-
Chương 41 - Lại gặp lại nhau
Chương 41
Lại gặp lại nhau
Câu nói của Dương Qua làm cho 2 nàng thấy rõ ràng trước mặt một đường đối phó rất kiến hiệu. Cả 2 bằng lòng ở lại đối phó chứ ko đi đâu hết.
Trình Anh nói:
- Trận loạn thạch mà Quách phu nhân đã bày ra giúp cho tôi dựa theo mà bổ cứu nhưng chỗ cần thiết. Chứ nếu một mình tôi mà đem ra bày thì ko làm nổi. Tuy nhiên chúng ta cũng cứ làm thử xem sao? ơn trời phù hộ tới đâu hay tới đó. Bây giờ chị giúp em một tay nhé.
Thế rồi cả 2 nàng đi tìm cuốc xẻng chạy ra khỏi căn nhà, cùng đào đá súc đất làm theo sơ đồ của Trình Anh phát hoạ. Hì hục không bao lâu, tiếng gà đã bắt đầu gáy sáng. Hai người mồ hôi nhễ nhãi, quần áo lấm lem, nhưng thế trận cũng đã bày xong rồi. Trong qua đã thấy huyền diệu lạ thường không khác gì trận loạn thạch của Hoàng Dung hôm nọ.
Xem qua ngắm lại một chặp, Trình Anh nghĩ bụng:
- Tài hiểu biết của Hoàng Dung hơn mình gấp bội, nhưng nếu có bà ở đây, xem trận này, chắc cũng phục ta ít nhiều chứ chẳng không đâu.
Bụng nghĩ thế, nhưng bên ngoài vẫn điềm nhiêm ko dám thố lộ cho Dương Qua và Lục vô Song biết vì ngại 2 người chê cười mình là ng tự cao tự đại.
Dưới ánh trăng sáng rõ, Lục vô Song nhìn thấy vẻ mặt của Trình Anh có vẻ tự mãn và vui vẻ thì cũng mừng thầm, tuy nhiên nàng cảm thấy e ngại cho mình, nên vội bước vào nhà lục bọc lấy ra một cuốn sách, cầm giao cho Dương Qua và nói:
- Cậu Ngốc, hãy xem , đây là cuốn Ngũ độc kỳ thư của sư phụ tôi đấy. Dương Qua thấy cuốn sách ấy bao bằng một cái bìa đỏ như màu huyết. Chàng đang ngẫm nghĩ chưa nói gì thì Lục vô Song nói tiếp:
- Tôi nói dối cùng sư phụ là bọn Cái Bang đã cướp mất cuốn sách này mất rồi. Nay muốn khỏi trở về tay bà ấy, thì anh nên đọc xong rồi đem đốt đi cho xong chuyện...
Dương Qua thấy nàng buồn, cũng ko nói gì hơn, chỉ gật đầu rồi đưa tay nhận
cuốn sách. Lục vô Song lại lấy trong bọc ra một vuông lụa rồi dặn nhỏ Dương
Qua: Nếu chẳng may bị sa vào tay Lý mạc Thu, thì khi nào hắn định giết anh,
hãy trao tấm lụa này cho hắn may ra khỏi chết." Dương Qua cầm tấm lụa xem kỹ,
thấy một mặt tơ sù lông chứ ko được láng như lụa dệt trong nước. Có lẽ đay là
một thứ lụa của nước ngoài. Trên mặt lụa có thêu một đoá bông hồng rất đẹp,
nhưng bông hồng bị cắt làm đôi, chỉ còn vỏn vẹn có một nữa mà thôi.
Dương Qua ko chịu nhận, vì chẳng hiểu đây là vật gì. Chàng trả lại cho Vô
Song và nói: -Vật chi đây, tôi ko hiểu gì hết.
Lục vô song đáp: Nhờ anh trao vật này cho Lý mạc Thu, được ko?
Dương Qua gật đàu, đưa tay tiếp nhận rồi để bên gối cạnh đầu giường.
Lục vô Sông ko chịu. Nàng lấy miếng lụa rồi vạch áo Dương Qua nhét vào
bụng. Khi tay nàng chạm vào thịt của Dương Qua, nàng bỗng có cảm giác khác
hẳn, trong ng thấy nóng bừng bừng những cảm giác hồi 2 người "tiếp cốt" trên
quãng đường Quan Thiểm, cùng chung chăn chung gối, bỗng gợi lại trong ký ức
nàng, khiến nàng cảm thấy cõi lòng dào dạt, và tim đập mạnh. Nhưng vì hoàn
cảnh bất tiện, nàng ko còn cách nào hơn là đắm đuối nhìn chàng rồi từ từ bước
ra khỏi cửa. Chờ một chặp cho sóng lòng lắng dịu, Dương Qua mở cuốn Ngũ độc
kỳ thư ra xem, thấy sách cũ quá, bao nhiêu tranh dính với nhau và giấy đã ngã
màu vàng sậm. Trong các tờ đầu, sách có chép nhiều phương thuốc khắc chế và
trừ các loại thứ độc, chế ra hơi độc, và luyện thuốc chữa độc kể cả nọc rắn
nữa.
Xem hết cuốn sách từ đầu chí cuối, Dương Qua chép miệng than thầm:
Mẹ ta đã chết vì nọc rắn. Giá lúc trước ta xem được sách này thì mẹ ta ko
bị chết, và ngày nay ta đâu đến nỗi trở thành một đứa con mồ côi mồ cút, tứ
cố vô thân như thế này. Càng nghĩ càng chua xót cho thân phận mình, chàng cảm
xúc quá, sục sùi khóc, nước mắt rơi xuống làm nhoè cả mấy trang giấy cũ. Bỗng
có tiếng kẹt nơi cửa, Dương Qua giật mình ngó lên. Trình Anh bước vào, mặt
mày tiều tuỵ, hai gò má hãy còn ngấn lệ đến gần giường, rút trong bọc ra một
miếng lụa đưa cho chàng và bảo nhỏ:
Anh hãy giữ kỹ tấm lụa này. Khi nào bị Lý mạc Thu bắt anh chỉ cần đưa
mảnh lụa này ra thì tự nhiên thoát nạn. Dương Qua ngạc nhiên thấy miếng lụa
này giống hệt như nửa mảnh của Lục vô Song vừa trao cho mình. Tuy ngạc nhiên,
nhưng chàng cũng cầm lấy. Trình Anh hình như bẽn lẽn lắm, bèn ghé miệng gần
tai chàng dặn nhỏ:" Chàng đừng nói cho chị tôi biết chuyện này nhé." Nói dứt
lời, nàng đi thẳng ra ngoài. Dương Qua lấy hai mảnh lụa của 2 người vừa giao
cho mình đem ướm thử thì đây chỉ là một miếng xé làm đôi. Nhìn 2 mảnh lụa
gấm, chàng bâng khuâng dự đoán:" Một mảnh bông hồng thêu trên lụa gấm, mảnh
lụa lại xé làm đôi do mỗi người giữ một nửa. Khi 2 người cầm giao cho mình
thì ai cũng có vẻ bẽn lẽn và căn dặn mình ko nên cho người kia biết. Lạ một
nổi là họ cam đoan khi đưa mảnh lụa gấm cho Lý mạc Thu thì nhất định ko bị
giết? Như vậy là sao? Thật là kỳ dị và vô cùng bí mật. Chàng cứ ngồi lặng yên
trên giường suy nghĩ mãi, bỗng đâu tiếng gà đã gáy tan canh, ngoài trời ánh
bình minh đã bắt đầu le lói. Sau tiếng gà gáy lại có tiếng tiêu của ai văng
vẳng lên khiến Dương Qua suy nghĩ:
Chắc nàng Trình Anh đã bài trí xong bố trận địa, nên mới đem tiêu ra thổi
giải sầu đây chăng?
Chàng lắng tai nghe kỹ thì đó là bài " lưu ba", tiếng tiêu nghe mềm mại
uyển chuyển, nhưng bên trong ko có tý gì sầu bi, hình như kể thổi tiêu ko gợn
tí ưu phiền. Lập tức chàng cũng lấy cây thất huyền cầm ra hoà theo, tiếng
tiêu hoà lẫn giọng đàn hợp thành một nhạc điệu mê ly, khi thoảng qua như gió
lướt, khi dồn dập như sóng ba đào. Người sành âm điệu nghe tiếng tiêu đàn hoà
điệu cũng phải tấm tắc khen thầm, 2 kẻ tri âm, càng hoà càng thêm hứng thú.
Lục vô Song đang ngồi trong các mô đất trong thổ trận, lắng tai nghe em cùng
Dương Qua hoà tấu. Mặt trời đã lên dần, phương Đông đỏ rực như nhuộm màu, Lục
vô Song nghĩ bụng:
-Lát nữa đây Lý mạc Thu sẽ tới, mạng ta ắt ko còn, nhờ vuông lụa gấm
Dương Qua và em ta sẽ sống sót được. Âu cũng là một niềm an ủi cho ta nếu Lý
mạc Thu nhìn thấy kỹ vật cũ mà tha cho 2 người.
Bản tính của Lục vô Song xưa nay hay ganh tỵ, thế mà đối với cô em Trình
Anh nàng lại hết lòng hy sinh nhường nhịn, lúc nào cũng mong cho em được cùng
Dương Qua kết duyên chồng vợ, còn nàng dù có thác cũng vui lòng, không lời
oán trách. Nàng đang suy nghĩ viển vông, bỗng có tiếng động từ phía ngoài,
nàng ngước mặt nhìn ra phía thổ trận thì có một bóng thoáng qua, một đạo cô
mặc bào trắng, tay cầm phất trần đứng sừng sững tà áo theo gió mai thổi tung
phần phật.
Lục vô Song " ồ" lên một tiếng khẽ rồi từ từ rút trường kiếm đứng dậy.
Lúc ấy Dương Qua đang mãi mê trong cuộc hoà đàn. Tiếng tiêu hoà lẫn giọng đàn
khi bổng khi trầm như suối reo như nước chảy, bỗng nhiên giọng tiêu nín bặt,
vì Trình Anh bị tiếng đàn của chàng cám dỗ, phải dừng tiếng tiêu lắng nghe.
Ngoài tiếng đàn, nàng ko còn biết đến việc gì khác nữa. Vì vậy mà khi Lục vô
Song" ồ" lớn và đứng dậy tiếp chiến, nàng cũng ko ngờ hay biết.
Lý mạc Thu vừa đến cũng hấp dẫn vì tiếng đàn, đứng lặng yên lắng tai
nghe, không cử động. Ngày còn son trẻ, Lý mạc Thu đã từng cùng người yêu là
Lục Triển Nguyên hoà nhạc với những âm điệu tương tợ, cho nên ngày nay mỗi
khi nghe tiếng tiêu tiếng đàn trong nhạc điệu" lưu ba" thì nàng cũng cảm thấy
tâm hồn say sưa ngây ngất và hồi tưởng lại những thú say sưa của mười năm cũ đã khiến cho con tim rào rạt bao niềm yêu thương của buổi hoa niên.Tiếng đàn quả có một mãnh lực vô cùng huyền diệu, người đang vui nghe đàn, thấy tâm hồn thư thái hân hoan, người đang buồn nghe tiếng đàn lại sinh ra sầu đau yếu thế. Lý mạc Thu đang chán đời, nên khi nghe tiếng đàn ko cầm được cảm xúc,
bỗng ôm mặt oà lên khóc mùi. Quả là một điều ngoài sức tưởng tượng của Lục vô
Song. Nàng ko ngờ một con người háo sát, xem mạng người không bằng con vật
như Lý mạc Thu lại bị tiếng thất huyền cầm của Dương Qua lôi cuốn đến nổi
khóc nức nở như vậy. Lý mạc Thu tới đây ko ngoài mục đích tìm kẻ thù để hạ
sát, không ngờ bị tiếng tiêu giọng đàn lôi cuốn, nàng trở thành như người
sương phụ trông chồng, mãng ngóng trông không thấy chồng đâu đành phải khóc
lớn để trút bớt nỗi ưu tư đang dồn dập trong lòng. Thái độ của Lý mạc Thu
khiến Lục vô Song liên tưởng tới phận mình cũng cảm thấy lòng đau như cắt.
Lý mạc Thu cứ khóc, Dương Qua cùng Trình Anh cùng trỗi khúc" hành vân"
rồi sang " lưu thủy", nghe như tiếng ngọc reo, sắt, vàng va chạm. Thình lình
Lý mạc Thu nín im ko khóc nữa và cất tiếng ca:
- Vấn thế gian,
Tình thị hà vật
Trực giáo sinh tử tương hứa
Thiên Nam địa bắc song phi khách
Lão si kỷ hồi hàn thử
Hoan lạc thú
Ly biệt khổ
Tựu trung canh hữu si nhi nữ
Quân ưng hữu ngữ
Diểu vạn bạch từng vân,
Thiên Sơn một tuyết,
Trích ảnh hướng thuỳ khứ"
Tạm dịch:
" Hỏi thế gian
Tình ái là gì nhỉ?
Sống chết một lời hứa luỵ
Nam bắc phân chia hai đàng
Mưa dầm nắng dãi quan san
Cánh chim bạt gió muôn ngàn khổ đau
Chung qui một kiếp tình sầu
Khi vui gang tấc
Ngàn sầu biệt ly
Biết cùng ai biết ai
Biết nói gì?
Chỉ trông mây núi, người đi không về"
Tiếng đàn giọng tiêu đang hợp tấu những bản đầy hoan lạc, đôi trai gái
đang mãi mê trong giấc mộng mê ly, ko ngờ Lý mạc Thu lai xen vào những lời ca
ngâm vô cùng bi đát, với giọng sầu bi ai oán khiến cho cung điệuvà ý nghĩa
trái hẳn với khúc nhạc Lưu ba thu thuỷ. Giọng hát của Lý mạc Thu cũng hấp dẫn
được Trình Anh, khiến nàng cũng chuyển theo âm điệu ấy. Dương Qua không thể
cưỡng được cũng nắn giây so phiếm hoà theo. Lý mạc Thu càng hát giọng càng
cao vút, khiến cho Dương Qua cảm xúc quá không còn theo được nữa. Chàng buộc
miệng nói lớn:
Em hãy tấu những khúc vui tươi chứ ko nên tấu những bản nhạc ai bi sầu
não quá. buồn quá ko chịu được. Trình anh nghe nói ngừng tiêu tìm lại âm điệu
cho thích hợp. Vừa nghe tiếng tiêu nín bặt, Lý mạc Thu mỉm cười hãnh diện và
nghĩ thầm:
Thấy chưa, khi cô nương đã ra tay thì dù chúng bây có vui cũng hoá ra
buồn, và hễ buồn thì cứ khoanh tay ngồi đó cho ta nắm cổ đem đi cho rồi,
khỏi phải nhọc công phí sức. Suy nghĩ xong, nàng cảm thấy trong lòng cũng vui
vui và hát những khúc hào hứng hơn trước. Dương Qua so giây nắng phiếm đàn
những bài hát vui tươi như ngọc reo, đẹp như hoa nở, êm dịu như oanh hót, và
Trình Anh cũng thổi những điệu khác, bao nhiêu khúc tiêu sầu đều không còn
nữa. Thấy 2 người tấu lại những khúc hoan lạc như cũ, Lý mạc Thu nổi nóng cất
tiếng hát vang, như hò như hét, nghe chát cả màng tai. Dương Qua bị âm thanh
hỗn loạn làm rối trí không đàn được mà Trình Anh cũng ngưng bặt tiếng tiêu.
Cả 2 cùng hồi hộp chờ giờ phút quyết liệt.
Trong bọn có Lục vô Song là kém nhất. Nàng ko biết vì sao Lý sư phụ đang
khóc bỗng cất tiếng hát. Sau khi nghe hát nửa chừng nàng dự đoán:
-Có lẽ bà định dùng giọng hát vừa khóc vừa cười để lung lạc tinh thần đối
phương dây chăng?
Cuối cùng thấy Dương Qua và Trình Anh cố sức hoà tấu mà ko át nổi giọng
ca của Lý mạc Thu, Lục vô Song lại nghĩ khác:
-Có lẽ sư phụ thấy thổ trận quá ư lợi hại, muốn dùng lời ca làm thác loạn
tinh thần kẻ địch, khiến cho 2 người ko còn tinh thần chiến đấu, lơ là việc
phòng thủ để thừa cơ xông vào hay chăng?
Rồi nàng lại tự trách:
-Tiếc rằng ta còn kém quá, âm nhạc lại chẳng biết tý gì để giúp được 2 ng
trong muôn một.
Lý mạc Thu thấy đã dùng thủ đoạn " bi hoan kinh cụ" mà ko khắc phục nổi
đối phương, bèn chuyển dần ra " sân si" để mê hoặc. Quả nhiên trong khi nàng
dùng tiếng hò như ra lệnh, tiếng hét như thét vào tai khiến cho 2 người mất
hẳn bình tĩnh, cả Dương Qua và Trình Anh đều ko thể nào chủ động được nhịp
điệu. Thế là tiếng tiêu loạn vận, tiếng đàn ngang giây. Dương Qua cố chăm chú
tập trung ý chí để so lại giây lựa phiếm. Lý mạc Thu thừa dịp này tiến tới
sát vách, tung một chưởng dập bể tấm vách nhảy vào nhà. Trình Anh bày thổ
trận cốt để án ngữ hai chữ Đông Tây là hai cửa chính ra vào căn nhà, chứ ko
nghĩ tới việc đề phòng vách hậu. Khi thấy Lý mạc Thu tung chưởng phá vách
xông vào nhà cả hai nàng đều nhất tề rút kiếm xông vào tiếp vận cho Dương
Qua. Thấy Lý mạc Thu phá vách xông vào, Dương Qua giật mình hãi sợ nhưng vì
còn đau nặng ko chống đỡ nổi, chàng suy nghĩ:
- Thôi đành liều vậy chứ sao. Trời sanh mỗi ng đều có số mạng hơi nào lo
lắng cho nhọc trí.
Nghĩ xong chàng điềm nhiên ngồi trên giường so giây đàn bản " Đào yêu"
Tiếng đàn chàng gãy nghe rõ ràng như giọng hát, cung điệu tha thiết, ý tứ dồi
dào, từ đường tơ phát ra những thanh âm véo von réo rắt như giọng oanh reo:
" Đào chi yêu yêu
Thược thược kỳ hoa
Chi tử vu qui
Kỳ nghi gia thất"
Tạm dịch:
Hoa đào thắm sắc
Thược được mỹ miều
Ai đi, tìm lấy chữ yêu
Xây niềm hạnh phúc, vui chiều vu qui"
Đó là bài" từ" phỏ theo đàn để hoà tấu trong khi trai gái kết hôn. Chàng đánh
liều với thần chết và đàn. Vừa đàn vừa suy nghĩ:
-Nếu phen này thoát chết, ta nguyền tìm Tiểu long Nữ quay về cổ mộ vui
với nếp sống trong rừng xanh sớm hôm chuông mỏ ngày thánh sắt cầm tiêu dao tự
toại. Cảnh sống như vậy kể ra cũng thần tiên lắm rồi.
Xúc động tâm linh, tiếng đàn chàng đang gãy bỗng nhiên đổi giọng hình như
có lẫn tiếng chuông mõ đâu đây, khiến cho kẻ đứng ngoài có cảm giác hình như
đây là đêm hợp cẩn của đôi trai tài gái sắc và chinhs nhạc công đang tấu
khúc" Yến hỉ tân hôn" ( hãy vui duyên mới)
Lý mạc Thu nhìn thấy Dương Qua bình tỉnh đàng hoàng, vui vẻ ngồi gãy đàn,
hình như ko có việc gì đã xãy ra, và cũng ko hề lưu tâm tới mình là kẻ đại
thù đang đứng ngay trước mặt. Vì vậy bỗng nhiên Mạc Thu cảm phục lòng can đảm
của chàng tuổi trẻ, rồi say mê với nhịp đàn mê ly, ngây ngất với vẻ mặt xinh
trai của chàng, nên trong lòng nàng cũng cảm thấy một mối yêu đương dào dạt
như đang bừng dậy trong lòng.
Dương Qua càng hân hoan, tiếng đàn càng tươi, khiến bao nhiêu nét u buồn
giận dữ trên mặt Lý mạc Thu bỗng nhiên biến hết. và nàng đã biến thành 1 bạn
tri âm của cây thất huyền cầm. Lục vô Song đứng ngoài trông thấy cảnh tượng
bỗng nhiên biến đổi một cách quá lạ kỳ thì cất tiêngs thưa để xin lỗi, mà
cũng vậy để giảng hoà:
-Kính thưa sư phụ, cuốn Ngũ độc kỳ thư do bọn Cái bang cướp mất chưa tìm
ra được.
Dương Qua tay trái nhấn trên phím đàn, tay phải cầm cuốn Ngũ độc kỳ thư
trao cho Lý mạc Thu, miệng nói:
-Hoàng bang chủ là ng trượng nghĩa, thấy sách này chép những tà thuật hại
ng nên cấm trong Cái bang ko cho ai đọc lấy chữ nào, và sai tôi trao lại cho
cô hôm nay đây.
Lý mạc Thu run run mở ra xem thấy ko rách một tờ, ko hư 1 chữ. Bấy giờ
nàng mới tin rằng kỷ luật của Cái bang quả thật nghiêm mình và hành động của
Cái Bang là chính đại, y như thiên hạ đồn xưa nay. Mối hờn căm của nàng đối
với 3 ng đã giảm hết bảy phần. Ngay lúc đó, Dương Qua lại lấy trong bọc ra
một gói nhỏ trải ra hai mảnh lụa gấm trên bàn và nói tiếp:
-Xin cô nhận lấy 2 thứ này nữa là được việc.
Lý mạc Thu mặt đi, cầm cây phất trần khều hai miếng gấm lại, rồi đưa tay
ra lượm. Trong lòng nàng lúc nầy đang rào rạt nhiều nỗi niềm bí ẩn. Trình
Anh, Lục vô Song hai ng cùng nhìn nhau, gượng đỏ mặt trong lòng thầm trách:
" Thế mà giấu mãi, ko ngờ cũng say mê chàng như tôi"
Cả hai chị em cô cũng đều mê Dương Qua, nhưng chưa ai dám thó lọ tâm
tình. Nay bị Dương Qua đem phơi bày ra giữa thanh thiên bạch nhật, có bằng cớ
rõ ràng cả hai, nên ng nọ nhìn ng kia lườm nguýt nhau, nhưng mắt cô nào cũng
tràn đầy vẻ yêu thương. Trong căn nhà lúc này thật đượm màu gió trăng, tình
tự, ko có gì cà oán thù, chém giết như lúc ban sơ bị Mạc Thu phá phách. Trình
Anh và Lục vô Song tuốt gươm định chống. Dương Qua lúc này lại gảy khúc" Đào
yêu" nghe rất vui tai xứng ý.
Bỗng nhiên Lý mạc Thu xé làm ba tư mảnh gấm, rồi nói:
Chuyện này đã qua rồi, đừng nói đến làm chi !
Nàng tung những mảnh gấm vụn bay toả ra, như vườn hoa lệ gặp cơn gió bay
rơi xuống.
Dương Qua nhìn lên, nghe "phạch" một tiếng. Một dây đờn bị đứt lúc đó. Lý
mạc Thu cất tiếng nói:
-Dương Qua, ta muốn giết mi lúc này, dễ như trở bàn tay, nhưng mi đã bị
thương, ta ko nỡ đến võ nghệ hạ sát, vì chết như thế mi sẽ ko phục ta !
Nàng vừa dứt tiếng là nghe" phựt phựt" cả năm dây đờn đều đứt cả!
Lý mạc Thu mỉm cười , nói:
-Lúc này ta cho phép bọn bay cứ thoả thích vui đùa, rồi để lát nữa ta sẽ
cho ba đứa chụm đầu lại cùng khóc.
Trên mặt đàn lúc này chỉ còn trơ lại một dậy, Dương Qua tuy đờn thạo
nhưng gảy sao được nữa.
Lý mạc Thu giục: Gảy đi, dù thế nào cũng phải gảy đi, để tạ lòng tri kỷ
trước khi về âm phủ. Dương Qua đưa tay bầp bành, chỉ nghe được 2 tiếng " tiên
ông" Lý mạc Thu nói tiếp": Tiên ông hay tục khách chi chăng nữa, ta cũng giết
mi trước. Thật lạ! Nàng vừa dứt câu là dây đàn cũng dứt nốt.
Nàng vung phất trần định đập vào đầu Lục vô Song.. Trình Anh thấy thế liền
giơ gươm lên gạt đỡ định liều chết với Lý mạc Thu. Dương Qua biết tánh mạng
mình chưa đến ngày tận số, nên cất tiếng vừa cười vừa nói:
-Ba chúng ta được chết chung một ngày giờ với nhau, còn hơn cô ta sống lẻ
loi một mình trên thế gian!
Đoạn chàng cất tiếng gọi lớn: - Hai nàng lại cả đây để cùng tôi chết một
chổ.
Trình Anh và Lục vô Song chạy lại đứng gần Dương Qua. Dương Qua tay trái
nắm Trình Anh, tay phải đỡ Lục vô Song và nói: Ba đứa mình cùng chết như vậy,
được xuống suối vàng thiệt là vui vẻ. Cần gì phải chống với con ác phụ chi
cho dơ dáy."
Lục vô Song cười nói: -Chú ngốc nói mà phải đấy. Bây giờ chúng ta thử làm
anh em Lưu bị, thực hiện lời thề: " Nguyện đồng tử, bất nguyện đồng sanh" xem
sao!
Trình Anh cũng tươi cười, rồi hai chị em dang tay ôm lấy Dương Qua. Ba
tâm hồn lúc này như thư thái, ko còn lo sợ gì cả.
Riêng Dương Qua thấy ng ấm hẳn lên, hình như được bồi thêm sinh lực.
Chàng thầm tiếc: "giá được Long cô nương cùng ở đây nữa thì hay!". Tuy nghĩ vậy, mà bề ngoài chàng làm ra vẻ âu yếm, thân mật với Trình Anh và Lục vô Song. Mặt của Lý mạc Thu lúc này lạnh như tiền, nàng thầm nghỉ:
- Tui này nói có lý lắm. Yêu nhau mà được chết bên nhau, còn sung sướng gấp trăm lần sống cô độc trên thế gian.
- Ta quyết làm cho chúng bây trước khi chết phải đau khổ ko thể để cho chúng bây thoả mãn với cái chết đó.
Nghĩ vậy, nàng dùng phất trần phát nhẹ một cái rồi hát.
- Hỡi thế gian!
Chữ tình là lụy..!
Tiếng hát nghe sao buồn như tiếng cú kêu đêm, thảm như hồn ma bơ vơ ngoài nghĩa địa, nhiều lúc tiếng nấc của nàng như đứt ruột gan, ko khác gì tiếng khóc của ng đàn bà khi thấy xác chồng bỏ vào hòm, như tiếng oan hồn gào trong cảnh khuya rừng vắng.
Dương Qua và hai cô gái đang chung vai sát cánh âu yếm nhau để chờ chết, bỗng nghe đến tiếng hát ai cũng buồn rười rượi. Tuy nhiên, Dương Qua bản lĩnh cao hơn, chàng cố nén buồn cười đắc ý. Trình Anh và Lục vô Song khi nghe tiếng hát lòng buồn rười rượi, và mắt dầm dề ngấn lệ. Tiếng hát Lý mạc Thu mỗi lúc một buồn, gợi những âm thanh áo não, như gợi vào lòng ng một cái gì xót xa, oán hận. Ngay như Dương Qua là kẻ có được con tim cứng rắn, cũng ko sao chịu nổi nhịp điệu, và dòng lệ rướm rướm chảy. Lý mạc Thu dụng ý làm cho ba ng đau khổ trước khi chết, cho nên nàng đợi đến khi nào ba con tim kia mềm nhũn, nàng sẽ vung phất trần kết liễu con con " Ma tình ấy". Trong lúc đó tiếng hát của Lý mạc Thu, bỗng nghe có tiếng cười lanh lảnh từ ngoài vọng vào. Tiếng đó, một ng vừa vỗ tay vừa hát. Tiếng hát nghe rõ là tiếng của đàn bà còn ít tuổi, đặc biệt là nhịp và giọng rất đúng điệu, chẳng khác một ca nhi:
- Bói xem chồng có yêu ta ko nào?
Thầy rằng: hai má hồng đào,
Lộn chồng, chồng đánh lộn nhào suốt đêm.
ối chao nào muốn chồng hiền
Lấy chồng, chồng dữ, là tiên trên trời.
Tiếng hát nghe lảnh lót, giọng rất lẳng lơ, lãng mạn, làm át cả giọng bi ai, sầu thảm của Lý mạc Thu. Vừa lúc người ấy bước ra cửa, mọi ng nhìn ra, thì đó là một cô gái đầu tóc bù xù, đôi mắt tròn to như mắt sư tử, hăm hở cười như một con đười ươi, tay cầm bó đuốc vung ve, vung vẩy. Người hình dáng kỳ quái, mà lại vượt qua thổ trận đi vào giữa nhà, Lý mạc Thu quá kinh ngạc thầm nghỉ:
-Con nầy có lẽ là cùng bọn với 3 đứa trong nhà nầy chăng? Nếu ko phải, sao hắn biết lối vượt vào được kỳ môn độn giáp của thổ trận.
Nghĩ như thế, Mạc Thu tự nhủ:
- Câu hát đúng là người lẳng lơ, đâu phải con nhà lễ giáo, còn mặt mũi xấu như Chung vô Diệm ai thèm lấy mà gọi lộn chồng chứ!
Nàng tự nhủ xong định cất tiếng mắng, thì Trình Anh đã lẹ miệng nói trước:
- Sư muội ơi! Người này định hại chúng tôi, xin sư muội cứu cho.
Cô gái đầu bù, mắt lồi nầy chính là học trò của Hoàng dược Sư có biệt hiệu là "cô ngốc". Nghe Trình Anh yêu cầu, cô đầu bù ko nói, lại tiếp tục vỗ tay hát:
- Trên trời sao mọc lung linh.
Dưới trời sương trắng mông mênh trải đường!
ối chao! Tài nghệ phi thường,
Chống trời, trời đổ tuyết sương lạnh lùng...
Lý mạc Thu định cất tiếng hát sầu thảm, để áp đảo những câu hát vui, lãng mạn đang lảnh lót. Nhưng ko hiểu tại sao, tâm trí Lý mạc Thu rối loạn như tơ vò, ko còn nhớ một câu hát nào, mà chính lòng nào bối rối, chứ ko có chút gì sầu não, nên ko tài nào hát những câu buồn theo ý định. Thông minh đến đâu mà lúc ruột gan rối loạn, thì ko thể nào phản ứng được những ngoại cảm, dù chỉ là một câu hát, chứ đừng nói đến mưu lược cao xa! Lý mạc Thu thấy mình ko áp đảo được giọng lãng mạn, đùa cợt của cô gái kỳ quặc, mà còn Dương Qua, và hai cô gái kia cũng nhởn nhơ trước mặt.
Nàng giận lắm nghỉ thầm:
- Ta hãy kết liễu đời con quỉ nầy trước, rồi tính ba mạng kia chả muộn gì.
Nghỉ thế nàng đưa phất trần đến đạp cho tan xác cô Ngốc.
Nguyên trước khi Hoàng dược Sư có giết lầm một để tử yêu quý của ông là Khúc linh Phong, sau lão hối hận, đem cô gái của Linh Phong là cô Ngốc về nuôi. Hoàng dược Sư tự thề: Ta phải dốc túi dạy cho con bé nên người. Nhưng ác thay! Cô ngốc thấy cha chết, nên quá sợ hãi, thường nhớ rồi sinh ra bệnh loạn óc, tinh thần ko còn minh mẫn nữa, cho nên Hoàng dược Sư dạy bảo công phu, nhưng đối với nàng cũng như " nước đổ lá môn"..
Hoàng dược Sư cố công dạy nàng hơn mười năm, mà cô Ngốc chỉ học được có ba phép"tát bằng tay" và ba cách"đánh tréo" bằng đuốc. Lão nhận thấy nàng quá khùng, nên ko dạy nhiều chỉ luyện kỹ sáu đòn độc, cũng đáng sợ rồi. Cô ngốc thấy Mạc Thu giơ phất trần đập vào đầu mình, cô ko hề để ý , chỉ dùng bó đuốc đánh tréo một đòn. Ngọc đuốc phất tréo hai cái, mà cả phòng chuyển động, Lý mạc Thu quá kinh hãi thầm nghĩ
- Con nhỏ này mà lại có sức mạnh thế nầy ư?
Nghĩ thế, nàng nhảy sang một bên, đă phất trần đập tạt ngang vào thái dương cô Ngốc. Cô Ngốc cúi đầu xuống, liền đánh lên một đòn tréo nữa, chớp mắt, bó đuốc đâm thẳng vào ngực Mạc Thu. Lý mạc Thu quá sợ, vội dùng phép chuyển thân" thất tinh bộ" mới tránh được. Thừa thắng cô Ngốc dùng tay trái tạt sang những đòn mạnh như vũ bão.
Lý mạc Thu đưa phất trần gạt, sợ lửa ở cây đuốc cháy, nhưng đánh bằng quyền cước ko tài nào đỡ được cái tát tai mạnh như núi sụp, Mạc Thu hoảng hốt, nhảy qua lỗ tường trống chạy thoát thân. Vừa nhảy qua lỗ hổng đã bị một đòn tê cả người, làm cho Lý mạc Thu sợ hãi. Thật ra cô Ngốc chỉ có ba đòn vỏn vẹn đầu tiên là lợi hại, cũng như Trình giảo Kim chỉ đánh ba búa đầu là mạnh, nếu có ai chịu nổi ba búa, thì búa thứ tư chỉ là phủi bụi. Cô ngốc cũng vậy từ phép đánh tát tay và đánh tréo bằng đuốc, chỉ có ba đòn đầu tiên mới đánh kinh sợ, nhưng đến đòn thứ tư cũng như trò chơi trẻ nít.
Lý mạc Thu mới bị hai đòn đã sợ bỏ chạy, tưởng đay cũng là một vinh dự cho Hoàng dược Sư. Mạc Thu chợt thấy bên trong chỗ tường thủng, có một lão râu daìi chấm rố, bận áo bào xanh đang ngồi khảy đàn trên ghế. Ông lão này chính là Hoàng dược Sư, chúa đảo Đào Hoa, người đã cứu Trình Anh trước đây.
Lý mạc Thu là tay tinh tế, nên khi giao chiến, mà vẫn trông thấy xa tứ phía, tai nghe tám phương, phòng hờ sợ địch đánh bất ngờ. Nàng tự nghĩ:
- Tại sao Hoàng dược Sư vào trong nhà này lúc nào mà ta ko hay.
Nghĩ như thế nàng rùng mình sơ hãi, miệng lẩm bẩm:
- Nếu lão dùng ám khí giết ta, dễ như trở bàn tay! Quái thật! Sao lão lại quân tử đến thế?
Trong khi đánh với cô Ngốc, Lý mạc Thu sơ Dương Qua và đồng bọn xông vào vòng chiến, nên tay đánh và miệng vẫn hát những âm điệu buồn rầu để mê hoặc ba người. Khi nàng quay nhìn thấy ông già, đang dạo đàn, nàng vội ngừng ko hát nữa. Tiếng đàn Hoàng dược Sư khảy văng vẳng những câu mà nàng đã hát để mê hoặc bọn Dương Qua. Nhưng giọng đàn còn thảm thiết, bi ai gấp trăm lần giọng hát của nàng. Thấy vậy nàng liều mạng đứng lại nghe. Mạc Thu thắc mắc:
- Hoàng dược Sư là một tôn sư trong một võ phái, không ngờ âm nhạc lại tài tình như thế này.
Khúc đàn đang dạo, những âm hát do Mạc Thu sáng tác, cho nên tâm linh nàng, lúc này quá cảm xúc, nàng còn say mê bằng mười bọn Dương Qua, nên đi ko dứt, chỉ đứng đờ ng ra mà nghe. Hoàng dược Sư biết ý Lý mạc Thu, từ trước đến giờ đã từng nhúng tay vào việc ác, nên ông định " hôm nay phải dùng nhạc, trừ mạng mày cho rồi". Nghĩ như thế, Hoàng dược Sư phối hợp cả tiếng ngọc tiêu của lão và tiếng đờn tranh của Âu dương Phong cùng với tiếng sáo của Hồng thất Công thành một nhạc điệu rồi gảy trên đường tơ.
Lý mạc Thu nghe đến đây, lòng nao nao ko thể nào kiềm chế được nữa. Hoàng dược Sư thấy Lý mạc Thu đang say mê nghe, lão tay đàn, miệng hát, khi thì lại thảm thiết, lúc lại vui vẻ chợt biến ra như giận dữ, khi cao khi thấp, làm cho người nghe lúc vui lúc buồn rồi dồn dập quá như điên như dại.
Hoàng dược Sư đoán:
- Mi nghe hết khúc này, tự nhiên sẽ biến thành con điên.
Cô ngốc giờ mới thấy Dương Qua, dưới ánh sáng của đèn đuốc nàng thấy chàng giống Dương Khang như hai giọt nước. Cô ngốc tính hay sợ ma, nhất là nàng đã chứng kiến trong cảnh chết thê thảm của Dương Khang ở miếu đường Gia hưng Vương nên nàng ko lúc nào quên được. Chợt thấy Dương Qua ngồi trên ghế, nàng cho là hồn của Dương Khang hiện lên, nên nhảy thót một cái run lẩy bẩy, lập bập:
- A..! Anh, anh! Anh...! Dương..! Anh đừng! Có hại tôi! Ôi tôi ko phải là ng giết anh! Anh đừng hại tôi.
Hoàng dược Sư lúc này đang mê say, cao hứng gảy những tiếng đàn nghe như oán, như hờn, như than như khóc. Bổng nhiên cô Ngốc nói làm náo động cả lên, rồi tiếp theo đàn lại đứt một dây.
Cô ngốc chạy lại sau lưng Hoàng dược Sư kêu lên:
- ái..! có ma.. ! ma hiện lên.. ! sư phụ ơi! . hồn Dương huynh hiện lên kia kìa.!
Nhờ cô hội đó Lý mạc Thu bình tĩnh lại. Nàng dương phất trần phẩy tắt ngọn đèn, rồi lủi qua vách trống tẩu thoát.
Hoàng dược Sư lỡ mất cơ hội, ám hại Lý mạc Thu bằng âm nhạc, nhưng ông vẫn ko đuổi theo.
Còn cô Ngốc càng gào to:
- Sư phụ ơi! Ma dữ lắm..! Cứu!..Cứu con sư phụ ơi!
Trình Anh vỗi vã thắp đèn, rồi chạy lại sụp lạy trước mặt Hoàng dược Sư, và kể sự tình Lục vô Song và Dương Qua cho lão nghe.
Hoàng dược Sư quắc mắt nhìn cô Ngốc la lớn:
-Nín im đi!
Lão quay sang nhìn Dương Qua nói:
- Nó biết mặt thân phụ cháu, mà cháu giống ba cháu như đúc hèn chi nó lầm là phải!
Dương Qua nằm trên giường ngẩng đầu lên nói:
-Xin đạo sư tha lỗi cho, vì cháu bị thương nên ko thi lễ được.
Hoàng dược Sư vui vẻ đáp:
- Cháu thật đáng khen! còn nhỏ mà đã có lòng hào hiệp xả thân mình để cứu ng khác.
Nguyên trước đây, Hoàng dược Sư có gặp con gái mình là Hoàng Dung kể hết đầu đuôi cho ông nghe nguyên do, nên công việc xảy ra trước đây ông đã tường tận.
Sau khi nghe Trình Anh cứu Dương Qua đem đi nơi khác, Hoàng dược Sư vội vàng đem cô Ngốc đi tìm kiếm chàng. May sao đúng lúc.
Hoàng dược Sư lấy viên linh đơn đưa cho Dương Qua uống và vận nội lực giúp chàng chóng bình phục.
Dương Qua uống xong mấy viên thuốc và được Hoàng dược Sư vận công giúp sức, cảm thấy toàng thân nóng ran, bớt đau.
Hoàng dược Sư thấy da thịt Dương Qua nổi mụn và dựt, lão vội vàng dùng thuốc thoa bóp trên da và nắm lấy đầu xương cửa chàng. Chỉ độ ba tiếng đồng hồ, thì Dương Qua trở lại khoan khoái hơn trước. Chàng ngủ thiếp đi lúc nào ko biết.
Sáng hôm sau, khi chàng thức dậy đã thấy Hoàng dược Sư ngồi trên đầu giường. Chàng vội vàng tụt xuống giường thi lễ.
Hoàng dược Sư đõ chàng dậy, vui vẻ nói:
- Cháu có biết trên khắp giang hồ người đời gọi ta là gì ko?
Vì còn bệnh nên chàng cất tiếng run run nói:
- Dạ cháu có nghe ng ta gọi bác là Hoàng dược Sư chúa đảo Đào Hoa.
Hoàng dược Sư lại hỏi:
- Còn tên chi nữa?
Dương Qua toan đáp "Đông Tà", nhưng chàng kịp nghĩ lại:
- Nếu mình gọi" Đông Tà" sợ phật ý ông chăng?
Chàng ko dám gọi nhưng anh lại nghĩ tên "Đông Tà" người đời vẫn thường gọi có chi mình phải sợ, chàng bạo dạn đáp:
- Còn danh hiệu của bác là "Đông Tà"
Hoàng dược Sư cười khà khà có vẻ đắc chí nói:
- Cháu nói đúng đấy.
Bỗng đôi mắt ông sáng quắc lên, hình như nhớ lại một chuyện gì, ông cất tiếng sang sảng nói:
-Ta nghe ng đời đồn con võ công thâm hậu; chỉ vì con có tình ko chánh đáng muốn lấy cô thầy của con làm vợ phải ko? Có đúng như lời đồn ko? Hay ng ta đồn bậy.
Dương Qua chắp tay thưa:
-Thưa bác!Đúng vậy! Mà cháu ko biết vì sao ng đời cứ cản trở việc đó. Nhưng con quyết định dù sao con vẫn ko đổi ý. Hoàng dược Sư nghe Dương Qua nói quả quyết như định đóng cột, liếc mắt nhìn chàng từ đầu đến chân, rồi ngửa mặt lên trời cười ha hả... Tiếng cười của ông như sấm sét, làm rung động cả không khí yên tỉnh, mái ngói đổ xuống lảng cảng.
Dương Qua thấy cử chỉ của ông, nổi giận nói:
- Sao bác lại cười ngặt nghẹo như vậy! Con tưởng bác là một ng thông minh nếu ko giải quyết việc này cho cháu thì thôi, sao bác lại cười?
Hoàng dược Sư cất tiếng khen lớn:
- Tốt lắm! Tốt ko thể tả! Không ngờ trên đời này lại có ng tốt như vậy!
Vừa nói , ông vừa quay mình đi ra khỏi cửa.
Dương Qua đưa mắt nhìn theo, lòng hối hận và đã quá lời, làm cho Hoàng dược Sư bỏ ra đi, nhưng sao vẫn vui vẻ thế..!
