tintin27
04-03-2009, 03:44 PM
Hồi 23
Hung hiểm đã hơn người
Oán độc chẳng kém ai
Người ấy mặt áo vải đi giầy rơm, lưng đeo trường đao, chính là cháu ruột của Thôi Thu Sơn, chàng Thôi Hy Mẫn
Thừa Chí hỏi:
- Có việc gì thế?
Hy Mẫn móc túi lấy một lá thư ra đưa cho Thừa Chí. Nhận xét bút tích, chàng biết ngay lá thơ của sư phụ, liền cung kính đỡ lấy, bóc thư ra đọc. Trong thơ viết:
“Theo di huấn của chư vị tổ sư, bất cứ đệ tử nào của phái Hoa Sơn đều không được phép nhận quan chức của Triều đình. Ngày nay Sấm Vương đã khắc tựu đại nghiệp, tất cả đệ tử của phái ta đều phải rút lui ngay. Và đêm trăng tròn tháng tới, lên đỉnh núi Hoa Sơn tề tập.”
Dưới ký tên: Nhân Thanh.
Thừa Chí nói:
- ủa, cách hội kỳ chỉ còn non một tháng, chúng ta phải đi ngay mới kịp.
Hy Mẫn nói:
- Chính thế ạ. Cả Thôi thúc thúc cũng bảo đi cùng với chúng ta đấy.
Hai người trở về đường Chính Điền Tử, vừa tới đầu đường đã nghe thấy tiếng khí giới va chạm, hò hét mắng chửi, rồi lại thấy mấy chục quân Minh từ trong nhà chàng hấp tấp chạy ra...
Thừa Chí nghĩ: “Quân Minh đã tan rã hết rồi, tại sao lại còn mấy chục người ở đây thế?” Nghĩ đoạn, chàng bước rảo cẳng. Về tới nhà, Thừa Chí thấy Hà Thích Thủ đang múa động song câu, đánh bọn quân Minh chen nhau chạy ra ngoài. Chỉ trong giây lát, không còn một bóng người nào ở đó nữa.
Hà Thích Thủ cười nói:
- Những tên đại binh nầy thấy nhà ta cao lớn, muốn ào đánh cướp đấy sư phụ ạ.
Thừa Chí cười nói:
- Cũng may tôi trở về sớm một tí, chớ không bọn tàn quân ấy còn phải chịu khổ nữa.
Ba người cùng đi vào nội đường, bỗng thấy Hồng Thắng Hải từ phía trong hớt hãi chạy ra, sắc mặt nhợt nhạt, lớn tiếng kêu la:
- Nguy tai! Nguy tai!
Thừa Chí giựt mình kinh hãi, liền hỏi:
- Việc gì thế?
Hồng Thắng Hải đáp:
- Trình... Trình... lão phu... tử...
Mọi người đều ùa vào trong phòng của Trình Thanh Trúc. Ai nấy đều kinh hãi vô cùng, vì thấy ông ta đang quỳ ở dưới đất, người cứng đờ như tượng gỗ, trên ngực thấy cắm một con dao sáng quắc.
Sa Thiên Quảng giận dữ nói:
- Mau bắt tên thích khách!
Y nhảy luôn ra ngoài cửa sổ, Hồ Quế Nam, Hà Thích Thủ cũng nhảy theo ra. Thừa Chí để tay vào mũi Thanh Trúc xem còn thở hay không. Nhận thấy sự hô hấp đã đình chỉ, người đã giá lạnh như băng tuyết chàng mới hay ông ta chết từ lâu rồi. Chàng cúi xuống xem tờ giấy buộc ở trên cán dao, thấy có việc tám chữ như sau: “Vì thần đồng tử, dĩ tuần ngô chủ” (Thần hèn mọc nầy xin cùng chết, do được tuẫn tiết cho chủ.) Lúc này, chàng mới hay Trình Thanh Trúc đã tự sát để thủ tiết với chủ cũ. Chắc
ông ta khi hay tin Sùng Chính băng hà, nhớ lại tình cũ nghĩa xưa, liền lấy dao tự sát luôn. Hành động nầy tuy là tận trung một cách ngu dại, nhưng tánh nết cương trực của ông ta thật đáng thương hại. Thừa Chí cũng phải nhỏ mấy hàng lệ anh hùng. Chàng liền sai người đuổi theo gọi bọn Sa Thiên Quảng trở về, và cho người đi mua cỗ quan tài để an táng cho Trình Thanh Trúc. Ông ta là Bang chủ của một bang phái lớn, đáng lẽ phải làm ma chay thật linh đình nhưng trong lúc loạn ly này, phu phen không có,
bạn bè cũng chạy cả, vậy lấy ai để khênh vác các đồ nghi trượng, nên Thừa Chí đành phải cho khâm liệm ngay. Chàng cùng mọi người đứng trước quan tài hành lễ. Mãi không thấy Thanh Thanh ra, chàng hỏi Uyển Nhi rằng:
- Hạ cô nương đâu?
Uyển Nhi đáp:
- Em không thấy chị ấy ra ngoài nầy. Để em vào mời chị ấy ra hành lễ.
Thừa Chí nói:
- Không dám phiền cô, tôi đi gọi lấy cũng được.
Chàng vào tới cửa phòng Thanh Thanh, dùng ngón tay khẽ gõ vài cái và nói:
- Chú Thanh, mở cửa cho tôi.
Thấy trong phòng im lặng, chàng lại gõ thêm vài tiếng nữa, vẫn không thấy hồi âm. Chàng đẩy mạnh cửa vào, thấy trong phòng rỗng không, liền ngẩn người ra giây lát. Khi định thần lại, chàng mới hay Thanh Thanh bỏ đi rồi. Nàng đem cả bảo kiếm lẫn y phục, thậm chí đem cả cái lu đựng hài cốt của mẹ nàng đi nốt. Chàng lục lọi khắp nơi, thấy dưới gối có một tờ giấy của nàng để lại, trên đó viết: “Anh đã có Kim Chi Ngọc Điệp, còn lấy tôi, con nhà dân quèn làm gì nữa!”
Thừa Chí ngẩn người ra nhìn tờ giấy của Thanh Thanh viết để lại, trong lòng bối rối vô cùng, không biết làm thế nào cho phải? Chàng nghĩ: “Ta đối với nàng chân tình như thế, mà hơi tí lại nghi ngờ, lúc nào cũng đề phòng ta. Ta là nam nhi đại trượng phu, làm gì cũng quang minh chính đại, chớ có bao giờ ta làm điều gì khuất lấp đâu?
Suốt ngày vào sanh ra tử trong rừng thương núi đao, tránh sao khỏi không đụng chạm với người nầy người nọ, nhưng ta không làm một điều gì trái với lương tâm cả. ChúThanh, chú Thanh ơi! Quả thật chú không hiểu lòng tôi một tí nào!” Nghĩ tới đây, chàng ứa nước mắt, trong lòng đau đớn vô cùng, lại nghĩ tiếp: “Lần trước nàng ra đi, suýt tí nữa nàng bị quân ngoại quốc bắn chết. Hiện bây giờ thiên hạ chưa được ổn định, trong lúc binh hoang loạn mã nầy, không biết nàng đi về phía nào?” Chàng buồn bực,
ngồi xuống mép giường.
Uyển Nhi rón rén bước vào nhìn thấy Thừa Chí thẫn thờ như người mất hồn mất vía vậy, sợ hãi quá vội chạy ra báo tin cho mọi người hay. Ai nấy đều vào cả trong phòng khuyên giải. Uyển Nhi tuy ít tuổi hơn hết nhưng rất điềm tĩnh, ra hiệu bảo mọi người yên lặng, rồi nói với Thừa Chí rằng:
- Viên tướng công lo lắng như vậy cũng vô ích. Hạ cô nương võ nghệ cao cường như thế, ai dám hà hiếp cô ta? Tướng công, chú Câm và chị Hà Thích Thủ cứ việc đi lên Hoa Sơn trước. Tiểu muội xin ở lại đây trôm nom cô A Chín. Còn chú Sa Thiên Quảng, Thiết lão sư, chú Quế Nam và tất cả đàn em trong bang Kim Long sẽ chia đường đi kiếm Hạ cô nương, đồng thời tướng công cho truyền lệnh bài đi khắp chốn giang hồ, ra lệnh cho các hào kiệt, bang phái để ý giúp hộ cho.
Nàng vừa nói, Thừa Chí vừa gật đầu. Chờ nàng nói xong, chàng mới lên tiếng:
- ý kiến của Tiêu cô nương rất hay. Chúng ta cứ theo kế hoạch đó mà tiến hành. Nhưng Hà Thích Thủ vì chưa chánh thức nhập môn của tôi, còn phải đợi tôi bẩm cùng sư phụ rõ đã hãy hay. Lần nầy, chị ấy hãy tạm ở lại đây.
Hà Thích Thủ định lên tiếng cầu khẩn, bỗng sực nghĩ tới Thanh Thanh cũng nghi ngờ nàng, nếu bây giờ nàng đi cùng với Thừa Chí thì không tiện tí nào, nên nàng chỉ mỉm cười không lên tiếng nữa.
Nàng lại nghĩ: “Không cho ta đi, ta cứ đi cho mà xem.” Nàng là giáo chủ tà
giáo, xưa nay thích gì làm nấy, chớ không ai dám ngăn cản cả. Nhưng gần đây, nàng đã ngoan ngoãn hiền lành ít nhiều rồi, tuy vậy, tánh ương ngạnh còn phần nào nên nàng mới trù tính lên núi Hoa Sơn một mình để bái sư tổ là thế.
Chỉ bảo đâu đấy xong, tối hôm ấy, Thừa Chí vào trong cung từ biệt Sấm Vương và Lý Nham. Tự Thành tặng cho chàng rất nhiều châu báu. Chàng định từ chối, thấy Lý Nham đưa mắt ra hiệu, chàng đành phải cảm tạ nhận lấy.
Lý Nham tiễn chàng ra tới cửa cung, thở dài nói:
- Chú Viên, chú công thành thân thoái như thế, thực là may mắn lắm... còn tôi ở lại đây sẽ bị tiểu nhân kèn cựa nhưng tôi vẫn phải ở lại, quyết lấy tánh mạng ra báo đền lòng tri ngộ của đại vương.
Nói xong, chàng tỏ vẻ buồn rầu. Thừa Chí cảm khoái nói:
- Xin đại ca thận trọng đôi chút, nếu gặp sự nguy nan, xin huynh cứ báo tin cho biết ngay. Dù xa cách nghìn vạn dặm, đệ cũng sẽ hỏa tốc tới giúp.
Hai người cùng gạt lệ từ biệt nhau.
Sáng sớm ngày hôm sau, Thừa Chí cỡi con Ô Bắc (đen và trắng) của Sấm Vương tặng cho, cùng với Thôi Thu Sơn, Thôi Hy Mẫn, An Đại nương, Tiểu Tuệ, Hồng Thắng Hải sáu người, dắt hai con đười ươi thủng thẳng đi về phía Tây, tiến lên núi Hoa Sơn.
Ngựa của các người kia cũng là lương mã nên không bao lâu đã tới huyện Uyển Bình.Mọi người vào khách sạn nghỉ chân. Cơm nước xong, sắp sửa lên đường, Hồng Thắng Hải nhanh mắt trông thấy trên góc tường có một con bò cạp và một con rít, cả hai con đều được đóng bằng một cái đinh cỏn con.
Chàng giựt mình vội kéo vạt áo Thừa Chí. Đưa mắt nhìn hai con vật nọ, Thừa Chí gật đầu, trong lòng nghĩ thầm: “Cái nầy chắc có liên can tới Ngũ Độc Giáo, chỉ tiếc rằng Hà Thích Thủ không có mặt ở đây, không biết họ làm dấu hiệu như thế có ý nghĩa gì?”
Hồng Thắng Hải hỏi dò điếm tiểu nhị:
- Mấy con vật ở trên góc tường kia, chắc lại bọn người nói giọng miền Nam đóng lên phải không?
Điếm tiểu nhị cười nói:
- Nếu không nhật ít tiền của họ thì cháu đã vứt hai con vật ấy đi từ lâu rồi. Thật phiền quá ông ạ.
Y vừa nói vừa đếm đốt ngón tay, rồi lại vừa cười vừa nói tiếp:
- Từ ngay hôm kia tới giờ, kể cả ông đã có trên mười vị khách quan hỏi cháu về chuyện hai con vật ấy.
Hồng Thắng Hải vội hỏi:
- Chú có nhớ người nào đã đóng lên không?
Điếm tiểu nhị đáp:
- Một mụ ăn xin già đấy!
Hồng Thắng Hải đưa mắt nhìn Thừa Chí rồi lại hỏi tiếp:
- Còn những người đã hỏi chú là hạng người như thế nào?
Vừa hỏi, chàng vừa nhét một ít bạc vụn vào tay điếm tiểu nhị.
Nhận lấy số bạc vụn, điếm tiểu nhị cám ơn rồi cười nói:
- Những người đã hỏi cháu toàn là bọn ăn xin và tụi côn đồ, nhưng không ngờ người lịch sự như ông mà cũng hỏi tới chuyện...
Thừa Chí liền ngắt lời tên nọ, hỏi luôn:
- Khi mụ ăn xin đóng hai con vật ấy, có ai đứng cạnh không?
Điếm tiểu nhị nghĩ ngợi giây phút mới đáp:
- Ngày hôm ấy... kể cũng hơi kỳ thật, thoạt tiên có một cậu công tử rất đẹp trai tới đây ăn uống...
Thừa Chí lại vội hỏi:
- Người ấy hình dáng như thế nào? Mặc quần áo gì? Bao nhiêu tuổi?
- Cậu ấy trẻ hơn tướng công chừng hai, ba tuổi, mặt đẹp lắm. Thoạt tiên, cháu cứ tưởng là cậu ta là một kép hát chuyên đóng vai đàn bà nhưng sau thấy cậu ta đeo kiếm, cháu không dám tưởng tượng như thế nữa. Hình như trong nhà có người mới chết vậy, mặt mày ủ rũ, cứ uống một chén rượu, là như muốn khóc...Mọi người đều đoán chắc người đó là Thanh Thanh chớ không sai. Thôi Hy Mẫn nổi giận nói:
- Không cần chú kể lể lôi thôi những chi tiết ấy làm gì. Ai có rỗi thì giờ nghe nào!
Điếm tiểu nhị thấy Hy Mẫn hung tợn, sợ hãi vô cùng, vội lảng sang chuyện khác nói:
- Quý vị sắp phải lên đường ngay đấy ư?
Thừa Chí hỏi:
- Sau rồi thế nào nữa, chú tiểu nhị?
Điếm tiểu nhị đưa mắt nhìn Hy Mẫn rồi đáp:
- Vị tướng công trẻ tuổi ấy đang uống rượu thì nghe có tiếng chân người lên thang, quay lại trông thấy một cụ râu tóc bạc phơ, tay cầm quài trượng. Vừa lên tới trên lầu này, ông cụ mới chống mạnh quài trượng xuống sàn gác, những chén bát ở các bàn này đều nhảy cả lên.
Nghe nói tới đây, Thừa Chí lo ngại quá, nghĩ thầm: “Lão già họ Ôn Minh Sơn gặp Thanh Thanh ở đây, thì nàng thoát sao khỏi tay lão ấy?”
Điếm tiểu nhị lại nói tiếp:
- Ông cụ ấy ngồi ở cái bàn cạnh tướng công nọ. Cụ ta vừa gọi rượu và món ăn xong, lại có một ông cụ nữa lên. Lạ quá, trước sau có tất cả bốn ông cụ lên ăn uống.
Ông nào ông nấy đều râu tóc bạc phơ mặt đỏ hồng. Có ông cầm đôi đoản kích, có ông cầm roi da. Mỗi người ngồi một bàn, không ông nào nhìn ông nào, bốn ông ngồi xung quanh tướng công nọ. Cháu đang ngạc nhiên không hiểu các ông ấy định giở trò gì, thì lúc ấy mụ ăn xin già lên. Ông tài phú chúng cháu định lên tiếng đuổi mụ ta đi. Ngờ đâu, bỗng nghe keng một tiếng. Hà! Tướng công thử đoán xem là cái gì?
Thôi Hy Mẫn vội hỏi:
- Cái gì thế?
Điếm tiểu nhị đáp:
- Thật không ai có thể tưởng được, tiếng keng ấy là thoi bạc lớn của mụ ném ra mặt quầy. Rồi mụ chỉ tay vào mặt bốn ông cụ với vị tướng công nọ và nói:
- “Mấy người kia ăn bao nhiêu, tính cả vào phần tôi, tôi trả hết.” Đấy quý vị xem, có mụ ăn xin nào lại tiêu sang đến thế chưa?
Càng nghĩ càng lo, Thừa Chí nghĩ: “Bốn ông già họ Ôn đã khó địch rồi, lại thêm mụ Hà Hồng Dược nữa thì nàng chống sao nổi?”
Càng nói càng cao hứng, tiểu nhị nói đến nỗi nước miếng bắn tung tứ phía mà vẫn nói:
- Ngờ đâu mấy người kia cứ cúi đầu ăn uống, không thèm đếm xỉa đến mụ kia.
Mụ ăn xin tức giận quá, thét lớn một tiếng, giơ tay ném một đạo bạch quang, nhắm ông già cầm quài trượng bắn tới.
Thôi Hy Mẫn nói:
- Thôi đi, chú đừng có nói dóc nữa. Chẳng lẽ mụ ấy lại biết phi kiếm hay sao?Điếm tiểu nhị vội cãi:
- Cháu không nói dóc đâu. Tuy không phải là phi kiếm nhưng cháu chắc cũng có mấy thành giống phi kiếm thực. Rồi ông già nọ giơ đôi đũa lên, chỉ nghe thấy “king koong, kính koong” một hồi, trên hai chiếc đũa đã xâu một tràng cái gì bóng nhoáng. Cháu liếc mắt nhìn trộm... Trời ơi! Quý vị khách quan có biết là cái gì không?
Hy Mẫn hỏi:
- Cái gì thế?
Điếm tiểu nhị kéo tay Hy Mẫn tới cạnh một cái bàn, rồi nói:
- Đây, tướng công thử xem?
Trên mặt bàn có một cái lỗ, tiểu nhị lấy một chiếc đũa cắm vào, vừa lọt, không to và cũng không nhỏ hơn, rồi nói:
- Ông già ấy cầm chiếc đũa xoay một cái là cắm vào trong mặt bàn ngay. Chỉ miếng võ này cũng đủ thấy ông ta không phải là tay tầm thường, phải không tướng công? Mụ ăn xin biết địch không nổi ông ta liền chạy luôn. Sau đó, vị tướng công trẻ tuổi cùng với bốn ông già đi một lúc. Cháu mới hay năm người đó cùng một bọn, bày sẵn trận thế để đối phó mụ ăn xin kia.
Thừa Chí hỏi:
- Họ đi về hướng nào?
Điếm tiểu nhị đáp:
- Họ đi về làng Lương Hương ở phía Tây. Mấy ông già và tướng công tuổi trẻ đi không bao lâu, mụ ăn xin quay trở lại, đóng hai con quái vật ở góc tường kia, lại cho cháu một miếng bạc, dặn cháu canh nom hộ, đừng để cho ai đụng tới. Mấy ngày hôm nay, thiên hạ đại loạn, ông chủ tiệm chúng cháu định đóng cửa nghỉ vài ngày nhưng bà chủ không chịu, nhờ vậy cháu mới kiếm được một ít bổng lộc...
Trong khi tiểu nhị đang lẩm bẩm nói, Thừa Chí đã nhẩy ra tới cửa, phi thân lên mình ngựa kêu gọi:
- Chúng ta đuổi theo mau!
Hãy nói Thanh Thanh bữa nọ bực mình ra đi, trong lòng đau đớn vô cùng, nàng quyết tâm đem hũ tro (hài cốt của mẹ nàng) lên trên đỉnh núi Hoa Sơn để chôn cùng với cha nàng, rồi tự tử luôn cạnh mộ của cha mẹ.
Nàng nghĩ: “Ta cô độc một thân một mình, lại gặp phải người yêu bạc tình, kết cục đau khổ như nhiện thời.” Càng nghĩ càng tự thương tự liên.
Ngày hôm ấy, tới huyện Uyển Bình, vào nghỉ chân trong tửu lâu, không ngờ lại gặp bốn anh em họ Ôn và Hà Hồng Dược. Sau Ôn Minh Sơn giở một miếng nội công tuyệt kỹ ra, Hà Hồng Dược tự biết mình địch không nổi liền rút lui ngay. Thanh Thanh đã có lòng quyết tử nên thấy không kinh hãi gì cả. Nàng chỉ sợ bốn ông lão giết nàng tại chổ, không làm tròn lời trối trăn của mẹ lúc sắp chết. Sau nàng nghĩ ngay được một kế, đi tới trước mặt Ôn Minh Đạt vái chào, lớn tiếng nói:
- Ôn trưởng vẫn mạnh giỏi đấy ạ?Rồi nàng đi tới chào từng người một. Bốn anh em họ Ôn thấy nàng thản nhiên không có vẻ gì sợ hãi gì cả, đều ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau.
