo không gắn bó với nhau vì máu mủ mà vì sự tán đồng một chủ nghĩa chung. Quả thì xã hội của chúng ta phân tầng và phân tầng một cách rất khắt khe, thoạt nhìn tưởng theo phép cha truyền con nối. Sự di động giữa các đoàn thể khác nhau ít xảy ra hơn duới thời tư bản hay cả dưới thời tiền kỹ nghệ. Giữa hai chi Đảng có một chút trao đổi nhưng chỉ vừa đủ để bảo đảm sự loại trừ kẻ yếu kém khỏi Đảng Trong, và sự vô hại hóa đảng viên Đảng Ngoài có tham vọng bằng cách cho họ lên chức. Trong thực hành, dân đen không được phép thi đậu vào Đảng. Những người có khiếu nhất trong đám họ, có thể biến thành ổ bất mãn, bị Cảnh Sát Tư Tưởng điểm mặt và trừ khử, thế thôi. Nhưng sự thể này không nhất thiết phải vĩnh viễn, và cũng không phải là một vấn đề nguyên tắc. Đảng không phải là một giai cấp theo nghĩa xưa. Đảng không nhằm truyền quyền cho con cái mình vì chúng là con cái; và nếu không có cách nào khác để giữ những người có khả năng nhất nơi tột đỉnh, Đảng rất sẫn sàng tuyển lựa cả một thế hệ mới từ hàng ngũ dân đen. Trong những năm mấu chốt, sự Đảng không phải là một tổ chức di truyền đã có công dụng làm tê liệt phe đối lập. Thứ đảng viên xã hội cũ, được huấn luyện để chống đối cái gọi là "đặc quyền giai cấp", tin rằng cái gì không được di truyền không thể bền lâu. Họ không hiểu rằng sự liên tục của một nhóm trùm đầu không cần có thể chất, họ không ngẫm rằng các giới quý tộc kế tập luôn luôn chóng tàn, trong khi những tổ chức dưỡng tuyển như giáo hội Gia Tô kéo dài có khi cả trăm hay nghìn năm. Bản chất của phép quả đầu không phải là sự cha truyền con nối mà là sự dai dẳng của một thế giới quan và một lối sống do người chết áp người sống phải theo. Một nhóm chỉ đạo còn là một nhóm chỉ đạo nếu chỉ định được kẻ kế vị. Đảng không lo lưu truyền máu mủ của mình mà lo lưu truyền chính mình. Ai là kẻ nắm quyền không quan trọng, miễn cơ cấu đẳng cấp vẫn y nguyên.
Mọi tín ngưỡng, tập tục, sở thích, cảm xúc, thái độ tinh thần đặc trưng của thời chúng ta thực ra có phận sự giữ vững sự thần bí của Đảng và ngăn sự nhận thức thực chất của xã hội ngày nay. Hiện giờ sự phản kháng cụ thể hay bất cứ động tác chống đối sơ khởi nào cũng không thể có được. Từ dân đen không có gì đáng ngại. Để mặc họ yên, họ sẽ tiếp tục làm việc, sinh sản rồi chết, hết thế hệ này đến thế hệ kia, từ thế kỷ trước sang thế kỷ sau, không những không có xung lực phản kháng mà còn không có tư cách hiểu rằng thế giới có thể có bộ mặt khác. Họ chỉ có thể trở thành nguy hiểm nếu sự tiến bộ kỹ thuật công nghiệp buộc phải nâng cao trình độ giáo dục của họ; nhưng vì sự tranh đua quân sự và thương mại không quan hệ nữa, trình độ giáo dục quần chúng hiện nay suy giảm. Quần chúng có hay không có quan niệm gì bị coi như không đáng kể. Có thể để cho họ có tự do tư tưởng vì họ không có trí tuệ. Trái lại, nơi Đảng viên, không thể dung thứ một sự lệch lạc quan điểm nhỏ nhặt về một vấn đề tầm phào nhất nào.