Hoàng dược Sư vốn từ trước đến nay là ng dọc ngang, ko một nơi nào ko đặt
chân đến, khắp thiên hạ ai cũng biết lão. Ông nhận thấy lễ giáo trong đời chỉ
là tuồng giả dối. Vì bọn được mệnh là vua và qua thì lại tham lam, nói một
đường làm một nẻo, miệng hô hào những câu yêu dân mến nước, nhưng rốt cuộc
đục khoét dân đến xương tuỷ. Bọn sĩ phu miệng hô trung thành, mà rồi làm việc
gian lận nịnh bợ. Những kẻ trí thức khoe mình đầy chữ nghĩa, thế mà chỉ biết
đi năn nỉ cầu xin tước lộc, để tự đại với thiên hạ là mình liêm khiết thanh
cao. Nhưng rồi bóc lột thằng nghèo đến trơ xương mà chúng vẫn rêu rao là
nhân nghĩa, nhân từ bác ai. Vì thế nên ông tự nhận biệt hiệu "Đông Tà" để răn
mình đừng làm bậy, và cũng gián tiếp khuyên đời, cứ nhận là "Tà" rồi sau
thành " chính" mới là hay. Chứ còn tự hào là " chính" mà sau trở thành "Tà"
thì ko sao chữa nổi. Bởi tính kỳ lạ ấy, mà đương thời ông ko vừa ý ai, ko
nhận ai là tri kỷ. Ngay như con gái và rể, ông cũng ko mấy vừa ý, tuy Hoàng
Dung được ng đời kêu là hiền thục và Quách Tỉnh đã nổi tiếng trung hậu và
chất phác.
Hoàng dược Sư được nghe thiên hạ nói đến Dương Qua, từ trước đến nay là
phản bội giáo phái, bạc nghĩa đối với thầy học và bạn bè. Nhưng nay ông được
gặp Dương Qua và đã trò chuyện với chàng, ông công nhận Dương Qua hơn đời ở
chỗ nghĩ sao nói vậy, rất hợp ý với ông, chứ ko dối trá che đậy như những ng
từ trước đến nay, ông đã từng tiếp xúc.
Cảnh rừng bát ngát, đồng cỏ xanh rì. Dược lão một mình đứng ngắm cỏ cây
đến chán, rồi mới bước đến dưới bóng mát ngồi nghỉ, nhìn đàn trâu, ngựa đang
gặm cỏ dưới mé rừng. Ông miên man nghĩ đến luật thừa trừ của tạo hoá, rồi
thầm nói:
-Con trâu có sừng như thế lại bớt mất hàm răng, con ngựa đủ hai hàm răng
lại ko có sừng. Còn con người ta cứ tự hào là thông minh ra giúp đời như
trâu, ngựa. Phần đông chỉ dùng cái thông minh để hại kẻ khác, phụng sự riêng
cho bản thân, gia đình. Rồi nếu ngày nào đó, họ được ng ta xu phù, họ trở nên
tự cao tự đại, tự thần thánh hoá lấy mình, yêu kẻ nịnh bợ, ghét kẻ thật thà,
xui nguyên giục bị, để thiên hạ chém giết lẫn nhau, gây tang tóc cho đời, thế
mà họ đâu có biết.
Nghĩ đến đây, Hoàng dược Sư thở dài lẩm bẩm:
-Có kẻ cho rằng:" Loài vật ở chung với nhau lâu ngày thân thiện, còn loài
ng sống chung với nhau lâu ngày sinh ra thù oán." Câu lý luận ấy quả thật ko
sai. Chỉ vì loài ng cậy mình thông minh, và cũng đem cái thông minh ấy phụng
sự bản thân. Có lúc họ đi đến chỗ vị kỷ một cách độc ác! Ôi! Nguy thay! Ngắm
trời mây một lúc đã chán, Hoàng dược Sư đứng dậy quay gót trở về nhà.
Dương Qua bỗng thấy ông ta, vội ra đón chào, muốn tỏ lời xin lỗi. Nhưng
chưa kịp mở miệng thì Hoàng dược Sư đã cười bảo:
-Dương nhi! cháu ko cần trở về cổ mộ làm gì! Cháu có bằng lòng bái ta làm
sư phụ ko?
Dương Qua ko hiểu ý ngơ ngác hỏi lại:
-Để làm chi?
Hoàng dược Sư cười lớn:
-Để lấy vợ chứ còn chi nữa. Ngươi bái nhận ta làm sư phụ tức ko còn thừa
nhận Tiểu long Nữ là sư phụ nữa. Chừng ấy ngươi có thể kết duyên với Tiểu
long Nữ một cách danh chánh ngôn thuận.
Dương Qua nghĩ thầm:
" Sao pháp luật lại cấm trò ko được lấy thầy làm vợ? Ai đặt ra pháp luật
ấy?
Nghĩ như thế, Dương Qua bạo dạn đáp:
-Tôi muốn gọi cô ấy là sư phụ và lấy cô làm vợ là quyền riêng của tôi sao
xã hội lại cấm đoán tôi làm việc ấy? Vả lại, khi mà tình thân đến cực độ, yêu
thương nhau như một, thì họ sống chung như vợ chồng, hại gì cho xã hội chứ?
Hoàng dược Sư cười ha hả nói:
-ái! Mày ko có biệt hiệu Đông Tà, song tư tưởng của mày cũng chẳng kém
"Đông tà", coi thiên hạ làm mặt trái, giả dối. Như thế thì mày rất hợp ý ta.
Ta sẽ tính mưu giúp cho mày.
Ông liền lấy thuốc ra thoa vết thương cho chàng và nói như van lơn:
-Bác muốn được gần cháu để truyền dạy các điều'Y Bác" rồi sau này cháu
đem truyền lại cho kẻ khác. Bác muốn cho cái thuyết của bác sau này khỏi thất
truyền và cũng để cho đời biết lão"Đông tà" lại còn có thêm chàng Dương Qua
" tiểu tà" nữa. Cháu ko nhận là học trò là uổng lắm! Cháu nghĩ cho kỹ coi!
Dương Qua hiểu rõ Hoàng dược Sư là ng ngay thẳng, chứ ko hay bắt bẻ như
mọi ng khác, nên chàng vừa lòng lắm, vui vẻ nói:
-Cần gì làm thầy cho thêm phiền phức. Bác muốn dạy thì cứ dạy, con xin
thụ giáo.
Ngừng một lúc, Dương Qua lại nói:
-Hay là thế này: Tôi tuổi nhỏ, võ nghệ còn kém, vậy bác cứ dạy cho tôi,
rồi kết bạn vong niên với nhau có tiện hơn ko?
Hoàng dược Sư quắc mắt nói lớn:
-Vô lễ! Mày coi trời như cái vung nhưng xem ta cũng như thằng già ngoan
cố Châu bá Thông hả? Đừng trở giọng" cá mè một lứa" như thế!
Dương Qua bỡ ngỡ hỏi:
-Bẩm lão trượng, Châu bá Thông ngoan cố là ai? Cháu chưa biết?
Dược Sư liền kể chuyện Châu bá Thông kết bạn " chí lan" với Quách Tỉnh.
Bấy giờ một già, một trẻ say sưa kể chuyện bàn luận thời thế, và võ nghệ. Hai
ng rất vừa lòng, hợp ý, đúng là cảnh:
Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiều.
Thoại bất đầu cơ bán cú đa.
nghĩa là:
Tri kỷ ngàn ly chưa thấy mấy.
Bạc tình nữa tiếng đã chán rồi.
Dương Qua lanh mồn, tính nến lại được Hoàng dược Sư thương mến, nên chàng
bàn việc gì cũng được lão hết lòng khen ngợi:
-Lý luận của cháu y hệt của bác.
Vì thế mới gặp lần đầu, Hoàng dược Sư đã coi như ng quen thân cũ. Lão ân
hận mình gặp thằng này hơi muộn. Tuy ngoài miệng lão chưa nhận Dương Qua là
bạn "vong niên" nhưng trong bụng ông đã có ý kiến làm bạn với Dương Qua là
đúng.
Tối đến lão sai Trình Anh kê thêm một cái giường nữa ở phòng Dương Qua để
lão nằm trò chuyện cho vui.
Mấy hôm sau Dương Qua hết bịnh, khoẻ mạnh như thường. Chàng với Hoàng
dược Sư như tình keo sơn, ko lúc nào rời nhau nữa bước.
Trước đây Hoàng dược Sư đã có ý định đưa cô Ngốc đi chu du phương Nam,
nhưng nay vì quyến luyến Dương Qua, nên ko còn nghĩ đến việc ngao du sơn thuỷ
nữa.
Trình Anh và Lục vô Song thấy Hoàng dược Sư quá mến Dương Qua ngày thì
đối ẩm bàn luận thời sự, đêm lại chong đèn giảng tập võ nghệ, nên hai người
cười thầm:
-Sao một già một trẻ lại có thể quyến luyến nhau như cặp vợ chồng mới
cưới vậy? Thế thì già trẻ ko phải là một duyên cớ làm cho ng ta có cảm giác
cách biệt sao?
Lúc hai ng đàm luận về văn chương, Dương Qua nhiều chữ ko biết, Hoàng
dược Sư lại chỉ vẽ rất rành rẽ, Dương Qua có tính mau nhớ, vì thế Hoàng dược
Sư càng mến coi như : " bình sanh đệ nhất tri kỷ".
Trong thời gian hai ng ở chung, Hoàng dược Sư đã dốc túi dạy cho Dương
Qua về võ thuật cũng như văn chương.
Tuy hai người chưa chính thức công nhận làm thầy trò, nhưng Hoàng dược Sư
coi như chàng là một đồ đệ trung tín nhất, nên dạy ko thiếu môn nào.
Ngoài việc học văn luyện võ, Dương Qua có một thắc mắc trong lòng: "Sao
cô Ngốc kia lại nhận mình là kẻ khác nhỉ. Tại sao nó lại nói với mình rằng:
-Không phải tôi giết anh đâu!
Chắc cô Ngốc ấy biết ng nào đã giết thân phụ ta! Nếu ta hỏi ng khác ắt họ tìm lời dối gạt, còn cô Ngốc này có lẽ thấy sao nói vậy.
Trưa hôm đó, sau khi cơm nước xong, mọi ng đi nghỉ cả. Dương Qua muốn làm quen với cô Ngốc gợi chuyện:
-Cô Ngốc ơi! Lại đây tôi cho cô một cái này đẹp lắm.
Cô Ngốc thấy chàng giống Dương Khang như đúc, nên lúc nào cũng ớn sợ.
Nghe chàng kêu, cô lắc đầu nói:
-Đẹp chi cũng mặc anh, tôi ko thèm coi đâu!
Chàng nhỏ nhẹ nói:
-Tôi có nhiều cái đẹp lắm! Cô ko coi à?
Cô Ngốc lắc đầu xua tay luôn miệng nói:
-Nhiều ít, đẹp đến đâu tôi cũng không coi cả?
Dương Qua liền nghĩ ra một trò vui. Chàng nhảy lộn đầu xuống đất chổng hai chân lên trời chạy đi chạy lại.
Cô Ngốc thấy thích quá vỗ tay reo hò:
-Chạy lại coi! Chạy coi..! Đúng rồi.
-
Chương 42 - Cô ngốc say giữa người hay trên Đảo Đào Hoa
Chương 42
Cô ngốc say giữa người hay trên Đảo Đào Hoa.
Dương Qua thấy cô Ngốc cố chạy theo xem. Chàng bèn ra ngoài nhử cho cô Ngốc theo ra. Lúc đến giữa rừng, cách xa nhà, chàng nghĩ không đi nữa, đứng lên ngay ngắn rồi hỏi:
- Cô Ngốc! Xem tôi làm trò có hay không?
Cô Ngốc từ hồi nhỏ đến lớn thích xem người làm trò, nhiều khi cũng muốn làm trò. Ngặt vì mấy năm theo Hoàng Dược Sư lo tập võ công không bắt chước ai được trò gì. Nhiều lúc nàng muốn múa hát nhưng bị Hoàng Dược Sư rầy la.
Ngốc nghe Dương Qua hổi liền vỗ tay reo lên:
- Hay lắm! Người anh em làm trò hay ghê! Còn trò gì lạ mà vui nữa không?
Chính trước kia cô Ngốc gọi Dương Khang bằng anh nên lúc này nàng cũng gọi Dương Qua là anh em.
Dương Qua thò tay rút một chiếc khăn vung ra giao hẹn:
- Bây giờ ta chơi trò bịt mắt bắt dê, tôi bịt mắt cô bằng một chiếc khăn nầy, rồi tôi trốn quanh gần đây. Nếu cô bắt được tôi, cô hỏi gì tôi phải nói thật, còn tôi bắt được cô, tôi hỏi điều gì cô cũng không nói láo nghe chưa?
Cô Ngốc được trò chơi mừng quá, liến thoắng nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Anh bịt mắt em đi!
Dương Qua bịt mắt nàng xong, chàng chạy cách chừng mười bước liền gọi lớn:
- Tôi ở đây, lại bắt mau lên!
Cô Ngốc đưa hai tay ra trước sờ soạng chạy về phía có tiếng gọi.
Dương Qua là tay vỗ nghệ, tài khinh công có hạng của phái Cổ Mộ, nhảy lẹ như chim, biến hiện như chớp, như thế cô Ngốc bỏ khăn ra chưa chắc đã bắt được huống hồ hai mắt bị bịt kín.
Cô ta quờ quạng hết phía này đến phía khác. Dương Qua chạy gọi khắp nơi, làm cho cô Ngốc cứ xoay qua xoay lại mệt lả người.
Sau đó cô Ngốc sờ soạng đụng vào một gốc cây to té huỵch xuống. Dương Qua nhìn thấy trên trán nổi lên một xụ bướu như quả trứng.
Chàng sợ cô Ngốc đau rồi nổi cáu, xảy ra việc không hay cho mình nên ho lên mấy tiếng rồi ngồi im một chỗ. Cô Ngốc nghe tiếng ho gần bên, liền chạy lại ôm choàng lấy lưng chàng rồi kêu lên:
- Đây rồi! Chạy đàng nào cho khỏi!
Nói xong nàng trật khăn ra, cười nói:
- Thế này là em được cuộc rồi phải không?
Dương Qua nói:
- Đúng rồi! Tôi chịu thua, vậy cô hỏi gì thì hỏi đi.
Cô Ngốc lúc đó không biết hỏi gì, vì nàng thích được chơi, chớ có ý định hỏi gì đâu?
Cô Ngốc ngơ ngác nhìn trời đất mông lung một lúc lâu rồi hỏi:
- Anh ăn cơm chưa?
Dương Qua thấy cô Ngốc nghĩ cả giờ rồi hỏi một câu ngớ ngẩn như vậy, nhưng chàng không dám cười, liền nhỏ nhẹ đáp:
- Tôi ăn rồi.
Cô Ngốc gật đầu không nói nữa.
Dương Qua giục:
- Cô còn hỏi gì nữa không?
Cô Ngốc lắc đầu đáp:
- Không, giờ mình làm trò lại.
Dương Qua nói:
- Được, bây giờ đến lượt cô bịt mắt tôi.
Nghe thế, cô Ngốc liền lấy khăn bịt mắt Dương Qua lại rấy cẩn thận, rồi chạy trốn mất.
Thực là ngoài ý tưởng tượng của Dương Qua. Lúc này cô không ngốc chút nào cả! Cô gọi ở trước mặt rồi chạy sau lưng, tiếp nghe cô ho bên tả, mà thân cô lại vụt về bên hữu. Dương Qua không sao bắt được.
Chạy đuổi mãi không thể vớ được, Dương Qua giả vờ đụng vào một thân cây, cố ý cho miếng vải tụt xuống một chút, nhờ thế chàng nhìn thấy cô Ngốc đang đứng núp sau gốc cây, chàng xoay nơi khác hỏi:
- Cô ở đâu?
Dứt lời, chàng xoay mình vung tay ra túm được áo cô rồi cười nói:
- Bây giờ đến lượt tôi hỏi cô phải không?
Cô Ngốc gật đầu nói:
- Tôi ăn cơm rồi.
Dương Qua nghe nàng nói phì cười bảo:
-Tôi đâu có định hỏi cô ăn rồi hay chưa! Tôi hỏi câu khác kia.
Đoạn chàng ngọt ngào hỏi:
- Cha anh, mặt cha anh ra sao? Cái người mà cô thường nói giống tôi như đúc đó.
Cô Ngốc ngơ ngác đáp:
- à! Người đó hả, thế là anh Dương mà!
Dương Qua hỏi nhỏ, như dụ dỗ:
- Phải rồi, cái anh Dương mà cô đã thấy chết đó.
Cô Ngốc mặt mày tái ngắt, ngập ngừng nói:
- ồ! Nửa đêm hôm đó, có biết bao là chim quạ, chúng kêu thế nầy: "Qua... Qua... Qua!". Chúng đậu đen hết trên các cành cây, trong khu rừng âm u thanh vắng, thấy khiếp sợ lắm!
Dương Qua sốt ruột quá, mà cô ta thì cứ nói dài dòng mãi, chàng bèn hỏi:
- Tôi muốn cô nói cái chết của anh Dương như thế nào, chớ đừng nói tiếng quạ kêu làm chi!
Cô Ngốc liền đáp:
- Nhưng cô nương cấm không cho nói! Mà anh Dương cũng không cho nói. Lúc đó anh Dương tát cô nương một cái rồi cười "hô hố".
Nói đến đấy cô Ngốc giả tiếng cười trước khi chết của Dương Khang nghe rùng rợn
làm sao.
Dương Qua không hiểu được, liền gằn giọng hỏi:
- Cô nương đó là ai?
Cô Ngốc thản nhiên nói:
- Cô nương là cô nương chứ ai nữa?
Dương Qua tự nghĩ:
- Việc nầy ra phải bình tĩnh, mới khám phá ra được.
Nghĩ như thế chàng vội vã hỏi tiếp:
- Cô nương đó hiện giờ ở đâu?
Vừa dứt tiếng, bỗng nghe phía sau có người hỏi:
- Hai đứa bây chơi giỡn gì ở đây?
Nghe tiếng sư phụ, cô Ngốc vội vàng thưa:
- Dạ, anh Dương rủ con ra đây chơi trò bịt mắt bắt dê, tức là đứa trốn đứa bắt.
Dược Sư nghe xong cười thầm rồi nhìn Dương Qua. Trông thấy sắc mặt chàng, lão đoán biết Dương Qua đang suy nghĩ nhiều việc.
Dương Qua lòng đang nóng nảy, vì bị Hoàng Dược Sư phá mất cuộc điều tra riêng của chàng, nên chàng định nói mấy câu cho hả giận, nhưng chưa kịp nói đã nghe tiếng chân dồn dập từ phía ngoài bước vào.
Đó là Trình Anh và Lục Vô Song chạy đến, họ vừa chạy vừa thở hổn hển như người sắp chết muốn trăn trối điều gì.
- Sư... phụ... nó đấy.
Miệng nói ú ớ, tay chỉ ra sau ngọn núi phía Tây.
Dương Qua hỏi:
- Ai thế?
Trình Anh nói:
- Xích luyện tiên tử Lý Mạc Thu chứ ai!
Dương Qua nghe tin Lý Mạc Thu đã đến sau núi, kinh ngạc nghĩ thầm:
- Con bé thế mà to gan.
Chàng nhìn Hoàng Dược Sư định hỏi ý kiến.
Hoàng Dược Sư cười lớn bảo mọi người:
- Các con đi với thầy đến đó xem sao. Đã có lão đây, mấy con còn sợ gì nữa?
Cả bọn cùng đi về phía sau đồi núi hướng Tây.
Trình Anh nói nhỏ với Dương Qua:
- Lý Mạc Thu đã không giết chúng mình trong căn nhà cổ, và hắn tự phụ không giết người bị thương. Phen này chắc hẳn kinh khủng lắm.
Dương Qua kinh hãi nói:
- Lần nầy Lý Mạc Thu định giết ba đứa mình. May thay nếu không có Hoàng đảo chúa Đào Hoa đảo, thì chúng mình chỉ có nước tìm đường trốn cho sớm.
Trình Anh cười, gật đầu đồng ý.
Lục Vô Song nhìn Dương Qua nói mỉa mai:
- Đã từng tự phụ thông minh hơn người, tài ba ngang với chúa đảo, sao bây giờ hèn thế?
Dương Qua cười pha trò:
- Tôi là Ngốc mà! Cô mới là người thông minh chớ!
Vừa đi vừa chuyện trò, không bao lâu đã đến sau núi. Cả bọn đều bám sát theo Dược Sư.
Dưới bóng cây to rườm rà, có một căn nhà cỏ đã xiêu vẹo, cửa đóng kín, trên nóc có một tờ giấy bay phấp phới, trên mặt giấy có đề bón hàng chữ lớn, gồm có mười sáu chữ viết như sau:
Đào Hoa đảo chúa
Đệ tử tối đa
Dĩ ngũ địch nhất
Dĩ tiếu giang hồ.
dịch:
Đào Hoa đảo chúa
Rất đông học trò
Năm người đánh một
Thiên hạ cười cho.
Hoàng Dược Sư đọc xong bốn câu thơ cười khà khà rồi cúi xuống lượm hai viên sỏi đặt lên ngón tay cái, thổi một cái.
Hai viên sỏi bay vút vào đánh bật cả hai cánh cửa của căn nhà cỏ.
Thuật bắn đạn sỏi trên ngón tay là công phu độc nhất của chúa đảo Đào Hoa.
Trước đây Dương Qua đã được Quách Phù cho biết ông ngoại nàng có tài bắn đạn sỏi đến quỷ khiếp thần kinh. Nay chàng được thấy tận mắt, lòng rất khâm phục, tưởng tượng người đời chưa ai có.
Hai cánh cửa bị bắn toang ra. Cả bọn nhìn vào trong, thấy Lý Mạc Thu đang ngồi nghiêm chỉnh, tay cầm phất trần, hai mắt nhắm nghiền như một hoà thượng ngồi niệm Phật.
Người nào chưa biết Lý Mạc Thu, thấy như thế cũng cho nàng là người đạo đức. Có ngờ đâu nàng giết người không biết ghê tay, lòng độc hiểm hơn ma chúa, quỷ vương.
Lục Vô Song nghĩ đến mối thù Lý Mạc Thu đã giết cha mẹ nàng mấy năm trước, nàng không thể làm ngơ được, liền rút trường kiếm ra lăm le trong tay, miệng thét lớn:
- Dì Trình, cô Ngốc! Khỏi cần đến đảo chúa, ba chúng ta tiến vào đi.
Cô Ngốc vỗ tay reo lên, rồi nói:
- Có tôi đây!
Lý Mạc Thu hé mắt nhìn cử chỉ năm người, rồi thản nhiên nhắm mắt lại, ngồi nhập định, hình như coi thường cả năm người không có gì lưu ý đến.
Trình Anh nhìn Hoàng Dược Sư xin lệnh.
Hoàng lão than:
- Lão có nhiều đệ tử thật, nhưng rất tiếc là: Trần, Mai, Khúc, Lục, bốn đệ tử khá không có đứa nào ở đây. Nếu được một trong bốn đứa đó thì mi đâu có nhiều lời như vậy được.
Than xong, lão phẩy tay ra hiệu và nói:
- Chạy lẹ đi.
Cả bốn người chạy về căn nhà cỏ của Trình Anh. Cả bọn thấy Hoàng Dược Sư lo lắng nhiều và chiều đó không ăn cơm, hơn nữa ông lại đi ngủ sớm hơn mọi bữa, cho nên không hiểu ra sao.
Trình Anh tuy được bái nhận Hoàng Dược Sư làm sư phụ, nhưng nàng không biết chuyện trước đây lão đã đuổi học trò, nay thấy thế thầm nghĩ:
- Có lẽ Lý Mạc Thu đã dùng bốn câu thơ để chọc tức sư phụ ta, cho nên sư phụ đã buồn như vậy.
Nghĩ như thế, nàng quá bực tức và tiếc mình võ nghệ còn kém quá, không thể làm vừa lòng sư phụ được, để cho Lý Mạc Thu chọc tức thầy như vậy.
Thực ra Hoàng Dược Sư buồn nhớ đến ba người học trò có tài cao là: Trần Huyền Phong, Mai Siêu Phong và Khúc Linh Phong. Họ đều đã chết cả, chỉ còn có Lục Thừa Phong, hiện nay bị tàn phế. Nếu may còn được một trong bốn người đó thì Lý Mạc Thu đâu dám lộng hành được.
Hoàng Dược Sư nghĩ đến câu "Năm người đánh một thiên hạ cười cho". Biết Mạc Thu chê mình nên lão quá buồn rầu, vì việc trước đây lão đã nông nổi để cho học trò của lão đã bị mai một và tàn phế!
Lão tử nhụ: "Thiệt mình làm hại cho mình".
Dương Qua đêm đó trằn trọc, thao thức mãi trên giường không ngủ được, vì chàng thắc mắc những lời nói của cô Ngốc, hành động tinh quái của Lý Mạc Thu. Chàng thầm nghĩ:
- Như thế là Lý Mạc Thu chê năm người đánh một, Nhưng hiện nay mình đã hết bịnh rồi thì cứ một mình đánh với Lý Mạc Thu cũng được, để dẹp bớt tức khí cho chúa đảo Đào Hoa và rửa hận cho Lục Vô Song.
Chàng bèn rón rén bước xuống giường, sửa áo gọn gàng và ngồi xuống luyện thêm sức, bồi thêm tinh thần. Chàng quyết định phải tử chiến với Mạc Thu đêm nay.
Dương Qua vừa vận công một lúc, cảm thấy đôi mắt sáng lên, chân tay cứng như sắt, toàn thân da thịt như đồng. Miệng chàng gầm lên một tiếng rền cả một góc trời, như tiếng cọp rống trong hang, vang lên bốn hướng.
Lúc nầy Hoàng Dược Sư đã thức dậy, định thay áo, chợt thấy Dương Qua đang kuyện khí, rồi bỗng phát ra một tiếng lạ lùng, lão kinh ngạc về sức nội công của chàng, vừa mừng vừa sợ.
Tiếng thở của Dương Qua vang ra, làm cho Trình Anh, Lục Vô Song và cả bọn đều khủng khiếp. Lý Mạc Thu ở bên kia nghe cũng phải giật mình. Nàng cho đấy là Hoàng Dược Sư đang thở hút khí lực của "Nam Tào, Bắc Đẩu".
Nàng định chắc Hoàng Dược Sư không dám đánh mình, nên bỏ qua không đề phòng.
Dương Qua có sức mạnh như vậy, là chàng đã được luyện trên giường "Hàn ngọc", lại học được bí quyết trong Cửu âm chân kinh và Ngọc Nữ tâm kinh nên lúc này nội lực tinh thần của chàng mới dồi dào như thế.
Đợi cho Dương Qua đứng lên, Hoàng Dược Sư hỏi:
- Dương Qua, cháu coi Lý Mạc Thu lợi hại về thuật gì?
Dương Qua đáp:
- Theo cháu biết thì hắn có "Ngũ độc thần chưởng" và cây phất trần là lợi hại nhất.
Hoàng Dược Sư nói:
- Không lo gì, cháu có nội công mạnh như vậy, ta dạy cho cách phá nó dễ lắm.
Dương Qua nghe nói mừng quá, liền xụp xuống đất lạy như tế trời.
Trước kia tuy Dương Qua nhận Hoàng Dược Sư là tiền bối, nhưng chàng vẫn tự kiêu chưa phục vì chưa thấy lão có tài nghệ gì hơn chàng.
Nay nghe lão nói có phép đánh bại Lý Mạc Thu, là một tay ngang dọc, coi thiên hạ trước mắt không ra gì, nên chàng lại cầu xin chỉ giáo.
Hoàng Dược Sư liền nâng chàng dậy và truyền phép nầy có thể chống với "Ngũ độc thần chưởng" của Lý Mạc Thu.
Sau lão dạy cho chàng phép "Ngọc tiêu kiếm pháp" để chống với cây phất trần thần diệu.
Dương Qua hết sức chú ý nghe giảng cả hai thuật pháp, từ hình thức đến nội dung, chàng thấy phải cố sức rèn luyện từ một đến ba năm mới thành thạo được.
Chàng thấy thế bèn hỏi:
- Thư Hoàng lão, như thế nầy không có phép gì để hạ ngay Lý Mạc Thu hay sao?
Hoàng Dược Sư thở dài than:
- Ba năm là bao. Thì giờ như thoi đưa không lâu đâu. Cháu mới có hăm mốt, hăm hai tuổi mà luyện được hai phép thuật trên là sớm lắm! Có người theo nghề võ đến ba, bốn mươi tuổi vẫn chưa biết gì cả. Cháu đừng hấp tấp!
Dương Qua nói:
- Việc làm của cháu đâu có phải "vị ngã"..., chẳng qua là "vị tha" cả.
Hoàng Dược Sư vỗ vai chàng và nói:
- Sau ba năm, cháu nên vì bác mà giết nó đi, như thế bác cảm ơn cháu nhiều lắm. Còn hiện nay lão bị tai nạn, đó là tội lão phải gánh. Vì trước đây, lão đã huỷ hoại những người học trò tốt, nên nay lão phải chịu luật "báo ứng" của trời đất.
Dương Qua nghe Hoàng Dược Sư nói hết tâm sự với mình, vội quỳ xuống bái lễ và kêu lên:
- Sư phụ!
Cả hai người đều thong minh, đã đoán được thâm ý của nhau.
Dương Qua nghĩ: Lão truyền cho mình võ thuật này là để rửa cái nhục bốn câu thơ của Lý Mạc Thu, nhưng mình học là phải nhận lão làm thầy.
Hoàng Dược Sư nghĩ: Chàng đối với mọi người trong Cổ Mộ tình nghĩa nặng lắm, nên chàng không muốn nhận ai làm sư phụ thứ hai nữa!
Lão liền đưa tay nâng chàng lên và nói:
- Lúc nào cháu đánh với con yêu nữ ấy, thì cháu là đệ tử của bác, còn ngoài ra cháu với bác chỉ là "bạn vong niên". Người anh em đã hiểu nhau rõ chưa?
Dương Qua vừa cười vừa nói:
- Thưa sư huynh, tiểu đệ được cho vào hạng bạn bè, kẻ tiểu sinh như đệ rất cảm động và được nhờ vả nhiều lắm!
Hoàng Dược Sư tươi cười nói:
- Anh em ta được hạnh ngộ thế này, là duyên nợ "ba sinh" từ kiếp trước đây.
Lúc này hai người cùng vui vẻ đàm đạo say sưa.
Tiếp đó, Hoàng Dược Sư giảng lại cái bí quyết về phép "bắn đạn bằng ngón tay" và "Ngọc tiêu kiếm pháp" dạy ôn lại rất tỉ mỉ.
Dương Qua thấy Hoàng Dược Sư quá kỹ lưỡng như vậy, chàng đoán có lẽ lão sắp xa mình chăng?
Nghĩ như thế, chàng liền hỏi:
- Sư huynh, đệ với sư huynh vừa mới quen nhau, rồi đây chia tay biết bao lâu lại được tái ngộ.
Hoàng Dược Sư nói:
- Sư đệ đã rõ, thôi từ đây phương trời đôi ngả, nhưng lòng dạ lúc nào cũng gần nhau là được. Nếu mai sau có điều gì ngăn trở tình duyên của sư đệ, là lão huynh này đến can thiệp ngay, dầu có xa muôn dặm huynh cũng đến.
Dương Qua nghe nói đúng với ước nguyện của chàng, nên cười nói tiếp:
- Người cản trở đó không phải ai xa lạ, nếu sư huynh can thiệp e bất tiện lắm không?
Hoàng Dược Sư hiểu ý nói:
- Xưa kia, chính nó cũng muốn chọn một người chồng vừa ý nó, sao lúc này nó lại muốn phá kẻ khác.
Ngẫm nghĩ một lúc, ông thò tay vào túi lấy giấy bút ra viết một phong thư giao cho Dương Qua rồi dặn:
- Nếu con gái lão còn cản trở, sư đệ cứ đưa bức thư này cho nó.
Dặn xong lão cười vang lên, rồi phảy tay bước ra khỏi cửa.
Chỉ trong nháy mắt tiếng cười đã xa tít ngoài mười trượng rồi biến mất, tựa như con thần long ra biển, không còn thấy tăm hơi.
Dương Qua đứng ngẩn người nhìn theo một hồi lâu, chàng quay vào nhà ôn lại những bí quyết võ thuật vừa được truyền thụ.
Không bao lâu trời đã sáng. Chàng nhìn lên bàn giấy thấy cây chân tuyến đao của Trình Anh để đó, chàng cầm lên ngắm nghía, thực là một con đao bén và tuyệt đẹp ít có.
Bỗng có tiếng động ở ngoài. Trình Anh mở cửa bước vào, tay cầm một chiếc áo màu xanh, nàng tủm tỉm cười nói với Dương Qua:
- Anh mặc thử chiếc áo này coi có vừa không nào!
Dương Qua cảm động quá, hai tay đỡ lấy chiếc áo.
Trong khi chàng đưa tay ra đỡ, tay Dương Qua và tay Trình Anh chạm sát vào nhau, như hai luồng điện bắt lại, cả hai người đều mắt liếc mày đưa, lòng đều rạo rực.
Chàng mở áo ra mặc thử, từ cổ đến gối đều vừa khít cả.
Dương Qua cảm động run giọng nói:
- Tôi...! Tôi đa tạ tấm lòng chiếu cố của Trình muội đối với tôi.
Trình Anh nhoẻn miệng cười với cặp mắt đầy yêu thương, tình tứ. Chợt nét mặt nàng buồn rầu, than:
- Lão sư phụ đi rồi! Biết bao giờ được hội ngộ.
Nàng cố tìm cớ để được ngồi lại nói chuyện với Dương Qua, nhưng chợt thấy màu áo tím lướt thướt ngoài cửa, nàng biết đó là Lục Vô Song. Nàng giận lắm, trách thầm:
- Con người gì mà tò mò đến thế, mình ở đâu là dòm nom đến đó.
Nàng liền quay ra.
Dương Qua ngắm cái áo mới thấy đường kim mũi chỉ rất khéo, chàng động lòng tự nhủ:
- Cô ta đối với mình như vợ với chồng, nhưng mình đã định có nơi chốn, không thể có nơi mới được nữa. Nếu mình quyến luyến mãi ở đây, chỉ thêm luyến ái và đưa sự đau khổ đến cho cô ta! Thôi mình phải thoát sớm đi là hơn.
Chàng nghĩ lại:
- Ta bỏ đi, Lý Mạc Thu đến quấy phá, ai sẽ bênh vực cho nàng? Phải rồi, bây giờ mình đi ra sau núi xem tình hình Lý Mạc Thu ra thế nào.
Chàng chạy ra phía sau núi đến căn nhà bữa qua, thấy chỉ có một đống tro tàn trên nền. Như vậy Lý Mạc Thu đã đốt nhà đi rồi.
Chàng quay về với ý định:
- Chiều nay, mình viết thư từ biệt, để lại cho Trình Anh và Lục Vô Song rồi mình đi.
Tối hôm đó, Dương Qua cầm bút viết, ngồi trước đèn viết thư, nhưng mới viết được mấy hàng, bỗng nhiên tâm trí chàng quá cảm động, nghĩ đến Trình Anh và Lục Vô Song sẽ đau khổ biết chừng nào lúc ta bỏ ra đi.
Đầu óc chàng không nghĩ được một ý gì để chia tay, tay chàng cầm bút viết, mà bút rơI lúc nào không hay. Chàng đứng dậy, tóm mảnh giấy viết lỡ, vo tròn đút vào túi rồi lên giường nằm yên. Chàng cố nhắm mắt để ngủ.
Dương Qua đang nằm thiêm thiếp, bỗng nghe có tiếng gọi thất thanh bên ngoài:
- Cô... Ngốc ơi! Sao thế này...! Mau đây!
Dương Qua giật mình ngồi dậy, khoác áo chạy ra. Bên ngoài gió thổi ào ào, trời vừa sáng, chàng thấy Lục Vô Song mặt tái ngắt, đưa tay chỉ tấm phên trước cửa.
Dương Qua nhìn theo tay nàng cũng thất kinh, khi thấy bốn ngón tay máu tươi còn rành rành.
Đêm rồi, Lý Mạc Thu đã đến đây, đoán biết Hoàng Dược Sư đã đi rồi, nên tính số người còn thêm cô Ngốc, cộng là bốn, vào số "bị giết"
Dương Qua và Lục Vô Song còn đứng tần ngần, chưa nói lên câu nào, thì Trình Anh đã chạy đến hỏi:
- Chị Vô Song nhìn thấy bao giờ thế?
Lục Vô Song ngơ ngác trả lời:
- Trời chưa sáng tôi đã thấy rồi.
Nói xong, Lục Vô Song hơi thẹn, hai má ửng hồng, vì nàng đã tự thú chuyện suốt đêm chờ đợi, nghe ngóng ngoài phòng Dương Qua.
Trình Anh giả vờ như không biết, nói tiếp:
- Mặt trời đã lên cao rồi, chúng mình lo bàn kế hoạch gì cho kịp thời đối phó với Lý Mạc Thu, sớm muộn gì hắn cũng đến đây.
Ba người cùng đi vào nhà bàn tính.
Lục Vô Song nói:
- Hôm kia Lý Mạc Thu bị cô Ngốc đánh mấy ngọn đuốc mà hắn không sợ sao?
Trình Anh nói tiếp:
- Thuật đánh đuốc của cô Ngốc lợi hại thật, nhưng đối với ai, chứ con Lý Mạc Thu coi thường nên mới khinh dễ thế này.
Lục Vô Song nói pha trò:
- Được anh Ngốc nhà ta không bị thương thì cả hai Ngốc cùng hợp sức đánh Lý Mạc Thu chắc Lý Mạc Thu sợ lắm đấy.
Dương Qua cười nói:
- Đã một cô Ngốc lại thêm chú Ngốc nữa, thì làm ăn ra trò trống gì?
Trình Anh cười, nói:
- Thôi, bây giờ chúng mình phải lo sắp đặt cách chống lại với Lý Mạc Thu, chứ sắp nguy rồi đấy, đừng pha trò gì nữa.
Lục Vô Song nói:
- Cả bốn người mình phối hợp lại, đánh cũng chưa chắc thắng được con ma cái đó!
Dương Qua nói:
- Biết thế, nhưng Lý Mạc Thu đến là phải đánh dầu thắng hay bại.
Lục Vô Song hỏi:
- Anh đánh cách gì?
Dương Qua nói:
- Tôi định cách này: cô Ngốc và tôi ở phái chính diện ứng chiến, còn hai chị em cô đánh bên tả.
Trình Anh nói:
- Để em đi gọi cô Ngốc lại tập thử coi!
Trình Anh đến phòng cô Ngốc kêukhông thấy đâu cả, liền trở lại cho Dương Qua và Lục Vô Song hay. Cả ba người chạy ngược chạy xuôi đi kiếm.
Trình Anh chạy ra phía sau núi, thấy bên cạnh mô đá, cô Ngốc đang nằm im như đống sỏi. Nàng liền cúi xuống cởi áo cô Ngốc ra xem, thấy trên lưng còn in vết tay tím bầm. Nàng đoán biết cô bị "Ngũ độc thần chưởng" liền gọi Dương Qua và Lục Vô Song lại, và nàng lấy thuốc thánh "Cửu hoa ngọc lộ hoàn" thoa cho cô Ngốc.
Dương Qua chạy đến thấy vết thương cô Ngốc, chàng nhớ phép độc đã ghi trong "Ngũ độc kỳ thư", chàng liền vận nội công tiếp sức vào các đường huyệt chính.
Chỉ trong giây lát cô Ngốc đã hồi tỉnh, nàng cười và nói:
- Không biết con đạo cô mắc dịch đó trói tôi bằng gì mà chặt thế này.
Lý Mạc Thu đã dùng "Ngũ độc thần chưởng" đánh cô Ngốc bị thương, rồi dùng dây tơ trói lại, nhưng không dám hại mạng cô Ngốc vì Lý Mạc Thu còn sợ Hoàng Dược Sư.
Lúc cô Ngốc tỉnh lại, Dương Qua, Trình Anh và Lục Vô Song lo mở dây trói mà không được. Nên ba người khiêng cô Ngốc vào nhà, đặt nằm trên giường rồi nhìn nhau lo lắng. Trong bốn người mà một người bị thương, rồi Lý Mạc Thu đến đây, làm sao đánh cho được.
Dương Qua nhìn Trình Anh và Lục Vô Song nói:
- Thử lấy cây chân tuyến đao cắt dây xem có đứt không?
Nhưng khi đưa ra cắt sợi tơ vàng đứt, lưỡi dao vừa qua khỏi, sợi tơ đứt lại dính nguyên như cũ.
Lúc này cô Ngốc nằm trên giường giãy dụa, miệng kêu lên:
- Cắt dây cho tôi! Nó tung phất trần trói tôi đấy.
Dương Qua thầm nghĩ:
- Sợi dây vàng này đao gươm cắt không đứt, có lẽ nhờ thợ rèn thổi bễ, rồi dùng âm dương háo thổi cho chảy tan ra mới được.
Chàng liền hỏi:
- Gần đây có lò rèn nào không?
Trình Anh nói:
- Cách đây chừng bảy, tám dặm có nhà rèn.
Lục Vô Song tiếp lời:
- à hay anh phi ngựa sang bên đó kêu người thợ ấy.
Dương Qua nói:
- Không được, nếu tôi đi thì Lý Mạc Thu trở lại đây rầy rà lắm. Chi bằng tôi bồng cô Ngốc ngồi phía trước, hai cô ngồi sau yên ngựa cùng đi đến đó tiện hơn.
Cả ba người đồng ý, Dương Qua bồng cô Ngốc lên trước yên ngựa, Lục Vô Song và Trình Anh nhảy lên ngồi sau yên.
Sau khi ngồi vững vàng trên yên ngựa, Dương Qua cười nói:
- Cái thằng Dương Qua nầy, không biết kiếp trước nó mắc cái nợ gì lớn của Tây Vương Mẫu, nên kiếp nầy nó phải gánh vác như vầy.
Lục Vô Song nói:
- Ngốc sao nay văn thơ dồi dào thế! Chắc nhị ngốc thành hai chứ gì?
Trình Anh nói:
- Đi mau, kẻo Lý Mạc Thu nó đến là nguy.
Dương Qua cho ngựa chạy nhanh, và nói đùa:
- Có nguy thì cũng thằng Dương Qua gánh chịu chứ các cô lo gì! Thôi, tôi để cho cô Lý Mạc Thu bắt tôi về làm đầy tớ, còn hơn đi với các cô đóng vai một ngựa ba yên thế này. Sức như Lữ Bố cũng phải một, còn nếu trung như Vân Trường thì cũng phải nản. Vì Vân Trường chỉ phò có hai chị, mà cái thằng Dương Qua nầy phải phò đến ba chị, thế mà người đời lại gọi nó là Ngốc mới khổ!
Ngựa chạy như bay, Trình Anh khen:
- Con ngựa của anh vừa khoẻ vừa lanh ghê. Thật đúng là "thiên lý mã". Suy việc này ta thấy người nói thật đúng.