Thanh Thanh cười nói:
- Bốn ông đi đâu thế?
Ôn Minh Đạt hỏi lại:
- Cháu cũng đi đâu thế?
Thanh Thanh đáp:
- Cháu có hẹn với người bạn họ Viên gặp nhau ở đây. Ngờ đâu đến giờ vẫn chưa thấy y đến?
Nghe tới tên của Thừa Chí, bốn anh em họ Ôn, như kính cung chỉ điểu (con chim vừa thoát chết trước mũi tên) đâu còn dám ở lại nơi đó nửa phút.
Ôn Minh Nghi quát lớn:
- Cháu theo các ông ngay đi.
Thanh Thanh giả bộ nói:
- Cháu còn phải chờ đợi người bạn.
Nhanh như chớp, Ôn Minh Nghĩa cách đó điểm luôn yếu huyệt của nàng, kéo luôn ra khỏi tửu điếm, rồi cùng cỡi một con ngựa, phi thẳng ra ngoại thành. Bốn anh em họ Ôn cứ kiếm chỗ thật vắng người mà đi, tới một cây cổ thụ, cùng nhảy xuống ngựa. Ôn Minh Nghĩa quăng Thanh Thanh xuống, cất tiếng chửi rủa:
- Con tiện nhân vô sỉ này, ngày hôm nay trời xanh run rủi khiến mày lọt vào tay chúng tao.
Thanh Thanh khóc lóc nói:
- Thưa ông, cháu có lầm lỗi gì đâu? Các ông tha thứ cho cháu, từ nay trở đi, các ông dạy bảo gì cháu cũng xin tuân theo.
Ôn Minh Nghĩa nói:
- Mầy còn muốn sống ư?
Vừa nói, y vừa rút luôn thanh đoản kiếm ra. Thanh Thanh vẫn khóc lóc nói:
- Ông Ba, mẹ con là con gái của ông, cháu xin ông một điều nầy.
Minh Sơn nói:
- Hôm nay mầy thế nào cũng chết.
Thanh Thanh khóc nói:
- Cháu chỉ xin ông giúp cho một việc là sau khi cháu chết, xin ông bắn tin cho người bạn họ Viên của cháu hay, bảo y đi kiếm báu vật đi, khỏi phải chờ cháu nữa.
Bốn anh em nghe nàng nói tới ba chữ “Kiếm vật báu” đều động lòng tham cùng lên tiếng hỏi:
- Mầy vừa nói gì thế?Thanh Thanh đáp:
- Thể nào cháu cũng phải chết rồi, việc bí mật này cháu không thể nói cho ai hay được. Cháu chỉ mong ông gởi lời chào người bạn của cháu thôi.
Nói xong nàng xé một mảnh vạt áo, móc túi lấy mũi kim để trong bao kim chỉ ra, chích vào đầu ngón tay cho chảy máu rồi viết vào mảnh vải. Bốn anh em họ Ôn cứ luôn mồm hỏi nàng nếu nàng kiếm vật báu gì thế. Nàng làm thinh cứ cúi đầu viết.
Xong đâu đấy, nàng liền giao cho Ôn Minh Sơn và nói rằng:
- Ông Ba, ông đừng đưa thẳng tay cho y, nhờ người khác đem tới tửu điếm ở huyện Uyển Bình mà lúc nãy cháu ngồi chờ đợi là được rồi!
Tuy giả bộ làm ra như vậy nhưng hễ nghĩ tới Thừa Chí bạc tình, nàng lại ứa hai hàng lệ.
Thấy nàng thương tâm như vậy, bốn anh em họ có biết đâu là nàng làm ra trò để lừa dối người, cứ xúm quanh để xem. Nàng viết: “Kính thưa Thừa Chí đại ca, đời này chúng ta không sao tái ngộ được nữa. Những vật báu của cha em để lại, xin tặng anh tất cả. Vậy anh cứ việc đi đào lấy, không phải chờ đợi em nữa.
Nay kính, Thanh Thanh.”
Ôn Minh Nghĩa quát hỏi:
- Những vật báu gì thế? Chẳng lẽ cháu cũng biết nơi chôn giấu hay sao?
Thanh Thanh gật đầu. Ôn Minh Nghĩa nói:
- Quân xảo quyệt, mầy định lừa dối chúng tao phải không? Sự thật không có vật báu gì hết. Hồi mồ mả cha mầy đã lừa dối chúng tao một trận rồi. Bây giờ đến lượt mầy lại muốn giở cái trò ấy ra phải không?
Thanh Thanh cúi đầu làm thinh, thò tay vào trong vạt áo, cởi ngầm đôi bướm ngọc buộc lên giây đeo ở trước ngực ra. Đôi bướm ngọc này cũng là bảo vật trong mười cái hòm nọ, khi đem bán lấy tiền, nàng thấy nó xinh đẹp và trông như bướm thực, nàng mới giữ lại để đeo trong người. Lúc đứng dậy, nàng giả bộ đánh rơi đôi bướm ngọc, rồi nói:
- Tin hay không tùy các ông. Muốn giết thì các ông cứ việc ra tay đi.
Nghe tiếng kêu “cạch” một cái, bốn anh em họ đều nhìn xuống đất, thấy một đôi bướm ngọc rất đẹp rơi cạnh chân nàng. Thanh Thanh vội cúi xuống nhặt hai con bướm lên. Làm giặc mấy chục năm, anh em họ Ôn biết ngay đôi bướm ngọc ấy giá trị liên thành, đều đỏ ngầu mắt lên, trống ngực đập mạnh đồng thanh quát hỏi:
- Vật nầy mầy lấy ở đâu thế?
Thanh Thanh vẫn làm thinh như trước. Ôn Minh Sơn nói:
- Cháu chịu nói rõ chổ giấu vật báu cho các ông hay, các ông sẽ tha chết cho.
Thanh Thanh đáp:
- Hai con bướm nầy cháu lấy ở trong những hòm châu báu đấy. Theo tờ bản đồ của cha cháu để lại, cháu với Viên đại ca đã đi đào được mười hòm châu báu. Vì hai người không vác nổi cho nên chúng cháu chỉ lấy tạm vài món ra để tiêu xài tạm. Cháuthấy đôi bướm nầy hay hay, giữ lại đeo chơi. Chúng cháu đã hẹn nhau lần này sẽ đi lấy hết mười hòm châu báu ấy. Ngờ đâu, các ông...
Nói xong nàng lại khóc. Bốn ông cụ đứng ra một bên thì thầm bàn tán. Họ tin võ nghệ của họ cao cường hơn Thanh Thanh nhiều nên không sợ nàng bôn tẩu.
Ôn Minh Đạt nói:
- Theo nó thì những châu báu đó là chuyện có thật đấy.
Minh Nghĩa nói:
- Chúng ta buộc nó phải dẫn anh em mình đi đào.
Ba người kia đều gật đầu. Minh Sơn nói:
- Trước hết hãy lừa dối nó là chúng ta vui lòng tha cho nó khỏi chết. Chờ tới khi kiếm được số châu báu đó rồi, anh em mình sẽ trừng trị nó sau.
Ôn Minh Ngô nói:
- Phải đấy, khi đào những châu báu đó ra rồi, chúng ta chôn sống nó vào trong hố ấy, để khi thằng nhãi con họ Viên tới, sẽ đào thấy của quý ấy, có phải hay không?
Ba người kia đều cả cười, rồi cùng nói:
- ý kiến của chú Năm hay lắm!
Bàn định xong, bốn người nghĩ: “Lần này vừa lấy được của, lại rửa được mối căm hờn bấy lâu nay.” Bốn anh em đều hớn hở quay trở lại uy hiếp Thanh Thanh. Lúc đầu, nàng còn giả bộ không nghe, cứ khăng khăng không chịu đi, sau mãi mới bằng lòng vậy. Nàng nói:
- Nơi chôn những hòm châu báu ở trên đỉnh núi Hoa Sơn.
Nàng định dẫn anh em họ Ôn lên trên đỉnh núi Hoa Sơn, tìm kiếm được nơi chôn cất thi hài cho cha mình, và nhân lúc anh em họ đang đào bới sẽ chôn luôn hài cốt của mẹ nàng vào đấy, rồi rút kiếm ra tự tử. Lời nói của nàng rất hợp lý, nên bốn anh em họ Ôn mới bị mắt lừa.
Năm xưa, anh em họ Ôn dùng gian mưu bắt được Kim Sà Lang quân, bắt Hạ đại hiệp phải đưa đi tìm của. Hạ đại hiệp cũng đã dẫn anh em họ Ôn lên núi Hoa Sơn.
Kiếm mãi không thấy châu báu chôn ở đâu cả, mà Kim Sà Lang quân lại đột nhiên mất tích.
Nhưng trong thâm tâm của anh em họ Ôn đã chôn sâu ấn tượng “vật báu thể nào cũng chôn ở trên núi Hoa Sơn.” Năm xưa Trường Xuân Cửu cùng với vị hòa thượng đã lên đỉnh núi Hoa Sơn tìm kiếm cũng do thế mà nên.
Bốn anh em họ Ôn liền dẫn Thanh Thanh đi ngay tức thì, sợ Thừa Chí đuổi theo kịp, đi cả ban đêm, không dám nghỉ ngơi ở đâu cả.
Ngày hôm đó, năm người đi tới ranh giới tỉnh Sơn Tây. Đã mấy đêm ngày liền không nghỉ ngơi rồi, nên ai nấy đều mệt lả, đành phải vào một khách điếm nọ nghỉ chân. Minh Nghĩa háu đói nhứt và ăn cũng rất khỏe, cứ luôn miệng gọi đem cơm nước lên. Tiểu nhị vừa bưng thức ăn lên, Ôn Minh Nghĩa không gọi ai cả, sà vào ăn ngay. Ba người kia và Thanh Thanh vừa ngồi vào bàn bỗng nghe Minh Nghĩa kinh hãi la lớn, tay gắp một vật gì ở trong bát lên, rồi cả người cứng đờ như tượng đá vậy. Bốn người đềuthất kinh, đưa mắt nhìn con vật Minh Nghĩa vừa gắp lên mới hay là một con nhện đen thật lớn. Minh Đạt rờ tay người em, thấy đã giá lạnh, mũi cũng không có hơi thở rồi.
Ôn Minh Nghĩa vừa sợ hãi vừa tức giận, túm ngực tên tiểu nhị giơ cao tay vứt mạnh xuống đất chỉ nghe “đạch” một tiếng, tên nọ hai chân gãy gục và chết giất liền.
Ôn Minh Sơn chạy ra túm ngực người trưởng quầy, tay cầm đôi đũa gắp con nhện quát hỏi:
- Mi táo gan thật, dám mưu toan hại mạng? Cái nầy là cái gì?
Sợ hãi đến mất hồn vía, tên trưởng quầy van lơn, phân trần:
- Tiểu điếm đã mở hơn bảy mươi năm rồi, trong bếp lại thanh khiết vô cùng. Không... Không... hiểu... tại sao lại... có vật này...
Minh Sơn nắm má dưới tên nọ bóp mạnh một cái, cả cái quai hàm rời hẳn ra, không sao mím môi lại được. Minh Sơn liền nhét con nhện vào mồm trưởng quầy, chỉ trong giây phúc và người hắn ta thâm tím mà chết liền.
Lúc ấy trong tửu điếm đã đại loạn, Minh Đạt một tay vẫn nắm cổ tay Thanh
Thanh, còn tay kia bồng xác Minh Nghĩa. Minh Sơn và Minh Ngô thì đập phá hết và giết chóc, chỉ trong chốc lát đã có bảy tám mạng người bị chết oan, rồi còn châm lửa thiêu tửu điếm ấy ra tro. Thấy anh em họ hung dữ quá, những người đi đường chỉ đứng tận đằng xa mà nhìn chớ không ai dám tới can thiệp cả.
Ba anh em họ Ôn đem xác Minh Nghĩa ra cánh đồng chôn cất, rồi dắt Thanh Thanh vào một cổ miếu nghỉ ngơi. Ba anh em vừa bị thương vừa phẫn nộ, đều không hiểu tại sao con nhện lại độc đến thế?
Thấy thủ đoạn của Ngũ Độc Giáo độc ác quá đỗi, Thanh Thanh nghĩ thầm: “Đấy tất nhiên là hành vi của Ngũ Độc Giáo và chắc mụ Hà Hồng Dược đang theo dõi bọn chúng ta cũng nên?”
Ngày hôm sau, bốn người vào khách điếm ăn cơm, bắt người làm trong điếm phải nếm thử trước mới dám ăn. Đi được mấy ngày, một đêm, trong chuồng ngựa bỗng có tiếng người ồn ào, và tiếng điếm tiểu nhị kêu là có người ăn trộm ngựa. Minh Ngô nổi giận, đi xuống xem xét, sắp tới chuồng ngựa, bỗng nghe trong bóng tối có tiếng “sịt” một cái, thấy một tia nước phun tới Minh Ngô lùi về phía sau để tránh nhưng không kịp, nước đó đã phun đầy mặt. Mặc dầu hai mắt không mở được nhưng nhờ có võ nghệ
khá cao, Minh Ngô rút roi ra, nhắm phía tia nước vọt tới quất luôn một cái, đánh trúng kẻ ám hại gẫy gục xương sống.
Một tên khác quát lớn:
- Lão huynh còn muốn đánh nữa phải không?
Vừa nói tên nọ vừa bổ búa xuống. Minh Ngô quay nhuyễn tiên lại quấn luôn cả người lẫn búa của địch, giơ lên quất mạnh xuống một cái. Người nọ bị văng sang góc tường, không kịp kêu la, đã vỡ sọ chết liền.
Tưởng chỉ có vài tên trộm quèn thôi, Minh Đạt và Minh Sơn nghĩ rằng một mình Minh Ngô cũng dư sức đối phọ rồi nên cứ ở trên lầu nằm nghĩ. Sau nghe tiếng kêu la của Minh Ngô khác thường đều giựt mình chạy xuống xem, mới hay Minh Ngô hai tay dụi mắt kêu đau. Minh Đạt chạy lại bồng lấy em, còn Minh Sơn nhảy ra bên ngoài tra xét tung tích của địch, nhưng không thấy gì, liền quay trở vào cùng anh bồng MinhNgô lên lầu. Vừa tới cửa phòng, thấy Minh Ngô đã tắt thở rồi, cả hai ông anh đều gục xuống thi hài em mà khóc lóc. Mặt mày Minh Ngô bị thuốc độc ăn nát bét. Minh Đạt
càng nhìn càng xót thương giận dữ nói:
- Hai mươi năm trước, tên Kim Sà ác tặc bỗng tẩu thoát khỏi tay anh em chúng ta. Lúc ấy chân tay bị cắt đứt hết gân mạch và đã trở nên phế nhân rồi, thì còn chạy sao nổi? Nên anh đã nghĩ bọn Ngũ Độc Giáo cứu y...
Minh Sơn nói:
- Chính thế, có ngờ đâu bọn Ngũ Độc Giáo lại gây hấn ngầm với anh em ta. Lần nầy, chúng ta và bọn chúng đều được Tào Hóa Thuần mời vào trong Kinh mưu đồ đại sự, tuy không thành công nhưng chúng ta với chúng không có thù oán gì với nhau, tại sao chúng lại theo dõi và giở thủ đoạn độc ác đốc với chúng ta như thế nầy?
Ngẫm nghĩ giây lát, Minh Đạt bỗn nhẩy lên la lớn:
- Tên Kim Sà ác tặc dùng các thứ thuốc độc lợi hại vô cùng.
- Chẳng lẽ nó với Ngũ Độc Giáo có liên hệ gì chăng?
Minh Sơn cũng sực tỉnh ngộ liền nói:
- Đúng thế đấy.
Hai người nghĩ lại những pha trò thù độc ác của Kim Sà Lang quân ở Từ Châu, Thạch Lương đều sợ hãi vô cùng. Bàn định nửa ngày, hai anh em chôn Minh Ngô xong, quyết tâm lên núi Hoa Sơn trước, chờ đào bảo vật xong, mới đi kiếm bọn Ngũ Độc Giáo để trả thù. Sợ bọn Hà Hồng Dược hãm hại ngầm, hai anh em họ Ôn không những ăn uống rất cẩn thận mà đêm tới cũng không dám vào khách sạn ngủ trọ.
Hôm đó hai anh em dắt Thanh Thanh vào một tòa cổ miếu đổ nát để nghỉ ngơi. Muốn được yên trí ngủ một giấc ngon lành, Minh Đạt khuân luôn hai tảng cối đá lớn chặn cửa trước và cửa sau. Ngủ tới giữa đêm, bỗng nghe đằng sau tượng phật có tiếng động “chít chít” đưa ra. Thoạt tiên, hai anh em tưởng lầm là lũ chuột ra kiếm ăn nên không thèm để ý tới, lim dim sắp sửa ngủ lại. Minh Sơn bỗng ngửi nghe có mùi thơm đưa tới, trong người khoan khoái vô cùng, cảm thấy toàn thân nhẹ bỗng và đi trên mây.
Nhưng y bỗng rùng mình ngồi nhổm dậy, sực tỉnh ngộ ngay, quát lớn một tiếng, nhảy phắt lên. Tuy việc xảy ra rất đột ngột nhưng dù sao Minh Đạt cũng là tay giang hồ lão luyện, y liền kéo Thanh Thanh rồi cùng nhảy lên trên bàn thờ.
Dưới ánh trăng lờ mờ, hai người trông thấy Minh Sơn đang múa quài trượng đánh tứ phía bốn bề. Bỗng nghie một tiếng động rất lớn, thì ra tượng phật đã bị quài trượng của Minh Sơn đánh sạt một góc.
Phía sau tượng có hai thằng bé áo vàng nhảy ra. Một tên múa đao nhảy vào tấn công Minh Sơn, còn tên kia cầm ống đồng thổi khói độc phun ra. Minh Đạt lấy hai cái tụ tiễn (tên trong tay áo) ném luôn ra. Hai tên nhỏ bị ám khí xuyên qua ngực chết liền, Minh Sơn vẫn múa quài trượng đánh đập lung tung.
Minh Đạt vội gọi:
- Chú Ba hết kẻ địch rồi.Minh Sơn hình như không nghe, vẫn cứ múa đánh như cũ, thì ra đầu óc y đã bị hơi độc làm mê ám. Minh Đạt muốn xông vào hãm quài trượng của người anh lại nhưng Minh Sơn càng múa càng nhanh, không có kẽ hở nào để nhảy vào.
Đang vô kế khả thi, đột nhiên Minh Đạt thấy Minh Sơn quay đầu trượng lại đâm mạnh vào ngực một cái, miệng hộc máu tươi ra ngã nằm thẳng cẳng, chỉ trong vài ngày, ba người ông ngoại đã bị bọn Ngũ Độc Giáo giết chết.
Tuy xưa nay không ưa gì ông ấy thật nhưng thấy tình cảnh bi đát như vậy, nàng cũng phải động lòng thương xót. Minh Đạt lẳng lặng bồng xát Minh Sơn ra ngoài chôn cất.
Tánh nết rất cứng cỏi và ương ngạnh, Minh Đạt không ứa một giọt nước mắt, đứng trước mộ Minh Sơn vái mấy cái rồi nói với Thanh Thanh rằng:
- Ta sẽ giết những kẻ thù rồi đưa người trở lại nơi nầy hành quyết cúng tế ba anh em.
Thanh Thanh rơi lệ chẳng đáp nửa lời, vì nàng hiểu rõ tính tình của Minh Đạt rất là ác độc. Những người ông ngoại của nàng từ trước đến này vẫn không bao giờ từ bỏ tính hiểm độc và tham lam.
Thanh Thanh tự hiểu Minh Đạt khống chế nàng để làm con tin chờ sau khi chiếm bảo vật rồi sẽ mổ tim nàng để tế mộ.
Tế mộ xong, Minh Đạt đưa Thanh Thanh vào khách điếm, trói gô nàng nằm lên giường.
Trời tối dần!
Thanh Thanh bị trói nằm trên giường nhớ tới Thừa Chí. Nàng giận chàng vì chàng có quá nhiều người con gái theo chàng.
Thanh Thanh ngộ nhận Uyển Nhi và A Chín đã có tình với Thừa Chí nên nổi cơn ghen tức bỏ đi.