Đảng viên sống từ lúc sinh ra tới lúc chết dưới mắt của Cảnh Sát Tư Tưởng. Ngay khi họ ở một mình, họ không bao giờ chắc được họ có một mình. Dù ở đâu chăng nữa, lúc ngủ hay lúc thức, khi làm việc hay nghỉ ngơi, trong bồn tắm hay trong giường, họ cũng có thể bị giám sát thình lình mà không được cảnh cáo và kbông được biết rằng mình đang bị dò xét. Tình giao hảo, thú giải trí, cách cư xử đối với vợ con, sắc mặt khi ở một mình, những lời lẩm bẩm trong giấc ngủ, cả những cử động đặc biệt của thân xác, việc gì của họ cũng bị quan sát tỉ mỉ. Không những bất cứ hành vi quả thật xấu nào của họ, mà bất cứ thái độ khác thường nào, dù nhỏ, bất cứ sự thay đổi thói quen nào, bất cứ điệu bộ bối rối nào, có thể là triệu chứng của một cuộc chiến đấu nội tâm, đều chắc chắn bị điều tra ra. Họ không có tự do chọn lựa bất cứ chiều hướng gì. Mặt khác, hành vi của họ không được luật pháp hay một bộ qui lệ cư xử định chế rõ ràng. Tại Đại Dương không có luật lệ. Những tư tưởng hay hành động chắc chắn đưa đến cái chết nếu bị bại lộ không bị chính thức cấm, và những cuộc thanh trừ vô tận, những vụ bắt bớ, tra tấn, bỏ tù và hóa hơi không bị bắt chịu như hình phạt của tội thực sự phạm phải, mà cốt tiêu diệt những kẻ có thể phạm tội khi nào đó trong tương lai. Đảng viên bắt buộc phải có không những lập trường đúng mà cả bản năng đúng. Nhiều tín điều và thái độ đòi hỏi nơi họ không bao giờ được tuyên bố trắng ra, và không thể phát biểu chúng mà không lột trần mâu thuẫn nội tại Anh Xã. Nếu Đảng viên là một kẻ chính thống tự nhiên (theo Ngôn Mới là một kẻ ý tốt), trong mọi trường hợp, không cần suy nghĩ, họ sẽ biết thế nào là lòng tin đúng hay cảm xúc mong muốn. Nhưng dù sao đi nữa, một sự huấn luyện tinh thần kỹ càng bắt đầu từ thuở thiếu thời tập trung quanh những danh từ Ngôn Mới như chặn tội, trắng đen, ý đôi, khiến họ không có khả năng suy nghĩ quá sâu xa về bất cứ vấn đề gì.
Đảng viên được trông đợi không có cảm xúc riêng tư và không ngớt hăng hái. Họ được kể như sống trong một sự cuồng nhiệt liên tục của hận thù đối với quân ngoại địch và nội phản, của niềm hân hoan chiến thắng, của sự tự hạ trước uy quyền và óc khôn ngoan của Đảng. Những sự bất mãn gây ra bởi nếp sống trơ trụi không thỏa ý của họ được quyết tâm hướng ra ngoài và được làm tan biến nhờ những kỹ xảo như Hai Phút Hận Thù, và những lập luận có thể đưa đến một thái độ ngờ vực hay phản nghịch bị bóp chết trước nhờ kỷ luật nội tâm sớm luyện đạt của họ. Chặng kỷ luật đầu tiên và đơn giản nhất, có thể được dạy cho trẻ nhỏ, có tên là chặn tội theo Ngôn Mới.Chặn tội chỉ năng khiếu dừng bặt, như thể do linh tính, trước ngưỡng cửa của một tư tưởng nguy hiểm. Nó bao gồm khả năng không tóm lấy những sự tương tự, không nhận thấy những sự sai lầm luận lý, không hiểu những lý lẽ giản dị nhất nếu chúng nghịch với Anh Xã, và chán ngán hay ghét bỏ bất cứ dòng tư tưởng nào có thể dẫn đến một hướng tà thuyết. Chặn tội, tóm lại, chỉ sự đần độn tự vệ. Nhưng ngu độn không đủ. Ngược lại, sự chính thống theo toàn nghĩa đòi hỏi một sự kềm chế diễn trình tư tưởng cá nhân trọn vẹn như sự kềm chế thân xác của người làm trò nhào lộn vặn vẹo. Xã hội Đại Dương tận cùng dựa trên niềm tin Bác có sức vạn năng và Đảng không thể lầm lẫn. Nhưng vì thực ra Bác không có sức vạn năng và Đảng có lầm lẫn, cần có một sự uyển chuyển dẻo dai từng giây từng phút trong việc bàn giải sự kiện. Bí quyết đây là trắng đen. Như nhiều danh từ Ngôn Mới, chữ này đồng thời có hai nghĩa trái ngược nhau. Áp dụng cho kẻ đối nghịch, nó chỉ cái thói trâng tráo nói đen thành trắng ngược với sự thể hiển nhiên. Áp dụng cho một Đảng viên nó chỉ một ý chí chính trực nói trắng thành đen khi kỷ luật Đảng đòi hỏi. Nhưng nó cũng chỉ khả năng tin rằng đen là trắng, và hơn nữa,biết rằng đen là trắng và quên đi sự mình đã từng tin ngược lại. Điều này đòi hỏi một sự xuyên tạc quá khứ liên tục thực hiện được nhờ hệ thống tư tưởng bao gồm mọi thứ được mệnh danh là ý đôi trong Ngôn Mới.