Lục Vô Song hỏi:
- Đúng cái gì! Đường dài mới biết sức ngựa, lúc nguy mới thấy lòng người. Đó là cảnh hôm nay, cho chị em mình thấy người và ngựa.
Dương Qua cười, nói:
- Thì hai người đã cho đóng vai "người ngựa" là quý quá!
Đường rừng lối hẹp, đất đá lô nhô, càng đi càng thấy âm u, quanh co mãi mới đến một căn nhà xiêu vẹo, than củi chất ngổn ngang trước sân, trên tường treo ba thanh gươm và tấm da thú. Cảnh vật đìu hiu, tỏ ra đây là căn nhà hoang trong rừng hẻo lánh.
Dương Qua cất tiếng gọi:
- Sư phó có ở nhà không?
Tiếng gọi của Dương Qua như vô hiệu. Cả bọn đều thất vọng.
Ba người chăm chú nhìn vào trong nhà một hồi lâu, chợt thấy một ông lão từ trong nhà bước ra, râu tóc bạc phơ, tuổi độ năm mươi, mình mặc áo da lạc đà, chân đi guốc sắt, mắt lem nhem, chân trái bị què, chống nạng liểng khiểng, hỏi:
- Khách có việc gì truyền dạy?
Dương Qua định tiếp lời, bỗng có tiếng chân ngựa dồn dập phía trước, liền đó có hai người ngồi trên lưng ngựa xông vào trước sân.
Đó là hai tên đầu mục Mông Cổ. Một trong hai tên có vẻ mặt vênh vang với bộ râu lồm xồm, cất tiếng hỏi lớn:
- Nhà nầy có phải là nhà của lão thợ rèn họ Phùng không?
Ông lão khập khễnh bước lại cúi đầu nói:
- Dạ, tôi đây!
Viên đầu mục lớn tiếng nói:
- Quan trên ra lệnh: nội trong ba ngày các thợ rèn trong huyện phải lên huyện đường để lo việc đúc khí giới. Nghe rõ chưa?
Ông lão ngập ngừng nói:
- Tôi tàn phế, già nua...
Tên đầu mục cầm roi ngựa quất vào đầu lão một cái, miệng la lớn:
- Im mồm, đừng nói dông dài, sáng mai mà không lên trình diện thì chớ trách.
Nói xong, cả hai quày ngựa cùng đồng bọn đi mất.
Lão thợ rèn đứng ngây người nhìn theo và thở dài, mặt buồn rười rượi.
Trình Anh thấy thấy tình cảnh của ông lão quá động lòng thương xót bèn thò tay vào túi, lấy ra hai chục lạng bạc để trên bàn và nói:
- Phùng sư phó, sư phó tuổi đã cao, lại thêm chân tàn phế, nếu lên trình diện với tụi Mông Cổ, không chết trước, cũng chết sau. Xin lão cầm tạm chỗ bạc này, trốn đi nơi khác lánh thân.
Ông lão run giọng, nói:
- Đa tạ lòng tốt của cô nương, tuổi tôi cũng đã già, chết sống không quan hệ, chỉ đáng thương mấy trăm vạn sinh linh ở Giang Nam phải lâm vào cảnh chém giết, tàn sát nay mai!
Dương Qua nghe nói, kinh ngạc hỏi:
- Sao lão biết? Vì sao vậy?
Ông già nói:
- Bọn Mông Cổ định bắt hết thợ rèn để đúc khí giới cho chúng chuẩn bị tiến đến xâm chiếm Giang Nam của nhà Đại Tống. Việc đó rõ ràng còn ai không biết.
Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh nghe lão nói, cả ba đều cho là đúng. Dương Qua toan hỏi tiếp, nhưng Phùng lão đã hỏi:
- Ba vị tính làm binh khí gì chăng?
Dương Qua nói:
- Ba anh em tôi đến nhờ Phùng sư phó có cách nào mở trói cho cô bạn của chúng tôi không.
Chàng vừa nói tay vừa chỉ vào cô Ngốc.
Lão Phùng chỉ tay vào cô Ngốc và nói:
- Việc này không khó lắm, để tôi đốt lò rồi đánh một con dao là cắt được.
Dương Qua vui vẻ nói:
- Nội ngày nay xong không?
Lão Phùng đáp:
- Nếu làm gấp chừng hai giờ thì xong.
Lão lo tiếp tục thổi bễ, nung sắt.
Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh đều sinh quán ở Giang Nam, tuy không phải con nhà quan quyền, phú quý, nhưng lúc nghe Phùng lão nói đến chuyện "sinh linh Giang Nam sắp lâm vào cảnh chém giết rùng rợn nay mai" ai cũng lo lắng cho những người thân thuộc mình.
Trong lúc ba người ngồi chăm chú nhìn Phùng sư phó nung thanh sắt thì cô Ngốc nằm trên giường, thỉnh thoảng giãy giụa đành đạch, kêu la:
Mở trói tay tôi chứ... Đau quá này!
Không bao lâu Phùng sư phó nung xong thanh sắt, đập thành hình con dao.
Phùng lão tuy già nhưng gân sức còn mạnh lắm nên đập những nhát búa như thần giáng mà không có mệt nhọc, khó khăn gì cả.
Trong nhà lúc nầy vang dội những tiếng đì đành làm chấn động cả khu rừng bên ngoài. Những bầy chim rừng tranh nhau bay, kêu ríu rít như để thi nhau phá tan cảnh rừng âm u tịch mịch.
Cô Ngốc lúc nầy quá sợ hãi, miệng không ngớt kêu la:
- Các người không mở trói cho tôi mà làm gì thế? Trời ơi, kinh quá!
Vì cô Ngốc nghe tiếng búa đe chát chúa và những tia sáng nhấp nhoáng khắp nhà nên quá sợ hãi.
Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh thấy con dao đã thành hình, chỉ cần nung tráng nước thép nữa là xong, ba người vui vẻ khen. Lục Vô Song reo lên:
- Cô Ngốc ơi, sắp có cái mở trói cho cô rồi đấy, đừng la nữa!
Bỗng có giọng nói lanh lảnh ở phía sau nhà, tiếp đó có người hỏi:
- Rèn làm chi con dao to tướng thế, định dùng nó để làm phất trần chăng?
Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh kinh hãi quay lại, nhìn thấy Lý Mạc Thu đang cầm phất trần đứng tần ngần ngoài cửa nhìn vào.
Dao quý rèn chưa xong mà địch đã đến bên lưng. Trình Anh và Lục Vô Song tuốt gươm thủ thế. Dương Qua cũng vớ lấy thanh sắt đứng chờ Lý Mạc Thu xông vào thì đánh.
Lý Mạc Thu cười khanh khách, nói:
Các người định dùng dao để chống cây phất trần của ta. Được rồi, các người cứ yên trí đi, ta ngồi đây chờ, khi nào xong dao sẽ đánh cũng không muộn gì.
Nói xong Mạc Thu ngồi trên đống củi trước cửa, thản nhiên coi Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh như không đáng ngại.
Dương Qua bực mình nói vọng ra:
- Nay nàng có đòn gì cứ đưa ra, chứ cây phất trần không ai sợ đâu.
Mạc Thu nhìn vào thấy cô Ngốc nằm trên giường, vẫn còn cử động như thường, thầm nghĩ:
- Con bé bị mình tát một cái như trời giáng đã thiệt mạng rồi sao vẫn còn sống nằm kia?
Nghĩ thế, Mạc Thu cười, rồi hỏi:
- Hoàng Dược Sư có trong nhà không?
Phùng sư phó nghe nói đến Hoàng Dược Sư, giật nẩy người nhìn Lý Mạc Thu nhanh như chớp và cúi xuống nung lại con dao.
Trình Anh cất tiếng nói vọng ra:
- Người đã biết sư phụ không có ở đây, còn hỏi lôi thôi gì nữa? Nừu người biết sư phụ ta có ở đây, thì dẫu lớn mật đến đâu cũng chẳng dám mò đến.
Lý Mạc Thu cười ha hả như nhạo báng, rồi thò tay vào túi lấy ra một tờ giấy trắng, miệng nói:
- Hoàng Dược Sư là một tay mạo danh lừa đời, cậy có nhiều đệ tử để đi hiếp đáp người khác, chớ tài gì. Trong bọn đệ tử của Dược Sư chỉ có một người đáng kể thôi.
Nói xong Mạc Thu lấy tờ giấy cài vào cây kim rồi phóng vào.
Cây kim bay vút vào cửa, cắm phập giữa cột nhà, Mạc Thu cất tiếng hỏi:
- Ta đưa bằng chứng cho đấy, khi nào Dược Sư về, tự đoán biết ai đã dùng "bửu bối" giết học trò giỏi của lão.
Đoạn nàng quay lại nói với Phùng sư phó:
- Lão thợ rèn, hãy nghỉ tay một chút, tôi làm phiền lão như thế này được không?
Phùng sư phó gượng đôi mắt đỏ ngầu nhìn lên tờ giấy có bốn câu thơ:
Đào Hoa đảo chúa
Đệ tử tối đa
Dĩ ngũ địch nhất
Dĩ tiếu giang hồ.
dịch:
Đào Hoa đảo chúa
Rất đông học trò
Năm người đánh một
Thiên hạ cười cho.
Phùng lão đọc xong bốn câu thơ, ngơ ngác.
Lý Mạc Thu nói tiếp:
- Lão hiểu chưa?
Phùng lão nói:
- Hiểu rồi, có gì mà không hiểu.
Vừa nói lão vừa giơ kềm lên kẹp cả tờ giấy lẫn kim, giật xuống nhét vào lò lửa cháy vèo vèo.
Thấy thế Lý Mạc Thu quá giận, cầm cây phất trần đứng phắt lên, định chạy xông vào đánh Phùng sư phó cho vỡ sọ ra.
Nhưng chạy được vài bước, Mạc Thu dừng chân ngay, vì nàng là người giang hồ lão luyện, thầm nghĩ:
- Một người trông rất kỳ dị, mà làm nghề thợ rèn, chắc gan dạ lắm mới dám ngang nhiên chọc tức mình như vậy!
Nàng bước lùi lại ngồi nguyên chỗ cũ, ôn tồn hỏi:
- Tôi nóng nảy quá nhỉ! Lão là ai thế?
Phùng lão cau mày đáp:
- Mi không trông thấy đây sao? Ta là lão thợ rèn, chớ còn là ai nữa?
Lý Mạc Thu gắt gỏng hỏi:
- Tại sao lão lại đốt tờ giấy của tôi?
Tờ giấy viết không đúng thì đốt chớ sao?
Mạc Thu quá tức, hét lên:
- ông biết thế nào mà không đúng?
Phùng lão nghiêm giọng nói:
- Đào Hoa đảo chúa có tài năng biết cả việc trời đất; đệ tử của ngài mỗi người chỉ học được trong một phần trăm, phần ngàn nghệ thuật của ngài mà đã ngang dọc thiên hạ, thế thì trong đời ai còn dám chê ngài?
Lý Mạc Thu cười rang rảng nói:
- ông lão ơi, như thế là ông đã lầm Hoàng Dược Sư rồi, vì Dược Sư chỉ có tài lừa đời. ông cũng như thiên hạ đời này, đều bị mắc lừa Hoàng Dược Sư cả!
Phùng sư phó vẫn bình tĩnh nói:
- Mi nói không đúng sự thật. Để ta kể cho mi nghe. Người đệ nhất đệ tử của ngài là Trần Huyền Phong, một tay da đồng, gan chì, xương sắt, gươm đao chém không thủng. Mi đã nghe danh ông ta chứ?
Miệng nói, Phùng lão vẫn trăn trở thanh sắt trong lửa.
Nghe nói đến Trần Huyền Phong, Lý Mạc Thu sợ hãi. Còn Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh đều kinh ngạc thầm nghĩ:
- Một lão thợ rèn già nua, ở nơi rừng rú thế này mà biết được những tay anh hùng trong giới võ lâm, lạ thật?
Lý Mạc Thu bỡ ngỡ hỏi:
- Hình như Trần Huyền Phong bị một đứa trẻ nít đâm chết, như thế thì giỏi cái gì?
Phùng lão điềm nhiên kể tiếp:
- Người đệ nhị đệ tử của Hoàng Dược Sư là Mai Siêu Phong có tài đi lẹ như gió, mi có biết không?
Lý Mạc Thu tiếp lời:
- à phải rồi; người đó bị "Thất quái" ở Giang Nam đâm lủng hai mắt, rồi sau bị Âu Dương Phong đánh bể ruột đó phải không?
Phùng lão bồng ngây người buồn bã, khi nghe Lý Mạc Thu nhắc đến chuyện bi đát của bạn đồng môn thuở xưa.
Qua một lúc, ông ta buông tiếng thở dài rồi nói:
- Có thể xảy ra việc đó à? Sao ta không hay? Nhưng người học trò thứ ba của ngài, chắc mi không lạ gì, đó là Khúc Linh Phong võ nghệ siêu quần. Nhất là thuật "tát tay" thì trong thiên hạ không có người địch nổi.
Lý Mạc Thu không suy nghĩ liền đáp:
- Trong làng giang hồ, có kể chuyện Khúc Linh Phong. ông ấy leo vào Hoàng cung trộm báu vật, bị lính cận vệ bắt được đánh chết. Có phải ông ấy là Khúc Linh Phong có tài "tát tay" siêu quần tuyệt luân không?
Phùng lão giả lơ cúi vào lò lửa ho mấy tiếng, đôi mắt đẫm lệ rơi xuống thanh sắt đỏ, nghe "xèo xèo" hai luồng khói trắng bốc lên.
Lục Vô Song đứng chăm chú nhìn từng cử chỉ, lời nói của Phùng lão, thấy rõ nước mắt của lão trào ra. Lòng nàng nghĩ ngợi không hiểu vì sao? Chỉ thấy tay lão giưo cao lên và đập lưỡi búa xuống chan chát, miệng thở dài nghe não nuột.
Một lúc lâu Phùng lão mới nói:
- Môn đệ của Hoàng Dược Sư chúa đảo Đào Hoa có Trần Huyền Phong, Mai Siêu Phong, Khúc Linh Phong và Lục Thừa Phong, bốn người thuộc vào hàng đệ tử ưu hạng. Lục Thừa Phong là tay võ nghệ cao cường lại thông tính cả nhâm cầm độn toán, nếu mi gặp ông ta là mi không còn.
Lý Mạc Thu cười kha khá, nói:
- ô! Nhâm cầm độn toán thì ăn nhằm gì. Có phải người ấy đã dựng một toà nhà ở bên Thái Hồ, gọi là "Quy vân trang" để đoán số cho khách giang hồ, sau bị người ta đốt cháy tiêu cả nhà cửa, từ đó đến nay không thấy ông ta đâu cả. Có lẽ đã bị chết thiêu rồi!
Phùng sư phó nghe đến đó giận lắm, la lên:
- Con đạo cô kia, không được nói bậy như thế. Các đệ tử của Hoàng Dược Sư đều là tay võ nghệ siêu quần. Nhắc đến người nào mi cũng nói là bị giết cả. Mi đừng khinh ta ở xó rừng nầy, không hiểu được thiên hạ đời nay cố kiếm lời xuyên tạc.
Lục Vô Song buồn bã nói với Phùng lão:
- ông muốn biết rõ sự việc đó để ba chúng tôi nói lại coi có đúng không?
Nói đến đó, Lục Vô Song đôi mắt ngấn lệ và nghẹn lời không nói được nữa.
Phùng lão đưa mắt nhìn Trình Anh rồi nói:
- Cô nương có thể cho tôi biết tin về các đệ tử của Hoàng Dược Sư không?
Trình Anh thấp giọng nói:
- Trong môn phái của Hoàng Dược Sư mấy năm nay không được hưng thịnh, và các người tài giỏi tản lạc, điêu linh hết cả. Tôi là kẻ sinh sau đẻ muộn, vừa mới được vào đảo Đào Hoa học ít lâu nay, không dám đem lời bênh vực cho sư phụ. Tôi thấy thẹn vô cùng. Như thế lão có quen với các người kể trên sao?
Phùng sư phó không đáp, chỉ trừng mắt nhìn Trình Anh hồi lâu, rồi có vẻ nghi ngờ hỏi:
- Gần đây chúa đảo có nhận thêm đệ tử nữa à?
Trình Anh thấy lão luôn luôn bênh vực cho sư phụ nàng, nên hết lòng kính mến, bèn kể thật:
- Gia sư tôi lúc nầy tuổi đã cao, ưa sống nơi tịch mịch, nên thu nhận tôi để ngài sai việc nhỏ mọn, còn nói học trò thì không đúng, vì tôi còn nhỏ chưa học được gì. Tôi không dám nhận là đệ tử của chúa đảo Đào Hoa.
Nghe đến đấy, Phùng sư phó đôi mắt hiền dịu lại,như có thâm tình đối với Trình Anh. Nhưng lão không nói gì nữa, chỉ cúi đầu đưa tay trở qua trở lại thanh sắt.
Trình Anh chợt thấy cặp nạng của lão, trên đầu có hình bán nguyệt giống y "Lạc anh chưởng pháp" của Hoàng Dược Sư. Nàng đoán được nguyên do liền hỏi:
- Tôi nhiều lúc nhàn rỗi được hầu chuyện với gia sư ở trên đảo Đào Hoa. Gia sư thường nhắc cho nghe về chuyện của mấy vị đệ tử như thế này: "Ngày tao đuổi các đệ tử đi khỏi đảo, chỉ có Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong là hai người đáng tội, vì chúng tự hại chúng. Còn ba người họ Khúc, họ Lục và họ Phùng đều bị tội oan. Đáng thương nhất là Phùng Mạc Phong tuổi còn nhỏ, không biết nay lưu lạc phương nào. Lúc nào nghĩ đến, lòng ta lại thương chúng đệ tử lúc ấy!"
Hoàng Dược Sư quả có ý thương học trò, nhưng ông rất kín đáo không bao giờ để lộ ra. Lúc này Trình Anh bịa chuyện để dò ý Phùng sư phó.
Lý Mạc Thu đứng ngoài nhìn thấy hai người chuyện trò thân mật, rồi sau Phùng lão có vẻ buồn bực, nước mắt chảy tầm tã rơi xuống thanh sắt đang nung trong lò nghe "xèo xèo" bốc lên hơi trắng, Mạc Thu nghĩ thầm:
- Tụi nầy có chung sức nhau cũng không đi đến đâu, chỉ thêm có một thằng què, làm nên trò trống gì?
Nàng gọi lớn:
- Phùng Mạc Phong, ta có ý mừng cho sư huynh, sư muội nhà ngươi đã nhận được nhau.
Phùng sư phó đây chính là Phùng Mạc Phong. Khi còn ở trên đảo Đào Hoa, Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong, hai người đã lấy trộm "Cửu âm chân kinh" định trốn đi. Hoàng Dược Sư bắt được, lòng quá giận, bèn đánh què cẳng hai người, đuổi khỏi đảo. Cả Khúc Linh Phong và Lục Thừa Phong cũng bị trừng phạt như hai người kia. Chỉ có Phùng Mạc Phong tuổi còn nhỏ nên chỉ đánh què một cẳng, nhưng cũng bị đuổi ra khỏi đảo Đào Hoa.
Khi ra khỏi đảo, mỗi người lưu lạc mỗi nơi trên hai xứ Quan trung, Lục dương.
Phùng Mạc Phong lạc đến Lục dương học nghề rèn, sau khi thành nghề, tìm đến một thôn trang hẻo lánh hành nghề sinh sống. Phùng Mạc Phong tuy có võ nhưng đã gần ba chục năm nay chưa hề đánh nhau với ai, vì thế mà trong giới giang hồ chưa ai biết danh.
Ngày nay tình cờ nghe chuyện các sư huynh qua đời cả, còn sư phụ như bóng chim tăm cá. Tình thầy trò ân thâm nghĩa trọng, Phùng Mạc Phong tự nhủ:
- Dù sư phụ đối với ta tàn ác mặc lòng, bổn phận ta bao giờ cũng giữ nghĩa cho trọn đạo trời đất.
Vì vậy, nên khi nghe Trình Anh kể, Phùng Mạc Phong ruột đau như cắt, thương thầy nhớ bạn, xót xa trong lòng.
Dương Qua, Lục Vô Song thấy Phùng lão và Trình Anh nhận là sư huynh sư muội, tất cả đều vui mừng. Dương Qua thầm nghĩ:
- Lão nầy nếu đúng là Phùng Mạc Phong, đệ tử của Hoàng Dược Sư thì võ nghệ chắc hẳn phải là tay chọc trời khuấy nước chứ không vừa.
Lý Mạc Thu ở ngoài cất tiếng lanh lảnh nói:
- Sư phụ nhà ngươi đã đuổi ngươi ra khỏi cửa mà vẫn còn quyến luyến thế kia à? Thôi ngươi để ta giết ba đứa này đi, đừng can thiệp nhé!
Phùng Mạc Phong bình tĩnh đáp:
- Ta tuy có học chút đỉnh võ nghệ, nhưng chưa có đánh ai lần nào. Vả lại nay đã bị tàn phế một chân như vầy, thì đánh đá chi mà nói.
Lý Mạc Thu nói:
- Được rồi, không có can chi tới nhà ngươi, cứ để yên ta làm việc của ta.
Phùng Mạc Phong quắc mắt nói:
- Đâu có được, ta cấm ngươi không được động đến mấy người nầy.
Lý Mạc Thu cả giận to tiếng:
- Ta thấy nhà ngươi tật nguyền, đã tha cho lại muốn lên mặt.
Phùng lão thản nhiên như không nghe, cứ cầm búa đập mạnh trên đe mãi.
Mạc Thu liền thách đố:
- Ta chấp cả bốn đứa đấy. Đứng lên hết đi, ta đưa về âm phủ cho rồi!
Phùng Mạc Phong ôn tồn đáp:
- Ta bỏ học đã ba mươi năm nay, không luyện tập gì cả, hôm nay thử ôn lại vài đường xem sao!
-
Chương 43 - Nạng sắt mà trừ được thần chưởng
Chương 43
Nạng sắt mà trừ được thần chưởng
Dương Qua lại tặng áo cho kẻ thù
Lý Mạc Thu cười khanh khách, nói:
- Con Lý Mạc Thu nầy đã từng ngang dọc thiên hạ bao lâu nay, đánh biết bao nhiêu trận, chưa hề thấy một người nào tàn phế như nhà ngươi mà dám chống ta. Nay Phùng Mạc Phong, ông chưa hề giao đấu với ai thật ư?
Phùng Mạc Phong đáp:
- Ta có trêu chọc ai đâu, nên có người nào ganh ghét gì mà phải đấu với ta?
Lý Mạc Thu nheo mày nhìn Phùng lão cười lớn:
- ôi chao! Đệ tử của chúa đảo Đào Hoa toàn là những kẻ mang hư danh, chết một cách rẻ mạt, làm trò cười cho thiên hạ mà thôi! Ta đây đã thừa hiểu rồi!
Phùng Mạc Phong nghiêm giọng nói:
- Này Lý đạo trưởng, đừng có nói động đến ân sư của ta!
- Ai là người nhận chú làm đệ tử, mà chú bô bô nói mãi, hết ân sư đến sư phụ, không sợ người ta cười sao?
Phùng Mạc Phong cầm cây nạng sắt từ từ đứng lên, rồi nói:
- Suốt đời ta chỉ chịu khổ sở điêu linh, chỉ có một mình Hoàng Dược Sư là vị ân sư duy nhất của đời ta. Không kính trọng ngài, thì còn kính trọng ai?
Nói xong Phùng lão quay qua hỏi Trình Anh:
- Sư muội, lâu nay ân sư vẫn được mạnh khoẻ luôn chứ?
Trình Anh lễ phép đáp:
- Thưa sư huynh, gia sư cũng được bình yên luôn!
Câu nói của Trình Anh làm cho Phùng Mạc Phong nét vui mừng hiện rõ trên nét mặt.
Lý Mạc Thu thấy Phùng lão có lòng chân thành đối với Hoàng Dược Sư, thầm khen: "Hoàng Dược Sư cũng đáng bậc tôn sư, mà thiên hạ cũng ít ai bì kịp. Đánh học trò đến què chân, nhưng học trò vẫn một lòng tôn kính khi vắng mặt!"
Hoàng Dược Sư hành động quái đản, nhưng lương tâm của ông rất trung trực, rất ghét kẻ tà gian, nịnh bợ. Cho nên Lục Thừa Phong, Khúc Linh Phong và Phùng Mạc Phong tuy bị hình phạt như vậy, vẫn ghi ơn ông chứ không oán trách. Đến kẻ đại gian ác như Mai Siêu Phong, mà khi gặp việc gian nan cũng quên mình để cứu ông; ai cũng nghĩ rằng miễn sao báo nghĩa được với ân sư, là họ thoả mãn rồi.
Phùng Mạc Phong ngồi xuống đưa nạng sắt vào lò nung lên.
Lý Mạc Thu cười rồi hỏi tiếp:
- Thế nào? Phùng Mạc Phong nghĩ ân nghĩa của sư phụ thế nào mà chân tay đến rời rạc vậy?
Phùng lão không trả lời, chỉ chăm chú vào ngọn lửa, hai tay lo trăn trở thanh sắt và cây nạng cho đỏ lên.
Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh thấy thế đều lo sợ, kêu lên:
- Sao lão lại nung cả cây nạng như vậy, lấy gì đi lại?
Nhưng Phùng Mạc Phong không đáp một lời nào, chỉ chăm chú nhìn vào ngọn lửa ngùn ngụt như đang nung nấu bầu căm tức trong lòng.
Đến lúc thấy cây nạng đã đỏ như than lửa hồng, ba người kia sợ hãi, tưởng cây nạng ấy sẽ cháy ra, không còn dùng được. Ngờ đâu, Phùng Mạc Phong vẫn điềm nhiên đưa tay nắm lấy cây nạng nung đỏ, như không biết nóng là gì.
Lý Mạc Thu trông thấy thất kinh, thầm nghĩ:
- ôi chao! Nếu thế bản lĩnh người nầy không phải vừa. Ta liệu cách ra tay sớm thì hơn.
Nàng liền bước lui ra khỏi cửa, mồm gọi Phùng lão:
- Lão già kia! Có giỏi ra đây!
Phùng Mạc Phong mặt đầy giận dữ, đứng dậy. Một tay chống nạng, một tay cầm búa, phóng mình ra lanh như chớp chẳng có chút gì gọi là tàn phế cả.
Lão nói:
- Xin đạo trưởng chớ mắng nhiếc sư phụ tôi, đừng làm khó dễ sư muội tôi, và tha cho kẻ tàn phế này thì hay biết bao.
Lý Mạc Thu không ngờ Phùng lão đã đem thân ứng chiến, còn nói câu khiêm tốn có vẻ xin xỏ, nàng ngạo nghễ bảo:
- A! Ra ngươi đã biết sợ ư? Này lão thợ rèn! Nếu thế mi phải quỳ xuống xin lỗi ta mới được.
Phùng Mạc Phong quắc mắt nhìn Lý Mạc Thu rồi quát lớn:
- Con ma cái kia, thế là mi đã trêu chọc ta phải không? Ta sợ mi mà ra đây à?
Lý Mạc Thu liền vung phất trần vụt ngang qua đầu Phùng lão.
Phùng Mạc Phong tuy có một cẳng, nhưng nhảy qua nhảy lại nhanh như chớp. Lý Mạc Thu dương phất trần đánh tiếp ba cái đều trật cả.
Phùng Mạc Phong tuy né lanh như vậy, nhưng tuyệt nhiên không đánh trả.
Dương Qua, Trình Anh, Lục Vô Song đứng ngoài hết lòng lo ngại, bảo nhau:
- Chúng mình phải giúp lão một tay.
Dương Qua thấy Phùng lão càng đánh càng hăng sức. Chàng quá thích chí, nên tìm lời chọc Lý Mạc Thu:
- Lý Mạc Thu ơi! Bữa nọ mi vừa đánh vừa cười. Sao nay lại im bặt như thế?
Lý Mạc Thu thở hổn hển hét lớn:
- Im đi, thằng ranh con kia! Mày thích lắm sao?
Dương Qua được dịp nói tiếp:
- Lý Mạc Thu, mi còn dám nhắc những lời buộc tội đảo chúa Đào Hoa là đồ bất trung bất hiếu, vô nhân đạo, cướp vợ người, bắt cóc con nhỏ nhà khác nữa chăng? Mi nói toàn là những việc không bằng chứng gì cả.
Lý Mạc Thu nghĩ bụng:
- Ta mắng như thế bao giờ mà mày dám đặt điều nói vậy?
Nàng vừa cãi lại Dương Qua, nàng vừa đánh với Phùng lão những đòn quá nguy hiểm.
Lục Vô Song và Trình Anh, không hiểu tại sao Dương Qua lại bịa chuyện như vậy!
Phùng Mạc Phong nghe Dương Qua bịa chuyện mắng Lý Mạc Thu, lòng bốc giận, vì nghĩ rằng Lý Mạc Thu là kẻ hậu sanh lại dám mắng sư phụ mình. ông dùng thế "Kim kê độc lập" vững vàng, tay búa tay nạng vung lên đánh vun vút vào Lý Mạc Thu.
Lý Mạc Thu lúc nầy chỉ lo lui, né, chờ khi Phùng lão sơ hở mới dám đánh trả vài đòn.
Dương Qua cười ha hả, nói rang rảng:
- Lý Mạc Thu! Mày là đứa láo khoét, mày bảo Hoàng Dược Sư là kẻ bất nhân vô liêm sỉ, nhưng ta thấy mày còn bất nhân và vô liêm sỉ hơn ông ta nhiều.
Giọng nói của Dương Qua như mũi dùi nhoi nhói vào tai. Dương Qua càng nhắc đến, càng châm biếm Lý Mạc Thu bao nhiêu thì Phùng lão càng nổi giận bấy nhiêu, đánh ra toàn những đòn ác hiểm.
Do đó ban đầu Lý Mạc Thu còn chống trả được, nhưng sau nàng chỉ còn có cách thủ thế, miệng thở hổn hển, không biết đường nào phản công.
Luận về võ công thì hai bên chỉ suýt soát nhau một chín một mười. Nhưng nói về kinh nghiệm chiến đấu thì Lý Mạc Thu là tay từng trải giang hồ, một mình đã dự chiến hàng mấy trăm trận. Vì vậy, tuy có hơi kém sức, nhưng nàng không bị bối rối và còn nghĩ:
- Lão chỉ có một chân, sức mạnh bình thường đã giảm mất nhiều. Nếu lão hăng sức chẳng qua vì nóng giận nhất thời. Ta chờ lão mệt sức sẽ phản công thì thế nào cũng thắng.
Quả vậy, qua một hồi giao đấu, Phùng lão đánh một lúc một yếu dần, và các chiêu thế rời rạc, không ác liệt như lúc đầu.
Lý Mạc Thu mừng rỡ vội vung phất trần đánh tạt một đòn vào ngực lão.
Phùng lão giơ nạng ra đỡ, thì Lý Mạc Thu đã lẹ như chớp, vung cây phất trần vụt tới, định quấn cây sắt của Phùng lão thu về. Đây là một tư thế đặc biệt của Lý Mạc Thu đã thường dùng để đoạt vũ khí của đối phương. Không ngờ nàng vừa vung cây phất trần đã nghe tiếng "xèo xèo". Một làn khói toả ra khét lẹt. Cây phất trần bị cháy trụi lông, chỉ còn trơ cái cán.
Bấy giờ Lý Mạc Thu mới biết cây nạng của lão còn đang nóng đỏ.
Lý Mạc Thu đã không thu được vũ khí của đối phương, mà binh khí của nàng bây giờ cũng thành vô dụng. Nàng vẫn bình tĩnh giơ "Ngũ độc thần chưởng" ra tấn công tiếp.
Thần chưởng là đòn lợi hại, nhưng phải đứng gần đối phương thì mới hiệu quả được.
Phùng Mạc Phong thừa thắng, tay búa tay nạng đánh đỡ không ngớt. Với đòn ác liệt "Ngũ độc thần chưởng" của Lý Mạc Thu, lúc nầy chỉ còn nghe tiếng vo vo như sáo diều gặp gió.
Dương Qua, Trình Anh và Lục Vô Song sửng sốt nhìn Lý Mạc Thu và Phùng Mạc Phong đang giáp chiến hăng say, và Dương Qua cũng quên không còn châm biếm Lý Mạc Thu nữa!
Bỗng có lằn khói trắng xanh ở chỗ trận chiến ác liệt tung ra, khét lẹt như mùi đốt giẻ.
Lý Mạc Thu quyết dùng "Ngũ độc thần chưởng" đánh Phùng Mạc Phong nhưng không ngờ cây nạng của Phùng lão còn nóng đỏ, đánh vào đâu cháy đến đó, nên "Ngũ độc thần chưởng" của Lý Mạc Thu trở nên vô hiệu, hai bàn tay của nàng suýt bị cháy cả, nếu không lanh lẹ tránh đòn.
Lý Mạc Thu đang căm giận vì nạng ác ôn của lão thợ rèn, chưa biết tìm đòn gì để phá, chợt nghe Phùng Mạc Phong kêu lên:
- Ta không thèm đánh nữa. Người mi loã lồ thế kia, thì còn đánh đấm gì!
Lý Mạc Thu quá hăng say chiến đấu, nghe Phùng lão kêu lên như vậy, nàng không hiểu duyên cớ gì cả. Chợt nghe gió thổi lành lạnh, nàng nhìn xuống thân mình từ ngực đến chân, áo quần rách hở để lộ da thịt.
Nàng thẹn thùng không thể tả, vội vã quay đầu chạy trốn.
Vừa quay mình chạy nàng nghe lạnh toát cả người, không biết chạy trốn nơi nào, chỉ có cách độn thổ mới che được cặp mắt người đời. Nhưng nàng đâu biết độn thổ mà nghĩ đến chuyện ấy.
Nguyên vì cây gậy của Phùng Mạc Phong đang nóng đỏ, nhưng Lý Mạc Thu quyết xông sát vào để đánh "Ngũ độc thần chưởng" nên áo quần bị cháy hết, sanh ra tai nạn ấy.
Dương Qua thấy Lý Mạc Thu đang luống cuống và xấu hổ, vội vã cởi áo dài ra, vận nội công ném vào người Mạc Thu.
Lý Mạc Thu như người sắp chết đuối vớ được cọc, vội đưa tay hớt lấy cái áo của Dương Qua vừa ném đến mặc vội vào. Nàng thấy sợ, vì từ trước đến nay chưa bị người nào dùng đòn phép đánh đến trần truồng như vậy!
Mặc áo xong nàng toan xông vào đánh nữa để chữa thẹn, nhưng lại nghĩ:
- May có cái áo Dương Qua cho mượn mới che được thân, nếu đánh nữa, rủi bị cháy thì lấy gì mặc.
Lý Mạc Thu cố nén giận, nhìn Dương Qua có ý cảm ơn. Đoạn nàng quay sang nói với Phùng Mạc Phong:
- Khí giới kỳ quái của ngươi vừa dùng, ta nhận cũng là của lão "Đông Tà" Hoàng Dược Sư ban truyền. Nếu ngươi dùng thuật chân chính đánh với ta, thì không bao giờ có thể thắng ta được.
Phùng Mạc Phong thản nhiên đáp:
- Tại cô rủi cháy khí giới, nếu không cháy là lão thua từ lâu rồi.
Lý Mạc Thu ngạo nghễ nói:
- Như thế lão xem ta viết câu "Đào Hoa chúa đảo, năm người đánh một" như vậy có đúng không?
Phùng lão đáp:
- Không đúng, nếu chỉ có một người trong bốn sư huynh của ta có mặt ở đây là Lý Mạc Thu không còn xác.
Lý Mạc Thu cười ha hả, nói:
- Mấy người đó còn sống hay đã chết cũng chẳng ăn nhằm gì, ngươi đừng nói tới làm chi. Ngay như lão "Đông Tà" ta cũng chưa phục. Ta muốn đấu ngay với Hoàng Dung, con gái của "Đông Tà" đó, nhưng chưa gặp.
Dứt lời, Lý Mạc Thu toan nhảy đi thì Dương Qua kéo lại:
- Lý Mạc Thu ơi, thong thả đã chứ, đi đâu mà vội thế?
Nàng liền quay lại nhìn Dương Qua hỏi:
- Có chuyện gì không?
Dương Qua nói:
- Cô chê đảo chúa Đào Hoa võ công không đáng kể, như vậy là sai lầm. Thế mà cô cứ ngạo nghễ mãi. Tôi đã được Hoàng Dược Sư dạy về "Ngọc Tiêu kiếm pháp". Ngài có dặn tôi rằng "Ngọc Tiêu kiếm pháp" có thể phá tan được cây phát trần của Lý Mạc Thu. Vậy cô ở nán lại, để tôi vạch đồ hình trên mặt đất giảng giải cho cô nghe.
Lý Mạc Thu nghe Dương Qua có "Ngọc Tiêu kiếm pháp" liền bước lại đứng trước mặt Dương Qua, bảo:
- Được, ngươi cứ vẽ đi cho ta xem thử.
Dương Qua liền đưa tay vẽ, miệng giảng cách đánh ngang, đánh dọc rồi điểm vào yếu huyệt, tiếp theo quay thế "cọp nhổm vồ nai" để cướp ngang cây phất trần.
Miệng chàng nói thao thao không vấp một điểm nào.
Lý Mạc Thu quá kinh ngạc. Nàng thầm nhìn nhận ""Ngọc Tiêu kiếm pháp" quá nguy hiểm, cây phất trần không đủ tác dụng để chống đối.
Được thế, Dương Qua nói tiếp:
- Còn "Ngũ độc thần chưởng" của cô cũng chưa đi đến đâu. Hoàng Dược Sư cũng dạy tôi công phu "bắn đạn bằng ngón tay" chống lại "Ngũ độc thần chưởng" của cô một cách dễ dàng. Dẫu cô có khôn lanh tài giỏi đến đâu cũng không thoát khỏi được.
Tiếp đó chàng lại vẽ và giảng rất ăn khớp với các bí quyết của "Ngũ độc thần chưởng".
Lý Mạc Thu mặt xám đen, thầm nghĩ:
- Nó đã biết hai môn đó, nếu ta giao chiến tất bị bại, không thể tránh thoát được.
Dương Qua đoán được nét mặt kinh sợ của Lý Mạc Thu, chàng liền nói:
- Đảo chúa có dặn tôi "thế nào con Lý Mạc Thu nó cũng nói vô lễ với ta, nhưng ta đường đường một đấng tôn sư, không lẽ lại so tài với nó." Cho nên ngài dạy cho tôi thuật pháp và dặn "con phải thay ta để bắt sống nó", nhưng tôi nghĩ: cũng chả ai đâu đó, giữa cô và sư phụ tôi chỉ là tình đồng môn, nên tôi nói riêng cho cô hay. Để mai mốt nếu có gặp học trò của đảo chúa, cô phải nên tẩu thoát đi là hơn."
Lý Mạc Thu tái mặt, đứng ngẫm nghĩ hồi lâu mới nói:
- Được rồi... Được rồi...
Miệng nói, chân nàng chạy như tên bay, trong chớp mắt bóng hình Lý Mạc Thu đã biến vào sau đồi núi hướng Tây.
Phùng Mạc Phong thấy thế, thầm khen Dương Qua:
- Lý Mạc Thu đúng là một tay lợi hại. Nhưng thật ra hai thuật trên, sư phụ ta có truyền cho Dương Qua thì ít nhất cũng phải luyện tập hai năm mới sử dụng được với địch thủ.
Thế mà Dương Qua chỉ thuộc có lời giảng dạy, đã làm cho Lý Mạc Thu kinh sợ, không dám khinh thường học trò của Hoàng Dược Sư nữa. Thật là một lối "đánh giặc miệng" tài tình.
Lục Vô Song và Trình Anh đứng phập phồng lo sợ, vì biết Dương Qua lập kế hăm doạ Lý Mạc Thu. Đến khi thấy Lý Mạc Thu bỏ chạy, Lục Vô Song và Trình Anh mới hồi tâm như vừa trải qua một cơn ác mộng. Lục Vô Song vỗ tay reo lên:
- Anh Ngốc khéo mồm mép quá, khuếch trương thanh danh của sư phụ tài tình ghê!
Cả bốn cùng vui vẻ cười cười nói nói không ngớt tiếng.
Trình Anh sực nhớ đến cô Ngốc, liền nói với Phùng lão:
- Thưa sư huynh, bây giờ chúng ta vào tiếp tục mở trói cho cô Ngốc chứ.
Bốn người quay bước về nhà. Trình Anh vừa đi vừa nghĩ:
- Tại sao Dương Qua lại cởi áo mình may cho chàng để trao cho Lý Mạc Thu? Tại sao chàng không cởi chiếc áo của Tiểu Long Nữ tặng cho chàng trước kia? Chiếc áo ấy đã cũ rồi kia mà! Chẳng biết trong lúc hối hả có phải chàng đã vô tình quý món kỷ niệm của Tiểu Long Nữ hơn tặng vật của mình. Nếu quả như vậy thì chàng không phải là người "mới chuộng cũ vong" rồi.
Càng nghĩ Trình Anh càng buồn. Nàng nói theo mọi người. Trong lúc ba người đi trước chuyện trò vui vẻ, nhưng nàng vẫn làm thinh.
Cả bọn vừa đến sân, bỗng nghe có tiếng vó ngựa dồn dập ở sau núi, ai cũng ngơ ngác không biết việc gì xảy đến.
Dương Qua nói:
- Để tôi ra đó xem có việc gì.
Dương Qua nhảy lên lưng ngựa, rẽ cương chạy quanh sang mỏm núi thì thấy trên đại lộ hướng Đông bụi bay mù mịt, cờ xí rợp trời, quân lính reo hò lẫn với tiếng ngựa hý vang rền. Đó là một cánh quân hùng hậu của Mông Cổ đang kéo đến xâm lược phương Nam.
Dương Qua từ trước đến nay chưa bao giờ được thấy quân mã đông đảo như thế, nên chàng cho ngựa tiến qua lề đường để xem cho rõ. Chàng đang say sưa nhìn đoàn người ngựa oai hùng, gươm giáo sáng choang, chợt thấy hai tên lính tiền phong phóng ngựa đến gần hét lớn:
- Thằng kia mi đứng đây làm gì?
Dương Qua thất kinh, nhìn thấy hai ngọn giáo đang chỉ thẳng vào mặt. Chàng biết thế nguy liền quay ngựa bỏ chạy.
Hai tên lính Mông Cổ liền phóng ngựa đuổi theo, tay giương cung bắn vào lưng Dương Qua và gọi lớn:
- Thằng khốn kia đứng lại.
Tiếng gọi vừa dứt, tiếp theo hai lằn tên bay tới vèo vèo. Dương Qua liền quay lại hớt trọn hai mũi tên.
Nếu Dương Qua không có võ nghệ siêu quần thì không tài nào hớt được hai mũi tên ác độc này.
Hai chú lính thấy Dương Qua hớt hai mũi tên quá dễ dàng, kinh hãi không dám đuổi theo nữa.
Dương Qua cho ngựa chạy đế nhà Phùng Mạc Phong và kể chuyện đoàn quân Mông Cổ đã đến phương Nam.