Và vì vậy, nàng mới gặp khốn khổ thế này. Thanh Thanh rơi nước mắt, sự thật trong thâm tâm của nàng chẳng còn muốn sống làm gì trên thế gian nữa vì nàng nghĩ mình đã mất người yêu.
Trời trở về khuya, trong khách điếm đã im vắng tiếng người, chỉ còn Minh Đạt nằm đọc quyển sách gì đó.
Chợt nghe có tiếng động thật khẽ ở phía ngoài cửa sổ. Tiếng động như chiếc lá rơi.
Là một kẻ giang hồ lão luyện, Minh Đạt hiểu ngay có kẻ đang tới đứng bên cửa sổ rình rập.
Ông ta nhỏm người lên nhẹ như sợi tơ hồng, bước lại gần bên cửa sổ lắng tai nghe.
Tiếng động phía ngoài mạnh hơn, hình như người kia đang sắp sửa bỏ chạy vì phát giác bên trong có người.
Soạt!Lẹ như chớp, Minh Đạt mở toang cánh cửa sổ phóng ra ngoài vừa lúc ba mũi phi tiêu bắn vào mặt lão.
Minh Đạt đưa tay bắt lấy ba mũi phi tiêu đưa mắt nhìn thì nhận ra có một chiếc bóng chạy đằng xa.
Không bỏ lỡ cơ hội, Minh Đạt phóng mình đuổi theo chiếc bóng kia thật gấp. Lão nhất định bắt xem tên kia là ai.
Phía trước chiếc bóng kia cứ chạy, đằng sau Minh Đạt rượt theo thật gấp.
Ra tới ngoại ô chiếc bóng kia chợt biến mất chẳng hiểu đi đằng nào.
Minh Đạt ngưng bước đưa mắt nhìn quanh khắp tìm chiếc bóng kia xem đang trốn ở nơi nào.
Bỗng lão kêu lên:
- Chết! Ta đã trúng kế “Điệu hổ ly sơn” của mụ Hà Hồng Dược rồi!
Minh Đạt khẩn cấp chạy trở về khách điếm, vừa tới đã thấy cánh cửa phòng mở toang.
Lão đưa mắt nhìn vào trong thì không còn trông thấy Thanh Thanh nữa. Lão phóng người vào nhận ra còn mấy sợi dây trói cô gái bị cắt đứt bởi một loại kiếm rất sắc.
Đương nhiên kẻ kia đã bắt cóc Thanh Thanh đi từ lúc Minh Đạt rượt theo chiếc bóng kia...
o0o
Thật thế, kẻ bắt cóc Thanh Thanh chẳng ai khác hơn là Hà Hồng Dược.
Mấy ngày qua, ả nầy đã theo sát bên lưng anh em Minh Đạt và ả đã cho đánh độc chết ba người, giờ ả dùng quỷ kế bắt Thanh Thanh.
Hà Hồng Dược bắt cóc nàng không phải vì bảo vật như Minh Đạt mà chỉ vì mối tình hận năm xưa.
Hà Hồng Dược nhất định bắt buộc nàng phải đến tới chỗ trú ngụ của Kim Sà Lang quân để tìm người yêu cũ và sau đó sẽ giết nàng thay thế cho mẫu thân nàng.
Cái ghen của bà ta quả thật là kinh khủng chưa từng trông thấy trên mặt giang hồ. Thanh Thanh vẫn hiểu như thế, nhưng cũng chỉ vì ghen tức Uyển Nhi và A Chín mà nàng bỏ đi và nàng không cần đến cái mạng sống của nàng nữa. ý định của nàng cũng tự quyết trước mộ phần của song thân sau khi mai táng.
Trưa nay, Hà Hồng Dược dẫn Thanh Thanh đi trên một con đường vắng vẻ. Thanh Thanh nhìn phía trước có hai người đang đi sát bên nhau.
Một ông đạo sĩ già và một người lái buôn đứng tuổi vừa đi vừa trò chuyện. Thanh Thanh nhận ra hai người đó là Mộc Tang đạo nhân và đại sư huynh của Thừa Chí, Hoàng Chân. Nàng biết rõ hai người ấy võ nghệ giỏi hơn mụ ăn xin nầy nhiều nhưnghễ cứ hơi cử động một tí là bị năm ngón tay chất độc của mụ nọ đâm vào cổ họng liền.
Lại nghe tiếng Hoàng Chân cười nói:
- Trong vài ngày nữa, sư phụ cháu thế nào cũng hồi sơn, và tiểu sư đệ một hay hai ngày cũng sẽ tới, lúc ấy đạo trưởng khỏi lo không có đối thủ đánh cờ.
Mộc Tang hà hà cười nói:
- Nếu không vì ham đánh mấy ván cờ thì lão đạo sĩ này lên núi dự buổi họp của phái Hoa Sơn các anh làm quái gì?
Vừa cười vừa nói, hai người càng đi càng xa.
Di mãi rồi hai người cũng lên tới đỉnh núi hoa sơn. Biết võ nghệ của đệ tử phái Hoa Sơn cao siêu khôn lường lại thêm họ hội họp trên núi, Hà Hồng Dược phải cúi đầu xuống, không dám sơ ý, rồi từ từ bò lên trên mỏm núi, lấy giây thừng ra cột vào cành cây cổ thụ, còn một mẩu giây cột vào thân mình với Thanh Thanh, cho thòng lòng xuống dưới vách núi.
Không tới lưng chừng, Thanh Thanh bỗng trông thấy một cái động nhỏ, liền nói:
- ở đây này.
Trống ngực đập thật mạnh, vì mấy chục năm nay, Hà Hồng Dược ngày đêm vẫn hằng mong nhớ con người phụ bạc, nay lại gặp gỡ nơi đây, có lẽ mình sẽ dầy vò y một hồi, rồi đánh chết cho hả dạ nhưng cũng có lẽ mình không nhẫn tâm, và sẽ tha thứ cho chàng. Nghĩ tới sự sắp gặp mặt đến nơi, mụ ta cảm thấy chân tay run bây bẩy, gan bàn tay toát mồ hôi lạnh. Mụ dùng tay phải bới những gạch đã dựng ở xung quanh cửa động cho rộng để chui vào.
Cửa động này, Kim Sà Lang quân xây rất chật hẹp, sau nhờ có Thừa Chí dùng Kim Sà Kiếm phá rộng nên bây giờ hai người mới chui được vào không khó như trước nữa.
Đề phòng Kim Sà Lang quân tập kích, mụ ăn xin bắt Thanh Thanh phải bò vào trước, còn mụ ta theo sau. Vừa bò vào phía bên trong động, Thanh Thanh vừa khóc lóc rất thảm thiết. Tới phía trong, thấy tối quá, Hà Hồng Dược phải đánh đá lửa, đốt dây thừng để soi sáng, rồi đưa cho Thanh Thanh cầm để chiếu lối đi. Thanh Thanh nghĩ:
“Lấy dây thừng thay đuốc thế này nhỡ cháy hết đoạn dây nầy thì lấy gì mà leo lên trở về? Đằng nào ta cũng đã định chết ở đây để được gần gũi cha mẹ rồi nhưng chẳng lẽ mụ ta cũng không muốn trở về nữa chăng.” Sự thật thì Hà Hồng Dược cũng đã quyết được chết ở trên nầy rồi.
Càng đi vào sâu càng cảm thấy động nầy hình như không có người ở, mụ nọ trong
lòng càng sinh nghi. Đột nhiên mụ ta nắm lấy cổ Thanh Thanh quát hỏi:
- Ngươi vừa đánh lừa ta, người sẽ chết khổ, chết sở!
Vào thêm mấy bước, dưới ánh sáng dây thừng hai người trông thấy phía trước mặt có một thạch thất rất rộng. Hà Hồng Dược vội cầm dây thừng ở tay Thanh Thanh lên soi, thấy bốn vách có khắc những đồ hình luyện võ, và còn thêm một hàng chữ như sau: “Trọng báu bí thuật, tặng kẻ hữu duyên, vào trong cửa này, gặp họa chớ oán.”
Tuy ở với nhau không lâu lắm nhưng bút tích của Kim Sà Lang quân thế nào, Hà Hồng Dược có thể nhận ra ngay. Thấy chữ viết trên vách, mụ ta nhận ngay ra bút tích của người yêu, nhưng mụ ta không thấy hình bóng Kim Sà Lang quân đâu cả. Trong lòng đau đớn như bị dao cắt, mụ lớn tiếng kêu gọi:
- Tuyết Nghi, anh ra đây đi!
Lát lâu không thấy trả lời, mụ định thần giây phút, quát hỏi Thanh Thanh rằng:
- Y đi đâu rồi?
Thanh Thanh vừa khóc vừa chỉ xuống dưới đất, trả lời:
- Cha tôi ở dưới này!
Hai mắt tối sầm, Hà Hồng Dược vội nắm tay Thanh Thanh, và suýt nữa đã bị chết giấc ngã lăn ra đó. Với một giọng nói khàn khàn và run run, mụ ta hỏi:
- Ngươi nói gì vậy?
Thanh Thanh đáp:
- Tôi nói là thi hài cha tôi được mai táng ở dưới đất này đấy!
Hà Hồng Dược ngẩn người ra nói:
- ồ... thế ra là... y... y đã chết rồi!
Lúc nầy, mụ ta không thể nào đứng vững được nữa, ngã ngồi phịch xuống tảng đá mà Kim Sà Lang quân vẫn thường dùng để tọa luyện nội công, hai tay mụ ôm lấy đầu, trong lòng đau đớn hết sức. Nỗi căm hờn từ mấy chục năm nay tiêu tan ngay trong chốc lát và những cảnh âu yếm xưa kia nay hiện cả ra trước mắt. Mụ khẽ nói:
- Cô mau ra ngoài kia đi! Tôi tha thứ cho cô đấy!
Lúc đó trông mụ ta rất thương hại. Thanh Thanh bỗng cảm thấy trong lòng nẩy nở mối tình tương liên và thương xót. Nàng nghĩ tới cha mình phụ bạc mụ ta và Thừa Chí cũng phụ bạc mình. Vì mối giây đồng bịnh ấy, nàng đột nhiên chạy lại ôm lấy mụ ăn xin mà khóc lóc rất thảm thiết.
Hà Hồng Dược nói:
- Cô hãy mau may ra khỏi nơi này đi, kẻo để giây thừng nầy cháy thêm một khúc nữa thì cô không còn hy vọng lên được tới đỉnh núi nầy nữa đâu!
Thanh Thanh hỏi:
- Còn bà thì sao?
Hà Hồng Dược đáp:
- Tôi ở lại đây với cha cô.
Hà Hồng Dược ngồi thừ mặt ra, chẳng nói chẳng rằng và cũng không thèm để ý gì tới Thanh Thanh nữa rồi bỗng nhiên như điên cuồng, ra tay cào đất lên.
Thanh Thanh giật mình hỏi:
- Bà làm gì thế?
Hà Hồng Dược vẻ mắt thê thảm đáp:
- Tôi mong nhớ anh ta từ hai mươi năm nay rồi, tuy bây giờ không còn được gặp mặt anh ta nữa nhưng được trông thấy xương cốt anh ta cũng hả hê lắm rồi. Thấy thần sắc của mụ ta thay đổi khác thường, Thanh Thanh vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Năm chiếc móc tay của Hà Hồng Dược rất lợi hại, khác gì cái bừa sắt, chỉ bớitrong chốc lát đã trông thấy một đống xương tàn rồi. Đó là hài cốt của Kim Sà Lang quân mà năm xưa đã do tay Thừa Chí chôn cất. Nhờ nơi động đó ở trên đỉnh núi cao ráo vô cùng nên xương cốt vẫn còn nguyên vẹn như xưa. Thanh Thanh gục xuống cạnh
đống di cốt của cha mà khóc lóc thảm thiết. Khi bới thấy cái sọ, Hà Hồng Dược vội ôm chặt lấy, vừa khóc vừa hôn, lớn tiếng kêu gọi:
- Hạ lang, Hạ lang, em tới thăm anh đây!
Khóc chán, mụ ta lại còn ca hát những bài ca rất lạ. Thanh Thanh nghe nhưng không hiểu nổi lời ca ấy.
Trong những phút điên rồ, Hà Hồng Dược cứ hôn lấy hôn để cái sọ ấy. Đột nhiên mụ thất thanh la lên một tiếng. Thì ra mặt mụ đã bị vật gì rất nhọn đâm phải một cái.
Mụ vội vàng cầm cái sọ ấy tởi dưới ánh lửa để xem xét, mới hay bộ răng trong sọ có cắn chặt một cái kim thoa nho nhỏ. Vì cái kim thoa ấy nhỏ quá, nên không ai trông thấy. Hà Hồng Dược thò tay moi cái kim thoa ấy ra, ngờ đâu bộ răng cắn chặt quá không sao moi ra được. Chắc Kim Sà Lang quân lúc chết đã cắn chặt cái kim thoa nầy, cho tới khi xác thịt đã rữa hết mà vẫn còn cắn chặt trong mồm. Hà Hồng Dược phải thọc hai ngón tay vào trong mồm cái sọ, dùng sức giật mạnh một cái, cả bộ răng rơi ra, và kim thoa cũng rơi theo xuống đất. Mụ nhặt lên lau chùi hết bụi bẩn, bỗng sắc mặt
thay đổi hẳn, giận dữ quát hỏi:
- Có phải tên mẹ cô là Ôn Nghi không?
Thanh Thanh gật đầu. Hà Hồng Dược vừa đau lòng, vừa uất hận, nghiến răng nói:
- Giỏi lắm, giỏi lắm, anh ta sắp chết mà còn vẫn nhớ tới con tiện tỳ ấy, cắn chặt cái kim thoa của nó trong mồm!
Trông thấy trên chiếc kim thoa có khắc hai chữ “Ôn Nghi”, mụ càng tức giận thêm, đôi mắt như nổ lửa, đột nhiên bỏ kim thoa vào mồm nhai ngấu nghiến đến nỗi bị kim thoa đâm, máu tươi chảy đầy mồm.
Thấy mụ ta như con hổ điên, thần trí bấn loạn, Thanh Thanh biết mình cùng với mụ sắp chết đến nơi, liền mở túi ra, lấy chiếc hũ tro (hài cốt của mẹ) ra, đổ những tro đó vào trong hố. Hà Hồng Dược ngẩn người ra giây lát rồi quát hỏi:
- Cô làm gì thế?
Dốc hết hũ tro xong, Thanh Thanh vun đất lấp hố miệng lẩm bẩm cầu khẩn:
- Cha mẹ có linh thiêng, xin hiện về chứng giám cho con đã hoàn tất nguyện vọng “hợp táng một huyệt” của cha mẹ rồi đó.
Hà Hồng Dược giằng lấy cái hũ, xem xét một lúc, đã hiểu biết là cái gì rồi, liền quát hỏi:
- Hũ nầy đựng tro hài cốt của mẹ cô phải không?
Thanh Thanh từ từ gật đầu. Hà Hồng Dược vung tay đánh luôn một chưởng. Thanh Thanh lùi lại nhưng vẫn không tránh khỏi, bị cái chưởng ấy đánh trúng vai, loạng choạng suýt ngã. Hà Hồng Dược như điên như cuồng, kêu gào thật lớn:
- Cấm hai người được hợp táng một nơi! Ta cấm...Vừa la, mụ vừa bới lung tung, nhưng tro xương đã trộn lẫn với đất rồi, làm sao phân tách ra được? Lửa ghen bốc cháy, Hà Hồng Dược bới hết xương cốt của Kim Sà
Lang quân lên, la lớn:
- Ta phải thiêu hài cốt của anh thành tro, tung xuống núi Hoa Sơn, cho nó bay bổng đi khắp mọi nơi, không bao giờ có thể tụ hợp với con tiện tỳ ấy được!
Thanh Thanh sợ quá, chạy lại quyết thí mạng, mong cướp lấy lại chỗ xương cốt đó. Nhưng võ nghệ của nàng kém mụ ta xa, mới đấu được vài hiệp đã bị mụ ấy giáng cho một chưởng ngã lăn ra đất. Hà Hồng Dược cởi áo ngoài ra bọc lấy chỗ hài cốt ấy để đốt. Mụ dùng khuỷu tay trái đè lên mình Thanh Thanh không cho nàng nhổm dậy, tay phải quạt lửa cho bốc cháy lớn thêm. Chỉ trong giây lát, hài cốt đã bắt lửa, trong động khói tỏa um tùm, Hà Hồng Dược đang ha hả cười, đột nhiên ngửi mùi rất lạ xông
lên mũi liên ngạc nhiên rồi la lớn:
- Hạ lang, anh ác độc lắm!
Thanh Thanh cũng ngửi mũi thơm xông lên mũi, đang ngạc nhiên không hiểu mùi đó ở đâu ra thì bỗng thấy đầu óc choáng váng. Rồi nàng thấy Hà Hồng Dược quỳ xuống trước đống xương đang cháy, dùng mũi hít mạnh những làn khói thơm đang bốc lên, mồm kêu la rùm beng rằng:
- Hay lắm, hay lắm! Sự thật em cũng muốn chết bên cạnh anh mà!
Mụ bỗng ngẩng đầu lên ngắm nhìn Thanh Thanh, vẻ mặt trông rất ghê sợ. Thanh Thanh thét lớn một tiếng, rảo cẳng chạy ra bên ngoài, vừa ra khỏi nơi đó vài trượng, đã mê man và chân tay bủn rủn, ngã lăn ra đất.
Hãy nói, hôm đó Thừa Chí ở tửu điếm, trông thấy dấu hiệu của Hà Hồng Dược đóng trên tường, biết ngay là hiệu lệnh kêu gọi giáo chúng của mụ để đuổi theo kẻ địch. Đồng thời Thanh Thanh đã lọt vào tay anh em họ Ôn. Hai nhóm đó, bất cứ bên nào đắc thắng, Thanh Thanh cũng bị tai họa. Thừa Chí càng nghĩ tới, càng lo sợ cho
nàng, liền cấp tốc phi ngựa đuổi theo.
Suốt dọc đường dò hỏi, chàng mới hay trong bọn anh em họ Ôn đã có ba người bị trúng độc chết. Chàng càng lo lắng thêm, ngày đêm ăn nằm không yên. May thay, căn cứ vào sự theo dõi tung tích của chúng, chàng thấy cả hai nhóm người đều đi về phía Hoa Sơn. Nhờ vậy chàng đỡ phải lo ngại sẽ lỡ kỳ hẹn hội họp.
Khi tới núi Hoa Sơn, Hồng Thắng Hải thấy bãi đất ở cạnh lương đinh có vẻ khác thường, liền dùng khí giới đào thử xem, ngờ đâu lại thấy thi hài của Ôn Minh Đạt chôn tại đó.
Thừa Chí nói:
- Hiện giờ chú Thanh đã lọt vào tay bọn Ngũ Độc Giáo rồi, chúng ta phải mau đuổi theo lên núi đi.
An Đại nương an ủi chàng rằng:
- Lúc nầy là thời kỳ hội họp của phái Hoa Sơn chúng ta, dù Mộc lão sư phụ chưa về, chỉ cần một trong hai sư huynh có mặt trên đó cũng sư sức cứu cô ấy thoát nạn.
Thừa Chí nói:
- Bọn Ngũ Độc Giáo dám táo gan xông lên trên núi Hoa Sơn chắc thế nào chúng cũng có sửa soạn trước nên mới dám tới như vậy. Chúng ta chớ có để cho các sư điệt trong phái ta bị chúng đả thương.
Thôi Hy Mẫn nói:
- Cả Tổ sư gia cũng đã đến rồi, thì sợ quái gì bọn chúng, chúng ta mau mau lên núi đi!
Mọi người liền cỡi ngựa vào một nhà nông, rồi vội vàng lên núi. Lúc sắp lên tới đỉnh núi, mọi người bỗng trông thấy mấy chiếc ám khí nhỏ bay vượt lên trên không phát ra những tiếng kêu “soẹt soẹt”, Thừa Chí mừng rỡ nói:
- Mộc Tang đạo trưởng ở trên kia, ông ta ném ba quân cờ ra hiệu gọi chúng ta đấy.
Nói đoạn, chàng cũng móc túi lấy ba quân cờ ra, ném thẳng lên trời. Một lát sau, ba quân cờ ấy bay lẫn vào trong đám mây, vài phút sao mới thấy rơi xuống.
Thôi Hy Mẫn khen rằng:
- Tiểu sư thúc, hồi này công lực của sư thúc mạnh hơn trước nhiều.
Đang giơ tay ra định thâu hồi mấy quân cờ của mình, Thừa Chí bỗng thấy trên lưng chừng núi có mấy chiếc ám khí bay vọt ra, chỉ nghe “leng keng” mấy tiếng, ba quân cờ của chàng đã bị những ám khí nọ đụng phải bắn ra phía sau, rơi cả xuống đất.