Sự xuyên tạc quá khứ cần thiết vì hai lý do, trong đó có môt lý do phụ, có thể nói là phòng ngừa. Lý do phụ là sự Đảng viên cũng như dân đen chịu đựng cảnh hiện tại một phần vì họ không có tiêu chuẩn để so sánh. Họ phải bị cắt khỏi quá khứ, hệt như họ phải bị cúp khỏi các nước ngoài, vì họ cần phải tin rằng họ sướng hơn tổ tiên họ, rằng mức tiện nghi vật chất trung bình luôn luôn lên cao. Nhưng lý do quan trọng hơn nhiều của sự tu chỉnh quá khứ là nhu cầu bảo vệ sự không thể lầm lẫn của Đảng. Không những chỉ vì các bài diễn văn, các bản thống kê, các tài liệu đủ loại luôn luôn cần được cập nhật hóa với mục đích chứng tỏ rằng các dự đoán của Đảng lúc nào cũng đúng. Mà cũng vì không bao giờ một sự thay đổi trong chủ thuyết hay đường lối chính trị nào có thể được chấp nhận. Bởi đổi ý hay đổi chính sách là thú nhận sự kém cỏi. Nếu ví dụ, Âu Á hay Đông Á (nước nào cũng được) là kẻ thù hôm nay, nước đó phải mãi mãi là kẻ thù. Và nếu sự kiện nói khác thì sự kiện phải bị sửa đổi. Thành thử lịch sử luôn luôn bị viết lại. Sự giả mạo hàng ngày quá khứ này, do Bộ Sự Thật đảm trách, cần thiết cho sự vững chắc của chế độ chẳng kém việc đàn áp và dò thám của Bộ Tình Yêu.
Tính đổi thay của quá khứ là trung căn của Anh Xã. Theo lập cứ, những sự kiện xảy ra trong quá khứ không có sự hiện hữu khách quan, chỉ tồn tại trong văn kiện hay ký ức con người. Quá khứ là điều gì tài liệu và ký ức đều thừa nhận. Và vì Đảng có toàn quyền kiểm soát mọi tài liệu cũng như toàn quyền kiểm soát trí óc Đảng viên, do đó quá khứ là điều gì Đảng khiến vậy. Kết quả cũng là mặc dầu quá khứ bị sửa đổi, nó không bao giờ biến chất trong bất cứ trường hợp nào. Vì khi nó đã được tái tạo dưới bất cứ hình thức nào theo nhu cầu đương thời, thuyết mới là quá khứ, và không một quá khứ nào khác đã từng được có bao giờ. Luận điệu này vẫn vững ngay khi, như thường xảy ra, cùng một sự kiện bị sửa đi sửa lại nhiều lần trong năm đến nỗi không thể nhận ra được. Lúc nào Đảng cũng nắm trong tay sự thật tuyệt đối, và hiển nhiên sự tuyệt đối không bao giờ khác nay. Ta sẽ thấy rằng sự kiểm soát quá khứ trên hết tùy thuộc sự huấn luyện trí nhớ. Khiến chắc mọi văn kiện trùng hợp với sự chính thống nhất thời chỉ là một hành động máy móc. Còn cần phải nhớ rằng sự kiện đã xảy ra theo cách muốn. Và nếu cần phải sắp lại kỷ niệm hay sửa lại văn kiện, cũng cần phải quên mình đã làm vậy. Phép quên đó có thể học được như bất cứ thuật tinh thần nào khác. Nó được luyện bởi phần lớn Đảng viên, và chắc chắn bởi hết những kẻ vừa thông minh vừa chính thống. Theo Ngôn Cũ nó được gọi một cách trắng trợn là "kiểm soát thực tế". Theo Ngôn Mới nó là ý đôi, tuy ý đôi có nghĩa rộng hơn thế.
Ý đôi chỉ khả năng giữ đồng thời trong tâm trí hai niềm tin trái nghịch nhau và chấp nhận cả hai. Nhà trí thức của Đảng biết ký ức của mình phải biến đổi theo chiều hướng nào; do đó họ biết họ đùa với thực tế, nhưng nhờ thi triển ý đôi họ cũng tự an lòng đã không xúc phạm thực tế. Quá trình này phải được ý thức kẻo không được thực hành với đủ chính xác, nhưng nó cũng cần sự vô ý thức kẻo mang theo mặc cảm giả dối và tội lỗi nối tiếp. Ý đôi nằm ngay trong lòng Anh Xã, và tác động cốt yếu của Đảng là vừa sử dụng tính lừa bịp có ý thức vừa lưu giữ sự bền chí đi đôi với tính trung thực trọn vẹn. Cố ý nói dối trong khi tin thực vào lời nói dối, quên đi bất cứ sự kiện nào đã trở thành bất tiện, rồi, khi lại thấy cần, lôi sự kiện đó ra khỏi quên lãng đúng đủ thời gian cần thiết, chối bỏ sự hiện hữu của thực tế khách quan đồng thời kể đến thực tế do mình chối bỏ — toàn quá trình đó là một sự tất yếu nhất thiết. Ngay lúc dùng từ ý đôi cần phải thi triển ý đôi. Vì sử dụng từ đó tức là công nhận mình gian lận với thực tế; nhờ một sự thực hành ý đôi mới, có thể xóa bỏ sự hiểu biết này, và cứ như vậy mãi mãi với sự dối trá đi trước sự thật một bước. Tận cùng nhờ ý đôi Đảng đã có thể — và có lẽ, theo như ta biết, tiếp tục có thể trong hàng ngàn năm — khiến dòng lịch sử ngưng đọng.
