Nhím Hoàng Kim
08-18-2007, 09:22 PM
Chương 17 - Lượm đá lấp biển
Ở Phủ Tổng Thống Pháp, người ta nhấn mạnh là tất cả những chyện quan trọng không thể thực hiện một cách công khai ở nơi thanh thiên bạch nhật được . Đó là lề lối ngoại giao của người Pháp, kín đáo nhưng không có bí mật.
Tại Sài Gòn thì không được kín đáo lắm. Có quá nhiều trung gian, toàn là những người tốt, nhưng cũng có những sứ giả thật mà cũng có những sứ giả tưởng tượng nữa, những điệp viên hai ba mang, mờ ám.. hay ra vào các các trung tâm chánh trị và quân sự .
Bị châm biếm hay không thì vị trí của người Pháp ở đây ai cũng biết cả rồi :đại sứ Mérillon đã có quyết tâm xử dụng tới cùng lá bài của "lực lượng thứ ba" và của tướng Dương văn Minh.
Đối với người Pháp thì Miền Nam Việt Nam coi như đã thua trận rồi, nhưng chế độ Sài Gòn cũng chưa đến đỗi phải sụp đổ trong những tuần lễ sắp tới.. Cần phải thử bảo đảm cho sự tồn tại của một Miền Nam Việt Nam thu hẹp, một loại Nam Kỳ quốc. (nguyên tác :Cochinchine) Bắc Việt hình như chưa có gì gấp gáp lắm, họ sẽ chấp nhận một Chánh Phủ trung lập với lãnh đạo là ông Minh Dương.
Đó là những gì mà ông Pierre Brochand đã giải thích cho ông Polgar ngày 13 tháng 4 tại hồ bơi của Câu Lạc Bộ Thể Thao Sài Gòn. Ông Brochand là đệ nhị Cố Vấn của Tòa Đại Sứ Pháp, chuyên viên về các vấn đề Đông Dương, người có một vẻ đẹp ngâm đen của người Miền Nam nước Pháp, thực sự ông ta là người phụ tá chánh về chánh trị của đại sứ Mérillon. Ông đệ nhất Cố Vấn lo về vấn đề văn hóa và cơ quan của ông ta ở cách tòa đại sứ đến gần 2 cây số. Thời gian gần đây hai ông Brochand và Polgar gặp nhau rất thường.
Đã từ lâu rồi, ông Brochand có trách khéo ông Mérillon là không chịu khó đi gặp thường các người của lực lượng thứ ba. Ông Mérillon biết vậy nhưng ông nghĩ rằng nếu mình lui tới với ông Minh Dương thì ông Thiệu sẽ không được vừa lòng.
Bây giờ thì ông Polgar ngả về một giải pháp chánh trị, từ sự ra đi của ông Thiệu để cho có được người kế vị cho ông ta. Tại sao không phải là ông Minh Dương ? Hơn nữa, ông Cố Vấn Brochand đã chứng minh rất thực tế là nước Pháp sẵn sàng đón nhận 50 ngàn tỵ nạn chánh trị người Việt Nam . Như thế là ông ta đã áp dụng đường lối chánh trị của vị Đại Sứ của ông rồi.
Ông Mérillon người không lớn lắm, hơi cận thị, xuất thân từ trường Đại Học Quốc Gia Hành Chánh , có họ xa với Tổng Thống Giscard d'Estaing, đã được ông Georges Pompidou bổ nhiệm qua Sài Gòn và khi trình ủy nhiệm thư ông được Tổng Thống Thiệu đón tiếp bằng bản quốc thiều Pháp, một bản nhạc mà người ta mới được nghe lần đầu tiên từ 10 măm nay ở Miền Nam Việt Nam . Theo ông Mérillon thì đó là người ta cho người Pháp nhiều hơn những gì mà họ đang có. Cũng theo ông, thì có nhiều người Việt Nam nhìn ông ta như là một phó vương trong tư cách đại diện cho nước Pháp. Ông Mérillon có nhiều mục tiêu phải làm:
- Lo vấn đề an ninh cho người Pháp ở Việt Nam (gần 10.000 công dân Pháp), và ông đã đưa được về Sài Gòn hơn 300 người từ Cao Nguyên bằng các chuyến bay riêng..
- Trong viễn ảnh Sài Gòn bị Bắc Việt chiếm thì phải bảo vệ cộng đồng người Pháp, nhất là trong giai đoạn bàn giao, tranh tối tranh sáng.
Ông Mérillon nghĩ tới năm 1945, lúc người Nhật ra đi thì ở Sài Gòn trong một cư xá, người Pháp đã bị tàn sát trong những điều kiện thật đau thương tàn bạo , với trẻ con liệng vào lửa, phụ nữ bị hãm hiếp, đàn ông bị tra tấn hành hạ... Ông Mérillon cũng không nuốn thấy số phận Sài Gòn giống như Đà Nẵng .
- Phải làm sao cho nước Pháp càng có lợi bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.. Trong hai Miền Nam Bắc Việt Nam, đường lối chánh trị của Pháp nếu có, thì sẽ là một sự pha trộn giữa những kỷ niệm và những lời chúc tụng không chính xác....
Đới với chánh quyền Pháp, nước Việt Nam không có gì ưu tiên hết. Sau phong trào chống Mỹ thời Tổng Thống De Gaulle thì chánh quyền của ông Pompidou dịu dàng hơn đã mở đường cho Chánh Phủ hiện tại của ông Giscard d'Estaing căn cứ trên giả thuyết dễ dãi của Hà Nội . Có rất nhiều người Việt Nam ở Sài Gòn , ít nhất là những người ở lứa tuổi trên 40, đã nhắc đi nhắc lại là họ thấy gần người Pháp hơn là người Mỹ. Các người Mỹ thì thô lỗ và thẳng tánh, còn người Pháp thì nặng về tình cảm hơn. Về lịch sử thì họ đã có mặt ở cả Đông Dương. sự kiện ngoại giao quan trọng là Hiệp Định 1973 đã được ký kết ở Ba Lê.
Khi ông Mérillon rời Ba Lê để qua Sài Gòn thì ông có xin chỉ thị của ông Tổng Trưởng Michel Jobert thì ông nầy nói :
- " Người Đại Sứ không cần có chỉ thị. Ông ta phải tự tìm lấy cho mình". Và ông còn nói tiếp
- " Tòa đại sứ bên đó ra làm sao rồi ? Hãy làm thế nào để phải có một tòa đại sứ cho ra hồn !
Tòa đại sứ Pháp ở Sài Gòn rất đẹp. Trong dinh thự của mình, ông Mérillon đã cho người ta ngắm thỏa thích thang lầu hình khu ốc lấy kiểu ở các chiếc tàu chiến thời các Đô đốc Toàn quyền. Trên tường quét vôi trắng tinh, ông có nhiều sưu tầm quý giá màu xanh, nổi bật lên như các thác nước, như các vũ khí của thời Đệ Nhị Cộng Hòa, hay của Phủ Toàn Quyền... rất đẹp.
Trong tòa đại sứ của mình, ông Mérillon lúc nào cũng muốn tỏ ra mình là một nhà chánh trị có tầm cỡ. Ông tiếp khách nhiều, chịu khó nghe, và khuyến khích người nói.
Với ông Hoàng đức Nhã, ông nói :
- " Ông cần phải nói với ông Anh của ông là ông ta phải biết chịu khó dàn xếp, đưa "lực lượng thứ ba" vào quỹ đạo, hay phải tiếp xúc với CPLTCHMN. (Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam)
Ông Nhã đã trả lời:
- " Ông nghĩ rằng Hà Nội sẽ để cho ông ấy nói chuyện với CPCMLTMN hay sao ?
Ông Mérillon cũng đã to nhỏ với ông Nhã rằng :
- " Về phần ông, ông có thể có một vai trò quan trọng trong Chánh Phủ mới đó !
- " Chuyện đó không làm cho tôi quan tâm chút nào. Tôi không hề có một chút tin tưởng nào về cái gọi là Chánh Phủ Liên Hiệp đó bao giờ. "
Những người của ông Thiệu thất là quá thiển cận !
Ông Mérillon là một trong những người đại sứ hiếm hoi được ông Martin mời cơm. Hai người đều biết giá trị của nhau. Theo lời khuyên của Polgar, Đại sứ Martin không mấy tin tưởng vào tin tức quân sự hay chánh trị của người Pháp. Dĩ nhiên người Pháp là chủ đồn điền, là nhà thầu, là các tu sĩ sống rải rác khắp nơi ở các tỉnh, nhưng không có gì qua được hệ thống hữu hiệu của Trung Ương Tình Báo Mỹ (CIA). Trái lại, ông Martin sẳn sàng nghe ông Mérillon trên lãnh vực ngoại giao. Tối thiểu người ta cũng có thể nhờ người Pháp. Hai người đều ở cạnh nhau trên đại lộ Thống Nhất. Hai ông đại sứ đã cho đục một cánh cửa xuyên qua bức tường chung của hai tòa đại sứ. Trong trường hợp hệ thống điện thoại của Sài Gòn bị hư hay bị trục trặc thì hai người sẽ dùng một đường giây trực tiếp nối liền hai điện thoại màu đỏ được đặt ở ngay văn phòng của mỗi người . Về phía người Pháp, điện thoại nầy được đặt ở trong một hầm trú ẩn nằm ở sát cạnh văn phòng của ông Mérillon. Do đó mà có một lần khi vị sứ thần của Tòa Thánh đến thăm ông Mérillon, thấy ông nầy lật đật chạy ra khỏi văn phòng, vị sứ thần nầy lấy làm ngao ngán tưởng ông đại sứ nầy đang bị tháo dạ.
Ông Martin đang tìm một lối thoát chánh trị và càng ngày ông càng nghe nhà ngoại giao của Pháp. Vào giữa tháng 4, hai ông Martin và Mérillon đều đồng ý là: ông Thiệu thật sự là một chướng ngại.
Ông Martin cũng mân mê một số giải pháp khác. Một trong số đó có vẻ hấp dẫn trong giai đoạn nầy: < viện trợ quân sự bổ túc + thương thuyết chánh trị > Nhưng không may, vào ngày 16 tháng 4 Kissinger báo tin không vui về cuộc chạy đua của các Tiểu Ban trong Quốc Hội và những sự bàn cãi của Quốc Hội :
- " Chúng ta phải thấy trước là chúng ta đang chờ đợi môt cuộc bỏ phiếu chống"
Theo ông Tổng Trưởng Ngoại Giao thì các cuộc tranh luận ở Thượng Viện và Hạ Viện đều tập trung vào một bài toán hoàn toàn giả tạo (nguyên tác: tiếng Anh totally phoney). Ông Kissinger nầy biết cách động viên ông Martin của mình, khen ông Martin và xác nhận là ông nầy ở Sài Gòn hành sử tuyệt diệu như là một ông tướng ngoài mặt trận vậy. Và ông lợi dụng cơ hội nầy để hỏi ông Martin xem bằng cách nào ông có thể đưa về nước nhanh chóng con số 2000 công dân Hoa Kỳ?
Không biết có phải là hớ hênh hay vô ý khi cũng trong ngày 16 tháng 4 nầy, Tổng Thống Ford tuyên bố là ông ta đã cho lệnh di tản hết tất cả những người Mỹ nào " xét thấy không cần thiết" ? Do vậy ông Kissinger phải xin lỗi ngay sau đó với ông Martin :
- "Tôi biết là điều nầy đã làm cho công việc của ông càng thêm khó khăn hơn."
Đại sứ Martin buộc lòng phải chấp nhận ý kiến "chỉ di tản khi tình hình tương đối được ổn định và với sự hợp tác của QLVNCH". Theo một vài tờ trình mới nhất thì các sĩ quan Miền Nam Việt Nam cho biết là nếu người Mỹ bỏ họ để rút đi thì họ sẽ ngăn không cho phi cơ cất cánh. Họ cũng còn sẵn sàng bắn vào các phi cơ đó nữa.
Cũng trong ngày 16 tháng 4 nầy ông Martin đã cùng đô đốc Hugh Benton đặc phái viên của Tổng Tư Lệnh Vùng Thái bình Dương, nghiên cứu một kế hoạch di tản 200.000 người Việt Nam . Đô đốc đề nghị cho họ đi bằng ngả Vũng Tàu và từ đó họ sẽ được đưa về Thái Lan, Phi Luật Tân hay Tân gia Ba. Ông Martin vì hoài nghi nên đã trình bày những sự nghi ngờ của ông trong một công điện gởi thẳng cho tướng Brent Scowcroft ở Tòa Bạch Ốc. Theo hệ thống hành chánh, ông Martin phải trực thuộc ông Kissinger, nhưng ông cũng thích chứng tỏ cho mọi người đều biết ông là người đại diện cho Tổng Thống Hoa Kỳ . Ông Martin là sĩ quan tình báo trong thời Đệ Nhị Thế chiến, nên ông tự xem mình giỏi hơn bất cứ ông tướng hay Đô Đốc nào khác. Cũng còn giỏi hơn bất cứ ai khi đụng vào những bài toán di tản: vì ở Ba Lê, ông đã từng lập kế hoạch di tản người Mỹ nếu có xảy ra một cuộc tấn công của Liên Xô vào Tây Âu . Ông Martin đã từng đưa nhân viên của ông lên thủ đô Bruxelles của nước Bỉ, đi ngược chiều với dòng người tản cư xuống phía Nam .
Chắc ông Martin không bao giờ dự trù đưa người Mỹ của ông hay những người Việt Nam đi ngược ra Hà Nội . Nhưng theo ông thì kế hoạch của Đô đốc không đứng vững và quá tốn kém. Kế hoạch nầy cần phải trả tiền thuê 16 chiếc tàu với giá 250.000 mỹ kim một ngày
Điều bớt lo cho một số lớn cộng sự viên của ông Martin là ít ra ông cũng đã bắt đầu chú ý tới những bài toán về cuộc di tản.
Cuối cùng trong khi ông đổi ý về một cuộc rút đi với một sự chết lặng trong tâm hồn, thì ông lại nhận được một công điện của ông Kissinger ngày 17 tháng 4, một công điện quá bối rối, chỉ riêng một mình ông Martin mới được đọc mà thôi. Ông Kissinger đã thảo bức công điện nầy sau một buổi họp gồm toàn nhân viên cao cấp quan trọng thuộc các Bộ và cơ quan khác:
- "Ông phải biết là gần như không có một người nào hỗ trợ cho ý kiến phải di tản người Việt Nam, hoặc dùng quân lực Hoa Kỳ để bảo vệ cuộc di tản. Các quân nhân thuộc Bộ Quốc Phòng và ở Trung Ương Tình Báo, có cảm nghĩ chính là phải đi nhanh và ngay bây giờ (nguyên tác :to go out fast and now) "
Ông Kissinger đồng ý với ông Martin là phải tránh các phản ứng giây chuyền vì sự hoảng lọan, nhưng ông Tổng trưởng đòi hỏi là đến ngày 22 tháng 4 không được còn quá 2000 người Mỹ ở Việt Nam .
Sau khi đi một vòng ở ngoại quốc trở về, ông đại sứ lưu động Bùi Diễm xin gặp Tổng Thống Thiệu. Một đại tá đã trả lời:
- "Tổng Thống đang lo buồn vì tỉnh nhà của ông bị chiếm mất. Thủ tướng sẽ tiếp ông."
Ông Bùi Diễm không hề muốn gặp ông Thủ tướng lạ nầy, một người hơi nhu nhược về chánh trị . Ngoài ra ở Việt Nam chỉ có Tổng Thống mới là người quan trọng. Điện thoại ở nhà ông Bùi Diễm reo. Đích thân ông Thủ tướng Cẩn ở đầu giây:
- " Tổng Thống muốn là tôi phải tiếp ông."
Ông Bùi Diễm ngần ngừ. Ngay lúc đó thì tướng Đôn tới.. Ông Tổng Trưởng Quốc Phòng cố nhấn mạnh: Dù sao thì ông Cẩn cũng là Thủ Tướng. Ông Bùi Diễm hơi khó chịu.
- "Tôi không muốn mất thì giờ.
Ông Đôn ra về, xong trở lại và cuối cùng đưa Bùi Diễm đến nhà ông Cẩn. Ở đó họ lại gập đệ nhị Phó Thủ Tướng, ông Nguyễn văn Hảo. Nhận định một vòng về tin tức bi thảm. Hơn nữa những người nầy không ai có quyền quyết định.
Bùi Diễm nói;
- " Sự thật cho ta thấy là không còn gì để làm được nữa.
Cả Thủ tường và vị phó Thủ tướng đều bàng hoàng. Cả hai ông đều biết là ông Bùi Diễm biết rất rõ người Mỹ và bộ máy của thể chế ở Hoa Kỳ. Ông Đôn thì tỏ ra ít ngạc nhiên hơn. Ông Hảo nói lên ngay:
- "Như vậy là phải tổ chức phòng thủ ở Đồng bằng sông Cửu Long.!"
Ông Đôn trình bày các khó khăn trong vấn đề ông Hảo vừa nói: "Người Mỹ ở Sài Gòn sẽ nghĩ gì về việc đó ?"
Ông Bùi Diễm đi lại tòa đại sứ Hoa Kỳ . Hai ông Martin và Bùi Diễm đều biết giá trị của nhau, nhưng giờ nầy thì giữa hai người không có sự thành thật. Ông Martin nói ;
- " Ông sẽ đến gặp Tổng ThốngThiệu ? Ông sẽ nói với ông Thiệu tất cả sự thật ?
- Vâng, sự thật đó là đối với người Mỹ chiến tranh đã chấm dứt từ lâu rồi."
Ông Martin không bình luận gì về câu nói nầy. Ông tiếc gì một vài khuyến khích mơ hồ. đối với ông Bùi Diễm ? Ông không nói với ông Bùi Diễm rằng chính ông ta, đại sứ Hoa Kỳ, đại diện cho cá nhân Tổng Thống Hoa Kỳ, đang nghĩ tới sự ra đi của Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa ! Ông Martin sẵn sàng thổ lộ là một nhà ngoại giao thì phải biết đóng kịch.
Tin tức nghiêm trọng nhất trong ngày đã đến: Quân Khmer Đỏ đã kiểm soát Phnom Penh , cách Sài Gòn 190 cây số.
Tướng Minh Dương biết được tin nầy trong khi ông đang dùng bữa nhẹ với vài người bạn ở quán nhậu của tướng Mai hữu Xuân, gần một đồn điền cao su ở Thử Đức, không xa Sài Gòn bao nhiêu. Ông Minh không có gì tỏ ra ngạc nhiện hay lo âu. Một trong những người bạn của ông, ông Tôn thất Thiện buột miệng nói:
- " Bây giờ thì cộng sản sẽ dồn toàn lực đánh vào Sài Gòn ."
Ông Minh phản đối ngay:
- "Phải mất 6 tháng nữa họ mới tới Sài Gòn được Các anh không biết gì cả. Các anh không phải là quân nhân.
Theo ông Minh, cộng sản phải dừng quân lại thôi, ông nói với một giọng sành đời, vì họ không có đủ cán bộ cần thiết để kiểm soát và chỉ huy cả thành phố. Tướng Minh đang tìm sự hỗ trợ để cho hai đại sứ Pháp và Hoa Kỳ biết đúng lúc . Sự liên lạc với tòa đại sứ Mỹ được thực hiện qua tướng Charles Timmes, một tướng hồi hưu và đang phục vụ cho Trung Ương Tình Báo (CIA), và với tòa đại sứ Pháp thì qua ông Brochand. Ông đại sứ Mérillon có lệnh cho ông Brochand nối lại liên lạc với tướng Minh. Một cộng sự viên thân cận với tướng Minh là ông Vũ văn Mẫu muốn gởi 6 hay 7 sứ giả thuộc "lực lượng Hòa Giải " của ông đến vùng tạm chiếm của cộng sản . Ở đó các đại biểu nầy có thể tiếp xúc với người của CPCMLTMN,
Tướng Minh nhắc lại là cộng sản không có ý định tiến chiếm thủ đô, mà họ chỉ muốn cô lập Sài Gòn thôi. Nếu với một số đơn vị đầy đủ người ta giữ vòng đai Sài Gòn nhất là về hướng Đông đến Xuân Lộc, và nếu người ta đi tới chuyện thương thuyết nhanh chóng, thì người ta có thể tránh được việc thành lập một "Chánh Phủ Liên Hiệp không thể chấp nhận được " Phải đi đến một thỏa hiệp nào đó để giữ được một lãnh thổ nhỏ của Miền Nam Việt Nam .Sau đó mới xét tới một "Chánh Phủ Liên Hiệp" .
- Nhưng tại sao cộng sản lại chấp nhận dự án nầy ?
- Bởi vì họ không có đủ phương tiện để quản lý cả một Miền Nam Việt Nam " tướng Minh nhắc lại một lần nữa như vậy.
Các giới chức của CPCMLTMN ở Hà Nội tổ chức một chuyến viếng thăm Đà Nẵng mà họ cho là đã được họ "giải phóng" ngày 17 tháng 4. Họ mời ông Alexandre Casella, một tham vấn trong Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, cùng đi với phái đoàn các nhà báo ngoại quốc. Họ nói với ông nầy :
- " Ông có thể cùng đi vì ông cũng là một nhà báo. Ông không đi với tư cách là một đại diện của Cao Ủy Tỵ Nạn.
Phái đoàn gồm có các nhà báo của tờ Le Monde (Pháp), của thông tấn xã AFP, của tờ Pravda (Liên Xô), của thông tấn "Tân Trung Hoa", các toán truyền hình của Thụy Điển và Pháp. Chiếc Yak 40 chở phái đoàn đáp xuống phi trường lớn ở Đà Nẵng . Có một buổi tiếp tân có thức ăn ngay tại phi trường, nơi có treo một tấm hình lớn của Hồ chí Minh.
Thành phố có vẻ yên tĩnh. Có rất ít bộ đội Miền Bắc trên đường phố. Người của CPCMLTMN điều chỉnh sự lưu thông. Các hàng quán của người Tàu treo cờ của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, điều nầy gây thích thú cho người phóng viên của thông tấn xã "Tân Trung Hoa" một cách kỳ lạ. Đây là một cuộc thăm viếng có hướng dẫn.. Nói chung là tốt. Họ có đến viếng một nhà nuôi trẻ mồ côi do các dì phước đảm trách. Một bà nói:
-"Không thấy có chạm súng ở Đà Nẵng . Chúng tôi được bộ đội Bắc Việt giải phóng. Chúng tôi chỉ lo cho các em mồ côi thôi."
Lúc trở về Hà Nội, Ông Casella gởi về Liên Hiệp Quốc một bản phúc trình được ông Tổng Thơ Ký công khai hóa. Phúc trình nầy xác nhận là "tình hình thực phẩm hình như bình thường, dân chúng đã lần lượt trở về nhà, các khu cư dân nghèo được phát hiện trống vắng... Người ta cần một vài công tác cứu thương khẩn cấp nhưng chỉ trung hạn, dĩ nhiên nên có một sự giúp đỡ nào đó để cho dân chúng trở về làng mạc của họ ".
Báo chí Hà Nội tung tin : "Một công chức của Liên Hiệp Quốc đã đi đến Đà Nẵng . Tình hình đã trở nên bình thường."
Thật là một sự lật ngược lối nói quá trơ trẽn nhưng quá đẹp:
Đối với người dân Miền Bắc lúc bấy giờ là ông Casella đã đi đến Đà Nẵng trong cương vị đại diện cho Cao Ủy Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc !
Ông Casella không ghi nhận được một không khí thắng trận nào trong thủ đô Bắc Việt có liên quan đến những sự tiến triển về quân sự ở trong Miền Nam .
Trong ngày đầu của cuộc đi tham quan của ông Casella ở Đà Nẵng, ở một nơi nào đó thuộc vùng ngoại ô Sài Gòn, ông Frank Snepp gặp người nhân viên của mình đã gài vào bên trong, được coi là một người điệp viên giỏi của ông ta. Người nhân viên nầy khẳng định: Bắc Việt đã có quyết tâm phải tiến đến chiến thắng cuối cùng, không bao giờ có giải pháp ngoại giao - chánh trị nào hết.
Cả hai ông Martin và Polgar đều không chú ý tới tầm quan trọng của tờ trình nầy của Frank Snepp. Tờ trình nầy cuối cùng cũng đến được trên bàn giấy của ông Tổng Trưởng Ngoại Giao ở Hoa Thạnh Đốn trong lúc ông Kissinger đang bắt đầu làm áp lực Liên Xô trở lại. Đây là một chiến lược làm cho ông Martin vui thích. Ông đã gởi một công điện cho Kissinger :
- " Tôi thấy họ cần phải trả một giá nào đó cho sự hòa hoãn của chúng ta . Có thể nào chúng ta tìm cách nào đó để cho cả Liên Xô và Trung Quốc hiểu rằng điều rất có lợi cho họ trong mối quan hệ với chúng ta trong tương lai là phải mạnh mẽ can thiệp với Hà Nội để họ phải lui lại trước Sài Gòn và bắt đầu đi lại con đường thương thảo."
Ngày 18 tháng 4,
Vào lúc 12 giờ trưa ở Hoa Thạnh Đốn , ông Kissinger gặp đại sứ Liên Xô Anatol Dobrynine, người biết quá nhiều về Hoa Kỳ và quá quen thuộc với sân khấu chánh trị của Hoa Thạnh Đốn .Kissinger trao cho ông nầy một bức thơ của Tổng Thống Ford gởi cho ông Brejnev:
- " Sự lo âu chánh yếu của chúng tôi là vấn đề di tản người Mỹ và một số người Việt Nam quan trọng phải được tiến hành trong trật tự." Tổng Thống Hoa Kỳ muốn thấy cuộc "di tản nầy phải được kiểm soát", để tránh sự đối đầu giữa binh sĩ của Bắc Việt và bộ phận bảo vệ của Hoa Kỳ . Ông yêu cầu phải được trả lời nhanh chóng. Nếu Bắc Việt ngưng tiếng súng thì Hoa Kỳ sẽ ngưng viện trợ chiến cụ cho Sài Gòn và sẵn sàng tiếp tục lại các cuộc đàm phán chánh trị ".
Đối với ông Dobrynine, ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ nói rõ là quân Bắc Việt không được đụng tới phi trường Sài Gòn. Nếu không thì Hà Nội sẽ có nhiều hậu quả rất là tai hại. . Kissinger cho thấy là Hoa Thạnh Đốn giải quyết trực tiếp với Mạc tư Khoa , chớ không phải với Hà Nội và cũng không phải với Bắc Kinh . Tóm lại, ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ đe dọa ngay Hà Nội và ngầm đặt vấn đề hòa hoãn bằng cách chỉ nói thằng với Liên Xô . Âu cũng là một sự vận động cần thiết nhưng chẳng có kết quả gì, nếu không muốn nói là phù phiếm. Kinh nghiệm cho thấy là ông Kissinger vẫn biết là muốn bàn cãi với cộng sản ở Mạc tư Khoa hay Hà Nội cũng vậy, thì phải bắt đầu trong một tư thế mạnh. Hình như ông ta đặt giả thuyết hay giả bộ tin là ông Brejnev có thể ra lệnh cho các sư đoàn của Bắc Việt .
Ông không biết và ngay như ông Dobrynine cũng vậy, là trước đó 4 ngày, tức là vào ngày 14 tháng 4, từ Bộ Tư Lệnh Lộc Ninh, vị Tổng Tư Lệnh Bắc Việt đã chuẩn bị cho cuộc tấn kích cuối cùng vào Sài Gòn .
Ở chỗ nầy, các trung tâm chánh trị thường được tin tức không chính xác trên bình diện chánh trị , nên không loại bỏ ước tính thủ đô Sài Gòn sẽ phải bị bao vây và cô lập.
Đại sứ Pháp, ông Mérillon có chiến lược chánh trị của ông : phải làm áp lực cả tướng Minh và ông Martin.
Nhà ngoại giao Pháp gặp tướng Minh lần đầu tiên ngày 17 tháng 4, đã xin lỗi là đã không thể đến thăm ông trước đó được . Ông bảo đảm rằng Ông Minh sẽ được hậu thuẫn của nước Pháp. Ở Việt Nam nước Pháp có bổn phận, có quyền và có quyền lợi. Hơi liếng thoắng ông Mérillon phác thảo cuộc dàn dựng cho một cuộc hành quân lớn về chánh trị , mà tướng Minh là trung tâm điểm. Dĩ nhiên người ta cũng phải tránh cho Sài Gòn không bị đổ máu dưới làn lửa đạn. Nếu cộng sản chiếm được thủ đô thì điều chắc chắn là một lối sống nào đó sẽ biến mất. Hai người đều dùng tiếng Pháp để trò chuyện. Cả hai đều rất cảm động, nhất là tướng Minh, nắm chặt tay ông Mérillon và siết chặt một hồi lâu, hai mắt đẫm lệ:
- " Vâng, phải như vậy mới đúng. Ông thật là một người có lòng, thưa ông đại sứ. Tôi sẽ thử, tôi sẽ coi lại.."
Ông Mérillon thi hành đúng chị thị đã nhận .Ông đã nhận một công điện lạ lùng nếu không muốn nói là quá đáng từ Phủ Tổng Thống Pháp. Đại để :
- "Cho Tổng ThốngThiệu đi, đặt ông Minh vào Phủ Tổng Thống.'
Ông Mérillon nghĩ là có thể đạt được một sự "chuyển tiếp đứng đắng" . Không còn có một giải pháp nào khác hơn, ngoài sự thương lượng.
Chánh Phủ Miền Nam Việt Nam cho phổ biến trên cả các báo Việt ngữ và Anh ngữ một bản tin theo đó : "Đẩy lui được các cuộc tấn công qui mô của cộng sản Bắc Việt ở Xuân Lộc và Long An, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chứng minh được quyết tâm gìn giữ đất nước và khả năng của mình trong việc chiến thắng lực lượng xâm lăng cộng sản."
Tất nhiên không tin tưởng lắm vào "khả năng chiến thắng được quân thù" như đã loan tin, Chánh Phủ Miền Nam đang chuẩn bị gởi số vàng dự trữ dằn kho sang Hoa Kỳ . Nếu Quốc Hội Mỹ không bỏ phiếu thuận cho ngân khoản viện trợ bổ túc cho Việt Nam thì Tổng ThốngThiệu nói là sẽ dùng số vàng nầy để mua vũ khí và đạn dược.