Chàng đang ngạc nhiên thì bỗng thấy Thiết Toán Bàn Hoàng Chân cả cười đi tới. Thôi Hy Mẫn la lớn:
- Sư phụ, không ngờ sư phụ tới trước.
Vừa rồi, chàng vừa chạy tới quỳ xuống vái ba cái. Chàng là người trực tính, khi nào trong lòng hớn hở là lúc vái lạy đầu gõ xuống mặt đất rất mạnh, nên lúc đứng dậy, trán chàng vì va mạnh và mặt đá đã có hai ba chỗ xưng húp. Vừa thương vừa bực tức, Tiểu Tuệ khẽ trách nhẹ chàng. Chàng chỉ nhe răng cười khì, trông rất ngô nghê, ngốc nghếch. Thừa Chí cũng vội tiếng lên chào. Vì nhớ Thanh Thanh, chàng vội hỏi Hoàng Chân có trông thấy tung tích của Thanh Thanh ở đâu không? Hoàng Chân chưa nói gì
thì bỗng hai con đười ươi đột nhiên kêu la loạn xạ, rồi cứ cắm đầu chạy thẳng lên trên sườn núi.
Thôi Hy Mẫn nói:
- Nguy to, hai con đười ươi chạy mất rồi!
Nói đoạn, chàng cất cẳng đuổi theo liền, Thừa Chí nói:
- Nơi đây là cố hương của chúng, về tới chốn cũ, tất nhiên chúng phải vui mừng chạy nhảy chớ? Thôi, cứ để mặc chúng!
Nhưng đôi súc vật này nuôi đã khá lâu rồi, sao lúc đi chúng không có vẻ gì luyến tiếc cả? Ai nấy đều ngạc nhiên về điểm ấy.
Hai con đười ươi càng lên càng cao. Thừa Chí đang nhìn theo bỗng trông thấy trên vách núi có làn khói đen phun ra, mà nơi đó lại là thạch động chôn hài cốt Kim Sà Lang quân, và cũng là nơi mình đã tìm được vật báu. Chàng đang ngạc nhiên chưa hiểu tại sao thì thấy hai conđười ươi ở phía trên con cứ chỉ trỏ ra hiệu, hình như gọi mình lên trên ấy vậy. Tiểu Tuệ cũng trông thấy liền nói:
- Thừa Chí đại ca, hình như hai con đười ươi không phải bôn tẩu đâu. Chúng đang gọi anh đấy.
Thừa Chí trả lời:
- Đúng thế.
Chàng giơ tay ra hiệu, chàng Câm hiểu ý gật đầu liền chạy về thạch thất lấy đuốc và thừng ra, rồi cùng mọi người leo lên triền núi.
Thừa Chí nói:
- Đường lối đi lên trên động chỉ có tôi thuộc hơn hết, vậy để mình tôi đi thôi.
Nói đoạn, chàng xé vạt áo chia ra làm hai mảnh nhét vào lỗ mũi, đốt đuốc đâu đấy, rồi thả giây thừng leo xuống. Hai con đười ươi đứng trên sườn núi và nhảy nhót kêu là loạn xạ, gãi đầu gãi cổ hình như nóng lòng sốt ruột vô cùng.
Thừa Chí chui vào cửa động, thấy khói mù xông ra, vội nhịn hơi nín thở, từ từ đi vào bên trong, quả nhiên trông thấy một người nằm ngang dưới đất. Chàng tới gần xem mới hay là Thanh Thanh. Vừa mừng vừa sợ, chàng để tay vào mũi nàng, không thấy thở, rờ vào ngực nghe trái tim còn đập rất yếu. Lúc ấy trong động vẫn còn ánh sáng lửa, chàng trông thấy một người nữa nằm ở đó, định vào cứu đột nhiên thấy đầu óc choáng váng, chân tay bủn rủn, biết ngay khói mù có hơi độc rất mạnh, vội vã bồng Thanh Thanh ra ngoài cửa động, giật mạnh giây thừng lên một cái. Chàng Câm và
Hồng Thắng Hải ở trên đỉnh núi vội kéo dây thừng lên. Lúc đang kéo lên Thừa Chí thấy xung quanh không có hơi độc, mới dám hít mạnh vài hơi, bỗng nghe trong bụng khó chịu vô cùng, không sao chịu được, nôn ọc ra một đống thật lớn. Mọi người đều lo ngại, chỉ sợ chàng bị nội thương cáng đáng không nổi, tuột tay một cái là cả hai người đều bị rơi xuống dưới thung lũng. Hồng Thắng Hải và chàng Câm vừa kéo vừa lo sợ.
Hai chú cháu Thôi Thu Sơn vội vàng chạy lại phụ giúp.
Khi Thừa Chí và Thanh Thanh sắp lên tới đỉnh núi thì trong động bỗng có tiếng nổ thật lớn, khói bốc lên mù mịt, đá vụn bắn tứ tung. Mọi người đều giật mình kinh hãi. Hồng Thắng Hải suýt buột tay, may chàng Câm vì tai điếc nên không nghe gì, vẫn bình tĩnh kéo dây lên, lại thêm sức khỏe hơn người, mới cứu được Thừa Chí và Thanh Thanh khỏi nguy.
Lên tới đỉnh núi, hai chân bủn rủn, Thừa Chí đứng không vững ngã quỵ xuống.
Mộc Tang đạo nhân vội xoa bóp cho chàng. Lúc ấy trong động vẫn còn tiếng nổ phát ra liên tiếp, ai nấy không hiểu tại sao trong lại có lắm thuốc nổ như vậy? Và cũng không hiểu ai ở trong ấy quấy nhiễu như thế, đều ngơ ngác nhìn nhau. Một lát sau, Thừa Chí từ từ tỉnh dậy, vẫn còn thấy mỏi mệt vô cùng liền nói:
- Hiểm thật!
Một lúc sau, Thanh Thanh cũng tỉnh lại, trông thấy Thừa Chí vội òa lên khóc. Thấy hai người đã thoát khỏi nguy hiểm, mọi người mới được yên trí. Tất cả ở trên đỉnh núi nghỉ ngơi một hồi lâu, không nghe tiếng nổ nữa. Thôi Hy Mẫn xin leo xuống điều tra xem. Thôi Thu Sơn buộc giây vào lưng chàng, để nhỡ gặp nguy là kéo lên ngay. Khi thòng xuống tới động, Thôi Hy Mẫn kiếm mãi không thấy cửa động đâu cả.Vì những đá vụn ở trong động bắn ra đã lấp kín mất cửa động rồi. Chàng đành phải ra hiệu cho bên trên kéo lên. Khi tỉnh táo lại như thường, Thanh Thanh mới từ từ kể hết
chuyện đã xảy ra ở trong động cho mọi người nghe. Mộc Tang đạo nhân than thở nói:
- Năm xưa bần đạo thấy Kim Sà Lang quân đặt nhiều tên nhỏ trong hộp sắt để bẫy người, đã cho là khôn khéo lắm rồi, ngờ đâu lại còn hơn thế nữa.
Hoàng Chân nói:
- Có ngời đâu, ông ta lại còn tự lấy thuốc độc vào xương cốt nữa.
Tròn xoe đôi mắt, Thôi Hy Mẫn ngạc nhiên hỏi:
- Sư phụ, ông ta làm thế nào mà tự cấy thuốc độc vào trong xương cốt được? Người ta khi chết rồi đã trở nên bộ xương khô, làm sao còn bỏ thuốc độc vào trong xương cuả mình như thế được?
Hoàng Chân vừa cười vừa mắng:
- Chờ khi nào mầy quy thiên rồi, mầy thử bỏ thuốc độc vào trong cốt ngu ngốc của mầy xem.
Mọi người đều cười ồ. Thôi Hy Mẫn phùng mồm bĩu môi nói:
- Người ta không biết mới hỏi chớ!
Thừa Chí nói:
- Hạ lão sư Kim Sà Lang quân là người đa mưu túc kế, giỏi tính toán. Ông ta tự biết bình sinh kết nhiều thù oán, sau khi chết tất có người tới hủy hoại di hài của ông ta để cho đỡ tức. Ông ta đã thiện sử dụng chất độc, nên lúc hấp hối ông ta đã uống một thứ thuốc độc thật mạnh để ngấm vào xương cốt.
Lúc nầy mới vỡ lẽ, Thôi Hy Mẫn vỗ đùi đến “đét” một cái, rồi la lớn:
- Tôi biết rồi, nếu có ai tới đốt xương cốt của ông ta, khói độc bốc lên có thể giết chết được kẻ thù... Nhưng tại sao trong động có nhiều tiếng nổ lớn như thế? Chẳng lẽ ông ta còn cho cả thuốc nổ vào trong xương tủy chăng?
Tiểu Tuệ nói:
- Cho làm sao thuốc nổ vào trong xương tủy được? Tôi chắc ông ta chôn thuốc nổ ở dưới đất.
Thừa Chí nét mặt buồn rầu thở dài đáp:
- Bà mẹ của chú Thanh có trối lại muốn được chôn cùng với ông ta. Hiện giờ hài cốt của hai người tuy đã hóa ra tro nhưng cũng đã được hợp táng một nơi một chốn rồi.
Thôi Hy Mẫn lè lưỡi ra, tỏ vẻ vô cùng kinh hãi rồi nói tiếp:
- Có thể đối phó với kẻ thù của mình được. Mụ ác phu Ngũ Độc Giáo bị chết như thế cũng đáng kiếp lắm.
Thừa Chí nói:
- Tuy oán độc quá nỗi, nhưng bà ta si tình như vậy, kể cũng tội nghiệp thật!
Luôn tay vuốt ve hai con đười ươi, Tiểu Tuệ nói:- Nếu không nhờ hai con thú nầy phát giác thì chỉ chậm một tí nữa không những chị Thanh Thanh không ra được, mà cả anh Thừa Chí cũng bị chôn vùi trong động vì thuốc nổ mất.
Mọi người đều nhận thấy lời nói của Tiểu Tuệ là đúng. Như vậy đủ thấy súc sinh tinh khôn có khi còn hơn loài người. Mọi người vừa trò chuyện vừa đi lên núi .
An Đại nương và Tiểu Tuệ đỡ Thanh Thanh vào trong thạch thất, rửa mặt và thay áo quần cho nàng xong, đỡ nàng lên giường nằm nghỉ.
Trúng độc khá nặng, Thanh Thanh đã uống thuốc giải độc linh đơn của Mộc Tang rồi, nhưng thuốc độc của Kim Sà Lang quân chế theo đơn bí truyền của Ngũ Độc Giáo nên thuốc giải độc thường không sao chữa khỏi được.
Sáng ngày hôm sau, tuy ngủ được một đêm, mặt nàng đầy những hắc khí, bịnh càng trầm trọng thêm, có lúc mê mẩn, có khi khóc lóc kêu la, nói mê nói sảng, cứ trách Thừa Chí phụ bạc. Thấy Thừa Chí ngượng nghịu, mọi người vừa buồn cười, vừa lo ngại, thấy chàng không vui, đều lẳng lặng rút ra bên ngoài.
Thừa Chí an ủi Thanh Thanh, thề không phụ bạc, không yêu người khác. Mặt Thanh Thanh lúc này hồng hào, khi thì xám đen, mồm cứ mãi ộc ra nước đen. Thấy vậy, Thừa Chí cuống cả chân tay, đành phải thúc thủ nằm cạnh nàng khóc thầm.
Mọi người ở bên ngoài bàn tán xôn xao, đều trách Kim Sà Lang quân dụng tâm quá độc, mới hại người hại khiến con gái bị liên lụy như vậy. Ai nấy chán nản không còn tâm trí đâu mà ăn cơm nữa.
Hoàng hôn sắp tới, hai con đười ươi kêu la om sòm, bên ngoài có tiếng người ồn ào, thì ra vợ chồng Quy Tân Thụ dẫn Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh, và Tôn Trọng Quân, tất cả sáu người đã tới. Nghe nói Thanh Thanh trúng độc, Quy Nhị nương liền lấy Phục Linh Thủ Ô hoàn của con uống thừa cho nàng uống. Nhờ vậy nàng mới ngủ yên một giấc.
Một lát sau, đệ tử của Hoàng Chân dẫn tám sư đệ và hai đứa con tới, liền tiến lên vái chào Mộc Tang đạo nhân trước rồi vái chào sư phụ vợ chồng nhị sư thúc. Y thấy Thừa Chí nhỏ tuổi hơn cả đứa con lớn, khi quỳ lạy có vẻ không muốn, nên chỉ chào một tiếng:
- Sư thúc!
Giọng nói của y rất ngượng ngạo. Thừa Chí thấy người sư điệt đó bốn mươi tuổi, dáng người to lớn vạm vỡ, gân cốt cứng như gang thép, cao hơn mình một đầu, trong lòng khen thầm, liền nghĩ: “Đại sư huynh anh hùnh như vậy, phải có nhân tài xuất chúng như người này mới đáng là đệ tử trưởng môn của anh ta. Thôi Hy Mẫn võ công đã kém người lại lỗ mãng, so sánh với người này thật kém xa quá.” Chàng đang nghĩ thầm, thấy người nọ sắp quỳ xuống vội giơ tay ra cản, và xua tay bảo chín đệ tử kia
rằng:
- Tất cả khỏi phải lễ phép như thế nữa!
Thôi Hy Mẫn đứng cạnh đó liền giới thiệu:
- Sư thúc, vị đại sư huynh của cháu đây họ Phùng tên là Nan Địch, các giới giang hồ ban cho anh ta biệt hiệu là Bát Diện Oai Phong (oai phong tám mặt).
Thừa Chí hỏi:- Chắc Phùng huynh đã học được hết chân truyền của đại sư ca rồi?
Hoàng Chân biết Phùng Nan Địch không muốn quỳ trước một sư thúc còn ít tuổi như vậy, vì y là người có tên tuổi trên chốn giang hồ, cần phải giữ sĩ diện, nên ông ta cũng không muốn cưỡng ép y làm gì. Hơn nữa tánh ông ta hay vui đùa, không bao giờ chú trọng đến lễ nghi phiền phức cả, cho nên chỉ cười một hồi rồi thôi. Phùng Nan Địch nói vài câu khiêm tốn khách sáo, rồi sai con lớn Phùng Bất Phá, con thứ Phùng Bất Thôi, vái chào mọi người.
Phùng Bất Phá năm nay đã hai mươi mốt tuổi, Phùng Bất Thôi thì mười bảy, cả hai anh em đều nhờ tên tuổi lừng lẫy của cha mà các anh hùng hào kiệt ở miền Tây Lương đều phải kiêng nể, và anh em y cũng có đôi chút võ nghệ thật sự. Chúng thấy Thừa Chí tuổi mới có đôi mươi đã là sư thúc tổ, cao hơn chúng những hai bậc, tuy phải miễn cưỡng quỳ lạy, trong lòng vẫn không phục tí nào, lại thấy đôi mắt của Thừa Chí vừa sưng vừa đỏ ngầu, lúc ra tiếp khách nước mắt chưa ráo hẳn. Hai anh em chúng đều nghĩ: “Con người chưa hết hôi sữa như thế này chắc võ nghệ cũng tầm thường thôi.”
Anh em y biết Tôn Trọng Quân là người rất hiếu thắng, võ nghệ lại cao cường nên đêm hôm ấy, chúng bàn tán định súc siểm Tôn Trọng Quân sư cô đấu võ với tên tiểu sư thúc tổ, để cho mất hết sĩ diện một phen chơi.
Chúng nghĩ dù cha chúng và sư tổ hay chuyện cũng không thể nào trách cứ được.
Vì vậy sáng sớm ngày hôm sau, hai anh em dậy thật sớm đi kiếm Tôn Trọng Quân, ngờ đâu lại gặp bác sư thúc Thạch Tuấn. Chúng biết Thạch Tuấn cũng là người ít tuổi hiếu thắng, võ nghệ cũng giỏi như chúng, vì mặt bên phải có vết máu, người ta ban cho cái tên là Thanh Diện Thần. Thấy anh em họ Phùng có vẻ đang đi kiếm người, y liền quát hỏi:
- Nầy, anh em cậu định làm trò quỷ gì thế?
Phùng Bất Thôi cười đáp:
- Chúng tôi đi kiếm Tôn sư cô. Nghe nói cô ta ở Sơn Đông hạ rất nhiều anh tài của phái Bạt Hải, chúng tôi định yêu cầu cô ấy kể lại những chuyện đó cho nghe đấy.
Thạch Tuấn cười nói:
- Thế à. Vừa rồi tôi trông thấy cô ta luyện võ với Mã sư huynh ở phía sau núi kia.
Ba người hớn hở chạy tới phía sau núi. Anh em họ Phùng vừa đi vừa nghĩ kế xúi dục Tôn Trọng Quân đi kiếm Viên tiểu sư thúc để đấu võ.
Phùng Bất Thôi khẽ nói:
- Nếu Tôn sư cô còn luyện kiếm ở đó thì anh em ta nói tên họ Viên bảo những đường kiếm của nàng sai bét.
Phùng Bất Thôi cười gật đầu tỏ ý tán thành. Ba người vừa đi tới sơn hậu đã nghe tấy tiếng quát mắng của Tôn Trọng Quân, đều ngạc nhiên vô cùng. Phùng Bất Thôi liền tiến lên xem, thấy Tôn Trọng Quân tay cầm cái móc đang đuổi một người. Người đó trạc độ ba mươi tuổi, vẻ mặt phẫn uất, vừa chạy vừa chửi:
- Con giặc cái, con ác phụ...Y lại múa đao quay lại đấu với Tôn Trọng Quân, nhưng võ nghệ y kém hơn cho nên đánh một hồi lại bỏ chạy, có điều lạ là y không chạy xuống núi, chỉ kiếm các nơi hẻo lanh mà chạy quanh thôi, hễ có cơ hội may là y lại quay lại đánh.
Phùng Bất Thôi nói:
- Chúng ta tiến lên đón đường tên nọ đừng để cho nó tẩu thoát.
Thạch Tuấn nói:
- Tôn sư tỷ không thích người ta giúp sức đâu. Vả lại nàng dư sức thắng tên nọ.
Lúc ấy người nọ kêu la om xòm:
- Mi giết chết vợ ta và ba đứa con thơ thì thôi chớ? Tại sao mi lại còn đang tâm giết cả bà mẹ trên bảy mươi của ta?
Mặt Tôn Trọng Quân lạnh lùng như sương tuyết, quát lớn:
- Ngươi là côn đồ vô sỉ, nhà người còn thêm vài người nữa ta cũng giết tất!
Hai người càng đấu càng kịch liệt, Phùng Bất Phá nói:
- Tại sao Tôn sư cô không dùng kiếm? Cái đơn câu nầy hình như cô không hợp sử dụng thì phải?
Thạch Tuấn và Phùng Bất Thôi cũng thấy khí giới của nàng không hợp dùng thực.
Thạch Tuấn liền rút luôn thanh kiếm của mình ra, quay đầu kiếm ném cho nàng và gọi:
- Tôn sư tỷ, tiếp lấy kiếm này.
Thanh kiếm đó đang nhằm phía Tôn Trọng Quân bay sang, ngờ đâu vừa tới quãng giữa, bỗng có một người ở trong bụi rậm nhảy ra bắt luôn kiếm đó. Ba người giật mình kinh hãi, thấy khinh công của người ấy vừa nhanh chóng vừa đẹp đẽ, đều phải khen thầm. Chờ tới khi người đó đứng yên, nhìn rõ mặt, mọi người mới hay là Mạt ảnh Tử Mai Kiếm Hòa, đại đệ tử của Quy sư thúc.
Thạch Tuấn liền kêu gọi:
- Mai sư huynh!
Mai Kiếm Hòa gật đầu chào, rồi ném kiếm trả lại Thạch Tuấn và nói:
- Tôn sư muội luyệt tập sử dụng khí giới khác, không dùng kiếm nữa.
Lúc nầy Thạch Tuấn mới vỡ lẽ nhưng chàng không hiểu Tôn Trọng Quân vì lạm sát những người lương thiện bị Mộc lão tổ sư cấm chị sử sụng kiếm.
Lúc nầy người nọ đấu với Tôn Trọng Quân đang hăng hái nhưng vì võ nghệ kém hơn, không bao lâu bị Trọng Quân đá trúng cổ tay, con đao của y rời khỏi tay bắn ra đằng xa. Tiếp theo đó, Trọng Quân dí luôn đoản câu vào ngực tên nọ, đang định đưa mạnh một cái là tên nọ thủng hông và chết ngay, Mai Kiếm Hòa vội lên tiếng gọi:
- Hãy khoan!