Mọi quả đầu chế trong quá khứ đã mất quyền, hoặc vì bị cốt hóa, hoặc vì trở nên nhu nhược. Hoặc họ đâm ngu độn và ngạo nghễ, không biết tự sửa cho hợp với biến cảnh rồi bị lật đổ; hoặc họ đâm cởi mở và nhút nhát, nhượng bộ khi phải dùng võ lực, rồi cũng bị lật đổ. Có thể nói, họ bị hạ hoặc bởi sự có ý thức, hoặc bởi sự vô ý thức. Thành quả của Đảng là đã dựng lên một hệ thống tư tưởng trong đó cả hai điều kiện có thể cùng tồn tại. Và nền thống trị của Đảng, muốn vĩnh cửu, không thể dựa trên một căn bản tinh thần khác. Nếu muốn cai trị và tiếp tục cai trị phải biết phân tán óc thực tế. Bởi bí quyết của sự cầm quyền là phối hợp niềm tin nơi tính vô quá của chính mình với khả năng rút bài học từ những lầm lỗi qua.
Chẳng cần phải nói, những kẻ xử dụng ý đôi một cách tinh tế nhất là những kẻ đã sáng chế ra ý đôi và biết nó là một hệ thống gian lận tinh thần rộng lớn. Trong xã hội chúng ta, những kẻ biết nhiều nhất những sự xảy ra cũng là những kẻ ít thấy rõ nhất thực trạng của thế giới. Thông thường, sự hiểu biết càng rộng, ảo tưởng càng lớn; càng thông minh, càng loạn trí. Một bằng chứng hiển nhiên là óc cuồng chiến tăng cường độ với sự thăng tiến trên bực thang xã hội. Những kẻ có thái độ gần như hợp lý nhất đối với chiến tranh là những dân bị đô hộ tại các vùng đất tranh giành. Trong quan điểm họ, chiến tranh chỉ là một tai họa liên tục quét đi quét lại tấm thân họ như thể một đợt sóng triều. Phe nào thắng hay bại là một vấn đề hoàn toàn dửng dưng đối với họ. Họ thừa hiểu rằng một sự thay đổi bá chủ chỉ có nghĩa là họ sẽ làm việc y như trước cho chủ mới và chủ mới sẽ đối xử với họ y hệt chủ cũ. Đám dân lao động được ưu đãi hơn một chút mà chúng ta gọi là "dân đen" chỉ có ý thức từng cơn về chiến tranh. Khi cần có thể dồn họ vào cơn cuồng hãi và cuồng hận, nhưng được để yên, họ có thể quên bẵng thật lâu sự đang hiện hữu của chiến tranh. Chỉ trong hàng ngũ của Đảng, và trên hết tại Đảng Trong, mới thấy được lòng hăng hái say chiến tranh thực sự. Sự chinh phục thế giới được tin chắc vào nhất bởi những kẻ biết không thể đạt được nó. Mối liên lạc đặc biệt của hai nghịch trạng — sự hiểu biết với sự ngu xuẩn, sự vô luân với sự cuồng tín — là một trong những điểm đặc trưng của xã hội Đại Dương. Chủ thuyết chính thức đầy rẫy mâu thuẫn ngay khi không có lý do thực tiễn khiến phải mâu thuẫn. Nên chi, Đảng bác bỏ và chê bai mọi nguyên tắc do phong trào xã hội khởi xướng, nhưng Đảng chọn làm như vậy nhân danh thuyết xã hội. Đảng giảng dạy một sự khinh khi dân lao động chưa từng thấy qua các thế kỷ, nhưng Đảng bắt Đảng viên mặc một bộ đồng phục có thời dành riêng cho dân thợ thuyền và vì lẽ đó được chấp nhận. Đảng triệt để ngầm phá tình đoàn kết trong gia đình, nhưng Đảng gọi vị lãnh đạo của mình bằng một tên trực tiếp nhắc đến lòng trung đối với gia đình. Ngay cả tên của bốn Bộ cai trị chúng ta cũng phô bày một tính trâng tráo trong sự cố ý đảo lộn sự tình. Bộ Hòa Bình liên hệ với chiến tranh, Bộ Sự Thật với sự dối trá, Bộ Tình Yêu với sự tra tấn và Bộ Sung Túc với sự đói kém. Những mâu thuẫn trên không ngẫu nhiên mà cũng không là kết quả của tính giả dối thường tình, đó là những sự quyết tâm thực hành ý đôi. Bởi phải dung hòa các mâu thuẫn mới giữ vững được quyền hành. Không thể phá vỡ được chu trình cũ bằng cách nào khác. Nếu muốn tránh hẳn sự bình đẳng giữa con người — nếu Thượng Lưu, như ta gọi giới cầm đầu, muốn giữ mãi mãi địa vị của mình — thì điều kiện tinh thần át trội phải là trạng thái điên loạn kiềm chế.