Có quá nhiều tin đồn về hòa bình cũng như về chiến tranh như là :
- Bắc Việt sẽ không bao giờ tấn công vào Sài Gòn ,
- các đơn vị nhỏ Bắc Việt , những đặc công giả dạng thường dân đang xâm nhập thủ đô,
- có đảo chánh ở Sài Gòn
- có đảo chánh ở Hà Nội
........
Hầu hết những người Mỹ còn lại ở Việt Nam đều chống Cộng, nhưng người ta cũng thấy có vài người có thiện cảm với CPCMLTMN và cả Bắc Việt , đặc biệt trong những tổ chức nhân đạo hay cơ quan từ thiện công giáo, thường ngày tiếp xúc với những người nghèo khó và các nạn nhân chiến tranh. Đối với những người Mỹ đó, sự tiến quân của Bắc Việt không phải là một cuộc xăm lăng, cũng không phải là một sự chiếm đóng.. mà là một cuộc giải phóng, một sự bảo đảm là cuối cùng chiến trận sẽ chấm dứt. Đối với họ, hòa bình là một sự cần thiết.
Bà Claudia Krich là một thành viên của một tổ chức nhân đạo thuộc giáo phái " Quây Cơ" (Quaker). Bà tiêu xài không tiếc tiền cho dân chúng. Bà nói rành tiếng Việt Nam, và đã có làm việc trong một trung tâm chỉnh hình và giải phẫu ở Quảng Ngãi, nằm về phía Bắc của Sài Gòn . Ở đó người ta cung cấp chân tay giả, nạng gỗ, và xe lăn cho các người tàn tật. Nghĩ rằng Quảng Ngãi sẽ bị dội bom nên bà đã về Sài Gòn từ tháng 3.
Đây là nhật ký của Bà Claudia Krich:
Sài Gòn ngày thứ năm, 17 tháng 4 1975
"Lại có những tin đồn nữa: thứ bảy sẽ thấy được giải phóng, hay ít nhất cũng là một cuộc tấn công vào Sài Gòn. Các mẩu tin tức nhặt được ngày hôm qua: "mật mã bí mật" mà tòa đại sứ Hoa Kỳ xử dụng sẽ được phổ biến trên đài phát thanh khi nào Hoa Kỳ có quyết định di tản. Có người sẽ nói : "Nhiệt độ ở Sài Gòn là 105 độ và còn lên cao nữa." Sau đó là bản nhạc "Tôi mơ một ngày lễ Giáng Sinh trắng" (I'm dreaming of a white Christmas)
Tất cả những người Mỹ ở Sài Gòn đều biết mật mã nầy."
Bà Krich viết :
- "Mỗi ngày, chúng tôi nghe đài phát thanh để đếm xem bao nhiêu tỉnh đã lần lượt bi thất thủ. Quảng Ngãi đã được giải phóng ngày 24 tháng 3... Người ta chỉ bắn có mỗi một phát súng. Đà Nẵng đã được giải phóng ngày 29 tháng 3... Bây giờ thì còn rất ít lãnh thổ trong tay của Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Với Sài Gòn thì cũng tới thôi. Ngày hôm nay, một người bạn Mỹ đã ghi nhận được là Ngân Hàng của Hong Kong và Thượng Hải không còn nhận chi phiếu bằng Mỹ kim nữa.."
Thủy Quân Lục Chiến và lực lượng Hải Quân của Đô Đốc Cang và các đơn vị Địa Phương Quân đã chận đứng được sư đoàn 5 và sư đoàn 7 Bắc Việt ở Bến Lức, trên sông Sài Gòn . Tổn thất của Bắc Việt rất nặng, lực lượng Hải Quân của Miền Nam đã tác xạ bằng đại bác 20, 40 và 105 ly . Tuy nhiên tinh thần của Bộ Tham Mưu Miền Nam Việt Nam càng ngày càng xuống thấp. Trong một bức thư gởi cho Đại sứ của mình, tướng Homer Smith thấy là ngay cả tướng Tham mưu trưởng Cao văn Viên cũng không nghiêng về việc Tổng ThốngThiệu phải ra đi - một điều đã được xác nhận qua cảm tưởng của ông Wolfgang Lehmann -
Tinh thần của ông Thiệu xuống quá thấp. Trước hết là ông rút vào tư phòng của ông, sau đó vào hầm trú ẩn bằng bê tông ở tầng dưới cùng của Dinh Độc Lập. Ông đã được biết là Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân trước khi rút lui đã san bằng mồ mả của tổ tiên ông ở một làng nằm ở gần bờ biển Phan Rang. Tinh thần nặng triễu vì điềm báo trước thật là kinh khủng ... ông Thiệu từ khước cả những cú điện thoại của tòa đại sứ Hoa Kỳ.
Ý thức được nỗi lo âu của người dân Sài Gòn , ông Martin ra lệnh cho thuộc cấp là phải trấn an dân chúng. Ông chỉ thỉ cho Alan Carter, chủ nhiệm sở thông tin phải đến nói chuyện ở đài truyền hình. Phải khó khăn lắm ông Martin mới giải quyết được việc nầy; ông không mấy thích cái anh chàng râu xồm nầy, một người không cùng quan điểm thông tin với ông đại sứ của mình. Cũng có thể ông Martin cảm thấy có một thích thú nào đó khi ông giao cho Carter nhiệm vụ khó khăn nầy. Ông Carter cảm thấy không được thoải mái lắm trước ống kính truyền hình, khi được một người Việt Nam phỏng vấn ông ta :
Hỏi : "Có một tin đồn nói rằng nếu ngân khoản viện trợ bổ túc không được chấp thuận thì người Mỹ sẽ được di tản hết từ ngày 19 tháng 4 ?
Đáp : " Tin đồn nầy không có gì làm nền tảng. Nếu ông đến thăm biệt thự của vợ chồng ông đại sứ Martin, ông có thể nhận xét là không có món gì đã được di tản, Nhà tôi cũng vậy.
Hỏi : "Cũng theo một tin đồn khác, thì Lãnh sự của Hoa Kỳ cấp phát giấy phép di tản cho một số người Việt Nam .Người ta đang sấp hàng dài trước cơ quan dịch vụ của tòa Lãnh Sự....
Ông Carter phản đối :
- " Lại một tin đồn nữa ! Tòa Lãnh sự chỉ giải quyết công việc bình thường mà thôi. Người ta điền vào hồ sơ cưới xin, làm khai sanh, và phát chiếu khán.."
Nghe ông Carter nói, người ta có thể tin rằng tỷ suất sanh sản trong cộng đồng người Mỹ ở Việt Nam đang tăng mạnh .
Ông Carter biết rõ là có nhiều khán thính giả đã thấy người ta xếp hàng chờ đợi ở tòa lãnh sự. Ông nói tiếp :
- " Sự thật là có vài người Mỹ đã ra đi. Trong hoàn cảnh nầy, họ có đi sớm hơn dự tính thì cũng là chuyện bình thường thôi. Tóm lại những người Mỹ đó chỉ có về sớm hơn trước ngày dự trù trong dịp nghỉ hè của họ mà thôi."
Lối giải thích của người trưởng cơ quan thông tin nầy không thuyết phục được ai hết. Ngay như khán thính giả ở các tỉnh cũng cảm thấy hình như một cuộc di tản đang bắt đầu. Ông Carter đã làm hết sức mình. Để cho thấy là ông Đại sứ của ông ta đã hết lòng trong công tác phản tuyên truyền.. Ông Martin gởi về cho ông Kissinger bản văn cuộc phỏng vấn truyền hình nầy và còn nhấn mạnh thêm:
"Nếu Quốc Hội có bỏ phiếu chống viện trợ, tôi ước mong rằng ông và Tổng Thống sẽ công bố hết sức bình tĩnh rằng các ông đã làm hết sức mình để đạt được thắng lợi cho ngân sách năm 1976 "
Ông Martin nghĩ rằng ông đã đi hơi xa:
- "Ông có thể cho rằng chuyện đó không thực tế lắm, nhưng ở đây chuyện đó lại có nhiều kết quả. Người ta sẽ nói với chính phủ ở Sài Gòn là năm 1975 thì không có một mỹ kim nào, nhưng các ông sẽ thấy vào năm 1976, nó sẽ có trở lại!
Ông Martin sợ sẽ có những phản ứng không tốt từ phía dân chúng và binh sĩ ở Miền Nam :
- " Hoa Thạnh Đốn không nên hoảng hốt. Một cái lệnh di tản bất thần và táo bạo có thể gây ra (ở đây) nhiều sự loạn động."
Theo ông Martin thì quân lực VNCH có thể ngăn chận sức tiến quân của Bắc Việt đến Sài Gòn trong một thời gian nào đó. Ông không tin là Hà Nội "muốn tấn công trực diện vào Sài Gòn" Đại sứ lo ngại về những suy luận mà người ta có thể tung ra trên thế giới về những quyết định của Hoa Thạnh Đốn . Danh từ "phản bội" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong búc công điện nầy.
- " Không thể để cho người ta tưởng rằng Hoa Kỳ đã phản bội lại người Việt Nam ."
Nhất là ông muốn thuyết phục ông Kissinger đừng gởi Thủy Quân Lục Chiến đến Việt Nam trước khi ông đích thân yêu cầu trong cương vị của một Đại Sứ.
- "Tô sẽ không ngần ngại yêu cầu ngay, nếu trật tự công cộng bị suy sụp."
Sau đó, lần đầu tiên, ông Martin viết trong công điện :
- "Tôi nghĩ rằng giải pháp thương thuyết không thể bắt đầu được nếu ông Thiệu vẫn còn ở chánh quyền. Trừ phi người ta ấn định cho ông những chỉ thị khác, nếu không thì ông Martin sẽ đến bàn cãi với ông Thiệu. Ông Martin không muốn có môt cuộc độc thoại lúc đối diện với Tổng Thống Thiệu: ông sẽ nói với ông ta như một người bạn. Vị trí của ông Thiệu trong lịch sử sẽ được bảo đảm. Nếu ông không tự ý từ nhiệm thì các tướng lãnh của ông sẽ cưỡng bức ông vào con đường đó. Về mặt pháp lý thì phải giữ cho đúng theo Hiến Pháp của Việt Nam Cộng Hòa. Phải có can đảm để thực hiện việc nầy. Ông Thiệu sẽ đặt quyền lợi của đất nước lên trên hết. Ông Martin sẽ khuyên ông Thiệu với tư cách cá nhân, không theo một chỉ thị nào của Tổng Thống Ford hay của ông Tổng Trưởng của mình.
Đây là một hành động ngoại giao khéo léo và ngoạn mục được mô tả trong đoạn 9 của bức điện tín mà ông Martin gởi cho Tổng Trưởng Ngoại Giao của mình, với yêu cầu "nếu không có lịnh nào khác" thì xin cho phép ông thúc đẩy Tổng Thống Thiệu sớm ra đi, nhưng phần trách nhiệm không hề dính đến ông Kissinger hay Tổng Thống Ford.
Không biết đây là đạo đức giả hay là một sự hy sinh ?
Bức điện tín số 710 nầy được ông Martin thảo ra trong một trạng thái căng thẳng thật ra không phải viết ra như một bài nghị luận. Ông trở lại vấn đề di tản người Mỹ:
- "Nếu quân lực Hoa Kỳ đến đây ồ ạt trong hoàn cảnh hiện tại, thì khi rút đi không chừng họ phải chiến đấu với lực lượng quân sự của Miền Nam Việt Nam ." Ngược lại, nếu Hoa Thạnh Đốn cứ giữ sự bình tĩnh, thì Martin tôi có thể cho di tản người của mình "một cách không gây thêm một lỗi lầm nào, tôi xin nhắc lại một cách không gây thêm một lỗi lầm nào tai hại khác trong số hàng ngàn lỗi lầm mà người Mỹ đã vấp phải ở Việt Nam . Thân kính. "
Bức điện tín nầy vẫn giữ độ "Mật- Kín" . Tại Sài Gòn thì chỉ có thơ ký và nhân viên mật mã của ông Martin đọc được mà thôi. Ông Kissinger trả lời như sau :
- "Tôi đã có bàn thảo với Tổng Thống Ford về bức điện tín số 710 của ông. Không có gì phản đối về những gì ông đã tiến hành như ông đã cho biết trong đoạn 9. "
Thật đúng là một bài kinh cầu nguyện ngắn gọn và kín đáo cho ông Thiệu !
Trong một bức điện tín được phổ biến rộng rãi từ Hoa Thạnh Đốn được gởi cho Honolulu và Sài Gòn, ông Kissinger nói :
- "Hôm nay chúng tôi có một buổi họp rất là giản dị với các thành viên thuộc nhiều cơ quan khác để xem xét chương trình và kế hoạch của chúng ta trong vấn đề di tản người Mỹ và người Việt Nam . Dư luận chung và của Quốc Hội đều muốn chúng ta phải đặt ưu tiên cao cho vấn đề an toàn của người Mỹ. .. "Tin rằng có thể xử dụng Vũng Tàu cho một cuộc di tản qui mô" có thực tế hay không ? Các ông có tin tưởng là chúng ta có thể tin dùng một vài đơn vị của Miền Nam Việt Nam để giữ an ninh cho những vùng di tản hay không ?"
Ngày 18 tháng 4, ông Kissinger lại cho một số chỉ thị khác:
- "Mặc dầu có những sự toan tính của các ông và cả năng khiếu của riêng tôi, theo lối nhận định của Hoa Thạnh Đốn về tình hình quân sự chung quanh Sài Gòn và những ý định của Hà Nội , tôi buộc lòng phải đòi hỏi các ông giảm thiểu sự hiện diện của người Mỹ đến con số 1.100 người, tính đến chiều ngày thứ năm 24 tháng 4. Đó là con số nhân viên mà theo chúng tôi có thể được di tản trong một cuộc hành quân trực thăng vận"
Ông Kissinger sợ người ta cáo giác cả ông ta và ông Martin là đã "dậm chân tại chỗ"
Quốc Hội suýt cho lệnh di tản ngay tức khắc tất cả những người Mỹ ở Sài Gòn :
- "Tôi biết là quyết định đó sẽ làm ông bực mình, cả với tôi cũng vậy.Tôi bảo đảm với ông rằng... tôi không đòi hỏi ông phải giảm con số người đó xuống nữa cho đến một ngày nào đó mà ông nhận được lệnh đóng cửa tòa đại sứ. Xin Chúa gìn giữ chúng ta ! Thân mến"
Với ít nhiều sự đồng ý của ông Martin, ít thì đúng hơn, các quân nhân đã xem xét cấu trúc của sân bay Tân sơn Nhứt . Vấn đề được đặt ra là sẽ có một lực lượng an ninh khoản 350 người được gởi tới để bảo vệ các cơ quan thuộc Phòng Tùy Viên Quân sự Hoa Kỳ . Một toán tiền sát đã gởi một công điện cho vị Tổng Tư Lệnh ở Honolulu và cho Tư lệnh lực lượng xe lội nước của Hải Quân ở Okinawa . Bức công điện nói rõ là "phải cần có ít nhất 1 tiểu đoàn bộ binh cho nhiệm vụ được dự trù."
Ông Martin đã có một phản ứng mỉa mai đối với bức điện tín sau cùng của ông Kissinger mà nguyên văn như sau :
- "Chúng tôi sung sướng mà nhận thấy là buổi họp rất giản dị. Tối thiểu cũng phải như vậy. Cần phải tránh chiều hướng giả dụ cho trrường hợp "xấu nhất" sẽ xảy ra . Chúng ta cũng thấy nó sẽ xảy ra, nhưng chúng ta phải sẵn sàng có kế hoạch đối phó."
Tinh thần bi quan và lo sợ của nhóm hành chánh ở Hoa Thạnh Đốn đã làm cho ông Martin cáu lên.
Ngày 18 tháng 4
Ở Hà Nội, Thủ tướng Phạm văn Đồng tiếp một nhân vật người Pháp, ông bác sĩ Roussel. Ông nầy sẽ trình bày cho tòa đại sứ Pháp ở Hà Nội những lời tuyên bố của Phạm văn Đồng.
Ông Thủ tướng Bắc Việt đã tuyên bố :
- "Có rất ít cơ may để có được một lối thoát chánh trị .
Có nhiều mâu thuẫn khắp nơi với người Mỹ. Không thấy có một người nào nghiêm chỉnh nói là phải di tản một triệu người Việt Nam . Ông Kissinger chỉ ước tính chung quanh con số hai trăm ngàn. Một tổ chức được thành lập ở Hoa Thạnh Đốn với thành phần là đại diện của các cơ quan trong Chánh Phủ, và mọi phối hợp hoạt động đều do một đại sứ hồi hưu, ông Bill Brown, một người bạn thân của ông Martin .
Người ta phải dự trù di tản 50 ngàn người tị nạn Việt Nam trong vòng 80 ngày sắp tới. Để tiếp đón họ, vị chỉ huy trưởng căn cứ Pendleton ở tiểu bang California phải sẵn sàng cho điều hành từ ngày 29 tháng 4. Mọi sự chuẩn bị phải được tiến hành với sự phối hợp của tất cả các tổ chức từ thiện và các cơ quan của Chánh Phủ . Ông Martin nói ngay là ông ta không thể cho từng ấy người ra đi từ Sài Gòn được . Ông nghĩ tới con số 200 ngàn mà Tổng Thống Ford đã đưa ra. Đối với nhân viên làm việc cho các các cơ quan Hoa Kỳ, ông sẽ chỉ định thật sự cho họ vài điểm bốc dọc theo bờ biển: " nhiều người có thể sẽ không đến đó được "
Đơn thỉnh nguyện từ các công ty xí nghiệp tràn ngập Bộ Ngoại Giao và một số Bộ khác trong Chánh Phủ Hoa Kỳ để yêu cầu di tản các nhân viên người Việt của họ. Các đơn nầy lại được chuyển ngược lại Sài Gòn làm cho ông Martin bực tức. Theo ông, nếu đà nầy cứ tiếp tục thì nó sẽ gây "hỗn loạn". Ông Martin yêu cầu Kissinger nên dùng uy tín của mình đối với các bạn đồng nghiệp ở các Bộ khác để cho những chuyện nầy êm đi, hay ít ra cũng không làm quá ồn ào "trong vòng 10 ngày sắp tới, thời gian mà sự bình tĩnh hoàn toàn phải là điều chính yếu."
Ông Martin muốn kiểm soát chặt chẽ sân khấu chánh trị của Sài Gòn .Người ta lại nói đến tướng Kỳ và sự tiếp xúc không ngừng của ông ta với các tướng lãnh khác như tướng Tư Lệnh Không quân Trần văn Minh, tướng Lê quang Lưỡng, Tư lệnh sư đoàn Dù, Đô đốc Bùi thế Lân của Hải Quân, và những sĩ quan khác như chỉ huy trưởng các đơn vị thiết giáp của Biệt Khu Thủ Đô và Vùng 3 Chiến Thuật. Người ta cũng biết rõ họ đã bàn bạc với nhau về vấn đề gì : "Tổng ThốngThiệu phải ra đi."
Tướng Kỳ đã có kế hoạch: Chỉ cần chiếm được Dinh Độc Lập, nha bưu điện, Bộ Tổng Tham Mưu, đài phát thanh và Truyền hình. Tất cả các tướng lãnh đều đồng ý rằng nếu không làm gì hết thì Miền Nam sẽ thua. Nhưng mọi người đều thối thoát:
- "Tôi hả, tôi không làm gì được hết
- Ông có thể làm được đó, ông Kỳ
Tướng Viên Tổntg Tham Mưu trưởng nói với tướng Kỳ:
- Hãy làm đi. Cho tôi biết ngày giờ, tôi sẽ cho mở cửa Bộ Tổng Tham Mưu.
Tướng Tư Lệnh Không quân cũng tâm sự :
- Hãy làm đi, nếu ông muốn giữ tôi như một tù binh, tôi sẽ không có một chút phản kháng nào. Ông biết không , Tổng Thống Thiệu đã biết hết rồi. Sau khi chúng ta gặp nhau lần chót, người Mỹ đã gởi đến tôi một sứ giả. Họ nói với tôi là đừng có nhúc nhích. Họ đã bảo đảm với tôi là nếu có xảy ra chuyện gì, họ sẽ cho đưa tôi sang Hoa Kỳ và sẽ lo lắng hết cho tôi.
Ngồi kế bên tướng Kỳ, vị Tư Lệnh Hải Quân nói với ông :
- "Tôi thì không có lính, nhưng nếu ông hành sự thì người của tôi không chống trả đâu."
Tướng Kỳ bực lắm. Ngay những người thân cận với ông, những tướng lãnh người Bắc, họ cũng nghe theo luận điệu của người Mỹ. Không biết họ muốn gì đây ? Chắc họ muốn tướng Kỳ nầy phải đơn thân độc mã đi vào Dinh Độc Lập với một nhúm nhỏ binh sĩ rồi bắt Tổng ThốngThiêu chỉ với khẩu súng lục cầm tay sao ? Tướng Kỳ nầy làm sao làm công việc của một tiểu đoàn cho được ?
Ngày 18 tháng 4, ông Charles Timmes điện thoại cho tướng Kỳ tại tư dinh của ông ở Tân sơn Nhứt. Ông xin một cái hẹn để cùng với một nhân vật rất quan trọng của tòa đại sứ đến gặp tướng Kỳ. Ông Timmes đến đúng hẹn vào buổi trưa nay, trên một chiếc xe Volkswagen cũ kỹ, và người cùng đến với ông lại chính là ông đại sứ Martin.
Ông Martin đã tỏ ra lo lắng vì những hoạt động lăng xăng chung quanh tướng Kỳ. Người ta trình với ông là nếu người Mỹ rút đi, thì các phi công Việt Nam sẽ thật sự sẵn sàng bắn vào các phi cơ di tản. Ông ta phải đi thăm dò tướng Kỳ và nếu cần sẽ làm cho ông bình tĩnh lại.
Người Việt Nam dù là ở Miền Nam hay Miền Bắc, khi bắt đầu trò chuyện, ít khi người ta đi thẳng vào đề tài. Phài có một vài câu trao đổi xã giao....Là một người lịch lãm, ông Martin hỏi thăm về bà Mai, một cựu tiếp viên hàng không, người vợ rất đẹp của tướng Kỳ.
Sau đó hai Mỹ và một Việt cùng nhau lượng định về tình hình quân sự trên bản đồ.. Cho tới giờ nầy cả 3 người đều đồng ý nội dung của cuộc gặp gỡ nầy. Nhưng sau đó họ lại đánh trống lảng. Ông Timmes có mang theo một máy thu âm, nhưng máy hư không chạy. Tướng Kỳ và ông Martin trao đổi với nhau bằng tiếng Anh, do đó có thể có hiểu lầm vì ngôn ngữ. Tướng Timmes dường như thấy rằng ông Martin không nói rõ ràng cho lắm những gì ông cần phải nói với tướng Kỳ trong buổi gặp gỡ nầy. Ông Martin xác nhận là buổi viếng thăm không có nghi thức nầy của ông chỉ nhằm vào một việc: cho tướng Kỳ hiểu rõ rằng ông ta không nên phiêu lưu với một cuộc đảo chánh. Theo ông Kỳ thì ông Martin có hỏi ông :
- " Nếu ông lập Chánh Phủ thì ông sẽ làm gì ông Thiệu ?
Trả lời :
- " Chúng tôi không thanh toán ông Thiệu đâu. Dân chúng Việt Nam sẽ có quyết định của họ.
Chỉ cùng một việc mà mỗi người hiểu một cách.
Sau đó cả 3 người trở lại những vấn đề quân sự . Cúi xuống bản đồ, ông Kỳ vẽ một vòng đai phòng thủ mà các đơn vị của Miền Nam được gom lại để có thể giữ được thủ đô, dựa vào Châu thổ sông Cửu Long. Khả năng khác :Cố gắng giữ vững mặt trận từ Tây Ninh sát biên giới Cam Bốt cho đến bờ biển nếu có thể, dựa vào Phan Thiết.
Ông Martin có vẻ mệt mỏi. Còn ông Kỳ thì cảm thấy những lời nói của mình quá mơ hồ và vô nghĩa. Ông đại sứ sẽ xem mình làm được gì, ông cần có thời gian, tình hình có vẻ cực kỳ rối rắm ....
Khi hai người chia tay nhau, ông Martin có cảm tưởng là ông Kỳ sẽ không có hành động nào. Còn ông Kỳ thì có cảm nghĩ rằng người ta chỉ muốn ông gác qua một bên dự tính nắm lấy chánh quyền của mình. Ông Martin dĩ nhiên không thể nói cho ông Kỳ biết là Hoa Kỳ đang có ý định khuyên ông Thiệu từ nhiệm. Và do vậy mà mọi người có thể tự hạn chế mình trong mưu đồ đảo chánh.
Để làm nản lòng những người có mưu đồ phiêu lưu nầy, cũng trong ngày hôm nay, ông Tổng trưởng Quốc Phòng đã cho lệnh phạt giam hoặc bắt giữ trên một chục tướng lãnh và tỉnh trưởng.
Nhật ký của bà Claude Krich.
Ngày 18 tháng 4 , 1975 (thứ sáu)
"Tôi tìm cách xin 2 đứa con nuôi, hai đứa bạn trẻ Văn và Tư. Một đứa 4 tuổi và một đứa 6 tuổi. Mẹ của hai cháu nầy là chị Yến là một người giúp việc cho tôi. Chị xin tôi mang giùm 2 đứa trẻ qua Lào để từ đó chúng có thể được gởi về Hà Nội cho ông bà của chúng để chúng có thể đi học. Đã hai tuần rồi, tôi có nói với một viên chức ở tòa đại sứ là tôi muốn xin 2 đứa trẻ nầy làm con nuôi, nhưng người ta nói là đã quá muộn rồi.
Hôm nay tôi trở lại tòa đại sứ, và lần nầy tôi quyết định sẽ nói hết sự thật. "Tôi không muốn đem hai đứa trẻ nầy về Hoa Kỳ , tôi chỉ muốn cho chúng nó về với ông bà chúng nó ở ngoài Bắc." Viên chức tòa đại sứ trả lời cho tôi là : "Nói như vậy còn nghe được đó, Tôi rất chán ngấy về cái chuyện "xuất cảng bọn con nít " nầy lắm rồi đến độ tôi phải hét lên đó !"
Thông báo trên tờ Saigon Post ngày 18 tháng 4:
" Nũ sinh trung học trẻ khá đẹp, 18 tuổi, có bằng tú tài đôi, biết chơi đàn dương cầm, con nhà đàng hoàng, muốn tìm một ông chồng người ngoại quốc, quốc tịch Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Đức hay nước nào khác cũng được. Để đưa tôi đi ra ngoại quốc một cách hợp pháp, để tôi có thể tiếp tục con đường học vấn, bậc đại học, ở ngoài nước Việt Nam với học phí hoàn toàn của mình.
Xin điện thoại cho tôi ở số : 45 470 "
Tất cả mọi người không ai có thể hình dung được đời sống của mình ở ngoại quốc bằng chính phương tiện của mình.
Cùng ngày 18 tháng 4 , cùng trên một tờ báo :
" Tìm việc làm : đầu bếp chính người Việt Nam , chuyên môn các món ăn Mỹ và làm bánh. Tình nguyện đi ở đâu cũng được, miễn là ra khỏi nơi đây"
Chánh quyền Hoa Kỳ tiếp tục cho di tản trẻ con. Có nhiều đứa là trẻ mồ côi, nhưng có những đứa khác thuộc gia đình công chức Việt Nam muốn tìm nơi lánh nạn. Ngày 18 tháng 4 nầy ở Genève có 121 quốc gia đang bàn cãi về phương tiện cải tiến các công ước của Hồng Thập Tự. Có hai nước Việt Nam đang chạm trán nhau, Hà Nội thì tố cáo cầu không vận đang bốc những trẻ con ra khỏi đất nước của chúng, cái mà họ gọi là " một sự nhân đạo hoàn toàn giả tạo", còn đại diện của Sài Gòn đả kích lại, dựa vào những cuộc "hành quyết bằng võ khí thô sơ" và những cuộc "tàn sát tập thể" ở các khu do CPLTCHMN tạm kiểm soát.
Bộ máy Lập Pháp của Hoa Kỳ đang chạy. ông Henry Kissinger trình diện ở phòng số 2172 của tòa nhà Quốc Hội , trước 34 thành viên của Tiểu Ban Quốc Tế Vụ thuộc Hạ Viện Hoa Kỳ . Không có lời tuyên bố mở đầu. Tổng Trưởng Ngoại Giao ước tính là các thành viên đáng kính trong Tiểu Ban dĩ nhiên thích đặt câu hỏi cho ông ta hơn.
Ông Chủ tịch Tiểu Ban mở đầu :
- " .... Liệu chúng ta có thể rút tỉa được gì từ những bài học ở Cam Bốt để áp dụng cho sự tiến chiếm Miền Nam Việt Nam hay không ?
Kissinger :
- "Trước hết, giờ nầy chúng tôi không muốn lợi dụng sự kiện cộng sản Bắc Việt tiến chiếm Miền Nam Việt Nam . Nhưng tất cả mọi bài học đều chứng tỏ rằng không có gì thay thế được một sự quân bình về quân sự .Không có nó thì không thể nào có những sự thương thảo hữu hiệu được.... Trong một số tình huống nào đó, có thể cộng sản đặt nặng quyền lợi hơn là thương thuyết.
Ông Kissinger không muốn đặt Cam Bốt ngang hàng với Việt Nam . Ở Việt Nam có nhiều vũ khí hơn. Một vị dân biểu tán dương Chánh Phủ về cách thức di tản ở Phnom Penh. Ông ta ước mong rằng nếu cần thiết thì cuộc hành quân di tản ra khỏi Sài Gòn cũng được thành công như vậy. Ông Kissinger lợi dụng cơ hội nầy ca một bài "đoàn kết" để hàn gắn Hành Pháp với Lập Pháp. Ông Tổng Trưởng Ngoại Giao dùng lại một trong những danh từ được ông Martin ưa dùng :"hoảng loạn" mà ai ai cũng muốn tránh nó với bất cứ giá nào.. Trong thủ đô Hoa Kỳ, có nhiều người đề nghị là hãy nên di tản chậm rãi từ từ, Chánh Phủ muốn để lại vài người Mỹ làm con tin cho cộng sản Bắc Việt. Những mẩu chuyện nầy không xứng đáng để đem ra bàn cãi.