Hung hiểm đã hơn người
Oán độc chẳng kém ai
Người ấy mặt áo vải đi giầy rơm, lưng đeo trường đao, chính là cháu ruột của Thôi Thu Sơn, chàng Thôi Hy Mẫn
Thừa Chí hỏi:
- Có việc gì thế?
Hy Mẫn móc túi lấy một lá thư ra đưa cho Thừa Chí. Nhận xét bút tích, chàng biết ngay lá thơ của sư phụ, liền cung kính đỡ lấy, bóc thư ra đọc. Trong thơ viết:
“Theo di huấn của chư vị tổ sư, bất cứ đệ tử nào của phái Hoa Sơn đều không được phép nhận quan chức của Triều đình. Ngày nay Sấm Vương đã khắc tựu đại nghiệp, tất cả đệ tử của phái ta đều phải rút lui ngay. Và đêm trăng tròn tháng tới, lên đỉnh núi Hoa Sơn tề tập.”
Dưới ký tên: Nhân Thanh.
Thừa Chí nói:
- ủa, cách hội kỳ chỉ còn non một tháng, chúng ta phải đi ngay mới kịp.
Hy Mẫn nói:
- Chính thế ạ. Cả Thôi thúc thúc cũng bảo đi cùng với chúng ta đấy.
Hai người trở về đường Chính Điền Tử, vừa tới đầu đường đã nghe thấy tiếng khí giới va chạm, hò hét mắng chửi, rồi lại thấy mấy chục quân Minh từ trong nhà chàng hấp tấp chạy ra...
Thừa Chí nghĩ: “Quân Minh đã tan rã hết rồi, tại sao lại còn mấy chục người ở đây thế?” Nghĩ đoạn, chàng bước rảo cẳng. Về tới nhà, Thừa Chí thấy Hà Thích Thủ đang múa động song câu, đánh bọn quân Minh chen nhau chạy ra ngoài. Chỉ trong giây lát, không còn một bóng người nào ở đó nữa.
Hà Thích Thủ cười nói:
- Những tên đại binh nầy thấy nhà ta cao lớn, muốn ào đánh cướp đấy sư phụ ạ.
Thừa Chí cười nói:
- Cũng may tôi trở về sớm một tí, chớ không bọn tàn quân ấy còn phải chịu khổ nữa.
Ba người cùng đi vào nội đường, bỗng thấy Hồng Thắng Hải từ phía trong hớt hãi chạy ra, sắc mặt nhợt nhạt, lớn tiếng kêu la:
- Nguy tai! Nguy tai!
Thừa Chí giựt mình kinh hãi, liền hỏi:
- Việc gì thế?
Hồng Thắng Hải đáp:
- Trình... Trình... lão phu... tử...
Mọi người đều ùa vào trong phòng của Trình Thanh Trúc. Ai nấy đều kinh hãi vô cùng, vì thấy ông ta đang quỳ ở dưới đất, người cứng đờ như tượng gỗ, trên ngực thấy cắm một con dao sáng quắc.
Sa Thiên Quảng giận dữ nói:
- Mau bắt tên thích khách!
Y nhảy luôn ra ngoài cửa sổ, Hồ Quế Nam, Hà Thích Thủ cũng nhảy theo ra. Thừa Chí để tay vào mũi Thanh Trúc xem còn thở hay không. Nhận thấy sự hô hấp đã đình chỉ, người đã giá lạnh như băng tuyết chàng mới hay ông ta chết từ lâu rồi. Chàng cúi xuống xem tờ giấy buộc ở trên cán dao, thấy có việc tám chữ như sau: “Vì thần đồng tử, dĩ tuần ngô chủ” (Thần hèn mọc nầy xin cùng chết, do được tuẫn tiết cho chủ.) Lúc này, chàng mới hay Trình Thanh Trúc đã tự sát để thủ tiết với chủ cũ. Chắc
ông ta khi hay tin Sùng Chính băng hà, nhớ lại tình cũ nghĩa xưa, liền lấy dao tự sát luôn. Hành động nầy tuy là tận trung một cách ngu dại, nhưng tánh nết cương trực của ông ta thật đáng thương hại. Thừa Chí cũng phải nhỏ mấy hàng lệ anh hùng. Chàng liền sai người đuổi theo gọi bọn Sa Thiên Quảng trở về, và cho người đi mua cỗ quan tài để an táng cho Trình Thanh Trúc. Ông ta là Bang chủ của một bang phái lớn, đáng lẽ phải làm ma chay thật linh đình nhưng trong lúc loạn ly này, phu phen không có,
bạn bè cũng chạy cả, vậy lấy ai để khênh vác các đồ nghi trượng, nên Thừa Chí đành phải cho khâm liệm ngay. Chàng cùng mọi người đứng trước quan tài hành lễ. Mãi không thấy Thanh Thanh ra, chàng hỏi Uyển Nhi rằng:
- Hạ cô nương đâu?
Uyển Nhi đáp:
- Em không thấy chị ấy ra ngoài nầy. Để em vào mời chị ấy ra hành lễ.
Thừa Chí nói:
- Không dám phiền cô, tôi đi gọi lấy cũng được.
Chàng vào tới cửa phòng Thanh Thanh, dùng ngón tay khẽ gõ vài cái và nói:
- Chú Thanh, mở cửa cho tôi.
Thấy trong phòng im lặng, chàng lại gõ thêm vài tiếng nữa, vẫn không thấy hồi âm. Chàng đẩy mạnh cửa vào, thấy trong phòng rỗng không, liền ngẩn người ra giây lát. Khi định thần lại, chàng mới hay Thanh Thanh bỏ đi rồi. Nàng đem cả bảo kiếm lẫn y phục, thậm chí đem cả cái lu đựng hài cốt của mẹ nàng đi nốt. Chàng lục lọi khắp nơi, thấy dưới gối có một tờ giấy của nàng để lại, trên đó viết: “Anh đã có Kim Chi Ngọc Điệp, còn lấy tôi, con nhà dân quèn làm gì nữa!”
Thừa Chí ngẩn người ra nhìn tờ giấy của Thanh Thanh viết để lại, trong lòng bối rối vô cùng, không biết làm thế nào cho phải? Chàng nghĩ: “Ta đối với nàng chân tình như thế, mà hơi tí lại nghi ngờ, lúc nào cũng đề phòng ta. Ta là nam nhi đại trượng phu, làm gì cũng quang minh chính đại, chớ có bao giờ ta làm điều gì khuất lấp đâu?
Suốt ngày vào sanh ra tử trong rừng thương núi đao, tránh sao khỏi không đụng chạm với người nầy người nọ, nhưng ta không làm một điều gì trái với lương tâm cả. ChúThanh, chú Thanh ơi! Quả thật chú không hiểu lòng tôi một tí nào!” Nghĩ tới đây, chàng ứa nước mắt, trong lòng đau đớn vô cùng, lại nghĩ tiếp: “Lần trước nàng ra đi, suýt tí nữa nàng bị quân ngoại quốc bắn chết. Hiện bây giờ thiên hạ chưa được ổn định, trong lúc binh hoang loạn mã nầy, không biết nàng đi về phía nào?” Chàng buồn bực,
ngồi xuống mép giường.
Uyển Nhi rón rén bước vào nhìn thấy Thừa Chí thẫn thờ như người mất hồn mất vía vậy, sợ hãi quá vội chạy ra báo tin cho mọi người hay. Ai nấy đều vào cả trong phòng khuyên giải. Uyển Nhi tuy ít tuổi hơn hết nhưng rất điềm tĩnh, ra hiệu bảo mọi người yên lặng, rồi nói với Thừa Chí rằng:
- Viên tướng công lo lắng như vậy cũng vô ích. Hạ cô nương võ nghệ cao cường như thế, ai dám hà hiếp cô ta? Tướng công, chú Câm và chị Hà Thích Thủ cứ việc đi lên Hoa Sơn trước. Tiểu muội xin ở lại đây trôm nom cô A Chín. Còn chú Sa Thiên Quảng, Thiết lão sư, chú Quế Nam và tất cả đàn em trong bang Kim Long sẽ chia đường đi kiếm Hạ cô nương, đồng thời tướng công cho truyền lệnh bài đi khắp chốn giang hồ, ra lệnh cho các hào kiệt, bang phái để ý giúp hộ cho.
Nàng vừa nói, Thừa Chí vừa gật đầu. Chờ nàng nói xong, chàng mới lên tiếng:
- ý kiến của Tiêu cô nương rất hay. Chúng ta cứ theo kế hoạch đó mà tiến hành. Nhưng Hà Thích Thủ vì chưa chánh thức nhập môn của tôi, còn phải đợi tôi bẩm cùng sư phụ rõ đã hãy hay. Lần nầy, chị ấy hãy tạm ở lại đây.
Hà Thích Thủ định lên tiếng cầu khẩn, bỗng sực nghĩ tới Thanh Thanh cũng nghi ngờ nàng, nếu bây giờ nàng đi cùng với Thừa Chí thì không tiện tí nào, nên nàng chỉ mỉm cười không lên tiếng nữa.
Nàng lại nghĩ: “Không cho ta đi, ta cứ đi cho mà xem.” Nàng là giáo chủ tà
giáo, xưa nay thích gì làm nấy, chớ không ai dám ngăn cản cả. Nhưng gần đây, nàng đã ngoan ngoãn hiền lành ít nhiều rồi, tuy vậy, tánh ương ngạnh còn phần nào nên nàng mới trù tính lên núi Hoa Sơn một mình để bái sư tổ là thế.
Chỉ bảo đâu đấy xong, tối hôm ấy, Thừa Chí vào trong cung từ biệt Sấm Vương và Lý Nham. Tự Thành tặng cho chàng rất nhiều châu báu. Chàng định từ chối, thấy Lý Nham đưa mắt ra hiệu, chàng đành phải cảm tạ nhận lấy.
Lý Nham tiễn chàng ra tới cửa cung, thở dài nói:
- Chú Viên, chú công thành thân thoái như thế, thực là may mắn lắm... còn tôi ở lại đây sẽ bị tiểu nhân kèn cựa nhưng tôi vẫn phải ở lại, quyết lấy tánh mạng ra báo đền lòng tri ngộ của đại vương.
Nói xong, chàng tỏ vẻ buồn rầu. Thừa Chí cảm khoái nói:
- Xin đại ca thận trọng đôi chút, nếu gặp sự nguy nan, xin huynh cứ báo tin cho biết ngay. Dù xa cách nghìn vạn dặm, đệ cũng sẽ hỏa tốc tới giúp.
Hai người cùng gạt lệ từ biệt nhau.
Sáng sớm ngày hôm sau, Thừa Chí cỡi con Ô Bắc (đen và trắng) của Sấm Vương tặng cho, cùng với Thôi Thu Sơn, Thôi Hy Mẫn, An Đại nương, Tiểu Tuệ, Hồng Thắng Hải sáu người, dắt hai con đười ươi thủng thẳng đi về phía Tây, tiến lên núi Hoa Sơn.
Ngựa của các người kia cũng là lương mã nên không bao lâu đã tới huyện Uyển Bình.Mọi người vào khách sạn nghỉ chân. Cơm nước xong, sắp sửa lên đường, Hồng Thắng Hải nhanh mắt trông thấy trên góc tường có một con bò cạp và một con rít, cả hai con đều được đóng bằng một cái đinh cỏn con.
Chàng giựt mình vội kéo vạt áo Thừa Chí. Đưa mắt nhìn hai con vật nọ, Thừa Chí gật đầu, trong lòng nghĩ thầm: “Cái nầy chắc có liên can tới Ngũ Độc Giáo, chỉ tiếc rằng Hà Thích Thủ không có mặt ở đây, không biết họ làm dấu hiệu như thế có ý nghĩa gì?”
Hồng Thắng Hải hỏi dò điếm tiểu nhị:
- Mấy con vật ở trên góc tường kia, chắc lại bọn người nói giọng miền Nam đóng lên phải không?
Điếm tiểu nhị cười nói:
- Nếu không nhật ít tiền của họ thì cháu đã vứt hai con vật ấy đi từ lâu rồi. Thật phiền quá ông ạ.
Y vừa nói vừa đếm đốt ngón tay, rồi lại vừa cười vừa nói tiếp:
- Từ ngay hôm kia tới giờ, kể cả ông đã có trên mười vị khách quan hỏi cháu về chuyện hai con vật ấy.
Hồng Thắng Hải vội hỏi:
- Chú có nhớ người nào đã đóng lên không?
Điếm tiểu nhị đáp:
- Một mụ ăn xin già đấy!
Hồng Thắng Hải đưa mắt nhìn Thừa Chí rồi lại hỏi tiếp:
- Còn những người đã hỏi chú là hạng người như thế nào?
Vừa hỏi, chàng vừa nhét một ít bạc vụn vào tay điếm tiểu nhị.
Nhận lấy số bạc vụn, điếm tiểu nhị cám ơn rồi cười nói:
- Những người đã hỏi cháu toàn là bọn ăn xin và tụi côn đồ, nhưng không ngờ người lịch sự như ông mà cũng hỏi tới chuyện...
Thừa Chí liền ngắt lời tên nọ, hỏi luôn:
- Khi mụ ăn xin đóng hai con vật ấy, có ai đứng cạnh không?
Điếm tiểu nhị nghĩ ngợi giây phút mới đáp:
- Ngày hôm ấy... kể cũng hơi kỳ thật, thoạt tiên có một cậu công tử rất đẹp trai tới đây ăn uống...
Thừa Chí lại vội hỏi:
- Người ấy hình dáng như thế nào? Mặc quần áo gì? Bao nhiêu tuổi?
- Cậu ấy trẻ hơn tướng công chừng hai, ba tuổi, mặt đẹp lắm. Thoạt tiên, cháu cứ tưởng là cậu ta là một kép hát chuyên đóng vai đàn bà nhưng sau thấy cậu ta đeo kiếm, cháu không dám tưởng tượng như thế nữa. Hình như trong nhà có người mới chết vậy, mặt mày ủ rũ, cứ uống một chén rượu, là như muốn khóc...Mọi người đều đoán chắc người đó là Thanh Thanh chớ không sai. Thôi Hy Mẫn nổi giận nói:
- Không cần chú kể lể lôi thôi những chi tiết ấy làm gì. Ai có rỗi thì giờ nghe nào!
Điếm tiểu nhị thấy Hy Mẫn hung tợn, sợ hãi vô cùng, vội lảng sang chuyện khác nói:
- Quý vị sắp phải lên đường ngay đấy ư?
Thừa Chí hỏi:
- Sau rồi thế nào nữa, chú tiểu nhị?
Điếm tiểu nhị đưa mắt nhìn Hy Mẫn rồi đáp:
- Vị tướng công trẻ tuổi ấy đang uống rượu thì nghe có tiếng chân người lên thang, quay lại trông thấy một cụ râu tóc bạc phơ, tay cầm quài trượng. Vừa lên tới trên lầu này, ông cụ mới chống mạnh quài trượng xuống sàn gác, những chén bát ở các bàn này đều nhảy cả lên.
Nghe nói tới đây, Thừa Chí lo ngại quá, nghĩ thầm: “Lão già họ Ôn Minh Sơn gặp Thanh Thanh ở đây, thì nàng thoát sao khỏi tay lão ấy?”
Điếm tiểu nhị lại nói tiếp:
- Ông cụ ấy ngồi ở cái bàn cạnh tướng công nọ. Cụ ta vừa gọi rượu và món ăn xong, lại có một ông cụ nữa lên. Lạ quá, trước sau có tất cả bốn ông cụ lên ăn uống.
Ông nào ông nấy đều râu tóc bạc phơ mặt đỏ hồng. Có ông cầm đôi đoản kích, có ông cầm roi da. Mỗi người ngồi một bàn, không ông nào nhìn ông nào, bốn ông ngồi xung quanh tướng công nọ. Cháu đang ngạc nhiên không hiểu các ông ấy định giở trò gì, thì lúc ấy mụ ăn xin già lên. Ông tài phú chúng cháu định lên tiếng đuổi mụ ta đi. Ngờ đâu, bỗng nghe keng một tiếng. Hà! Tướng công thử đoán xem là cái gì?
Thôi Hy Mẫn vội hỏi:
- Cái gì thế?
Điếm tiểu nhị đáp:
- Thật không ai có thể tưởng được, tiếng keng ấy là thoi bạc lớn của mụ ném ra mặt quầy. Rồi mụ chỉ tay vào mặt bốn ông cụ với vị tướng công nọ và nói:
- “Mấy người kia ăn bao nhiêu, tính cả vào phần tôi, tôi trả hết.” Đấy quý vị xem, có mụ ăn xin nào lại tiêu sang đến thế chưa?
Càng nghĩ càng lo, Thừa Chí nghĩ: “Bốn ông già họ Ôn đã khó địch rồi, lại thêm mụ Hà Hồng Dược nữa thì nàng chống sao nổi?”
Càng nói càng cao hứng, tiểu nhị nói đến nỗi nước miếng bắn tung tứ phía mà vẫn nói:
- Ngờ đâu mấy người kia cứ cúi đầu ăn uống, không thèm đếm xỉa đến mụ kia.
Mụ ăn xin tức giận quá, thét lớn một tiếng, giơ tay ném một đạo bạch quang, nhắm ông già cầm quài trượng bắn tới.
Thôi Hy Mẫn nói:
- Thôi đi, chú đừng có nói dóc nữa. Chẳng lẽ mụ ấy lại biết phi kiếm hay sao?Điếm tiểu nhị vội cãi:
- Cháu không nói dóc đâu. Tuy không phải là phi kiếm nhưng cháu chắc cũng có mấy thành giống phi kiếm thực. Rồi ông già nọ giơ đôi đũa lên, chỉ nghe thấy “king koong, kính koong” một hồi, trên hai chiếc đũa đã xâu một tràng cái gì bóng nhoáng. Cháu liếc mắt nhìn trộm... Trời ơi! Quý vị khách quan có biết là cái gì không?
Hy Mẫn hỏi:
- Cái gì thế?
Điếm tiểu nhị kéo tay Hy Mẫn tới cạnh một cái bàn, rồi nói:
- Đây, tướng công thử xem?
Trên mặt bàn có một cái lỗ, tiểu nhị lấy một chiếc đũa cắm vào, vừa lọt, không to và cũng không nhỏ hơn, rồi nói:
- Ông già ấy cầm chiếc đũa xoay một cái là cắm vào trong mặt bàn ngay. Chỉ miếng võ này cũng đủ thấy ông ta không phải là tay tầm thường, phải không tướng công? Mụ ăn xin biết địch không nổi ông ta liền chạy luôn. Sau đó, vị tướng công trẻ tuổi cùng với bốn ông già đi một lúc. Cháu mới hay năm người đó cùng một bọn, bày sẵn trận thế để đối phó mụ ăn xin kia.
Thừa Chí hỏi:
- Họ đi về hướng nào?
Điếm tiểu nhị đáp:
- Họ đi về làng Lương Hương ở phía Tây. Mấy ông già và tướng công tuổi trẻ đi không bao lâu, mụ ăn xin quay trở lại, đóng hai con quái vật ở góc tường kia, lại cho cháu một miếng bạc, dặn cháu canh nom hộ, đừng để cho ai đụng tới. Mấy ngày hôm nay, thiên hạ đại loạn, ông chủ tiệm chúng cháu định đóng cửa nghỉ vài ngày nhưng bà chủ không chịu, nhờ vậy cháu mới kiếm được một ít bổng lộc...
Trong khi tiểu nhị đang lẩm bẩm nói, Thừa Chí đã nhẩy ra tới cửa, phi thân lên mình ngựa kêu gọi:
- Chúng ta đuổi theo mau!
Hãy nói Thanh Thanh bữa nọ bực mình ra đi, trong lòng đau đớn vô cùng, nàng quyết tâm đem hũ tro (hài cốt của mẹ nàng) lên trên đỉnh núi Hoa Sơn để chôn cùng với cha nàng, rồi tự tử luôn cạnh mộ của cha mẹ.
Nàng nghĩ: “Ta cô độc một thân một mình, lại gặp phải người yêu bạc tình, kết cục đau khổ như nhiện thời.” Càng nghĩ càng tự thương tự liên.
Ngày hôm ấy, tới huyện Uyển Bình, vào nghỉ chân trong tửu lâu, không ngờ lại gặp bốn anh em họ Ôn và Hà Hồng Dược. Sau Ôn Minh Sơn giở một miếng nội công tuyệt kỹ ra, Hà Hồng Dược tự biết mình địch không nổi liền rút lui ngay. Thanh Thanh đã có lòng quyết tử nên thấy không kinh hãi gì cả. Nàng chỉ sợ bốn ông lão giết nàng tại chổ, không làm tròn lời trối trăn của mẹ lúc sắp chết. Sau nàng nghĩ ngay được một kế, đi tới trước mặt Ôn Minh Đạt vái chào, lớn tiếng nói:
- Ôn trưởng vẫn mạnh giỏi đấy ạ?Rồi nàng đi tới chào từng người một. Bốn anh em họ Ôn thấy nàng thản nhiên không có vẻ gì sợ hãi gì cả, đều ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau.