Nhưng có một câu hỏi mà cho tới lúc này chúng ta gần như bỏ qua. Đó là tại sao lại phải tránh sự bình đẳng giữa con người ? Cho là cơ chế quá trình đã được mô tả đúng, đâu là động cơ của sự cố gắng lớn lao có kế hoạch kỹ càng hòng làm ngưng đọng lịch sử tại một đặc điểm thời gian ấy ?
Đây chúng ta đụng phải điều bí mật trọng yếu. Như chúng ta đã thấy, tính thần bí của Đảng, và trên hết của Đảng Trong, tùy thuộc ý đôi. Nhưng nằm sâu hơn ở dưới là động cơ nguyên thủy, cái bản năng không bao giờ bị đặt thành vấn đề đã đầu tiên đưa đến sự giành quyền và mang lại ý đôi, Cảnh Sát Tư Tưởng, chiến tranh liên tục, và các trò tạp nhạp cần thiết khác. Động cơ đó thật ra là...
Winston chợt nhận thức sự im lặng như người bỗng để ý đến một âm thanh mới. Anh có cảm tưởng Julia im tiếng từ khá lâu. Nàng nằm nghiêng, cởi trần từ eo trở lên, má gối trên tay, một lọn tóc đen phủ xòa xuống mắt. Ngực nàng phập phồng chậm chạp và đều đặn.
"Julia."
Không có tiếng trả lời.
"Julia, em còn thức không ?"
Không có trả lời. Nàng đã ngủ. Anh đóng sách lại, đặt nó cẩn thận trên sàn, nằm xuống và kéo khăn phủ giường lên trên hai người.
Anh nghĩ rằng anh vẫn chưa biết điều bí mật cuối cùng là gì. Anh hiểu như sau; nhưng anh không hiểu tại sao. Chương I cũng như chương III thực ra không cho anh biết điều gì anh chưa biết, nó chỉ hệ thống hóa sự hiểu biết sẵn có của anh. Nhưng đọc nó xong anh hiểu rõ hơn trước anh không điên. Thuộc về một thiểu số, dù là một thiểu số có một người, không có nghĩa là điên. Có sự thật và sự không thật, và nếu mình bám vào sự thật dù là chống lại toàn thể thế giới, mình không điên. Một ánh vàng từ mặt trời xế tàn len qua cửa sổ rớt xuống gối. Anh nhắm mắt lại. Mặt trời trên mặt anh và tấm thân mịn màng của cô gái sát người anh gây trong anh một cảm giác mạnh mẽ, êm ru và tự tín. Anh được an toàn, mọi sự tốt đẹp. Anh vừa thiếp đi vừa lẩm bẩm: "Trí lành mạnh không thuộc sự thống kê," với cảm tưởng nhận xét này chứa đựng một đạo lý sâu xa.
Khi anh tỉnh dậy anh có cảm giác anh đã ngủ một giấc dài, nhưng một cái liếc vào chiếc đồng hồ cũ kỹ cho anh biết mới có hai mươi giờ ba mươi. Anh nằm ngủ gà một lúc; rồi tiếng hát to vang thường lệ vọng từ dưới sân lên:
Đó chỉ là một giấc mơ vô vọng,
Thoáng qua như một ngày xuân,
Nhưng một cái nhìn, một tiếng nói với mộng vàng theo đó
Đã cướp đi mất trái tim tôi !
Bài hát lẩm cẩm có vẻ vẫn được ưa chuộng. Vẫn nghe thấy nó khắp nơi. Nó sống lâu hơn bản Hận Ca. Julia thức dậy với tiếng hát, khoan khoái vươn mình rồi ra khỏi giường.
"Em đói," nàng nói. "Mình làm thêm một ít cà phê đi. Chết chửa ? Bếp tắt rồi và nước lạnh nguyên." Nàng nhấc bếp dầu lên lắc. "Hết dầu bên trong."
"Anh nghĩ thường mình có thể xin già Charrington một ít."
"Lạ là em đã canh chừng cho bếp đầy dầu. Em phải mặc áo quần vào mới được," nàng nói tiếp. "Trời có vẻ lạnh hơn."
Winston cũng đứng dậy mặc quần áo. Tiếng hát không biết mệt tiếp tục:
Người ta nói thời gian hàn mọi sự,
Người ta nói mình luôn luôn quên được;
Nhưng nụ cười với nước mắt bao năm
Vẫn quặn đau phím sợi cõi lòng tôi.