Người ta bước qua chuyện của ông Tổng Thống của Miền Nam Việt Nam
Câu hỏi :
- "... Thưa ông Tổng Trưởng, có nhiều thành viên trong Quốc Hội - trong đó phải nói là không có tôi - ngả về ý muốn ông Thiệu nên từ chức... Ông nghĩ thế nào về việc nầy ?
Ông Kissinger muốn rằng người ta nên dành những vấn đề nầy cho một phiên họp kín. Tuy nhiên ông cũng nói :
- "... Hoa Kỳ ủng hộ Chánh Phủ ở Miền Nam Việt Nam nhưng không ủng hộ cá nhân nào.
Tuy vậy đã quá rõ ràng là ông Kissinger buông ông Thiệu trong khi ông bênh vực Chánh Phủ Miền Nam Việt Nam :
- "Tại Sài Gòn bây giờ, người ta sẵn sàng thương thuyết với một sự linh động đáng kể.
Ông Kissinger không dưa ra một bằng chứng nào về vấn đề ông vừa nói. Ở Sài Gòn thực ra có nhiều người mong cho có được một sự thương thảo, nhưng chắc chắn không phải là ông Thiệu.
Tất cả những biên bản của các phiên họp của mọi Tiểu Ban đều một lần nữa theo đường dây chạy thẳng ra cho báo chí, và như thế đã nhanh chóng đến Hà Nội và từ đó chạy thẳng đến Tổng hành dinh của chiến dịch Tổng Tấn Công ở Miền Nam ngay.
Úc Châu là quốc gia đã công nhận Sihanouk và Khmer Đỏ. Các nước khác cũng sắp làm như vậy. Về phía Hoa Kỳ thì sao ? Ông Kissinger không thấy có một lý do nào để mà phải hấp tấp. Việc công nhận về mặt ngoại giao sẽ còn là quá sớm. Liệu ông Sihanouk có phải là Thủ Tướng của cái Chánh Phủ mới nầy hay không ?
Kissinger :
- "Tôi chắc chắn là chính ông ta cũng muốn biết việc nầy .
- Theo một số báo chí, thì Khmer Đỏ đã được dân chúng hoan nghênh khi họ vào thủ đô Phnom Penh. Người ta có chờ đón như vậy không ?
Ông Kissinger:
"Đối diện với một quân đội chiến thắng, phản ứng của dân chúng gần như có một thái độ nào đó giống nhau...
- Cái gọi là CPLTCHMN có được Chánh Phủ Bắc Việt công nhận là một Chánh Phủ chánh thức của Miền Nam Việt Nam hay không ?
- Ông Kissinger:
- "Không ... Thật là một điều lý thú để chờ xem những mối liên hệ đó sẽ tiến triển tới đâu.
Ông dân biểu Donald Fraser, người vừa mới là thành viên của phái đoàn Quốc Hội Hoa Kỳ đến Việt Nam cách đây vài tuần lễ:
- " Cảm tưởng chung... là Việt Nam Cộng Hòa coi như đã mất rồi...
Kissinger:
- ".. Giữa một chiến thắng quân sự với một sự sụp đổ hoàn toàn, vẫn có nhiều giai đoạn trung gian... Đối với những giai đoạn trung gian đó, muốn có được một kết cuộc có kiểm soát, thì một cuộc bỏ phiếu dành cho một viện trợ quân sự nào đó sẽ là điều rất cần thiết."
Ông Fraser rất đồng ý, nhưng ông không nhận thấy được một sự linh động nào ở Sài Gòn cả. Ngay như ông Valéry Giscard d'Estaing, Tổng Thống của nước Pháp, ông cũng đòi hỏi một vị lãnh đạo khác cho Sài Gòn .
Người ta nói đến nhiệm vụ của ông Martin. Ông Kissinger nhận xét là một ông đại sứ không thể công khai chỉ trích Chánh Phủ mà ông ta được ủy nhiệm đến.
Ông Fraser đặt thẳng vấn đề :
- " Có nhiều người trong chúng ta đã không tín nhiệm ông đại sứ của mình. Điều nầy là vì chúng ta đã có kinh nghiệm với ông ta
Ông Kissinger bênh vực ông Martin ngay:
- " Dĩ nhiên, đây không phải là một ý kiến mà chúng ta chia xẻ, nếu không thì ông ta đâu còn là đại sứ của chúng ta nữa ... Trong những điều kiện hiện tại, rõ ràng là nếu Hoa Kỳ thay đổi đại sứ ngay trong lúc nầy, và cùng lúc với sự thay đổi lãnh đạo ở Miền Nam Việt Nam ... thì thật tình không phải là một phương cách tốt để kiểm soát được tình hình.... Ông đại sứ Martin là một nhà ngoại giao có kỷ luật, đang thi hành hết sức hoàn hảo những chỉ thị mà ông ta đã nhận được .
Ông Fraser là người đã được gặp một đại diện của CPLTMNVN ở Genève:
- "Tôi có cảm tưởng là phía họ có một sự leo thang trong những sự đòi hỏi. Người ta nói với tôi rằng quan trọng nhất là phải làm sao cho ông Thiệu ra đi. Người ta cũng có nói với tôi về sự chấm dứt hết mọi viện trợ quân sự ."
Ông Kissinger:
- " Và trước đó rất lâu, Bắc Việt họ đã nói nhiều về vấn đề chấm dứt mọi viện trợ.....
Trong một phiên họp kín, ông Kissinger cho biết về sự vận động của Tổng Thống Ford với ông Brejnev (Liên Xô)
Ông Kissinger, quá cô đơn, có cảm nghĩ rằng phải đối đầu với cả một nước đang bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa cấp tiến và hòa bình của ông Mc Govern. Tổng Thống lại không phải do dân bầu lên. Ông Kissinger nghĩ rằng tại Quốc Hội, những người bảo thủ cũng như ôn hòa "đang ôm ấp một lý thuyết theo đó sự hòa hoãn là một ân huệ lớn của người Mỹ dành cho Liên Xô, và vì thế chúng ta có thể đòi hỏi họ phải trả lại cho chúng ta một cái giá nào đó.Tại sao chúng ta không bắt họ phải cho khoảng một trăm ngàn người Do thái được phép rời khỏi Liên Xô ? Tại sao họ không làm thế nầy, tại sao họ không chịu làm như thế kia ... ? Thật là một phép lạ khi người Liên Xô không lợi dụng được sự sụp đổ của ông Nixon để theo đuổi một đường lối chánh trị gây hấn hơn ?... Chúng ta không thể nhận được gì hơn khi chúng ta đe dọa họ. "
Người ta đã tập trung cả một đại hạm đội ngoài khơi Cam Bốt. Chúng ta sẽ phải làm như vậy dọc theo bờ biển Việt Nam . Tuy nhiên ông Kissinger biết là ông không thể xử dụng hạm đội đó trong mục đích quân sự được . Liên Xô họ cũng hiểu rõ như vậy. Khi ông Kissinger gọi ông Dubrynine (đại sứ Liên xô) đến Bộ Ngoại Giao, thì ông đã bịp trước một viên chức ngoại giao loại nhà nghề đáng gờm nầy. Chung quanh Tổng Thống Ford, là những người như Rumsfield và Nessen đã có sẵn một lý thuyết "điên rồ" loại "quẫn trí" như ông Kissinger đã nói : người ta sẽ gán cho ông Ford một sự hãnh diện là đã "rút" được người Mỹ ra khỏi Việt Nam".
Ngủ Giác Đài muốn có một bản đánh giá nhanh chóng, còn ông Martin thì lại muốn có một cuộc di tản thật chậm rãi. Ông Kissinger thì khẳng định rằng cách tốt nhất để di tản người Việt Nam ra khỏi Việt Nam là phải giữ người Mỹ lại tại chỗ trong một thời gian nào đó. Nếu di tản hết người Mỹ, như những người ở Bộ Quốc Phòng và Bộ Ngoại Giao đang mong muốn, thì chẳng những người ta sẽ không cứu được bao nhiêu người Việt Nam, mà còn có nguy cơ là binh sĩ Việt Nam sẽ bắn lại người Mỹ nữa. Và do vậy mà người ta sẽ không có thể di tản được người Mỹ nữa. Đây là một vấn đề nói không cùng.
Để làm cho tình hình trở nên rắc rối thêm, có hai nghị sĩ loại nặng ký, ông Jacob Javits và Redmund Muskie, trong hai buổi phát hình rất được dân chúng đón nghe là "chương trình đối diên với đất nước " và "Gặp gỡ báo chí" (Face the Nation, và Meet the Press) đã tuyên bố rằng: "nếu cần thì Tổng Thống có quyền xử dụng một số nhỏ Thủy Quân Lục Chiến để di tản người Mỹ, nhưng Tổng Thống Ford phải được Quốc Hội cho phép trước khi di tản hai trăm ngàn người Việt Nam ".
Từ Sài Gòn ông đại sứ Martin phản đối :
- "Như vậy thì không phải là một chuyện dễ dàng cho những người Mỹ đang còn ở Sài Gòn "
Ngày 18 tháng 4, đài phát thanh Hoa Kỳ đã thông báo trước cả đài truyền hình Mỹ rằng:
- "Tiểu Ban Quân Lực Thượng Viện Hoa Kỳ đã bác bỏ đơn xin viện trợ quân sự bổ túc cho Việt Nam Cộng Hòa. Tiểu Ban Quốc Tế Vụ của Hạ Viện Hoa Kỳ đã chấp thuận cho Tổng Thống Ford xử dụng quân lực Hoa Kỳ một cách hạn chế và dè dặt trong việc di tản người Mỹ.
Như thế là mọi trò chơi đã được an bài.
Ông Henry Kissinger đã rút tỉa được kết luận từ những quyết định của Lập Pháp :
- Cuộc tranh luận về Việt Nam đã chấm dứt.... Chánh Phủ sẽ phải chấp nhận một bản án của Lập Pháp mà không có tinh thần hồi tố và trả đũa lại.
Sau nầy, tại trường Đại Học Tulane, Tổng Thống Ford nâng lên thêm :
" Bây giờ thì chúng ta có thể tìm thấy lại được sự hãnh diện mà Hoa Kỳ đã có từ trước sự kiện Việt Nam một sự hãnh diện mà Hoa Kỳ sẽ không bao giờ tìm lại được, nếu còn tham gia vào một cuộc chiến coi như đã hoàn toàn chấm dứt đối với chúng ta." !
*
* *
Tại trại Davis (Tân sơn Nhứt), đại tá Võ đông Giang, trưởng phái đoàn MTGPMN, trong một buổi họp báo thường lệ vào mỗi sáng thứ bảy, lần đầu tiên đã nói thẳng về đại sứ Hoa Kỳ là ông Martin. Ông ta nói :
- "Ông đại sứ Hoa Kỳ "Là một nhà ngoại giao Mỹ" nhưng "điều khiển các cuộc hành quân quân sự , chánh trị và kinh tế . Ông ta là người phải chịu trách nhiệm về tất cả mọi hành vi tội ác của ông Thiệu"
Chi bộ đặc trách về cuộc tấn công chánh trị ở Hà Nội làm việc quá đắc lực . Đại tá Giang chấp nhận sự có mặt của hàng ngàn người "Mỹ dân sự", nhưng theo ông ta thì chỉ một người cố vấn quân sự Mỹ cũng thể hiện một sự vi phạm trắng trợn Hiệp Định Ba Lẻ !
Cách trại Davis chừng vài trăm thước, trong những dãy nhà thuộc Tùy Viên Quân sự Hoa Kỳ , một phòng chiếu bóng được chỉnh trang lại thành một trung tâm thanh lọc người tỵ nạn Việt Nam và vì thế người ta đã hủy bỏ hẳn buổi chiếu bóng cuối cùng trong ngày. Chương trình quảng cáo cuốn phim dự trù "Giai Đoạn 4" cho thấy một con nhện đang bò trên một bàn tay đầy máu đỏ, " ngày mà trái đất sẽ biến thành nghĩa trang".
Các viên chức Hoa Kỳ đang xem xét chứng từ của những di dân sắp lên đường đi tỵ nạn. Để hợp thức hóa tình trạng của vài trăm người Việt Nam, người ta không tiến hành các lễ cưới cấp thời , người ta thực hiện và đóng dấu các "giấy hứa hôn". Những vị hôn phu tương lai người Mỹ phải ký vào lời khai "có ý định cưới vợ". Trong những hàng dài đang đứng chờ đợi, người ta nói chuyện hay đọc báo.
Thông báo trên tờ Sai Gon Post:
" Các bạn Mỹ thân mến,
Các bạn là những người Mỹ bình thường, không có việc gì làm trong hiện tại. Nếu bạn nào muốn có một nghề đúng sở thích, xin hãy đến gặp chúng tôi ngay, chúng tôi sẵn sàng giúp các bạn tiền bạc, nếu cần. Lương bổng hậu.
Xin làm ơn liên lạc với Cô Lan. điện thoại số 96 052."
Ngoài thủ đô, giá của một người chồng hay vị hôn phu người Mỹ, người Pháp hay Đức.. đang lên cao. Người ta nói rằng gia đình của một số thiếu nữ trẻ, bằng lòng chịu trả hằng trăm ngàn mỹ kim tiền mặt.
Ông đại sứ Mỹ không biết chính xác hiện có bao nhiêu công dân Hoa Kỳ đang ở Việt Nam . Ông ta muốn tất cả những người nầy phải đi hết, và đúng lúc. Các nhà kinh doanh, các kỹ sư, các nhà thầu ... đều phải tuân theo lệnh. Nhưng các người ờ ngoài lề, kể cả những người đào ngũ không liên lạc được với tòa lãnh sự Hoa Kỳ , và tất cả những người mà ông Martin gọi là "những người ăn bông sen"...Theo ông Martin, có quá nhiều người Mỹ dân sự đã coi thường vấn đề , tưởng rằng đây chỉ là một cuộc tấn công như mọi cuộc tấn công bình thường khác. Ông Martin sẽ vừa chiều họ và vừa đe dọa họ, những người ăn bông sen nầy. Ông ta làm việc, vừa gởi điện về cho ông Kissinger, vừa nghĩ là ông Tổng Trưởng "mong muốn tòa đại sứ còn mở cửa dài dài cho tới khi nào ông ta có được một sự dàn xếp về thương lượng".
Ông Martin sẽ di tản khoảng 750 công dân Hoa Kỳ trong vòng 3 tuần lễ. Dĩ nhiên ông sẽ giữ lại các phi công thuộc Hàng Không Hoa Kỳ. Ông ta sẽ đóng cửa tòa Lãnh sự ở Biên Hòa ở cách Sài Gòn 25 cây số ngàn. Nhất là, người ta làm ơn đừng nói gì hết ở Hoa Thạnh Đốn .
- "Tôi muốn tránh những rủi ro như đã xảy ra ở Đà Nẵng "
Theo ông Martin thì ở đây chưa có gì gọi là nguy hiểm cho người Mỹ. Người ta còn "một tháng hay ít nhất 6 tuần lễ nữa". Phải chờ khi nào ông ta gặp được ông Thiệu đã, trước khi có một quyết định quan trọng. Nếu ông Martin thấy ông Thiệu vẫn còn "cứng đầu và trong một tinh thần tử thủ", thì ông đại sứ mới tăng tốc độ cho cuộc di tản. Ông Martin biết là quân Bắc Việt có thể sẽ pháo kích vào Tân sơn Nhứt với pháo binh nặng, hoặc xử dụng hỏa tiễn SAM 7 chung quanh phi trường. Họ không phải chọn lựa gì hết để thực hiện chuyện nầy. Tính ảo thuật của nhà ngoại giao vốn đang ngủ say trong người ông Martin chợt bừng tỉnh dậy. Ông giải thích cho ông Kissinger là ông sắp đi gặp đại sứ Ba Lan ở Ủy Hội Quốc Tế.
- "Nếu có hỏa tiễn được pháo vào vùng phụ cận Sài Gòn thì chắc chắn là Bắc Việt muốn bảo vệ Tổng hành dinh của họ mà thôi ", ông Martin nói với ông Kissinger như vậy. Ông ta cũng nói luôn với ông Kissinger rằng chính ông ta, đại sứ Martin, hy vọng quân cộng sản Bắc Việt sẽ thử bắn hạ một phi cơ Mỹ "bởi vì không có gì cung cấp được một lời xin lỗi tốt nhất để Không Lực Hoa Kỳ trả đũa xuống Hà Nội" ....
nhật ký của bà Claudia Krich:
Ngày 19 tháng 4, 1975 (thứ bảy)
CPLTCHMN mong muốn có được một dàn xếp nào đó để thương thuyết. Điều nầy bao hàm là ông Thiệu phải từ chức. Ông Thiệu hình như không có ý định đó. Như vậy , người ta tiên đoán là sẽ có một cuộc tấn công vào Sài Gòn .... Keith (một nhân viên Quaker khác) đã cho tôi biết là có rất nhiều binh sĩ trong Sài Gòn chưa từng có đánh trận bao giờ. Họ đã trả tiền để được trốn ở nhà. Với một ít may mắn nào đó.... họ sẽ đầu hàng mà không cần chiến đấu.".
Ông Martin họp Bộ Tham mưu của ông lại để có được một nhận định tình hình mới nhất. Hà Nội sẽ cố gắng chiếm Sài Gòn để kỷ niệm sinh nhật Hồ chí Minh ngày 19 tháng 5. Nhưng có thể để loại trừ Thiệu, Hà Nội sẽ cố gắng đặt ở Sài Gòn một Chánh Phủ trung lập không mạnh lắm để dễ loại bỏ sau đó. Ông đại sứ đã gặp lại ông Bùi Diễm, người vừa mới dự một buổi họp của các tướng lãnh ở nhà của tướng Kỳ. Người ta đã khóc với nhau nhiều khi họ nghĩ tới tương lai. Ông Martin có đòi hỏi ông Bùi Diễm phải thắng các ông bạn quân nhân của ông ta lại. Và nhất là không nên có bất cứ một cuộc đảo chánh nào. Ông Martin tự hỏi về những lời tuyên bố của đại tá Võ đông Giang. Người đại diện của CPLTCHMN có nói rõ về con số cả ngàn người Mỹ sẽ có thể còn ở lại tại chỗ. Như vậy là có thể có thương thuyết . Chuyện nầy ông Tổng Truởng Quốc Phòng Trần văn Đôn cũng có nói. Như vậy là mình phải tận dụng các lá bài nầy.
Cũng như ông Martin, mặc dầu có những lời cảnh cáo của thuộc viên phân tích gia Frank Snepp, ông Polgar cũng nghĩ rằng lần lần thấy có nhiều khả năng có được những cuộc thương thuyết. Người chù nhiệm sở Trung Ương Tình Báo CIA có nhận được một cú điện thoại từ đại tá Toth của Hung gia Lợi để họ gặp nhau.
Họ dùng cơm ở nhà ông Polgar. Ông Toth hỏi :
- " Anh có chấp nhận ý kiến là Miền Nam Việt Nam đã thua rồi không ? và không thể tránh khỏi việc nầy sẽ kéo theo nhiều hậu quả chánh trị ?
- Vâng . Ông Polgar nhường lời.
- Nếu anh chấp nhận, thì chúng ta có thể có được một sự dàn xếp để có thể tránh được các cuộc chạm súng trên đường phố trong thủ đô Sài Gòn .
- Anh có nhân danh những người bạn của anh ở "phía bên kia" để nói điều nầy ? ông Polgar hỏi lại.
- Không , nhưng sau nhiều lần nói chuyện với họ, tôi có cảm tưởng là họ không mong muốn làm nhục Hoa Kỳ .
Đại tá Toth muốn đánh tiếng là những tin tức của ông ta đến từ Hà Nội chớ không phải chỉ từ CPLTCHMN đâu. Ông ta cũng thừa biết là đối với ông Polgar CPLTCHMN chỉ là một "hư cấu" mà thôi.. Đại tá Toth muốn chuyển những điều kiện tiên quyết cho một cuộc thương lượng. Danh từ "tiên quyết" nầy được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Ông Polgar không tin lắm. vì ông biết có thể đây là chuyện phản tin tức. Nhưng trên bình diện quân sự thì coi như đã hoàn toàn hỏng hết rồi. Phải tìm một đường lối chánh trị thôi. Những nhà quan sát như ông Malcolm Browne, phóng viên của tờ Nữu ỏc Thời Báo mà ông Polgar thường gặp, cũng xác nhận là CPLTCHMN muốn thương lượng. Một cuộc hợp ca phấn khởi ! Ông Polgar nói:
- "OK, Đi từ chỗ đó, bây giờ chúng ta phải làm gì đây ? Ai làm cái gì và làm cho ai ?"
Đại tá Toth kể ra các điều kiện tiên quyết .
- Ông Thiệu phải từ chức, không điều kiện. Phải lập một Chánh Phủ gồm những nhân vật mới được Bắc Việt chấp thuận. Hoa Kỳ sẽ ngừng cung cấp mọi viện trợ quân sự cho Chánh Phủ mới nầy. Ông đại sứ Hoa Kỳ phải giới hạn những hoạt động của ông lại. "
Tất cả đều không có gì mới mẻ hết, nếu có (nếu Toth thật sự nhân danh họ) thì địch quân chỉ cho phép ông đại sứ Mỹ còn ở lại Sài Gòn mà thôi.. Liệu Đại tá Toth có thể hỏi những người phía bên kia danh sách những nhân vật Miền Nam Việt Nam nào mà họ chấp nhận được ?
Đại tá Hung gia Lợi sẽ thử hỏi, nhưng ông ta nhấn mạnh là "thời gian đã cấp bách lắm rồi. Đây là một vấn đề của từng ngày chớ không phải từng tuần nữa ".
Ông Polgar, quá bị kích động đã phúc trình ngay cho ông Martin, và ông đại sứ đã điện về cho ông Kissinger cùng ngày 19 tháng 4 lúc 18 giờ 10. Tất cả mọi việc hình như rất là thú vị. Có thể nào ông Kissinger được soi sáng thêm khi ông ta gởi ngay một "công điện cho Lê đức Thọ" ? Bất chấp những lý do thật hay giả của đại tá Toth, đại sứ Martin cũng thấy như vừa cắn phải miếng mồi ngon, qua ý kiến cho tòa đại sứ của ông được duy trì ở Sài Gòn.
Trong công điện của ông, đại sứ Martin than phiền hết người nầy đến người khác. Các sĩ quan có trách nhiệm soạn thảo kế hoạch di tản thì vừa đòi hỏi nhu cầu phải có đến 800 Thủy Quân Lục Chiến .Ông Martin thì không muốn quá 300 . Ông bị chế độ hành chánh ở Hoa Thạnh Đốn ám ảnh. Mọi người ai cũng chạy theo một định hướng "hồn ai nấy giữ" (nguyên tác của tác giả : CYA: "Cover Your Arse") tức là hãy thu xếp thế nào để khỏi bị trách nhiệm và không bị khiển trách). Theo ông Martin thì các trung tâm tình báo "chỉ ước tính chuyện xấu nhất. Thật là không thực tế, nhưng chuyện đó sẽ che chở cho họ". Các quân nhân thuộc Bộ Quốc Phòng lúc nào cũng nói là họ đã sẵn sàng với phi cơ của họ. "Như vậy, nếu có chuyện không hay xảy ra thì người ta sẽ nói là Bộ Quốc Phòng đã làm tất cả những gì mà họ có thể làm được, và nếu có chuyện gì xảy đến cho những người Mỹ thì đó không phải là lỗi ở họ.... Người duy nhất có cái đầu không được ai che chở là tôi (đại sứ Martin). Bất cứ có xảy ra điều gì, thì tôi cũng sẽ lãnh đủ : không chạy khỏi bị chỉ trích."
Hơn nữa, nghệ thuật thảo công điện ngoại giao đòi hỏi phải có tính bi kịch vừa có tính khôi hài trong đó nữa. Nên ông Martin gởi về một tin tức mà ông vừa thu lượm được qua kiểm thính được từ các đơn vị Bắc Việt:
" 80 % bộ đội thuộc đại đội 6 đang bị nhậm mắt. Tất cả tiểu đoàn có thể bị lây hết không chừng. Hảy gởi y tá đến để săn sóc tức thời. "
Ông Martin cho lệnh ông Polgar giữ liên lạc chặt chẽ với viên đại tá Hung gia Lợi. Mặc kệ ý kiến của thuộc cấp như Snepp.
Ông Kissinger không quan tâm lắm về chuyện gặp gỡ bí mật của viên trưởng cơ quan tình báo CIA với một ông đại tá Hung gia Lợi. Người cộng sản không có thói quen tiến hành những chuyện thương thảo nghiêm trang qua những nhân vật hàng thứ yếu như vậy.
Chiến cuộc ở Xuân Lộc cuối cùng đã không được tốt lắm cho quân Miền Nam và tình hình quân sự hình như đã trở nên thảm hại trở lại.
Sáng chúa nhật 20 tháng 4:
Ông Kissinger trả lời: "Cái đầu của tôi cũng không được ai che chở ! Cuối cùng rồi những chỉ trích sẽ rơi vào tôi hơn là vào ông, ông Kissinger yêu cầu ông Martin hãy thăm dò thử xem ông Thiệu có định từ nhiệm hay không ? Thời điểm chọn lựa cho việc nầy rất là quan trọng. Ông Kissinger có liên lạc với phía Liên Xô. Ông khuyên ông Martin không nên nói gì với ông Thiệu hết: "người ta có thể dùng ông Thiệu trong vấn đề mặc cả."
Những người có trách nhiệm ở Ngũ Giác Đài đang lo âu về chiến cụ và đạn dược của VNCH có nguy cơ bị rơi vào tay của Bắc Việt .
Ở Hoa Thạnh Đốn, trong những buổi họp có đủ mặt đại diện các ngành, ông Kissinger buông ra một câu :
- "Tôi biết rằng nếu người Mỹ bị chết, thì đó là lỗi ở tôi. Tôi biết rằng, nếu chỉ còn một người Mỹ nào đó còn sót lại ở Việt Nam , thì đó cũng là lỗi ở tôi. Thưa các ông, bây giờ quý vị ai cũng đã tự lo đề phòng cho mình cả rồi. Chúng ta hãy bắt đầu làm lại đi "
Tại Bộ Ngoại Giao ở Mạc tư Khoa, người ta tiếp rất nhiều nhà ngoại giao ngoại quốc, nhất là từ Đông Phương. Dựa trên những sự trao đổi với các đại diện Bắc Việt và của CPLTCHMN, các viên chức ngoại giao cao cấp Liên Xô nhắc đi nhắc lại rất ngọt ngào rằng "cộng sản Việt Nam không có ý định chiếm Sài Gòn hay đi tới chiến thắng quân sự với cuộc tổng tấn công hiện tại." Họ nói rằng Bắc Việt nhìn nhận rằng họ cũng có nhiều bài toán về tiếp vận, cùng có nhiều khó khăn về tiếp tế lương thực. Bằng chứng là khẩu phần trong vùng Hà Nội đã bị giảm thiểu...
Đây là luận cứ mới nhất của Liên Xô : Quá bất ngờ vì các đơn vị tiến quá nhanh, Bộ Tư Lệnh Bắc Việt đã gặp khó khăn trong việc đối phó với các sư đoàn cuối cùng được trang bị quá đầy đủ của Sài Gòn. Cuối cùng CPLTCHMN không muốn tiếp thu một thủ đô Sài Gòn bị tàn phá.
Cũng vẫn những tin tức tương tự được tung ra từ Ba Lê (Pháp). Tại đây phái đoàn VNCH đòi hỏi Bắc Việt và CPLTCHMN phải trở lại bàn Hội Nghị "mà không có điều kiện tiên quyết". Đại diện CPLTCHMN trả lời rằng: "Bao lâu mà ông Nguyễn văn Thiệu còn ở chánh quyền thì chừng đó không bao giờ có tiến triển về chánh trị được ".
Trước đây vài tháng theo đề nghị của đại sứ Martin, Tổng ThốngThiệu đã cử tướng Nguyễn văn Toàn - một người to con, một người lính thật giỏi nhưng hư hỏng - đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Vùng 3 Chiến Thuật , bao gồm Sài Gòn và Xuân Lộc .
Tướng Toàn trình cho Tổng Thống là Xuân Lộc chắc sẽ bị thất thủ. Quân Bắc Việt có thể tràn ngập các đơn vị phòng thủ cuối cùng ở đây và sẽ đánh bọc hậu vào thành phố. Ở phía Bắc Sài Gòn, Bắc Việt không phải tập trung các sư đoàn mà là tập trung các quân đoàn của họ. Lần lần họ sẽ có mặt ở vùng Đồng Bằng. Đứng trước tướng Viên Tổng Tham Mưu Trưởng, tướng Toàn , người được Tổng ThốngThiệu tin cậy, đã có nhận định:
- " Chúng ta không còn lực lượng trừ bị. Chúng ta không có thể tiếp tục chiến đấu được nữa. Trên phương diện quân sự , coi như chiến tranh đã chấm dứt. Phải thương thảo với cộng sản mà thôi.
Trong một vài trung tâm chánh trị tại Sài Gòn, những nơi mà ai cũng biết khá rõ về lịch sử nước Pháp, thì người ta giải thích là phải có một cuộc chuyển giao quyền hành hợp pháp giống như tướng De Gaulle đã nhận lấy chánh quyền hồi tháng 5 năm 1958 vậy mới được . Một vài người như ông Bùi Diễm ước tính rằng tất cả những cuộc vận động của những người nầy hay người khác đều vô ích thôi. Ông Martin có điện thoại cho ông Bùi Diễm. Ông Martin hỏi :
- " Ông có gặp được Tổng ThốngThiệu chưa ?
- "Chưa, khó mà vô được lắm .
Ông Thiệu tự cô lập mình trong tư phòng, tinh thần bị đè nặng.