Thanh Thanh cười nói:
- Bốn ông đi đâu thế?
Ôn Minh Đạt hỏi lại:
- Cháu cũng đi đâu thế?
Thanh Thanh đáp:
- Cháu có hẹn với người bạn họ Viên gặp nhau ở đây. Ngờ đâu đến giờ vẫn chưa thấy y đến?
Nghe tới tên của Thừa Chí, bốn anh em họ Ôn, như kính cung chỉ điểu (con chim vừa thoát chết trước mũi tên) đâu còn dám ở lại nơi đó nửa phút.
Ôn Minh Nghi quát lớn:
- Cháu theo các ông ngay đi.
Thanh Thanh giả bộ nói:
- Cháu còn phải chờ đợi người bạn.
Nhanh như chớp, Ôn Minh Nghĩa cách đó điểm luôn yếu huyệt của nàng, kéo luôn ra khỏi tửu điếm, rồi cùng cỡi một con ngựa, phi thẳng ra ngoại thành. Bốn anh em họ Ôn cứ kiếm chỗ thật vắng người mà đi, tới một cây cổ thụ, cùng nhảy xuống ngựa. Ôn Minh Nghĩa quăng Thanh Thanh xuống, cất tiếng chửi rủa:
- Con tiện nhân vô sỉ này, ngày hôm nay trời xanh run rủi khiến mày lọt vào tay chúng tao.
Thanh Thanh khóc lóc nói:
- Thưa ông, cháu có lầm lỗi gì đâu? Các ông tha thứ cho cháu, từ nay trở đi, các ông dạy bảo gì cháu cũng xin tuân theo.
Ôn Minh Nghĩa nói:
- Mầy còn muốn sống ư?
Vừa nói, y vừa rút luôn thanh đoản kiếm ra. Thanh Thanh vẫn khóc lóc nói:
- Ông Ba, mẹ con là con gái của ông, cháu xin ông một điều nầy.
Minh Sơn nói:
- Hôm nay mầy thế nào cũng chết.
Thanh Thanh khóc nói:
- Cháu chỉ xin ông giúp cho một việc là sau khi cháu chết, xin ông bắn tin cho người bạn họ Viên của cháu hay, bảo y đi kiếm báu vật đi, khỏi phải chờ cháu nữa.
Bốn anh em nghe nàng nói tới ba chữ “Kiếm vật báu” đều động lòng tham cùng lên tiếng hỏi:
- Mầy vừa nói gì thế?Thanh Thanh đáp:
- Thể nào cháu cũng phải chết rồi, việc bí mật này cháu không thể nói cho ai hay được. Cháu chỉ mong ông gởi lời chào người bạn của cháu thôi.
Nói xong nàng xé một mảnh vạt áo, móc túi lấy mũi kim để trong bao kim chỉ ra, chích vào đầu ngón tay cho chảy máu rồi viết vào mảnh vải. Bốn anh em họ Ôn cứ luôn mồm hỏi nàng nếu nàng kiếm vật báu gì thế. Nàng làm thinh cứ cúi đầu viết.
Xong đâu đấy, nàng liền giao cho Ôn Minh Sơn và nói rằng:
- Ông Ba, ông đừng đưa thẳng tay cho y, nhờ người khác đem tới tửu điếm ở huyện Uyển Bình mà lúc nãy cháu ngồi chờ đợi là được rồi!
Tuy giả bộ làm ra như vậy nhưng hễ nghĩ tới Thừa Chí bạc tình, nàng lại ứa hai hàng lệ.
Thấy nàng thương tâm như vậy, bốn anh em họ có biết đâu là nàng làm ra trò để lừa dối người, cứ xúm quanh để xem. Nàng viết: “Kính thưa Thừa Chí đại ca, đời này chúng ta không sao tái ngộ được nữa. Những vật báu của cha em để lại, xin tặng anh tất cả. Vậy anh cứ việc đi đào lấy, không phải chờ đợi em nữa.
Nay kính, Thanh Thanh.”
Ôn Minh Nghĩa quát hỏi:
- Những vật báu gì thế? Chẳng lẽ cháu cũng biết nơi chôn giấu hay sao?
Thanh Thanh gật đầu. Ôn Minh Nghĩa nói:
- Quân xảo quyệt, mầy định lừa dối chúng tao phải không? Sự thật không có vật báu gì hết. Hồi mồ mả cha mầy đã lừa dối chúng tao một trận rồi. Bây giờ đến lượt mầy lại muốn giở cái trò ấy ra phải không?
Thanh Thanh cúi đầu làm thinh, thò tay vào trong vạt áo, cởi ngầm đôi bướm ngọc buộc lên giây đeo ở trước ngực ra. Đôi bướm ngọc này cũng là bảo vật trong mười cái hòm nọ, khi đem bán lấy tiền, nàng thấy nó xinh đẹp và trông như bướm thực, nàng mới giữ lại để đeo trong người. Lúc đứng dậy, nàng giả bộ đánh rơi đôi bướm ngọc, rồi nói:
- Tin hay không tùy các ông. Muốn giết thì các ông cứ việc ra tay đi.
Nghe tiếng kêu “cạch” một cái, bốn anh em họ đều nhìn xuống đất, thấy một đôi bướm ngọc rất đẹp rơi cạnh chân nàng. Thanh Thanh vội cúi xuống nhặt hai con bướm lên. Làm giặc mấy chục năm, anh em họ Ôn biết ngay đôi bướm ngọc ấy giá trị liên thành, đều đỏ ngầu mắt lên, trống ngực đập mạnh đồng thanh quát hỏi:
- Vật nầy mầy lấy ở đâu thế?
Thanh Thanh vẫn làm thinh như trước. Ôn Minh Sơn nói:
- Cháu chịu nói rõ chổ giấu vật báu cho các ông hay, các ông sẽ tha chết cho.
Thanh Thanh đáp:
- Hai con bướm nầy cháu lấy ở trong những hòm châu báu đấy. Theo tờ bản đồ của cha cháu để lại, cháu với Viên đại ca đã đi đào được mười hòm châu báu. Vì hai người không vác nổi cho nên chúng cháu chỉ lấy tạm vài món ra để tiêu xài tạm. Cháuthấy đôi bướm nầy hay hay, giữ lại đeo chơi. Chúng cháu đã hẹn nhau lần này sẽ đi lấy hết mười hòm châu báu ấy. Ngờ đâu, các ông...
Nói xong nàng lại khóc. Bốn ông cụ đứng ra một bên thì thầm bàn tán. Họ tin võ nghệ của họ cao cường hơn Thanh Thanh nhiều nên không sợ nàng bôn tẩu.
Ôn Minh Đạt nói:
- Theo nó thì những châu báu đó là chuyện có thật đấy.
Minh Nghĩa nói:
- Chúng ta buộc nó phải dẫn anh em mình đi đào.
Ba người kia đều gật đầu. Minh Sơn nói:
- Trước hết hãy lừa dối nó là chúng ta vui lòng tha cho nó khỏi chết. Chờ tới khi kiếm được số châu báu đó rồi, anh em mình sẽ trừng trị nó sau.
Ôn Minh Ngô nói:
- Phải đấy, khi đào những châu báu đó ra rồi, chúng ta chôn sống nó vào trong hố ấy, để khi thằng nhãi con họ Viên tới, sẽ đào thấy của quý ấy, có phải hay không?
Ba người kia đều cả cười, rồi cùng nói:
- ý kiến của chú Năm hay lắm!
Bàn định xong, bốn người nghĩ: “Lần này vừa lấy được của, lại rửa được mối căm hờn bấy lâu nay.” Bốn anh em đều hớn hở quay trở lại uy hiếp Thanh Thanh. Lúc đầu, nàng còn giả bộ không nghe, cứ khăng khăng không chịu đi, sau mãi mới bằng lòng vậy. Nàng nói:
- Nơi chôn những hòm châu báu ở trên đỉnh núi Hoa Sơn.
Nàng định dẫn anh em họ Ôn lên trên đỉnh núi Hoa Sơn, tìm kiếm được nơi chôn cất thi hài cho cha mình, và nhân lúc anh em họ đang đào bới sẽ chôn luôn hài cốt của mẹ nàng vào đấy, rồi rút kiếm ra tự tử. Lời nói của nàng rất hợp lý, nên bốn anh em họ Ôn mới bị mắt lừa.
Năm xưa, anh em họ Ôn dùng gian mưu bắt được Kim Sà Lang quân, bắt Hạ đại hiệp phải đưa đi tìm của. Hạ đại hiệp cũng đã dẫn anh em họ Ôn lên núi Hoa Sơn.
Kiếm mãi không thấy châu báu chôn ở đâu cả, mà Kim Sà Lang quân lại đột nhiên mất tích.
Nhưng trong thâm tâm của anh em họ Ôn đã chôn sâu ấn tượng “vật báu thể nào cũng chôn ở trên núi Hoa Sơn.” Năm xưa Trường Xuân Cửu cùng với vị hòa thượng đã lên đỉnh núi Hoa Sơn tìm kiếm cũng do thế mà nên.
Bốn anh em họ Ôn liền dẫn Thanh Thanh đi ngay tức thì, sợ Thừa Chí đuổi theo kịp, đi cả ban đêm, không dám nghỉ ngơi ở đâu cả.
Ngày hôm đó, năm người đi tới ranh giới tỉnh Sơn Tây. Đã mấy đêm ngày liền không nghỉ ngơi rồi, nên ai nấy đều mệt lả, đành phải vào một khách điếm nọ nghỉ chân. Minh Nghĩa háu đói nhứt và ăn cũng rất khỏe, cứ luôn miệng gọi đem cơm nước lên. Tiểu nhị vừa bưng thức ăn lên, Ôn Minh Nghĩa không gọi ai cả, sà vào ăn ngay. Ba người kia và Thanh Thanh vừa ngồi vào bàn bỗng nghe Minh Nghĩa kinh hãi la lớn, tay gắp một vật gì ở trong bát lên, rồi cả người cứng đờ như tượng đá vậy. Bốn người đềuthất kinh, đưa mắt nhìn con vật Minh Nghĩa vừa gắp lên mới hay là một con nhện đen thật lớn. Minh Đạt rờ tay người em, thấy đã giá lạnh, mũi cũng không có hơi thở rồi.
Ôn Minh Nghĩa vừa sợ hãi vừa tức giận, túm ngực tên tiểu nhị giơ cao tay vứt mạnh xuống đất chỉ nghe “đạch” một tiếng, tên nọ hai chân gãy gục và chết giất liền.
Ôn Minh Sơn chạy ra túm ngực người trưởng quầy, tay cầm đôi đũa gắp con nhện quát hỏi:
- Mi táo gan thật, dám mưu toan hại mạng? Cái nầy là cái gì?
Sợ hãi đến mất hồn vía, tên trưởng quầy van lơn, phân trần:
- Tiểu điếm đã mở hơn bảy mươi năm rồi, trong bếp lại thanh khiết vô cùng. Không... Không... hiểu... tại sao lại... có vật này...
Minh Sơn nắm má dưới tên nọ bóp mạnh một cái, cả cái quai hàm rời hẳn ra, không sao mím môi lại được. Minh Sơn liền nhét con nhện vào mồm trưởng quầy, chỉ trong giây phúc và người hắn ta thâm tím mà chết liền.
Lúc ấy trong tửu điếm đã đại loạn, Minh Đạt một tay vẫn nắm cổ tay Thanh
Thanh, còn tay kia bồng xác Minh Nghĩa. Minh Sơn và Minh Ngô thì đập phá hết và giết chóc, chỉ trong chốc lát đã có bảy tám mạng người bị chết oan, rồi còn châm lửa thiêu tửu điếm ấy ra tro. Thấy anh em họ hung dữ quá, những người đi đường chỉ đứng tận đằng xa mà nhìn chớ không ai dám tới can thiệp cả.
Ba anh em họ Ôn đem xác Minh Nghĩa ra cánh đồng chôn cất, rồi dắt Thanh Thanh vào một cổ miếu nghỉ ngơi. Ba anh em vừa bị thương vừa phẫn nộ, đều không hiểu tại sao con nhện lại độc đến thế?
Thấy thủ đoạn của Ngũ Độc Giáo độc ác quá đỗi, Thanh Thanh nghĩ thầm: “Đấy tất nhiên là hành vi của Ngũ Độc Giáo và chắc mụ Hà Hồng Dược đang theo dõi bọn chúng ta cũng nên?”
Ngày hôm sau, bốn người vào khách điếm ăn cơm, bắt người làm trong điếm phải nếm thử trước mới dám ăn. Đi được mấy ngày, một đêm, trong chuồng ngựa bỗng có tiếng người ồn ào, và tiếng điếm tiểu nhị kêu là có người ăn trộm ngựa. Minh Ngô nổi giận, đi xuống xem xét, sắp tới chuồng ngựa, bỗng nghe trong bóng tối có tiếng “sịt” một cái, thấy một tia nước phun tới Minh Ngô lùi về phía sau để tránh nhưng không kịp, nước đó đã phun đầy mặt. Mặc dầu hai mắt không mở được nhưng nhờ có võ nghệ
khá cao, Minh Ngô rút roi ra, nhắm phía tia nước vọt tới quất luôn một cái, đánh trúng kẻ ám hại gẫy gục xương sống.
Một tên khác quát lớn:
- Lão huynh còn muốn đánh nữa phải không?
Vừa nói tên nọ vừa bổ búa xuống. Minh Ngô quay nhuyễn tiên lại quấn luôn cả người lẫn búa của địch, giơ lên quất mạnh xuống một cái. Người nọ bị văng sang góc tường, không kịp kêu la, đã vỡ sọ chết liền.
Tưởng chỉ có vài tên trộm quèn thôi, Minh Đạt và Minh Sơn nghĩ rằng một mình Minh Ngô cũng dư sức đối phọ rồi nên cứ ở trên lầu nằm nghĩ. Sau nghe tiếng kêu la của Minh Ngô khác thường đều giựt mình chạy xuống xem, mới hay Minh Ngô hai tay dụi mắt kêu đau. Minh Đạt chạy lại bồng lấy em, còn Minh Sơn nhảy ra bên ngoài tra xét tung tích của địch, nhưng không thấy gì, liền quay trở vào cùng anh bồng MinhNgô lên lầu. Vừa tới cửa phòng, thấy Minh Ngô đã tắt thở rồi, cả hai ông anh đều gục xuống thi hài em mà khóc lóc. Mặt mày Minh Ngô bị thuốc độc ăn nát bét. Minh Đạt
càng nhìn càng xót thương giận dữ nói:
- Hai mươi năm trước, tên Kim Sà ác tặc bỗng tẩu thoát khỏi tay anh em chúng ta. Lúc ấy chân tay bị cắt đứt hết gân mạch và đã trở nên phế nhân rồi, thì còn chạy sao nổi? Nên anh đã nghĩ bọn Ngũ Độc Giáo cứu y...
Minh Sơn nói:
- Chính thế, có ngờ đâu bọn Ngũ Độc Giáo lại gây hấn ngầm với anh em ta. Lần nầy, chúng ta và bọn chúng đều được Tào Hóa Thuần mời vào trong Kinh mưu đồ đại sự, tuy không thành công nhưng chúng ta với chúng không có thù oán gì với nhau, tại sao chúng lại theo dõi và giở thủ đoạn độc ác đốc với chúng ta như thế nầy?
Ngẫm nghĩ giây lát, Minh Đạt bỗn nhẩy lên la lớn:
- Tên Kim Sà ác tặc dùng các thứ thuốc độc lợi hại vô cùng.
- Chẳng lẽ nó với Ngũ Độc Giáo có liên hệ gì chăng?
Minh Sơn cũng sực tỉnh ngộ liền nói:
- Đúng thế đấy.
Hai người nghĩ lại những pha trò thù độc ác của Kim Sà Lang quân ở Từ Châu, Thạch Lương đều sợ hãi vô cùng. Bàn định nửa ngày, hai anh em chôn Minh Ngô xong, quyết tâm lên núi Hoa Sơn trước, chờ đào bảo vật xong, mới đi kiếm bọn Ngũ Độc Giáo để trả thù. Sợ bọn Hà Hồng Dược hãm hại ngầm, hai anh em họ Ôn không những ăn uống rất cẩn thận mà đêm tới cũng không dám vào khách sạn ngủ trọ.
Hôm đó hai anh em dắt Thanh Thanh vào một tòa cổ miếu đổ nát để nghỉ ngơi. Muốn được yên trí ngủ một giấc ngon lành, Minh Đạt khuân luôn hai tảng cối đá lớn chặn cửa trước và cửa sau. Ngủ tới giữa đêm, bỗng nghe đằng sau tượng phật có tiếng động “chít chít” đưa ra. Thoạt tiên, hai anh em tưởng lầm là lũ chuột ra kiếm ăn nên không thèm để ý tới, lim dim sắp sửa ngủ lại. Minh Sơn bỗng ngửi nghe có mùi thơm đưa tới, trong người khoan khoái vô cùng, cảm thấy toàn thân nhẹ bỗng và đi trên mây.
Nhưng y bỗng rùng mình ngồi nhổm dậy, sực tỉnh ngộ ngay, quát lớn một tiếng, nhảy phắt lên. Tuy việc xảy ra rất đột ngột nhưng dù sao Minh Đạt cũng là tay giang hồ lão luyện, y liền kéo Thanh Thanh rồi cùng nhảy lên trên bàn thờ.
Dưới ánh trăng lờ mờ, hai người trông thấy Minh Sơn đang múa quài trượng đánh tứ phía bốn bề. Bỗng nghie một tiếng động rất lớn, thì ra tượng phật đã bị quài trượng của Minh Sơn đánh sạt một góc.
Phía sau tượng có hai thằng bé áo vàng nhảy ra. Một tên múa đao nhảy vào tấn công Minh Sơn, còn tên kia cầm ống đồng thổi khói độc phun ra. Minh Đạt lấy hai cái tụ tiễn (tên trong tay áo) ném luôn ra. Hai tên nhỏ bị ám khí xuyên qua ngực chết liền, Minh Sơn vẫn múa quài trượng đánh đập lung tung.
Minh Đạt vội gọi:
- Chú Ba hết kẻ địch rồi.Minh Sơn hình như không nghe, vẫn cứ múa đánh như cũ, thì ra đầu óc y đã bị hơi độc làm mê ám. Minh Đạt muốn xông vào hãm quài trượng của người anh lại nhưng Minh Sơn càng múa càng nhanh, không có kẽ hở nào để nhảy vào.
Đang vô kế khả thi, đột nhiên Minh Đạt thấy Minh Sơn quay đầu trượng lại đâm mạnh vào ngực một cái, miệng hộc máu tươi ra ngã nằm thẳng cẳng, chỉ trong vài ngày, ba người ông ngoại đã bị bọn Ngũ Độc Giáo giết chết.
Tuy xưa nay không ưa gì ông ấy thật nhưng thấy tình cảnh bi đát như vậy, nàng cũng phải động lòng thương xót. Minh Đạt lẳng lặng bồng xát Minh Sơn ra ngoài chôn cất.
Tánh nết rất cứng cỏi và ương ngạnh, Minh Đạt không ứa một giọt nước mắt, đứng trước mộ Minh Sơn vái mấy cái rồi nói với Thanh Thanh rằng:
- Ta sẽ giết những kẻ thù rồi đưa người trở lại nơi nầy hành quyết cúng tế ba anh em.
Thanh Thanh rơi lệ chẳng đáp nửa lời, vì nàng hiểu rõ tính tình của Minh Đạt rất là ác độc. Những người ông ngoại của nàng từ trước đến này vẫn không bao giờ từ bỏ tính hiểm độc và tham lam.
Thanh Thanh tự hiểu Minh Đạt khống chế nàng để làm con tin chờ sau khi chiếm bảo vật rồi sẽ mổ tim nàng để tế mộ.
Tế mộ xong, Minh Đạt đưa Thanh Thanh vào khách điếm, trói gô nàng nằm lên giường.
Trời tối dần!
Thanh Thanh bị trói nằm trên giường nhớ tới Thừa Chí. Nàng giận chàng vì chàng có quá nhiều người con gái theo chàng.
Thanh Thanh ngộ nhận Uyển Nhi và A Chín đã có tình với Thừa Chí nên nổi cơn ghen tức bỏ đi.