Phùng Mạc Phong thở dài than:
- Thôi, từ nay sinh linh Trung Quốc sẽ điêu đứng, thống khổ biết chừng nào! Trời ơi! Dưới bàn tay khát máu của quân Mông Cổ thì còn gì nữa!
Dương Qua nói:
- Thuật cưỡi ngựa bắn tên của quân Mông Cổ hay lắm, sợ quân nhà Tống không thể chống nổi. Thật là một tai hại lớn cho triều đình nhà Tống.
Phùng Mạc Phong nói:
- Dương công tử đang tuổi thanh niên, lại có tài nghệ siêu quần, sao không về Giang Nam đầu quân để chống giặc giúp nước?
Dương Qua ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Không, tôi không đầu quân đầu quan gì cả. Tôi chỉ định lên phương Bắc tìm cô nương của tôi. Vả lại, hiện giờ thanh thế quân Mông Cổ đang mạnh lắm, mà có một mình tôi thì làm được việc gì!
Phùng Mạc Phong lắc đầu có ý chê trách, nói:
- Vẫn biết sức mình không thấm vào đâu, nhưng cũng nhờ sức mọi người họp lại mới thành đông người được chứ! Nếu mọi người đều có ý nghĩ như Dương công tử thì còn có ai là kẻ ra chống ngoại xâm? Thử nghĩ người ta sinh ra ở đời, điểm cao quý nhất là lòng yêu nước thương dân. Làm người hơn nhau là do cái chí khí, nhờ đó mới tạo được hai chữ "anh hùng". Nếu con người sống mà không biết đến tổ quốc thì khác nào cây cỏ? Còn hiện giờ nước nhà đang lúc hiểm nguy, sao Dương công tử lại chỉ mong tìm "cô nương"? Trong sử chỉ ghi chép những bậc anh hùng, đâu có ghi những người đi tìm "cô nương"?
Dương Qua nghe những lời Phùng lão phân trần, liền nói:
- Lão dạy đúng lắm! Nhưng muốn chống xâm lăng, phải có một tiêu chuẩn đúng đắn cho dân chúng biết. Sự xâm lăng của ngoại bang sẽ làm cơ cực như thế nào. Rồi những người đem thân ra giúp nước phải được quyền lợi công bằng như thế nào. Chứ còn vua quan chỉ biết vơ vét đầy túi tham, gặp giặc thì đầu hàng xu nịnh. Dẫu người dân đem thân hy sinh để cứu nước, đến khi hết giặc xâm lăng, lại phải làm nô lệ cho bọn nịnh thần nữa à? Còn những người có lòng trung thực, ngay thẳng, lại bị bọn quan ô, tham lại dèm pha kết tội để dâng lên vua cho được công trạng. Do đó, người dân phải thủ phận theo câu "con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa". Bắt dân hy sinh chỉ cho bọn vua quan hưởng cái sung sướng là nghĩa làm sao?
Phùng Mạc Phong nghe Dương Qua lý luận nhiều quá, liền nói:
- Bây giờ, theo ý công tử định thế nào?
Dương Qua cười nói:
- Lão đã phải ẩn thân vào nơi rừng sâu núi thẳm này, mà còn muốn tặng cho tôi hai tiếng "công tử" là có ý định gì vậy? Tôi là con nhà nghèo, lúc nhỏ phải lưu lạc ở Giang Nam, đã cơ cực biết chừng nào với bọn quan ô tham lại, nên nay tôi nghĩ bọn xâm lăng Mông Cổ may ra còn có lòng nhân đạo hơn bọn quan lại nhà Tống. Vả lại Hoàng đế nhà Đại Tống lại cũng không tốt gì, nên tôi không thể đầu quân được.
Thấy Dương Qua đã có ý định dứt khoát như vậy, Phùng Mạc Phong không nói nữa. ông thu xếp đồ đạc vào một cái bị, mang lên vai rồi nói với Trình Anh:
- Sư muội! Nếu mai sau có gặp sư phụ, nhờ sư muội nói lại giùm với ngài là Phùng Mạc Phong đệ tử của ngài không bao giờ quên lời dạy dỗ. Lúc này tôi phải trà trộn vào trong quân Mông Cổ để tìm cách may giết được tên nào, sẽ trừ bớt hại cho dân. Đến lúc hết giặc Mông Cổ trên đất Giang Nam, tôi mới trở về.
Lão liền cầm nạng sắt bứt ra đi, không hề nói đến Dương Qua một lời nào nữa.
Dương Qua nói với Lục Vô Song và Trình Anh:
- Chúng ta không ngờ lại gặp được một vĩ nhân ở nơi nầy, nhưng chưa kịp tỏ lời tạ ơn thì lão đã ra đi rồi.
Lục Vô Song cười nói:
- Uổng quá hả anh Dương Qua! Nếu khi sáng mà không có lão thì anh đã có dịp trổ tài với Lý Mạc Thu rồi, chứ đâu phải mất công giảng giải khổ sở như vậy!
Dương Qua cười ha hả đáp:
- Đúng rồi, nếu không có lão là ba đứa mình bây giờ đã được về thế giới mới rồi, chớ đâu còn khổ thế nầy!
Trình Anh nói:
- Lão đi mất rồi, vui gì mà pha trò! Như thế này là chúng ta đã quá vô tình với lão rồi. Thôi bây giờ chúng ta vào nhà lo cho cô Ngốc chứ.
Ba người đi vào nhà. Vào đến nơi ai cũng đều ngơ ngác vì không còn thấy cô Ngốc đâu cả. Trình Anh chạy kiếm khắp nhà, chợt thấy cô Ngốc nằm còng queo sau xó cửa, vôi kêu lên:
- Cô Ngốc! Sao nằm trong xó cửa vậy?
Dương Qua và Lục Vô Song vội vã chạy lại, thấy cô Ngốc đã mê man, tay đút vào bọc. Cả ba người đều kinh ngạc, xúm nhau khiêng cô Ngốc lên giường.
Mặt cô Ngốc lúc này đỏ bầm, đôi mắt trợn ngược lên. Trình Anh lấy thuốc xoa, Dương Qua lo giải huyệt đạo chính cho huyết mạch lưu thông.
Trong giây lát cô Ngốc đã tỉnh lại, mắt nhắm mắt mở nhìn mọi người.
Thình lình cô Ngốc lại tái mặt, kêu lên:
- Trời ơi! Anh Dương... anh đừng hiện lên bắt tôi. Không phải tôi giết anh mà!
Trình Anh liền nhỏ nhẹ nói:
- Chị ơi, đừng có sợ mà nói lầm lộn như vậy. Đâu có anh ấy ở đây?
Dương Qua định ý:
- Phải rồi, trong lúc tâm hồn nó mê sảng, mình doạ nó, may ra nó mới nói sự thật được.
Chàng liền nắm tay cô Ngốc, đôi mắt trợn lên la lớn:
- Bữa nọ đứa nào giết ta, mày nói mau lên không ta giết mày bây giờ.
Cô Ngốc khóc mếu máo, run rẩy nói:
- Anh Dương... Tôi đâu có giết, tôi đâu dám giết anh...
Dương Qua nóng lòng quá quát lớn:
- Mày có nói hay không? Tao giết mày!
Vừa nói tay chàng vừa bóp cổ cô Ngốc nghe ằng ặc. Cô Ngốc giãy dụa kêu không ra tiếng.
Trình Anh và Lục Vô Song biết Dương Qua định doạ để biết sự thật, nhưng chàng lại quá nóng, bóp cổ cô Ngốc hơi chặt. Trình Anh nói:
- Anh Dương nhẹ tay một chút.
Lục Vô Song nói:
- Cô Ngốc ơi, biết sao cứ nói thật hết đi.
Dương Qua trợn mắt, mặt cau lại, răng nghiến chặt, hỏi:
- Ta đã hiện hồn ma về đây để hỏi mày là ai đã giết tao. Mày phải nói thật ra thì ta tha cho, nếu mày không nói thật thì tao vặn cổ mày chết!
Miệng nói tay chàng hơi nới cổ cô Ngốc.
Cô Ngốc thở khò khè nói:
- Tôi biết anh chết... Hồi anh chết... nhiều quạ lắm! Nó ăn thịt anh.
Nghe đến đấy, Dương Qua lòng đau như cắt, đoán biết cha chàng đã bị chết về dao búa của một kẻ bạo tàn rồi. Nhưng sau khi chết, tại sao không được vùi thân tử tế, mà để quạ phân thây thảm thương như vậy! Mặt chàng xám ngắt, nghiến răng hét lớn:
- Đứa nào giết ta, nói mau lên!
Cô Ngốc ú ớ run sợ, đáp:
- Tại hồi anh đánh cô nương, nên trúng phải kim thuốc độc trong người cô nương mà anh chết.
Cô Ngốc có hiểu được sự thật khi Dương Khang bị trúng độc chết. Trước kia Âu Dương Phong đã dùng nọc rắn ám hại Nam Hi Nhân trên đảo Đào Hoa. Nam Hi Nhân gần chết đã mê man, không còn biết gì nữa, nên đánh một đòn vào vai Hoàng Dung, máu độc trong người Nam Hi Nhân dính vào chiếc áo lông nhím của Hoàng Dung mà Hoàng Dung vô tình đâu có biết được, nên cứ để như vậy. Đến khi gặp Dương Khang ở trong miếu, Dương Khang đưa tay đánh vào vai Hoàng Dung trúng vào chỗ có chất độc, nên bị chất độc nhiễm vào mà chết. Lúc đó Hoàng Dung vẫn tưởng Âu Dương Phong giết Dương Khang, nàng đâu có ngờ cái chuyện nọc rắn sang chuyển liên miên như vậy.
Đương nóng lòng, nhưng không hiểu được tên người giết cha mình, Dương Qua liền la lớn:
- Cô nương là ai?
Cô Ngốc bị nghẹt thở vì chàng vừa hỏi vừa bóp cổ, nên chỉ khò khè được mấy tiếng:
- Cô nương... là cô nương.
Dương Qua gằn giọng hỏi:
- Tên cô nương là gì?
Cô Ngốc èn ẹt rồi im bặt như hết thở.
Lục Vô Song thấy cô Ngốc không nói được, vội bước lại gỡ tay Dương Qua ra. Dương Qua liền túm hai tay Lục Vô Song đẩy mạnh một cái, Lục Vô Song thất thế té nhào xuống đất, văng xa hơn ba trượng. Nàng đau quá, nằm khóc sướt mướt.
Trình Anh tái mặt, bủn rủn cả tay chân, không dám nói năng gì, vội bước lại đỡ Lục Vô Song và nói:
- Dương Qua thường ngày rất hiền lành ôn hoà, sao nay lại dữ hơn cọp, chắc anh ấy đang tức bực lắm đấy!
Lục Vô Song đôi mắt đẫm lệ, thút thít nói:
- Tôi có chuyện gì đâu mà anh ấy giận tôi! Con người gì khi tỉnh khi say như vậy.
Dương Qua thầm nghĩ: "Nếu hôm nay mình không tìm được tên kẻ giết cha mình thì ức chết đi được." Chàng luôn mồm hỏi tiếp:
- Cô nương ấy họ Khúc hay họ Mai gì đó phải không?
Chàng hỏi như vậy là có ý nghi ngờ cho Mai Siêu Phong, còn Hoàng Dung coi chàng như con cháu trong nhà, chàng không hề nghĩ rằng Hoàng Dung đã động thủ.
Cô Ngốc giãy dụa mãi định gỡ tay ra chạy, nhưng bị Dương Qua nắm trúng huyệt đạo không tung dậy được, chỉ "a á" lên mấy tiếng rồi nói:
- Anh đến trước mặt cô nương mà đòi mạng chứ, tôi có giết anh đâu mà anh định giết tôi?
Dương Qua liền hỏi:
- Cô nương ấy ở đâu? Chỉ mau lên!
Cô Ngốc phều phào đáp:
- Bữa nọ tôi theo sư phụ đến, thấy cô nương và chồng cô ở trên đảo đó.
Dương Qua vừa mừng vừa chậm rãi hỏi:
- Cô nương kêu sư phụ cô là gì?
Cô Ngốc khò khè đáp:
- Là cha chứ còn là gì nữa.
Trình Anh và Lục Vô Song nghe cô Ngốc nói, cả hai đều kinh ngạc, ngơ ngác nhìn Dương Qua và cô Ngốc.
Dương Qua luôn miệng hỏi tiếp:
- Có phải chồng cô nương là Quách Tỉnh không?
Cô Ngốc run rẩy đáp:
- Đúng đấy, chớ anh không biết sao?
Dương Qua biết rõ Hoàng Dung là thủ phạm giết cha chàng. Lòng chàng lúc này như tơ vò, nên hai tay không còn nắm chặt cô Ngốc nữa.
Dương Qua ngồi sững sờ, đầu óc cố suy nghĩ lại cuộc đời từ thuở nhỏ đến nay:
- Lúc ta còn nhỏ phải chịu biết bao nhiêu cơ cực, mấy mươi phen bị đời hắt hủi tàn nhẫn. Hoàn cảnh đó chưa phai mờ trước mắt. Nay ta lại biết được người đã giết cha ta. Nừu cha ta không bị người giết, thì mẹ ta đâu có phải sống bằng cái nghề bắt rắn, và bị rắn độc cắn chết như thế! Để đời ta phải chịu cảnh cô đơn không cha không mẹ, đi ăn nhờ ở đợ đổi bát mồ hôi mới được chén cơm thừa cá cặn. Thế mà vẫn bị đời khinh rẻ như kiếp trâu ngựa.
Nghĩ đến đó, chàng hồi tưởng lại lúc chàng còn ở với vợ chồng Quách Tỉnh trên đảo Đào Hoa. Phải rồi, lúc đó Hoàng Dung rất nuông chiều anh em họ Võ, hai đứa nó muốn gì cũng được, còn mình bà mắng chửi bất cứ lúc nào. Tuy bà cũng có vẻ hiền từ, nhân hậu thật, nhưng cái hiền từ nhân hậu đó chỉ là cái lúc hối hận đã nhẫn tâm giết người. Chàng nói lớn như để hả giận:
- Ta không ngờ hai vợ chồng con người, bề ngoài có vẻ hiền từ như Quách Tỉnh và Hoàng Dung mà lại manh tâm giết cha ta!
Cô Ngốc nghe Dương Qua la to tiếng, liền vùng dậy nhảy xuống giường kêu thất thanh:
- Cứu giùm tôi... các người ơi!
Trình Anh bước lại đứng gần Dương Qua nhỏ nhẹ nói:
- Anh Dương Qua, anh đừng giận, cô Ngốc có tánh lừng khừng nói không đâu vào đâu cả. Mà nhất là lúc cô Ngốc lên cơn, lại càng nói bậy bạ lắm! Anh đừng tin cô Ngốc làm gì!
Dương Qua vẫn giữ vẻ mặt căm hờn không thèm trả lời. Chàng chỉ ngồi thừ trên giường, nét mặt luôn luôn thay đổi qua nhiều trạng thái buồn đau lẫn lộn.
Chàng đăm chiêu suy nghĩ một hồi lâu, bỗng đứng phắt dậy bước ra cửa nhảy lên lưng ngựa chạy như bay. Nháy mắt chàng đã cách xa hơn hai mươi trượng, nhưng đằng sau, chàng còn nghe tiếng Trình Anh gọi nheo nhéo:
- Anh Dương! Anh Dương ơi! Trở lại cho em nói chuyện cần đã.
Dương Qua nghe còn rõ, nhưng chàng không thèm đáp một tiếng. Chàng chỉ hậm hực là "Ta phải trả thù cho cha... Ta phải trả thù cho cha ta bằng được."
Chàng đưa tay dùng roi quật ngựa không ngớt. Chẳng bao lâu chàng đã đi quá một trăm dặm. Cảm thấy trên môi hơi đau, chàng đưa bàn tay xoa thử, thấy máu tươi dính cả bàn tay. Thật ra khi chàng quá giận, đã cắn môi nghiến lại, làm máu chảy mà không hay.
Dương Qua lúc nầy càng nghĩ nhiều càng thấy chán ghét cõi đời. Chàng cho rằng dưới bầu trời này, không có người nào tốt cả, toàn là hạng người điêu ngoa xảo quyệt mà thôi.
Nhưng đến khi cơn giận đã lắng xuống, chàng lại có vẻ hối hận thầm nhủ:
- Ta vì quá nóng mà quên cả ân nghĩa sao? Quách bá mẫu tuy đối với ta không tốt, nhưng Quách bá bá vẫn coi ta như con như cháu, và ta cũng một lòng sùng bái kính trọng người "võ nghệ siêu phàm, đức hạnh quán thế".
Nghĩ đến đấy, chàng quá thương tâm, đầu óc nghe choáng váng, đôi mắt hoa lên, không thể nào đi được nữa. Chàng xuống ngựa ngồi nghỉ ở bên lề đường.
Dương Qua ôm đầu khóc! Khóc vì thương cha bị giết tàn nhẫn, khóc vì thương mẹ bạc mệnh phải chịu cảnh cơ hàn, khóc vì thân chàng bị bạc đãi lừa dối.
Lúc nầy trời đất đối với chàng chỉ là một bức tranh sầu thảm, xã hội đối với chàng chỉ là những ảo ảnh. Nhưng cái đau khổ nhất, là khi ra đời chàng đã mất cha, người cha với cái tên "Dương Khang". Chàng nghĩ sao mà tốt đủ điều. Chàng tưởng với cái tên ấy, trên đời này không có ai tốt được như cha chàng cả.
Dương Qua đâu có biết Dương Khang , thân phụ chàng, là người bán nước để cầu danh, nhận giặc làm cha, cậy thế sát hại dân lành của xứ sở, phụ thầy phản bạn, lừa tình. Biết bao nhiêu điều bỉ ổi. Do cái ngang tàng bạo ngược đó mà tự hại lấy thân.
Chàng đang ngồi khóc nức nở, chợt nghe có tiếng vó ngựa dồn dập từ phương Bắc chạy đến. Chàng vội đứng lên nhìn ra xa thì thấy bốn tên kỵ mã, trên tay lăm lăm những cây đoản đao sáng lập loè theo nhịp ngựa, phi đến phía chàng. Hai tên đi đầu trước mũi giáo có găm hai đứa trẻ chưa chết hẳn, còn giãy dụa cất tiếng khóc vang.
Chúng là những tên lính Mông Cổ. Vừa thấy Dương Qua một mình đứng bên đường, một tên trong bọn quát hỏi:
- Thằng nghịch nầy, mày muốn chặn đầu ngựa chúng ông hả?
Miệng nói tay hắn đã đâm đoản đao vào ngực chàng.
Đang trong lúc buồn chán, lại bị người đâm một cách vô cớ, Dương Qua giơ tay nắm chặt lấy đoản đao giật mạnh một cái, tên Mông Cổ té nhào xuống chân chàng. Chàng luôn tiện bồi thêm một đá, tên lính văng ra hơn năm trượng, gãy xương, bể óc chết tốt nằm trên mặt đất.
Cả bọn võ sĩ Mông Cổ thấy chàng có sức mạnh như thần, không tên nào dám chống cự, vất cả khí giới rồi chạy mất hết.
Chàng nghe tiếng khóc oe oe trên mặt đường, liền chạy đến xem, thì ra đó là hai đứa trẻ Trung Quốc bị Mông Cổ đâm vào bụng nhưng chưa chết hẳn. Miệng chúng còn mấp máy như cố kêu "Mẹ ơi!... Mẹ!"
Dương Qua trong lòng đang đau khổ, lại còn gặp chuyện thảm thiết xảy ra trước mắt. Chàng bùi ngùi nhìn hai đứa trẻ bị quân Mông Cổ hành hạ một cách tàn nhẫn, giở sống giở chết như vậy thật quá dã tâm, nên đôi mày chàng cau lại.
Đôi mắt đẫm lệ, chàng biết hai đứa trẻ không thể nào sống được, nếu để lâu chỉ thêm đau khổ, nên nén lòng khẽ dùng chưởng lực giải thoát cho hai bé.
Đoạn, chàng dùng đoản đao của tên lính Mông Cổ đào hầm chôn hai đứa trẻ.
Chàng mới đào được nửa chừng, chợt nghe tiếng ngựa hí và quân hò reo chuyển đất, cát bụi mù trời, gươm giáo lập loè tung lên tứ phía. Đoàn quân Mông Cổ đang rầm rập kéo đến.
Dương Qua chưa kịp chôn, vội vã cầm đoản đao phi lên lưng ngựa và gói xác hai đứa trẻ mang theo.
Con ngựa của chàng đã quen xông pha xa trường, nên khi chàng vừa nhảy lên lưng, nó đã tung vó xông vào trận địa quân Mông Cổ, rồi hí lên những tiếng rùng rợn trợ oai cho chủ.
Dương Qua cầm đoản đao múa tít lên, vừa gạt vừa đâm, trong chốc lát chàng đã giết chết mấy chục tên Mông Cổ. Nhưng quân Mông Cổ lúc bấy giờ càng lúc càng đông. Chàng thấy chúng như một rừng người, liệu không thể nào chống nổi với chúng nên phải quay ngựa chạy.
Phía sau quân Mông Cổ ồ ạt đuổi theo nghe như vũ bão. Chúng giương cung bắn tên theo như mưa. Chàng dùng đao múa tít sau lưng để gạt tên. Lằn tên bị cản lại rớt sau ngựa nghe rào rào như trận mưa lớn rơi trên đá.
Con ngựa của chàng tuy đi nhiều, nhưng chạy rất dài và hay tuyệt đỉnh, nên chẳng bao lâu chàng đã bỏ rơi đám quân Mông Cổ.
Dương Qua lúc này một mình một ngựa lạc loài giữa rừng hoang bát ngát, mà mặt trời đã khuất về phía Tây trong cảnh đìu hiu, u tối. Chàng trông tứ phía đều là cây cối um tùm không có lối bước, lại thêm những núi cao chọc trời, sương chiều đã buông xuống, khí núi như khói bay, chàng lắng tai nghe không còn nơi nào có tiếng người, cả đến tiếng chim chóc cũng vắng! Thật là cảnh hãi hùng của rừng sâu, trong lúc hoàng hôn cô tịch.
Dương Qua xuống ngựa, mở tấm vải lấy thi hài hai đứa bé ra coi, thấy mặt mũi chúng vẫn tươi tỉnh như lúc còn sống, nhưng nét đau khổ của hai đứa bé vẫn còn hiện rõ trên hai khuôn mặt non tơ của chúng.
Nhìn xác hai đứa trẻ, Dương Qua buồn buồn:
- Chắc cha mẹ hai em nuông chiều hai em lắm đây. Nay hai em lại bị quân Mông Cổ tàn bạo đâm lủng bụng. Hai em chết là hết, nhưng cha mẹ phải đứt ruột héo gan, biết bao giờ hết sầu hận
Nhìn hai đứa trẻ chàng lo lắng:
- Xem tình thế lúc này, chắc quân Mông Cổ sẽ kéo xuống xâm lăng miền Nam, thì biết bao nhiêu trẻ nít vô tội sẽ bị chết thảm thương như thế này nữa!
Chàng sầu liên miên, rồi đào một huyệt dưới bóng cây to mai táng hai đứa hài nhi.
Mai táng xong, chàng nhớ đến cử chỉ sợ hãi của cô Ngốc khi kể lại cái chết của cha chàng nên chép miệng than:
- Hai đứa trẻ này chết được ta chôn như thế này, thế mà khi cha ta chết lại phải phơi thây cho quạ rúc thịt rỉa xương! Trời ơi! Bọn tàn ác vô kể, mi đã giết người, sao còn nỡ tàn nhẫn đến thế! Bọn mi đành để xác người ta làm mồi cho quạ như thế?
Chàng buồn bã thả ngựa cho đi ăn cỏ, còn chàng thì đi tìm chỗ nghỉ ngơi.
Con ngựa của Dương Qua đã mấy ngày liền phải rong ruổi đường rừng, nó cũng nhọc mệt, nên chỉ ăn quanh quẩn gần đấy, chứ không đi ăn xa như mọi ngày.
Dương Qua thẫn thờ đi lại dưới gốc cây, định nằm dưới đất nghỉ, nhưng lại sợ rắn độc cắn lúc ngủ quên. Chàng bèn thò tay vào túi lấy cuộn dây tơ, đem dăng hai đầu dây vào hai cây to, theo đúng cách Tiểu Long Nữ đã dạy, gọi là phép "ngủ dây khi băng qua rừng".
Chàng liên tiếp mấy ngày lo nghĩ, lại phải khó nhọc nên mệt mỏi. Vừa nằm xuống chàng đã chìm vào một giấc ngủ ngon lành.
Khoảng nửa đêm chàng thức giấc, chợt ngửi có mùi hôi tanh nồng nặc theo luồng gió đưa đến, thỉnh thoảng có tiếng gầm gừ và những tiếng rào rào như thứ gì đang rẽ cỏ mà đi.
Dương Qua biết có chuyện lạ, chàng ngồi dậy nhìn về phía có tiếng gầm gừ.
Đêm cuối tháng, không trăng, bốn bề tối đen như mực, nhưng Dương Qua sống trong Cổ Mộ đã quen, nên trong đêm tối mà cặp mắt chàng vẫn trông rõ được mọi vật.
Chàng thấy hình thù như bốn cây đèn lắc lư từ xa tiến đến.
Dương Qua định thần nhìn kỹ thì thấy đúng là hai con cọp, lông đen từ đầu đến chân. Cặp mãnh hổ này vừa cao vừa dài, từ trước đến nay chàng cũng đã từng thấy cọp, nhưng không có con nào to như hai con hổ đen này.
Hai mãnh hổ vừa đi vừa đánh hơi, tiến dần đến chỗ chàng chôn thi hài hai đứa bé lúc chiều. Khi đến mộ hai đứa bé, con nào cũng khì khịt và giương nanh vuốt chực đào bới.
Dương Qua nóng lòng, định nhảy xuống đánh hai con hổ nhưng ác nghiệt thay, lúc nầy chàng không có vũ khí trong tay. Cả đến ngọn đoản đao của tên Mông Cổ chàng cũng để dưới đất.
Chàng thấy hai con cọp nanh vuốt quá dị thường, nếu chàng dùng chân tay không mà đánh với nó thì chắc không nổi, mà sẽ còn bị thương là khác.
Chàng đang lưỡng lự, chợt nghe phía Tây có tiếng "lịch kịch... lịch kịch" vọng lại. Trong chốc lát, tiếng "lịch kịch" tiến đến gần gốc cây chỗ chàng ngồi.
Dương Qua thấy chuyện quái dị liền chăm chú nhìn, thì thấy một cỗ quan tài từ đâu lù lù tiến đến phía chàng.
Chàng cố nhìn xem có người đẩy đi không. Nhưng không thấy một bóng người nào. Tại sao có chuyện lạ lùng, cỗ quan tài tự động biết di chuyển ư? Từ xưa đến nay chưa bao giờ có, mà chàng cũng chưa nghe ai kể đến chuyện lạ như thế này.
Dương Qua lúc nầy ngồi trên dây vừa sợ vừa thắc mắc. Chàng không dám cả thở mạnh.
Nháy mắt, cỗ quan tài đã đến dưới gốc cây trước mặt chàng và đứng yên tại đây.
Hai con cọp thấy thế liền chạy đến rồi lượn quanh cỗ quan tài, dí mũi vào ngửi, nghe rõ tiếng phì phò phì phò... Ngửi một lúc, cả hai đưa chân cào nắp cỗ quan tài.
Bỗng nghe "binh" một tiếng, nắp quan tài tung lên, văng ra xa hơn ba trượng, liền đó có một thây ma nhảy vọt ra, đá con cọp bên phía trái lộn nhào. Con cọp bên hữu phóng ngang qua, vồ trên đầu thây ma. Thây ma lanh như chớp, lách sang một bên, giương tay nắm chặt lấy gáy con cọp, rồi ấn mạnh xuống đất như ta đè đầu con mèo vậy.
Dương Qua kinh sợ nhìn thấy bóng ma ấy ốm nhom, cao lêu nghêu mà có sức mạnh như thần. Chàng sợ quá, mồ hôi ra ướt cả người.
Hai con cọp đen đau quá không dám làm dữ nữa, con nào cũng nằm bẹp xuống đất như đầu phục.
Chợt nghe có tiếng eng éc như tiếng chim mèo từ trong hang núi vọng ra. Dương Qua ngẩng đầu nhìn vào phía núi thấy vô số đom đóm nhấp nháy tiến ra chỗ cỗ quan tài. Hai con cọp đen thấy thế vội nằm mọp, xoãi chân trước kê mõm lên, còn đuôi phe phẩy như chào đón.
Sau đàn đom đóm có một bóng đen. Dương Qua tưởng mình quá sợ nên hoa mắt, chứ không phải sự thật. Chàng bậm gan lấy lại bình tĩnh, thò tay vào túi lấy khăn lau mặt cho kỹ lưỡng.
Chàng từ trên cây chăm chú nhìn về hướng rừng thấy đàn đom đóm rọi sáng cả một góc rừng, và người đi sau đàn đom đóm là một lão già, da mặt đen bóng, râu tóc đen kịt, mặc quần áo đen, đầu đội mũ đen, trên vai trái có một con chim cú đen ngời ngợi đậu, thỉnh thoảng kêu lên như báo hiệu gì.
Bây giờ ánh sáng của đàn đom đóm đã tiến đến chỗ quan tài, nên chàng nhìn đôi cọp đen, chiếc quan tài và thây ma rõ mồn một như dưới bóng trăng tỏ. Tiếp đến lão già lùn cất tiếng hỏi thây ma:
- Cha chả, không nhớ câu "đánh chó phải ngó chủ nhà" sao? Tiểu Tương Tử dám vô lễ thế nầy? Đánh hai con mèo của ta à?
Người lùn, cao không được một thước hai mà tiếng nói nghe như sấm sét, làm cho Dương Qua hai lỗ tai ù ù, nhức cả óc.
Thây ma cười nói:
- Ni Ma Tinh nhân huynh, tôi vô ý đụng phải hai con mèo của nhân huynh, để tôi xin tạ tội vậy.
Thây ma nói rồi chấp hai tay vái trước mặt người lùn một cái.
Dương Qua nhìn kỹ thấy thây ma cao lêu nghêu đó chính là người thật chứ không phải thây ma.
Chàng mỉm cười, thầm bảo:
- Mặt mũi trắng trẻo, vận y phục trắng phau, lại ở trong một cỗ quan tài chui ra, ai không cho đó là một thây ma xuất hiện.
Suy luận một lúc, Dương Qua lẩm bẩm nói:
- Dùng hai tay không mà đánh bại hai con cọp to như thế nầy, phải là một tay cao thủ nhất nhì trong võ phái nào mới được. Con người quê kệch kỳ dị thế kia sao lại có cái hiệu "Tiểu Tương Tử", thế đã kỳ cục rồi, mà cả hai người lại gọi cọp dữ là mèo, thật là một việc lạ lùng ngoài sức tưởng tượng của người đời.
Chàng đang suy nghĩ và cũng chưa biết phải xử trí thế nào, bỗng giật mình khi nghe người lùn nói:
- Tiểu Tương Tử, công việc của Kim Luân Pháp Vương thế nào?
Bốn tiếng "Kim Luân Pháp Vương" làm cho Dương Qua nghe nhởn cả người.
Tiểu Tương Tử cười nhạt, rồi ngồi trên quan tài đáp:
- Thôi, nhân huynh ơi! Nói đến ông ta thêm làm trò cười cho nhân huynh chứ ích gì?
Ni Ma Tinh nói:
- Tiểu Tương Tử nói cho ta nghe với.
Tương Tử nói:
- ông ta đã ỷ tài đơn thương độc mã, chịu tranh hùng với cả tụi võ sư ở Trung nguyên, nên bị thảm bại. Thực đáng buồn cười.
Lão lùn cất tiếng cười hô hố, vang cả khu rừng. Con chim mèo đậu trên vai lão cũng cất tiếng kêu ríu rít.
Lão lùn vừa cười xong, đắc ý nói:
- Thằng Ni Ma Tinh nầy đã lặn lội muôn dặn đèo, băng suối từ Thiên Trúc đến đây. Ngờ đâu bị Kim Luân Pháp Vương lẹ chân hơn, để được lãnh chức "đệ nhất võ sư" do Vương gia Mông Cổ phong cho. Chà chà! Võ công như vậy đã đáng vào đâu mà đòi đệ nhất với đệ nhị chứ!
Tiểu Tương Tử đáp:
- Đúng thế, thiên hạ hiện nay trừ Ni Ma Tinh nhân huynh ra nào ai dám nhận chức ấy!
Ma Tinh có vẻ đắc ý lắm, bèn cất tiếng cười khá khá.
Tiểu Tương Tử cũng cười theo rất tương đắc.
Rừng núi lúc nầy nghe như lung linh, sập đổ trước hai giọng cười như gió thổi mưa sa đó.
Dương Qua nghe chát tai, liền cúi đầu lấy hai tay bụm chặt tai lại.
Lão lùn không cười nữa, hỏi:
- Tiểu Tương Tử! Gần đây nghe tin anh ở Tây Sơn, sao không ra tranh tài với Kim Luân?
Tiểu Tương Tử đáp:
- Mông Cổ Vương gia Hốt Tất Liệt có đem thư lại mời, nhưng lúc đó tiểu đệ còn đang luyện phép "Thọ mộc trường sanh" không thể bỏ đi được. Vì thế, đành chịu để ông ta xưng hùng xưng bá một mình.
Ni Ma Tinh hỏi:
- Hiện nay anh luyện xong rồi, sao không sang đó để tranh tài với ông ta? Hay anh cũng sợ hoà thượng Kim Luân là tay lợi hại mà không dám?
Tương Tử khiêm nhường nói:
- Đúng vậy, tiểu đệ tài hèn đâu dám tranh tài với hoà thượng Kim Luân.
Lão lùn nghe thích chí, nên ngửa mặt lên trời cười một hồi dài, rồi lão lại gằn giọng nói:
- Tiểu Tương Tử, anh có ý cho tôi là sợ hoà thượng Kim Luân đó hả? Như vậy tôi và anh ngay bây giờ thử sức xem sao? Để tôi coi công trình luyện tập "Thọ mộc trường sanh" của anh đã đến đâu rồi, có gì đáng kể không.
Tương Tử liền đáp:
- Muốn thử thì thử, ngại gì.
Tương Tử nói dứt câu, liền phả ra một làn khói đen nghịt bay về phía đối phương. Ni Ma Tinh không còn thấy gì nữa.
Tương Tử nhanh như chớp đẩy nắp quan tài, nhảy vào trong rồi dùng tay kéo nắp đậy kín lại, rồi dùng cả chiếc quan tài đánh vào Ni Ma Tinh.
Lão lùn thấy làn khói đen liền ngồi xuống. Con chim mèo bay lên kêu "chao cháo". Tức thì có những đàn đom đóm từ trong rừng tua tủa bay ra soi sáng, đánh tan luồng khói đen đi mất. Hai con cọp đen quật mạnh đuôi xuống đất rồi phóng mình về sau lưng lão lùn, đứng trụ bốn chân thủ thế.
Lão lùn mới ngồi xuống, đã thấy chiếc quan tài phóng mạnh đè lên đầu. Lão liền dùng thuật "Thích Ca xua voi" ngửa mình ra tung mạnh hai chân và hai tay lên một lượt. Chiếc quan tài bị sức cản của lão lùn quá mạnh, bay bổng lên cao, văng lùi lại hai trượng. Nhưng chiếc quan tài vẫn nguyên vẹn và vẫn tiếp tục phóng lại đánh vào người lão lùn. Cứ như thế, chiếc quan tài phóng qua phóng lại, không khác gì một người đánh trái banh đập vào tường thối ra dội lại.
Hai bên đang đấu nhau hăng hái như thế, bỗng không ai bảo ai, cả hai đều lui ra hơn hai trượng.
Lúc này hai con cọp đen và con chim mèo đều gầm gừ hét lên.
Thử tài đến đó, cả hai đều biết rõ bản lĩnh của nhau. Ni Ma Tinh cất tiếng nói:
- Tiểu Tương Tử tu luyện khá lắm đấy! Hơn ta nhiều lắm!
Tiểu Tương Tử cười khá khá, đáp:
- Tiểu đệ xin bái phục tài nghệ pháp thuật của sư huynh, mới thụ lãnh mấy đòn đã lĩnh hội được thuật huyền ảo tuyệt chúng.
Ni Ma Tinh bình tĩnh nói:
- Đây mới cho sư đệ thấy sơ qua thuật pháp "Thích Ca xua voi" đó, còn có nhiều đòn lạ hơn nữa kia.!
Tiểu Tương Tử luôn miệng khen:
- Nhân huynh qua bên nước của lão Ta Đạt Ma, hèn chi học được nhiều pháp thuật thần thông như vậy.
Ni Ma Tinh quay người, trong nháy mắt đã mất dạng. Hai con cọp đen cũng tung chân nhảy theo như tên bay.
Tiểu Tương Tử cũng chui vào quan tài, lịch kịch biến về phía Tây.
Dương Qua tình cờ, như một người mạo hiểm, được chứng kiến một màn kịch như ảo ảnh, quá quái gở rùng rợn như vậy. Vừa khiếp sợ vừa khâm phục, chàng phải yên lặng một hồi lâu mới hồi phục được tâm trí.
Dương Qua chờ cho hai người đi thật xa, chàng mới tự nhủ:
- Thật là thất phách hồn kinh! Bầu trời bao la, thiên hạ khắp nơi, đâu đâu cũng có những bậc vĩ nhân lạ thường. May phước nếu ta không nằm trên đây như vầy thì mạng ta cũng đi đời rồi.
Tất cả những ảo thuật kỳ quái kia bây giờ đang chen lẫn nhau, chờn quờn mãi trong đầu óc Dương Qua. Chàng cứ thao thức mãi không tài nào ngủ lại được nữa. Chàng lúc này đã hết phần lo sợ, suy nghĩ về võ công của hai kỳ nhân vừa rồi:
- Tuy hai người mới đấu sơ vài đòn, nhưng ta xem cũng được rành rẽ. Những đòn mà lão Ni Ma Tinh gọi là "Thích Ca xua voi" trong đó có cương lẫn nhu, gặp cứng rắn, to lớn thế nào xô cũng được, đến lúc gặp mềm mỏng có thể quấn được như dây. Nhưng không biết tại sao thân hình lão vừa lùn vừa nhỏ mà được một thần bí gì có thể chứa đựng được một nguồn nội công mạnh đến thế.
Còn như Tiểu Tương Tử luyện được thuật "Thọ mộc trường sanh" cũng thật là kỳ quái! Người gì mà lại chịu chui vào trong quan tài rồi dùng cái quan tài ấy để làm thành trì ẩn núp, đến khi giao đấu lại dùng làm khí giới. Thật là tự cổ chí kim chưa thấy ai có thuật kỳ lạ như vậy.
Nằm suy tư, nghĩ ngợi đã quá nửa đêm nhưng Dương Qua không tài nào ngủ được. Chàng cố nhắm mắt để quên bớt sự suy nghĩ. Bỗng nghe có tiếng ngựa hý vang lên, chàng đoán:
- Chắc lại có sự gì đây!
Con ngựa của Dương Qua là một ngựa khôn hết sức. Khi nó nghe hơi hai con cọp đen tiến đến, liền chạy sang khu rừng cách xa đó để tránh. Lúc nầy, khi hai cọp đã đi rồi, nó lại trở về tìm chủ.
Dương Qua thấy trời chưa sáng mà ngựa lại hý, chàng liền nhảy xuống xem có chuyện gì xảy ra. Chàng cúi xuống đất lượm cây đoản đao bỏ dưới gốc cây chiều hôm qua rồi lo vạch bụi rẽ cỏ một lúc mới thấy ngựa chạy lại. Bấy giờ trời đã tảng sáng.
Chàng liền lên ngựa đi về hướng Đông. Chưa đầy một dặm đường, chợt thấy xa xa về phía trước một người nhảy lên hái trái cây, chàng nghĩ:
- Trong rừng hoang núi vắng nầy, sao lại có người giờ nầy vô đây hái trái cây? Mình đến xem thử người đó là ai.
Khi đến gần, chàng thấy đó không phải là ai xa lạ mà chính là đệ tử của Kim Luân Pháp Vương là Đạt Nhĩ Ma đang hái táo. Đạt Nhĩ Ma mỗi lần nhảy lên chỉ hái được ba trái, nên hắn không nhảy nữa mà đưa tay quất ngang một cái, cây táo đứt làm hai, ngọn cành ngã xuống đất, Nhĩ Ma lo hái bỏ vào túi. Dương Qua thấy thế, thầm nghĩ có lẽ Kim Luân Pháp Vương ở gần đâu đây. Chàng nghĩ:
- Mình đối với Kim Luân Pháp Vương không có thù oán gì cả. Chỉ vì Hoàng Dung mà mình cãi vã với ông ta. Hiện nay mình đã biết được Hoàng Dung và Quách Tỉnh là kẻ giết cha mình, thì nay mình đâu có gây sự với ông ta để giúp Hoàng Dung nữa.
Chàng bước lại định làm quen với Đạt Nhĩ Ma. Nhưng lúc này Đạt Nhĩ Ma hái táo đã đầy túi, chạy như bay về hang núi ở phía Tây. Dương Qua thấy Đạt Nhĩ Ma cũng là tay võ công có hạng nên không dám chạy theo sát, sợ Nhĩ Ma tưởng mình khiêu khích. Chàng lẽo đẽo theo sau cầm chừng.
Chợt thấy Nhĩ Ma quay sang nẻo rừng rậm mà đường đi càng lúc càng cao như lên dốc. Dương Qua vẫn cố lòng rượt theo. Sau mãi đến ngọn núi cao nhất, trên đỉnh núi có một túp lều cỏ, bốn bề không phên vách. Trong lều Kim Luân Pháp Vương đang ngồi nhắm nghiền đôi mắt như một vị pháp sư tịnh niệm trên nệm cỏ.
Đạt Nhĩ Ma bày túi táo lên, niệm xong, xoay ra thì nhìn thấy Dương Qua đang leo dốc tiến đến. Nhĩ Ma tái mặt, lo sợ kẻ thù đến ám hại sư phụ mình.
Hắn gọi lớn:
- Đại sư huynh! Sư huynh cố đến đây để hại sư phụ tôi chăng?
Dương Qua trầm tĩnh tỏ ý cho Đạt Nhĩ Ma biết chàng đến đây để giao hảo chứ không gây sự.
-
Chương 44 - Thủy tiên U Cốc
Chương 44
Thủy tiên U Cốc
Đạt-nhĩ-Ba vẫn không tin, nhảy xổ đến nắm lấy vạt áo Dương-Qua.
Võ công Đạt-nhĩ-Ba giỏi hơn Dương-Qua nhưng vì trong lúc sư-phụ hắn đang tại bệnh, nên hắn bối rối tinh thần thì Dương-Qua đã dùng một thế tầm thường gạt hắn sang một bên, té nhủi xuống đất.