- " Có lẽ bắt buộc tôi phải đích thân đến đó mới được, ông Martin vừa nói vừa thở dài.
Ngày 20 tháng 4, vào buổi sáng, Ông Martin và người tùy viên là ông Brunson Mc Kinley. đến dinh Độc Lập. Trước đó ông đã đọc qua các bản phúc trình sau cùng của các cơ quan tình báo.
Đại sứ Hoa Kỳ giải thích cho Tổng ThốngThiệu biết là "phân tích bản trận liệt và so sánh tương quan lực lượng hiện hữu đã dẫn đến một kết luận hết sức bi quan, nếu không muốn nói là thảm não .. Nếu Hà Nội muốn tiêu diệt QLVNCH thì Sài Gòn không thể cầm cự quá một tháng, hay có thể là không quá 3 tuần lễ, ngay như có được một sự phòng ngự vững chắc. Hà Nội mong muốn chiếm được Sài Gòn còn nguyên vẹn. Nếu những cuộc thương thảo không tiến hành được , người ta cũng không thể loại ra ngoài ý muốn của Bắc Việt là họ vẫn muốn chiếm một thủ đô Sài Gòn bị tàn phá hay không cũng vậy.
- "Vậy thì triển vọng viện trợ như thế nào ? Ông Thiệu lên tiếng hỏi
- "Mù mờ lắm" ông Martin trả lời.
Xem chừng như ông Thiệu rất bình tĩnh, đáng kính nể lắm trong khi ông Martin mô tả những nét chánh của một thất bại ê chề. Ông nói với ông Thiệu là tất cả những người nào ở vào vị thế so với vị thế của ông ta ở tại Sài Gòn nầy, ở Thủ tướng Phủ bên Anh, ở Tổng Thống Phủ bên Pháp, ở điện Kremlin ở Liên Xô hay ở ngay Nhà Trắng bên Mỹ, đều có một bài toán chung giống nhau: họ không bao giờ biết được là người ta có nói hết sự thực cho mình hay không ? Người ta có thể nói dối với họ, trang điểm các phúc trình để được lợi ích cho cá nhân hay cho phòng sở của mình, để mà không làm phương hại đến người nắm giữ quyền hành tối thượng. Hay là vì người ta sợ và không muốn đưa tin quá xấu đến cho người đó.
Ông Thiệu ngồi nghe một cách kiên nhẫn.
Ông Martin tuyên bố là ông nói với tư cách cá nhân, không phải trong tư thế của một đại sứ Hoa Kỳ, với tư cách của một người từ lâu đã có quan sát được những biến cố ở Đông Nam Á Châu, của một người trong hai năm dài vừa qua đã làm việc cật lực để tìm hiểu sự phức tạp của những bài toán Việt Nam ..... ông cứ tiếp tục nói...:
Càng về già, ông càng thấy mình không sao biết hết được .Người ta có thể nghi ngờ. Lúc nào cũng vậy. Đó là điều rất là có lý. Nhưng trong những thời điểm đau khổ nầy, những sự quan sát của ông có giá trị như của bất cứ người Đông Phương nào. Tình hình quân sự xấu kinh khủng, và người dân Việt Nam cho đó là trách nhiệm của Tổng Thống Thiệu. Trong giới chánh trị, về phía bạn cũng như về phía quân thù, không có một ai dám tin rằng ông Thiệu có thể đưa đất nước của ông ra khỏi cuộc khủng khoảng nầy được. Các tướng lãnh của ông có thể tiếp tục chiến đấu, nhưng cũng phải đạt tới một sự ngơi nghỉ qua miếng mồi thương thuyết. Ông Martin ước tính rằng nếu ông Thiệu không sớm có hành động thì các tướng lãnh của ông sẽ đòi hỏi ông phải ra đi.
Thật là một cảnh lạ lùng, ngoài sự yên lặng của hai người đang đối thoại. Ông Thiệu đặt nhiều câu hỏi chứng tỏ rằng ít nhất tới một điểm nào đó ông mất hẳn sự tiếp xúc với thực tế, cũng giống như đại sứ Martin đôi khi vậy . Ông hỏi:
- "Đơn từ chức của tôi có ảnh hưởng gì đến Quốc Hội Hoa Kỳ và sự bỏ phiếu của họ hay không ?
- " Vài tháng trước thì có thể có" ông Martin trả lời.
Còn bây giiờ thì ông tỏ ra nghi ngờ. Điều quan trọng là sự ra đi của ông Thiệu sẽ có ảnh hưởng đến "phía bên kia" hay không ?. Ông Martin không biết..... Ông đại sứ tưởng rằng Hà Nội sẽ chống đối bất cứ người nào có nghị lực. Tất cả những người của ông Thiệu, tất cả Chánh Phủ của ông đều có cảm nghĩ rằng sự ra đi của ông sẽ giúp mua được thời gian. Ông Martin ước tính rằng hy vọng đó rất là thấp nhưng người ta có thể căn cứ vào sự sống còn của một nước Việt Nam độc lập.
Ông Thiệu trả lời là ông sẽ có một quyết định tốt, đúng theo quyền lợi của đất nước ông. Ông Martin thấy không còn chờ đợi gì hơn nữa được ở Tổng ThốngThiệu. Ông Thiệu sẽ phải suy tính lại.
Cuộc đối thoại kéo dài một tiếng rưỡi đồng hồ
Khi trở về tòa đại sứ, ông Martin phúc trình ngay với ông Kissinger :
- "Ông Thiệu có thể sẽ còn thử có một hành động nào đó để giúp ông ta qua mặt được kẻ thù của ông. Chắc không còn bao nhiêu thời gian nữa đâu. Xét kỹ lại thì tôi nghĩ rằng ông ta sẽ ra đi gần đây thôi.... Nếu các tướng lãnh của ông cho ông được vài ngày nữa thì có thể ông ta sẽ dàn dựng một màn từ nhiệm cảm động lắm. Tôi sẽ về nhà để đọc qua những phúc trình từ Hoa Thạnh Đốn ... rồi mới đi tắm gội được . Tôi nhức đầu lắm rồi đây. Kính, Martin"
Vào buổi trưa cùng ngày 20 tháng 4 nầy, ông đại sứ Pháp đi một mình tới dinh Độc Lập. Được ông Thiệu tiếp ông cũng một mình. ông Mérillon cảm thấy sự vận động của ông có vẻ kỳ quặc nhưng thân mật.
- "Thưa Tổng Thống , tôi đến tìm ông vì tình hình đã hết sức nghiêm trọng rồi. Không còn một lối thoát nào bằng hành động quân sự hết.
Ông Thiệu không trả lời, ông Mérillon lại tiếp :
- " Tôi chỉ thấy được có một con đường chánh trị .... Phải để cho một tiến trình chánh trị nó phát triển.
Vốn ít nói, ông Thiệu vẫn lặng thinh. Nên cuộc nói chuyện trở thành một cuộc độc thoại dài của đại sứ Pháp. Ông điểm qua những sự kiện mà ông Thiệu mới bắt đầu biết. Ba phần tư đất nước coi như đã mất rồi. Có được bao nhiêu thành phố còn được ở trong tay của Chánh Phủ?- Sài Gòn, Cần Thơ. Nếu tình thế không nghiêm trọng thì không bao giờ Mérillon nầy dám tự cho phép mình... Căn cứ theo những gì Tổng Thống đang nắm được, điều rất rõ là.....
Đại sứ Pháp nhắc lại những quan hệ cá nhân giữa 2 người , nhắc lại lịch sử, danh dự, những mối liên lạc giữa bà Thiệu và bà Mérillon. Tổng Thống có thể giúp cứu vãn được dân tộc của mình . Xuyên qua một cuộc thương thảo không thể tránh né được, người ta có thể hy vọng sẽ cứu vãn một số đặc thù nào đó của Miền Nam Việt Nam được .
Tổng ThốngThiệu nói về những sự tập trung quân lực cần thiết, nói về sự phản bội của đồng minh Hoa Kỳ, về sự chủ bại của một vài tướng lãnh. Ông tỏ ra rất bình tĩnh nhưng ông Mérillon khi điện về Tổng Thống Phủ bên Pháp đã có nhận xét là :" thỉnh thoảng cái nhìn của ông Thiệu có vẻ ngơ ngác".
Đại sứ Pháp thấy mình cần phải nêu lên những hành động chống Pháp trong những ngày gần đây ở Sài Gòn . Ông thấy cần phải lên án thái độ rất có lễ độ được dùng để làm rõ nét những sự vận động của người Pháp là "can dự vào những công việc nội bộ". Và cuối cùng là Hiệp Định Ba Lê đã được long trọng bảo đảm ngay tại thủ đô nước Pháp.
Ông Thiệu lắng nghe mà không phản đối.
Cuộc nói chuyện kết thúc bằng một nhận xét rất là vô vị của Tổng ThốngThiệu:
- " Rồi sẽ ra sao thì ra !
Cũng giống như ông Martin, ông Mérillon từ giã Tổng ThốngThiệu, in trí rằng ông nầy rồi cũng phải ra đi.. May phước là ông Thiệu không có hỏi xem nước Pháp có chấp nhận cho ông ta tỵ nạn chánh trị ở Pháp hay không ?
Ông Mérillon trở về tòa đại sứ của mình một cách bình thản. Ở Thủ tướng Phủ Pháp, có một số người sợ rằng ông Thiệu sẽ trục xuất đại sứ Pháp, hay hơn thế nữa sẽ cho người ám sát ông nầy.
Ngay buổi chiều hôm đó, ông Thiệu trích đọc những bức thư của ông Nixon cho các thành viên của Chánh Phủ và một số Nghị sĩ, Dân biểu Quốc Hội nghe. Trong các tiệm ăn, các quán nhậu ở Chợ Lớn, người ta đánh cá sự ra đi của Tổng ThốngThiệu, một ăn ba, rồi một ăn mười. Nội trong tuần nầy hay trong mười ngày tới thôi.
Ngày 21 tháng 4,
Lúc 8 giờ 20, ông Polgar lại đi gặp đại tá Toth. Viên chức Mỹ nầy nói với viên chức Hung gia Lợi là người ta đã lắng nghe những nhận định của ông ta. Trước khi phê phán nội dung đó, người Mỹ muốn được nghe rõ ràng hơn về vị trí của "phía bên kia". Nhất là cộng sản sẽ muốn nghe Hoa Kỳ tuyên bố những gì ?
Hai người Mỹ và Hung gia Lợi điểm qua tình hình quân sự trong 48 giờ sau cùng. Những chuyện đổ máu thêm thấy không có ý nghĩa gì hết. Đứng về quyền lợi chung của tất cả mà nói thì cần phải tránh sự hỗn độn. Ông Polgar thắc mắc là những cuộc thương thảo chừng nào mới sẽ bắt đầu và sẽ diễn ra ở đâu ?
Trong khi hai ông Polgar và Toth đang xây dựng lại nước Việt Nam , thì đại tá Võ văn Cầm thuộc võ phòng của ông Thiệu đi đến đài truyền hình Việt Nam ở số 9 đường Hồng Thập Tự để xin đại tá Lê vĩnh Hòa Giám Đốc đài Truyền Hình Việt Nam tổ chức một buổi trực tiếp truyền hình . Đại tá Giám đốc đi ngay đến dinh Độc Lập mang theo dụng cụ lưu động và 20 chuyên viên. Có một đài tiếp vận trên xe để bảo đảm chuyển tiếp hình ảnh và âm thanh đến thẳng Đài Truyền Hình trung ương.
Trong một phiên họp nội các ngắn, Tổng ThốngThiệu báo cho các Tổng Bộ Trưởng của ông về quyết định của mình . Đến 2 giờ trưa Tổng Thống gặp Giám Đốc đài Truyền thanh truyền hình, lúc ông nầy đang đặt dụng cụ:
- " Anh có thể cho phát hình vào lúc 6 giờ chiều được không ? Để chỉnh các máy quay hình, anh hãy chọn một người nào đó có vóc dáng như tôi vậy được rồi.
Đến 3 giờ chiều, ông Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia loan báo là chiều nay Tổng Thống sẽ ngỏ lời với quốc dân đồng bào trên đài. Đến 5 giờ chiều, Tổng Thống cho gọi Giám Đốc đài truyền hình vào văn phòng của ông. Ông nói:
- " Trong lúc chuyển giao quyền hành, anh quay luôn cả tôi và ông Hương nghe .
Ông Thiệu muốn được trực tiếp truyền hình để nói chuyện tự do hơn. Nếu ông cho thâu bài nói chuyện của ông trước thì người Mỹ có thể tạo ra những biến cố kỹ thuật được. Vì giây trời (ăn ten) phát hình nằm ngay trên đài truyền thanh của Mỹ.
Tổng ThốngThiệu chỉ thị cho Giám đốc truyền hình lần chót :
- " Tôi sẽ nói vào đúng 19 giờ 30. Cuối cùng anh cứ giữ một máy quay trên hình của tôi. Và cứ cách hai giờ anh lại cho phát lại một lần.
Được biết là trước cuộc tổng tấn công của cộng sản về truyền hình đã có 5 đài chuyển tiếp, ở Sài Gòn, Cần Thơ, Nha Trang, Qui Nhơn và Huế. Trong tổng số bốn trăm ngàn máy thu hình ở Miền Nam Việt Nam , đã có hơn phân nửa ở ngay trong vùng thủ đô Sài Gòn. Bài diễn văn cũng sẽ được trực tiếp truyền thanh qua đài phát thanh trên nguyên tắc nghe được khắp cả nước Việt Nam .
Được biết ý định của Tổng ThốngThiệu, ông Martin cho ông Kissinger biết:
- "Ông có thể cho đại sứ Liên Xô Dobrynine biết để biến chuyện nầy thành lợi thế là ông đã cố gắng sắp xếp chuyện nầy với Hà Nội qua Mạc tư Khoa . Mặc dầu tôi không biết được ông Thiệu sẽ nói gì chiều nay, nhưng tôi cũng không chờ đợi là ông sẽ quá cứng rắn đối với Hoa Kỳ . "
Ông Kissinger trả lời ngay cho ông Martin:
- "Nếu ông Thiệu muốn rời khỏi Việt Nam , chắc chắn là ông phải lo cho ông ta mọi sự giúp đỡ cần thiết. Bất luận điều gì mà ông có thể nói về tôi, tôi vẫn có một sự kính trọng rất lớn đối với ông ta "
Ông Thiệu đã mời tất cả những Dân biểu và Nghị sĩ vào Hội trường lớn ở tầng dưới của Dinh Độc Lập, trên bục danh dự có thiết trí hai máy thu hình. Trong phòng có vài quân nhân, trong số nầy có đại tướng Cao văn Viên, Tổng Tham Mưu trưởng. Mọi người tuy có vẻ lo âu, bối rối nhưng có phần nào nhẹ nhõm. Ông Thiệu đã nắm chánh quyền từ cả chục năm nay. Ông ta đã chịu đựng và có quá nhiều kẻ thù. Giờ thì ông sắp ra đi. Liệu người ta có thể thay thế nhau ngay lúc đang ở giữa dòng hay không ? (tác giả dùng danh từ cộng sản là "thay ngựa giữa dòng").
Ông Tổng ThốngThiệu lên tiếng:
- " Thưa quý bà, thưa quý ông, Thưa đồng bào, Anh Chị em thân mến, đây là chiến lược của cộng sản : Quá mạnh về mặt quân sự , họ hăng say chiến đấu và các cuộc thương thuyết là phụ thuộc. Còn nếu họ thấy quá yếu về quân sự thì họ trở lại rất mạnh trên bàn thương thảo..."
Ông Thiệu vẽ lại một biến cố lịch sữ. Ông lên cao giọng. Đôi khi ông khoa tay làm như bị trật khớp vậy. Ông xin lỗi vì địa điểm nói chuyện hôm nay thiếu hẳn sự long trọng... :
- " Đã có một sự thông đồng giữa cộng sản và Hoa Kỳ để đi đến Hiệp Định từ ngày 26 tháng 10 năm 1972. Vào lúc đó tôi can đảm nói thẳng với Tổng Trưởng Ngoại Giao Mỹ ông Kissinger rằng "Nếu ông chấp nhận bản Hiệp Định nầy tức là ông chấp nhận bán Miền Nam Việt Nam cho cộng sản Bắc Việt . Còn tôi, nếu tôi chấp nhận nó tức là tôi là một kẻ phản bội lại đất nước và dân tộc tôi....
Ông Thiệu đã từ chối không chịu ký tên vào Bản Hiệp Định trong suốt 3 tháng. Lần đầu tiên Tổng Thống Thiệu công khai nói rằng để ép ông ký, vào năm 1973 Tổng Thống Nixon của Hoa Kỳ đã phải đe dọa cúp hết tất cả mọi viện trợ cho Miền Nam Việt Nam .
Bài diễn văn nầy không được ông Hoàng đức Nhã phụ ông soạn thảo, giống như những lần trước . Tổng Thống vừa đọc vừa thêm bớt tùy hứng, rất dài, và rất khúc chiết. Đôi khi cử tọa thấy bực mình vì nghe được tính cách quá nghiêm trọng của diễn tiến lịch sử nầy.
Thỉnh thoảng Tổng Thống đã tỏ ra rất giận dữ, quá xúc động, nên ông phải ngưng lại một lúc để tìm lại đoạn nối tiếp cho đúng chỗ trong bài diễn văn của mình. Chỉ có vài giây yên lặng mà sao thật là quá dài... Ông Thiệu đã tỏ ra rất là cứng rắn đối với người Mỹ, điều mà ông Martin không bao giờ mong đợi :
- " Tôi đã nói với họ (người Mỹ) rằng : Các ông đã bắt chúng tôi phải làm những gì mà các ông đã thất bại không làm được với nửa triệu binh sĩ võ trang quá đầy đủ... Các ông không có thua cộng sản thật nhưng các ông cũng không thắng họ được . Và các ông lại tìm được một lối thoát trong danh dự. Bây giờ, trong lúc quân đội chúng tôi thiếu vũ khí, thiếu đạn dược, thiếu trực thăng, phi cơ và B.52, thì các ông lại đòi hỏi chúng tôi phải thực hiện một việc không thể nào làm được, là lượm từ viên đá để lấp cả một đại dương ! Thật giống như các ông chỉ cho chúng tôi có 3 mỹ kim thôi mà buộc chúng tôi phải mua vé máy bay thượng hạng, hoặc buộc chúng tôi phải thuê một phòng ở khách sạn mà thường giá phải là 30 mỹ kim một ngày. .rồi phải ăn 4 hay 5 miếng bò bít tết, phải uống 6 hay 7 ly rượu vang.... Thật là vô lý, không thể nào thực hiện được !
Các khán thính giả đài truyền hình - người Việt Nam thì theo dõi bài nói chuyện trong nhà họ, và những cơ quan truyền thông báo chí thì ở tòa đại sứ Mỹ có người dịch ngay ra tiếng Anh tại chỗ - đều cảm thấy đây không phải là một bài diễn văn của một nhà ngoại giao, mà thật sự là một lá chúc thư.
Quá khích động, mồ hôi nhễ nhãi trên trán, ông Thiệu đã tỏ ra là một người thành thật khi ông thóa mạ người Mỹ:
- " Các ông bỏ mặc binh sĩ chúng tôi dưới cơn mưa pháo của cộng sản , thật là một hành động vô nhân đạo của một đồng minh vô nhân đạo !
Ông gằn mạnh từng tiếng và lập lại :
- "Từ chối giúp đỡ một đồng minh, bỏ mặc cho họ chết, thật là vô nhân đạo.
Sau đó ông trở về với bài diễn văn:
- " Hoa Kỳ đã tỏ ra rất hãnh diện là một quốc gia tranh đấu không mệt mỏi cho chánh nghĩa và lý tưởng Tự Do trên thế giới nầy. Năm tới Hoa Kỳ sẽ tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm lập quốc.... Liệu người ta còn có ai tin vào những lời tuyên bố của Hoa Kỳ nữa hay không ?
Ông Thiệu tự nhủ là ông sẵn sàng chấp nhận mọi chỉ trích của cả thế giới, của những đồng minh của ông , và của cả dân tộc Việt Nam .
- "Tôi công nhận là có một số cấp chỉ huy quân sự của tôi đã tỏ ra hèn nhát trong những chiến trận gần đây, nhưng không phải tất cả đều như vậy. Trong nhiều Vùng, các chiến sĩ của ta đã chiến đấu một cách anh dũng.... Tôi có thể tiếp tục nhiệm vụ của tôi trong chức vụ Tổng Thống để cầm đầu cuộc kháng chiến.. Nhưng tôi không thể cung cấp được cho quân đội đầy đủ phương tiện để chiến đấu.... Đồng bào có thể hiểu lầm tôi, cho tôi là một chướng ngại trên con đường đi đến hòa bình. Tôi chọn giải pháp thứ hai, là tôi xin từ nhiệm. Sự từ chức của tôi chỉ là một sự hy sinh rất nhỏ."
Ông xin tất cả hãy giúp đỡ Phó Tổng ThốngTrần văn Hương, người sẽ kế vị ông theo đúng Hiến Pháp vào chức vụ Tổng Thống.
Ngồi bên cạnh ông Thiệu, ông Trần văn Hương rất cảm động sau cặp kính đen lớn của ông. Ông Thiệu nói tiếp :
- " Không phải vì những áp lực của Đồng Minh chúng ta , cũng không phải vì cuộc chiến đấu khó khăn vối với quân đội cộng sản Bắc Việt mà tôi bỏ cuộc. Có những vị Tổng Thống của một vài quốc gia lớn cũng đã từng trải qua sáu hay bảy cuộc khủng khoảng. Họ đã viết sách, tự giới thiệu như những vị anh hùng, những chánh trị gia lỗi lạc. Còn tôi, trong mười năm qua, tất cả những năm, tháng, ngày, giờ của đời tôi đều gặp khó khăn, như tử vi của tôi đã tiên đoán.
Trong hàng cử tọa người ta muốn ông Thiệu chấm dứt. Nhưng ông cứ tiếp tục, trở lại những đề tài đã nói :
- Tôi sẵn sàng chấp nhận những phê phán và những cáo buộc của quốc dân đồng bào... Đời sống của cả một dân tộc không thể nào được trả giá như người ta trả giá một con cá ngoài chợ được
Cuối cùng ông Thiệu tuyên bố :
- " Tôi xin từ nhiệm, tôi không đào ngũ "
Như vậy là ông Thiệu đã nói suốt một tiếng rưỡi đồng hồ.
Vị tânTổng Thống Trần văn Hương sẽ lên tiếng tiếp theo đây. Người ta phải dìu ông lên đến tận ống nói. Sáu mươi hai tuổi đầu, lưng hơi còng hình như bị thấp khớp, ông nói với binh sĩ:
- " Bao lâu mà các anh em còn chiến đấu, ngày đó tôi vẫn còn đứng bên cạnh các anh em. Tai họa đã giáng xuống đất nước chúng ta, hài cốt tôi sẽ nằm chung với hài cốt của các bạn chiến binh. Đó là nguyện vọng thiết tha của tôi.
Đối với đồng bào ông Hương tuyên bố
- " Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết " .
Sau buổi lễ tuyên thệ của Tân Tổng Thống, Tướng Tổng Tham mưu Trưởng và Tổng Giám Đốc Nha Cảnh Sát đứng lên bảo đảm là quân đội tiếp tục chiến đấu và an ninh trật tự sẽ được vãn hồi.
Nhà văn Duyên Anh đã nghe ông Thiệu nói. Ông tự nhủ : Ông Thiệu không phải tài giỏi gì nhưng người Mỹ tin cậy ông ta. Nếu họ bỏ ông ta, thì cuộc diện coi như đã xong rồi .
Đã từ mấy ngày nay, tên của nhà văn Duyên Anh đã được ghi vào danh sách rồi nên ông chỉ còn chờ còn chờ có một cú điện thoại nữa mà thôi, để được bốc đi Hoa Kỳ. Người ta yêu cầu ông đừng có xử dụng đường giây điện thoại để bất cứ lúc nào cũng có thể nhận được điện thoại khẩn cấp . Giữa cú điện thoại và lúc ra đến điểm hẹn để được bốc đi, chỉ có vỏn vẹn 5 phút mà thôi.
Hòa thượng Thích Thiện Huê đã ngồi ở ngay chùa với môt số dân lánh nạn để nghe bài nói chuyện của ông Thiệu. Mọi người đều vui vẻ. Ông Thiệu đã mất hết vừa đồng minh vừa lòng tin của đồng bào. Ông ra đi là phải lắm rồi. Với một người lãnh đạo khác, tình hình may ra có thể khả quan hơn.
Ông kỹ sư Văn thì không thấy vui một chút nào. Làm sao những người quốc gia có thể thương thuyết được khi họ ở trong thế quá yếu ? Còn ông Tân Tổng Thống Hương vốn là môt người chống Cộng đến cùng thì làm sao mà thương thuyết được ? muốn vậy là phải có một nhân vật nào đó mềm dẻo hơn.
Ở Đà Lạt, cha Jean Marie phải vào nhà ăn của trường Đại Học đóng kín tất cả cửa lại để nghe Tổng Thống nói chuyện . Ông cảm thấy tức giận. Tổng ThốngThiệu đã loan báo là ông sẽ trở lại quân đội như một tướng lãnh. Nhưng mà Cha nghĩ là chắc chắn ông Thiệu đã có trong túi một vé máy bay để đi ra ngoại quốc rồi.
Chỉ hai giờ đồng hồ sau lễ bàn giao quyền hành ở Dinh Độc Lập, thì đài giải phóng và đài Hà Nội đã tuyên bố là :"Đó vẫn là chế độ Thiệu mà không có Thiệu... Chỉ là một chế độ bù nhìn mà thôi.""
Ông Thiệu gặp ông Hoàng đức Nhã, người em bà con của ông ở nhà riêng của ông nầy.
Ông cựu Tổng Thống hình như đã thanh thản hơn, không còn quá căng thẳng như lúc ông đọc diễn văn nữa. Đến độ ông đã nở được một nụ cười..... - hay là ông đã nhăn mặt đây ? - để nói :
- " Xong rồi. Nếu họ tưởng rằng họ có thể giải quyết được những bài toán nầy thì OK, xin cứ tìm giải pháp đi .... "
Sau đó ông thở dài:
- "Phần tôi, tôi đã làm được tất cả những gì mà tôi có thể làm được cho đất nước tôi rồi ".
Ông ta không còn ở tay lái nữa, nhưng ông chưa rời bỏ con thuyền. Ông chưa có ý định rời khỏi quê hương Việt Nam .
- "Tôi sẵn sàng giúp ý kiến, nhưng bây giờ tôi không phải là người chỉ huy nữa."
Trong khi ông Thiệu từ chức, các đơn vị cuối cùng của sư đoàn 18 bộ binh đang rút ra khỏi Xuân Lộc . Tướng Tư Lệnh sư đoàn Lê minh Đảo đã đặt cho cuộc triệt thoái nầy một cái tên là " cuộc hành quân bất ngờ, và đánh lạc hướng". Tướng Đảo đã có được một sự giúp đỡ ngắn - do một trái bom được gọi là " cắt hhết bông cúc" được thả xuống đêm rồi ở 6 cây số về hướng Tây Bắc Xuân Lộc , gần Bộ Tư Lệnh của sư đoàn 341 Bắc Việt . Bom nổ làm chấn động cả thành phố như một cuộc động đất. Tin được loan đi hoảng loạn: Miền Nam Việt Nam có bom nguyên tử loại chiến thuật. Hàng ngàn bộ đội và sĩ quan Bắc Việt bị tử thương do trái bom "hút hết dưỡng khí" nầy đã đốt hết dưỡng khí trong một đường bán kính 250 thước, làm chết ngay tại chỗ, nghẹt thở, mà không có một thương tích nào trên người .
Ông Eric von Marbod đã có hứa cho Miền Nam 27 trái bom loại "cắt hết bông cúc" nầy. Đã có 3 trái được giao cho Không Quân hôm 16 tháng 4., kèm theo đầy đủ mỗi trái một ngòi nổ của Hoa Kỳ . Ông ta đã chỉ cho Miền Nam kỹ thuật làm nổ trái bom và cách thức ràng rịt trái bom trên phi cơ vận tải cơ C.130. Muốn thả trái bom đầu tiên nầy, người ta gặp nhiều khó khăn lắm mới tìm được một phi công của Miền Nam có đủ kinh nghiệm. Vì người phi công Mỹ đã có hứa đến mà không thấy đến. Và người ta cũng không còn thả thêm được một trái bom nào loại nầy nữa.
Cuộc triệt thoái khỏi Xuân Lộc được tính toán rất kỹ và được thực hiện rất chu đáo. Những đơn vị cuối cùng của sư đoàn 18 bộ binh , của lữ đoàn 1 Dù, vài đơn vị Bảo An và Dân Vệ, đã rời khỏi vị trí đêm 23 tháng 4. Sư đoàn 18 tính tới giờ nầy đã bị thiệt 30 % quân số, đã tập trung được với pháo binh cơ hữu chung quanh các căn cứ Long Bình và Biên Hòa. Lực lượng Dù ít thiệt hại hơn, đã về thiết lập vị trí trên đường 15, bảo vệ trục lộ Sài Gòn ra Vũng Tàu.
Tổng Tư Lệnh quân đội Bắc Việt đã có quyết định bọc hậu thành phố để tiến về Biên Hòa , nằm ở giữa Xuân Lộc và Sài Gòn . Trong trận tấn công vào Xuân Lộc tướng Dũng đã mất hết 37 chiến xa T. 54.
Ở Sài Gòn. các nhà ngoại giao Pháp đang hăng say hoạt động. Họ muốn cho thủ đô không bị nằm trong lửa đạn, và chìa cho cộng sản Bắc Việt lá bài Dương văn Minh. Nhưng liệu Hà Nội có chấp nhận lá bài nầy hay không ? Sài Gòn, một thành phố đang hấp hối, đang tuyệt vọng, hình như đang bị rơi vào khoảng không ... Hai ông Mérillon và Brochand đều nghĩ rằng cần phải có cả một sự ổn định về mặt tâm lý lẫn chánh trị . Người Pháp thấy rõ là người Mỹ chỉ muốn cứu lấy đồ đạc của họ mà thôi.