Anh vừa buộc thắt lưng trên bộ áo liền quần vừa bước ra cửa sổ. Mặt trời chắc đã lặn sau dãy nhà; nó không còn chiếu xuống sân nữa. Các hòn đá lát ướt như thể chúng đã được lau rửa, và anh có cảm tưởng trời cũng đã được rửa vì màu xanh giữa các ống khói quá tươi lạt. Người đàn bà đi qua đi lại không thấy mệt, miệng hết ngậm lại há, khi hát khi im, lấy tã phơi thêm, càng lúc càng nhiều. Anh tự hỏi không hiểu bà ta giặt giũ vì kế sinh nhai hay bà chỉ làm nô lệ cho hai ba chục đứa cháu nhỏ. Julia đã đến cạnh anh, cả hai như bị thôi miên nhìn xuống thân hình vạm vỡ dưới sân. Ngó ngưòi đàn bà trong giáng điệu đặc biệt của bà ta, với đôi cánh tay ụ giương lên phía dây tã, với bộ mông lực lưỡng như mông ngựa, lần đầu tiên anh bỗng thấy bà ta đẹp. Trước đây anh chưa bao giờ nghĩ rằng thân thể một người đàn bà cỡ năm mươi tuổi, sồ sề tới mức quái đản vì sinh đẻ, bị chai cứng và sần sùi vì việc nặng đến độ phát thô tận thớ giống như một củ cải quá chín, lại có thể đẹp được. Nhưng sự thể là vậy, vả lại, anh nghĩ, sao lại không được ? Tấm thân rắn chắc không đường cong y như một tảng đá hoa cương, và làn da ráp đỏ, so với thân hình của một cô gái tựa như quả cây hoa hồng sánh với hoa hồng. Tại sao lại coi quả kém hoa ?
"Bà ta đẹp," anh lẩm bẩm.
"Dễ chừng mông bà ta đo được một thước," Julia nói.
"Đấy là kiểu sắc đẹp của bà ta," Winston đáp.
Anh vòng tay dễ dàng quanh tấm eo mảnh dẻ của Julia. Từ háng tới đầu gối, hông của nàng cọ sát người anh. Từ thân thể họ sẽ không nẩy ra một đứa nhỏ nào. Đó là điều đáng kể họ không bao giờ làm được. Họ chỉ có thể truyền điều bí mật bằng lời nói, từ tâm trí này qua tâm trí kia. Người đàn bà dưới sân không có tâm trí, bà ta chỉ có đôi cánh tay vạm vỡ, một trái tim đầy nhiệt tình, và một cái bụng mắn đẻ. Anh tự hỏi bà ta đã sinh được bao nhiêu con. Dễ thường mười lăm người. Bà ta đã từng có kỳ thanh sắc khai hoa nhất thời của đóa hồng dại, trong khoảng một năm, xong bà ta đã bỗng phình lên như một trái cây màu mỡ, và đâm cứng đỏ thô, để rồi đời sống của bà toàn là giặt giũ, kỳ cọ, vá mạng, bếp nước, quét dọn, lau chùi, gắn sửa, cọ chải, giặt giũ, trước là cho con, sau là cho cháu, suốt ba mươi năm liền. Rốt cuộc bà ta vẫn còn hát. Lòng tôn kính của anh đối với bà lẫn trộn sao đó với cảnh trời lạt không mây duỗi trên không gian vô tận sau các ống khói. Kể cũng lạ khi nghĩ rằng trời y hệt đối với mọi người, tại Âu Á hay ở Đông Á cũng như tại nơi đây. Và dưới bầu trời, dân chúng cũng thật y nhau — khắp nơi, khắp thế giới, hàng trăm ngàn triệu người như thế cả, những người không biết đến sự hiện hữu của nhau, bị ngăn cách nhau bởi bức tường thù hận và dối trá, tuy gần giống nhau như lột — những người dân không bao giờ học nghĩ nhưng tích trữ trong trong tim gan thớ thịt cái sức mạnh sẽ có ngày đảo lộn thế giới. Nếu có hy vọng, nó nằm nơi dân đen ! Không cần đọc đoạn kết của quyển sách, anh biết đó phải là lời ủy thác cuối cùng của Goldstein. Tương lai thuộc về dân đen. Liệu anh có chắc rằng, khi thời đến, thế giới do họ xây dựng sẽ không xa lạ đối với anh, Winston Smith, chẳng kém gì thế giới của Đảng không ? Có chứ, vì ít nhất nó sẽ là một thế giới lành mạnh. Nơi nào có sự bình đẳng, có thể có sự lành mạnh. Chẳng sớm thì muộn, chuyện đó sẽ xảy ra, sức mạnh sẽ biến thành ý thức. Dân đen bất tử, không thể nghi ngờ điều này được khi nhìn vào dáng vóc kiên cường dưới sân. Tận cùng giờ thức tỉnh của dân đen sẽ đến. Và cho tới khi đó, dù phải một nghìn năm nữa, họ sẽ giữ mình sống sót chống mọi vận rủi, như thể chim muông, truyền cho nhau từ thân xác này qua thân xác kia nguồn sinh lực mà Đảng không dự chia được và cũng không sao diệt nổi.
"Em còn nhớ con chim chích chòe hát cho chúng mình hôm đầu tiên đó không, tại ven rừng ấy ?" anh hỏi.