Trước đây đã nhiều lần Đạt-nhĩ-Ba e ngại Dương-Qua, còn Dương-Qua thì đã rõ tài nghệ của đối phương nên vừa đánh xong một thế lại phải lui về một bước.
Chẳng biết lúc ấy do đâu hai đầu gối của Đạt-nhĩ-Ba run lên, hắn té sụm xuống đất, ngẩng mặt nhìn Dương-Qua nói với giọng nghẹn nghẹn:
- Xin đại sư-huynh hãy nghĩ đến ân nghĩa đối với sư phụ tôi. Nay sư-phụ tôi về đây dưỡng bệnh mà sư-phụ động thủ thì...
Chỉ nói đến, hai dòng lệ Đạt-nhĩ-Ba đã tuôn trào, rồi ngất nghẹn.
Dương-Qua tuy chưa hiểu Đạt-nhĩ-Ba muốn nói gì, nhưng nhìn qua vẻ mặt ảo não của hắn, và thấy sư-phụ hắn rũ rượi, đang ngồi tham thiền, thì biết ngay hoàn cảnh của hai người đang gặp lúc nguy biến, nên chàng vội cúi xuống, đưa tay đỡ Đạt-nhĩ-Ba dậy ôn tồn nói:
- Ta không làm hại sư-phụ ngươi đâu! Ngươi cứ an lòng.
Đạt-nhĩ-Ba nhìn thấy nét mặt ôn hòa của Dương-Qua lòng mừng khấp khởi. Mặc dù ngôn ngữ cách biệt, tâm hồn chưa được giao cảm cho mấy. Đạt-nhĩ-Ba cũng rõ Dương-Qua không có ác ý gì.
Giữa lúc đó Kim-luân Pháp-Vương hé mắt nhìn thấy Dương-Qua. Ông ta sợ hãi vô cùng. Vì nãy giờ, ông ta không hề hay biết gì việc Dương-Qua và Đạt-nhĩ-Ba. Giờ đây ông thấy kẻ thù tự nhiên xuất hiện trước mặt, làm sao ông khỏi bối rối.
Qua một tiếng thở dài não nuột, Kim-luân Pháp-Vương lẩm bẩm:
- Uổng công ta tập luyện bao năm, nay lại phải bỏ mình trên đất Trung-Nguyên nầy.
Thật vậy, Kim-luân Pháp-Vương vừa bị một hòn đá lớn đập vào mình, ngũ tạng đến thọ thương, phải ẩn trong chốn rừng sâu nầy để điều trị. Nếu Dương-Qua kẻ thù ông, tìm gặp, ông chỉ còn có cái chết mà thôi.
Lạ thay! Bây giờ ông ta lại thấy Dương-Qua với vẻ mặt hồn nhiên, đầy thiện cảm, bước đến trước mặt ông.
Trong lúc ông ta còn đang ngơ ngác, thì Dương-Qua đã cúi đầu nói:
- Kẻ hèn này đến đây không phải để trả thù, xin chớ "ngại".
Pháp-Vương bối rối, không hiểu gì cả nên lắc đầu lia lịa, mà trống ngực tim đập thình thịch.
Ông ta lập tức vận công lên năm đầu ngón tay để phòng gặp chuyện trắc trở.
Dương-Qua liền nắm lấy đầu ngón tay ông ta, bấm vào huyệt Dương! Đạt-nhĩ-Ba sợ quá, bước tới xô Dương-Qua lùi lại.
Dương-Qua quắc mắt, đưa tay trái gạt Đạt-nhĩ-Ba ra một bên, rồi nghiêm mặt bảo:
- Hãy đứng yên.
Đạt-nhĩ-Ba bị văng ra một bên, liền quay lại nhìn sư phụ, thấy nét mặt ông lại tươi hẳn lên, và trong miệng lại điểm một nụ cười, lòng chàng quá đỗi mừng, và cũng hết sức kinh ngạc như có phép mầu nhiệm huyền diệu gì!
Chàng Nhĩ-Ba đứng sững nhìn Dương-Qua vận nội công truyền khí lực của chàng vào Thông-linh-đài của thầy mình làm rung chuyển tám huyệt trong người của Kim-luân Pháp-Vương phục hồi chẳng mấy chốc, và vết thương trên ngực Kim-luân Pháp-Vương cũng khỏi hẳn, hai gò má của lão trở nên hồng hào khác thường.
Kim-Luân Pháp-Vương đôi mắt như van lơn, cảm tạ Dương-Qua, lão chắp tay nói:
- Cám ơn ngài đã đến đây giúp tôi.
Dương-Qua bình tĩnh đáp:
- Thưa ngài, đây là bổn phận của tôi phải đến tạ ngài. Vì trước kia tôi đã hiểu lầm Hoàng-Dung và Quách-Tỉnh là ân nhân của tôi, nên đã có nhiều lời oán trách ngài. Nhưng ngày nay tôi đã biết được Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung là kẻ đã giết cha tôi trước kia. Nên nay quyết đi tìm kẻ thù để báo cứu. Không ngờ lại gặp Đạt-nhĩ-Ba, tôi theo đến đây để giãi bày sự lầm lẫn trước đây.
Kim-luân Pháp-Vương chắp tay thưa:
- Tôi không ngờ tráng-sĩ lại mang oan nghiệt như vậy, nhưng tôi nhận thấy vợ chồng đại hiệp họ Quách võ nghệ rất cao siêu, nay Dương tráng sĩ muốn báo thù thì e cũng khó lắm.
Dương-Qua trầm ngâm một hồi lâu, rồi nói:
- Như thế thì hai đời họ nhà tôi, phải đành chịu chết dưới bàn tay họ Quách vậy.
Pháp-Vương buồn bã nói:
- Ban đầu tôi cứ ngờ mình là vô địch trong thiên hạ, nên muốn đem sức mình ra áp đảo quần hùng, tranh thủ địa vị trong đám võ hiệp. Chẳng ngờ sau trận ở Kinh-Sài-Quan tôi đã bị đám người võ nghệ ở đó kéo đến chừng bảy tám người, áp đảo quá mạnh, làm tôi phải chịu khuất phục.
Dương-Qua ân cần hỏi:
- Ngày nay có thể giúp tôi để báo thù cha được không?
Pháp-Vương nói:
- Hiện nay tôi vẫn còn muốn tranh hùng với bọn đại-hiệp võ nghệ Trung-Nguyên. Vậy tráng sĩ cứ chịu cùng tôi, tham dự cuộc tranh hùng sắp đến được không?
Dương-Qua định gật đầu nhận, nhưng liền nghĩ đến thảm cảnh quân Mông-cổ sẽ tàn sát dân tộc Trung-nguyên, nên đáp:
- Tôi không thể giúp quân Mông-cổ được.
Pháp-Vương lắc đầu nói:
- Như vậy là tráng sĩ định đương độc một mình để báo thù vợ chồng Quách-Tỉnh sao? Quả thật như thế là khó lắm.
Dương-Qua nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
- Tôi bằng lòng giúp ngài trong việc đoạt chức minh chủ, nhưng điều kiện là ngài phải giúp tôi báo thù cho cha tôi.
Kim-luân Pháp-Vương vui vẻ, ngửa bàn tay ra nói:
- Chúng ta là bậc trượng phu chỉ nói một lời, xin tráng sĩ cùng tôi đập bàn tay ăn thề.
Kim-luân Pháp-Vương và Dương-Qua đập bàn tay ba lần giao ước với nhau:
Dương-Qua nói tiếp:
- Tôi chỉ chịu giúp ngài trong ngôi minh chủ, nếu như sau này ngài giúp quân Mông-cổ tàn ác thì tôi bỏ lời giao ước nầy.
Kim-luân Pháp-Vương cười hô hô nói:
- Mỗi người đều có chí hướng riêng, không thể cưỡng ép nhau. Nhưng này Dương tráng sĩ ơi! ông bạn đã sống qua rất nhiều môn phái, mỗi môn phái đều có một nền võ tuyệt đỉnh. Thế mà ông bạn không chuyên một phái nào, võ công tạp nham như vậy, thử hỏi nếu muốn tranh hùng với vợ chồng Quách-Tỉnh, kẻ đã vang danh thiên hạ, ông bạn sẽ lấy đâu ra ngón sở trường để ứng đối.
Câu nói của Pháp-Vương làm cho Dương-Qua lúng túng, chẳng biết trả lời ra sao. Chàng tuy có tính tham học, đã tập luyện được nhiều môn, trải qua nhiều phái võ, nào là Toàn-chân, Âu-dương-Phong, Ngọc-nữ Tâm-kinh, Cửu âm chân kinh, Hồng-thất-Công v.v... Nhưng xét cho kỹ thì môn phái nào chàng cũng chỉ mới nghiên cứu tạp nhạp, chưa luyện đến độ trác tuyệt. Vì vậy, nếu gặp phải đối thủ tầm thường, thì chàng có thể làm hoa mắt họ để thủ thắng; còn như gặp phải kẻ chân truyền, chàng rất lúng túng, không sao tránh nổi.
Dương-Qua thấy lời Kim-luân Pháp-Vương vừa nói chẳng khác nào như nhát búa đánh vào đầu, rung chuyển đến tim óc, khiến chàng tỉnh ngộ và tự nhủ:
- Võ công ta chẳng khác tâm hồn của ta, chỉ có bề rộng mà không có bề sâu, thay đổi tùy hoàn ảnh của thời gian. Ví như ta đã cùng ước hẹn với Trình Anh và Lục-vô-Song, yêu nhau suốt đời, thế mà đến lúc gặp Hoàng-nhan-Bình, cô gái mỹ miều kia, lòng ta cũng không khỏi xao xuyến.
Chàng buông một tiếng thở dài, đưa mắt nhìn phía trời xa, lẩm bẩm:
- Hoàng-dược-Sư, Âu-dương-Phong, Hồng-thất-Công sở dĩ họ nổi danh trên đời là vì họ chuyên chú rèn luyện theo một môn phái, nghiên cứu đến chỗ uyên thâm. Còn ta, chỉ vì quá ham muốn mà ta đã bao làm môn nầy chưa thông đã bước sang môn khác. Rốt cuộc, không món nào có căn bản! Ôi! Khổ thay! Ta đang học Ngọc-Nữ tâm kinh, thấy "Ngọc tiêu kiếm pháp" của Hoàng-dược-Sư và đả cẩu bổng của Hồng-thất-Công cho là tuyệt diệu, vội bỏ qua Ngọc-Nữ tâm-kinh không học nữa.
Càng nghĩ, gan ruột Dương-Qua càng nóng như lửa đốt.
Qua một lúc chàng tự nhủ:
- Ta phải tập hợp các sở trường của mọi môn phái để tạo ra một phái mới, riêng biệt của ta mới được.
Nghĩ như thế, Dương-Qua mừng khôn xiết. Đôi mắt sáng lên. Mới biết con người muốn sáng tạo sự nghiệp mới, lẽ tất nhiên không nên dựa vào nơi nầy, nơi khác để bắt chước được. Dù sao có giỏi cho lắm, suốt đời con người cũng chỉ ở vào hạng hai, hạng ba là cùng.
Hơn ba ngày trời, cứ từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, Dương-Qua chỉ gặp những chuyện khó nhọc không ăn không ngủ được. Nên lúc nầy chàng đuối sức, và tâm thần bấn loạn lên. Vì các phái võ lâm lần lượt thay phiên nhau xâm chiếm vào đầu óc chàng. Chân tay chàng tự động quay cuồng qua nhiều thứ võ, cứ như thế múa mãi như người điên.
Quá mệt mỏi lại thêm uất ức, nên chàng ngã vật xuống đất bắt tỉnh.
Đạt-nhĩ-Ba từ nãy giờ đứng đàng xa trông lại, thấy cử chỉ Dương-Qua điên điên khùng khùng lấy làm ngạc nhiên. Bây giờ thấy Dương-Qua còn ngã xuống đất, Nhĩ-Ba lại càng kinh hãi hơn, định chạy lại đỡ chàng dậy. Nhưng Kim-luân Pháp-Vương đưa tay cản Đạt-nhĩ-Ba lại nói:
- Con chớ hấp tấp làm loạn tâm của Dương tráng sĩ, để cho tráng sĩ nằm nghỉ cho khỏe.
Dương-Qua nằm thiêm thiếp đến nửa đêm mới tỉnh lại. Nhưng chàng tỉnh lại là vung tay chân, múa võ đến mệt rồi lại ngất xỉu xuống đất nằm thiếp đi. Cứ như thế mà chàng say, tỉnh hơn bảy ngày trời không ăn uống gì cả.
Trong lúc say mê, quyền võ của chàng càng thêm ác hiểm, nên một quả đấm vung ra như muốn xẻ đôi thân, một cái đá bung lên có thể bay một hòn đá lớn Đạt-nhĩ-Ba sợ quá không dám mon men lại gần.
Sang ngày thứ tám, thì quyền cước Dương-Qua đã yếu dần, nên quả đấm hôm trước như trời giáng, nay đụng vào thân cây cũng chả làm cho chiếc lá lay động.
Dương-Qua cảm thấy như tất cả võ công của chàng đã thuần chính rồi, tâm trí của chàng lúc nầy phân định được rõ ràng. Từ từ chàng ngồi thu hình lại, dụng vận hết tâm não, gân mạnh khiến cho cơ thể được hồi phục lại.
Dương-Qua ngồi dậy, nghe bụng đói như cào. Chàng nhớ lại đã hơn mười ngày rồi, chưa có ăn uống gì cả, nên định đi tìm món ăn cho đỡ dạ. Chợt nhìn thấy giỏ trái táo trên nệm cỏ, chàng vội bước lại ăn hết giỏ táo, mà Đạt-nhĩ-Ba đã hái về cho Kim-luân pháp-Vương.
Kim-luân Pháp-Vương mừng rỡ kêu lên:
- Dương tráng sĩ ơi! Tôi xin chúc mừng vũ học của tráng sĩ đã thành công.
Pháp-Vương vừa nói, vừa uốn cong mình như con rắn, rồi thở mạnh một luồng khí lạnh. Dương-Qua vội né mình sang một bên, vung tay gạt mạnh luồng khí lạnh bay tạt ra xa. Pháp-Vương lại phóng thêm một chưởng phong nữa. Dương-Qua lại dùng năm đầu ngón tay chận lại. Chưởng phong của Kim-luân Pháp-Vương gặp năm đầu ngón tay liền quấn lại. Dương-Qua thấy rõ tài nghệ của chàng lúc nầy đã khá hẳn rồi, nên hiểu rõ được Kim-luân Pháp-Vương muốn tỏ cho mình biết vết thương của ông đã lành... Chàng liền nói lớn:
Tôi rất mừng cho vết thương của ngài đã khỏi. Vì những người trong lòng có văn thơ thì hơi thở cũng thơm tho.
Dương-Qua từ lúc phát hiện ra võ phái mới, tuy vóc dáng của chàng còn trẻ, mà đã có vẻ am hiểu rất thấu đáo. Kim-luân Pháp-Vương ngắm nghía Dương-Qua thầm nghĩ:
- Mình được người nầy giúp sức thì hay biết mấy!
Lão nghĩ một lúc rồi nói:
- Dương tráng sĩ ơi! Tôi định dẫn tráng sĩ đến gặp một người tài đại lược, tâm trí cao thượng.
Dương-Qua liền hỏi:
- Thưa ngài, người đấy là ai?
Pháp-vương đáp:
- Người ấy là Vương-tử Hốt-tất-Liệt, cháu trai của Thành-cát Tư-Hãn, con của Hoàng thái-tử Đà-Lôi xứ Mông-cổ.
Dương-Qua từ ngày biết những hành động, tàn ác của quân Mông-cổ, mỗi khi nghe đâu tiếng Mông-cổ là ghét cay ghét đắng, nên chau mày nói:
- Tôi đang nóng lòng muốn báo thù cho cha tôi, nên việc Mông-cổ tôi thấy chưa cần thiết gì mấy.
Pháp-Vương cười nói:
- Tôi đã hứa giúp cho Dương tráng sĩ, thì đâu có dám thất tín. Nhưng hiềm vì Vương-tử Mông-Cổ mời đến không thể nào từ thác được. Vả lại binh tướng của Hốt-tất-Liệt không cách xa đây là mấy, chúng ta có thể cùng đi.
Dương-Qua không biết nói thế nào, để từ thác được, nên thầm nghĩ:
Đơn độc một mình khó mà đánh lại vợ chồng Quách-Tỉnh, chi bằng ta chiều lòng Kim-luân Pháp-Vương, rồi sẽ định liệu sau.
Pháp-Vương thấy Dương-Qua làm thinh, liền nói:
- Thôi bây giờ chúng mình cùng đi.
Kim-luân Pháp-Vương và Dương-Qua cùng băng đèo, vượt suối hơn nửa ngày trời đến Mông-Cổ.
Lúc đến doanh trại Mông-Cổ, quân cảnh vào bẩm với chủ tướng, hai người được mời vào.
Doanh trại Mông-Cổ là những túp lều tuy làm đơn giản, nhưng rất đẹp. Vua quân Mông-Cổ không thích ở cung điện, bởi vì họ đã quen với đời sống chinh chiến.
Dương-Qua thấy nơi ở của Hốt-tất-Liệt rất trang nghiêm, tuy với lối bày biện giản dị không xa hoa. Một vị Vương-tử tuổi trạc hai mươi lăm đang ngồi đọc sách, vừa thoáng thấy hai người, Hốt-tất-Liệt vội chạy ra đón chào niềm nở, mời vào trại.
Kim-luân Pháp-Vương chỉ vào Dương-Qua nói:
- Hôm nay tôi xin giới thiệu với vương tử một vị thiếu niên đại anh hùng, là Dương tráng-sĩ, một người tuổi trẻ lỗi lạc nhất trên đời.
Dương-Qua quá ngạc nhiên, từ trước tới giờ chàng vẫn đinh ninh dòng họ Thành-cát Tư-Hãn rất hung dữ. Không ngờ Hốt-tất-Liệt đứng trước mặt chàng, lại là một thư sinh giống người Hán, mà lại đọc sách chữ Hán. Thật kỳ lạ vô cùng.
Dương-Qua đang mải mê nghĩ ngợi, bị Hốt-tất-Liệt vỗ vào vai làm cho chàng giật mình. Vương-tử vui vẻ mời Dương-Qua uống rượu "mã nhủ". Miệng mời tay cầm một hồ rượu rót vào chén lớn.
Ngày thường Dương-Qua vốn không phải là người thích rượu. Nhưng lần nầy vào chốn vương-gia không lẽ từ chối cách nào được. Chàng nhìn qua thấy Kim-luân Pháp-vương đã uống cạn chén. Không thể ngần ngại gì nữa, chàng cung kính đỡ chén rượu trên tay Hốt-tất-Liệt, rồi uống một hơi. Rượu vào miệng chàng nghe cay sè cả cuống họng. Chưa bao giờ Dương-Qua gặp rượu nặng đến thế, nhưng chàng vãn cố giữ cho vẻ mặt tự nhiên.
Hốt-tất-Liệt cười hỏi:
- Rượu có ngon không, thưa tráng sĩ?
Dương-Qua đáp:
- Thưa Vương-tử, rượu ngon lắm, uống vào như dao cứa cổ, cay đắng lạ thường. Nhưng thế mới thật là rượu của nam tử, người con trai Hán-tộc ai cũng ưa dùng thứ rượu nặng.
Hốt-tất-Liệt quá sung sướng, gọi quân lính bưng thêm rượu ra. Phút chốc mỗi người đã uống tới năm chén lớn, Hốt-tất-Liệt quay sang Kim-luân Pháp-Vương nói:
- Quốc sư tìm được vị đại nhân nầy ở đâu thế? Thật là may mắn cho nước Mông-cổ lắm.
Kim-luân Pháp-Vương liền đem tình đầu câu chuyện, thuật lại cho vương-tử Mông-cổ nghe, và hết lời xưng tụng Dương-Qua.
Nếu như gặp người khác, thì chắc khó tin ngay lời của Kim-luân Pháp-Vương xưng tụng quá mức một người trẻ tuổi như Dương-Qua. Nhưng Hốt-tất-Liệt cũng là một thần đồng, trẻ mà tài trí cao xa xuất chúng, khí độ rộng rãi, nên không chút nghi ngờ lời của Pháp-Vương.
Hốt-tất-Liệt ra lịnh cho quân lính làm tiệc thiết đãi, và nói với Kim-luân Pháp-Vương:
- Đợi hội đây cho đông đủ, tôi sẽ giới thiệu với quốc-sư mấy vị cao nhân khác.
Hiện thời Hốt-tất-Liệt trở thành một vị vương tử Mông-cổ. Tuy nhiên đó là một việc khó khăn, trắc trở vô cùng. Vì Thành-cát Tư-Hãn lúc mang quân đi thôn tính các nước phía Tây, gặp cuộc chinh chiến quá gay go dằng dai cho nên Thành-cát Tư-Hãn luôn luôn vắng mặt ở triều đình, khiến cho triều đình xục rục giữa con trưởng và con thứ tranh nhau chức vị, đến nỗi họ mưu hại nhau. Lúc đó con thứ ba là Oa-khoát-Đài với con thứ tư là Đà-Lôi thì liên kết nhau.
Thành-cát Tư-Hãn lại ghét tính hung bạo của người con trưởng và người con thứ hai, nên trước khi chết, ông lưu lại chiếu phong cho Oa-khoát-Đài kế vị. Sở dĩ Oa-khoát-Đài được lên ngai vàng cũng là nhờ Đà-Lôi một phần lớn.
Năm Tân-Mão, Oa-khoát-Đài thân chinh đánh nước Kim, bỗng nhiên bị cấm khẩu. Đà-Lôi vì quá thương anh nên nguyện với trời Phật chịu chết thô. Khi đó có một vị pháp-sư đến cứu Oa-khoát-Đài, nhưng buộc phải có người trong anh em thế mạng mới được. Thái-Tử Đà-Lôi nghe cứu được anh nên mừng quá, nhận uống ly rượu độc do Pháp sư ban phép. Lạ thay Đà-Lôi uống xong ngã vật xuống chết, thì bệnh của Oa-khoát-Đài cũng khỏi.
Vì vậy Oa-khoát-Đài suốt đời cảm kính ân sâu của Đà-Lôi, đã chịu chết thay cho mình, nên đối với vợ con Đà-Lôi rất ân hậu. Đến lúc Oa-khoát-Đài chết đã di chiếu lập con của Đà-Lôi là Mông-Ca lên kế vị.
Khốn thay lúc đó, quyền hành lại rơi vào tay Hoàng-hậu. Bà nầy không nghe theo di chiếu của chồng, đã dùng mưu lung lạc một vị đại thần trong triều, gạt bỏ di chiếu tiên vương, tự mình lên chấp chánh bốn năm. Sau bốn năm truyền ngôi cho con bà là Quý-Do. Quý-Do lên ngôi chưa đầy một năm bị mất quyền hành lại trở về tay Hoàng-hậu.
Trong triều thần không chịu cho Hoàng-hậu giữ việc triều đình, vị họ nhớ đến công đức của Đà-Lôi. Nhờ mưu kế của Hốt-tất-Liệt, Mông-Ca được tôn lên vương-vị. Để trả ơn cho Hốt-tất-Liệt, Mông-Ca phong cho Hốt-tất-Liệt làm hoàng-thất-đệ, sau nầy sẽ được nối ngôi mình.
Như vậy, sau Mông-Ca thì đến quyền hành của Hốt-tất-Liệt. Hốt-tất-Liệt đã từng ở Trung-Nguyên lâu ngày, rất khâm phục nền văn minh Trung-Nguyên, nên đã thường cùng với đám nho-sĩ học hỏi đàm đạo thi thơ, lại luôn luôn tìm tòi các vị võ nghệ cao cường làm vây cánh, để xâm chiếm nhà Tống.
Yến tiệc bày ra, Hốt-tất-Liệt mời các quan khách an tọa, Hốt-tất-Liệt ngồi bên Dương-Qua. Uống lưng chén rượu, bỗng Hốt-tất-Liệt gọi lớn:
- Nào, xin mời các tiên sinh ở Chiêu-hiền ra mắt.
Rồi quay sang Dương-Qua nói nhỏ:
- Tôi được gặp mấy vị cao nhân tại Chiêu-Hiền, mấy vị hợop ý tôi lắm, tuy nhiên cũng ngại không vừa lòng quốc-sư và tráng-sĩ.
Vừa lúc, quân hầu vào bẩm:
- Thưa Vương-tử khách đã vào.
Tấm màn kéo lên, xuất hiện bốn người. Dương-Qua ngạc nhiên, khi nhìn thấy bốn người vừa bước vào.
Người thứ nhất thân thể như một xác chết khô.
Người thứ hai vừa lùn, vừa đen.
Hai người này không ai xa lạ, chính là Tiêu-tương-Tử và Ni-ma-Tinh mà Dương-Qua đã thấy ở Sơn-cốc-Trung, trong một đêm tối trời bữa nọ.
Người thứ ba thân cao chừng tám thước, tay to, chân lớn, hai mắt trắng đục như khu tộ.
Người thứ tư mũi cao, mắt sâu hoáy, râu vàng khè, dáng điệu người Hô, nhưng ăn mặc theo kiểu người Hán, cổ đeo hai viên ngọc sáng, tay có vòng chuỗi đá quý, trông không ra nam, mà cũng không ra nữ.
Hốt-tất-Liệt đưa tay mời bốn vị an tọa, rồi giới thiệu với tân khách. Người cao, lớn thuộc giống Hối-cương, tên là Mã-quang-Tổ, từ nhỏ đã có sức khỏe lạ thường, tay không vật chết voi, cọp như chơi. Lớn lên lại được tập võ nghệ.
Mã-quang-Tồ người to lớn, nhưng tay, chân quá thô kệch, nên võ nghệ không đến mức siêu đẳng. Tuy vậy, mà nhờ sức khỏe hơn người, nên chỉ thua bậc anh hùng siêu thế, chớ người nào võ tầm thường gặp phải Mã-quang-Tổ khó mà thoát chết.
Hốt-tất-Liệt chỉ vào người đeo ngọc sáng ở cổ, nói:
- Người này là vợ Hồ tên là Doãn khắc Tây, chuyên nghề buôn ngọc. Doãn-khắc-Tây từng giang hồ đi khắp nơi, nên học khá nhiều võ nghệ đặc biệt, được phái võ chân truyền ở xứ Ba-Tư thu dụng làm đồ đệ. Doãn-y-khắc-Tây sắp tu luyện "thành tài", nhưng nghe tin Hốt-tất-Liệt thu dụng hiền tài, không quản đường xa tìm đến ra mắt.
Ni-ma-Tinh và Tiểu-tương-Tử đến đưa mắt nhìn Dương-Qua, thấy chàng còn non trẻ nên có vẻ coi thường. Hai người chỉ chăm chú nhìn Kim-luân Pháp-Vương, thấy lão tỏ vẻ khinh thường không coi hai người vào đâu cả.
Rượu chừng vài ba tuần, Ni-ma-Tinh có tính nóng nảy, ngồi yên không chịu được nữa, liền đứng dậy thưa với Hốt-tất-Liệt:
- Kính vương-gia, nhà Đại-Mông quơ lưới quét hiền tài anh liệt. Chắc hẳn anh hùng tứ xứ qui tụ nơi đây cũng khá đông đảo.
Rồi lão lùn đưa tay chỉ vào Kim-luân Pháp-vương nói:
- Vị hòa thượng được vương-gia phong cho làm đệ nhất quốc sư, có lẽ tài nghệ phải siêu thế lắm! Anh em chúng tôi muốn cho hòa thượng chỉ dạy vài điều hay.
Hốt-tất-Liệt nghe Ni-ma-Tinh nói thế, chỉ mỉm cười làm thinh Tiểu-tương-Tử đứng dậy tiếp lời:
- Ni-ma-Tinh từ ngày ở Tây-Trúc về đây, nhưng nghề võ Tây-Tạng do Tây-Trúc truyền tới. Lẽ nào màu xanh lại có thể đậm hơn màu tím được.
Tiểu-tương-Tử dụng ý khiêu khích, để được xem một trận đấu thử thách giữa Kim-luân Pháp-vương với Ni-ma-Tinh. Tiểu-tương-Tử sẽ thủ vai ngư ông đắc lợi.
Kim-luân Pháp-Vương chú ý nhìn Tiểu-tương-Tử, thấy hai gò má có ánh xanh, thì biết ngay, Tương-Tử có sức nội công tu luyện cũng đã đến mức phi thường, Pháp-vương trông thấy ở đây, chỉ có Tương-Tử có dáng lợi hại hơn hết.
Pháp-vương tuy nghe lời khiêu khích, nhưng nét mặt vẫn bình thản. Bỗng trong bàn tiệc có tiếng cười ré lên. Mọi người chăm chú nhìn về phía tiếng cười, thì đúng là tên buôn ngọc.
Doãn-khắc-Tây vừa cười đắc ý, vừa nói:
- Chà làm tới quốc sư, chẳng qua cũng nhờ ân-sư vương-gia thôi! Chắc gì đã xứng đáng thế.
Rồi hắn ngoảnh mặt nhìn Ni-ma Tinh với vẻ khiêu khích.
Kim-luân Pháp-Vương vẫn bình thản, đưa đũa ra gắp một miếng thịt lớn giơ lên nói:
- Miếng thịt này lớn nhất ngư-phủ tôi không dám ăn, chỉ vì sự ngẫu nhiên gặp phải nó, nhà Phật gọi sự ngẫu nhiên ấy là pháp duyên. Vậy tôi xin nhường chư vị gắp lấy.
Trong bàn tiệc có Mã-quang-Tổ tâm địa còn khờ dại, nên không hiểu được ý định của Kim-luân Pháp-Vương. Chỉ thấy Pháp-Vương gắp miếng thịt dơ lên, tưởng là quốc sư tự nhận lão không đủ tài với chức quốc sư, nên tự ví mình như miếng thịt kia, nhường cho khách.
Mã-quang-Tổ liền đưa đũa ra tiếp, nào ngờ đầu đũa của Mã-quang-Tổ vừa chạm đũa Kim-Luân Pháp-Vương thì tay Quang-Tổ như bị điện giật tê cứng. Vì nội công của Kim-Luân Pháp-Vương truyền ra đũa, nhập vào mạch máu của Quang-Tổ tê điếng người. Quang-Tồ nhào xuống đất, mắt méo xẹo. Quan khách trong bữa tiệc, ai nấy đều kinh ngạc, luôn miệng trầm trồ:
- Quốc sư làm gì hay thế?
Mã-quan-Tổ ngượng quá, nói lớn:
- Đó chẳng qua là một yêu thuật! Vậy có dám cùng ta đấu võ chăng?
Hốt-tất-Liệt cả cười, la lớn:
- Mã-tráng-Sĩ, đừng nóng thế! Chúng ta muốn tranh hùng đâu có muộn gì? Để ăn xong tiệc rồi sẽ trổ tài có hay hơn không?
Mã-quang-Tổ nín thinh ngồi dậy.
Ni-ma-Tinh lúc nầy vẫn khinh thường Kim-Luân Pháp-Vương, bây giờ thấy quang cảnh trước mắt hết lòng lo nghĩ. Nhưng chẳng lẽ trước mắt chư anh hùng lại ép mình chịu nhục nhã thế nầy sao?
Ni-ma-Tinh vốn gốc người ở Tây-Trúc, nên ăn bốc, không ăn bằng đũa, thấy Mã-Quang-Tồ không giật nổi miếng thịt trong đôi đũa của Kim-Luân Pháp-Vương. Ni-ma-Tinh mái ôn tồn nói với Mã-quang-Tổ:
- Mã-huynh, hãy nhìn đệ lấy miếng thịt đó?
Vừa nói, vừa dùng năm đầu ngón tay cứng như năm thanh sắt, vụt ra chụp lấy miếng thịt.
Kim-Luân Pháp-Vương lanh như cắt, dùng hai ngón tay tách đôi chiếc đũa, chặn vào năm đầu ngón tay của Ni-ma-Tinh. Năm ngón tay của Ni-ma-Tinh bị đũa gài vào, ngồi chết khựng không cử động được.
Kim-Luân Pháp-Vương dùng nửa chiếc đũa để chặn đòn Ni-ma-Tinh, nên vận dụng được hai đầu đũa để giữ chặt miếng thịt lại. Ni-ma-Tinh cũng chẳng vừa, lão liền vận dụng hết nội lực vào năm đường gân ngón tay, gân nổi lên cồm cộp búng mảnh đũa ra ngoài. Thế là lão lùn gỡ được đũa gài, bớt sự thẹn mặt, nhưng vẫn ngồi yên không dám dành miếng thịt nữa.
Ngồi xem các anh-hùng hiệp khách đấu thuật với nhau, Dương-Qua từ lúc đầu đến giờ chỉ mỉm cười. Đột nhiên nghe có tiếng vọng vào!
- Quách-Tỉnh, Quách-Tỉnh ở trong đó mau ra đây!
Tiếng hô nghe từ hướng Đông dội đến. Nhưng thoáng qua lại nghe từ hướng Tây vang lại. Lạ thật! Đông và Tây cách xa nhau, ai đâu mà nhanh đến thế, chắc là có hai ba người gì đó? Nhưng giọng nói vẫn một giọng!
Trong lúc nầy cuộc dành thịt, tiếp tục giữa Kim-Luân Pháp-Vương với Tiểu-tương-Tử bắt đầu. Kẻ nửa cân người tám lạng. Rốt cục miếng thịt phân làm ba mảnh tung lên, Dương-Qua lanh mắt liền vung đũa ra kẹp lấy một mảnh. Cả ba người cùng nhìn nhau cười ngất. Mỗi người định đưa mảnh thịt phần mình lên miệng, thì thoáng một cái, một bóng đen xuất hiện và một người bay vèo ra, giơ tay thu cả ba miếng thịt cho vào miệng, nhai tóp tép, đưa mắt trừng trừng nhìn chung quanh như chẳng thèm coi ai ra gì hết.
Tất cả đều thất kinh, ngơ ngác nhìn nhau. Kim-luân Pháp-Vương, Dương-Qua và Tiểu-tương-Tử đâu phải tài nghệ tầm thường, thế mà miếng thịt bị giật mất một cách trắng trợn, không ai chống đỡ nổi. Người nào cũng lo định thần, nhìn theo bóng người ngang ngược là ai! Chỉ thấy một cụ già, râu tóc bạc phơ, hai má đỏ hồng, miệng tươi cười, đôi mắt sáng quắc, tuổi tác khó mà đoán được là bao nhiêu.
Bọn quân canh ồ ạt tứ phía chạy vào, vây quanh dùng gươm, giáo chĩa tua tủa vào ông lão, đồng thanh hô to:
- Tiến nhanh bắt người quái khách.
Cụ già ung dung khẽ đưa nhẹ hai ngón tay quét qua, hơn hai chục ngọn giáo văng vào một góc. Lũ quân canh nhào sắp lớp. Ngoảnh mặt nhìn về phía Dương-Qua cụ già gọi:
- Chú em! Hãy đưa thêm rượu thịt ra đây, bụng lão kiến đang bò nhiều quá.
Kim-luân Pháp-Vương, Ni-ma-Tinh, Tiểu-tương-Tử và Mã-Quang-Tổ liền liên kết nhau chống lại để trổ tài cho vui lòng Hốt-tất-Liệt.
Bốn vị Mông-cổ nhất tề xông lại áp đảo cụ già. Chống trả sự áp đảo của bốn vị dũng sĩ, cụ già đánh như dỡn cợt, mà bốn dũng sĩ mồ hôi đã ra nhễ nhại. Họ không thể tiến đến cụ già được nửa tấc.
Dương-Qua nghe lời cụ già đưa đĩa thịt lên mời. Lạ thay! Thịt trong đĩa cứ tự động bay tòn tọt vào miệng cụ già.
Kim-Luân Pháp-Vương thấy thế quá sức kinh ngạc, nên hết lòng thán phục sức nội công của khách lạ đã đến mức tuyệt diệu với lối vận công ra miệng tạo thành sức hút kỳ dị ấy.
Hốt-tất-Liệt đã từng dự nhiều cuộc chơi lạ thường, nhưng chưa bao giờ được thấy một quang cảnh lạ thường như thế! Vương-Tử cũng ngây người như gỗ, miệng luôn luôn tấm tắc khen ngợi:
- Thường thường người nào có nội công giỏi lắm, cũng phải thêm sức gió của bàn tay vụt qua mới thâu vật bày trên đĩa được. Đằng này lại không cần gì đến tay cả, mà tự nhiên các vật ở đĩa cứ lần lượt bay tuột vào miệng, thật chân nhán, kỳ tài trong thiên hạ chưa từng có.
Trong chúng anh hùng bắt đầu run sợ, cụ già vẫn khoan thai nuốt hết miếng này, đến miếng khác. Phút chốc trên bàn tiệc hết trơn thức ăn.
Ăn xong, cụ già nhảy vọt lên đứng sững trên bàn, đưa tay phải vẽ trên không trung một vòng cánh cung. Bàn tay vẽ nhanh và mạnh đến nỗi mọi người trông thấy cả vệt sáng. Thuật nầy gọi là "Thái cực hình". Bàn tay càng lúc, càng nhanh, càng mạnh, khiến cho chén đũa trên bàn bị sức hút nhổm lên, nối đuôi nhau bay vun vút. Trong nháy mắ trên bàn tiệc sạch trơn.
Tiêu-tương-Tử nhìn từ lúc đầu đến giờ mới hỏi:
- Dám hỏi tiền bối, như tiểu đệ không lầm ngài có phải là họ Châu không?
Cụ già cười khanh khách, nói:
- Đúng đó, ngươi cũng nhận ra ta ư?
Tiêu-tương-Tử chắp tay lạy chào:
- Thật không ngờ Lão Ngoan-Đồng Châu-bá-Thông tiền bối lại có mặt nơi đây!
Kim-Luân Pháp-Vương và Ni-ma-tinh biết rất ít về các cao thủ ở Trung-Nguyên, nhưng nghe lời Tiêu-Tương-Tử gọi lão Ngoan-Đồng so với tánh ương ngạnh ban nãy cũng hiểu rõ người rồi.
Thấy cụ già có quen biết với Tiêu-tương-Tử, nên ai nấy đều bỏ ý tưởng tỵ hiềm đổi bộ mặt ganh tỵ ra vẻ mừng vui thân ái.
Kim-luân Pháp-Vương đứng lên, khẩn khoản nói:
- Xin tiền bối lượng thứ lỗi vô lễ. Tiện đây, kính mời tiền-bối vui lòng dùng bữa cùng Vương-gia, mong hiền tài chấp thuận cho! Vương-tử trông thấy cao-nhân, chắc lòng hoan hỉ.
Hốt-tất-Liệt cũng đứng lên thi lễ.
- Thật may mắn trăm phần, xin tiền bối vui lòng dùng bữa cùng chúng tôi và nhờ tiền bối chỉ dạy cho tôi vài điều.
Châu-bá-Thông chỉ lắc đầu lia lịa, nói:
- Ta ăn đã đủ lắm rồi! Chẳng dám nài thêm. Nhưng Quách-Tỉnh người ấy có đây không?
Dương-Qua nghe nói đến Quách-Tỉnh, lòng rộn ràng không yên, liền hỏi:
- Hỏi Quách-Tỉnh có việc gì?
Châu-bá-Thông xưa nay rất quý mến đám thanh niên trẻ tuổi thấy Dương-Qua không cung kính gọi mình là lão tiền-bối, chỉ gọi trống không, thật lấy làm lạ. Ông ta đáp:
- Quách-Tỉnh là anh em kết nghĩa với ta. Chú em có biết hắn không? Tính hắn rất thích giao du với người Mông-cổ cho nên ta mới đến đây tìm.
Dương-Qua nhíu đôi mày, hỏi gạn:
- Nhưng hỏi Quách-Tỉnh để làm gì mới được chứ?
Châu-bá-Thông đâu biết được tâm sự của Dương-Qua, nên cứ bình tĩnh trả lời:
- Quách-Tỉnh gửi thư thăm ta mời đi dự anh hùng yến, nhưng cách xa hàng ngàn dặm. Đi dọc đường vì gặp nhiều chuyện cản trở, nên đến chậm trễ mất một ngày. Ta tới đó anh hùng yến đã giải tán, ta luôn tiện đến đây.
Dương-Qua nói:
- Vậy Quách-Tỉnh không để thư lại sao?
Nghe Dương-Qua tra vấn mãi, Châu-bá-Thông ngạc nhiên hỏi:
- Chú em! Tại sao chú cật vấn ta nhiều vậy? Chú em có biết Quách-Tỉnh không?
Dương-Qua hằn học trả lời:
- Sao tôi không biết? Có phải vợ Quách-Tỉnh là Hoàng-Dung không? Có phải con gái Quách-Tỉnh là Quách-Phù không?
Châu-bá-Thông đập hai tay vào nhau chan chát, cười khà khà nói:
- Sai rồi, lầm rồi! Hoàng-Dung là một con bé con, làm gì có con gái lớn.
Châu-bá-Thông nói làm cho Dương-Qua ngẩn người. Nhưng chàng cố bình tĩnh hỏi lại:
- Ông không gặp vợ chồng Quách-Tỉnh đã bao lâu rồi?
Châu-bá-Thông giơ tay ra tính lẩm nhẩm, rồi đáp:
- Ta cách vợ chồng hắn đến nay gần hai chục năm.
Dương-Qua cười khúc khích, nói:
- Không gặp đã hai chục năm, mà không tin Hoàng-Dung có thể có con gái. Thật đúng với cái tên Lão Ngoan-Đồng.
Châu-bá-Thông cười khà khà, nói:
- ừ, thì chú em đúng! Chú em đúng hơn ta! Nhưng lão muốn chú em kể thử đứa con gái đó như thế nào?
Dương-Qua nói:
- Đứa bé đó giống Hoàng-Dung nhiều hơn giống Quách-Tỉnh.
Châu-bá-Thông lại cười hô hố nói:
- Chú em định cho con gái hơi giống Quách-Tỉnh để nhát ai, với đôi lông mày đinh ngược, với hai gò má vừa đen vừa cao đó?
Dương-Qua thấy Châu-bá-Thông có ý tin nên nói tiếp:
- Tôi với cha ruột Hoàng-Dung, là Hoàng-dược-Sư chúa đảo Đào-Hoa là bạn thân với nhau.
Châu-bá-Thông nghe nói lạ lùng nghĩ thầm:
- Thằng nầy tuổi nó là bao nhiêu, mà nói là bạn Hoàng-dược-Sư.
Nghĩ thế ông liền hỏi:
- Như vậy sư phụ của chú là ai?
Dương-Qua đáp:
- Tên sư phụ tôi lớn lắm! Nói ra chỉ làm cho ông run sợ thôi!
Châu-bá-Thông quá giận, nói:
- Chú em đừng lo.
Dứt lời Châu-bá-Thông dừng tay trái quất mạnh vào cái bàn, cái bàn bay vút vào mặt Dương-Qua.
Dương-Qua không chút nao núng xòe năm ngón tay trái ra đỡ. Chỉ nghe tiếng răn rắc, cái bàn đã bể vụn ra từng mảnh rơi lã chã.
Châu-bá-Thông thấy người thiếu niên dùng võ công của phái Toàn-Chân, đỡ nổi đòn lợi hại, lòng rất thích thú.