Và vì vậy, nàng mới gặp khốn khổ thế này. Thanh Thanh rơi nước mắt, sự thật trong thâm tâm của nàng chẳng còn muốn sống làm gì trên thế gian nữa vì nàng nghĩ mình đã mất người yêu.
Trời trở về khuya, trong khách điếm đã im vắng tiếng người, chỉ còn Minh Đạt nằm đọc quyển sách gì đó.
Chợt nghe có tiếng động thật khẽ ở phía ngoài cửa sổ. Tiếng động như chiếc lá rơi.
Là một kẻ giang hồ lão luyện, Minh Đạt hiểu ngay có kẻ đang tới đứng bên cửa sổ rình rập.
Ông ta nhỏm người lên nhẹ như sợi tơ hồng, bước lại gần bên cửa sổ lắng tai nghe.
Tiếng động phía ngoài mạnh hơn, hình như người kia đang sắp sửa bỏ chạy vì phát giác bên trong có người.
Soạt!Lẹ như chớp, Minh Đạt mở toang cánh cửa sổ phóng ra ngoài vừa lúc ba mũi phi tiêu bắn vào mặt lão.
Minh Đạt đưa tay bắt lấy ba mũi phi tiêu đưa mắt nhìn thì nhận ra có một chiếc bóng chạy đằng xa.
Không bỏ lỡ cơ hội, Minh Đạt phóng mình đuổi theo chiếc bóng kia thật gấp. Lão nhất định bắt xem tên kia là ai.
Phía trước chiếc bóng kia cứ chạy, đằng sau Minh Đạt rượt theo thật gấp.
Ra tới ngoại ô chiếc bóng kia chợt biến mất chẳng hiểu đi đằng nào.
Minh Đạt ngưng bước đưa mắt nhìn quanh khắp tìm chiếc bóng kia xem đang trốn ở nơi nào.
Bỗng lão kêu lên:
- Chết! Ta đã trúng kế “Điệu hổ ly sơn” của mụ Hà Hồng Dược rồi!
Minh Đạt khẩn cấp chạy trở về khách điếm, vừa tới đã thấy cánh cửa phòng mở toang.
Lão đưa mắt nhìn vào trong thì không còn trông thấy Thanh Thanh nữa. Lão phóng người vào nhận ra còn mấy sợi dây trói cô gái bị cắt đứt bởi một loại kiếm rất sắc.
Đương nhiên kẻ kia đã bắt cóc Thanh Thanh đi từ lúc Minh Đạt rượt theo chiếc bóng kia...
o0o
Thật thế, kẻ bắt cóc Thanh Thanh chẳng ai khác hơn là Hà Hồng Dược.
Mấy ngày qua, ả nầy đã theo sát bên lưng anh em Minh Đạt và ả đã cho đánh độc chết ba người, giờ ả dùng quỷ kế bắt Thanh Thanh.
Hà Hồng Dược bắt cóc nàng không phải vì bảo vật như Minh Đạt mà chỉ vì mối tình hận năm xưa.
Hà Hồng Dược nhất định bắt buộc nàng phải đến tới chỗ trú ngụ của Kim Sà Lang quân để tìm người yêu cũ và sau đó sẽ giết nàng thay thế cho mẫu thân nàng.
Cái ghen của bà ta quả thật là kinh khủng chưa từng trông thấy trên mặt giang hồ. Thanh Thanh vẫn hiểu như thế, nhưng cũng chỉ vì ghen tức Uyển Nhi và A Chín mà nàng bỏ đi và nàng không cần đến cái mạng sống của nàng nữa. ý định của nàng cũng tự quyết trước mộ phần của song thân sau khi mai táng.
Trưa nay, Hà Hồng Dược dẫn Thanh Thanh đi trên một con đường vắng vẻ. Thanh Thanh nhìn phía trước có hai người đang đi sát bên nhau.
Một ông đạo sĩ già và một người lái buôn đứng tuổi vừa đi vừa trò chuyện. Thanh Thanh nhận ra hai người đó là Mộc Tang đạo nhân và đại sư huynh của Thừa Chí, Hoàng Chân. Nàng biết rõ hai người ấy võ nghệ giỏi hơn mụ ăn xin nầy nhiều nhưnghễ cứ hơi cử động một tí là bị năm ngón tay chất độc của mụ nọ đâm vào cổ họng liền.
Lại nghe tiếng Hoàng Chân cười nói:
- Trong vài ngày nữa, sư phụ cháu thế nào cũng hồi sơn, và tiểu sư đệ một hay hai ngày cũng sẽ tới, lúc ấy đạo trưởng khỏi lo không có đối thủ đánh cờ.
Mộc Tang hà hà cười nói:
- Nếu không vì ham đánh mấy ván cờ thì lão đạo sĩ này lên núi dự buổi họp của phái Hoa Sơn các anh làm quái gì?
Vừa cười vừa nói, hai người càng đi càng xa.
Di mãi rồi hai người cũng lên tới đỉnh núi hoa sơn. Biết võ nghệ của đệ tử phái Hoa Sơn cao siêu khôn lường lại thêm họ hội họp trên núi, Hà Hồng Dược phải cúi đầu xuống, không dám sơ ý, rồi từ từ bò lên trên mỏm núi, lấy giây thừng ra cột vào cành cây cổ thụ, còn một mẩu giây cột vào thân mình với Thanh Thanh, cho thòng lòng xuống dưới vách núi.
Không tới lưng chừng, Thanh Thanh bỗng trông thấy một cái động nhỏ, liền nói:
- ở đây này.
Trống ngực đập thật mạnh, vì mấy chục năm nay, Hà Hồng Dược ngày đêm vẫn hằng mong nhớ con người phụ bạc, nay lại gặp gỡ nơi đây, có lẽ mình sẽ dầy vò y một hồi, rồi đánh chết cho hả dạ nhưng cũng có lẽ mình không nhẫn tâm, và sẽ tha thứ cho chàng. Nghĩ tới sự sắp gặp mặt đến nơi, mụ ta cảm thấy chân tay run bây bẩy, gan bàn tay toát mồ hôi lạnh. Mụ dùng tay phải bới những gạch đã dựng ở xung quanh cửa động cho rộng để chui vào.
Cửa động này, Kim Sà Lang quân xây rất chật hẹp, sau nhờ có Thừa Chí dùng Kim Sà Kiếm phá rộng nên bây giờ hai người mới chui được vào không khó như trước nữa.
Đề phòng Kim Sà Lang quân tập kích, mụ ăn xin bắt Thanh Thanh phải bò vào trước, còn mụ ta theo sau. Vừa bò vào phía bên trong động, Thanh Thanh vừa khóc lóc rất thảm thiết. Tới phía trong, thấy tối quá, Hà Hồng Dược phải đánh đá lửa, đốt dây thừng để soi sáng, rồi đưa cho Thanh Thanh cầm để chiếu lối đi. Thanh Thanh nghĩ:
“Lấy dây thừng thay đuốc thế này nhỡ cháy hết đoạn dây nầy thì lấy gì mà leo lên trở về? Đằng nào ta cũng đã định chết ở đây để được gần gũi cha mẹ rồi nhưng chẳng lẽ mụ ta cũng không muốn trở về nữa chăng.” Sự thật thì Hà Hồng Dược cũng đã quyết được chết ở trên nầy rồi.
Càng đi vào sâu càng cảm thấy động nầy hình như không có người ở, mụ nọ trong
lòng càng sinh nghi. Đột nhiên mụ ta nắm lấy cổ Thanh Thanh quát hỏi:
- Ngươi vừa đánh lừa ta, người sẽ chết khổ, chết sở!
Vào thêm mấy bước, dưới ánh sáng dây thừng hai người trông thấy phía trước mặt có một thạch thất rất rộng. Hà Hồng Dược vội cầm dây thừng ở tay Thanh Thanh lên soi, thấy bốn vách có khắc những đồ hình luyện võ, và còn thêm một hàng chữ như sau: “Trọng báu bí thuật, tặng kẻ hữu duyên, vào trong cửa này, gặp họa chớ oán.”
Tuy ở với nhau không lâu lắm nhưng bút tích của Kim Sà Lang quân thế nào, Hà Hồng Dược có thể nhận ra ngay. Thấy chữ viết trên vách, mụ ta nhận ngay ra bút tích của người yêu, nhưng mụ ta không thấy hình bóng Kim Sà Lang quân đâu cả. Trong lòng đau đớn như bị dao cắt, mụ lớn tiếng kêu gọi:
- Tuyết Nghi, anh ra đây đi!
Lát lâu không thấy trả lời, mụ định thần giây phút, quát hỏi Thanh Thanh rằng:
- Y đi đâu rồi?
Thanh Thanh vừa khóc vừa chỉ xuống dưới đất, trả lời:
- Cha tôi ở dưới này!
Hai mắt tối sầm, Hà Hồng Dược vội nắm tay Thanh Thanh, và suýt nữa đã bị chết giấc ngã lăn ra đó. Với một giọng nói khàn khàn và run run, mụ ta hỏi:
- Ngươi nói gì vậy?
Thanh Thanh đáp:
- Tôi nói là thi hài cha tôi được mai táng ở dưới đất này đấy!
Hà Hồng Dược ngẩn người ra nói:
- ồ... thế ra là... y... y đã chết rồi!
Lúc nầy, mụ ta không thể nào đứng vững được nữa, ngã ngồi phịch xuống tảng đá mà Kim Sà Lang quân vẫn thường dùng để tọa luyện nội công, hai tay mụ ôm lấy đầu, trong lòng đau đớn hết sức. Nỗi căm hờn từ mấy chục năm nay tiêu tan ngay trong chốc lát và những cảnh âu yếm xưa kia nay hiện cả ra trước mắt. Mụ khẽ nói:
- Cô mau ra ngoài kia đi! Tôi tha thứ cho cô đấy!
Lúc đó trông mụ ta rất thương hại. Thanh Thanh bỗng cảm thấy trong lòng nẩy nở mối tình tương liên và thương xót. Nàng nghĩ tới cha mình phụ bạc mụ ta và Thừa Chí cũng phụ bạc mình. Vì mối giây đồng bịnh ấy, nàng đột nhiên chạy lại ôm lấy mụ ăn xin mà khóc lóc rất thảm thiết.
Hà Hồng Dược nói:
- Cô hãy mau may ra khỏi nơi này đi, kẻo để giây thừng nầy cháy thêm một khúc nữa thì cô không còn hy vọng lên được tới đỉnh núi nầy nữa đâu!
Thanh Thanh hỏi:
- Còn bà thì sao?
Hà Hồng Dược đáp:
- Tôi ở lại đây với cha cô.
Hà Hồng Dược ngồi thừ mặt ra, chẳng nói chẳng rằng và cũng không thèm để ý gì tới Thanh Thanh nữa rồi bỗng nhiên như điên cuồng, ra tay cào đất lên.
Thanh Thanh giật mình hỏi:
- Bà làm gì thế?
Hà Hồng Dược vẻ mắt thê thảm đáp:
- Tôi mong nhớ anh ta từ hai mươi năm nay rồi, tuy bây giờ không còn được gặp mặt anh ta nữa nhưng được trông thấy xương cốt anh ta cũng hả hê lắm rồi. Thấy thần sắc của mụ ta thay đổi khác thường, Thanh Thanh vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Năm chiếc móc tay của Hà Hồng Dược rất lợi hại, khác gì cái bừa sắt, chỉ bớitrong chốc lát đã trông thấy một đống xương tàn rồi. Đó là hài cốt của Kim Sà Lang quân mà năm xưa đã do tay Thừa Chí chôn cất. Nhờ nơi động đó ở trên đỉnh núi cao ráo vô cùng nên xương cốt vẫn còn nguyên vẹn như xưa. Thanh Thanh gục xuống cạnh
đống di cốt của cha mà khóc lóc thảm thiết. Khi bới thấy cái sọ, Hà Hồng Dược vội ôm chặt lấy, vừa khóc vừa hôn, lớn tiếng kêu gọi:
- Hạ lang, Hạ lang, em tới thăm anh đây!
Khóc chán, mụ ta lại còn ca hát những bài ca rất lạ. Thanh Thanh nghe nhưng không hiểu nổi lời ca ấy.
Trong những phút điên rồ, Hà Hồng Dược cứ hôn lấy hôn để cái sọ ấy. Đột nhiên mụ thất thanh la lên một tiếng. Thì ra mặt mụ đã bị vật gì rất nhọn đâm phải một cái.
Mụ vội vàng cầm cái sọ ấy tởi dưới ánh lửa để xem xét, mới hay bộ răng trong sọ có cắn chặt một cái kim thoa nho nhỏ. Vì cái kim thoa ấy nhỏ quá, nên không ai trông thấy. Hà Hồng Dược thò tay moi cái kim thoa ấy ra, ngờ đâu bộ răng cắn chặt quá không sao moi ra được. Chắc Kim Sà Lang quân lúc chết đã cắn chặt cái kim thoa nầy, cho tới khi xác thịt đã rữa hết mà vẫn còn cắn chặt trong mồm. Hà Hồng Dược phải thọc hai ngón tay vào trong mồm cái sọ, dùng sức giật mạnh một cái, cả bộ răng rơi ra, và kim thoa cũng rơi theo xuống đất. Mụ nhặt lên lau chùi hết bụi bẩn, bỗng sắc mặt
thay đổi hẳn, giận dữ quát hỏi:
- Có phải tên mẹ cô là Ôn Nghi không?
Thanh Thanh gật đầu. Hà Hồng Dược vừa đau lòng, vừa uất hận, nghiến răng nói:
- Giỏi lắm, giỏi lắm, anh ta sắp chết mà còn vẫn nhớ tới con tiện tỳ ấy, cắn chặt cái kim thoa của nó trong mồm!
Trông thấy trên chiếc kim thoa có khắc hai chữ “Ôn Nghi”, mụ càng tức giận thêm, đôi mắt như nổ lửa, đột nhiên bỏ kim thoa vào mồm nhai ngấu nghiến đến nỗi bị kim thoa đâm, máu tươi chảy đầy mồm.
Thấy mụ ta như con hổ điên, thần trí bấn loạn, Thanh Thanh biết mình cùng với mụ sắp chết đến nơi, liền mở túi ra, lấy chiếc hũ tro (hài cốt của mẹ) ra, đổ những tro đó vào trong hố. Hà Hồng Dược ngẩn người ra giây lát rồi quát hỏi:
- Cô làm gì thế?
Dốc hết hũ tro xong, Thanh Thanh vun đất lấp hố miệng lẩm bẩm cầu khẩn:
- Cha mẹ có linh thiêng, xin hiện về chứng giám cho con đã hoàn tất nguyện vọng “hợp táng một huyệt” của cha mẹ rồi đó.
Hà Hồng Dược giằng lấy cái hũ, xem xét một lúc, đã hiểu biết là cái gì rồi, liền quát hỏi:
- Hũ nầy đựng tro hài cốt của mẹ cô phải không?
Thanh Thanh từ từ gật đầu. Hà Hồng Dược vung tay đánh luôn một chưởng. Thanh Thanh lùi lại nhưng vẫn không tránh khỏi, bị cái chưởng ấy đánh trúng vai, loạng choạng suýt ngã. Hà Hồng Dược như điên như cuồng, kêu gào thật lớn:
- Cấm hai người được hợp táng một nơi! Ta cấm...Vừa la, mụ vừa bới lung tung, nhưng tro xương đã trộn lẫn với đất rồi, làm sao phân tách ra được? Lửa ghen bốc cháy, Hà Hồng Dược bới hết xương cốt của Kim Sà
Lang quân lên, la lớn:
- Ta phải thiêu hài cốt của anh thành tro, tung xuống núi Hoa Sơn, cho nó bay bổng đi khắp mọi nơi, không bao giờ có thể tụ hợp với con tiện tỳ ấy được!
Thanh Thanh sợ quá, chạy lại quyết thí mạng, mong cướp lấy lại chỗ xương cốt đó. Nhưng võ nghệ của nàng kém mụ ta xa, mới đấu được vài hiệp đã bị mụ ấy giáng cho một chưởng ngã lăn ra đất. Hà Hồng Dược cởi áo ngoài ra bọc lấy chỗ hài cốt ấy để đốt. Mụ dùng khuỷu tay trái đè lên mình Thanh Thanh không cho nàng nhổm dậy, tay phải quạt lửa cho bốc cháy lớn thêm. Chỉ trong giây lát, hài cốt đã bắt lửa, trong động khói tỏa um tùm, Hà Hồng Dược đang ha hả cười, đột nhiên ngửi mùi rất lạ xông
lên mũi liên ngạc nhiên rồi la lớn:
- Hạ lang, anh ác độc lắm!
Thanh Thanh cũng ngửi mũi thơm xông lên mũi, đang ngạc nhiên không hiểu mùi đó ở đâu ra thì bỗng thấy đầu óc choáng váng. Rồi nàng thấy Hà Hồng Dược quỳ xuống trước đống xương đang cháy, dùng mũi hít mạnh những làn khói thơm đang bốc lên, mồm kêu la rùm beng rằng:
- Hay lắm, hay lắm! Sự thật em cũng muốn chết bên cạnh anh mà!
Mụ bỗng ngẩng đầu lên ngắm nhìn Thanh Thanh, vẻ mặt trông rất ghê sợ. Thanh Thanh thét lớn một tiếng, rảo cẳng chạy ra bên ngoài, vừa ra khỏi nơi đó vài trượng, đã mê man và chân tay bủn rủn, ngã lăn ra đất.
Hãy nói, hôm đó Thừa Chí ở tửu điếm, trông thấy dấu hiệu của Hà Hồng Dược đóng trên tường, biết ngay là hiệu lệnh kêu gọi giáo chúng của mụ để đuổi theo kẻ địch. Đồng thời Thanh Thanh đã lọt vào tay anh em họ Ôn. Hai nhóm đó, bất cứ bên nào đắc thắng, Thanh Thanh cũng bị tai họa. Thừa Chí càng nghĩ tới, càng lo sợ cho
nàng, liền cấp tốc phi ngựa đuổi theo.
Suốt dọc đường dò hỏi, chàng mới hay trong bọn anh em họ Ôn đã có ba người bị trúng độc chết. Chàng càng lo lắng thêm, ngày đêm ăn nằm không yên. May thay, căn cứ vào sự theo dõi tung tích của chúng, chàng thấy cả hai nhóm người đều đi về phía Hoa Sơn. Nhờ vậy chàng đỡ phải lo ngại sẽ lỡ kỳ hẹn hội họp.
Khi tới núi Hoa Sơn, Hồng Thắng Hải thấy bãi đất ở cạnh lương đinh có vẻ khác thường, liền dùng khí giới đào thử xem, ngờ đâu lại thấy thi hài của Ôn Minh Đạt chôn tại đó.
Thừa Chí nói:
- Hiện giờ chú Thanh đã lọt vào tay bọn Ngũ Độc Giáo rồi, chúng ta phải mau đuổi theo lên núi đi.
An Đại nương an ủi chàng rằng:
- Lúc nầy là thời kỳ hội họp của phái Hoa Sơn chúng ta, dù Mộc lão sư phụ chưa về, chỉ cần một trong hai sư huynh có mặt trên đó cũng sư sức cứu cô ấy thoát nạn.
Thừa Chí nói:
- Bọn Ngũ Độc Giáo dám táo gan xông lên trên núi Hoa Sơn chắc thế nào chúng cũng có sửa soạn trước nên mới dám tới như vậy. Chúng ta chớ có để cho các sư điệt trong phái ta bị chúng đả thương.
Thôi Hy Mẫn nói:
- Cả Tổ sư gia cũng đã đến rồi, thì sợ quái gì bọn chúng, chúng ta mau mau lên núi đi!
Mọi người liền cỡi ngựa vào một nhà nông, rồi vội vàng lên núi. Lúc sắp lên tới đỉnh núi, mọi người bỗng trông thấy mấy chiếc ám khí nhỏ bay vượt lên trên không phát ra những tiếng kêu “soẹt soẹt”, Thừa Chí mừng rỡ nói:
- Mộc Tang đạo trưởng ở trên kia, ông ta ném ba quân cờ ra hiệu gọi chúng ta đấy.
Nói đoạn, chàng cũng móc túi lấy ba quân cờ ra, ném thẳng lên trời. Một lát sau, ba quân cờ ấy bay lẫn vào trong đám mây, vài phút sao mới thấy rơi xuống.
Thôi Hy Mẫn khen rằng:
- Tiểu sư thúc, hồi này công lực của sư thúc mạnh hơn trước nhiều.
Đang giơ tay ra định thâu hồi mấy quân cờ của mình, Thừa Chí bỗng thấy trên lưng chừng núi có mấy chiếc ám khí bay vọt ra, chỉ nghe “leng keng” mấy tiếng, ba quân cờ của chàng đã bị những ám khí nọ đụng phải bắn ra phía sau, rơi cả xuống đất.