"Nó không hát cho chúng mình," Julia cãi. "Nó hát để tự chiều nó. Không phải thế nữa. Nó chỉ hát, thế thôi."
Chim hát, dân đen hát, Đảng không hát. Khắp quanh thế giới, Tại Luân Đôn hay Nữu Ước, ở Phi Châu hay Ba Tây, tại những đất cấm bí ẩn bên kia biên giới, ngoài phố Ba Lê hay Bá Linh, tại các làng trên đồng bằng Nga vô tận, trong các tiệm tạp hóa ở Trung Hoa và Nhật Bản — khắp nơi đứng sững một bóng người vững chắc không thể khắc phục được, một hình thù trở thành quái dị vì làm lụng và thai nghén, cực nhọc từ ngày sinh đến lúc chết, nhưng vẫn hát. Từ những bộ hông mạnh mẽ đó một giống người có ý thức sẽ có ngày ra đời. Mình là kẻ chết, tương lai thuộc về họ. Nhưng mình có thể tham dự tương lai đó nếu mình biết bảo tồn tinh thần như họ duy trì thể xác, và lưu truyền án lý mật bảo rằng hai cộng hai là bốn.
"Mình là kẻ chết," anh nói.
"Minh là kẻ chết," Julia ngoan ngoãn lặp lại.
"Các ngươi là kẻ chết," một giọng đanh thép cất tiếng đằng sau họ.
Họ nhẩy xa nhau. Ruột Winston như băng lại. Anh có thể thấy lòng trắng bao quanh mống mắt Julia. Mặt nàng quay vàng sữa. Vết phấn đỏ còn điểm má nàng bật hẳn lên làm như chúng không dính líu gì với làn da ở dưới.
"Các ngươi là kẻ chết," giọng đanh thép nhắc lại.
"Ở đằng sau bức tranh," Julia nói như thở.
"Ở đằng sau bức tranh," giọng kia nhái. "Đứng yên tại chỗ ! Không được đụng đậy trước khi có lệnh !"
Sự đã đến, cuối cùng sự đã đến ! Họ không thể làm gì được hơn là đứng nhìn vào mặt nhau. Chạy trốn, ra khỏi nhà trước khi quá muộn — không một ý nào tương tự hiện qua óc họ. Không thể tưởng tới việc bất tuân giọng đanh thép từ tường vọng ra. Có tiếng cách như thể một chốt cửa bị vặn ngược và có tiếng kính vỡ. Bức tranh rớt xuống đất để lộ ra chiếc máy truyền hình đằng sau.
"Bây giờ chúng nhìn thấy được mình," Julia nói.
"Bây giờ chúng ta nhìn thấy được các ngươi," giọng nói tiếp lời. "Đứng ra giữa phòng. Xây lưng lại nhau. Khoanh tay sau đầu. Không được đụng vào nhau."
Họ không đụng vào nhau, nhưng anh tuồng như cảm thấy được sự run rẩy của thân thể Julia. Hay có lẽ đó chỉ là sự run rẩy của chính người anh. Anh có đủ sức ngăn được răng anh khỏi đánh lập cập, nhưng anh không kiềm chế nổi đầu gối anh. Có tiếng giầy ống thình thịch ở dưới, trong nhà và ngoài nhà. Sân hình như đầy người. Có vật gì bị kéo lê trên đá lát. Tiếng hát của người đàn bà đã vụt tắt. Có tiếng lăn ầm dài như thể chậu giặt bị quẳng qua sân, rồi có tiếng giận dữ hỗn độn kết cục bằng một tiếng kêu đau đớn.
"Nhà bị vây," Winston nói.
"Nhà bị vây," giọng nói lặp lại.
Anh nghe thấy Julia nghiến răng lại: "Em nghĩ mình nên từ giã nhau đây cho phải," nàng nói.
"Các ngươi từ giã nhau đi là đúng," giọng nói tiếp lời. Rồi một giọng nói khác hẳn, một giọng nhẹ, có học, mà Winston có cảm tưởng đã nghe được trước đây, xen vào; "Và nhân tiện, đương lúc còn câu chuyện, "Đây là cây nến để đưa anh đi ngủ, đây là thanh đao để chém cái đầu anh." !"
Có vật gì đập vào giường sau lưng Winston. Đầu một cái thang được ném qua cửa sổ đã chạm phải khung giường. Có người chèo qua lối cửa sổ. Có tiếng giầy ống giẫm trên cầu thang. Căn phòng đầy đàn ông lực lưỡng mặc đồng phục đen, chân đi giầy ống bịt sắt, tay cầm dùi cui.