Còn Kim-luân Pháp-Vương, Tiêu-tương-Tử, Mã-quang-Tồ người nào, người nấy ngồi nhìn sững sờ.
Thứ nhứt là Tiêu-tương-Tử và Ni-ma-tinh từ lúc đầu mới đến, thấy Dương-Qua, coi chàng không được nửa con mắt. Lúc nầy thấy cảnh ấy, lòng tự bảo:
- Cái bàn vụt mạnh như thế, chỉ có nước né, chứ ai nào dám đỡ, nếu như sơ ý một chút là bị gãy xương ngay; thế mà người trẻ tuổi này chỉ cần dùng năm ngón tay thôi! Chẳng hiểu ở nơi đâu lại sinh ra bậc kỳ nhân sơn như vậy?
Châu-bá-Thông lòng thầm khen ngợi, và đoán biết Dương-Qua đã tinh luyện được võ công của phái Toàn-Chân, bèn hỏi:
- Chú em quen với Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ chăng?
Dương-Qua nói:
- Hai tên hèn ấy quen làm gì?
Châu-bá-Thông lại càng thích! Sở dĩ Châu-bá-Thông thích ý là vì được gặp người tri kỷ, Bá-Thông đã từng làm đệ tử của phái Toàn-Chân, nhưng Bá-Thông là con người phóng đạt, không ưa giới luật câu nệ, nên không được trong môn phái mến chuộng.
Châu-bá-Thông bình tĩnh rất khâm phục Vương-trùng-Dương và Cửu-chỉ Thần-Cái Hồng-thất-Công, nên ghét lối câu nệ quá của Mã-Ngọc và Khưu-xứ-Cơ. Nay lại nghe Dương-Qua gọi Mã-ngọc và Xứ-Cơ là kẻ hèn thật là hiệp ý.
Châu-bá-Thông tiếp:
- Còn Xích-đại-Thông chú em nghĩ sao:
Dương-Qua nghe đến "Xích-đại-Thông" đôi mày dựng ngược tỏ vẻ giận dữ, nói:
- Thằng khốn ấy, có lần tôi đã cho nó bị khốn.
Châu-bá-Thông liền hỏi:
- Cho nó khốn khổ bằng cách nào?
Dương-Qua nói:
- Tôi đã trói chặt nó, rồi đạp vào cầu tiêu, nhốt mấy ngày đêm.
Châu-bá-Thông thở dài, nói:
- Ta là sư thúc của Xích-đại-Thông đó!
Trong cuộc nói chuyện với Châu-bá-Thông, Dương-Qua nẩy ra một ý nghĩ:
- Lão này võ nghệ cao kỳ lắm, dụ lão để cùng ta diệt vợ chồng Quách-Tỉnh, chắc không thể nào được: nhưng không dụ được thì lão sẽ giúp Quách-Tỉnh thêm một sự khó cho mình. Chi bằng ta lập mưu giết lão rảnh.
Dương-Qua bản tâm không phải con người gian ác, nhưng chàng quá nóng lòng báo thù cha, dù phải làm gì khó khăn, nguy hiểm đến đâu cũng không sờn lòng. Bởi vậy chàng quên nghĩ việc làm có độc ác hay không?
Còn Châu-bá-Thông đâu có biết tâm sự đau khổ, hận thù của Dương-Qua, đã phát hiện một ác ý như vậy? Nên Châu-bá-Thông vẫn thực thà hỏi:
- Bây giờ chú em có đi bắt thằng Xích-đại-Thông nữa không?
Dương-Qua hỏi lại:
- Nếu tôi đi ông có cùng đi với tôi không?
Châu-bá-Thông ngẫm nghĩ hồi lâu, nói:
- Ta có nhận được bức thư của Quách-Tỉnh, lưu lại ở Lục-gia-Trang, có lời dặn là quân Mông-Cổ sắp tràn xuống phía Nam để hạ thành Tương-Dương. Phần Quách sẽ xuất lãnh hào kiệt Trung-Nguyên để bảo vệ Tương-Dương, nên có lời mời ta giúp hắn. Nay đến đây tìm hắn không có, chắc bây giờ đến Tương-Dương sẽ gặp.
Hốt-tất-Liệt, Kim-luân Pháp-Vương nghe câu chuyện Châu-bá-Thông nói với Dương-Qua, nét mặt không vui. Hốt-tất-Liệt khẽ bảo Pháp-Vương:
- Lúc này họ tụ tập nhiều tay anh kiệt ở Trung-Nguyên bảo vệ Tương-Dương, thì làm sao hạ được thành ấy theo dự định hả quốc sư?
Giữa lúc mọi người đang suy tư định lại võ công, chợt thấy tấm da trước doanh trại tung ra, một vị hòa thượng hiến đến, vội vàng đi vào.
Hòa thượng trạc hơn bốn mươi tuổi, dung mạo nho nhã, thần sắc như một thư sinh. Hòa thượng đi thẳng đến trước mặt Hốt-tất-Liệt khẽ cúi chào, rồi ghé miệng sát vào tai Vương-tử nói nhỏ một hồi lâu.
Sự thật, hòa thượng vừa vào vốn là người Hán, pháp danh Tử Thông, chính là mưu sĩ của Hốt-tất-Liệt.
Tử-Thông lúc cha mẹ sinh ra đặt tên là Lưu-Khâm, khi còn nhỏ làm viên đại sứ tại một huyện, về sau mới xuất gia đi tu. Theo nhiều người ca tụng thì Tử-Thông hiểu biết rộng, sách nào cũng đã đọc qua, lại rất thâm thúy kinh dịch, có tài thiên văn, giỏi tướng số. Nói chuyện thiên hạ dễ dàng như đọc trên bàn tay, được Hốt-tất-Liệt yêu quý lắm.
Châu-bá-Thông thấy vị Hòa-Thượng đứng cạnh Hốt-tất-Liệt, che khuất Dương-Qua làm Bá-Thông nói chuyện không được với Dương-Qua, nên nói:
- Xin hòa thượng xích sang một bên, để cho lão nói chuyện với chú em. à còn chú tên là gì?
Dương-Qua nói:
- Tôi họ Dương tên Qua.
Bá-Thông vồn vã hỏi tiếp:
- Sư phụ của chú em là ai?
Dương-Qua bình tĩnh nói:
- Sư phụ của tôi là một người đàn bà đẹp tuyệt trần, võ nghệ huyền diệu vô song. Nhưng tên của người tôi không được phép nói cho ai rõ.
Châu-bá-Thông nghe đến người đàn bà đẹp, mồ hôi toát ra như tắm, hồi tưởng lại một người tình cũ là nàng Anh-Cô, Châu-bá-Thông đứng nín lặng hồi lâu, rồi phất tay áo một cái bụi cát bay tung, miệng cười khà khà, nói:
- Ta đi đây...
Hòa-thượng Tử-Thông lễ phép nói:
- Kính xin lão trượng hãy khoan bước. Tài nghệ lão trượng khiến anh em chúng tôi thán phục vô cùng, vậy tiện đây bần tăng kính dâng lão trượng một ly rượu.
Vừa nói Tử-Thông vừa nâng ly rượu cao khỏi đầu.
Châu-bá-Thông cười, nói:
- Tốt lắm, tốt lắm!
Miệng nói tay đốp lấy ly rượu uống tọt vào miệng. Tử-Thông liền nâng ly rượu nữa, nói:
- Đây là ly rượu của vương-gia.
Châu-bá-Thông cũng uống luôn. Tử-Thông toan rót ly khác, thì nghe Châu-bá-Thông kêu lên:
- á, á ta đau bụng, buồn tiểu tiện quá!
Kêu xong ngồi sụp xuống cởi quần "bịch" luôn ra trước mặt quan khách, khiến mọi người ngơ ngác. Châu-bá-Thông nói tiếp:
- Đau bụng quá! Chịu không nổi, chịu không nổi!
Dương-Qua đưa mắt nhìn Tử-Thông, chàng thấy cử chỉ và nét mặt nham hiểm của Tử-Thông, đoán biết trong rượu Tử-Thông có pha chất độc. Nhưng chàng thấy Châu-bá-Thông là người chất phác và đối với chàng rất có cảm tình, nên ý hại Châu-bá-Thông lúc này chàng không còn nữa. Và khi thấy Châu-bá-Thông bị trúng độc, lòng thương hại không nỡ để cho Châu-bá-Thông chết thảm thương, vô lý như thế.
Dương-Qua liền ghé miệng nói nhỏ vào tai Châu-bá-Thông:
- Hãy tóm lấy Hốt-tất-Liệt, buộc hắn phải bắt Tử-Thông mang ngay thuốc giải độc.
Châu-bá-Thông lắc đầu cười hô hố, nói:
- Không phải, tự rượu độc uống có ít quá, nên làm ta sinh đau bụng. Hòa thượng hãy rót nhiều nữa đi cho ta uống.
Cả mọi người lấy làm lạ ngơ ngác nhìn nhau. Còn Tử-Thông lo sợ Châu-bá-Thông trước khi chết sẽ tác uy mạnh, nên nghe Châu-bá-Thông gọi, mà không dám mon men bước đến.
Trông thấy Tử-Thông không rót rượu nữa, Châu-bá-Thông đứng bật dậy. Kim-luân Pháp-Vương sợ Bá-Thông hãm hại Hốt-tất-Liệt, nên phóng mình lại đỡ cho Vương-tử.
Nhưng không! Châu-bá-Thông chỉ vươn tay chợp cả vò rượu, mà Tử-Thông đặt ở góc bàn uống ừng ực. Một lúc vò rượu cạn khô.
Ai nấy đều thất-phách hồn kinh, mặt mày xám ngắt.
Châu-bá-Thông cười khà khà, nói:
- Trong bụng ta đã chứa nhiều chất độc, nên phải lấy độc khử độc. Nói xong ông ta há miệng thật lớn rượu từ trong bụng phụt mạnh ra miệng, thành luồng sáng sắc như hai lưỡi kiếm.
Châu-bá-Thông đã vận khí toàn thân, để đưa rượu ra thành một chưởng khí. Bá-Thông hướng rượu vào phía Tử-Thông. Tử- thông trúng luồng chưởng khí rượu té nhào xuống đất bất tỉnh, Kim-luân Pháp-Vương lẹ tay đưa chiếc bàn sắat che cho Tử-Thông. Luồng rượu làm cho chiếc bàn sắt thủng một lỗ như cái bát.
Châu-bá-Thông lại quay sang phía khác, luồng rượu đập mạnh vào cột gỗ giữa doanh trại. "Rầm" một cái, cột gãy ngang làm đôi, tiếp theo tiếng ào ào, răn rắc, cả tấm bạt da căng doanh trại ngã ầm xuống, úp đè lên đầu Hốt-tất-Liệt, Kim-luân Pháp-Vương cùng bao nhiêu anh hùng hiệp khách trong doanh trại.
Mọi người lại thất thanh, lính quýnh tìm chỗ thoát.
Châu-bá-Thông thấy cả bọn bò lổm ngổm, khoái chí cười hô hố, rồi nhảy lên trên doanh trại chạy đạp lung tung. Không ngờ Kim-luân Pháp-Vương dùng một ngọn cưới phóng lên làm Châu-bá-Thông sơ ý ngã nhào. Kim-luân Pháp-Vương liền cất tiếng cười khanh khách, kêu lớn:
- Thú quá! Thú quá!
Kim-luân Pháp-Vương đưa Hốt-tất-Liệt ra khỏi doanh trại. Hốt-tất-Liệt vẫy tay gọi hơn trăm lính hầu, dựng doanh trại lại để tiếp tục bày tiệc.
Mọi người quay nhìn tứ phía tìm kiếm Châu-bá-Thông, nhưng chỉ thấy bốn bề vắng lặng. Châu-bá-Thông đã cao bay xa chạy mất.
Bọn Kim-luân Pháp-Vương, Tiêu-tương-Tử quá xấu hổ vì sự phòng vệ sơ sót của mình, nên đến trước mặt Hốt-tất-Liệt tạ tội.
Hốt-tất-Liệt vốn là người quảng đại, nên nét mặt chẳng lộ chút gì giận dữ, trái lại còn rất tán thưởng cái trò chơi quái gở của Châu-bá-Thông.
Vương-Tử vui vẻ, nói:
- Tôi rất tiếc là gặp được người hào kiệt tuyệt vời như Châu-bá-Thông, mà mình không đủ sức giữ người ấy ở bên cạnh, thật là uổng!
Sau đó tiệc rượu tiếp tục. Hốt-tất-Liệt đứng lên nghiêm nghị, nói:
- Đại quân Mông-Cổ đánh Tương-Dương nhiều lần, mà không thể hạ được thành chỉ vì đồn Tương-Dương là nơi tụ hội nhiều hào kiệt, anh tài, nay lại có thêm Châu-bá-Thông thì mong gì chiếm được. Chẳng biết chư vị ở đây có kế hoạch gì hay hơn không?
Ni-ma-Tinh quá nóng, không nghĩ ngợi hơn, kém gì cả, liền nói:
- Thưa Vương-tử. Châu-bá-Thông tuy võ nghệ giỏi nhưng bọn ở đây chưa chắc đã kém hắn. Vương-Tử cứ việc lo lệnh tấn công Tương-Dương, có gì là quân đổi quân, tướng đổi tướng, nếu Trung-Nguyên có lắm hiền tài thì Tây-vực ta thiếu chi hào kiệt?
Hốt-tất-Liệt khoan thai giảng giải:
- Lời Ni-ma-Tinh nói cũng đúng, nhưng từ xưa đến nay về chiến trận muốn thắng cần phải nhờ mưu lược. Mà muốn có mưu lược, trước nhất phải biết được địch tình. Nếu bên nào tính giỏi hơn là bên đó thắng.
Tử-Thông cung kính đứng dậy, nói:
- Vương-gia thật là một vị thánh minh.
Tử-Thông vừa dứt lời, thì bên ngoài có tiếng vọng vào:
- Ta đã bảo đừng đi, là đừng đi! Đồ vô dụng!
Mọi người nghe rõ tiếng Châu-bá-Thông, nhưng không hiểu được lý do gì, mà Châu-bá-Thông còn trở lại dùng lời ngạo nghễ.
Hốt-tất-Liệt hối hả, nói:
- Chư vị hãy mau đi tìm Châu-bá-Thông về đây cho ta.
Mọi người đều chạy ra ngoài tìm Châu-bá-Thông, nhìn khắp tứ phía chợt thấy Châu-bá-Thông từ nơi xa tít trên gò bằng phẳng hướng Đông, với bốn người lạ mặt.
Kim-luân Pháp-Vương gọi lớn:
- Chúng ta cùng đến đó.
Kim-luân Pháp-Vương, Ni-ma-Tinh, Tiêu-tương-Tử, Mã-quang-Tổ, và Y-khắc-Tây cùng chạy như bay về hướng bốn người lạ mặt và Châu-bá-Thông. Thấy bốn người kia đều mặc áo màu xanh rườm-rà, cổ lỗ. Trong đó có ba người nam, đội mũ cao lêu nghêu, một người giữa bụng thắt chiếc giải xanh bay phất phới trước gió. Cả bốn người trông rất hiền hậu, trông có vẻ thanh nhã. Một người trong bốn người nói:
- Chúng tôi không muốn làm khó dễ đâu chỉ vì tôn huynh đã đạp bể nồi linh đơn, bẻ gãy linh chi, xé nát đạo thư của thầy chúng tôi, nên chúng tôi muốn mời tôn huynh về cho thầy tôi rõ nếu không chúng tôi sẽ bị rầy la.
Châu-bá-Thông vỗ đùi, cười lớn:
- Mày là thằng quê mùa, xấc láo! Như vậy là mầy không may đã gặp phải tao.
Người kia bình tĩnh trả lời:
- Tôn huynh nhất định không theo chúng tôi sao?
Châu-bá-Thông lắc đầu lia lịa, la lớn:
- Lui ra kẻo toi mạng hết!
Người kia bỗng reo lên:
- A cho mau, chớ bọn họ đến kia rồi!
Chớp mắt, bốn người mặc áo xanh tung ra một cái lưới phủ trùm Châu-bá-Thông vào trong rồi gút lại. Châu-bá-Thông như cọp mắc bẫy, nằm cong queo trong lưới. Bốn người kia hai người khiêng Châu-bá-Thông, còn một nam một nữ theo sau. Họ chạy đi như bay.
Sự biến chuyển không thể nào lường được. Không ai ngờ tài nghệ như Châu-bá-Thông mà bị bắt một cách dễ dàng như thế.
Dương-Qua thấy Châu-bá-Thông vô cớ bị bắt, nên quá thương tâm liền vận lực để khí, tung mình lên cao đuổi theo bọn áo xanh, và gọi lớn:
- Các ngươi đem Châu-bá-Thông đi đâu?
Bọn Pháp-vương cũng nối theo Dương-Qua. Trong nháy mắt đã đuổi theo hơn hai chục dặm đến bờ một dòng suối lớn. Bốn người đưa Châu-bá-Thông xuống thuyền thả dây xuôi dòng. Tức khắc chiếc thuyền đã biết mất dạng.
Ni-ma-Tinh nhảy vọt lên ngọn cây để chạy theo bọn áo xanh. Còn năm người trong bọn, nhảy sang bờ suối về hướng Nam, đoạt một chiếc thuyền vô chủ xuôi theo lối của Ni-ma-Tinh chỉ.
Bốn người áo xanh cho thuyền vào một lạch nhỏ phía Tây. Con lạch nhỏ bị nhiều cây lớn sum sê che lấp mất, phải nhờ Ni-ma-Tinh đi trên đọt cây cao chỉ lối, bọn Dương-Qua mới khám phá được con rạch và gọi đồng bọn đuổi theo. Tất cả đều quay thuyền theo hướng Ni-ma-Tinh hướng dẫn. Chèo đi một khoảng xa thì đá hai bên lỏm chởm, khiến cho lối xuôi thuyền bị nghẹt lần lại. Bầu trời đối với họ chỉ còn là một vệt trắng như lưỡi kiếm.
Mã-quang-Tử kêu lên:
- Hỏng rồi, hỏng rồi! Hết lối chèo rồi!
Mọi người nhìn về hướng trước mũi thuyền, thấy chín mỏm đá trông tựa bức bình phong, đứng sừng sững chận hết lối qua lại.
Tiêu-Tương-Tử liền nói:
- Hoàn cảnh này phải nhờ Mã-quang-Tổ đem thuyền lên mới được.
Mã-quang-Tổ nói: - Tôi làm sao cho có đủ sức lực, mời đại-ca thử xem.
Kim-luân Pháp-Vương đang trầm tĩnh tìm kế đưa thuyền qua, miệng lẩm bẩm:
- Tấm bình phong cao, rộng như thế nầy, làm sao có thể đem thuyền qua được.
Dương-Qua thấy mọi người lo nghĩ, liền nói lớn:
- Quốc sư ơi! Chúng ta cùng họp sức nhấc thuyền qua.
Pháp-Vương mừng quá, nói lớn:
- Hay lắm! Tôi và Tráng-sĩ ở bên nầy, còn ở bên kia do bốn người mau cùng nâng lên!
Mọi người đồng tình đáp ứng lại lời của Pháp-Vương vang dội cả khu rừng. Mười hai cánh tay nâng bổng chiếc thuyền lên, lao qua chín tảng đá. Chỉ nghe tiếng véo thuyền bay lên không trung, cả sáu người đều dùng thuật khinh thân phi theo thuyền, rồi dịu dàng để thuyền xuống nước, như một chiếc lá rụng.
Sáu người ban đầu mới gặp nhau có nhiều điều khích bác tị hiềm nhau, nhưng bây giờ cùng chung sức làm một việc, tự nhiên họ có tình đoàn kết.
Tiêu-tương-Tử ngồi trước mũi thuyền, nói:
- Chuyện trước mặt chúng ta cần thiết nhất là tìm cứu cho được vị cao thủ Châu-bá-Thông mới là giỏi. Còn như hành động chúng ta trước đây không có gì đáng ngợi khen cả.
Ni-ma-Tinh tiếp lời:
- Lời Tiêu đại-ca nói đúng lắm, nếu đem so với bọn áo xanh ban nãy, chúng chỉ có bốn người lại còn đèo thêm một nhân mạng nữa, mà cũng làm nổi việc một cách dễ dàng. Còn chúng ta đến sáu người, nhưng theo không kịp chúng thì chưa đáng gọi là anh tài.
Nghe Ni-ma-Tinh nói mọi người đều lấy làm lạ, chỉ có bốn người mà có thể đem thuyền lại còn khiêng được Châu-bá-Thông nữa thì thật là một hành động kỳ lạ.
Ma-Tinh nói:
- Hay chúng nó ẩn núp đâu đây, chứ bọn nó có bốn người, trong đó lại có một cô gái mới mười bảy, mười tám tuổi, còn đèo thêm một mạng phải khiêng nữa thì tài nào đi mau như thế.
Pháp-Vương cười nói:
- Chớ nên nhìn bề ngoài mà đánh giá tài nghệ. Như Dương-Qua đây với số tuổi chừng ấy trên đầu, ai nhìn thấy bề ngoài có thể biết là kẻ siêu nhân. Nếu không có con mắt tinh đời như Kim-luân Pháp-Vương nầy, chắc khó lòng nhận thấy.
Dương-Qua khiêm tốn nói:
- Tiểu đệ chỉ là một kẻ hậu tiến không đáng kể. Xin chư vị hãy lưu ý đến bọn áo xanh đó, chúng đã bắt Châu-bá-Thông một cách rất dễ dàng, như thò tay lấy một vật trong túi!
Mọi người đã tán thưởng nghệ thuật của Dương-Qua, nhưng nghe chàng nói như vậy, lòng thắc mắc lo nghĩ lại càng tăng gấp bội.
Trong sáu người, chỉ có Dương-Qua là ít tuổi, nhưng tài nghệ được mọi người mến phục nhất.
Pháp-Vương, Mã-quang-Tổ, Ni-ma-Tinh đều là người ở Tây-vực Tiêu-tương-Tử thì chỉ lo luyện tập ở rừng sâu, nên chỉ có một mình Doãn-y-khắc-Tây là hiểu biết rõ các giang hồ, về tông tích lai lịch các võ phái Trung-nguyên. Thế mà Doãn-y-khắc-Tây chỉ vò đầu, không thể tìm ra người con gái trong bọn áo xanh là ai.
Cùng nhau chuyện trò chưa bao xa, thuyền đã đi được một quãng xa, lạch nước đã cùng đường, thuyền hết lối. Sáu người đi sâu tiến vào rừng, vượt qua những hố sâu, đèo cao, băng qua rừng lá rậm rạp. Bỗng trước mặt sáu người hiện ra một con đường hẹp chạy thẳng lên núi.
Cả bọn không chút ngần ngại, vận sức tiến nhanh. Càng đi lên càng thấy cao chót vót, cuối cùng ai nấy đều lạc lối, tựa hồ như ma đưa lối, quỉ dẫn đường cứ quanh co mãi.
Pháp-Vương vốn võ nghệ cao cường, nên cứ vững tâm, không tỏ vẻ sợ sệt. Chỉ có Mã-quang-Tổ võ công chưa đến mức chân truyền nên thở hồng hộc, loạng choạng, vấp ngã như người say rượu, nhờ có Ni-ma-Tinh dìu đi, mới khỏi lao đầu xuống vực thẳm.
Mã-quang-Tổ trong lòng quá thẹn. Gặp việc gian nan, nguy hiểm mới biết sức vóc mình chả thấm vào đâu.
Quanh quẩn một lúc, bóng chiều đã tắt. Màn đêm bắt đầu hiện xuống núi rừng, bọn áo xanh vẫn biệt tăm biệt dạng.
Mọi người đang lo ngại, thì chợt đàng xa có ánh lửa lập lòe làm cả bọn mừng rỡ, nghĩ thầm:
- Trong rừng sâu núi thảm thế này mà có người ở cũng lạ, nếu quả là bọn áo xanh thì chắc chúng là ma mị lắm đấy.
Kim-luân Pháp-Vương chăm chú nhìn về hướng ánh lửa, nói:
- Anh em, hãy vận khinh công tiến nhanh đến đó xem thế nào?
Trong chớp mắt họ đã bay đến bốn đống lửa. Mã-quang-Tổ vì đuối sức phải lểnh mểnh theo sau.
Lúc đến nơi, thấy một khoảng đất trồng. Trên đỉnh núi chỉ có bốn đống lửa đỏ rực, giữa mỗi đống lại có một ngôi nhà bằng đá.
Ni-ma-Tinh đã từng học đạo "Du già" ở Tây-Trúc nên thấy lửa không chút gì e sợ, liền vận sức phóng mạnh vào đống lửa, tông mạnh cánh cửa đá của tòa nhà phía Đông.
Cửa mở toang! bên trong vắng vẻ! Giữa nhà một thanh niên hai tay chắp lại, nét mặt đượm vẻ u buồn. Ni-ma-Tinh lấy làm lạ, không hiểu người nầy ngồi chịu cực hình gì đây, hay luyện nội công?
Ni-ma-Tinh bước lại nhìn kỹ, thấy những dây sắt quấn kín hai chân của người thanh niên chừng hai mươi lăm tuổi.
Ni-ma-Tinh lần lượt đi sang nhà thứ hai, thứ ba, thứ tư: người nào cũng đều có chung một cảnh tượng như vậy.
Duy có nhà thứ tư, người ngồi chịu cực hình lại là một cô gái chừng mười bảy mười tám tuổi. Đúng là bọn bắt Châu-bá-Thông. Nhưng Châu-bá-Thông hiện ở đâu?
Năm người trong bọn cùng nối gót theo Ni-ma-Tinh, đi luôn vào các gian nhà đá, nhưng không thấy Châu-bá-Thông. Họ chỉ thấy những thanh niên ngồi trong đống lửa đỏ hừng hực cháy, ai nấy đều tỏ vẻ thương hại, sợ những người thanh niên ấy cháy thành than.
Dương-Qua tính từ xưa nay, làm một việc không cần biết đến hậu quả. Nay lòng lại chất chứa mối tình sầu nên không dè dặt trong mỗi hành động nữa. Chàng đi qua nhà đá nhìn mặt ba gã thanh niên không tỏ vẻ gì thương hại. Nhưng đến nhà đá thứ tư, chàng thấy một thiếu nữ yêu kiều lộng lẫy, bỗng thở một hơi dài não ruột. Chàng phóng mình nhảy lên một cây cao gần đó bẻ mấy cành lá đập đống lửa đang cháy xung quanh thiếu nữ áo xanh. Giữa lúc đập túi bụi thì Mã-quang-Tổ vừa đến nơi, cũng lăng xăng giựt các cành lá đập giúp. Tức khắc đống lửa tắt ngóm.
Đập xong đống lửa thứ nhứt, Dương-Qua toan bước sang đập đống lửa khác, chợt nghe thiếu nữ lảnh lót nói:
- Xin quý khách hãy dừng tay, để chúng tôi khỏi bị trách phạt.
Dương-Qua nghe nói, ngạc nhiên nhìn. Chàng định cất tiếng hỏi lại, thì có một người nói vọng ra giọng sang sảng:
Động chúa ra lệnh cho các đệ tử biết nếu có viễn khách đến thì hình phạt ngưng, bốn trò hãy tiếp đón viễn khách cho ân cần.
Thiếu nữ áo xanh dịu dàng nói:
- Xin đa tạ động chúa.
Người kia truyền lệnh xong, liền tung mình lộn tròn như quả bóng, nhào qua các đống lửa, dùng chìa khóa mở trói cho bốn người áo xanh.
Dương-Qua định thần, nhìn thấy người này mặc áo màu xám khác với ba chàng áo xanh và cô thiếu nữ đang bị hành hạ.
Hình phạt được hoãn lại, bốn người áo xanh chắp tay chào khách, nói:
Chúng tôi xin mừng viễn khách, và mời viễn khách tạm ngồi nơi nệm cỏ nghỉ, vì trong nhà bị đốt lửa nóng không được vào.
Xin cứ an lòng, anh em chúng tôi thấy lửa nóng càng thích.
Ni-ma-Tinh miệng nói chân đi thẳng vào trong ngôi nhà đá nóng bỏng ấy, ngồi chễm trệ trên chiếc ghế đá tròn, nhìn ra các bạn đồng hành cười sằng sặc, tỏ ý thích chí lắm:
Tiêu-tương-Tử không chịu được cũng hô vài tiếng rồi bước thẳng vào nhà, Doãn-y-khắc-Tây cười nói:
- Xin các anh chớ lo đến tôi, đối với lửa tôi đã từng tự thiêu nhiều lần rồi.
Kim-luân Pháp-Vương thấy vậy sợ mất uy quyền quốc sư, nên cũng bay tọt vào.
Còn Mã-quang-Tổ lểnh mểnh vừa đến nơi, hơi nóng tạt ra cháy tóc khét nghẹt, đành ôm đầu lui ra, nói vài câu đỡ gượng:
- Ôi Mã-quang-Tồ này xin chịu thua quí huynh.
Nói xong, chàng tập tễnh trèo lên cây bẻ cành đậy lửa.
Dương-Qua vừa bước vào chợt nghe tiếng trêu cợt:
- Nếu quí khách có sợ nóng xin mời lên cây.
Nàng vừa nói vừa cười trong trẻo khiến cho Dương-Qua lính quýnh.
Từ lúc Dương-Qua đập tắt lửa, lòng thiếu nữ áo xanh đã thấy cảm mến Dương-Qua. Vì chàng đã tỏ lòng lo sợ cho nàng. Bây giờ thâm tâm nàng cũng sợ Dương-Qua bị nóng. Chẳng ngờ Dương-Qua không tỏ vẻ gì sợ sệt, bình tĩnh bước vào nhà, khiến nàng quá cảm phục.
Một người thanh niên trong bọn áo xanh nói:
- Chính tôi không dám đường đột hỏi quí tinh cao danh!
Doãn-y-khắc-Tây chưa nghe hết câu đã hấp tấp nói:
- Tôi chính là người Hồ nước Ba-Tư, tên là Doãn-y-khắc-Tây. Ngoài việc ăn chơi hàng ngày, chỉ còn biết nghề buôn ngọc quí. Còn về phần võ nghệ tôi không dám sánh với anh em tôi.
Người áo xanh đáp:
- Chúng tôi ở nơi hang sâu núi thẳm, hầu như xa cách hẳn với nhân thế, nên không có lúc nào được tiếp đón với bạn hữu đông vui như thế này. Chẳng hay quí khách đến đây có điều chỉ dạy bảo.
Doãn-y-khắc-Tây cười nói:
- Anh em chúng tôi đến đây với mục đích tìm lão Ngoan-Đồng Châu-bá-Thông, chẳng ngờ gặp nhiều chuyện kỳ quái thế này.
Hai người chủ khách say sưa chuyện trò, thì khí nóng trong tòa nhà mỗi lúc một tăng. Tiêu-tương-Tử, Ni-ma-Tinh, vì phải vận hết sức nội công để chống lại áp độ của nhiệt khí, đến nổi phải quỳ gối xuống.
Doãn-y-khắc-Tây lúc nầy thở hổn hển, miệng khô như đốt, đôi mắt nhắm lại. Trong lúc đó bọn áo xanh vẫn tươi cười vui vẻ như ngồi trong gió mát, và tiếp tục hỏi Doãn-y-khắc-Tây:
- Thế thì quý vị là kẻ cùng môn phái với lão sao?
Doãn-y-khắc-Tây mệt quá cố sức đáp lời nhưng không đáp được hết câu:
- Chúng... tôi... với...!
Tuy Kim-luân Pháp-Vương cố giữ được vẻ đĩnh đạc, nhưng thật ra đã quá sức mệt. Ông ta thầm trách Ni-ma-Tinh tài nghệ tu luyện chưa được đến bao nhiêu, mà phách lối đưa cả bọn vào thế khó xử.
Pháp-Vương bực quá đưa mắt nhìn Ni-ma-Tinh, té ra Ni-ma-Tinh đôi mắt đã nhắm nghiền, miệng thở phì phào.
Riêng Dương-Qua vì trước đây, đã nằm liền mấy năm trên Hàn-ngọc-Sàn, nên đã có phép điều tiết nóng lạnh trong khi gặp nóng đến mức nào, chàng cũng chẳng cần phải vận nội công, cho nên cả bọn đều mệt nhừ mà Dương-Qua vẫn như thường.
Người áo xanh nói:
- Lão ta quá lắm, đã đến tận đây phá phách.
Dương-Qua nói:
- Có phá phách gì nhiều không? Tôi nghe hình như tôn chủ đây trách ông ta đốt sách, đập bể cái gì đó?
Ngay từ lúc đầu thấy sự bình thản của Dương-Qua trong nóng bức, ai nấy đều khen ngợi, giờ lại thấy chàng nói rất thản nhiên âm thanh không hề bị xao động tí nào, nên mọi người càng khâm phục hơn.
Người áo xanh nói tiếp:
- Mấy hôm trước, lão ta đến đây giả điên giả cuồng, trêu chọc đủ điều, rồi lại đá bể nổi thuốc linh đơn của thầy chúng tôi.
Thiếu nữ áo xanh cũng xen vào:
- Không phải như thế thôi đâu! Lão nghịch đó còn đạp rụi mất hai cây lan thảo thần nữa chứ!
Dương-Qua lắc đầu có vẻ than phiền nói:
- Cái lão Ngoan-Đồng đó quấy phá! Lan thảo thần phải trồng mất đến bốn trăm năm mà lão nỡ đưa chân ra đạp rụi như thế!
Đoạn Dương-Qua nói sang chuyện khác:
- à! Thật chúng tôi quá sơ suất. Vào nhà người mà quên hỏi danh tánh chủ nhân. Vậy tiện đây xin cho biết đại danh của quí nương.
Thiếu nữ đôi má ửng hồng, ngập ngượng muốn đáp, nhưng một người áo xanh rước lời:
- Điều ấy rất khó lòng, vì chúng tôi chưa được thầy cho phép xưng danh. Mong quí khách tha thứ cho!
Dương-Qua ngẫm nghĩ:
- Bọn nầy là ai mà cố ý ẩn dật, không muốn xưng tên cho ai biết. Nếu như thế cũng không có gì lạ lắm.
Chàng liền hỏi:
- Vậy bây giờ thân phận của Châu-bá-Thông ra sao rồi?
Câu chuyện đang hỏi han, lễ nghĩa thì Doãn-y-khắc-Tây lại hét lên, rồi hổn hển chạy ra ngoài, vì hắn không thể chịu nổi sức nóng quá cao trong nhà đá ấy nữa.
Người áo xanh thứ ba vẫn tự nhiên, như không lưu ý đến tiếng hét của Khắc-Tây, chỉ theo dõi lời nói của Dương-Qua, rồi đáp:
- Châu-bá-Thông còn phải chịu thêm một tội lớn nữa là đã đốt nhiều sách quý trong động, làm cho sư phụ và các huynh trưởng chúng tôi quá giận đuổi theo đánh, nhưng lão đã cao bay xa chạy, trốn mất rồi, nên sư-phụ chúng tôi tức giận lão lắm!
Người áo xanh nói chưa dứt lời, đã nghe tiếng hét của Tiêu-tương-Tử. Tiêu-tương-Tử không chịu nổi nên phải chạy ra ngoài.
Dương-Qua tiếp lời người áo xanh nói:
- Châu-bá-Thông võ nghệ siêu quần, hành động cổ quái, khó mà bắt lão lắm!
Bọn áo xanh rất thích nói chuyện với Dương-Qua, vì chàng với bọn áo xanh như cùng một lứa tuổi, và chàng cũng chịu nóng như họ.
Trong lúc Dương-Qua và bọn áo xanh đang nói chuyện về Châu-bá-Thông, dùng tài thuật kỳ quái chống lại với động-chúa, thì Kim-luân Pháp-Vương bỗng gọi lớn:
- Dương tráng-sĩ mau mau ra khỏi nơi nầy. Nhiệt độ nầy sẽ làm hại đến sức khỏe không ít. Chớ nên ở lại nữa.
Nói xong, Pháp-Vương thu mình lại như cánh cung, vọt ra ngoài như một vệt khói.
Thiếu nữ thấy đồng bọn Dương-Qua lần lần thoát ra ngoài hết, nàng hơi e thẹn nói:
- Thưa tôn khách, các bạn của tôn khách đã ra ngoài hết cả. Xin tôn khách chớ lưu lại nơi nầy, hãy ra bóng mát nghỉ ngơi cho đỡ mệt.
Dương-Qua quá bối rối, cúi đầu đáp:
- Đa tạ cô nương.
Dương-Qua quay sang phía Ni-ma-Tinh gọi:
- Ni-ma-Tinh! Thôi chúng mình đi ra.
Ni-ma-Tinh từ lâu vẫn nhắm nghiền đôi mắt, tham thiền nhập định không còn nghe ai nói chi nữa. Dương-Qua thấy vậy bước lại vỗ vào vai, thì lão lùi đã ngã ngửa ra như pho tượng gỗ. Chàng thất kinh vội ôm xốc Ni-ma-Tinh lên.
Người áo xanh nói:
- Sức nóng đã làm ông lão choáng váng, hôn mê rồi. Vậy tôn khách hãy mang ra nơi có không khí mát mẻ, hòa diệu là lão tỉnh lại.
Dương-Qua bồng Ni-ma-Tinh, vận sức nhảy vọt ra khỏi tòa nhà quái dị đó.
Cả bọn áo xanh trông thấy đều tỏ lời thán phục Dương-Qua không ngớt.
Một người áo xanh nói:
- Bốn anh em mình ở đây chưa gặp người nào võ công như người nầy.
Một người áo xanh nữa nói tiếp:
- Nội công của Dương-Qua chắc không kém gì nội công của sư-mẫu chúng ta.
Dương-Qua nghe nói sư mẫu, liền hỏi lại:
- Sư-mẫu của chư vị là ai thế?
Ba người áo xanh thấy bọn mình lỡ lời nhắc đến chuyện kín, trố mắt nhìn nhau sợ hãi.
Tiếp đó cả bọn cố tìm cách nói sang chuyện khác để cho Dương-Qua quên mất hai tiếng sư mẫu. Một người áo xanh cung kính nói:
- Chắc quý khách từ phương xa đến chưa dùng bữa, vậy tiện đây mới chư vị sang phòng bên này dùng cơm thường với anh em chúng tôi.
Mã-quang-Tổ đang đói, nghe nói đến ăn uống lòng mừng khấp khởi, đôi mắt sáng lên.
- Quý chủ có lòng tốt đối với chúng tôi quá!
Ni-ma-Tinh ra ngoài gió mát tỉnh lại, bụng cảm thấy nhột nhạt, xốn xang như kiến bò. Chợt nghe bọn áo xanh mời ăn, vội đứng dậy tay đấm vào lưng thụi thụi, chân bước theo hướng chỉ của chủ nhân.
Nơi ăn cũng là một tòa nhà bằng đá, bên trong bày biện rất sơ sài. Trên bàn ăn toàn là một màu xanh, gồm đủ các thứ rau không có món xào, món mặn nào lộn vào.
-
Chương 45 - Thiếu nữ áo xanh
Chương 45
Thiếu nữ áo xanh
Mã-quang-Tổ vào mâm cơm không có thịt, cá chi cả, mặt này buồn xo.
Người áo xanh thứ nhất nói:
- Chúng tôi ở đây chỉ ăn chay trường, nên không có trữ sẵn thịt, cá mong chư vị lượng tình.
Mã-quang-Tổ lẩm bẩm nói:
- Sợ lửa hay sao mà phải ăn rau sống như vậy? Nếu sợ lửa thì việc gì ban nãy lại đốt lửa dữ như thế.
Người áo xanh thứ hai mỉm cười nói nhỏ:
- Sở dĩ đốt lửa như vậy, chính là một cực hình để sư phụ phạt chúng tôi.
Người áo xanh thứ ba lễ phép mời:
- Xin chư vị dùng bữa!
Miệng nói tay cầm một chiếc bình rót vào chén mỗi vị khách. Mã-quang-Tổ tưởng rượu nhưng không thấy hơi rượu, lại càng chán ngán nghĩ bụng:
- Đã không cá, thịt bây giờ rượu cũng không hơi, chủ nhân gì mà hà tiện như vậy.
Người áo xanh thứ nhất thấy vẻ mặt của Mã-quang-Tổ lộ vẻ bất bình, nên nhỏ nhẹ hỏi:
- Thưa chư vị! ở đây chỉ dùng có thanh thủy, chớ tuyệt đối không được dùng rượu. Đó là phép tắc của tiên tổ từ mấy trăm năm về trước. Xin quý khách cảm phiền cho.
Thiếu nữ áo xanh nói tiếp:
- Anh em chúng tôi ở đây không bao giờ được nói đến tiếng rượu, chứ đừng nói đến việc uống rượu nữa. Vì rượu sẽ làm cho tính tình con người bấn loạn, sanh ra cuồng nhiệt không tốt.
Bọn Kim-luân Pháp-Vương đều là những tay giang hồ, phóng đãng đã quen, nay thấy bọn áo xanh tuổi còn măng trẻ, mà miệng ít nở những nụ cười tự do, thái độ quá câu nệ, lễ độ quá cổ kính, nên ông ta cũng không dám nói nhiều.
Bữa cơm qua một lúc yên lặng. Món ăn toàn là hoa quả, rau dưa không được ngon miệng, nên cả bọn ăn qua loa cho rồi. Riêng Mã-quang-Tổ tuy chê thiếu thịt, rượu nhưng ăn hơn hai chục chén mà vẫn nghe chưa thấm vào đâu.
Ăn cơm xong, Mã-quang-Tổ ghé mồm nói nhỏ với đồng bọn:
- Chúng ta nên thừa lúc trời tối mát mẻ trở về nhà!
Nhưng năm người kia không đồng ý, vì người nào cũng muốn lưu lại để xem xét những bí mật trong động nầy.
Doãn-y-khắc-Tây nói:
- Mã-huynh ơi, lẽ nào chúng ta lại bỏ về thình lình quá như vầy đâu có được. Cần phải yết kiến động chúa đã.
Mã-quang-Tổ cằn nhằn:
Ăn không được bao nhiêu cơm, còn đói quá, có thịt rượu gì nữa mà ở nán lại.
Tiêu-tương-Tử nghiêm nghị nói với Quang-Tổ:
- Sao anh nhỏ mọn quá vậy? Anh không sợ người ta cười hay sao?
Quang-Tổ vì sợ cái "thây ma" của Tiêu-tương-Tử nên làm thinh.
Đêm khuya mọi người chưa gặp được chúa động, tất cả ra nằm trên phiến đá lớn lạnh buốt cả lưng. Nhìn cảnh đìu hiu cô tịch của núi rừng, ai cũng có ý lạ chẳng hiểu bọn nầy là ai, tuổi còn trẻ mà đã xa lánh nhân thế!
Ni-ma-Tinh cất tiếng hỏi:
- Kim-Luân tiên sinh! Ngài là người hiểu rộng biết xa, bây giờ ngài dạy chúng tôi thế nào, để đối phó với chủ bang. Theo ngài thì chúa động là người hiền hay ác? Ngày mai chúng ta gặp chúa động phải đối đãi thế nào? Thân thiện hay chống đối.