Chàng đang ngạc nhiên thì bỗng thấy Thiết Toán Bàn Hoàng Chân cả cười đi tới. Thôi Hy Mẫn la lớn:
- Sư phụ, không ngờ sư phụ tới trước.
Vừa rồi, chàng vừa chạy tới quỳ xuống vái ba cái. Chàng là người trực tính, khi nào trong lòng hớn hở là lúc vái lạy đầu gõ xuống mặt đất rất mạnh, nên lúc đứng dậy, trán chàng vì va mạnh và mặt đá đã có hai ba chỗ xưng húp. Vừa thương vừa bực tức, Tiểu Tuệ khẽ trách nhẹ chàng. Chàng chỉ nhe răng cười khì, trông rất ngô nghê, ngốc nghếch. Thừa Chí cũng vội tiếng lên chào. Vì nhớ Thanh Thanh, chàng vội hỏi Hoàng Chân có trông thấy tung tích của Thanh Thanh ở đâu không? Hoàng Chân chưa nói gì
thì bỗng hai con đười ươi đột nhiên kêu la loạn xạ, rồi cứ cắm đầu chạy thẳng lên trên sườn núi.
Thôi Hy Mẫn nói:
- Nguy to, hai con đười ươi chạy mất rồi!
Nói đoạn, chàng cất cẳng đuổi theo liền, Thừa Chí nói:
- Nơi đây là cố hương của chúng, về tới chốn cũ, tất nhiên chúng phải vui mừng chạy nhảy chớ? Thôi, cứ để mặc chúng!
Nhưng đôi súc vật này nuôi đã khá lâu rồi, sao lúc đi chúng không có vẻ gì luyến tiếc cả? Ai nấy đều ngạc nhiên về điểm ấy.
Hai con đười ươi càng lên càng cao. Thừa Chí đang nhìn theo bỗng trông thấy trên vách núi có làn khói đen phun ra, mà nơi đó lại là thạch động chôn hài cốt Kim Sà Lang quân, và cũng là nơi mình đã tìm được vật báu. Chàng đang ngạc nhiên chưa hiểu tại sao thì thấy hai conđười ươi ở phía trên con cứ chỉ trỏ ra hiệu, hình như gọi mình lên trên ấy vậy. Tiểu Tuệ cũng trông thấy liền nói:
- Thừa Chí đại ca, hình như hai con đười ươi không phải bôn tẩu đâu. Chúng đang gọi anh đấy.
Thừa Chí trả lời:
- Đúng thế.
Chàng giơ tay ra hiệu, chàng Câm hiểu ý gật đầu liền chạy về thạch thất lấy đuốc và thừng ra, rồi cùng mọi người leo lên triền núi.
Thừa Chí nói:
- Đường lối đi lên trên động chỉ có tôi thuộc hơn hết, vậy để mình tôi đi thôi.
Nói đoạn, chàng xé vạt áo chia ra làm hai mảnh nhét vào lỗ mũi, đốt đuốc đâu đấy, rồi thả giây thừng leo xuống. Hai con đười ươi đứng trên sườn núi và nhảy nhót kêu là loạn xạ, gãi đầu gãi cổ hình như nóng lòng sốt ruột vô cùng.
Thừa Chí chui vào cửa động, thấy khói mù xông ra, vội nhịn hơi nín thở, từ từ đi vào bên trong, quả nhiên trông thấy một người nằm ngang dưới đất. Chàng tới gần xem mới hay là Thanh Thanh. Vừa mừng vừa sợ, chàng để tay vào mũi nàng, không thấy thở, rờ vào ngực nghe trái tim còn đập rất yếu. Lúc ấy trong động vẫn còn ánh sáng lửa, chàng trông thấy một người nữa nằm ở đó, định vào cứu đột nhiên thấy đầu óc choáng váng, chân tay bủn rủn, biết ngay khói mù có hơi độc rất mạnh, vội vã bồng Thanh Thanh ra ngoài cửa động, giật mạnh giây thừng lên một cái. Chàng Câm và
Hồng Thắng Hải ở trên đỉnh núi vội kéo dây thừng lên. Lúc đang kéo lên Thừa Chí thấy xung quanh không có hơi độc, mới dám hít mạnh vài hơi, bỗng nghe trong bụng khó chịu vô cùng, không sao chịu được, nôn ọc ra một đống thật lớn. Mọi người đều lo ngại, chỉ sợ chàng bị nội thương cáng đáng không nổi, tuột tay một cái là cả hai người đều bị rơi xuống dưới thung lũng. Hồng Thắng Hải và chàng Câm vừa kéo vừa lo sợ.
Hai chú cháu Thôi Thu Sơn vội vàng chạy lại phụ giúp.
Khi Thừa Chí và Thanh Thanh sắp lên tới đỉnh núi thì trong động bỗng có tiếng nổ thật lớn, khói bốc lên mù mịt, đá vụn bắn tứ tung. Mọi người đều giật mình kinh hãi. Hồng Thắng Hải suýt buột tay, may chàng Câm vì tai điếc nên không nghe gì, vẫn bình tĩnh kéo dây lên, lại thêm sức khỏe hơn người, mới cứu được Thừa Chí và Thanh Thanh khỏi nguy.
Lên tới đỉnh núi, hai chân bủn rủn, Thừa Chí đứng không vững ngã quỵ xuống.
Mộc Tang đạo nhân vội xoa bóp cho chàng. Lúc ấy trong động vẫn còn tiếng nổ phát ra liên tiếp, ai nấy không hiểu tại sao trong lại có lắm thuốc nổ như vậy? Và cũng không hiểu ai ở trong ấy quấy nhiễu như thế, đều ngơ ngác nhìn nhau. Một lát sau, Thừa Chí từ từ tỉnh dậy, vẫn còn thấy mỏi mệt vô cùng liền nói:
- Hiểm thật!
Một lúc sau, Thanh Thanh cũng tỉnh lại, trông thấy Thừa Chí vội òa lên khóc. Thấy hai người đã thoát khỏi nguy hiểm, mọi người mới được yên trí. Tất cả ở trên đỉnh núi nghỉ ngơi một hồi lâu, không nghe tiếng nổ nữa. Thôi Hy Mẫn xin leo xuống điều tra xem. Thôi Thu Sơn buộc giây vào lưng chàng, để nhỡ gặp nguy là kéo lên ngay. Khi thòng xuống tới động, Thôi Hy Mẫn kiếm mãi không thấy cửa động đâu cả.Vì những đá vụn ở trong động bắn ra đã lấp kín mất cửa động rồi. Chàng đành phải ra hiệu cho bên trên kéo lên. Khi tỉnh táo lại như thường, Thanh Thanh mới từ từ kể hết
chuyện đã xảy ra ở trong động cho mọi người nghe. Mộc Tang đạo nhân than thở nói:
- Năm xưa bần đạo thấy Kim Sà Lang quân đặt nhiều tên nhỏ trong hộp sắt để bẫy người, đã cho là khôn khéo lắm rồi, ngờ đâu lại còn hơn thế nữa.
Hoàng Chân nói:
- Có ngời đâu, ông ta lại còn tự lấy thuốc độc vào xương cốt nữa.
Tròn xoe đôi mắt, Thôi Hy Mẫn ngạc nhiên hỏi:
- Sư phụ, ông ta làm thế nào mà tự cấy thuốc độc vào trong xương cốt được? Người ta khi chết rồi đã trở nên bộ xương khô, làm sao còn bỏ thuốc độc vào trong xương cuả mình như thế được?
Hoàng Chân vừa cười vừa mắng:
- Chờ khi nào mầy quy thiên rồi, mầy thử bỏ thuốc độc vào trong cốt ngu ngốc của mầy xem.
Mọi người đều cười ồ. Thôi Hy Mẫn phùng mồm bĩu môi nói:
- Người ta không biết mới hỏi chớ!
Thừa Chí nói:
- Hạ lão sư Kim Sà Lang quân là người đa mưu túc kế, giỏi tính toán. Ông ta tự biết bình sinh kết nhiều thù oán, sau khi chết tất có người tới hủy hoại di hài của ông ta để cho đỡ tức. Ông ta đã thiện sử dụng chất độc, nên lúc hấp hối ông ta đã uống một thứ thuốc độc thật mạnh để ngấm vào xương cốt.
Lúc nầy mới vỡ lẽ, Thôi Hy Mẫn vỗ đùi đến “đét” một cái, rồi la lớn:
- Tôi biết rồi, nếu có ai tới đốt xương cốt của ông ta, khói độc bốc lên có thể giết chết được kẻ thù... Nhưng tại sao trong động có nhiều tiếng nổ lớn như thế? Chẳng lẽ ông ta còn cho cả thuốc nổ vào trong xương tủy chăng?
Tiểu Tuệ nói:
- Cho làm sao thuốc nổ vào trong xương tủy được? Tôi chắc ông ta chôn thuốc nổ ở dưới đất.
Thừa Chí nét mặt buồn rầu thở dài đáp:
- Bà mẹ của chú Thanh có trối lại muốn được chôn cùng với ông ta. Hiện giờ hài cốt của hai người tuy đã hóa ra tro nhưng cũng đã được hợp táng một nơi một chốn rồi.
Thôi Hy Mẫn lè lưỡi ra, tỏ vẻ vô cùng kinh hãi rồi nói tiếp:
- Có thể đối phó với kẻ thù của mình được. Mụ ác phu Ngũ Độc Giáo bị chết như thế cũng đáng kiếp lắm.
Thừa Chí nói:
- Tuy oán độc quá nỗi, nhưng bà ta si tình như vậy, kể cũng tội nghiệp thật!
Luôn tay vuốt ve hai con đười ươi, Tiểu Tuệ nói:- Nếu không nhờ hai con thú nầy phát giác thì chỉ chậm một tí nữa không những chị Thanh Thanh không ra được, mà cả anh Thừa Chí cũng bị chôn vùi trong động vì thuốc nổ mất.
Mọi người đều nhận thấy lời nói của Tiểu Tuệ là đúng. Như vậy đủ thấy súc sinh tinh khôn có khi còn hơn loài người. Mọi người vừa trò chuyện vừa đi lên núi .
An Đại nương và Tiểu Tuệ đỡ Thanh Thanh vào trong thạch thất, rửa mặt và thay áo quần cho nàng xong, đỡ nàng lên giường nằm nghỉ.
Trúng độc khá nặng, Thanh Thanh đã uống thuốc giải độc linh đơn của Mộc Tang rồi, nhưng thuốc độc của Kim Sà Lang quân chế theo đơn bí truyền của Ngũ Độc Giáo nên thuốc giải độc thường không sao chữa khỏi được.
Sáng ngày hôm sau, tuy ngủ được một đêm, mặt nàng đầy những hắc khí, bịnh càng trầm trọng thêm, có lúc mê mẩn, có khi khóc lóc kêu la, nói mê nói sảng, cứ trách Thừa Chí phụ bạc. Thấy Thừa Chí ngượng nghịu, mọi người vừa buồn cười, vừa lo ngại, thấy chàng không vui, đều lẳng lặng rút ra bên ngoài.
Thừa Chí an ủi Thanh Thanh, thề không phụ bạc, không yêu người khác. Mặt Thanh Thanh lúc này hồng hào, khi thì xám đen, mồm cứ mãi ộc ra nước đen. Thấy vậy, Thừa Chí cuống cả chân tay, đành phải thúc thủ nằm cạnh nàng khóc thầm.
Mọi người ở bên ngoài bàn tán xôn xao, đều trách Kim Sà Lang quân dụng tâm quá độc, mới hại người hại khiến con gái bị liên lụy như vậy. Ai nấy chán nản không còn tâm trí đâu mà ăn cơm nữa.
Hoàng hôn sắp tới, hai con đười ươi kêu la om sòm, bên ngoài có tiếng người ồn ào, thì ra vợ chồng Quy Tân Thụ dẫn Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh, và Tôn Trọng Quân, tất cả sáu người đã tới. Nghe nói Thanh Thanh trúng độc, Quy Nhị nương liền lấy Phục Linh Thủ Ô hoàn của con uống thừa cho nàng uống. Nhờ vậy nàng mới ngủ yên một giấc.
Một lát sau, đệ tử của Hoàng Chân dẫn tám sư đệ và hai đứa con tới, liền tiến lên vái chào Mộc Tang đạo nhân trước rồi vái chào sư phụ vợ chồng nhị sư thúc. Y thấy Thừa Chí nhỏ tuổi hơn cả đứa con lớn, khi quỳ lạy có vẻ không muốn, nên chỉ chào một tiếng:
- Sư thúc!
Giọng nói của y rất ngượng ngạo. Thừa Chí thấy người sư điệt đó bốn mươi tuổi, dáng người to lớn vạm vỡ, gân cốt cứng như gang thép, cao hơn mình một đầu, trong lòng khen thầm, liền nghĩ: “Đại sư huynh anh hùnh như vậy, phải có nhân tài xuất chúng như người này mới đáng là đệ tử trưởng môn của anh ta. Thôi Hy Mẫn võ công đã kém người lại lỗ mãng, so sánh với người này thật kém xa quá.” Chàng đang nghĩ thầm, thấy người nọ sắp quỳ xuống vội giơ tay ra cản, và xua tay bảo chín đệ tử kia
rằng:
- Tất cả khỏi phải lễ phép như thế nữa!
Thôi Hy Mẫn đứng cạnh đó liền giới thiệu:
- Sư thúc, vị đại sư huynh của cháu đây họ Phùng tên là Nan Địch, các giới giang hồ ban cho anh ta biệt hiệu là Bát Diện Oai Phong (oai phong tám mặt).
Thừa Chí hỏi:- Chắc Phùng huynh đã học được hết chân truyền của đại sư ca rồi?
Hoàng Chân biết Phùng Nan Địch không muốn quỳ trước một sư thúc còn ít tuổi như vậy, vì y là người có tên tuổi trên chốn giang hồ, cần phải giữ sĩ diện, nên ông ta cũng không muốn cưỡng ép y làm gì. Hơn nữa tánh ông ta hay vui đùa, không bao giờ chú trọng đến lễ nghi phiền phức cả, cho nên chỉ cười một hồi rồi thôi. Phùng Nan Địch nói vài câu khiêm tốn khách sáo, rồi sai con lớn Phùng Bất Phá, con thứ Phùng Bất Thôi, vái chào mọi người.
Phùng Bất Phá năm nay đã hai mươi mốt tuổi, Phùng Bất Thôi thì mười bảy, cả hai anh em đều nhờ tên tuổi lừng lẫy của cha mà các anh hùng hào kiệt ở miền Tây Lương đều phải kiêng nể, và anh em y cũng có đôi chút võ nghệ thật sự. Chúng thấy Thừa Chí tuổi mới có đôi mươi đã là sư thúc tổ, cao hơn chúng những hai bậc, tuy phải miễn cưỡng quỳ lạy, trong lòng vẫn không phục tí nào, lại thấy đôi mắt của Thừa Chí vừa sưng vừa đỏ ngầu, lúc ra tiếp khách nước mắt chưa ráo hẳn. Hai anh em chúng đều nghĩ: “Con người chưa hết hôi sữa như thế này chắc võ nghệ cũng tầm thường thôi.”
Anh em y biết Tôn Trọng Quân là người rất hiếu thắng, võ nghệ lại cao cường nên đêm hôm ấy, chúng bàn tán định súc siểm Tôn Trọng Quân sư cô đấu võ với tên tiểu sư thúc tổ, để cho mất hết sĩ diện một phen chơi.
Chúng nghĩ dù cha chúng và sư tổ hay chuyện cũng không thể nào trách cứ được.
Vì vậy sáng sớm ngày hôm sau, hai anh em dậy thật sớm đi kiếm Tôn Trọng Quân, ngờ đâu lại gặp bác sư thúc Thạch Tuấn. Chúng biết Thạch Tuấn cũng là người ít tuổi hiếu thắng, võ nghệ cũng giỏi như chúng, vì mặt bên phải có vết máu, người ta ban cho cái tên là Thanh Diện Thần. Thấy anh em họ Phùng có vẻ đang đi kiếm người, y liền quát hỏi:
- Nầy, anh em cậu định làm trò quỷ gì thế?
Phùng Bất Thôi cười đáp:
- Chúng tôi đi kiếm Tôn sư cô. Nghe nói cô ta ở Sơn Đông hạ rất nhiều anh tài của phái Bạt Hải, chúng tôi định yêu cầu cô ấy kể lại những chuyện đó cho nghe đấy.
Thạch Tuấn cười nói:
- Thế à. Vừa rồi tôi trông thấy cô ta luyện võ với Mã sư huynh ở phía sau núi kia.
Ba người hớn hở chạy tới phía sau núi. Anh em họ Phùng vừa đi vừa nghĩ kế xúi dục Tôn Trọng Quân đi kiếm Viên tiểu sư thúc để đấu võ.
Phùng Bất Thôi khẽ nói:
- Nếu Tôn sư cô còn luyện kiếm ở đó thì anh em ta nói tên họ Viên bảo những đường kiếm của nàng sai bét.
Phùng Bất Thôi cười gật đầu tỏ ý tán thành. Ba người vừa đi tới sơn hậu đã nghe tấy tiếng quát mắng của Tôn Trọng Quân, đều ngạc nhiên vô cùng. Phùng Bất Thôi liền tiến lên xem, thấy Tôn Trọng Quân tay cầm cái móc đang đuổi một người. Người đó trạc độ ba mươi tuổi, vẻ mặt phẫn uất, vừa chạy vừa chửi:
- Con giặc cái, con ác phụ...Y lại múa đao quay lại đấu với Tôn Trọng Quân, nhưng võ nghệ y kém hơn cho nên đánh một hồi lại bỏ chạy, có điều lạ là y không chạy xuống núi, chỉ kiếm các nơi hẻo lanh mà chạy quanh thôi, hễ có cơ hội may là y lại quay lại đánh.
Phùng Bất Thôi nói:
- Chúng ta tiến lên đón đường tên nọ đừng để cho nó tẩu thoát.
Thạch Tuấn nói:
- Tôn sư tỷ không thích người ta giúp sức đâu. Vả lại nàng dư sức thắng tên nọ.
Lúc ấy người nọ kêu la om xòm:
- Mi giết chết vợ ta và ba đứa con thơ thì thôi chớ? Tại sao mi lại còn đang tâm giết cả bà mẹ trên bảy mươi của ta?
Mặt Tôn Trọng Quân lạnh lùng như sương tuyết, quát lớn:
- Ngươi là côn đồ vô sỉ, nhà người còn thêm vài người nữa ta cũng giết tất!
Hai người càng đấu càng kịch liệt, Phùng Bất Phá nói:
- Tại sao Tôn sư cô không dùng kiếm? Cái đơn câu nầy hình như cô không hợp sử dụng thì phải?
Thạch Tuấn và Phùng Bất Thôi cũng thấy khí giới của nàng không hợp dùng thực.
Thạch Tuấn liền rút luôn thanh kiếm của mình ra, quay đầu kiếm ném cho nàng và gọi:
- Tôn sư tỷ, tiếp lấy kiếm này.
Thanh kiếm đó đang nhằm phía Tôn Trọng Quân bay sang, ngờ đâu vừa tới quãng giữa, bỗng có một người ở trong bụi rậm nhảy ra bắt luôn kiếm đó. Ba người giật mình kinh hãi, thấy khinh công của người ấy vừa nhanh chóng vừa đẹp đẽ, đều phải khen thầm. Chờ tới khi người đó đứng yên, nhìn rõ mặt, mọi người mới hay là Mạt ảnh Tử Mai Kiếm Hòa, đại đệ tử của Quy sư thúc.
Thạch Tuấn liền kêu gọi:
- Mai sư huynh!
Mai Kiếm Hòa gật đầu chào, rồi ném kiếm trả lại Thạch Tuấn và nói:
- Tôn sư muội luyệt tập sử dụng khí giới khác, không dùng kiếm nữa.
Lúc nầy Thạch Tuấn mới vỡ lẽ nhưng chàng không hiểu Tôn Trọng Quân vì lạm sát những người lương thiện bị Mộc lão tổ sư cấm chị sử sụng kiếm.
Lúc nầy người nọ đấu với Tôn Trọng Quân đang hăng hái nhưng vì võ nghệ kém hơn, không bao lâu bị Trọng Quân đá trúng cổ tay, con đao của y rời khỏi tay bắn ra đằng xa. Tiếp theo đó, Trọng Quân dí luôn đoản câu vào ngực tên nọ, đang định đưa mạnh một cái là tên nọ thủng hông và chết ngay, Mai Kiếm Hòa vội lên tiếng gọi:
- Hãy khoan!