Ở Phủ Tổng Thống Pháp, người ta nhấn mạnh là tất cả những chyện quan trọng không thể thực hiện một cách công khai ở nơi thanh thiên bạch nhật được . Đó là lề lối ngoại giao của người Pháp, kín đáo nhưng không có bí mật.
Tại Sài Gòn thì không được kín đáo lắm. Có quá nhiều trung gian, toàn là những người tốt, nhưng cũng có những sứ giả thật mà cũng có những sứ giả tưởng tượng nữa, những điệp viên hai ba mang, mờ ám.. hay ra vào các các trung tâm chánh trị và quân sự .
Bị châm biếm hay không thì vị trí của người Pháp ở đây ai cũng biết cả rồi :đại sứ Mérillon đã có quyết tâm xử dụng tới cùng lá bài của "lực lượng thứ ba" và của tướng Dương văn Minh.
Đối với người Pháp thì Miền Nam Việt Nam coi như đã thua trận rồi, nhưng chế độ Sài Gòn cũng chưa đến đỗi phải sụp đổ trong những tuần lễ sắp tới.. Cần phải thử bảo đảm cho sự tồn tại của một Miền Nam Việt Nam thu hẹp, một loại Nam Kỳ quốc. (nguyên tác :Cochinchine) Bắc Việt hình như chưa có gì gấp gáp lắm, họ sẽ chấp nhận một Chánh Phủ trung lập với lãnh đạo là ông Minh Dương.
Đó là những gì mà ông Pierre Brochand đã giải thích cho ông Polgar ngày 13 tháng 4 tại hồ bơi của Câu Lạc Bộ Thể Thao Sài Gòn. Ông Brochand là đệ nhị Cố Vấn của Tòa Đại Sứ Pháp, chuyên viên về các vấn đề Đông Dương, người có một vẻ đẹp ngâm đen của người Miền Nam nước Pháp, thực sự ông ta là người phụ tá chánh về chánh trị của đại sứ Mérillon. Ông đệ nhất Cố Vấn lo về vấn đề văn hóa và cơ quan của ông ta ở cách tòa đại sứ đến gần 2 cây số. Thời gian gần đây hai ông Brochand và Polgar gặp nhau rất thường.
Đã từ lâu rồi, ông Brochand có trách khéo ông Mérillon là không chịu khó đi gặp thường các người của lực lượng thứ ba. Ông Mérillon biết vậy nhưng ông nghĩ rằng nếu mình lui tới với ông Minh Dương thì ông Thiệu sẽ không được vừa lòng.
Bây giờ thì ông Polgar ngả về một giải pháp chánh trị, từ sự ra đi của ông Thiệu để cho có được người kế vị cho ông ta. Tại sao không phải là ông Minh Dương ? Hơn nữa, ông Cố Vấn Brochand đã chứng minh rất thực tế là nước Pháp sẵn sàng đón nhận 50 ngàn tỵ nạn chánh trị người Việt Nam . Như thế là ông ta đã áp dụng đường lối chánh trị của vị Đại Sứ của ông rồi.
Ông Mérillon người không lớn lắm, hơi cận thị, xuất thân từ trường Đại Học Quốc Gia Hành Chánh , có họ xa với Tổng Thống Giscard d'Estaing, đã được ông Georges Pompidou bổ nhiệm qua Sài Gòn và khi trình ủy nhiệm thư ông được Tổng Thống Thiệu đón tiếp bằng bản quốc thiều Pháp, một bản nhạc mà người ta mới được nghe lần đầu tiên từ 10 măm nay ở Miền Nam Việt Nam . Theo ông Mérillon thì đó là người ta cho người Pháp nhiều hơn những gì mà họ đang có. Cũng theo ông, thì có nhiều người Việt Nam nhìn ông ta như là một phó vương trong tư cách đại diện cho nước Pháp. Ông Mérillon có nhiều mục tiêu phải làm:
- Lo vấn đề an ninh cho người Pháp ở Việt Nam (gần 10.000 công dân Pháp), và ông đã đưa được về Sài Gòn hơn 300 người từ Cao Nguyên bằng các chuyến bay riêng..
- Trong viễn ảnh Sài Gòn bị Bắc Việt chiếm thì phải bảo vệ cộng đồng người Pháp, nhất là trong giai đoạn bàn giao, tranh tối tranh sáng.
Ông Mérillon nghĩ tới năm 1945, lúc người Nhật ra đi thì ở Sài Gòn trong một cư xá, người Pháp đã bị tàn sát trong những điều kiện thật đau thương tàn bạo , với trẻ con liệng vào lửa, phụ nữ bị hãm hiếp, đàn ông bị tra tấn hành hạ... Ông Mérillon cũng không nuốn thấy số phận Sài Gòn giống như Đà Nẵng .
- Phải làm sao cho nước Pháp càng có lợi bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.. Trong hai Miền Nam Bắc Việt Nam, đường lối chánh trị của Pháp nếu có, thì sẽ là một sự pha trộn giữa những kỷ niệm và những lời chúc tụng không chính xác....
Đới với chánh quyền Pháp, nước Việt Nam không có gì ưu tiên hết. Sau phong trào chống Mỹ thời Tổng Thống De Gaulle thì chánh quyền của ông Pompidou dịu dàng hơn đã mở đường cho Chánh Phủ hiện tại của ông Giscard d'Estaing căn cứ trên giả thuyết dễ dãi của Hà Nội . Có rất nhiều người Việt Nam ở Sài Gòn , ít nhất là những người ở lứa tuổi trên 40, đã nhắc đi nhắc lại là họ thấy gần người Pháp hơn là người Mỹ. Các người Mỹ thì thô lỗ và thẳng tánh, còn người Pháp thì nặng về tình cảm hơn. Về lịch sử thì họ đã có mặt ở cả Đông Dương. sự kiện ngoại giao quan trọng là Hiệp Định 1973 đã được ký kết ở Ba Lê.
Khi ông Mérillon rời Ba Lê để qua Sài Gòn thì ông có xin chỉ thị của ông Tổng Trưởng Michel Jobert thì ông nầy nói :
- " Người Đại Sứ không cần có chỉ thị. Ông ta phải tự tìm lấy cho mình". Và ông còn nói tiếp
- " Tòa đại sứ bên đó ra làm sao rồi ? Hãy làm thế nào để phải có một tòa đại sứ cho ra hồn !
Tòa đại sứ Pháp ở Sài Gòn rất đẹp. Trong dinh thự của mình, ông Mérillon đã cho người ta ngắm thỏa thích thang lầu hình khu ốc lấy kiểu ở các chiếc tàu chiến thời các Đô đốc Toàn quyền. Trên tường quét vôi trắng tinh, ông có nhiều sưu tầm quý giá màu xanh, nổi bật lên như các thác nước, như các vũ khí của thời Đệ Nhị Cộng Hòa, hay của Phủ Toàn Quyền... rất đẹp.
Trong tòa đại sứ của mình, ông Mérillon lúc nào cũng muốn tỏ ra mình là một nhà chánh trị có tầm cỡ. Ông tiếp khách nhiều, chịu khó nghe, và khuyến khích người nói.
Với ông Hoàng đức Nhã, ông nói :
- " Ông cần phải nói với ông Anh của ông là ông ta phải biết chịu khó dàn xếp, đưa "lực lượng thứ ba" vào quỹ đạo, hay phải tiếp xúc với CPLTCHMN. (Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam)
Ông Nhã đã trả lời:
- " Ông nghĩ rằng Hà Nội sẽ để cho ông ấy nói chuyện với CPCMLTMN hay sao ?
Ông Mérillon cũng đã to nhỏ với ông Nhã rằng :
- " Về phần ông, ông có thể có một vai trò quan trọng trong Chánh Phủ mới đó !
- " Chuyện đó không làm cho tôi quan tâm chút nào. Tôi không hề có một chút tin tưởng nào về cái gọi là Chánh Phủ Liên Hiệp đó bao giờ. "
Những người của ông Thiệu thất là quá thiển cận !
Ông Mérillon là một trong những người đại sứ hiếm hoi được ông Martin mời cơm. Hai người đều biết giá trị của nhau. Theo lời khuyên của Polgar, Đại sứ Martin không mấy tin tưởng vào tin tức quân sự hay chánh trị của người Pháp. Dĩ nhiên người Pháp là chủ đồn điền, là nhà thầu, là các tu sĩ sống rải rác khắp nơi ở các tỉnh, nhưng không có gì qua được hệ thống hữu hiệu của Trung Ương Tình Báo Mỹ (CIA). Trái lại, ông Martin sẳn sàng nghe ông Mérillon trên lãnh vực ngoại giao. Tối thiểu người ta cũng có thể nhờ người Pháp. Hai người đều ở cạnh nhau trên đại lộ Thống Nhất. Hai ông đại sứ đã cho đục một cánh cửa xuyên qua bức tường chung của hai tòa đại sứ. Trong trường hợp hệ thống điện thoại của Sài Gòn bị hư hay bị trục trặc thì hai người sẽ dùng một đường giây trực tiếp nối liền hai điện thoại màu đỏ được đặt ở ngay văn phòng của mỗi người . Về phía người Pháp, điện thoại nầy được đặt ở trong một hầm trú ẩn nằm ở sát cạnh văn phòng của ông Mérillon. Do đó mà có một lần khi vị sứ thần của Tòa Thánh đến thăm ông Mérillon, thấy ông nầy lật đật chạy ra khỏi văn phòng, vị sứ thần nầy lấy làm ngao ngán tưởng ông đại sứ nầy đang bị tháo dạ.
Ông Martin đang tìm một lối thoát chánh trị và càng ngày ông càng nghe nhà ngoại giao của Pháp. Vào giữa tháng 4, hai ông Martin và Mérillon đều đồng ý là: ông Thiệu thật sự là một chướng ngại.
Ông Martin cũng mân mê một số giải pháp khác. Một trong số đó có vẻ hấp dẫn trong giai đoạn nầy: < viện trợ quân sự bổ túc + thương thuyết chánh trị > Nhưng không may, vào ngày 16 tháng 4 Kissinger báo tin không vui về cuộc chạy đua của các Tiểu Ban trong Quốc Hội và những sự bàn cãi của Quốc Hội :
- " Chúng ta phải thấy trước là chúng ta đang chờ đợi môt cuộc bỏ phiếu chống"
Theo ông Tổng Trưởng Ngoại Giao thì các cuộc tranh luận ở Thượng Viện và Hạ Viện đều tập trung vào một bài toán hoàn toàn giả tạo (nguyên tác: tiếng Anh totally phoney). Ông Kissinger nầy biết cách động viên ông Martin của mình, khen ông Martin và xác nhận là ông nầy ở Sài Gòn hành sử tuyệt diệu như là một ông tướng ngoài mặt trận vậy. Và ông lợi dụng cơ hội nầy để hỏi ông Martin xem bằng cách nào ông có thể đưa về nước nhanh chóng con số 2000 công dân Hoa Kỳ?
Không biết có phải là hớ hênh hay vô ý khi cũng trong ngày 16 tháng 4 nầy, Tổng Thống Ford tuyên bố là ông ta đã cho lệnh di tản hết tất cả những người Mỹ nào " xét thấy không cần thiết" ? Do vậy ông Kissinger phải xin lỗi ngay sau đó với ông Martin :
- "Tôi biết là điều nầy đã làm cho công việc của ông càng thêm khó khăn hơn."
Đại sứ Martin buộc lòng phải chấp nhận ý kiến "chỉ di tản khi tình hình tương đối được ổn định và với sự hợp tác của QLVNCH". Theo một vài tờ trình mới nhất thì các sĩ quan Miền Nam Việt Nam cho biết là nếu người Mỹ bỏ họ để rút đi thì họ sẽ ngăn không cho phi cơ cất cánh. Họ cũng còn sẵn sàng bắn vào các phi cơ đó nữa.
Cũng trong ngày 16 tháng 4 nầy ông Martin đã cùng đô đốc Hugh Benton đặc phái viên của Tổng Tư Lệnh Vùng Thái bình Dương, nghiên cứu một kế hoạch di tản 200.000 người Việt Nam . Đô đốc đề nghị cho họ đi bằng ngả Vũng Tàu và từ đó họ sẽ được đưa về Thái Lan, Phi Luật Tân hay Tân gia Ba. Ông Martin vì hoài nghi nên đã trình bày những sự nghi ngờ của ông trong một công điện gởi thẳng cho tướng Brent Scowcroft ở Tòa Bạch Ốc. Theo hệ thống hành chánh, ông Martin phải trực thuộc ông Kissinger, nhưng ông cũng thích chứng tỏ cho mọi người đều biết ông là người đại diện cho Tổng Thống Hoa Kỳ . Ông Martin là sĩ quan tình báo trong thời Đệ Nhị Thế chiến, nên ông tự xem mình giỏi hơn bất cứ ông tướng hay Đô Đốc nào khác. Cũng còn giỏi hơn bất cứ ai khi đụng vào những bài toán di tản: vì ở Ba Lê, ông đã từng lập kế hoạch di tản người Mỹ nếu có xảy ra một cuộc tấn công của Liên Xô vào Tây Âu . Ông Martin đã từng đưa nhân viên của ông lên thủ đô Bruxelles của nước Bỉ, đi ngược chiều với dòng người tản cư xuống phía Nam .
Chắc ông Martin không bao giờ dự trù đưa người Mỹ của ông hay những người Việt Nam đi ngược ra Hà Nội . Nhưng theo ông thì kế hoạch của Đô đốc không đứng vững và quá tốn kém. Kế hoạch nầy cần phải trả tiền thuê 16 chiếc tàu với giá 250.000 mỹ kim một ngày
Điều bớt lo cho một số lớn cộng sự viên của ông Martin là ít ra ông cũng đã bắt đầu chú ý tới những bài toán về cuộc di tản.
Cuối cùng trong khi ông đổi ý về một cuộc rút đi với một sự chết lặng trong tâm hồn, thì ông lại nhận được một công điện của ông Kissinger ngày 17 tháng 4, một công điện quá bối rối, chỉ riêng một mình ông Martin mới được đọc mà thôi. Ông Kissinger đã thảo bức công điện nầy sau một buổi họp gồm toàn nhân viên cao cấp quan trọng thuộc các Bộ và cơ quan khác:
- "Ông phải biết là gần như không có một người nào hỗ trợ cho ý kiến phải di tản người Việt Nam, hoặc dùng quân lực Hoa Kỳ để bảo vệ cuộc di tản. Các quân nhân thuộc Bộ Quốc Phòng và ở Trung Ương Tình Báo, có cảm nghĩ chính là phải đi nhanh và ngay bây giờ (nguyên tác :to go out fast and now) "
Ông Kissinger đồng ý với ông Martin là phải tránh các phản ứng giây chuyền vì sự hoảng lọan, nhưng ông Tổng trưởng đòi hỏi là đến ngày 22 tháng 4 không được còn quá 2000 người Mỹ ở Việt Nam .
Sau khi đi một vòng ở ngoại quốc trở về, ông đại sứ lưu động Bùi Diễm xin gặp Tổng Thống Thiệu. Một đại tá đã trả lời:
- "Tổng Thống đang lo buồn vì tỉnh nhà của ông bị chiếm mất. Thủ tướng sẽ tiếp ông."
Ông Bùi Diễm không hề muốn gặp ông Thủ tướng lạ nầy, một người hơi nhu nhược về chánh trị . Ngoài ra ở Việt Nam chỉ có Tổng Thống mới là người quan trọng. Điện thoại ở nhà ông Bùi Diễm reo. Đích thân ông Thủ tướng Cẩn ở đầu giây:
- " Tổng Thống muốn là tôi phải tiếp ông."
Ông Bùi Diễm ngần ngừ. Ngay lúc đó thì tướng Đôn tới.. Ông Tổng Trưởng Quốc Phòng cố nhấn mạnh: Dù sao thì ông Cẩn cũng là Thủ Tướng. Ông Bùi Diễm hơi khó chịu.
- "Tôi không muốn mất thì giờ.
Ông Đôn ra về, xong trở lại và cuối cùng đưa Bùi Diễm đến nhà ông Cẩn. Ở đó họ lại gập đệ nhị Phó Thủ Tướng, ông Nguyễn văn Hảo. Nhận định một vòng về tin tức bi thảm. Hơn nữa những người nầy không ai có quyền quyết định.
Bùi Diễm nói;
- " Sự thật cho ta thấy là không còn gì để làm được nữa.
Cả Thủ tường và vị phó Thủ tướng đều bàng hoàng. Cả hai ông đều biết là ông Bùi Diễm biết rất rõ người Mỹ và bộ máy của thể chế ở Hoa Kỳ. Ông Đôn thì tỏ ra ít ngạc nhiên hơn. Ông Hảo nói lên ngay:
- "Như vậy là phải tổ chức phòng thủ ở Đồng bằng sông Cửu Long.!"
Ông Đôn trình bày các khó khăn trong vấn đề ông Hảo vừa nói: "Người Mỹ ở Sài Gòn sẽ nghĩ gì về việc đó ?"
Ông Bùi Diễm đi lại tòa đại sứ Hoa Kỳ . Hai ông Martin và Bùi Diễm đều biết giá trị của nhau, nhưng giờ nầy thì giữa hai người không có sự thành thật. Ông Martin nói ;
- " Ông sẽ đến gặp Tổng ThốngThiệu ? Ông sẽ nói với ông Thiệu tất cả sự thật ?
- Vâng, sự thật đó là đối với người Mỹ chiến tranh đã chấm dứt từ lâu rồi."
Ông Martin không bình luận gì về câu nói nầy. Ông tiếc gì một vài khuyến khích mơ hồ. đối với ông Bùi Diễm ? Ông không nói với ông Bùi Diễm rằng chính ông ta, đại sứ Hoa Kỳ, đại diện cho cá nhân Tổng Thống Hoa Kỳ, đang nghĩ tới sự ra đi của Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa ! Ông Martin sẵn sàng thổ lộ là một nhà ngoại giao thì phải biết đóng kịch.
Tin tức nghiêm trọng nhất trong ngày đã đến: Quân Khmer Đỏ đã kiểm soát Phnom Penh , cách Sài Gòn 190 cây số.
Tướng Minh Dương biết được tin nầy trong khi ông đang dùng bữa nhẹ với vài người bạn ở quán nhậu của tướng Mai hữu Xuân, gần một đồn điền cao su ở Thử Đức, không xa Sài Gòn bao nhiêu. Ông Minh không có gì tỏ ra ngạc nhiện hay lo âu. Một trong những người bạn của ông, ông Tôn thất Thiện buột miệng nói:
- " Bây giờ thì cộng sản sẽ dồn toàn lực đánh vào Sài Gòn ."
Ông Minh phản đối ngay:
- "Phải mất 6 tháng nữa họ mới tới Sài Gòn được Các anh không biết gì cả. Các anh không phải là quân nhân.
Theo ông Minh, cộng sản phải dừng quân lại thôi, ông nói với một giọng sành đời, vì họ không có đủ cán bộ cần thiết để kiểm soát và chỉ huy cả thành phố. Tướng Minh đang tìm sự hỗ trợ để cho hai đại sứ Pháp và Hoa Kỳ biết đúng lúc . Sự liên lạc với tòa đại sứ Mỹ được thực hiện qua tướng Charles Timmes, một tướng hồi hưu và đang phục vụ cho Trung Ương Tình Báo (CIA), và với tòa đại sứ Pháp thì qua ông Brochand. Ông đại sứ Mérillon có lệnh cho ông Brochand nối lại liên lạc với tướng Minh. Một cộng sự viên thân cận với tướng Minh là ông Vũ văn Mẫu muốn gởi 6 hay 7 sứ giả thuộc "lực lượng Hòa Giải " của ông đến vùng tạm chiếm của cộng sản . Ở đó các đại biểu nầy có thể tiếp xúc với người của CPCMLTMN,
Tướng Minh nhắc lại là cộng sản không có ý định tiến chiếm thủ đô, mà họ chỉ muốn cô lập Sài Gòn thôi. Nếu với một số đơn vị đầy đủ người ta giữ vòng đai Sài Gòn nhất là về hướng Đông đến Xuân Lộc, và nếu người ta đi tới chuyện thương thuyết nhanh chóng, thì người ta có thể tránh được việc thành lập một "Chánh Phủ Liên Hiệp không thể chấp nhận được " Phải đi đến một thỏa hiệp nào đó để giữ được một lãnh thổ nhỏ của Miền Nam Việt Nam .Sau đó mới xét tới một "Chánh Phủ Liên Hiệp" .
- Nhưng tại sao cộng sản lại chấp nhận dự án nầy ?
- Bởi vì họ không có đủ phương tiện để quản lý cả một Miền Nam Việt Nam " tướng Minh nhắc lại một lần nữa như vậy.
Các giới chức của CPCMLTMN ở Hà Nội tổ chức một chuyến viếng thăm Đà Nẵng mà họ cho là đã được họ "giải phóng" ngày 17 tháng 4. Họ mời ông Alexandre Casella, một tham vấn trong Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, cùng đi với phái đoàn các nhà báo ngoại quốc. Họ nói với ông nầy :
- " Ông có thể cùng đi vì ông cũng là một nhà báo. Ông không đi với tư cách là một đại diện của Cao Ủy Tỵ Nạn.
Phái đoàn gồm có các nhà báo của tờ Le Monde (Pháp), của thông tấn xã AFP, của tờ Pravda (Liên Xô), của thông tấn "Tân Trung Hoa", các toán truyền hình của Thụy Điển và Pháp. Chiếc Yak 40 chở phái đoàn đáp xuống phi trường lớn ở Đà Nẵng . Có một buổi tiếp tân có thức ăn ngay tại phi trường, nơi có treo một tấm hình lớn của Hồ chí Minh.
Thành phố có vẻ yên tĩnh. Có rất ít bộ đội Miền Bắc trên đường phố. Người của CPCMLTMN điều chỉnh sự lưu thông. Các hàng quán của người Tàu treo cờ của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, điều nầy gây thích thú cho người phóng viên của thông tấn xã "Tân Trung Hoa" một cách kỳ lạ. Đây là một cuộc thăm viếng có hướng dẫn.. Nói chung là tốt. Họ có đến viếng một nhà nuôi trẻ mồ côi do các dì phước đảm trách. Một bà nói:
-"Không thấy có chạm súng ở Đà Nẵng . Chúng tôi được bộ đội Bắc Việt giải phóng. Chúng tôi chỉ lo cho các em mồ côi thôi."
Lúc trở về Hà Nội, Ông Casella gởi về Liên Hiệp Quốc một bản phúc trình được ông Tổng Thơ Ký công khai hóa. Phúc trình nầy xác nhận là "tình hình thực phẩm hình như bình thường, dân chúng đã lần lượt trở về nhà, các khu cư dân nghèo được phát hiện trống vắng... Người ta cần một vài công tác cứu thương khẩn cấp nhưng chỉ trung hạn, dĩ nhiên nên có một sự giúp đỡ nào đó để cho dân chúng trở về làng mạc của họ ".
Báo chí Hà Nội tung tin : "Một công chức của Liên Hiệp Quốc đã đi đến Đà Nẵng . Tình hình đã trở nên bình thường."
Thật là một sự lật ngược lối nói quá trơ trẽn nhưng quá đẹp:
Đối với người dân Miền Bắc lúc bấy giờ là ông Casella đã đi đến Đà Nẵng trong cương vị đại diện cho Cao Ủy Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc !
Ông Casella không ghi nhận được một không khí thắng trận nào trong thủ đô Bắc Việt có liên quan đến những sự tiến triển về quân sự ở trong Miền Nam .
Trong ngày đầu của cuộc đi tham quan của ông Casella ở Đà Nẵng, ở một nơi nào đó thuộc vùng ngoại ô Sài Gòn, ông Frank Snepp gặp người nhân viên của mình đã gài vào bên trong, được coi là một người điệp viên giỏi của ông ta. Người nhân viên nầy khẳng định: Bắc Việt đã có quyết tâm phải tiến đến chiến thắng cuối cùng, không bao giờ có giải pháp ngoại giao - chánh trị nào hết.
Cả hai ông Martin và Polgar đều không chú ý tới tầm quan trọng của tờ trình nầy của Frank Snepp. Tờ trình nầy cuối cùng cũng đến được trên bàn giấy của ông Tổng Trưởng Ngoại Giao ở Hoa Thạnh Đốn trong lúc ông Kissinger đang bắt đầu làm áp lực Liên Xô trở lại. Đây là một chiến lược làm cho ông Martin vui thích. Ông đã gởi một công điện cho Kissinger :
- " Tôi thấy họ cần phải trả một giá nào đó cho sự hòa hoãn của chúng ta . Có thể nào chúng ta tìm cách nào đó để cho cả Liên Xô và Trung Quốc hiểu rằng điều rất có lợi cho họ trong mối quan hệ với chúng ta trong tương lai là phải mạnh mẽ can thiệp với Hà Nội để họ phải lui lại trước Sài Gòn và bắt đầu đi lại con đường thương thảo."
Ngày 18 tháng 4,
Vào lúc 12 giờ trưa ở Hoa Thạnh Đốn , ông Kissinger gặp đại sứ Liên Xô Anatol Dobrynine, người biết quá nhiều về Hoa Kỳ và quá quen thuộc với sân khấu chánh trị của Hoa Thạnh Đốn .Kissinger trao cho ông nầy một bức thơ của Tổng Thống Ford gởi cho ông Brejnev:
- " Sự lo âu chánh yếu của chúng tôi là vấn đề di tản người Mỹ và một số người Việt Nam quan trọng phải được tiến hành trong trật tự." Tổng Thống Hoa Kỳ muốn thấy cuộc "di tản nầy phải được kiểm soát", để tránh sự đối đầu giữa binh sĩ của Bắc Việt và bộ phận bảo vệ của Hoa Kỳ . Ông yêu cầu phải được trả lời nhanh chóng. Nếu Bắc Việt ngưng tiếng súng thì Hoa Kỳ sẽ ngưng viện trợ chiến cụ cho Sài Gòn và sẵn sàng tiếp tục lại các cuộc đàm phán chánh trị ".
Đối với ông Dobrynine, ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ nói rõ là quân Bắc Việt không được đụng tới phi trường Sài Gòn. Nếu không thì Hà Nội sẽ có nhiều hậu quả rất là tai hại. . Kissinger cho thấy là Hoa Thạnh Đốn giải quyết trực tiếp với Mạc tư Khoa , chớ không phải với Hà Nội và cũng không phải với Bắc Kinh . Tóm lại, ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ đe dọa ngay Hà Nội và ngầm đặt vấn đề hòa hoãn bằng cách chỉ nói thằng với Liên Xô . Âu cũng là một sự vận động cần thiết nhưng chẳng có kết quả gì, nếu không muốn nói là phù phiếm. Kinh nghiệm cho thấy là ông Kissinger vẫn biết là muốn bàn cãi với cộng sản ở Mạc tư Khoa hay Hà Nội cũng vậy, thì phải bắt đầu trong một tư thế mạnh. Hình như ông ta đặt giả thuyết hay giả bộ tin là ông Brejnev có thể ra lệnh cho các sư đoàn của Bắc Việt .
Ông không biết và ngay như ông Dobrynine cũng vậy, là trước đó 4 ngày, tức là vào ngày 14 tháng 4, từ Bộ Tư Lệnh Lộc Ninh, vị Tổng Tư Lệnh Bắc Việt đã chuẩn bị cho cuộc tấn kích cuối cùng vào Sài Gòn .
Ở chỗ nầy, các trung tâm chánh trị thường được tin tức không chính xác trên bình diện chánh trị , nên không loại bỏ ước tính thủ đô Sài Gòn sẽ phải bị bao vây và cô lập.
Đại sứ Pháp, ông Mérillon có chiến lược chánh trị của ông : phải làm áp lực cả tướng Minh và ông Martin.
Nhà ngoại giao Pháp gặp tướng Minh lần đầu tiên ngày 17 tháng 4, đã xin lỗi là đã không thể đến thăm ông trước đó được . Ông bảo đảm rằng Ông Minh sẽ được hậu thuẫn của nước Pháp. Ở Việt Nam nước Pháp có bổn phận, có quyền và có quyền lợi. Hơi liếng thoắng ông Mérillon phác thảo cuộc dàn dựng cho một cuộc hành quân lớn về chánh trị , mà tướng Minh là trung tâm điểm. Dĩ nhiên người ta cũng phải tránh cho Sài Gòn không bị đổ máu dưới làn lửa đạn. Nếu cộng sản chiếm được thủ đô thì điều chắc chắn là một lối sống nào đó sẽ biến mất. Hai người đều dùng tiếng Pháp để trò chuyện. Cả hai đều rất cảm động, nhất là tướng Minh, nắm chặt tay ông Mérillon và siết chặt một hồi lâu, hai mắt đẫm lệ:
- " Vâng, phải như vậy mới đúng. Ông thật là một người có lòng, thưa ông đại sứ. Tôi sẽ thử, tôi sẽ coi lại.."
Ông Mérillon thi hành đúng chị thị đã nhận .Ông đã nhận một công điện lạ lùng nếu không muốn nói là quá đáng từ Phủ Tổng Thống Pháp. Đại để :
- "Cho Tổng ThốngThiệu đi, đặt ông Minh vào Phủ Tổng Thống.'
Ông Mérillon nghĩ là có thể đạt được một sự "chuyển tiếp đứng đắng" . Không còn có một giải pháp nào khác hơn, ngoài sự thương lượng.
Chánh Phủ Miền Nam Việt Nam cho phổ biến trên cả các báo Việt ngữ và Anh ngữ một bản tin theo đó : "Đẩy lui được các cuộc tấn công qui mô của cộng sản Bắc Việt ở Xuân Lộc và Long An, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chứng minh được quyết tâm gìn giữ đất nước và khả năng của mình trong việc chiến thắng lực lượng xâm lăng cộng sản."
Tất nhiên không tin tưởng lắm vào "khả năng chiến thắng được quân thù" như đã loan tin, Chánh Phủ Miền Nam đang chuẩn bị gởi số vàng dự trữ dằn kho sang Hoa Kỳ . Nếu Quốc Hội Mỹ không bỏ phiếu thuận cho ngân khoản viện trợ bổ túc cho Việt Nam thì Tổng ThốngThiệu nói là sẽ dùng số vàng nầy để mua vũ khí và đạn dược.