Kim-luân Pháp-Vương nói:
- Chưa thấy mặt người ta mà biết thế nào được? Ngày mai chúng mình sẽ tùy cơ ứng biến!
Doãn-y-khắc-Tây nói nhỏ:
- Bốn đứa học trò của hắn, mà đã giỏi giang như vậy, huống hồ là sư phụ. Vậy ngày mai chúng mình phải hết sức thận trọng đừng để mắc mưu bọn nầy, bỏ mạng nơi đây thì thật là uổng đời. Doãn-y-khắc-Tây bề ngoài tuy có vẻ sợ sệt, nhưng trong thâm tâm có nhiều mưu mẹo, rất chín chắn.
Mã-quang-Tổ thì đang mải tưởng tượng đến thịt, rượu, không muốn nói gì.
Dương-Qua nhìn nét mặt buồn rười rượi của Quang-Tổ, vỗ vai nói đùa:
- Này Mã-huynh! Ngày mai nên trổ hết tài lực đối phó với bọn chúng, chứ không để bọn chúng bắt nhốt chúng ta vào cho ăn lối nầy thì nguy lắm đấy!
Mã-quang-Tổ nghe nói đến chuyện bắt nhốt cho ăn rau muối thì thất kinh, nói cuống cuồng:
- Dạ dạ tôi nghe lời Dương-huynh!
Đêm đã khuya, nhưng mọi người ái ngại lo nghĩ khó ngủ được. Riêng có Mã-quang-Tổ vô tư, chỉ chốc lát đã ngáy như sấm rền.
Dương-Qua rón rén ngồi dậy, lặng lẽ đi ra ngoài vườn, đứng ngắm trời đất. Đêm khuya canh vắng, bốn bề mờ mịt, lá hoa trên cây tỏa ra một mùi thơm ngát, dưới vòm trời đầy sao.
Chàng mải mê, lững thững ngắm cảnh, nhìn theo những cánh hoa trắng phau bay tung theo luồng gió lạnh của đêm khuya, như cơn mưa nặng hạt, chợt thấy xa xa phía trước có một bóng người lả lướt đi tới.
Dương-Qua liền tiến đến thì thấy thiếu nữ áo xanh, đang hái hoa miệng hát nho nhỏ.
Gặp Dương-Qua thiếu nữ bẽn lẽn cúi chào:
- Quý khách không ngủ được ư? Có việc gì mà quí khách lo lắng?
Nàng nói xong có vẻ luống cuống bứt vội hai búp hoa đưa cho Dương-Qua để đỡ ngượng.
Dương-Qua đưa tay nâng hoa, lòng ngây ngất. Chàng bâng khuâng nói:
- Hoa ăn chắc ngon lắm phải không nương nương?
Nàng thẹn thùng nói trống:
- Dạ, ăn được.
Rồi nàng lặng lẽ, đưa mấy ngón tay búp măng uyển chuyển bẻ từng cánh hoa, đưa lên ăn. Mùi hoa làm dịu cả không gian.
Dương-Qua cũng bắt chước nàng đưa hoa lên miệng ăn ngon lành.
Mới đầu chàng nhai thì nghe ngọt dịu, sau dần nuốt vào thấy đắng đắng, chát chát. Nhưng trước mặt mỹ nhân, dầu có đắng chát thế nào cũng cố nuốt đi cho xong. Chàng chăm chú nhìn thì thấy đây là một thứ hoa rất lạ, cành đều có hoa nhọn hoắc, lá to hơn lá hồng, còn hoa thì tuyệt đẹp, đẹp hơn cả hoa hồng là chúa của loài hoa nữa.
Dương-Qua liền hỏi:
- Nương nương! Hoa nầy là hoa gì thế? Tôi chưa từng thấy bao giờ?
Cô gái mỉm cười đáp:
- Thưa quý khách đây là hoa "Tình hoa". Chốn nhân gian rất hiếm. Chẳng hay quí khách có ưa mùi vị nó không?
Dương-Qua đáp:
- Mới ăn thì ngọt, sau lại đắng.
Nói rồi chàng đưa tay ngắt một hoa thấy cây có gai, chàng hái cẩn thận. Nào ngờ không tránh khỏi, vì dưới cánh hoa lại còn có gai nhọn nữa. Chàng mới để tay vào thì một mũi nhọn đã đâm vào tay chàng rớm máu.
Thiếu nữ áo xanh nói:
- Tôi nghe thầy tôi thường nói: "Thứ "Tình hoa" này rất ưa máu người. Chắc mấy giọt máu của quí khách sẽ làm cho hoa nở thêm diễm kiều. Còn động này tục gọi là động "Tuyệt tình".
Dương-Qua cười nói:
- Là động "Tuyệt tình" mà ở đây lại có nhiều bông "tình hoa" kể cũng kỳ lạ, phải không nương nương!
Hai người mải mê trò chuyện, bước thong dong trên nệm cỏ vai sát vai lúc nào không hay.
Dương-Qua say sưa nói:
- Trong chốn u tịch này lại có cái động gọi là "Tuyệt tình cốc" nghe thoát tục quá nhỉ!
Thiếu nữ lắc đầu nói:
- Thưa tôn khách, tôi không hiểu tại sao lại gọi như thế. Chỉ có thầy tôi mới rõ lai lịch tên ấy.
Vườn hoa càng khuya càng tiết hương thơm ngào ngạt, cả bầu trời lung linh,
thỉnh thoảng có cơn gió thổi qua, những đám cây xạc xào như những tiếng thì
thầm của đôi trai gái đang sánh vai bước nhẹ trong chốn"tuyệt tình".
Dương Qua miệng ko ngớt chuyện trò, nhưng đầu óc vẫn quay cuồng trong
mộng ảo.
-Đáng yêu lắm!Đáng yêu biết là bao! Nếu ta có ng yêu bên cạnh, cùng đi
với nhau tay trong tay, ta sẽ thề cho đến trăm năm đầu bạc ko rời nàng nữa.
Bỗng nhiên chàng cảm thấy dau nhói và buốt tới xương sống và bị cành gai
vừa chích. Chàng khẽ kêu:
-ối chao!
Rồi đưa tay lên miệng, cắn chặt lấy vết gai đâm.
Thiếu nữ áo xanh vẫn điềm nhiên cười duyên dáng nói:
-Tại tôn khách mơ tới ý trung nhân.
Dương Qua thấy nàng đoán đúng tâm sự của chàng, hai tai nóng bừng lên,
chàng nói:
-Làm sao cô nương biết?
Thiếu nữ phá lên cười sang sảng nói:
-Tôn khách ko biết đó? Phàn đã bị gai của "Tình hoa" châm vào thì tuyệt
đối cấm tương tư trong ba ngày. Nếu trong vòng ba ngày ấy mà nghĩ đến tình
nhân thì tay sẽ bị đau buốt ko chịu nỗi.
Dương Qua nghe nói lạ liền hỏi:
-Lại có thứ gai kỳ dị đến thế ư?
Thiếu nữ đáp:
-Thưa tôn khasck! Đúng như vậy! Thầy tôi có dạy"Tình Hoa" có gai độc thế!
Mới ăn thì ngọt dịu, nhưng sau đắng cay, toàn thân như bị gai châm đau buốt.
Dù với tình nào, dầu có đề phòng đến đâu đi nữa cũng khó lòng tránh khỏi
thương đau. Bởi vậy nên thứ hoa này mới đặt tên "tình hoa"
Dương Qua nói:
-Như thế tức tôi ko được nghĩ đến ng yêu của tôi trong ba ngày hay sao?
Khổ lòng tôi lắm! Tôi chịu thôi!..
Chàng nói một hơi dài, trong lúc thiếu nữ nhìn chàng với đôi mắt đen lay
láy. Mặt chàng ngơ ngác như ng mê mới tỉnh, hổ thẹn vì đã lỡ lời bày tỏ tâm
hồn mình trước ng đẹp. Thiếu nữ vẫn tự nhiên kể tiếp:
-Thầy tôi bảo gai của tình hoa độc lắm! Ai bị nó châm phải nén lòng đừng
nghĩ đến tình yêu, để cho tình thần được vô tư thì ko sao, bằng để dục vọng
nổi lên, là chất độc sẽ biến theo chất máu làm cho toàn thân nhức nhối. Dương
Qua nửa tin nửa ngờ. Phút chốc thái dương chói loà ánh bình minh rực rỡ.
Chàng nhìn lại cây tình hoa, thấy hoa đã kết thành quả, lòng rất ngạc nhiên.
Tại sao mới thấy trong chốc lát đã trở thành quả? Còn hoa thì đẹp thế kia,
bây giờ quả nó xấu xí như vậy. Màu xanh, màu đỏ, màu đen lẫn lộn, lại có lông
tua tủa. Dương Qua nói:
-Sao hoa đẹp đến thế kia mà quả xấu như thế? Chắc ăn ko được hả cô nương?
Thiếu nữ đáp:
-Thưa tôn khách, quả ko ăn được, vì nó vừa chua, vừa chát vừa hôi.
Dương Qua cười nói:
-Không có thứ quả nào ăn được hả cô nương?
Thiếu nữ áo xanh đáp:
-Cũng có quả rất ngọt, rất bùi, nhưng rất khó chọn, bở chúng ta chỉ trông
thấy bề ngoài của quả, nên ko biết được. Có nhiều quả ngoài đẹp nhưng ăn lại
đắng. Có quả xấu xí mà ăn lại ngon ngọt.
Dương Qua thầm nghĩ:
Loài hoa mà cũng hàm ý của đời! Trời ơi! Tình hoa mà cũng hàm chứa đủ mùi
như vậy! Mùi vị ái tình ban đầu thì trước ngọt sau cay, như hai kẻ yêu nhau
rồi khi xa cách cũng đau khổ biết chừng nào. Trời ơi! Ta cũng sẽ như tình
hoa? Hỡi những ng yêu của ta! Tương lai rồi đây sẽ ra sao?
Chàng thầm than thở như vậy, lại càng tưởng nhớ đến Tiểu long Nữ. Đột
nhiên ngón tay chàng nổi lên đau buốt đến xương, làm cho cánh tay như rồi rã.
Bây giờ chàng mới tin lời thiếu nữ áo xanh nói là đúng. Thiếu nữ nhìn thấy
mặt Dương Qua cảm thấy thương xót, nhoẻn một nụ cười an ủi! ánh nắng ban mai
chiếu lên gò má nàng đỏ hây hây. Đôi làn mi thanh nhã làm sao! Bao nhiêu nét
thanh nhã ấy cũng đủ gợi cho nàng một nhan sắc lộng lẫy. Dương Qua ngây ngất
nói:
-Ngày xưa vua U Vương đời Chu mất nước chỉ để đổi lấy một nụ cười của Bao
Tự. Nay được thấy nụ cười của cô nương thì bị đau khổ là phải.
Nàng nhìn chàn cố nhịn cười, nhưng tiếng cười vẫn thốt ra trên đôi môi đỏ
mọng như gieo vào cảnh núi rừng một tiếng ngọc thanh tao. Từ trước, Dương Qua
tưởng nàng lạnh nhạt với tình, cho nên chàng rất e dè. Nay thấy nàng cười nói
thân mật quá, khiến tâm tình ko ngăn cách nữa. Chàng mừng rỡ tiếp lời: -Người
đời cho nụ cười nghiêng nước nghiêng thành. Nhưng tôi cho rằng nụ cười của
nương nương còn khó kiếm hơn.
Thiếu nữ áo xanh nghe nói quá thẹn thùng. Nét mặt ngây thơ đôi mắt lay
láy như hai viên ngọc quý, nàng mỉm cười nói:
-Tôi khách nói nụ cười nghiêng nước nghiên thành là thế nào?
Dương Qua vui vẻ nói:
-Đó là nụ cười mà có thể làm cho ng say mê đắm đuối, quên cả sự nghiệp to
tát, chỉ mong được theo nuông chiều mỹ nhân.
Thiếu nữ nghe Dương Qua nói vui vẻ quá nên cười khúc khich mãi. Dương Qua
được trổ tài du thuyết.
-Cũng như tôi muốn được mỹ nhân thân mật trao đổi nụ cười tươi tắn thì
cũng hải quên mình chịu đau đớn vì thứ gai "tình hoa"
Thiếu nữ áo xanh thỏ thẻ:
-Thưa tôn khách, tôi đâu phải là một mỹ nhân, vì chưa một ai ở đây khen
tôi đẹp. Vậy tôi xin tôn khách đừng nhọc lòng nghĩ đến tiếng cười của tôi.
Dương Qua thở dài nói:
-Không hiểu ai đã đặt tên chốn này là động "Tuyệt tình".Theo ý tôi muốn
đặt tên khác mới phải.
Thiếu nữ nói: - Tôn khách muốn gọi động này là gì?
Dương Qua đáp: - Nên gọi là động "mù".
Thiếu nữ nhìn Dương Qua hỏi lớn: -Sao vậy?
Dương Qua bình tỉnh nói:
-Tại vì kẻ nào ko biết Tây thi đẹp đều coi là mù.. Cũng như ở đây ko ai
khen nương nương là đẹp, thì bọn ng ở đây đều mù mắt hết cả.
Thiếu nữ áo xanh cười dòn. Dung mạo nàng nếu đem so với Tiểu long Nữ thì
chưa bằng. So với vẻ ẻo lả của Trình Anh thì còn thua sút, so với kẻ sắc nước
hương trời như Lục vô Song thì chưa phải là đối thủ. Nhưng thiếu nữ áo xanh
có điểm đặc sắc là vẻ đẹp thoát tục với dáng điệu thanh lịch siêu phàm, nực
mùi tiên phong đạo cốt. Nàng lớn lên ở đây chưa hề được ai ca tụng đến nhan
sắc nàng mà chỉ có lời răn dạy phải tiết dục gần như kẻ tu hành. Cho nên
những ng sống chung với nàng ở đây cũng đều theo một giáo lý như những kẻ nhà
tu trong một tu viện. Họ chỉ nhìn nhau với vẻ tự nhiên, ko hề biết rung cảm.
Có đôi lúc lòng họ trở về trần tục nhưng họ cũng chẳng hé môi. Nay gặp Dương
Qua ca tụng đủ điều làm cho nàng thấy hứng thú quá! Con ng của Dương Qua vốn
là con ng linh nghiệm chốn nhân gian, gần gũi với tình đời, cho nên những lời
ca tụng của chàng rất thần tình. Chàng lại có một dáng điệu của một thiếu
niên phong nhã, khiến cho thiếu nữ áo xanh cảm thấy trong lòng hoan hỉ lạ
thường.
Dương Qua thấy nét mặt đoan trang nghiêm chỉnh của nàng, cũng muốn tìm
hiểu tâ lý, vì đâu đã xa cách với nhân thế!
Thiếu nữ nghiêm trang nói:
-Tôi chỉ sợ tôn khách mắt ko được sáng, trước ng xấu xí tưởng là mỷ nhân.
Dương Qua nói: - Tôi tin chắc ko lầm! Rồi đây cô nương sẽ thấy! Động này
tuy yên tĩnh, nhưng khi có nụ cười cô nương, thì trước sau cũng phải nổi
phong ba bão táp, cảnh yên lành ko thể tồn tại được nữa.
Đôi mắt ngọc tròn xoe, thiếu nữ tỏ vẻ lạnh lùng hỏi:
-Tại sao như vậy hả tôn khách?
Dương Qua bình tỉnh giảng giải:
-Xưa nay sắc đẹp đã làm nghiêng thành đổ nước, thì sắc đẹp của cô nương
cũng phải làm nghiêng ngửa động này chứ sao?
Thiếu nữ cười ngặt nghẹo nói:
-Xin đa tạ tôn khách đã quá khen! Tôi chẳng dám nghĩ đến đại hoạ như thế.
Dương Qua say sưa nhìn những nét uyển chuyển trên thân nàng! Chao ôi! sao
mà kiều diễm như thế. Chàng tưởng tượng kẻ nào chiếm được tấm thân ngà ngọc
ấy thì hạnh phúc biết chừng nào? Lòng chàng rào rạt tình yêu dâng lên!Tay
chàng bỗng đau buốt tận xương khiến chàng buột mồm kêu:
-ối chao! Đau quá.
Nghe tiếng kêu đau, nàng tỏ ý hờn giận nói:
-Tôn khách hình như ko muốn nói chuyện với tôi nữa là phải? Tôn khách
đang nghĩ mãi đến tâm tình cùng kẻ khác kia mà!
Dương Qua tỏ lời thanh minh:
-Oan uổng cho tôi quá cô nương ơi! Cái cơn đau vừa rồi chính là tại cô
nương đấy!
Thiếu nữ mặt ửng hồng, sung sướng chạy vút đi.
Dương Qua đứng một mình bâng khuâng ngơ ngác, chàng cảm thấy hối hận tự
trách:
Sao ta lại quên hẳn lời hứa với Tiểu long Nữ! à! thế ta phải cương quyết
xua đuổi sắc đẹp con bé này ra khỏi đầu óc ta mới được.
Kể ra Dương Qua ko phải bạc tình, lãnh đạm với ng yêu. Nhưng bẩm sinh
chàng đã mang sẵn dòng máu kinh bạt giang hồ của cha chàng, và di lưu tâm
tính đa tình, đa cảm của mẹ chàng, làm sao chàng có thể như Quách Tỉnh chất
phác si mê Hoàng Dung. Chàng là con người thích đi vào những cuộc phiêu lưu tình ái, để thoả mản lòng rung cảm và vơi bớt nỗi đau khổ của đời chàng.
Thiếu nữ áo xanh chạy vài chục bước bỗng dừng chân đứng tựa vào một tình
hoa, nét mặt ngây ngất nhìn lại phía Dương Qua nói:
-Tôn khách có muốn ta ko?
Dương Qua ko ngờ mình được dịp may như vậy nên vội vã chạy đến bên nàng
nói như van lơn:
-Xin cô nương tha cho! Tôi đã khổ lắm rồi!
Thiếu nữ ko hiểu gì, nói tiếp:
-Tôi xin một điều, tôn khách phải hứa ko được gọi tên tôi trước mọi ng,
và ko lọ tên tôi cho một ng thứ ba nào biết.
Dương Qua thấy hay hay gật đầu lia lịa nói:
-Tôi xin giữ theo lời dawajn của cô nương.
Thiếu nữ áo xanh nói:
-Cha tôi tức là sư phụ tôi, họ Công Tôn...
Rồi nàng kể loanh quanh mãi mà chưa nói đến tên nàng, Dương Qua sốt ruột
hỏi vặn:
-Vậy tên của nương nương là gì?
Thiếu nữ đáp:
-Tên tôi là Lục Ngạc.
Dương Qua thẩn thờ, bấc giác thầm khen:
-Tên với ng cùng đẹp ngang nhau.
Công tôn Lục Ngạc đã xưng danh nàng cho Dương Qua biết nên nàng e dè dặn
Dương Qua:
-Tôn khách đừng quên lời tôi dặn. Nếu cha tôi rõ được, thì tôi phải chịu
những hình phạt đớn đau nữa.
Dương Qua nói:
Tôi hiểu lắm! Công tôn Lục Ngạc ơi, tôi chưa từng thấy trên thế gian này
có ng nào như thân phụ của Lục Ngạc. Ai đã nỡ trừng phạt con gái thân yêu
bằng cách nướng sống trên lò lửa như thế.
Rồi mắt nàng bỗng dưng đẫm lệ ngập cả làn mi. Nàng thổn thức:
-Cha tôi xưa kia cũng nuông chiều tôi lắm. Nhưng từ ngày mẹ tôi mất, cha
tôi trở nên cực kỳ nghiêm khắc. Ko biết hôm nay cha tôi lấy vợ khác sẽ đối xử
với tôi như thế nào. Lòng tôi quả lo ngại sợ có những cực hình cay nghiệt hơn
nữa!
Dương Qua vỗ về an ủi:
Lục Nương đừng lo! Thân phụ lấy vợ sẽ vui lên mà nuông chiều Lục Nương
hơn trước chứ.
Nàng lắc đầu thở một hơi dài não ruột nói:
-Tôi thấy cha tôi còn hung dữ hơn khi chưa có vợ mới..
Dương Qua đã từng trãi cảnh côi cút, nên chàng rất thông cảm với ng bạn
gái bị đau khổ. Chàng muốn khơi thêm tâm sự với nàng:
- Tôi đoán chắc người mẹ mới của cô nương, không đẹp bằng một nửa vẻ đẹp của cô nương.
Nàng lắc đầu nói:
- Tôn khách lầm. Mẹ mới của tôi đẹp lắm! Và còn giỏi cả võ nghệ nữa. Hôm qua bắt được Châu-bá-Thông, nếu cha tôi và mẹ mới của tôi không mãi lo tranh tài cao thấp, thì chắc là Châu-bá-Thông không tài nào trốn thoát được.
Dương-Qua liền hỏi:
- Cuộc so tài ấy ai thắng?
Lục-Ngạc trả lời:
- Tất nhiên cha tôi phải thắng, nếu thua thì đời nào người ấy chịu làm mẹ mới của tôi được.
Ngưng một lát, nàng nói tiếp:
- Ngày mai là ngày lễ thành hôn của cha tôi với người đàn bà đẹp ấy, cho nên cha tôi muốn mời chư vị lưu lại để dự tiệc.
Hai người đang say mê đàm đạo thì mặt trời ngả sang trưa lúc nào không hay. Lục-Ngạc hoảng hốt nói:
- Xin tôn khách lui gót, để lỡ ai trông thấy về mách lại với cha tôi thì nguy hại lắm đấy!
Dương-Qua hiểu được tình cảnh đau khổ của nàng, lòng quá xót xa thương hại. Chàng đưa tay nắm chặt lấy tay nàng, như thầm hứa hẹn sẽ luôn luôn che chở.
Chưa vào đến cửa, Dương-Qua đã nghe tiếng Mã-quang-Tổ phàn nàn ngọt với đắng. Vào đến nơi chàng nhìn thấy trên bàn có bày mấy đĩa "Tình hoa". Người nào người nấy nét mặt buồn xo không muốn nói Dương-Qua niềm vui buồn lẫn lộn, chàng bước đến toàn đàm chuyện với Kim-luân Pháp-Vương. Đột nhiên, có người thanh niên áo xanh bước vào cung kính, nói:
- Thưa chư vị động chủ muốn gặp chư vị.
Bọn Kim-luân Pháp-Vương đương là những vị tôn-sư của một phái, đi đến đâu cũng được đón rước trọng hậu, ngay cả đến Hốt-tất-Liệt là một vị Vương-tử mà đối với họ cũng rất kính nể. Còn lão chúa động ở nơi thuận sơn nầy, sao lại vô lễ thế. Cả bọn tỏ vẻ hậm hực bảo nhau:
- Chúng mình cứ đến xem mặt mũi hắn, rồi cho hắn một bài học đích đáng là hơn.
Sáu người lần lượt theo chân người áo xanh. Đi được vài chục bước thấy một khu trúc mọc xanh um, ai nấy đều chăm chú nhìn. Lúc đi khỏi khúc rừng trúc lạ nghe phưởng phất mùi hương cả trăm hoa ở đâu tỏa đến làm cho tất cả lâng lâng như thấy tâm hồn mình thoát tục. Rồi tiếp đến mấy chục mẫu đất toàn là hoa thủy tiên hiện ra trước mắt. Mọi người đều ngơ ngác nhìn cảnh vật vô cùng ngoạn mục.
Kim-luân Pháp-Vương luôn miệng khen:
- Thật như cảnh tiên! Hoa thủy tiên mọc dưới nước như thế nầy chưa từng có!
Muốn đi đến phòng chủ động phải vượt qua mấy cây trầm hương quí, thả trên mặt nước những người đi qua được phải là tay khinh công siêu-phàm mới khỏi gãy.
Sáu người đến đó đều phải để khi cho thân mình nhẹ. Duy có Mã-quang-Tổ kém tài nên bị ngã nhào xuống nước làm cho từng cụm hoa thủy tiền ngã nát.
Qua khỏi hố thủy tiên thấy sừng sững một tòa nhà đá. Ngoài cổng có hai chú tiểu đồng, mỗi chú trong tay cầm cây phất trần.
Trông thấy khách, một chú vội vã chạy vào, còn một chú mở cổng đón khách.
Dương-Qua thầm nghĩ:
- Chẳng hiểu chúa động bận việc chi mà không ra đón tiếp?
Lòng chàng có ý không vui. Đột nhiên có một tia chớp xanh hiện đến như một luồng khói, và trước mặt mọi người hiện ra một ông lão hình dung cổ quái. Ông ta cũng mặc áo xanh, nhưng màu xanh hơi thâm đen, thân hình cao chừng một thước ba, râu lại dài hơn ba thước. Thân hình lùn tịt như thế lại thêm khuôn mặt rất kỳ dị.
Hai gò má nhô lên, đôi mắt xếch ngược.
Dương-Qua nghĩ bụng:
- Con gái ông ta dung nhan đẹp đến thế mà chúa động lại cổ quái như vậy sao?
Ông lão cúi đầu chào sáu vị khách, nói:
- Quý khách giáng lâm, thật muôn vàn hân hạnh! Xin mời quý khách vào nhà đàm đạo.
Ni-ma-Tinh khoan khoái gặp được người lùn như mình, nói lẩm bẩm:
- Thật hạnh ngộ!
Nói rồi sấn đến cầm tay ông lão bước vào.
Thực tình Ni-ma-Tinh muốn thử tài ông lão nên vận gân cốt nội công nắm tay ông lão thật mạnh. Nếu người thường bị Ni-ma-Tinh vận "tam kinh" nắm lấy, chắc tay sẽ bị nát nghiền, nhưng lão ta vẫn như không.
Ni-ma-Tinh lại quá vận thêm "tam kinh" cộng là "lục kinh" mà tay lão ta vẫn trơ trơ như gỗ đá. Ni-ma-Tinh quá tức vận thêm tam kinh" cộng là "cửu kinh" chỉ thấy mặt lão có ánh xanh thoáng qua rồi tay lão vung cao như thanh sắt.
Ni-ma-Tinh toát mồ hôi, nhưng sức lực chỉ còn có một kinh lực. Ma Tinh không dám vận công thêm vì sợ đối phương đánh trả lại thì sẽ hết lực, và bị thương tới lục phủ ngũ tạng.
Hắn vôi đổi thái độ, cười ha hả rút tay về trông rất hiền hậu.
Việc thử sức nầy, những người bên ngoài, tưởng như không ai hơn kém. Nhưng với Ni-ma-Tinh thì nghĩ khác. Hắn không biết lão đó có ý nhượng bộ hay không đủ khả năng phản công.
Vì vậy hắn suy tính:
- Xưa nay ta chỉ dùng đến công "tam kinh" rờ đến tay địch thủ thì biết được sức lực đối thủ thế nào rồi.
Nay tay của chúa động không có phản ứng rõ rệt, nên khó lòng phân biệt được tài nghệ cao hay thấp.
Kim-luân Pháp-Vương rất tinh ý, biết ngay Ni-ma-Tinh thất bại nên Pháp-Vương không tiến lên thử sức với lão già đó.
Mã-quang-Tổ lầm lì đi sau đang tức bực, vì không được uống rượu, ăn thịt, chợt thấy râu chúa động kéo lê thê dưới đất, hắn rình rình bước tới dậm lên một cái.
Lão già vẫn dịu dàng quay lại nói:
- Xin quý khách lưu ý.
Mã-quang-Tổ giả vờ không biết, hỏi:
- Ông bảo sao?
Ông lão làm thinh lắc đầu một cái, sợi râu ở dưới chân Mã-quang-Tổ bị giật mạnh khiến Quang-Tổ té lộn ngược ra sau.
Dương-Qua thấy Mã-quang-Tổ bị té ngược liền tung ra một chưởng đỡ vào lưng Quang-Tổ. Nếu Dương-Qua không đỡ kịp thì Quang-Tổ đã ngã xuống vỡ sọ rồi!
Lão già vẫn điềm nhiên như không có việc gì xảy ra, hướng vào trong nói lớn:
- Quý khách đã đến, kính mời động chúa ra tiếp khách.
Dương-Qua lấy làm lạ thầm nghĩ:
- Ta đã tưởng lầm rồi! Lão lùn nầy không phải là chúa động.
Tiếng mời vừa dứt, từ bên trong hơn hai mươi nam nữ áo xanh kéo ra đứng sắp thành hàng hai. Chỉ phút chốc sau bình phong rung động, một người oai nghi bước ra vui vẻ nói:
- Mời quý vịi an tọa.
Dương-Qua trông lên, thấy chúa động trạc độ bốn mươi tuổi, mặt hào hoa tuấn nhã. Chàng thầm nói:
- Hai mươi năm về trước với dong mạo ấy người nầy đã làm tan nát bao nhiêu con tim của thiếu nữ. Tuy bây giờ tuổi cao tác lớn song nét hào hoa vẫn chưa phai.
Chúa động ngó xuống! mười cặp nam nữ áo xanh, người nào việc ấy dâng trà lên mời khách.
Chúa động cũng mặc áo xanh, nhưng màu xanh loang loáng làm cho mắt người trông vào phải bị lòa đi.
Mã-quang-Tổ nhìn chén trà, thấy không có hơi nóng bốc lên liền đưa tay sờ vào chén. Nước lạnh như băng! Trên mặt chén nổi lều phều vài bông trà. Hắn buột miệng nói:
- Thưa chủ nhân! Thịt không ăn, rượu không uống, lại thêm trà nguội, như thế tài nào chủ nhân nét mặt không đượm màu bệnh khí?
Chúa động điềm nhiên nói:
- Trà nầy uống không cần đến lửa.
Mã-quang-Tổ cười, hỏi:
- Vậy trà nầy là nước trường sinh à?
Chúa động đáp:
- Tổ tông tôi đến đây từ đời Đường-huyền-Tôn tính đến nay đã mấy trăn năm, lề lối đã thành tục lệ con cháu không dám bỏ.
Kim-luân Pháp-Vương đứng lên, nói:
- Thưa chủ nhân. Đến bây giờ chúng tôi mới được biết thể phủ thiên cư vào đây đã nhiều lời. Nhưng phong thái vẫn như xưa, thật là thế trạch miên trường.
Chúa động nói:
- Đa tạ quý khách! Chúng tôi đâu dám nghĩ thế!
Tiêu-tương-Tử xen vào nói:
- Tổ tông chủ nhân đã nhìn thấy Dương quý-phi chưa?
Mọi người đều kinh ngạc nhìn Tiêu-tương-Tử. Không phải vì lời nói buồn cười mà vì tiếng nói của Tiêu-tương-Tử có vẻ khác thường! Lạ thay cả mặt mày Tiêu-tương-Tử biến đổi. Tiêu-tương-Tử dung mạo vốn đã như một xác chết, bây giờ lại còn hơn một bóng ma rõ rệt.
Chúa động từ tốn nói:
- Tổ tông tôi, trước làm quan dưới triều vua Đường-huyền-Tôn. Vì lúc đế Vương-quốc-Trung bị khốn loạn nơi triều đình nên phải mang toàn gia đi ẩn náo.
Tiêu-tương-Tử phá lên cười:
- Thế thì tổ tông ông chắc đã được hưởng biết bao nhiêu của phi nghĩa Dương-quý-Phi?
Mọi người đều thất sắc trước câu nói của Tiêu-tương-Tử. Vì câu nói ấy khác nào như một chiến thư, mà ai nấy đều phải đề phòng.
Pháp-Vương cau mày lo nghĩ:
- Quái thật! Tiêu-tương-Tử xưa nay vẫn là người am hiểu, sao hôm nay hắn lại ngạo nghễ đến thế!
Tuy vậy, chúa động thanh sắc vẫn điềm tĩnh, chỉ khẽ đưa mắt nhìn lão lùn râu dài. Lão râu dài liền quắc mắt nhìn Tiêu-tương-Tử, rồi nói lớn:
- Chúa chúng tôi đãi khách kính trọng, xin người đừng ăn nói hồ đồ.
Tiêu-tương-Tử liền cười hô hố, nói:
- Ta tin chắc là tổ tông ông đã được hưởng nhiều của phi nghĩa của Dương-quý-Phi!
Tiêu-tương-Tử càng nói dáng điệu lại càng kiêu hãnh hơn nữa. Giọng nói hắn oang oang lên:
- Hà hà. Đã được hưởng của phi nghĩa của Dương-quý-Phi mới ăn năn hối hận không dám ăn thịt chứ gì?
Kim-luân Pháp-Vương quá áy náy, nên quay lại nói nhỏ với Tiêu-tương-Tử:
- Sao Tiêu-huynh nói vậy? Ăn uống là theo thói quen.
Lão lùn râu dài không nhịn được liền nhảy lên bực đá, nói lớn:
- Tiêu-tương-Tử! Hãy cùng ta quyết đấu.
- Tương-Tử cười, nói:
- A ha! Tốt lắm! Nhưng lão đã biết tánh danh ta, vậy hãy xưng danh cho rõ thì cuộc đấu mới công bằng.
Lão lùn râu dài quá giận, nhưng thấy Tiêu-tương-Tử không phải hạng thường, liền quay nhìn chúa động.
Chúa động bảo:
- Ngươi hãy xưng danh cho Tiêu-tương-Tử rõ.
Lão lùn râu dài nói:
- Ngươi hãy nghe ta xưng danh, tên ta là Phàn-Nhất-Ông.
Tiêu-tương-Tử liền hỏi:
- Ngươi dùng binh khí chi? Mang ra đây ta xem.
Phàn-nhất-Ông nói:
- Ngươi muốn đấu bằng binh khí hả? Điều đó đâu có khó gì?
Rồi Phàn-nhất-Ông hô lớn:
- Chưa hầu hãy mang binh khí ra đây.
Phút chốc thấy mươi thanh niên áo xanh lễ mễ khiêng ra ngọn bổng. Phàn-nhất-Ông chỉ vào ngọn bổng nói:
- Ta dùng binh khí kêu là "Long đầu cương trượng"
Dương-Qua nhìn cây trượng thấy dài gấp ba lần người Phàn-nhất-Ông, ngạc nhiên thầm nói:
- Ông lão lùn chừng ấy làm sao sử dụng cây trượng dài gấp ba thân mình?
Tiêu-tương-Tử đưa tay vào túi rút ra một cái kéo lớn, nói:
Mọi người thấy Tiêu-tương-Tử rút kéo ra đều kinh hãi lo sợ cho Tương-Tử.
Dương-Qua lại ngạc nhiên hơn. Chàng đưa tay sờ vào túi, cái kéo đã mất, mới biết cái kéo của chàng đã về tay Tiêu-tương-Tử lúc nào rồi. Nguyên nhân đó là do Phùng-mặc-Phong rèn cho Dương-Qua, dùng để lấy chiếc phất trần của Lý-mạc-Thu. Nhưng Tiêu-tương-Tử đánh cắp của chàng trong đêm vừa rồi.
Tiêu-tương-Tử vận công sử dụng cái kéo, tiếng sèn sẹt vang lên chát chúa.
Tương-Tử quát lớn:
- Tên lùn râu dài kia! Ngươi chắc chưa biết tên vũ khí của ta, đây cho người rõ đây?
Phàn-Nhất-Ông bĩu môi, nói:
- Binh khí ư? Binh khí của bọn tà đạo nhà người làm gì có tên cao nhã.
Tiêu-tương-Tử cười hô hố nói:
- Ngươi đoán đúng lắm! Vì tên của nó là "cẩu mạo tiêu".
Dương-Qua nghe Tương-Tử tự đặt tên cho cái kéo của mình, mỉm cười không nói.
Tiêu-tương-Tử nói tiếp:
- Ta biết ở đây có quái vật râu dài, nên ta mới mang kéo đến để xén bộ râu dài đó.
Mã-quang-Tổ, Ni-ma-Tinh và Doãn-khắc-Tây bụm miệng cười sằng sặc.
Riêng Kim-luân Pháp-Vương với chúa động vẫn nghiêm trang ngồi nhìn như chẳng để ý lời cãi vã gì.
Phàn-nhất-Ông cử "Long đầu cương trượng" lên quay tròn vù vù, và quát mắng Tương-Tử:
- Râu ta dài thật, nhưng ngươi là đứa hèn hạ, đâu đủ khả năng để làm cái việc sửa râu cho ta. Hãy cúi đầu xin lỗi tội vô lễ trước đã.
Tiêu-tương-Tử không thèm nói, chỉ để khí giương thẳng cái kéo lao vèo tới Phàn-nhất-Ông.
Nghe tiếng kéo xắp sựt sựt, Phàn-nhất-Ông không kịp đỡ, vội đánh mạnh một chưởng vào vai Tương-Tử. Tiêu-tương-Tử né qua một bên, nhưng chưa có một sợi râu nào rụng, và cứ như thế người cố cắt râu, người cố đánh liên tiếp.
Lúc này trong nhà chỉ nghe tiếng vun vút, sèn sẹt, thỉnh thoảng kéo chạm cương trượng tóe lửa.
Trận giáo đầu hơn một tiếng đồng hồ, thì Phàn-nhất-Ông bị sơ hở một chút nên cái kéo của Tiêu-tương-Tử đã vút thẳng vào hàm râu, cắt đứt ba sợi râu.
Ba sợi râu bay vụt qua bàn, cuốn quấn mấy chén dĩa trên bàn rơi xuống đất
bể sạch.
Dương Qua biết ngay là Tiêu tương Tử dùng phép "lộng huyền" thổi khí đi
mạnh làm rơi bát, dĩa xuống đất, chớ ko phải do ba sợi râu cuốn mạnh đến thế.
Mã quang Tổ chẳng biết gì, vỗ tay đôm đốp miệng ko ngớt tiếng khen:
-Hay quá! Hay quá Tiêu huynh ơi! Mấy cái râu quèn đó mà Tiêu huynh cũng
biến nó trở nên lợi hại thế? Thật là kỳ tài!
Tiêu tương Tử nghe khoái chí cười khà khà, vung kéo xắp sừng sực, miệng
nói lớn:
-Lão râu dài kia lại đây.
Tuy nhiên, ai cũng thấy nét mặt của Tiêu tương Tử lúc này đã tái mét, vì
nội công chỉ luyện đến thế là cùng.
Phàn nhất Ông bị khinh miệt, nên mặt nóng phừng phừng, quay lại phía chúa
động, nói:
-Thưa sư phụ, thứ lỗi cho đệ tử hôm nay về tội thất kính với khách.
Dương Qua lấy làm lạ! Phàn nhất Ông đáng tuoir cha của chúa động, sao lại
gọi ng trẻ tuổi như con bằng sư phụ?
Chúa động nhìn Phàn nhất Ông khẽ gật đầu. Lập tức cây thiết trượng Phàn
nhất Ông vút thẳng vào đầu Tiêu tương Tử. Rất may, Tiêu tương Tử né kịp,
thiết trượng giáng xuống kệ đá vẹt ra một tia lửa sáng loè.
Thiết trượng vút ngược lên, Tiêu tương Tử lao mình qua đưa tay cướp lấy thiết trượng.
-
Chương 46 - Kinh thiên động địa
Chương 46
Kinh thiên động địa
Phàn-nhất-Ông thấy đối thủ cướp thất trượng, liền giật mạnh xuống, phất ngang chân đối thủ.
Đòn ấy tưởng Tiêu-tương-Tử phải gãy hai chân té úp xuống đất bể mặt rồi.
Không ngờ Tiêu-tương-Tử lao mình qua thiết trượng phất ngang dưới chân, liền lao đầu xuống chống hai tay dưới đất, quật ngược hai chân lên cao, lộn ngửa người ra đứng dậy.
Phàn-nhất-Ông được trớn vận sức xoay người vút thiết trượng vào đầu địch thủ. Tiêu-tương-Tử vừa đứng lên, thấy thiết trượng đã đến ngay đầu, liền né sang bên phải.
Tiêu-tương-Tử cố ý trêu cợt nên nhảy vọt lên cao hơn một trượng, phóng qua khỏi Phàn-nhất-Ông.
Mọi người thấy thế, vỗ tay rầm rập, khen ngợi:
- Tiêu-Huynh hay quá! Hay tuyệt!...
Phàn-nhất-Ông mặt nóng phừng phừng, nhưng thấy đối thủ võ công cao cường nên cố sức bình tĩnh vận thêm sức, múa thiết trượng vút như gió lộng.
Lão thầm nhủ: Ta đánh trúng đối thủ không dễ, nhưng ta có thể đập nát vũ khí của đối phương, để chiếm phần thắng.
Tiêu-tương-Tử lúc này dùng vũ công "thần xuất quỷ nhập". Tay phải cầm dao chém tới, tay trái trổ phép "tầm mã" chờ lúc đối thủ hở cơ, đoạt lấy thiết trượng.
Hai người lao sát vào nhau, xoắn xuýt giữa đại sảnh, chớp mắt đã đấu mấy mươi hiệp. Nhưng vẫn không phân thắng bại Tiêu-tương-Tử vừa đánh vừa ngồi trên ghế, nhưng không coi Phàn-nhất-Ông ra gì.
Bọn Kim-luân Pháp-Vương lấy làm lạ nghĩ thầm:
- Tiêu-tương-Tử thân mình hình như chết khổ! Thế mà lại có thủ đoạn cao cường đến thế?
Hai người đấu tiếp mấy hiệp, cây thiết trượng của Phàn-nhất-Ông phất qua dưới hai chân đối phương. Nhưng Tiêu-tương-Tử cứ nhảy chập chờn đôi chân lên xuống, mỗi lúc một lẹ hơn.
Chúa động chợt kêu lớn:
- Đừng đánh chân ghế nữa! Nếu ngươi đánh như thế không đánh được đâu!
Phàn-nhất-Ông giật mình tỉnh ngộ:
- à! Hắn ngồi trên ghế! Thế mà mình tưởng hắn đứng dưới đất, nên nãy giờ cứ đánh dưới chân ghế mãi. Nếu hắn để ý nhảy xuống đã hớt được râu mình rồi.
Phàn-nhất-Ông liền đổi chiến thuật, vung thiết trượng múa tít mù, loang loáng như một vùng ánh sáng.
Mọi người chỉ còn trông thấy một người lùn râu dài, mặc áo màu xanh lục, được lớp ánh sáng trắng như bạc bao bọc.
Bên ngoài vòng ánh sáng bạc ấy là một hình nhân mặt như xác chết, nhảy lòm chòm trông thật lạ mắt.
Doãn-khắc-Tây rất thông hiểu các võ phái, nhưng xem thuật phép sư trượng Phàn-nhất-Ông và Tiêu-tương-Tử, cũng ngơ ngác không hiểu được. Theo trượng pháp đại khai đại hợp, môn hộ được phép giữ kín đáo lạ thường. Khác hẳn với các nhà võ công nội ngoại, không hiểu lão râu dài thuộc môn phái nào!
Chúa động thấy rõ Tiêu-tương-Tử có ý trêu lừa Phàn-nhất-Ông cho mỏi mệt, thầm nghĩ:
- Nếu để đấu nữa, nhất định Phàn-nhất-Ông phải bại.
Lão ung dung đứng dậy bước ra bảo:
- Nhất-Ông và Tiêu-tương khách! Hãy tạm nghỉ đã! Đánh lâu rồi, mà không thể phân thắng bại được. Thôi, Nhất-Ông lui ra.