Winston không còn run rẩy nữa. Ngay mắt, anh cũng không chớp mấy. Chỉ có một điều hệ trọng: giữ bình tĩnh, giữ bình tĩnh, không cho chúng cớ để đánh mình ! Một tên có bộ quai hàm nhẵn của võ sĩ quyền thuật trên đó cái miệng chỉ là vết gạch, ra đứng trước mặt anh, lắc lư dùi cui giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ với một vẻ đăm chiêu. Winston bắt gặp mắt hắn. Cảm tưởng như ở truồng, với tay để sau đầu và mặt mũi cùng thân thể phơi ra đó, gần như quá sức chịu đựng. Tên võ sĩ lè đầu một cái lưỡi trắng ra liếm chỗ đáng nhẽ là môi hắn, rồi bước qua mặt anh. Có một tiếng ầm khác. Có kẻ đã nhấc tấm chặn giấy thủy tinh lên khỏi bàn và đập nó tan thành mảnh trên đá lò.
Mảnh san hô, một vật uốn hồng nhỏ bé như một nụ hồng bằng đường gắn trên bánh ngọt, lăn qua tấm chùi chân. Nó nhỏ bé làm sao, Winston nghĩ, nó vẫn nhỏ bé làm sao ! Có tiếng hổn hển và tiếng đấm đằng sau anh, và anh bị đá mạnh vào đầu gối suýt mất thăng bằng. Một tên đàn ông đã đấm vào nhật tùng Julia, làm nàng gấp người lại làm hai như một cái thước kẻ bỏ túi. Nàng dãy dụa trên sàn cố lấy lại hơi. Winston không dám quay đầu lại dù chỉ một ly nhỏ, nhưng thỉnh thoảng gương mặt tái mét hổn hển của nàng hiện trong góc thị giác anh. Ngay trong cơn hãi hùng, cơ hồ anh cảm thấy đau đớn trong chính người anh, nhưng nỗi đau chết điếng không khẩn cấp bằng sự tranh đấu lấy lại hơi. Anh biết thế là thế nào; nỗi đau đớn ghê gớm dồn dập vẫn nằm đó nhưng chưa được thấy đau vì trước hết phải thở được đã. Rồi có hai tên đàn ông nắm vai và đầu gối nàng kéo nàng dậy, lôi nàng như một cái bị ra khỏi phòng. Winston thoáng thấy mặt nàng rũ xuống, vàng và quẹo lại, đôi mắt nhắm nghiền, vết phấn đỏ vẫn nguyên trên má, và đó là hình ảnh cuối cùng của nàng mà anh được thấy.
Anh đứng chết lặng. Chưa ai đánh anh. Nhiều tư tưởng tự động nhưng hình như hoàn toàn vô tích sự bắt đầu xuyên qua óc anh. Anh tự hỏi không biết chúng đã bắt ông Charrington chưa. Anh tự hỏi chúng đã đối xử ra sao với người đàn bà ngoài sân. Anh thấy buồn đi tiểu hết sức, và hơi lạ vì anh mới đái hai ba giờ trước. Anh để ý thấy đồng hồ trên bàn sưởi chỉ vào số chín, có nghĩa là hai mươi mốt giờ. Nhưng ánh sáng có vẻ quá mạnh. Ánh sáng không giảm độ vào lúc hai mươi mốt giờ vào một buổi chiều tháng tám sao ? Anh tự hỏi liệu anh và Julia đã nhầm giờ chăng — đã ngủ cả thời gian kim đồng hồ quay tròn và nghĩ rằng bây giờ là hai mươi mốt giờ trong khi thực ra đã là tám giờ ba mươi sáng ngày hôm sau. Nhưng anh không nghĩ xa hơn. Không thú vị gì.
Có tiếng bước khác, nhẹ hơn, trong lối đi. Ông Charrington vào phòng. Bộ điệu của mấy tên đàn ông mặc đồng phục đen bỗng thuần hơn. Cũng có cái gì thay đổi trong dáng điệu của ông Charrington. Mắt ông nhìn vào những mảnh chặn giấy thủy tinh.
"Nhặt các mảnh kia lên !" ông nói sẵng.
Một tên cúi xuống tuân lệnh. Giọng nói bình dân đã biến mất; Winston chợt hiểu anh đã nghe thấy giọng nói của ai mấy lúc trước trong máy truyền hình. Ông Charrington vẫn mặc chiếc áo khoác nhung cũ, nhưng tóc ông, trước đây gần bạc, đã hóa ra đen. Thêm vào ông không còn đeo kính. Ông ta đưa mắt sắc bén nhìn Winston có một lần như để kiểm tra căn cước anh, rồi không thèm để ý đến anh nữa. Ông ta vẫn dễ nhận ra, nhưng không còn là người cũ nữa. Thân hình ông ta đã thẳng lại và có vẻ lớn hơn. Mặt ông ta thay đổi rất ít, song le những thay đổi nhỏ đã làm ông hóa dạng hẳn. Cặp lông mày đen ít rậm hơn, những nét nhăn đã biến mất, các nét mặt dường như đã khác biệt; ngay cả mũi trông như ngắn hơn. Đó là khuôn mặt lanh lợi, lạnh lùng của một gã đàn ông chừng ba mươi nhăm tuổi. Winston sực nghĩ rằng lần thứ nhất trong đời anh, anh nhìn thấy và nhận ra một viên Cảnh Sát Tư Tưởng.