Có quá nhiều tin đồn về hòa bình cũng như về chiến tranh như là :
- Bắc Việt sẽ không bao giờ tấn công vào Sài Gòn ,
- các đơn vị nhỏ Bắc Việt , những đặc công giả dạng thường dân đang xâm nhập thủ đô,
- có đảo chánh ở Sài Gòn
- có đảo chánh ở Hà Nội
........
Hầu hết những người Mỹ còn lại ở Việt Nam đều chống Cộng, nhưng người ta cũng thấy có vài người có thiện cảm với CPCMLTMN và cả Bắc Việt , đặc biệt trong những tổ chức nhân đạo hay cơ quan từ thiện công giáo, thường ngày tiếp xúc với những người nghèo khó và các nạn nhân chiến tranh. Đối với những người Mỹ đó, sự tiến quân của Bắc Việt không phải là một cuộc xăm lăng, cũng không phải là một sự chiếm đóng.. mà là một cuộc giải phóng, một sự bảo đảm là cuối cùng chiến trận sẽ chấm dứt. Đối với họ, hòa bình là một sự cần thiết.
Bà Claudia Krich là một thành viên của một tổ chức nhân đạo thuộc giáo phái " Quây Cơ" (Quaker). Bà tiêu xài không tiếc tiền cho dân chúng. Bà nói rành tiếng Việt Nam, và đã có làm việc trong một trung tâm chỉnh hình và giải phẫu ở Quảng Ngãi, nằm về phía Bắc của Sài Gòn . Ở đó người ta cung cấp chân tay giả, nạng gỗ, và xe lăn cho các người tàn tật. Nghĩ rằng Quảng Ngãi sẽ bị dội bom nên bà đã về Sài Gòn từ tháng 3.
Đây là nhật ký của Bà Claudia Krich:
Sài Gòn ngày thứ năm, 17 tháng 4 1975
"Lại có những tin đồn nữa: thứ bảy sẽ thấy được giải phóng, hay ít nhất cũng là một cuộc tấn công vào Sài Gòn. Các mẩu tin tức nhặt được ngày hôm qua: "mật mã bí mật" mà tòa đại sứ Hoa Kỳ xử dụng sẽ được phổ biến trên đài phát thanh khi nào Hoa Kỳ có quyết định di tản. Có người sẽ nói : "Nhiệt độ ở Sài Gòn là 105 độ và còn lên cao nữa." Sau đó là bản nhạc "Tôi mơ một ngày lễ Giáng Sinh trắng" (I'm dreaming of a white Christmas)
Tất cả những người Mỹ ở Sài Gòn đều biết mật mã nầy."
Bà Krich viết :
- "Mỗi ngày, chúng tôi nghe đài phát thanh để đếm xem bao nhiêu tỉnh đã lần lượt bi thất thủ. Quảng Ngãi đã được giải phóng ngày 24 tháng 3... Người ta chỉ bắn có mỗi một phát súng. Đà Nẵng đã được giải phóng ngày 29 tháng 3... Bây giờ thì còn rất ít lãnh thổ trong tay của Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Với Sài Gòn thì cũng tới thôi. Ngày hôm nay, một người bạn Mỹ đã ghi nhận được là Ngân Hàng của Hong Kong và Thượng Hải không còn nhận chi phiếu bằng Mỹ kim nữa.."
Thủy Quân Lục Chiến và lực lượng Hải Quân của Đô Đốc Cang và các đơn vị Địa Phương Quân đã chận đứng được sư đoàn 5 và sư đoàn 7 Bắc Việt ở Bến Lức, trên sông Sài Gòn . Tổn thất của Bắc Việt rất nặng, lực lượng Hải Quân của Miền Nam đã tác xạ bằng đại bác 20, 40 và 105 ly . Tuy nhiên tinh thần của Bộ Tham Mưu Miền Nam Việt Nam càng ngày càng xuống thấp. Trong một bức thư gởi cho Đại sứ của mình, tướng Homer Smith thấy là ngay cả tướng Tham mưu trưởng Cao văn Viên cũng không nghiêng về việc Tổng ThốngThiệu phải ra đi - một điều đã được xác nhận qua cảm tưởng của ông Wolfgang Lehmann -
Tinh thần của ông Thiệu xuống quá thấp. Trước hết là ông rút vào tư phòng của ông, sau đó vào hầm trú ẩn bằng bê tông ở tầng dưới cùng của Dinh Độc Lập. Ông đã được biết là Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân trước khi rút lui đã san bằng mồ mả của tổ tiên ông ở một làng nằm ở gần bờ biển Phan Rang. Tinh thần nặng triễu vì điềm báo trước thật là kinh khủng ... ông Thiệu từ khước cả những cú điện thoại của tòa đại sứ Hoa Kỳ.
Ý thức được nỗi lo âu của người dân Sài Gòn , ông Martin ra lệnh cho thuộc cấp là phải trấn an dân chúng. Ông chỉ thỉ cho Alan Carter, chủ nhiệm sở thông tin phải đến nói chuyện ở đài truyền hình. Phải khó khăn lắm ông Martin mới giải quyết được việc nầy; ông không mấy thích cái anh chàng râu xồm nầy, một người không cùng quan điểm thông tin với ông đại sứ của mình. Cũng có thể ông Martin cảm thấy có một thích thú nào đó khi ông giao cho Carter nhiệm vụ khó khăn nầy. Ông Carter cảm thấy không được thoải mái lắm trước ống kính truyền hình, khi được một người Việt Nam phỏng vấn ông ta :
Hỏi : "Có một tin đồn nói rằng nếu ngân khoản viện trợ bổ túc không được chấp thuận thì người Mỹ sẽ được di tản hết từ ngày 19 tháng 4 ?
Đáp : " Tin đồn nầy không có gì làm nền tảng. Nếu ông đến thăm biệt thự của vợ chồng ông đại sứ Martin, ông có thể nhận xét là không có món gì đã được di tản, Nhà tôi cũng vậy.
Hỏi : "Cũng theo một tin đồn khác, thì Lãnh sự của Hoa Kỳ cấp phát giấy phép di tản cho một số người Việt Nam .Người ta đang sấp hàng dài trước cơ quan dịch vụ của tòa Lãnh Sự....
Ông Carter phản đối :
- " Lại một tin đồn nữa ! Tòa Lãnh sự chỉ giải quyết công việc bình thường mà thôi. Người ta điền vào hồ sơ cưới xin, làm khai sanh, và phát chiếu khán.."
Nghe ông Carter nói, người ta có thể tin rằng tỷ suất sanh sản trong cộng đồng người Mỹ ở Việt Nam đang tăng mạnh .
Ông Carter biết rõ là có nhiều khán thính giả đã thấy người ta xếp hàng chờ đợi ở tòa lãnh sự. Ông nói tiếp :
- " Sự thật là có vài người Mỹ đã ra đi. Trong hoàn cảnh nầy, họ có đi sớm hơn dự tính thì cũng là chuyện bình thường thôi. Tóm lại những người Mỹ đó chỉ có về sớm hơn trước ngày dự trù trong dịp nghỉ hè của họ mà thôi."
Lối giải thích của người trưởng cơ quan thông tin nầy không thuyết phục được ai hết. Ngay như khán thính giả ở các tỉnh cũng cảm thấy hình như một cuộc di tản đang bắt đầu. Ông Carter đã làm hết sức mình. Để cho thấy là ông Đại sứ của ông ta đã hết lòng trong công tác phản tuyên truyền.. Ông Martin gởi về cho ông Kissinger bản văn cuộc phỏng vấn truyền hình nầy và còn nhấn mạnh thêm:
"Nếu Quốc Hội có bỏ phiếu chống viện trợ, tôi ước mong rằng ông và Tổng Thống sẽ công bố hết sức bình tĩnh rằng các ông đã làm hết sức mình để đạt được thắng lợi cho ngân sách năm 1976 "
Ông Martin nghĩ rằng ông đã đi hơi xa:
- "Ông có thể cho rằng chuyện đó không thực tế lắm, nhưng ở đây chuyện đó lại có nhiều kết quả. Người ta sẽ nói với chính phủ ở Sài Gòn là năm 1975 thì không có một mỹ kim nào, nhưng các ông sẽ thấy vào năm 1976, nó sẽ có trở lại!
Ông Martin sợ sẽ có những phản ứng không tốt từ phía dân chúng và binh sĩ ở Miền Nam :
- " Hoa Thạnh Đốn không nên hoảng hốt. Một cái lệnh di tản bất thần và táo bạo có thể gây ra (ở đây) nhiều sự loạn động."
Theo ông Martin thì quân lực VNCH có thể ngăn chận sức tiến quân của Bắc Việt đến Sài Gòn trong một thời gian nào đó. Ông không tin là Hà Nội "muốn tấn công trực diện vào Sài Gòn" Đại sứ lo ngại về những suy luận mà người ta có thể tung ra trên thế giới về những quyết định của Hoa Thạnh Đốn . Danh từ "phản bội" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong búc công điện nầy.
- " Không thể để cho người ta tưởng rằng Hoa Kỳ đã phản bội lại người Việt Nam ."
Nhất là ông muốn thuyết phục ông Kissinger đừng gởi Thủy Quân Lục Chiến đến Việt Nam trước khi ông đích thân yêu cầu trong cương vị của một Đại Sứ.
- "Tô sẽ không ngần ngại yêu cầu ngay, nếu trật tự công cộng bị suy sụp."
Sau đó, lần đầu tiên, ông Martin viết trong công điện :
- "Tôi nghĩ rằng giải pháp thương thuyết không thể bắt đầu được nếu ông Thiệu vẫn còn ở chánh quyền. Trừ phi người ta ấn định cho ông những chỉ thị khác, nếu không thì ông Martin sẽ đến bàn cãi với ông Thiệu. Ông Martin không muốn có môt cuộc độc thoại lúc đối diện với Tổng Thống Thiệu: ông sẽ nói với ông ta như một người bạn. Vị trí của ông Thiệu trong lịch sử sẽ được bảo đảm. Nếu ông không tự ý từ nhiệm thì các tướng lãnh của ông sẽ cưỡng bức ông vào con đường đó. Về mặt pháp lý thì phải giữ cho đúng theo Hiến Pháp của Việt Nam Cộng Hòa. Phải có can đảm để thực hiện việc nầy. Ông Thiệu sẽ đặt quyền lợi của đất nước lên trên hết. Ông Martin sẽ khuyên ông Thiệu với tư cách cá nhân, không theo một chỉ thị nào của Tổng Thống Ford hay của ông Tổng Trưởng của mình.
Đây là một hành động ngoại giao khéo léo và ngoạn mục được mô tả trong đoạn 9 của bức điện tín mà ông Martin gởi cho Tổng Trưởng Ngoại Giao của mình, với yêu cầu "nếu không có lịnh nào khác" thì xin cho phép ông thúc đẩy Tổng Thống Thiệu sớm ra đi, nhưng phần trách nhiệm không hề dính đến ông Kissinger hay Tổng Thống Ford.
Không biết đây là đạo đức giả hay là một sự hy sinh ?
Bức điện tín số 710 nầy được ông Martin thảo ra trong một trạng thái căng thẳng thật ra không phải viết ra như một bài nghị luận. Ông trở lại vấn đề di tản người Mỹ:
- "Nếu quân lực Hoa Kỳ đến đây ồ ạt trong hoàn cảnh hiện tại, thì khi rút đi không chừng họ phải chiến đấu với lực lượng quân sự của Miền Nam Việt Nam ." Ngược lại, nếu Hoa Thạnh Đốn cứ giữ sự bình tĩnh, thì Martin tôi có thể cho di tản người của mình "một cách không gây thêm một lỗi lầm nào, tôi xin nhắc lại một cách không gây thêm một lỗi lầm nào tai hại khác trong số hàng ngàn lỗi lầm mà người Mỹ đã vấp phải ở Việt Nam . Thân kính. "
Bức điện tín nầy vẫn giữ độ "Mật- Kín" . Tại Sài Gòn thì chỉ có thơ ký và nhân viên mật mã của ông Martin đọc được mà thôi. Ông Kissinger trả lời như sau :
- "Tôi đã có bàn thảo với Tổng Thống Ford về bức điện tín số 710 của ông. Không có gì phản đối về những gì ông đã tiến hành như ông đã cho biết trong đoạn 9. "
Thật đúng là một bài kinh cầu nguyện ngắn gọn và kín đáo cho ông Thiệu !
Trong một bức điện tín được phổ biến rộng rãi từ Hoa Thạnh Đốn được gởi cho Honolulu và Sài Gòn, ông Kissinger nói :
- "Hôm nay chúng tôi có một buổi họp rất là giản dị với các thành viên thuộc nhiều cơ quan khác để xem xét chương trình và kế hoạch của chúng ta trong vấn đề di tản người Mỹ và người Việt Nam . Dư luận chung và của Quốc Hội đều muốn chúng ta phải đặt ưu tiên cao cho vấn đề an toàn của người Mỹ. .. "Tin rằng có thể xử dụng Vũng Tàu cho một cuộc di tản qui mô" có thực tế hay không ? Các ông có tin tưởng là chúng ta có thể tin dùng một vài đơn vị của Miền Nam Việt Nam để giữ an ninh cho những vùng di tản hay không ?"
Ngày 18 tháng 4, ông Kissinger lại cho một số chỉ thị khác:
- "Mặc dầu có những sự toan tính của các ông và cả năng khiếu của riêng tôi, theo lối nhận định của Hoa Thạnh Đốn về tình hình quân sự chung quanh Sài Gòn và những ý định của Hà Nội , tôi buộc lòng phải đòi hỏi các ông giảm thiểu sự hiện diện của người Mỹ đến con số 1.100 người, tính đến chiều ngày thứ năm 24 tháng 4. Đó là con số nhân viên mà theo chúng tôi có thể được di tản trong một cuộc hành quân trực thăng vận"
Ông Kissinger sợ người ta cáo giác cả ông ta và ông Martin là đã "dậm chân tại chỗ"
Quốc Hội suýt cho lệnh di tản ngay tức khắc tất cả những người Mỹ ở Sài Gòn :
- "Tôi biết là quyết định đó sẽ làm ông bực mình, cả với tôi cũng vậy.Tôi bảo đảm với ông rằng... tôi không đòi hỏi ông phải giảm con số người đó xuống nữa cho đến một ngày nào đó mà ông nhận được lệnh đóng cửa tòa đại sứ. Xin Chúa gìn giữ chúng ta ! Thân mến"
Với ít nhiều sự đồng ý của ông Martin, ít thì đúng hơn, các quân nhân đã xem xét cấu trúc của sân bay Tân sơn Nhứt . Vấn đề được đặt ra là sẽ có một lực lượng an ninh khoản 350 người được gởi tới để bảo vệ các cơ quan thuộc Phòng Tùy Viên Quân sự Hoa Kỳ . Một toán tiền sát đã gởi một công điện cho vị Tổng Tư Lệnh ở Honolulu và cho Tư lệnh lực lượng xe lội nước của Hải Quân ở Okinawa . Bức công điện nói rõ là "phải cần có ít nhất 1 tiểu đoàn bộ binh cho nhiệm vụ được dự trù."
Ông Martin đã có một phản ứng mỉa mai đối với bức điện tín sau cùng của ông Kissinger mà nguyên văn như sau :
- "Chúng tôi sung sướng mà nhận thấy là buổi họp rất giản dị. Tối thiểu cũng phải như vậy. Cần phải tránh chiều hướng giả dụ cho trrường hợp "xấu nhất" sẽ xảy ra . Chúng ta cũng thấy nó sẽ xảy ra, nhưng chúng ta phải sẵn sàng có kế hoạch đối phó."
Tinh thần bi quan và lo sợ của nhóm hành chánh ở Hoa Thạnh Đốn đã làm cho ông Martin cáu lên.
Ngày 18 tháng 4
Ở Hà Nội, Thủ tướng Phạm văn Đồng tiếp một nhân vật người Pháp, ông bác sĩ Roussel. Ông nầy sẽ trình bày cho tòa đại sứ Pháp ở Hà Nội những lời tuyên bố của Phạm văn Đồng.
Ông Thủ tướng Bắc Việt đã tuyên bố :
- "Có rất ít cơ may để có được một lối thoát chánh trị .
Có nhiều mâu thuẫn khắp nơi với người Mỹ. Không thấy có một người nào nghiêm chỉnh nói là phải di tản một triệu người Việt Nam . Ông Kissinger chỉ ước tính chung quanh con số hai trăm ngàn. Một tổ chức được thành lập ở Hoa Thạnh Đốn với thành phần là đại diện của các cơ quan trong Chánh Phủ, và mọi phối hợp hoạt động đều do một đại sứ hồi hưu, ông Bill Brown, một người bạn thân của ông Martin .
Người ta phải dự trù di tản 50 ngàn người tị nạn Việt Nam trong vòng 80 ngày sắp tới. Để tiếp đón họ, vị chỉ huy trưởng căn cứ Pendleton ở tiểu bang California phải sẵn sàng cho điều hành từ ngày 29 tháng 4. Mọi sự chuẩn bị phải được tiến hành với sự phối hợp của tất cả các tổ chức từ thiện và các cơ quan của Chánh Phủ . Ông Martin nói ngay là ông ta không thể cho từng ấy người ra đi từ Sài Gòn được . Ông nghĩ tới con số 200 ngàn mà Tổng Thống Ford đã đưa ra. Đối với nhân viên làm việc cho các các cơ quan Hoa Kỳ, ông sẽ chỉ định thật sự cho họ vài điểm bốc dọc theo bờ biển: " nhiều người có thể sẽ không đến đó được "
Đơn thỉnh nguyện từ các công ty xí nghiệp tràn ngập Bộ Ngoại Giao và một số Bộ khác trong Chánh Phủ Hoa Kỳ để yêu cầu di tản các nhân viên người Việt của họ. Các đơn nầy lại được chuyển ngược lại Sài Gòn làm cho ông Martin bực tức. Theo ông, nếu đà nầy cứ tiếp tục thì nó sẽ gây "hỗn loạn". Ông Martin yêu cầu Kissinger nên dùng uy tín của mình đối với các bạn đồng nghiệp ở các Bộ khác để cho những chuyện nầy êm đi, hay ít ra cũng không làm quá ồn ào "trong vòng 10 ngày sắp tới, thời gian mà sự bình tĩnh hoàn toàn phải là điều chính yếu."
Ông Martin muốn kiểm soát chặt chẽ sân khấu chánh trị của Sài Gòn .Người ta lại nói đến tướng Kỳ và sự tiếp xúc không ngừng của ông ta với các tướng lãnh khác như tướng Tư Lệnh Không quân Trần văn Minh, tướng Lê quang Lưỡng, Tư lệnh sư đoàn Dù, Đô đốc Bùi thế Lân của Hải Quân, và những sĩ quan khác như chỉ huy trưởng các đơn vị thiết giáp của Biệt Khu Thủ Đô và Vùng 3 Chiến Thuật. Người ta cũng biết rõ họ đã bàn bạc với nhau về vấn đề gì : "Tổng ThốngThiệu phải ra đi."
Tướng Kỳ đã có kế hoạch: Chỉ cần chiếm được Dinh Độc Lập, nha bưu điện, Bộ Tổng Tham Mưu, đài phát thanh và Truyền hình. Tất cả các tướng lãnh đều đồng ý rằng nếu không làm gì hết thì Miền Nam sẽ thua. Nhưng mọi người đều thối thoát:
- "Tôi hả, tôi không làm gì được hết
- Ông có thể làm được đó, ông Kỳ
Tướng Viên Tổntg Tham Mưu trưởng nói với tướng Kỳ:
- Hãy làm đi. Cho tôi biết ngày giờ, tôi sẽ cho mở cửa Bộ Tổng Tham Mưu.
Tướng Tư Lệnh Không quân cũng tâm sự :
- Hãy làm đi, nếu ông muốn giữ tôi như một tù binh, tôi sẽ không có một chút phản kháng nào. Ông biết không , Tổng Thống Thiệu đã biết hết rồi. Sau khi chúng ta gặp nhau lần chót, người Mỹ đã gởi đến tôi một sứ giả. Họ nói với tôi là đừng có nhúc nhích. Họ đã bảo đảm với tôi là nếu có xảy ra chuyện gì, họ sẽ cho đưa tôi sang Hoa Kỳ và sẽ lo lắng hết cho tôi.
Ngồi kế bên tướng Kỳ, vị Tư Lệnh Hải Quân nói với ông :
- "Tôi thì không có lính, nhưng nếu ông hành sự thì người của tôi không chống trả đâu."
Tướng Kỳ bực lắm. Ngay những người thân cận với ông, những tướng lãnh người Bắc, họ cũng nghe theo luận điệu của người Mỹ. Không biết họ muốn gì đây ? Chắc họ muốn tướng Kỳ nầy phải đơn thân độc mã đi vào Dinh Độc Lập với một nhúm nhỏ binh sĩ rồi bắt Tổng ThốngThiêu chỉ với khẩu súng lục cầm tay sao ? Tướng Kỳ nầy làm sao làm công việc của một tiểu đoàn cho được ?
Ngày 18 tháng 4, ông Charles Timmes điện thoại cho tướng Kỳ tại tư dinh của ông ở Tân sơn Nhứt. Ông xin một cái hẹn để cùng với một nhân vật rất quan trọng của tòa đại sứ đến gặp tướng Kỳ. Ông Timmes đến đúng hẹn vào buổi trưa nay, trên một chiếc xe Volkswagen cũ kỹ, và người cùng đến với ông lại chính là ông đại sứ Martin.
Ông Martin đã tỏ ra lo lắng vì những hoạt động lăng xăng chung quanh tướng Kỳ. Người ta trình với ông là nếu người Mỹ rút đi, thì các phi công Việt Nam sẽ thật sự sẵn sàng bắn vào các phi cơ di tản. Ông ta phải đi thăm dò tướng Kỳ và nếu cần sẽ làm cho ông bình tĩnh lại.
Người Việt Nam dù là ở Miền Nam hay Miền Bắc, khi bắt đầu trò chuyện, ít khi người ta đi thẳng vào đề tài. Phài có một vài câu trao đổi xã giao....Là một người lịch lãm, ông Martin hỏi thăm về bà Mai, một cựu tiếp viên hàng không, người vợ rất đẹp của tướng Kỳ.
Sau đó hai Mỹ và một Việt cùng nhau lượng định về tình hình quân sự trên bản đồ.. Cho tới giờ nầy cả 3 người đều đồng ý nội dung của cuộc gặp gỡ nầy. Nhưng sau đó họ lại đánh trống lảng. Ông Timmes có mang theo một máy thu âm, nhưng máy hư không chạy. Tướng Kỳ và ông Martin trao đổi với nhau bằng tiếng Anh, do đó có thể có hiểu lầm vì ngôn ngữ. Tướng Timmes dường như thấy rằng ông Martin không nói rõ ràng cho lắm những gì ông cần phải nói với tướng Kỳ trong buổi gặp gỡ nầy. Ông Martin xác nhận là buổi viếng thăm không có nghi thức nầy của ông chỉ nhằm vào một việc: cho tướng Kỳ hiểu rõ rằng ông ta không nên phiêu lưu với một cuộc đảo chánh. Theo ông Kỳ thì ông Martin có hỏi ông :
- " Nếu ông lập Chánh Phủ thì ông sẽ làm gì ông Thiệu ?
Trả lời :
- " Chúng tôi không thanh toán ông Thiệu đâu. Dân chúng Việt Nam sẽ có quyết định của họ.
Chỉ cùng một việc mà mỗi người hiểu một cách.
Sau đó cả 3 người trở lại những vấn đề quân sự . Cúi xuống bản đồ, ông Kỳ vẽ một vòng đai phòng thủ mà các đơn vị của Miền Nam được gom lại để có thể giữ được thủ đô, dựa vào Châu thổ sông Cửu Long. Khả năng khác :Cố gắng giữ vững mặt trận từ Tây Ninh sát biên giới Cam Bốt cho đến bờ biển nếu có thể, dựa vào Phan Thiết.
Ông Martin có vẻ mệt mỏi. Còn ông Kỳ thì cảm thấy những lời nói của mình quá mơ hồ và vô nghĩa. Ông đại sứ sẽ xem mình làm được gì, ông cần có thời gian, tình hình có vẻ cực kỳ rối rắm ....
Khi hai người chia tay nhau, ông Martin có cảm tưởng là ông Kỳ sẽ không có hành động nào. Còn ông Kỳ thì có cảm nghĩ rằng người ta chỉ muốn ông gác qua một bên dự tính nắm lấy chánh quyền của mình. Ông Martin dĩ nhiên không thể nói cho ông Kỳ biết là Hoa Kỳ đang có ý định khuyên ông Thiệu từ nhiệm. Và do vậy mà mọi người có thể tự hạn chế mình trong mưu đồ đảo chánh.
Để làm nản lòng những người có mưu đồ phiêu lưu nầy, cũng trong ngày hôm nay, ông Tổng trưởng Quốc Phòng đã cho lệnh phạt giam hoặc bắt giữ trên một chục tướng lãnh và tỉnh trưởng.
Nhật ký của bà Claude Krich.
Ngày 18 tháng 4 , 1975 (thứ sáu)
"Tôi tìm cách xin 2 đứa con nuôi, hai đứa bạn trẻ Văn và Tư. Một đứa 4 tuổi và một đứa 6 tuổi. Mẹ của hai cháu nầy là chị Yến là một người giúp việc cho tôi. Chị xin tôi mang giùm 2 đứa trẻ qua Lào để từ đó chúng có thể được gởi về Hà Nội cho ông bà của chúng để chúng có thể đi học. Đã hai tuần rồi, tôi có nói với một viên chức ở tòa đại sứ là tôi muốn xin 2 đứa trẻ nầy làm con nuôi, nhưng người ta nói là đã quá muộn rồi.
Hôm nay tôi trở lại tòa đại sứ, và lần nầy tôi quyết định sẽ nói hết sự thật. "Tôi không muốn đem hai đứa trẻ nầy về Hoa Kỳ , tôi chỉ muốn cho chúng nó về với ông bà chúng nó ở ngoài Bắc." Viên chức tòa đại sứ trả lời cho tôi là : "Nói như vậy còn nghe được đó, Tôi rất chán ngấy về cái chuyện "xuất cảng bọn con nít " nầy lắm rồi đến độ tôi phải hét lên đó !"
Thông báo trên tờ Saigon Post ngày 18 tháng 4:
" Nũ sinh trung học trẻ khá đẹp, 18 tuổi, có bằng tú tài đôi, biết chơi đàn dương cầm, con nhà đàng hoàng, muốn tìm một ông chồng người ngoại quốc, quốc tịch Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Đức hay nước nào khác cũng được. Để đưa tôi đi ra ngoại quốc một cách hợp pháp, để tôi có thể tiếp tục con đường học vấn, bậc đại học, ở ngoài nước Việt Nam với học phí hoàn toàn của mình.
Xin điện thoại cho tôi ở số : 45 470 "
Tất cả mọi người không ai có thể hình dung được đời sống của mình ở ngoại quốc bằng chính phương tiện của mình.
Cùng ngày 18 tháng 4 , cùng trên một tờ báo :
" Tìm việc làm : đầu bếp chính người Việt Nam , chuyên môn các món ăn Mỹ và làm bánh. Tình nguyện đi ở đâu cũng được, miễn là ra khỏi nơi đây"
Chánh quyền Hoa Kỳ tiếp tục cho di tản trẻ con. Có nhiều đứa là trẻ mồ côi, nhưng có những đứa khác thuộc gia đình công chức Việt Nam muốn tìm nơi lánh nạn. Ngày 18 tháng 4 nầy ở Genève có 121 quốc gia đang bàn cãi về phương tiện cải tiến các công ước của Hồng Thập Tự. Có hai nước Việt Nam đang chạm trán nhau, Hà Nội thì tố cáo cầu không vận đang bốc những trẻ con ra khỏi đất nước của chúng, cái mà họ gọi là " một sự nhân đạo hoàn toàn giả tạo", còn đại diện của Sài Gòn đả kích lại, dựa vào những cuộc "hành quyết bằng võ khí thô sơ" và những cuộc "tàn sát tập thể" ở các khu do CPLTCHMN tạm kiểm soát.
Bộ máy Lập Pháp của Hoa Kỳ đang chạy. ông Henry Kissinger trình diện ở phòng số 2172 của tòa nhà Quốc Hội , trước 34 thành viên của Tiểu Ban Quốc Tế Vụ thuộc Hạ Viện Hoa Kỳ . Không có lời tuyên bố mở đầu. Tổng Trưởng Ngoại Giao ước tính là các thành viên đáng kính trong Tiểu Ban dĩ nhiên thích đặt câu hỏi cho ông ta hơn.
Ông Chủ tịch Tiểu Ban mở đầu :
- " .... Liệu chúng ta có thể rút tỉa được gì từ những bài học ở Cam Bốt để áp dụng cho sự tiến chiếm Miền Nam Việt Nam hay không ?
Kissinger :
- "Trước hết, giờ nầy chúng tôi không muốn lợi dụng sự kiện cộng sản Bắc Việt tiến chiếm Miền Nam Việt Nam . Nhưng tất cả mọi bài học đều chứng tỏ rằng không có gì thay thế được một sự quân bình về quân sự .Không có nó thì không thể nào có những sự thương thảo hữu hiệu được.... Trong một số tình huống nào đó, có thể cộng sản đặt nặng quyền lợi hơn là thương thuyết.
Ông Kissinger không muốn đặt Cam Bốt ngang hàng với Việt Nam . Ở Việt Nam có nhiều vũ khí hơn. Một vị dân biểu tán dương Chánh Phủ về cách thức di tản ở Phnom Penh. Ông ta ước mong rằng nếu cần thiết thì cuộc hành quân di tản ra khỏi Sài Gòn cũng được thành công như vậy. Ông Kissinger lợi dụng cơ hội nầy ca một bài "đoàn kết" để hàn gắn Hành Pháp với Lập Pháp. Ông Tổng Trưởng Ngoại Giao dùng lại một trong những danh từ được ông Martin ưa dùng :"hoảng loạn" mà ai ai cũng muốn tránh nó với bất cứ giá nào.. Trong thủ đô Hoa Kỳ, có nhiều người đề nghị là hãy nên di tản chậm rãi từ từ, Chánh Phủ muốn để lại vài người Mỹ làm con tin cho cộng sản Bắc Việt. Những mẩu chuyện nầy không xứng đáng để đem ra bàn cãi.
Người ta bước qua chuyện của ông Tổng Thống của Miền Nam Việt Nam
Câu hỏi :
- "... Thưa ông Tổng Trưởng, có nhiều thành viên trong Quốc Hội - trong đó phải nói là không có tôi - ngả về ý muốn ông Thiệu nên từ chức... Ông nghĩ thế nào về việc nầy ?
Ông Kissinger muốn rằng người ta nên dành những vấn đề nầy cho một phiên họp kín. Tuy nhiên ông cũng nói :
- "... Hoa Kỳ ủng hộ Chánh Phủ ở Miền Nam Việt Nam nhưng không ủng hộ cá nhân nào.
Tuy vậy đã quá rõ ràng là ông Kissinger buông ông Thiệu trong khi ông bênh vực Chánh Phủ Miền Nam Việt Nam :
- "Tại Sài Gòn bây giờ, người ta sẵn sàng thương thuyết với một sự linh động đáng kể.
Ông Kissinger không dưa ra một bằng chứng nào về vấn đề ông vừa nói. Ở Sài Gòn thực ra có nhiều người mong cho có được một sự thương thảo, nhưng chắc chắn không phải là ông Thiệu.
Tất cả những biên bản của các phiên họp của mọi Tiểu Ban đều một lần nữa theo đường dây chạy thẳng ra cho báo chí, và như thế đã nhanh chóng đến Hà Nội và từ đó chạy thẳng đến Tổng hành dinh của chiến dịch Tổng Tấn Công ở Miền Nam ngay.
Úc Châu là quốc gia đã công nhận Sihanouk và Khmer Đỏ. Các nước khác cũng sắp làm như vậy. Về phía Hoa Kỳ thì sao ? Ông Kissinger không thấy có một lý do nào để mà phải hấp tấp. Việc công nhận về mặt ngoại giao sẽ còn là quá sớm. Liệu ông Sihanouk có phải là Thủ Tướng của cái Chánh Phủ mới nầy hay không ?
Kissinger :
- "Tôi chắc chắn là chính ông ta cũng muốn biết việc nầy .
- Theo một số báo chí, thì Khmer Đỏ đã được dân chúng hoan nghênh khi họ vào thủ đô Phnom Penh. Người ta có chờ đón như vậy không ?
Ông Kissinger:
"Đối diện với một quân đội chiến thắng, phản ứng của dân chúng gần như có một thái độ nào đó giống nhau...
- Cái gọi là CPLTCHMN có được Chánh Phủ Bắc Việt công nhận là một Chánh Phủ chánh thức của Miền Nam Việt Nam hay không ?
- Ông Kissinger:
- "Không ... Thật là một điều lý thú để chờ xem những mối liên hệ đó sẽ tiến triển tới đâu.
Ông dân biểu Donald Fraser, người vừa mới là thành viên của phái đoàn Quốc Hội Hoa Kỳ đến Việt Nam cách đây vài tuần lễ:
- " Cảm tưởng chung... là Việt Nam Cộng Hòa coi như đã mất rồi...
Kissinger:
- ".. Giữa một chiến thắng quân sự với một sự sụp đổ hoàn toàn, vẫn có nhiều giai đoạn trung gian... Đối với những giai đoạn trung gian đó, muốn có được một kết cuộc có kiểm soát, thì một cuộc bỏ phiếu dành cho một viện trợ quân sự nào đó sẽ là điều rất cần thiết."
Ông Fraser rất đồng ý, nhưng ông không nhận thấy được một sự linh động nào ở Sài Gòn cả. Ngay như ông Valéry Giscard d'Estaing, Tổng Thống của nước Pháp, ông cũng đòi hỏi một vị lãnh đạo khác cho Sài Gòn .
Người ta nói đến nhiệm vụ của ông Martin. Ông Kissinger nhận xét là một ông đại sứ không thể công khai chỉ trích Chánh Phủ mà ông ta được ủy nhiệm đến.
Ông Fraser đặt thẳng vấn đề :
- " Có nhiều người trong chúng ta đã không tín nhiệm ông đại sứ của mình. Điều nầy là vì chúng ta đã có kinh nghiệm với ông ta
Ông Kissinger bênh vực ông Martin ngay:
- " Dĩ nhiên, đây không phải là một ý kiến mà chúng ta chia xẻ, nếu không thì ông ta đâu còn là đại sứ của chúng ta nữa ... Trong những điều kiện hiện tại, rõ ràng là nếu Hoa Kỳ thay đổi đại sứ ngay trong lúc nầy, và cùng lúc với sự thay đổi lãnh đạo ở Miền Nam Việt Nam ... thì thật tình không phải là một phương cách tốt để kiểm soát được tình hình.... Ông đại sứ Martin là một nhà ngoại giao có kỷ luật, đang thi hành hết sức hoàn hảo những chỉ thị mà ông ta đã nhận được .
Ông Fraser là người đã được gặp một đại diện của CPLTMNVN ở Genève:
- "Tôi có cảm tưởng là phía họ có một sự leo thang trong những sự đòi hỏi. Người ta nói với tôi rằng quan trọng nhất là phải làm sao cho ông Thiệu ra đi. Người ta cũng có nói với tôi về sự chấm dứt hết mọi viện trợ quân sự ."
Ông Kissinger:
- " Và trước đó rất lâu, Bắc Việt họ đã nói nhiều về vấn đề chấm dứt mọi viện trợ.....
Trong một phiên họp kín, ông Kissinger cho biết về sự vận động của Tổng Thống Ford với ông Brejnev (Liên Xô)
Ông Kissinger, quá cô đơn, có cảm nghĩ rằng phải đối đầu với cả một nước đang bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa cấp tiến và hòa bình của ông Mc Govern. Tổng Thống lại không phải do dân bầu lên. Ông Kissinger nghĩ rằng tại Quốc Hội, những người bảo thủ cũng như ôn hòa "đang ôm ấp một lý thuyết theo đó sự hòa hoãn là một ân huệ lớn của người Mỹ dành cho Liên Xô, và vì thế chúng ta có thể đòi hỏi họ phải trả lại cho chúng ta một cái giá nào đó.Tại sao chúng ta không bắt họ phải cho khoảng một trăm ngàn người Do thái được phép rời khỏi Liên Xô ? Tại sao họ không làm thế nầy, tại sao họ không chịu làm như thế kia ... ? Thật là một phép lạ khi người Liên Xô không lợi dụng được sự sụp đổ của ông Nixon để theo đuổi một đường lối chánh trị gây hấn hơn ?... Chúng ta không thể nhận được gì hơn khi chúng ta đe dọa họ. "
Người ta đã tập trung cả một đại hạm đội ngoài khơi Cam Bốt. Chúng ta sẽ phải làm như vậy dọc theo bờ biển Việt Nam . Tuy nhiên ông Kissinger biết là ông không thể xử dụng hạm đội đó trong mục đích quân sự được . Liên Xô họ cũng hiểu rõ như vậy. Khi ông Kissinger gọi ông Dubrynine (đại sứ Liên xô) đến Bộ Ngoại Giao, thì ông đã bịp trước một viên chức ngoại giao loại nhà nghề đáng gờm nầy. Chung quanh Tổng Thống Ford, là những người như Rumsfield và Nessen đã có sẵn một lý thuyết "điên rồ" loại "quẫn trí" như ông Kissinger đã nói : người ta sẽ gán cho ông Ford một sự hãnh diện là đã "rút" được người Mỹ ra khỏi Việt Nam".
Ngủ Giác Đài muốn có một bản đánh giá nhanh chóng, còn ông Martin thì lại muốn có một cuộc di tản thật chậm rãi. Ông Kissinger thì khẳng định rằng cách tốt nhất để di tản người Việt Nam ra khỏi Việt Nam là phải giữ người Mỹ lại tại chỗ trong một thời gian nào đó. Nếu di tản hết người Mỹ, như những người ở Bộ Quốc Phòng và Bộ Ngoại Giao đang mong muốn, thì chẳng những người ta sẽ không cứu được bao nhiêu người Việt Nam, mà còn có nguy cơ là binh sĩ Việt Nam sẽ bắn lại người Mỹ nữa. Và do vậy mà người ta sẽ không có thể di tản được người Mỹ nữa. Đây là một vấn đề nói không cùng.
Để làm cho tình hình trở nên rắc rối thêm, có hai nghị sĩ loại nặng ký, ông Jacob Javits và Redmund Muskie, trong hai buổi phát hình rất được dân chúng đón nghe là "chương trình đối diên với đất nước " và "Gặp gỡ báo chí" (Face the Nation, và Meet the Press) đã tuyên bố rằng: "nếu cần thì Tổng Thống có quyền xử dụng một số nhỏ Thủy Quân Lục Chiến để di tản người Mỹ, nhưng Tổng Thống Ford phải được Quốc Hội cho phép trước khi di tản hai trăm ngàn người Việt Nam ".
Từ Sài Gòn ông đại sứ Martin phản đối :
- "Như vậy thì không phải là một chuyện dễ dàng cho những người Mỹ đang còn ở Sài Gòn "
Ngày 18 tháng 4, đài phát thanh Hoa Kỳ đã thông báo trước cả đài truyền hình Mỹ rằng:
- "Tiểu Ban Quân Lực Thượng Viện Hoa Kỳ đã bác bỏ đơn xin viện trợ quân sự bổ túc cho Việt Nam Cộng Hòa. Tiểu Ban Quốc Tế Vụ của Hạ Viện Hoa Kỳ đã chấp thuận cho Tổng Thống Ford xử dụng quân lực Hoa Kỳ một cách hạn chế và dè dặt trong việc di tản người Mỹ.
Như thế là mọi trò chơi đã được an bài.
Ông Henry Kissinger đã rút tỉa được kết luận từ những quyết định của Lập Pháp :
- Cuộc tranh luận về Việt Nam đã chấm dứt.... Chánh Phủ sẽ phải chấp nhận một bản án của Lập Pháp mà không có tinh thần hồi tố và trả đũa lại.
Sau nầy, tại trường Đại Học Tulane, Tổng Thống Ford nâng lên thêm :
" Bây giờ thì chúng ta có thể tìm thấy lại được sự hãnh diện mà Hoa Kỳ đã có từ trước sự kiện Việt Nam một sự hãnh diện mà Hoa Kỳ sẽ không bao giờ tìm lại được, nếu còn tham gia vào một cuộc chiến coi như đã hoàn toàn chấm dứt đối với chúng ta." !
*
* *
Tại trại Davis (Tân sơn Nhứt), đại tá Võ đông Giang, trưởng phái đoàn MTGPMN, trong một buổi họp báo thường lệ vào mỗi sáng thứ bảy, lần đầu tiên đã nói thẳng về đại sứ Hoa Kỳ là ông Martin. Ông ta nói :
- "Ông đại sứ Hoa Kỳ "Là một nhà ngoại giao Mỹ" nhưng "điều khiển các cuộc hành quân quân sự , chánh trị và kinh tế . Ông ta là người phải chịu trách nhiệm về tất cả mọi hành vi tội ác của ông Thiệu"
Chi bộ đặc trách về cuộc tấn công chánh trị ở Hà Nội làm việc quá đắc lực . Đại tá Giang chấp nhận sự có mặt của hàng ngàn người "Mỹ dân sự", nhưng theo ông ta thì chỉ một người cố vấn quân sự Mỹ cũng thể hiện một sự vi phạm trắng trợn Hiệp Định Ba Lẻ !
Cách trại Davis chừng vài trăm thước, trong những dãy nhà thuộc Tùy Viên Quân sự Hoa Kỳ , một phòng chiếu bóng được chỉnh trang lại thành một trung tâm thanh lọc người tỵ nạn Việt Nam và vì thế người ta đã hủy bỏ hẳn buổi chiếu bóng cuối cùng trong ngày. Chương trình quảng cáo cuốn phim dự trù "Giai Đoạn 4" cho thấy một con nhện đang bò trên một bàn tay đầy máu đỏ, " ngày mà trái đất sẽ biến thành nghĩa trang".
Các viên chức Hoa Kỳ đang xem xét chứng từ của những di dân sắp lên đường đi tỵ nạn. Để hợp thức hóa tình trạng của vài trăm người Việt Nam, người ta không tiến hành các lễ cưới cấp thời , người ta thực hiện và đóng dấu các "giấy hứa hôn". Những vị hôn phu tương lai người Mỹ phải ký vào lời khai "có ý định cưới vợ". Trong những hàng dài đang đứng chờ đợi, người ta nói chuyện hay đọc báo.
Thông báo trên tờ Sai Gon Post:
" Các bạn Mỹ thân mến,
Các bạn là những người Mỹ bình thường, không có việc gì làm trong hiện tại. Nếu bạn nào muốn có một nghề đúng sở thích, xin hãy đến gặp chúng tôi ngay, chúng tôi sẵn sàng giúp các bạn tiền bạc, nếu cần. Lương bổng hậu.
Xin làm ơn liên lạc với Cô Lan. điện thoại số 96 052."
Ngoài thủ đô, giá của một người chồng hay vị hôn phu người Mỹ, người Pháp hay Đức.. đang lên cao. Người ta nói rằng gia đình của một số thiếu nữ trẻ, bằng lòng chịu trả hằng trăm ngàn mỹ kim tiền mặt.
Ông đại sứ Mỹ không biết chính xác hiện có bao nhiêu công dân Hoa Kỳ đang ở Việt Nam . Ông ta muốn tất cả những người nầy phải đi hết, và đúng lúc. Các nhà kinh doanh, các kỹ sư, các nhà thầu ... đều phải tuân theo lệnh. Nhưng các người ờ ngoài lề, kể cả những người đào ngũ không liên lạc được với tòa lãnh sự Hoa Kỳ , và tất cả những người mà ông Martin gọi là "những người ăn bông sen"...Theo ông Martin, có quá nhiều người Mỹ dân sự đã coi thường vấn đề , tưởng rằng đây chỉ là một cuộc tấn công như mọi cuộc tấn công bình thường khác. Ông Martin sẽ vừa chiều họ và vừa đe dọa họ, những người ăn bông sen nầy. Ông ta làm việc, vừa gởi điện về cho ông Kissinger, vừa nghĩ là ông Tổng Trưởng "mong muốn tòa đại sứ còn mở cửa dài dài cho tới khi nào ông ta có được một sự dàn xếp về thương lượng".
Ông Martin sẽ di tản khoảng 750 công dân Hoa Kỳ trong vòng 3 tuần lễ. Dĩ nhiên ông sẽ giữ lại các phi công thuộc Hàng Không Hoa Kỳ. Ông ta sẽ đóng cửa tòa Lãnh sự ở Biên Hòa ở cách Sài Gòn 25 cây số ngàn. Nhất là, người ta làm ơn đừng nói gì hết ở Hoa Thạnh Đốn .
- "Tôi muốn tránh những rủi ro như đã xảy ra ở Đà Nẵng "
Theo ông Martin thì ở đây chưa có gì gọi là nguy hiểm cho người Mỹ. Người ta còn "một tháng hay ít nhất 6 tuần lễ nữa". Phải chờ khi nào ông ta gặp được ông Thiệu đã, trước khi có một quyết định quan trọng. Nếu ông Martin thấy ông Thiệu vẫn còn "cứng đầu và trong một tinh thần tử thủ", thì ông đại sứ mới tăng tốc độ cho cuộc di tản. Ông Martin biết là quân Bắc Việt có thể sẽ pháo kích vào Tân sơn Nhứt với pháo binh nặng, hoặc xử dụng hỏa tiễn SAM 7 chung quanh phi trường. Họ không phải chọn lựa gì hết để thực hiện chuyện nầy. Tính ảo thuật của nhà ngoại giao vốn đang ngủ say trong người ông Martin chợt bừng tỉnh dậy. Ông giải thích cho ông Kissinger là ông sắp đi gặp đại sứ Ba Lan ở Ủy Hội Quốc Tế.
- "Nếu có hỏa tiễn được pháo vào vùng phụ cận Sài Gòn thì chắc chắn là Bắc Việt muốn bảo vệ Tổng hành dinh của họ mà thôi ", ông Martin nói với ông Kissinger như vậy. Ông ta cũng nói luôn với ông Kissinger rằng chính ông ta, đại sứ Martin, hy vọng quân cộng sản Bắc Việt sẽ thử bắn hạ một phi cơ Mỹ "bởi vì không có gì cung cấp được một lời xin lỗi tốt nhất để Không Lực Hoa Kỳ trả đũa xuống Hà Nội" ....
nhật ký của bà Claudia Krich:
Ngày 19 tháng 4, 1975 (thứ bảy)
CPLTCHMN mong muốn có được một dàn xếp nào đó để thương thuyết. Điều nầy bao hàm là ông Thiệu phải từ chức. Ông Thiệu hình như không có ý định đó. Như vậy , người ta tiên đoán là sẽ có một cuộc tấn công vào Sài Gòn .... Keith (một nhân viên Quaker khác) đã cho tôi biết là có rất nhiều binh sĩ trong Sài Gòn chưa từng có đánh trận bao giờ. Họ đã trả tiền để được trốn ở nhà. Với một ít may mắn nào đó.... họ sẽ đầu hàng mà không cần chiến đấu.".
Ông Martin họp Bộ Tham mưu của ông lại để có được một nhận định tình hình mới nhất. Hà Nội sẽ cố gắng chiếm Sài Gòn để kỷ niệm sinh nhật Hồ chí Minh ngày 19 tháng 5. Nhưng có thể để loại trừ Thiệu, Hà Nội sẽ cố gắng đặt ở Sài Gòn một Chánh Phủ trung lập không mạnh lắm để dễ loại bỏ sau đó. Ông đại sứ đã gặp lại ông Bùi Diễm, người vừa mới dự một buổi họp của các tướng lãnh ở nhà của tướng Kỳ. Người ta đã khóc với nhau nhiều khi họ nghĩ tới tương lai. Ông Martin có đòi hỏi ông Bùi Diễm phải thắng các ông bạn quân nhân của ông ta lại. Và nhất là không nên có bất cứ một cuộc đảo chánh nào. Ông Martin tự hỏi về những lời tuyên bố của đại tá Võ đông Giang. Người đại diện của CPLTCHMN có nói rõ về con số cả ngàn người Mỹ sẽ có thể còn ở lại tại chỗ. Như vậy là có thể có thương thuyết . Chuyện nầy ông Tổng Truởng Quốc Phòng Trần văn Đôn cũng có nói. Như vậy là mình phải tận dụng các lá bài nầy.
Cũng như ông Martin, mặc dầu có những lời cảnh cáo của thuộc viên phân tích gia Frank Snepp, ông Polgar cũng nghĩ rằng lần lần thấy có nhiều khả năng có được những cuộc thương thuyết. Người chù nhiệm sở Trung Ương Tình Báo CIA có nhận được một cú điện thoại từ đại tá Toth của Hung gia Lợi để họ gặp nhau.
Họ dùng cơm ở nhà ông Polgar. Ông Toth hỏi :
- " Anh có chấp nhận ý kiến là Miền Nam Việt Nam đã thua rồi không ? và không thể tránh khỏi việc nầy sẽ kéo theo nhiều hậu quả chánh trị ?
- Vâng . Ông Polgar nhường lời.
- Nếu anh chấp nhận, thì chúng ta có thể có được một sự dàn xếp để có thể tránh được các cuộc chạm súng trên đường phố trong thủ đô Sài Gòn .
- Anh có nhân danh những người bạn của anh ở "phía bên kia" để nói điều nầy ? ông Polgar hỏi lại.
- Không , nhưng sau nhiều lần nói chuyện với họ, tôi có cảm tưởng là họ không mong muốn làm nhục Hoa Kỳ .
Đại tá Toth muốn đánh tiếng là những tin tức của ông ta đến từ Hà Nội chớ không phải chỉ từ CPLTCHMN đâu. Ông ta cũng thừa biết là đối với ông Polgar CPLTCHMN chỉ là một "hư cấu" mà thôi.. Đại tá Toth muốn chuyển những điều kiện tiên quyết cho một cuộc thương lượng. Danh từ "tiên quyết" nầy được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Ông Polgar không tin lắm. vì ông biết có thể đây là chuyện phản tin tức. Nhưng trên bình diện quân sự thì coi như đã hoàn toàn hỏng hết rồi. Phải tìm một đường lối chánh trị thôi. Những nhà quan sát như ông Malcolm Browne, phóng viên của tờ Nữu ỏc Thời Báo mà ông Polgar thường gặp, cũng xác nhận là CPLTCHMN muốn thương lượng. Một cuộc hợp ca phấn khởi ! Ông Polgar nói:
- "OK, Đi từ chỗ đó, bây giờ chúng ta phải làm gì đây ? Ai làm cái gì và làm cho ai ?"
Đại tá Toth kể ra các điều kiện tiên quyết .
- Ông Thiệu phải từ chức, không điều kiện. Phải lập một Chánh Phủ gồm những nhân vật mới được Bắc Việt chấp thuận. Hoa Kỳ sẽ ngừng cung cấp mọi viện trợ quân sự cho Chánh Phủ mới nầy. Ông đại sứ Hoa Kỳ phải giới hạn những hoạt động của ông lại. "
Tất cả đều không có gì mới mẻ hết, nếu có (nếu Toth thật sự nhân danh họ) thì địch quân chỉ cho phép ông đại sứ Mỹ còn ở lại Sài Gòn mà thôi.. Liệu Đại tá Toth có thể hỏi những người phía bên kia danh sách những nhân vật Miền Nam Việt Nam nào mà họ chấp nhận được ?
Đại tá Hung gia Lợi sẽ thử hỏi, nhưng ông ta nhấn mạnh là "thời gian đã cấp bách lắm rồi. Đây là một vấn đề của từng ngày chớ không phải từng tuần nữa ".
Ông Polgar, quá bị kích động đã phúc trình ngay cho ông Martin, và ông đại sứ đã điện về cho ông Kissinger cùng ngày 19 tháng 4 lúc 18 giờ 10. Tất cả mọi việc hình như rất là thú vị. Có thể nào ông Kissinger được soi sáng thêm khi ông ta gởi ngay một "công điện cho Lê đức Thọ" ? Bất chấp những lý do thật hay giả của đại tá Toth, đại sứ Martin cũng thấy như vừa cắn phải miếng mồi ngon, qua ý kiến cho tòa đại sứ của ông được duy trì ở Sài Gòn.
Trong công điện của ông, đại sứ Martin than phiền hết người nầy đến người khác. Các sĩ quan có trách nhiệm soạn thảo kế hoạch di tản thì vừa đòi hỏi nhu cầu phải có đến 800 Thủy Quân Lục Chiến .Ông Martin thì không muốn quá 300 . Ông bị chế độ hành chánh ở Hoa Thạnh Đốn ám ảnh. Mọi người ai cũng chạy theo một định hướng "hồn ai nấy giữ" (nguyên tác của tác giả : CYA: "Cover Your Arse") tức là hãy thu xếp thế nào để khỏi bị trách nhiệm và không bị khiển trách). Theo ông Martin thì các trung tâm tình báo "chỉ ước tính chuyện xấu nhất. Thật là không thực tế, nhưng chuyện đó sẽ che chở cho họ". Các quân nhân thuộc Bộ Quốc Phòng lúc nào cũng nói là họ đã sẵn sàng với phi cơ của họ. "Như vậy, nếu có chuyện không hay xảy ra thì người ta sẽ nói là Bộ Quốc Phòng đã làm tất cả những gì mà họ có thể làm được, và nếu có chuyện gì xảy đến cho những người Mỹ thì đó không phải là lỗi ở họ.... Người duy nhất có cái đầu không được ai che chở là tôi (đại sứ Martin). Bất cứ có xảy ra điều gì, thì tôi cũng sẽ lãnh đủ : không chạy khỏi bị chỉ trích."
Hơn nữa, nghệ thuật thảo công điện ngoại giao đòi hỏi phải có tính bi kịch vừa có tính khôi hài trong đó nữa. Nên ông Martin gởi về một tin tức mà ông vừa thu lượm được qua kiểm thính được từ các đơn vị Bắc Việt:
" 80 % bộ đội thuộc đại đội 6 đang bị nhậm mắt. Tất cả tiểu đoàn có thể bị lây hết không chừng. Hảy gởi y tá đến để săn sóc tức thời. "
Ông Martin cho lệnh ông Polgar giữ liên lạc chặt chẽ với viên đại tá Hung gia Lợi. Mặc kệ ý kiến của thuộc cấp như Snepp.
Ông Kissinger không quan tâm lắm về chuyện gặp gỡ bí mật của viên trưởng cơ quan tình báo CIA với một ông đại tá Hung gia Lợi. Người cộng sản không có thói quen tiến hành những chuyện thương thảo nghiêm trang qua những nhân vật hàng thứ yếu như vậy.
Chiến cuộc ở Xuân Lộc cuối cùng đã không được tốt lắm cho quân Miền Nam và tình hình quân sự hình như đã trở nên thảm hại trở lại.
Sáng chúa nhật 20 tháng 4:
Ông Kissinger trả lời: "Cái đầu của tôi cũng không được ai che chở ! Cuối cùng rồi những chỉ trích sẽ rơi vào tôi hơn là vào ông, ông Kissinger yêu cầu ông Martin hãy thăm dò thử xem ông Thiệu có định từ nhiệm hay không ? Thời điểm chọn lựa cho việc nầy rất là quan trọng. Ông Kissinger có liên lạc với phía Liên Xô. Ông khuyên ông Martin không nên nói gì với ông Thiệu hết: "người ta có thể dùng ông Thiệu trong vấn đề mặc cả."
Những người có trách nhiệm ở Ngũ Giác Đài đang lo âu về chiến cụ và đạn dược của VNCH có nguy cơ bị rơi vào tay của Bắc Việt .
Ở Hoa Thạnh Đốn, trong những buổi họp có đủ mặt đại diện các ngành, ông Kissinger buông ra một câu :
- "Tôi biết rằng nếu người Mỹ bị chết, thì đó là lỗi ở tôi. Tôi biết rằng, nếu chỉ còn một người Mỹ nào đó còn sót lại ở Việt Nam , thì đó cũng là lỗi ở tôi. Thưa các ông, bây giờ quý vị ai cũng đã tự lo đề phòng cho mình cả rồi. Chúng ta hãy bắt đầu làm lại đi "
Tại Bộ Ngoại Giao ở Mạc tư Khoa, người ta tiếp rất nhiều nhà ngoại giao ngoại quốc, nhất là từ Đông Phương. Dựa trên những sự trao đổi với các đại diện Bắc Việt và của CPLTCHMN, các viên chức ngoại giao cao cấp Liên Xô nhắc đi nhắc lại rất ngọt ngào rằng "cộng sản Việt Nam không có ý định chiếm Sài Gòn hay đi tới chiến thắng quân sự với cuộc tổng tấn công hiện tại." Họ nói rằng Bắc Việt nhìn nhận rằng họ cũng có nhiều bài toán về tiếp vận, cùng có nhiều khó khăn về tiếp tế lương thực. Bằng chứng là khẩu phần trong vùng Hà Nội đã bị giảm thiểu...
Đây là luận cứ mới nhất của Liên Xô : Quá bất ngờ vì các đơn vị tiến quá nhanh, Bộ Tư Lệnh Bắc Việt đã gặp khó khăn trong việc đối phó với các sư đoàn cuối cùng được trang bị quá đầy đủ của Sài Gòn. Cuối cùng CPLTCHMN không muốn tiếp thu một thủ đô Sài Gòn bị tàn phá.
Cũng vẫn những tin tức tương tự được tung ra từ Ba Lê (Pháp). Tại đây phái đoàn VNCH đòi hỏi Bắc Việt và CPLTCHMN phải trở lại bàn Hội Nghị "mà không có điều kiện tiên quyết". Đại diện CPLTCHMN trả lời rằng: "Bao lâu mà ông Nguyễn văn Thiệu còn ở chánh quyền thì chừng đó không bao giờ có tiến triển về chánh trị được ".
Trước đây vài tháng theo đề nghị của đại sứ Martin, Tổng ThốngThiệu đã cử tướng Nguyễn văn Toàn - một người to con, một người lính thật giỏi nhưng hư hỏng - đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Vùng 3 Chiến Thuật , bao gồm Sài Gòn và Xuân Lộc .
Tướng Toàn trình cho Tổng Thống là Xuân Lộc chắc sẽ bị thất thủ. Quân Bắc Việt có thể tràn ngập các đơn vị phòng thủ cuối cùng ở đây và sẽ đánh bọc hậu vào thành phố. Ở phía Bắc Sài Gòn, Bắc Việt không phải tập trung các sư đoàn mà là tập trung các quân đoàn của họ. Lần lần họ sẽ có mặt ở vùng Đồng Bằng. Đứng trước tướng Viên Tổng Tham Mưu Trưởng, tướng Toàn , người được Tổng ThốngThiệu tin cậy, đã có nhận định:
- " Chúng ta không còn lực lượng trừ bị. Chúng ta không có thể tiếp tục chiến đấu được nữa. Trên phương diện quân sự , coi như chiến tranh đã chấm dứt. Phải thương thảo với cộng sản mà thôi.
Trong một vài trung tâm chánh trị tại Sài Gòn, những nơi mà ai cũng biết khá rõ về lịch sử nước Pháp, thì người ta giải thích là phải có một cuộc chuyển giao quyền hành hợp pháp giống như tướng De Gaulle đã nhận lấy chánh quyền hồi tháng 5 năm 1958 vậy mới được . Một vài người như ông Bùi Diễm ước tính rằng tất cả những cuộc vận động của những người nầy hay người khác đều vô ích thôi. Ông Martin có điện thoại cho ông Bùi Diễm. Ông Martin hỏi :
- " Ông có gặp được Tổng ThốngThiệu chưa ?
- "Chưa, khó mà vô được lắm .
Ông Thiệu tự cô lập mình trong tư phòng, tinh thần bị đè nặng.
- " Có lẽ bắt buộc tôi phải đích thân đến đó mới được, ông Martin vừa nói vừa thở dài.
Ngày 20 tháng 4, vào buổi sáng, Ông Martin và người tùy viên là ông Brunson Mc Kinley. đến dinh Độc Lập. Trước đó ông đã đọc qua các bản phúc trình sau cùng của các cơ quan tình báo.
Đại sứ Hoa Kỳ giải thích cho Tổng ThốngThiệu biết là "phân tích bản trận liệt và so sánh tương quan lực lượng hiện hữu đã dẫn đến một kết luận hết sức bi quan, nếu không muốn nói là thảm não .. Nếu Hà Nội muốn tiêu diệt QLVNCH thì Sài Gòn không thể cầm cự quá một tháng, hay có thể là không quá 3 tuần lễ, ngay như có được một sự phòng ngự vững chắc. Hà Nội mong muốn chiếm được Sài Gòn còn nguyên vẹn. Nếu những cuộc thương thảo không tiến hành được , người ta cũng không thể loại ra ngoài ý muốn của Bắc Việt là họ vẫn muốn chiếm một thủ đô Sài Gòn bị tàn phá hay không cũng vậy.
- "Vậy thì triển vọng viện trợ như thế nào ? Ông Thiệu lên tiếng hỏi
- "Mù mờ lắm" ông Martin trả lời.
Xem chừng như ông Thiệu rất bình tĩnh, đáng kính nể lắm trong khi ông Martin mô tả những nét chánh của một thất bại ê chề. Ông nói với ông Thiệu là tất cả những người nào ở vào vị thế so với vị thế của ông ta ở tại Sài Gòn nầy, ở Thủ tướng Phủ bên Anh, ở Tổng Thống Phủ bên Pháp, ở điện Kremlin ở Liên Xô hay ở ngay Nhà Trắng bên Mỹ, đều có một bài toán chung giống nhau: họ không bao giờ biết được là người ta có nói hết sự thực cho mình hay không ? Người ta có thể nói dối với họ, trang điểm các phúc trình để được lợi ích cho cá nhân hay cho phòng sở của mình, để mà không làm phương hại đến người nắm giữ quyền hành tối thượng. Hay là vì người ta sợ và không muốn đưa tin quá xấu đến cho người đó.
Ông Thiệu ngồi nghe một cách kiên nhẫn.
Ông Martin tuyên bố là ông nói với tư cách cá nhân, không phải trong tư thế của một đại sứ Hoa Kỳ, với tư cách của một người từ lâu đã có quan sát được những biến cố ở Đông Nam Á Châu, của một người trong hai năm dài vừa qua đã làm việc cật lực để tìm hiểu sự phức tạp của những bài toán Việt Nam ..... ông cứ tiếp tục nói...:
Càng về già, ông càng thấy mình không sao biết hết được .Người ta có thể nghi ngờ. Lúc nào cũng vậy. Đó là điều rất là có lý. Nhưng trong những thời điểm đau khổ nầy, những sự quan sát của ông có giá trị như của bất cứ người Đông Phương nào. Tình hình quân sự xấu kinh khủng, và người dân Việt Nam cho đó là trách nhiệm của Tổng Thống Thiệu. Trong giới chánh trị, về phía bạn cũng như về phía quân thù, không có một ai dám tin rằng ông Thiệu có thể đưa đất nước của ông ra khỏi cuộc khủng khoảng nầy được. Các tướng lãnh của ông có thể tiếp tục chiến đấu, nhưng cũng phải đạt tới một sự ngơi nghỉ qua miếng mồi thương thuyết. Ông Martin ước tính rằng nếu ông Thiệu không sớm có hành động thì các tướng lãnh của ông sẽ đòi hỏi ông phải ra đi.
Thật là một cảnh lạ lùng, ngoài sự yên lặng của hai người đang đối thoại. Ông Thiệu đặt nhiều câu hỏi chứng tỏ rằng ít nhất tới một điểm nào đó ông mất hẳn sự tiếp xúc với thực tế, cũng giống như đại sứ Martin đôi khi vậy . Ông hỏi:
- "Đơn từ chức của tôi có ảnh hưởng gì đến Quốc Hội Hoa Kỳ và sự bỏ phiếu của họ hay không ?
- " Vài tháng trước thì có thể có" ông Martin trả lời.
Còn bây giiờ thì ông tỏ ra nghi ngờ. Điều quan trọng là sự ra đi của ông Thiệu sẽ có ảnh hưởng đến "phía bên kia" hay không ?. Ông Martin không biết..... Ông đại sứ tưởng rằng Hà Nội sẽ chống đối bất cứ người nào có nghị lực. Tất cả những người của ông Thiệu, tất cả Chánh Phủ của ông đều có cảm nghĩ rằng sự ra đi của ông sẽ giúp mua được thời gian. Ông Martin ước tính rằng hy vọng đó rất là thấp nhưng người ta có thể căn cứ vào sự sống còn của một nước Việt Nam độc lập.
Ông Thiệu trả lời là ông sẽ có một quyết định tốt, đúng theo quyền lợi của đất nước ông. Ông Martin thấy không còn chờ đợi gì hơn nữa được ở Tổng ThốngThiệu. Ông Thiệu sẽ phải suy tính lại.
Cuộc đối thoại kéo dài một tiếng rưỡi đồng hồ
Khi trở về tòa đại sứ, ông Martin phúc trình ngay với ông Kissinger :
- "Ông Thiệu có thể sẽ còn thử có một hành động nào đó để giúp ông ta qua mặt được kẻ thù của ông. Chắc không còn bao nhiêu thời gian nữa đâu. Xét kỹ lại thì tôi nghĩ rằng ông ta sẽ ra đi gần đây thôi.... Nếu các tướng lãnh của ông cho ông được vài ngày nữa thì có thể ông ta sẽ dàn dựng một màn từ nhiệm cảm động lắm. Tôi sẽ về nhà để đọc qua những phúc trình từ Hoa Thạnh Đốn ... rồi mới đi tắm gội được . Tôi nhức đầu lắm rồi đây. Kính, Martin"
Vào buổi trưa cùng ngày 20 tháng 4 nầy, ông đại sứ Pháp đi một mình tới dinh Độc Lập. Được ông Thiệu tiếp ông cũng một mình. ông Mérillon cảm thấy sự vận động của ông có vẻ kỳ quặc nhưng thân mật.
- "Thưa Tổng Thống , tôi đến tìm ông vì tình hình đã hết sức nghiêm trọng rồi. Không còn một lối thoát nào bằng hành động quân sự hết.
Ông Thiệu không trả lời, ông Mérillon lại tiếp :
- " Tôi chỉ thấy được có một con đường chánh trị .... Phải để cho một tiến trình chánh trị nó phát triển.
Vốn ít nói, ông Thiệu vẫn lặng thinh. Nên cuộc nói chuyện trở thành một cuộc độc thoại dài của đại sứ Pháp. Ông điểm qua những sự kiện mà ông Thiệu mới bắt đầu biết. Ba phần tư đất nước coi như đã mất rồi. Có được bao nhiêu thành phố còn được ở trong tay của Chánh Phủ?- Sài Gòn, Cần Thơ. Nếu tình thế không nghiêm trọng thì không bao giờ Mérillon nầy dám tự cho phép mình... Căn cứ theo những gì Tổng Thống đang nắm được, điều rất rõ là.....
Đại sứ Pháp nhắc lại những quan hệ cá nhân giữa 2 người , nhắc lại lịch sử, danh dự, những mối liên lạc giữa bà Thiệu và bà Mérillon. Tổng Thống có thể giúp cứu vãn được dân tộc của mình . Xuyên qua một cuộc thương thảo không thể tránh né được, người ta có thể hy vọng sẽ cứu vãn một số đặc thù nào đó của Miền Nam Việt Nam được .
Tổng ThốngThiệu nói về những sự tập trung quân lực cần thiết, nói về sự phản bội của đồng minh Hoa Kỳ, về sự chủ bại của một vài tướng lãnh. Ông tỏ ra rất bình tĩnh nhưng ông Mérillon khi điện về Tổng Thống Phủ bên Pháp đã có nhận xét là :" thỉnh thoảng cái nhìn của ông Thiệu có vẻ ngơ ngác".
Đại sứ Pháp thấy mình cần phải nêu lên những hành động chống Pháp trong những ngày gần đây ở Sài Gòn . Ông thấy cần phải lên án thái độ rất có lễ độ được dùng để làm rõ nét những sự vận động của người Pháp là "can dự vào những công việc nội bộ". Và cuối cùng là Hiệp Định Ba Lê đã được long trọng bảo đảm ngay tại thủ đô nước Pháp.
Ông Thiệu lắng nghe mà không phản đối.
Cuộc nói chuyện kết thúc bằng một nhận xét rất là vô vị của Tổng ThốngThiệu:
- " Rồi sẽ ra sao thì ra !
Cũng giống như ông Martin, ông Mérillon từ giã Tổng ThốngThiệu, in trí rằng ông nầy rồi cũng phải ra đi.. May phước là ông Thiệu không có hỏi xem nước Pháp có chấp nhận cho ông ta tỵ nạn chánh trị ở Pháp hay không ?
Ông Mérillon trở về tòa đại sứ của mình một cách bình thản. Ở Thủ tướng Phủ Pháp, có một số người sợ rằng ông Thiệu sẽ trục xuất đại sứ Pháp, hay hơn thế nữa sẽ cho người ám sát ông nầy.
Ngay buổi chiều hôm đó, ông Thiệu trích đọc những bức thư của ông Nixon cho các thành viên của Chánh Phủ và một số Nghị sĩ, Dân biểu Quốc Hội nghe. Trong các tiệm ăn, các quán nhậu ở Chợ Lớn, người ta đánh cá sự ra đi của Tổng ThốngThiệu, một ăn ba, rồi một ăn mười. Nội trong tuần nầy hay trong mười ngày tới thôi.
Ngày 21 tháng 4,
Lúc 8 giờ 20, ông Polgar lại đi gặp đại tá Toth. Viên chức Mỹ nầy nói với viên chức Hung gia Lợi là người ta đã lắng nghe những nhận định của ông ta. Trước khi phê phán nội dung đó, người Mỹ muốn được nghe rõ ràng hơn về vị trí của "phía bên kia". Nhất là cộng sản sẽ muốn nghe Hoa Kỳ tuyên bố những gì ?
Hai người Mỹ và Hung gia Lợi điểm qua tình hình quân sự trong 48 giờ sau cùng. Những chuyện đổ máu thêm thấy không có ý nghĩa gì hết. Đứng về quyền lợi chung của tất cả mà nói thì cần phải tránh sự hỗn độn. Ông Polgar thắc mắc là những cuộc thương thảo chừng nào mới sẽ bắt đầu và sẽ diễn ra ở đâu ?
Trong khi hai ông Polgar và Toth đang xây dựng lại nước Việt Nam , thì đại tá Võ văn Cầm thuộc võ phòng của ông Thiệu đi đến đài truyền hình Việt Nam ở số 9 đường Hồng Thập Tự để xin đại tá Lê vĩnh Hòa Giám Đốc đài Truyền Hình Việt Nam tổ chức một buổi trực tiếp truyền hình . Đại tá Giám đốc đi ngay đến dinh Độc Lập mang theo dụng cụ lưu động và 20 chuyên viên. Có một đài tiếp vận trên xe để bảo đảm chuyển tiếp hình ảnh và âm thanh đến thẳng Đài Truyền Hình trung ương.
Trong một phiên họp nội các ngắn, Tổng ThốngThiệu báo cho các Tổng Bộ Trưởng của ông về quyết định của mình . Đến 2 giờ trưa Tổng Thống gặp Giám Đốc đài Truyền thanh truyền hình, lúc ông nầy đang đặt dụng cụ:
- " Anh có thể cho phát hình vào lúc 6 giờ chiều được không ? Để chỉnh các máy quay hình, anh hãy chọn một người nào đó có vóc dáng như tôi vậy được rồi.
Đến 3 giờ chiều, ông Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia loan báo là chiều nay Tổng Thống sẽ ngỏ lời với quốc dân đồng bào trên đài. Đến 5 giờ chiều, Tổng Thống cho gọi Giám Đốc đài truyền hình vào văn phòng của ông. Ông nói:
- " Trong lúc chuyển giao quyền hành, anh quay luôn cả tôi và ông Hương nghe .
Ông Thiệu muốn được trực tiếp truyền hình để nói chuyện tự do hơn. Nếu ông cho thâu bài nói chuyện của ông trước thì người Mỹ có thể tạo ra những biến cố kỹ thuật được. Vì giây trời (ăn ten) phát hình nằm ngay trên đài truyền thanh của Mỹ.
Tổng ThốngThiệu chỉ thị cho Giám đốc truyền hình lần chót :
- " Tôi sẽ nói vào đúng 19 giờ 30. Cuối cùng anh cứ giữ một máy quay trên hình của tôi. Và cứ cách hai giờ anh lại cho phát lại một lần.
Được biết là trước cuộc tổng tấn công của cộng sản về truyền hình đã có 5 đài chuyển tiếp, ở Sài Gòn, Cần Thơ, Nha Trang, Qui Nhơn và Huế. Trong tổng số bốn trăm ngàn máy thu hình ở Miền Nam Việt Nam , đã có hơn phân nửa ở ngay trong vùng thủ đô Sài Gòn. Bài diễn văn cũng sẽ được trực tiếp truyền thanh qua đài phát thanh trên nguyên tắc nghe được khắp cả nước Việt Nam .
Được biết ý định của Tổng ThốngThiệu, ông Martin cho ông Kissinger biết:
- "Ông có thể cho đại sứ Liên Xô Dobrynine biết để biến chuyện nầy thành lợi thế là ông đã cố gắng sắp xếp chuyện nầy với Hà Nội qua Mạc tư Khoa . Mặc dầu tôi không biết được ông Thiệu sẽ nói gì chiều nay, nhưng tôi cũng không chờ đợi là ông sẽ quá cứng rắn đối với Hoa Kỳ . "
Ông Kissinger trả lời ngay cho ông Martin:
- "Nếu ông Thiệu muốn rời khỏi Việt Nam , chắc chắn là ông phải lo cho ông ta mọi sự giúp đỡ cần thiết. Bất luận điều gì mà ông có thể nói về tôi, tôi vẫn có một sự kính trọng rất lớn đối với ông ta "
Ông Thiệu đã mời tất cả những Dân biểu và Nghị sĩ vào Hội trường lớn ở tầng dưới của Dinh Độc Lập, trên bục danh dự có thiết trí hai máy thu hình. Trong phòng có vài quân nhân, trong số nầy có đại tướng Cao văn Viên, Tổng Tham Mưu trưởng. Mọi người tuy có vẻ lo âu, bối rối nhưng có phần nào nhẹ nhõm. Ông Thiệu đã nắm chánh quyền từ cả chục năm nay. Ông ta đã chịu đựng và có quá nhiều kẻ thù. Giờ thì ông sắp ra đi. Liệu người ta có thể thay thế nhau ngay lúc đang ở giữa dòng hay không ? (tác giả dùng danh từ cộng sản là "thay ngựa giữa dòng").
Ông Tổng ThốngThiệu lên tiếng:
- " Thưa quý bà, thưa quý ông, Thưa đồng bào, Anh Chị em thân mến, đây là chiến lược của cộng sản : Quá mạnh về mặt quân sự , họ hăng say chiến đấu và các cuộc thương thuyết là phụ thuộc. Còn nếu họ thấy quá yếu về quân sự thì họ trở lại rất mạnh trên bàn thương thảo..."
Ông Thiệu vẽ lại một biến cố lịch sữ. Ông lên cao giọng. Đôi khi ông khoa tay làm như bị trật khớp vậy. Ông xin lỗi vì địa điểm nói chuyện hôm nay thiếu hẳn sự long trọng... :
- " Đã có một sự thông đồng giữa cộng sản và Hoa Kỳ để đi đến Hiệp Định từ ngày 26 tháng 10 năm 1972. Vào lúc đó tôi can đảm nói thẳng với Tổng Trưởng Ngoại Giao Mỹ ông Kissinger rằng "Nếu ông chấp nhận bản Hiệp Định nầy tức là ông chấp nhận bán Miền Nam Việt Nam cho cộng sản Bắc Việt . Còn tôi, nếu tôi chấp nhận nó tức là tôi là một kẻ phản bội lại đất nước và dân tộc tôi....
Ông Thiệu đã từ chối không chịu ký tên vào Bản Hiệp Định trong suốt 3 tháng. Lần đầu tiên Tổng Thống Thiệu công khai nói rằng để ép ông ký, vào năm 1973 Tổng Thống Nixon của Hoa Kỳ đã phải đe dọa cúp hết tất cả mọi viện trợ cho Miền Nam Việt Nam .
Bài diễn văn nầy không được ông Hoàng đức Nhã phụ ông soạn thảo, giống như những lần trước . Tổng Thống vừa đọc vừa thêm bớt tùy hứng, rất dài, và rất khúc chiết. Đôi khi cử tọa thấy bực mình vì nghe được tính cách quá nghiêm trọng của diễn tiến lịch sử nầy.
Thỉnh thoảng Tổng Thống đã tỏ ra rất giận dữ, quá xúc động, nên ông phải ngưng lại một lúc để tìm lại đoạn nối tiếp cho đúng chỗ trong bài diễn văn của mình. Chỉ có vài giây yên lặng mà sao thật là quá dài... Ông Thiệu đã tỏ ra rất là cứng rắn đối với người Mỹ, điều mà ông Martin không bao giờ mong đợi :
- " Tôi đã nói với họ (người Mỹ) rằng : Các ông đã bắt chúng tôi phải làm những gì mà các ông đã thất bại không làm được với nửa triệu binh sĩ võ trang quá đầy đủ... Các ông không có thua cộng sản thật nhưng các ông cũng không thắng họ được . Và các ông lại tìm được một lối thoát trong danh dự. Bây giờ, trong lúc quân đội chúng tôi thiếu vũ khí, thiếu đạn dược, thiếu trực thăng, phi cơ và B.52, thì các ông lại đòi hỏi chúng tôi phải thực hiện một việc không thể nào làm được, là lượm từ viên đá để lấp cả một đại dương ! Thật giống như các ông chỉ cho chúng tôi có 3 mỹ kim thôi mà buộc chúng tôi phải mua vé máy bay thượng hạng, hoặc buộc chúng tôi phải thuê một phòng ở khách sạn mà thường giá phải là 30 mỹ kim một ngày. .rồi phải ăn 4 hay 5 miếng bò bít tết, phải uống 6 hay 7 ly rượu vang.... Thật là vô lý, không thể nào thực hiện được !
Các khán thính giả đài truyền hình - người Việt Nam thì theo dõi bài nói chuyện trong nhà họ, và những cơ quan truyền thông báo chí thì ở tòa đại sứ Mỹ có người dịch ngay ra tiếng Anh tại chỗ - đều cảm thấy đây không phải là một bài diễn văn của một nhà ngoại giao, mà thật sự là một lá chúc thư.
Quá khích động, mồ hôi nhễ nhãi trên trán, ông Thiệu đã tỏ ra là một người thành thật khi ông thóa mạ người Mỹ:
- " Các ông bỏ mặc binh sĩ chúng tôi dưới cơn mưa pháo của cộng sản , thật là một hành động vô nhân đạo của một đồng minh vô nhân đạo !
Ông gằn mạnh từng tiếng và lập lại :
- "Từ chối giúp đỡ một đồng minh, bỏ mặc cho họ chết, thật là vô nhân đạo.
Sau đó ông trở về với bài diễn văn:
- " Hoa Kỳ đã tỏ ra rất hãnh diện là một quốc gia tranh đấu không mệt mỏi cho chánh nghĩa và lý tưởng Tự Do trên thế giới nầy. Năm tới Hoa Kỳ sẽ tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm lập quốc.... Liệu người ta còn có ai tin vào những lời tuyên bố của Hoa Kỳ nữa hay không ?
Ông Thiệu tự nhủ là ông sẵn sàng chấp nhận mọi chỉ trích của cả thế giới, của những đồng minh của ông , và của cả dân tộc Việt Nam .
- "Tôi công nhận là có một số cấp chỉ huy quân sự của tôi đã tỏ ra hèn nhát trong những chiến trận gần đây, nhưng không phải tất cả đều như vậy. Trong nhiều Vùng, các chiến sĩ của ta đã chiến đấu một cách anh dũng.... Tôi có thể tiếp tục nhiệm vụ của tôi trong chức vụ Tổng Thống để cầm đầu cuộc kháng chiến.. Nhưng tôi không thể cung cấp được cho quân đội đầy đủ phương tiện để chiến đấu.... Đồng bào có thể hiểu lầm tôi, cho tôi là một chướng ngại trên con đường đi đến hòa bình. Tôi chọn giải pháp thứ hai, là tôi xin từ nhiệm. Sự từ chức của tôi chỉ là một sự hy sinh rất nhỏ."
Ông xin tất cả hãy giúp đỡ Phó Tổng ThốngTrần văn Hương, người sẽ kế vị ông theo đúng Hiến Pháp vào chức vụ Tổng Thống.
Ngồi bên cạnh ông Thiệu, ông Trần văn Hương rất cảm động sau cặp kính đen lớn của ông. Ông Thiệu nói tiếp :
- " Không phải vì những áp lực của Đồng Minh chúng ta , cũng không phải vì cuộc chiến đấu khó khăn vối với quân đội cộng sản Bắc Việt mà tôi bỏ cuộc. Có những vị Tổng Thống của một vài quốc gia lớn cũng đã từng trải qua sáu hay bảy cuộc khủng khoảng. Họ đã viết sách, tự giới thiệu như những vị anh hùng, những chánh trị gia lỗi lạc. Còn tôi, trong mười năm qua, tất cả những năm, tháng, ngày, giờ của đời tôi đều gặp khó khăn, như tử vi của tôi đã tiên đoán.
Trong hàng cử tọa người ta muốn ông Thiệu chấm dứt. Nhưng ông cứ tiếp tục, trở lại những đề tài đã nói :
- Tôi sẵn sàng chấp nhận những phê phán và những cáo buộc của quốc dân đồng bào... Đời sống của cả một dân tộc không thể nào được trả giá như người ta trả giá một con cá ngoài chợ được
Cuối cùng ông Thiệu tuyên bố :
- " Tôi xin từ nhiệm, tôi không đào ngũ "
Như vậy là ông Thiệu đã nói suốt một tiếng rưỡi đồng hồ.
Vị tânTổng Thống Trần văn Hương sẽ lên tiếng tiếp theo đây. Người ta phải dìu ông lên đến tận ống nói. Sáu mươi hai tuổi đầu, lưng hơi còng hình như bị thấp khớp, ông nói với binh sĩ:
- " Bao lâu mà các anh em còn chiến đấu, ngày đó tôi vẫn còn đứng bên cạnh các anh em. Tai họa đã giáng xuống đất nước chúng ta, hài cốt tôi sẽ nằm chung với hài cốt của các bạn chiến binh. Đó là nguyện vọng thiết tha của tôi.
Đối với đồng bào ông Hương tuyên bố
- " Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết " .
Sau buổi lễ tuyên thệ của Tân Tổng Thống, Tướng Tổng Tham mưu Trưởng và Tổng Giám Đốc Nha Cảnh Sát đứng lên bảo đảm là quân đội tiếp tục chiến đấu và an ninh trật tự sẽ được vãn hồi.
Nhà văn Duyên Anh đã nghe ông Thiệu nói. Ông tự nhủ : Ông Thiệu không phải tài giỏi gì nhưng người Mỹ tin cậy ông ta. Nếu họ bỏ ông ta, thì cuộc diện coi như đã xong rồi .
Đã từ mấy ngày nay, tên của nhà văn Duyên Anh đã được ghi vào danh sách rồi nên ông chỉ còn chờ còn chờ có một cú điện thoại nữa mà thôi, để được bốc đi Hoa Kỳ. Người ta yêu cầu ông đừng có xử dụng đường giây điện thoại để bất cứ lúc nào cũng có thể nhận được điện thoại khẩn cấp . Giữa cú điện thoại và lúc ra đến điểm hẹn để được bốc đi, chỉ có vỏn vẹn 5 phút mà thôi.
Hòa thượng Thích Thiện Huê đã ngồi ở ngay chùa với môt số dân lánh nạn để nghe bài nói chuyện của ông Thiệu. Mọi người đều vui vẻ. Ông Thiệu đã mất hết vừa đồng minh vừa lòng tin của đồng bào. Ông ra đi là phải lắm rồi. Với một người lãnh đạo khác, tình hình may ra có thể khả quan hơn.
Ông kỹ sư Văn thì không thấy vui một chút nào. Làm sao những người quốc gia có thể thương thuyết được khi họ ở trong thế quá yếu ? Còn ông Tân Tổng Thống Hương vốn là môt người chống Cộng đến cùng thì làm sao mà thương thuyết được ? muốn vậy là phải có một nhân vật nào đó mềm dẻo hơn.
Ở Đà Lạt, cha Jean Marie phải vào nhà ăn của trường Đại Học đóng kín tất cả cửa lại để nghe Tổng Thống nói chuyện . Ông cảm thấy tức giận. Tổng ThốngThiệu đã loan báo là ông sẽ trở lại quân đội như một tướng lãnh. Nhưng mà Cha nghĩ là chắc chắn ông Thiệu đã có trong túi một vé máy bay để đi ra ngoại quốc rồi.
Chỉ hai giờ đồng hồ sau lễ bàn giao quyền hành ở Dinh Độc Lập, thì đài giải phóng và đài Hà Nội đã tuyên bố là :"Đó vẫn là chế độ Thiệu mà không có Thiệu... Chỉ là một chế độ bù nhìn mà thôi.""
Ông Thiệu gặp ông Hoàng đức Nhã, người em bà con của ông ở nhà riêng của ông nầy.
Ông cựu Tổng Thống hình như đã thanh thản hơn, không còn quá căng thẳng như lúc ông đọc diễn văn nữa. Đến độ ông đã nở được một nụ cười..... - hay là ông đã nhăn mặt đây ? - để nói :
- " Xong rồi. Nếu họ tưởng rằng họ có thể giải quyết được những bài toán nầy thì OK, xin cứ tìm giải pháp đi .... "
Sau đó ông thở dài:
- "Phần tôi, tôi đã làm được tất cả những gì mà tôi có thể làm được cho đất nước tôi rồi ".
Ông ta không còn ở tay lái nữa, nhưng ông chưa rời bỏ con thuyền. Ông chưa có ý định rời khỏi quê hương Việt Nam .
- "Tôi sẵn sàng giúp ý kiến, nhưng bây giờ tôi không phải là người chỉ huy nữa."
Trong khi ông Thiệu từ chức, các đơn vị cuối cùng của sư đoàn 18 bộ binh đang rút ra khỏi Xuân Lộc . Tướng Tư Lệnh sư đoàn Lê minh Đảo đã đặt cho cuộc triệt thoái nầy một cái tên là " cuộc hành quân bất ngờ, và đánh lạc hướng". Tướng Đảo đã có được một sự giúp đỡ ngắn - do một trái bom được gọi là " cắt hhết bông cúc" được thả xuống đêm rồi ở 6 cây số về hướng Tây Bắc Xuân Lộc , gần Bộ Tư Lệnh của sư đoàn 341 Bắc Việt . Bom nổ làm chấn động cả thành phố như một cuộc động đất. Tin được loan đi hoảng loạn: Miền Nam Việt Nam có bom nguyên tử loại chiến thuật. Hàng ngàn bộ đội và sĩ quan Bắc Việt bị tử thương do trái bom "hút hết dưỡng khí" nầy đã đốt hết dưỡng khí trong một đường bán kính 250 thước, làm chết ngay tại chỗ, nghẹt thở, mà không có một thương tích nào trên người .
Ông Eric von Marbod đã có hứa cho Miền Nam 27 trái bom loại "cắt hết bông cúc" nầy. Đã có 3 trái được giao cho Không Quân hôm 16 tháng 4., kèm theo đầy đủ mỗi trái một ngòi nổ của Hoa Kỳ . Ông ta đã chỉ cho Miền Nam kỹ thuật làm nổ trái bom và cách thức ràng rịt trái bom trên phi cơ vận tải cơ C.130. Muốn thả trái bom đầu tiên nầy, người ta gặp nhiều khó khăn lắm mới tìm được một phi công của Miền Nam có đủ kinh nghiệm. Vì người phi công Mỹ đã có hứa đến mà không thấy đến. Và người ta cũng không còn thả thêm được một trái bom nào loại nầy nữa.
Cuộc triệt thoái khỏi Xuân Lộc được tính toán rất kỹ và được thực hiện rất chu đáo. Những đơn vị cuối cùng của sư đoàn 18 bộ binh , của lữ đoàn 1 Dù, vài đơn vị Bảo An và Dân Vệ, đã rời khỏi vị trí đêm 23 tháng 4. Sư đoàn 18 tính tới giờ nầy đã bị thiệt 30 % quân số, đã tập trung được với pháo binh cơ hữu chung quanh các căn cứ Long Bình và Biên Hòa. Lực lượng Dù ít thiệt hại hơn, đã về thiết lập vị trí trên đường 15, bảo vệ trục lộ Sài Gòn ra Vũng Tàu.
Tổng Tư Lệnh quân đội Bắc Việt đã có quyết định bọc hậu thành phố để tiến về Biên Hòa , nằm ở giữa Xuân Lộc và Sài Gòn . Trong trận tấn công vào Xuân Lộc tướng Dũng đã mất hết 37 chiến xa T. 54.
Ở Sài Gòn. các nhà ngoại giao Pháp đang hăng say hoạt động. Họ muốn cho thủ đô không bị nằm trong lửa đạn, và chìa cho cộng sản Bắc Việt lá bài Dương văn Minh. Nhưng liệu Hà Nội có chấp nhận lá bài nầy hay không ? Sài Gòn, một thành phố đang hấp hối, đang tuyệt vọng, hình như đang bị rơi vào khoảng không ... Hai ông Mérillon và Brochand đều nghĩ rằng cần phải có cả một sự ổn định về mặt tâm lý lẫn chánh trị . Người Pháp thấy rõ là người Mỹ chỉ muốn cứu lấy đồ đạc của họ mà thôi.