Phàn-nhất-Ông nghe lệnh chúa Động truyền, nên cất tiếng nói:
- Xin tuân lời sư phụ.
Nhất-Ông đập mạnh thiết trượng xuống đất một cái, nhảy tung lên, toan chạy ra khỏi phòng đấu.
Nhưng Tiêu-tương-Tử lại kêu lên:
- Không! Không được!
Liền nhúng mình vọt ra khỏi ghế, bay lên đập vào cây thiết trượng. Chỉ nghe một tiếng "bốp" cái ghế bự, bị thiết trượng đập nát vụn ra. Nhưng cây thiết trượng đã bị Tiêu-tương-Tử dùng tay trái chộp giữ và lấy chân trái đạp lên trên, đồng thời tay phải đưa thẳng cái kéo xấp mạnh hàm râu Phàn-nhất-Ông.
Vừa phát ra một tiếng sẹt. Nhất-Ông lanh như chớp, né hàm râu qua bên phải, rồi phát hàm râu qua bên trái, quấn chặt vào cán kéo của đối thủ một cách dễ dàng.
Tiêu-tương-Tử thấy râu lão quấn chặt vào kéo không thể chuyển được, thầm khen:
- Bộ râu lão nầy đã được tập luyện công phu, lợi hại thay.
Tiếp đó Tiêu-tương-Tử lại nói lớn:
- A! Lão già lùn! Bộ râu của ngươi lợi hại lắm đấy! Tiêu-tương-Tử nầy khen ngươi đó.
Lúc này mọi người chỉ trông thấy hai người đứng sát vào nhau, không còn đánh gì nữa. Nhất-ÔNg dùng râu và tay trái giữ chặt cán kéo. Còn tay trái và chân trái của Tiêu-tương-Tử lại bám lấy thiết trượng, giằng qua giật lại một hồi, nhưng không ai giật được của ai cả. Tiêu-tương-Tử phá lên cười ha hả, nói:
- Thú quá! Thú quá! A ha! Thú quá!
Đột nhiên một bóng người áo xanh ngoài cửa chạy vào nhanh như tên, đưa hai tay chụp vào cổ Tiêu-tương-Tử giật ra:
Chúa động quát hỏi:
- Ai đó! Làm gì thế?
Mọi người đều đứng lên nhìn. Mã-quang-Tổ nói lớn:
- Không được! Một người đánh với một người chứ? Đừng chơi vậy xấu lắm!
Tiêu-tương-Tử đưa tay trái phát mạnh vào bụng người lạ mặt và dùng chưởng lực gỡ thoát mình ra. Người lạ nổi giận quát lớn:
- Thằng khốn kiếp! Mau ra sức cùng tao đấu một sống một chết.
Bọn Dương-Qua nhìn ra ai nấy đều thầm đoán:
- Người mới chạy vào mặt mũi đúng là Tiêu-tương-Tử, sao lại mặc quần áo, mũ giầy theo người trong động này? Có lý nào một biến ra thành hai? Mà dù có biến hóa "phân thân" của hắn? Tương-Tử có thuật lừa dối thế nào?
Phàn-nhất-Ông thoáng thấy có người xông vào giúp mình, chưa biết là ai, nhưng thấy hắn mặc đồng phục với trong động, liền thu thiết trượng lui lại phía sau, tránh ra một bên để người ấy đánh với Tương-Tử.
Lúc ấy, người mới vào xòe mười ngón tay nhọn hoắt, quấp lấy Tương-Tử lôi lại, miệng quát mắng:
- Mày dùng lối lừa gạt đánh người sao đáng mặt anh hùng?
Bấy giờ Dương-Qua đã nhận ra:
Người cầm kéo ấy là kẻ đã lấy trộm mặt nạ của mình để đeo lên mặt, rồi lấy áo quần của Tương-Tử mặc vào, đề giả Tương-Tử mà vào địa sảnh quấy động này. Vì vẻ mặt của Tiêu-tương-Tử thường ngày giống vẻ mặt người chết. Vả lại từ lúc hắn giao đấu Phàn-nhất-Ông, thuật pháp cao cường khác hẳn Tiêu-tương-Tử nhiều.
Dương-Qua định thần nhìn kỹ kẻ đeo mặt nạ đang cầm kéo, rồi gọi lớn:
- Này! Lão-ngoan-Đồng Châu-bá-Thông! Hãy trả mặt nạ và cái kéo cho tôi.
Dứt lời, nhảy vọt tới nơi, đoạt chiếc mặt nạ và cái kéo trên tay người ấy.
Sự thật người mà ai cũng tưởng là Tiêu-tương-Tử, đánh với Phàn-nhất-Ông từ lúc mới vào đại sảnh đến bây giờ, chính là Châu-bá-Thông. Vì trong lúc vô ý, Châu-bá-Thông bị bốn đệ tử của động "Thủy tiên" dùng lưới phủ bắt đem về động. Lão ta vốn có tính bướng bỉnh, diễu cợt, nhưng rất thần thông quảng đại. Cho nên lão điềm nhiên, để cho bọn đệ tử trong động khiêng về đến nơi thì lão phá lưới thoát ra đi mất. Bốn vị đệ tử bị chúa Động phạt ngồi vào lửa.
Châu-bá-Thông thoát được lưới, ra núp sau núi đá, định ý phá động Thủy-tiên cho kinh thiên động địa.
Bỗng lão thấy bọn Kim-luân Pháp-Vương tìm đến nơi nên chiều hôm ấy, lão ngầm ra tay đánh trộm, điểm trung huyệt đạo của Tiêu-tương-Tử, làm cho Tiêu-tương-Tử bất tỉnh, rồi đem xác Tiêu-tương-Tử ra khỏi nhà đá, lột hết áo quần mặc vào, giả dạng Tiêu-tương-Tử.
Xong, Châu-bá-Thông lại trở vô nhà đá, nằm bên Dương-Qua. Chưa thôi, lão còn mò vào túi Dương-Qua lấy trộm chiếc mặt nạ và cái kéo. Sáng hôm sau, mọi người thức dậy, vô tình không ai để ý cứ gọi lão là Tiêu-tương-Tử.
Còn Tiêu-tương-Tử bị Châu-bá-Thông điểm huyệt bất ngờ, cố vận ngầm nội lực để tự vệ, nhưng vì phép điểm huyệt của Châu-bá-Thông quá lợi hại, nhưng mãi đến năm giờ sau, tay chân Tiêu-tương-Tử mới vận chuyển được. Lúc ấy Tiêu-tương-Tử chỉ mặc một chiếc quần ngắn, nên lão vừa thẹn vừa giận, đưa mắt ra nhìn thất đệ tử trong động mặc quần áo xanh đi qua. Tương-Tử liền chận đánh người áo xanh ngã xuống, lột hết quần áo, mặc vào mình. Cho đến lúc này Tiêu-tương-Tử cũng tưởng người trong động "Thủy tiên".
Tương-Tử vừa bước vào đại-sảnh, đã thấy Châu-bá-Thông mặc bộ quần áo của mình, đang ác đấu với lão lùn râu dài.
Hắn giận điên người, vận gân cốt hai tay, cố chộp lấy Bá-Thông quật chết. Nhưng Bá-Thông gỡ ra được, và hai người trở lại đánh nhau quyết liệt. Đánh được mấy hiệp, thì Dương-Qua xông vào giúp sức Tiêu-tương-Tử đánh Châu-bá-Thông.
Châu-bá-Thông vốn rất giỏi lối đánh "phân thân" ông đã tập luyện công phu hơn mấy chục năm. Đến khi gặp Quách-Tỉnh trên đảo Đào hoa ông lại tiến bộ hơn trước kia nữa.
Lão thấy Dương-Qua cũng xông vào đánh mình, liền vung tay trái đối phó với Dương-Qua, tay mặt phải cầm kéo, khi mở khi thu khiến cho Tiêu-tương-Tử không dám xông vào. Tiêu-tương-Tử căm giận, nhưng xưa nay rất sợ tài nghệ của Châu-bá-Thông, nên không dám kinh công xuất thủ.
Dòng dõi vị chúa đảng đã mười mấy đời truyền lưu sống nơi đây, kể từ lúc gặp dị nhân truyền đến nay kể đã mấy đời, từ đời nọ sang đời kia, song trong giới võ lâm có tục lệ hẹp hòi "Thầy truyền cho trò như có ý lo sợ học trò mai sau gian ác, sẽ phản thầy, ngạo bạn, hại đời, nên thầy nào cũng giữ lại vài ngón bí hiểm, không dạy hết cho trò. Do đó võ công tuyệt kỹ, lần lần thất truyền.
Chỉ có võ công gia truyền là tồn tại hơn cả.
Tỉ như ông bà truyền cho cha mẹ, cha mẹ truyền cho con cháu thì mới truyền hết cái hay. Có nhiều con cháu thông minh, lại có thể cải tiến thêm những ngón võ độc đáo hơn đời trước.
Chúa động "Thủy tiên" ngày nay là một người thông minh, lại được võ công gia truyền, nên võ công của chúa động có thể hơn những bậc tiền nhân trong phái ông.
Vì vậy Chúa động có lúc tự bảo rằng:
- Nếu ta ra khỏi động, chu du trên khắp thiên hạ, thì không thể có một ai dám đem võ công so với ta nữa.
Nhưng hôm nay Châu-bá-Thông từ phương nào đến làm rung chuyển cả động.
Khi Châu-bá-Thông đấu với Phàn-nhất-Ông, chúa động đã thầm lo ngại. Kế đến Châu-bá-Thông đấu với hai người một cách dễ dàng, lại càng làm cho chúa động thầm phục hơn.
Bọn Kim-luân Pháp-Vương khi biết được Châu-bá-Thông ai nấy đều lo nghĩ:
- Thật đúng với tên Lão-ngoan-Đồng! Mưu mẹo đủ điều, không ai đoán được! Bây giờ bắt lão chưa chắc đã được mà còn sợ lầm mưu lão nữa là khác.
Chúa động thấy Tiêu-tương-Tử hai bàn tay xòe ra mười ngón tay như mười mũi sắt xông vào, nhưng không tài nào đụng được Châu-bá-Thông. Còn Dương-Qua thì lanh lẹ, tiến lui rất nhanh, đôi tay loang loáng, nhưng cũng không áp đảo được ai, ông thầm lo:
- Trời đất bao la, nhân tài không thiếu gì. Nay ta mới biết. Nếu cứ để chúng đánh nhau mãi, e thiệt hại đến động nầy. Lão bèn đứng lên gọi lớn:
- Xin tam vị hãy ngừng tay; để tôi biện minh điều này đã.
Dương-Qua cùng Tiêu-tương-Tử cùng nhảy lùi ra sau một bước.
Châu-bá-Thông giở mặt nạ ra cột vào cái kéo ném trả cho Dương-Qua và nói:
- Thôi chơi thế đủ rồi! Ta đi đây!
Dứt lời Châu-bá-Thông nhún một cái, toan thân bay vút lên xà nhà cao hơn năm trượng.
Công-tôn Lục-Ngạci và bọn đệ tử sợ hãi, kêu lên:
- Lão già! Lão già thoát lưới hôm qua!
Châu-bá-Thông ngồi vắt trên xà, cười ha hả nhìn mọi người như đùa cợt.
Tuy trong nhà lúc này có nhiều tay cao thủ, nhưng không ai nhảy lên trên đó được.
Trong động "Thủy tiên" chỉ có Phàn-nhất-Ông là tay đệ tử tuổi đã cao hơn cả chúa động, nhưng tài nghệ thì ngoài chúa động, ai ai cũng nhận rõ võ công của lão là đệ nhất. Thế mà bị Châu-bá-Thông chọc tức, nên lão quá giận, quay sang nhìn chúa động xin lệnh:
- Xin sư phụ cho phép đệ tử bắt thằng nghịch đó?
Chúa động không nói gì chỉ khẽ gật đầu.
Phàn-nhất-Ông vươn mình lên, ôm chầm lấy cây cột, rồi thoăn thoắt trèo lên như con vượn.
Châu-bá-Thông trông thấy rất thích chí, vì được dịp nô đùa để phá phách trong thạch động. Lão nhìn xuống cười lớn:
- Bộ mầy lùn tịt, thân không cao quá ba thước, sao lại ì ạch như vậy.
Phàn-nhất-Ông bò lên gần tới thì Châu-bá-Thông đã đưa tay ra đón.
Phàn-nhất-Ông tưởng địch khinh mình nên lúc Bá-Thông vừa đưa tay ra. Nhất-Ông đã vận sức chọc ngón tay điểm vào khủy tay, đã đóng kinh huyệt đạo, làm cho bắp thịt cứng lại.
Phàn-nhất-Ông vội thụt tay lại, tưởng mình thò tay vào lửa. Châu-bá-Thông với tay đập vào mu bàn tay của Nhất-Ông một cái "bép" rồi phá lên cười khà khà nói:
- Ta đã đưa tay cho ngươi vịn leo lên, sao lại thụt đi?
Phàn-nhất-Ông nén giận, vận kình lực, phun lên một làn khói vào mặt địch thủ, rồi tiếp quất mạnh bộ râu quấn vào ngực Châu-bá-Thông. Châu-bá-Thông thấy làn khói và tiếng gió vút mạnh, biết là thuật lợi hại, vội đưa chân trái đạp mạnh một cái, tay trái nắm vững xà ngang, toàn thân treo lơ lửng.
Bá-Thông lại cười khà khà nói:
- Lão lùn ơi! Người dùng bộ râu đó không làm gì ta được đâu.
Tiêu-tương-Tử nhìn lên thấy thế biết Phàn-nhất-Ông không thể nào đánh nổi Châu-bá-Thông, và nếu có hắn xông lên giúp sức, cũng không thể thắng nữa. Hắn quay lại nhìn đồng bọn nói:
- Các đại huynh ơi, thằng già kia khinh rẽ sáu anh em mình! Thật quá lắm! Bây giờ chúng ta cho nó một trận đi!
Ni-ma-Tinh vốn tính táo bạo, nghe nói khích không nén giận được, còn Mã-quang-Tổ thì khờ khạo, không rõ phải trái, nên khi nghe Tương-Tử nói, cả hai đều nổi giận đùng đùng đứng dậy, thét lên:
- Thằng già kia! Mày đã tới số rồi!
Hai người phóng mình lên cây xà ngang, bốn tay quắp lấy Châu-bá-Thông.
Bá-Thông liền vung hai tay đánh mạnh ra. Ma-Tinh văng ra bấu lấy đầu cột, còn Quang-Tổ văng luôn xuống đất, lòm khòm đứng dậy nhưng chưa dám leo lên.
Tiêu-tương-Tử nói với Doãn-khắc-Tây:
- Doãn huynh ơi! Doãn huynh khoanh tay đứng nhìn vậy sao?
Doãn-khắc-Tây bình tĩnh nói:
- Huynh lên trước rồi đệ xin giúp sức.
Tiêu-tương-Tử rú lên một tiếng đột nhiên vọt thẳng lên cao hơn bốn trượng. Chỉ thấy thân minh Tương-Tử thẳng đứng như khúc gỗ, đâm thẳng vào bụng Châu-bá-Thông. Bá-Thông liền thu mình lại như con mèo nên hai tay Tương-Tử đâm hụt, cả thân mình vụt lửng lơ trên không, nháy mắt đã rơi xuống đất. Nhưng giận chưa thôi, vừa rơi xuống Tương-Tử lại phóng lên như một chày giã gạo vậy.
Bấy giờ Phàn-nhất-Ông đã bám chặt vào xà ngang, vội quất bộ râu để quấn địch thủ. Còn Ni-ma-Tinh, Mã-quang-Tổ và Tương-Tử cứ nhảy vọt lên, rớt xuống, cố hết sức để đánh Châu-bá-Thông.
Doãn-khắc-Tây mỉm cười nói:
- Lão già này thật phi thường! Ta cũng hợp sức đánh thử một phen coi.
Miệng nói tay thô vào mình rút ra một vật sáng lấp lánh. Đó là con roi Nhiễu tiên. Roi này kết bởi những sợi vàng sợi bạc và gắn nhiều ngọc quí.
Thật ra, Doãn-khắc-Tây võ nghệ chưa có gì đặc biệt mấy, chỉ là một tay phóng lãng giang hồ, đi đâu cũng mang theo của quí để lòe thiên hạ.
Doãn-khắc-Tây nhảy lên quấn vun vút. Dương-Qua thấy thích mắt thầm nghĩ:
Nắm tay này đều trổ thần thông vây đánh một lão bướng bỉnh, nhưng lão vẫn coi thường. Nếu ta không xuất thủ giúp sức thì lão khinh khi cả bọn chúng ta.
Chàng lấy mặt nạ, đeo lên, rồi thét một tiếng, lượm cây thiết trượng của Phàn-nhất-Ông bỏ dưới đất, quặp vào chân, nhún mình nhảy vọt lên cao, ngang với Châu-bá-Thông, và nói:
- Lão già bướng bỉnh hãy xem cái kéo này!
Chàng ngồi trên xà nhà trước mặt Châu-bá-Thông, đưa kéo xắp bộ râu bạc của ông. Bá-Thông bình tĩnh né đầu qua một bên, và bảo:
- Chú em ơi! Phép nầy của chú cũng khá đấy! có thể dùng được việc!
Dương-Qua gắng giọng nói:
- Lão già bướng bỉnh kia! Ta có gì vô lễ mà lão lại đem bọn ta ra làm trò cười.
Châu-bá-Thông cười hà hà nói:
- Chú em ơi! Hãy dùng cây kéo vào việc khác. Thuật hớt râu của chú không thua ta đâu. Chú em có món vũ khí đó mà không biết dùng.
- Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:
- Sao lại không biết sử dụng.
Bá-Thông cười ha ha:
- A! Chú em chưa hiểu ư? Nhưng rồi sẽ biết.
Châu-bá-Thông chợt thấy cái roi vàng của Doãn-khắc-Tây vút tới, liền vung tay đập mạnh. Roi quật ngược vào lưng Khắc-Tây, cả người lẫn roi đều rơi xuống đất. Bá-Thông gọi lớn:
- Cái roi lòe loẹt của ngươi, thế mà thú đấy!
Dứt lời, Phàn-nhất-Ông bay vút tới, Bá-Thông liền nhích qua một bên rồi cười, nói:
- Bộ râu rậm rạp kia thỉnh thoảng cũng quấy rầy kẻ khác được đấy chứ?
Đoạn lão đưa tay vút hàm râu của lão, cười ngạo nghễ:
- Râu ta để vuốt chơi cho thanh nhã, chứ không phải như ngươi dùng râu để làm cái chổi đánh người.
Nói chưa dứt, đã bị bộ râu Nhất-Ông quật trúng vào má, Bá-Thông cảm thấy ran rát, chứ không đau đớn mấy.
Nếu Châu-bá-Thông có võ công vững chắc thì bị một cái vụt râu của Phàn-nhất-Ông đã choáng váng, mà rơi xuống đất rồi, nhưng lão vẫn bình thản, nét mặt tươi vui, không tỏ một cử chỉ nào tức giận, cười lớn:
- Này, chú râu dài! Râu ta ngắn hơn râu chú, thì chúng ta đừng đọ nữa nhé!
Nhất-Ông vừa quất trúng địch một đòn lòng hiu hiu tự đắc không thèm nghe lời diễu cợt của Châu-bá-Thông, lão quất tiếp một lần nữa. Bá-Thông không dám khinh thường tung một trái dùng "Không minh quyền" đấm ra một cái. Râu lão lùn bị gió quá mạnh, đẩy tạt trở lại. Vừa lúc Mã-quang-Tổ tung mình lên đánh Bá-Thông thì râu Nhất-Ông lại quất mạnh vào mặt Quang-Tổ, mù cả mắt. Hắn liền đưa hai tay chợp lấy bộ râu.
Râu Nhất-Ông xưa nay có mãnh lực phi thường, nhưng lúc ấy vừa bị cái đâm "Không minh quyền" của Bá-Thông tống ra, lại gặp bàn tay Quang-Tổ dùng sức kinh công vớ chặt, Nhất-Ông giật mình, dùng sức đoạt lại, nhưng bị Mã-quang-Tổ nắm cứng. Thế là Mã-quang-Tổ và Phàn-nhất-Ông dính chung một đùm, nhào xuống đất. Hai người đều tức giận, quắc mắt nhìn nhau.
Nhất-Ông gắng giọng nói:
- Sao ngươi tóm râu ta, lại không chịu thả?
Mã-quang-Tổ đã bị chân lão lùn đạp trúng vào bụng đau quá, lại bị lão lùn mắng nữa, liền quát lại:
- Ta không thả thì ngươi làm gì?
Vừa quát hắn vừa luồn tay phải vào bộ râu xoay mấy vòng. Nhất-Ông đánh vào mặt một chưởng. Hắn nghiêng đầu tránh, nào ngờ tay trái lão lùn đánh một quyền ngay vào sống mũi, Mã-quang-Tổ đau quá hét lên:
- ái! Lão quái nầy!
Tuy bị đánh Quang-Tổ vẫn không thả hàm râu, dùng tay trái đấm trả lại cho hả giận. Thực ra võ công của Mã-quang-Tổ kém hơn Nhất-Ông, nhưng khốn nổi bộ râu của lão bị quấn chặt vào tay Quang-Tổ, thành thử đầu cổ lão không cựa được, đành để cho Quang-Tổ đấm đá thình thịch.
Lúc ấy, hai đấu thủ một cao một lùn, thoi đấm nhau huỳnh huỵch dưới đất. Lão lùn tay đè trên mình Quang-Tổ, nhưng không rút bộ râu ra được.
Kim-Luân pháp-vương thấy đại sảnh náo động, và sáu người cùng bọn không đánh nổi lão già bướng bỉnh, nên quá thẹn lo nghĩ:
Lão bướng bỉnh nầy ta phải lừa dịp hại lão cho xong, chứ không có tài nào bắt sống được.
Định ý như vậy, Pháp-vương thò tay vào túi, lấy ra hai vòng tròn một vòng đồng, một vòng bạc, như hai cái đĩa, ném tung lên mặt Châu-bá-Thông. Hai vòng kim khí bay thành hai vòng cung, kêu rít nghe rợn người. Bá-Thông không biết vũ khí lợi hại, kêu hỏi:
- A! Vật gì quái thế?
Vừa hỏi lão vừa đưa tay ra toan bắt.
Dương-Qua thấy Kim-luân Pháp-Vương cố dùng vũ khí giết Châu-bá-Thông, trong lúc vô ý, chàng cảm thấy thương hại, vội la lớn:
- Tránh đi đừng có bắt!
Đồng thời chàng dùng thiết trượng lên gạt hai vòng kim khí. Nghe "choang" một tiếng, hai vòng ấy tạc ngang vô tường, tung ra những tia lửa sáng lòe, rồi lại vút bay lên trần nhà. Lúc đó Châu-bá-Thông mới biết Kim-luân Pháp-Vương võ nghệ cao cường, thầm nghĩ.
- Thôi, bây giờ mình đã mệt rồi mà trêu ghẹo lâu, họ đồng tâm hợp lực lại, thì mình không thoát được.
Bá-Thông liền nhảy xuống đất kêu:
- Kính chào quí vị! Hôm nay lão chưa có dịp gặp quý khách. Thôi, để ngày mai chúng ta chơi lại.
Dứt lời lão chạy vút ra cửa. Nhưng ngoài cửa đã có bốn người áo xanh giăng lưới rồi. Châu-bá-Thông đã bị mắc lưới ấy một lần, nên hoảng hốt la lên:
- A! Nguy thay!
Lão chạy vụt về phía Đông, toan nhảy ra cửa sổ. Nhưng phía ấy cũng thấy căng lưới sẵn có bốn người mặc áo xanh đứng rình. Lão chạy vô giữa nhà, đảo mắt nhìn tứ phía, thấy cửa nào cũng có bốn đệ tử áo xanh, và lưới đã căng sẵn hết.
Hết lối đi, lão lại vọt lên xà nhà, dùng tay đánh tống lên định chui lên nóc.
Vừa mới lô đầu lên, tấm lưới đã phủ lên đầu! Lão phải nhảy xuống đất, chỉ tay vào mặt chúa động, cười nói:
- Ông giữ lão già nầy lại để làm gì? Ngày nào cũng ăn rau, uống nước lã, thì nuôi ta sao được?
Chúa động nghiêm nghị nói:
- Ngươi đã lấy sách đạo của ta. Bây giờ ngươi muốn ra khỏi động nầy, thì phải trả các vật ấy cho ta lại đây?
Châu-bá-Thông ngạc nhiên nói:
- Ta lấy sách đạo của các ngươi để làm gì? Về bản lĩnh của ta đâu có kém hơn người, mà phải cần các thứ đó?
Lão chúa động thong thả bước lại gần Châu-bá-Thông nói:
- Nếu hôm nay không có ngày vui của ta, thì ngươi đã lãnh giáo ít đòn rồi! Nếu biết điều trả lại đây, rồi thong thả ra về.
Châu-bá-Thông nổi giận hét lớn:
- Ngươi dám nói thế sao? Ta mà đi trộm của ngươi à? Ngươi nói thế thì coi cho kỹ đây, có cái gì của nhà ngươi thì lấy lại.
Lão vừa nói, vừa đưa tay cởi áo tháo quần. Chỉ trong nháy mắt lão đứng trần trục. Chúa động luôn miệng quát:
- Thôi...! Đi... đi...!
Nhưng lão không nghe, cứ cầm áo cầm quần dũ thật kỹ, quả nhiên không có vật gì rơi xuống.
Bọn đệ tử trong động hoảng quá, vội vã quay đầu bịt mặt. Thật là một việc quá sỗ sàng, không ai làm được.
Chúa động cúi đầu suy nghĩ:
- Thật là! lão nầy không có lấy những vật ấy! Vậy thì có một tay nào lợi hại lắm, mới dám vào phòng ta lấy sách được. Nếu ta không tìm được thủ phạm, thì động ta sẽ có điều quan hệ đây?
Châu-bá-Thông vỗ tay nói:
- Xem ngươi đã cũng đúng tuổi, sao không biết kính nể người già, bịt mặt những chuyện vô lý, để làm xấu ta trước mặt mọi người. Ngươi không sợ người đời chê cười sao?
Lão chúa động không biết nói sao cả, chợt nghe có tiếng thình thịch, quay đầu nhìn lại thì thấy Phàn-nhất-Ông và Mã-quang-Tổ còn vật đánh nhau. Lão bèn quát:
- Nhất-Ông! Hãy đứng dậy!
Châu-bá-Thông cười nói:
- Người ta bỏ việc nầy thì không nói, để đi la cái chuyện họ không hỏi đến.
Chúa động cau mày nói:
- Lão bảo rằng giữa chỗ đại sảnh đông người, mà làm việc xấu xa, như thế đâu có can hệ gì đến ta. Câu nói ấy chính ngươi tự trách ngươi đấy thôi.
Châu-bá-Thông cười nói:
- Khi lọt lòng mẹ ta, ta cũng không áo quần, thì lúc nầy ta bỏ áo quần ra, tấm thân thiên nhiên của ta cũng trong sạch đường hoàng có gì là xấu. Chứ ông đã già rồi, muốn giữ vẻ nghiêm trang của bề ngoài, mà lương tâm lại muốn cưới con gái đáng con cháu mình thì thật khó coi! Hà! Hà... Như thế là thân hình ông đẹp lắm đấy!
Câu nói như mũi dùi chít vào tai. Chúa động đôi mắt đỏ ngầu, mặt xám lại, miệng như không nói được.
Phàn-nhất-Ông và Mã-quang-Tổ vẫn cứ đè vật nhau mãi. Nhất-Ông nghe chúa động gọi, muốn đứng dậy, nhưng khốn nỗi bộ râu bị Quang-Tổ quấn chặt, không cách nào rứt ra được. Còn Mã-quang-Tổ bị lão đè lên trên, và đánh thùi thụi, hắn ỷ sức mạnh nên cứ việc quấn ghì chặt bộ râu xuống đất, không cho lão đứng dậy.
Mọi người chưa biết phải làm sao để chữa hai người thì Châu-bá-Thông kêu lên:
- Ôi chao! Ta quên mặc quần áo lạnh quá!
Chưa dứt lời, lão chạy vụt ra cửa. Bốn đệ tử vừa thấy bóng người chạy ra cửa, vội tung lưới chụp xuống gút miệng rất nhanh. Người mắc vào lưới dãy quá mạnh. Bốn người áo xanh túm bốn đầu dây lại cột thật kỹ, để khiêng đến trình chúa động.
Thứ lưới này rất bền, nhờ kết bằng sợi kim khí, nên dao chém cũng không rách. Lại thêm bốn tay căng lưới, đã được tập luyện rành rẽ, họ tung giật nhanh như chớp, dẫu cho tay cao thủ cũng không kịp đối phó, để thoát thân.
Bấy giờ bốn tay bắt được địch thủ, ai nấy đều hớn hở, lo khiêng vào để trước mặt chúa động. Một người áo xanh đứng cúi đầu thưa:
- Thưa sư phụ, bốn đệ tử cửa chánh đã bắt được lão già trốn thoát bữa qua.
Chủ động chăm chú nhìn vào lưới. Bỗng nhiên biến sắc mặt, quát lớn:
- Bọn mi không có mắt hay sao?
Bốn đệ tử vội nhìn vào lưới, người nào, người nấy, thất vía hồn kinh, mặt không còn chút máu. Họ luống cuống xúm nhau lại mở lưới, thả hai người trong lưới ra. Thì đó là Phàn-nhất-Ông và Mã-quang-Tổ!
Sự thật Châu-bá-Thông tuột quần áo, đứng tần ngần, để mọi người mắc cỡ không để ý đến, lại tiếp nói những câu sách hạch để cho chúa động xấu hổ không còn tinh thần sáng suốt đề phòng được.
Mọi người đều nghĩ rằng lão đang còn nói nhiều với chúa động và có ra đi cũng phải mặc quần đã.
Nhưng Châu-bá-Thông đã dự định sẵn. Lão vừa nói với chúa động vừa xem xét tứ phía. Khi nói gần hết lời lão lướt qua phía gần Phàn-nhất-Ông và Mã-quang-Tổ, nắm gáy hai người quăng vào lưới và thừa lúc gã đệ tử phủ lưới xuống, lo túm cột lưới, lão phóng mình qua, không ai hay biết. Thật là một lối thoát thân "Dương đông kích tây".
Chúa động quá thẹn mặt trước mọi người. Vì chỉ có một lão ương ngạnh đó mà đã dùng mưu đánh Phàn-nhất-Ông, làm cho Nhất-Ông bị đồng bọn đánh rồi bị mắc vào lưới. Còn chúa động cũng phải chịu những lời xỉ mạ quá đau đớn.
Bọn Kim-luân Pháp-Vương cũng không khỏi hổ thầm:
- Mình cũng là tay giỏi trong võ lâm, mà nay đến bao nhiêu người họp sức đánh bắt không được một lão điên điên, khùng khùng, mà lại còn bị lão làm trò cười, thì thật là bất tài!
Riêng Dương-Qua là không buồn. Chàng thầm nghĩ:
- May là lão bị bắt, thì bây giờ mình lo cứu giúp cũng khổ.
Kim-luân Pháp-Vương ý muốn dò hỏi lai lịch của vị chúa động, nhưng lúc nầy lão thấy chúa động dồn dập nhiều việc buồn khổ, nên tỏ ý hỏi dò đồng bọn và muốn rút lui khỏi động. Thấy năm người cũng đồng ý, Kim-luân Pháp-Vương đứng dậy chắp tay, nói với động chủ:
- Rất cảm thịnh tình động chủ hậu đãi chúng tôi, đăng ký nên ở để được lãnh giáo nhiều nữa. Nhưng mọi người chúng tôi đi đây, đều có việc cần riêng. Vậy xin được cáo biệt.
Lúc đầu, chúa động có ý nghi ngờ sáu người nầy cũng một bọn với Châu-bá-Thông, nhưng sau thấy Tiêu-tương-Tử, và cả bọn Pháp-Vương đều lăng vào ác đấu với Châu-bá-Thông, nên ông ta có phần lưu luyến.
Chúa động bèn đứng dậy chắp tay nói:
- Tiểu đệ có một chút việc muốn nói, chẳng hiểu chư vị có thể nhận lời cho chăng?
Pháp-Vương nói:
- Nếu điều đó chúng tôi có thể làm được, thì chẳng dám từ chối.
Chúa động nói:
- Chiều hôm nay, tiểu đệ làm lễ tục huyền, muốn mời chư vị ở lại chia vui. Nơi đây là núi hẻm thôn cùng, đã mấy trăm năm nay ít có bóng người tìm đến.
Hôm nay lục vị quý khách chu du đến đây thăm, thật là hắn mạnh vô cùng cho tiểu đệ!
Mã-quang-Tổ nói:
- Động chủ có uống rượu không?
Chúa động chưa kịp trả lời, đột nhiên thoáng thấy bóng người ngoài cửa.
Liền lúc đó một cô gái áo trắng thoăn thoắt bước vào hỏi:
- Kẻ nào gây náo loạn ở đây, và đã tẩu thoát rồi sao?
Dương-Qua trông thấy vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Chàng đứng dậy bước vội ra nắm tay kêu lớn:
- Kìa! Cô! Không ngờ cô đến đây! Tiểu đệ đi tìm cô đã khổ cực nhiều lắm!
Cô gái ngơ ngác, nhìn Dương-Qua tỏ vẻ lạnh lùng nói:
- Người này là ai mà dám xưng hô với tôi như thế?
Dương-Qua giật mình, chăm chăm nhìn vào mặt thiếu nữ áo trắng. Chàng thấy dáng người đẹp đẽ, nét mặt quen thuộc không khác Tiểu-long-Nữ.
Chàng liền hỏi lại:
- Thưa cô, em là Dương-Qua đây mà! Sao cô không nhận em?
Cô gái ngơ ngác nhìn chàng, khẽ lắc đầu:
- Xưa nay tôi chưa hề gặp ông lần nào, sao ông lại xưng hô với trịnh trọng như thế?
Dứt lời nàng bước lên ngồi bên chúa động.
Chúa động vui vẻ đứng dậy, trỏ tay vào nàng giới thiệu với bọn Pháp-Vương:
- Tiểu đệ xin giới thiệu cùng quý khách rõ. Đây chính là vị tân hôn của tôi. Tôi đã chọn được giờ tốt là chiều nay làm lễ thành thân.
Tuy lời nói có vẻ ôn hòa, nhưng đôi mắt của chúa động nhìn Dương-Qua có vẻ bất bình.
Có lẽ lão giận Dương-Qua vừa rồi đã ăn nói sỗ sàng, nhận lầm làm người tân phu nhân của lão một cách quá đường đột.
Nhưng Dương-Qua vẫn đinh ninh thiếu nữ áo trắng đó nhất định là Tiểu-long-Nữ. Chàng nóng lòng không thể chịu nổi, liền nói lớn:
- Thưa cô! Cô không phải là Tiểu-long-Nữ, thì còn là ai? Cô là thầy của tôi mà!
Cô gái áo trắng nghiêm nghị nhìn thẳng vào mặt chàng, lạnh lùng lắc đầu nói:
- Tôi không hiểu Tiểu-long-Nữ mà ông hỏi đó là ai vậy?
Dương-Qua hai hàm răng cắn chặt, đôi mắt không ngớt nhìn cô gái áo trắng, đầu óc rối loạn, suy nghĩ miên man:
- Cô giận ta chăng? Tại sao không nhìn nhận ta? Hay cả hai cùng lạc vào hiểm địa nên cô giả cách làm ngơ? Lẽ nào trên đời lại có một người thứ hai giống hệt cô được.
Chàng tuy rất thông minh, có tài tùy cơ ứng biến, song một khi trái tim đã rối loạn lên vì động đến chân tình, tay chạm phải "đóa hoa tình" thì không thể nào đè nén nổi!
Chàng khẽ kêu lên một tiếng "ái".
Công-tôn Động-chủ thấy vẻ mặt chàng hơi rối loạn, khẽ nhíu mày hỏi nhỏ em gái:
- Em Liễu! Hôm nay gặp rất nhiều dị nhân nhỉ!
Cô gái không đáp, rót một chén nước trong, đưa lên, môi nốc cạn, rồi liếc mắt nhìn qua từng người. Nhưng nàng không nhìn Dương-Qua.
Nếu là kẻ ngoại cuộc, Dương-Qua lặng lẽ dò xét tình hình, đàng nầy chàng vốn có tính nóng, hơn nữa đã nghe rõ động chủ tuyên bố chiều hôm ấy sẽ làm lễ thành hôn, nên chàng cuống quít quay lại hỏi Kim-luân Pháp-Vương:
- Thầy tôi có một lần tỉ võ với ngài, hẳn ngài còn nhớ. Điều nầy ngài có bảo là tôi nhận lầm nữa chăng?
Thực ra từ lúc thiếu nữ mới bước vào. Pháp-Vương đã nhận ra là Tiểu-long-Nữ. Nhưng lão thấy Dương-Qua gọi nàng mà nàng không hề để ý đến, nên Pháp-Vương đoán biết cặp trai gái bên trong hẳn có điều gì rắc rối. Lão mỉm cười đáp:
- Ta không nhớ rõ điều đó.
Sở dĩ Pháp-Vương nói như vậy là có một dụng ý riêng. Trước đây Tiểu-long-Nữ đã dùng Dương-Qua tiếp tay sử dụng kiếm pháp khiến cho lão phải thảm bại. Nay võ công của Dương-Qua đã đến độ siêu việt rồi, nếu đôi trai gái nầy họp sức thì thật khó lòng. Nếu lão vụng về để cho cặp trai gái ấy tiếp tay nhau thì lão không thể nào thủ thắng được, nên lão phải lập kế để ly gián.
Dương-Qua nghe lão đáp ngạc nhiên nghĩ thầm:
- Ôi! Lòng người xảo trá khôn lường! Đã cùng đến chỗ nầy, trong lúc hắn bị thương nguy khốn, ta ra sức cứu hắn, mà giờ hắn lại toan hại ta.
Pháp-Vương thấy nét mặt Dương-Qua có vẻ giận hờn, thần sắc đổi khác, lòng thầm nhủ:
- Nó đã trở mặt hiềm thù với ta, nếu ta để cho nó sống ắt sau nầy mang họa! Hãy thừa dịp nầy mà trừ đi cho sớm.
Định ý như vậy, lão liền vung tay nói với Bang-chủ và cô gái áo trắng:
- Hôm nay chúng tôi hân hạnh được dự ngày đại hội của nhị vị, ngặt vì chúng tôi không có chút lễ mọn nào gọi là lưu chút hậu tình, chúng tôi lấy làm áy náy.
Động chủ thấy Pháp-Vương chịu ở lại dự lễ cưới của mình, niềm vui lai láng, quay lại nói với cô gái áo trắng:
- Quí vị đây đều là những vật cao siêu trong giới võ lâm. Chúng ta được một vị đến dự cũng đủ vinh dự lắm rồi, huống hồ có cả...
Nói đến đây, động chủ vội dừng lại. Vì ông chợt nghĩ đến Dương-Qua, một chàng trẻ tuổi, võ công lại tầm thường, cứ như vừa rồi chàng đấu thử với Châu-bá-Thông chưa đầy một hiệp đã loi nhoi nhảy xuống đất, như thế võ công chàng kể vào đâu? Thật không đáng mặt liệt vào hạng cao nhân trong giới Võ-lâm. Tuy nhiên nếu bỏ chàng ra, chỉ nói đến "năm vị" e lại có điều bất lịch sự, do đó, động chủ ngập ngừng một lúc rồi lựa lời nói tiếp:
- Huống hồ chi nhiều vị anh hùng chiếu cố thế này.
Tiếp đó, Lão bô bô giới thiệu uy danh từng người, rất khách sáo. Cuối cùng đến Dương-Qua lão chỉ giới thiệu vắn tắt:
- Còn vị nầy là người họ Dương.
Pháp Vương cười thầm, gật gù nghĩ:
- Động chủ nầy khéo léo, mưu kế lại cao siêu, cứ xem lão tung lưới bắt Châu-bá-Thông cũng đủ biết mưu lược thế nào rồi. Tuy nhiên, tánh lão hơi hẹp hòi. Dương-Qua mới nói với Tiểu-Long-Nữ vài câu lão đã canh cánh để bụng.
Cô gái áo trắng nghe động chủ giới thiệu đến danh hiệu người nào cũng gật đầu, nhưng nàng luôn luôn với thái độ lạnh nhạt. Cho đến lúc Động chủ giới thiệu Dương-Qua, nàng cũng với vẻ mặt ấy, không hề thay đổi.
Dương-Qua đỏ bừng đôi má, lòng nôn nao như đợt sóng thủy triều. Động chủ nói gì chàng cũng không nghe được.
Na-mi-Tinh và Doãn-khắc-Tây vốn không hiểu rõ tâm trạng, cứ tưởng chàng vì nhận lầm người nên e thẹn áy náy, và họ không để ý đến.
Duy có Công-tôn Lục-Ngạc, con gái Động chủ, bấy giờ đứng sau lưng cha, mắt luôn luôn theo dõi Dương-Qua không bỏ sót một cử chỉ.
Nàng nghĩ thầm:
- Hồi sáng "Tình hoa" đã chạm vào đầu ngón tay hắn, khiến hắn bị đau, gây thảm não vào tâm hồn hắn, cứ xem bộ điệu là bà dì ghẻ của ta tất phải là ý trung nhân của hắn rồi! Sao lại có chuyện tình cờ như vậy? Biết đâu bọn người nầy kéo đến động ta cũng chỉ vì bà dì ghẻ của ta đó thôi.
Nàng khẽ nghiêng đầu nhìn cô gái áo trắng, thấy nét mặt cô nầy không có vẻ vui mà cũng không có vẻ thẹn thùng gì cả. Thật không phải dáng điệu người sắp làm dâu, khiến cho nàng càng nghi ngờ hơn nữa.
Dương-Qua tuy có tánh nóng nảy bồng bột, nhưng lại có một chút thông minh, nên cố lòng nén giận, thầm đoán:
- Cô mình cố ý làm lơ, không nhìn nhận mình, có lẽ cô mình đã sắp sẵn mưu kế gì đây chăng? Vậy mình cứ yên lặng dò xét xem sao.
Chàng đứng dậy, chắp tay vái động chủ một cái, rồi cất giọng nói:
- Thưa động chủ, vì tôi có một người bề trên, dung nhan giống hệt tân phu nhân đây, do đó, lúc nẫy tôi vội vã tưởng lầm, xin động chủ thứ lỗi cho.
Giọng chàng rất thanh tao và lễ độ, khiến động chủ đang giận cũng phải vui lòng. Ông ta đáp lễ, nói:
- Nhận lầm người quen đó là một việc thường, không có gì khinh mạng, xin lệnh tôn cứ an tâm.
Ngừng một lúc, Động chủ lại vui vẻ nói tiếp:
- Chỉ có điều tại sao trong đời lại có hai người giống hệt nhau để kẻ khác phải lầm lẫn nhỉ. Thật là chuyện lạ lùng.
Câu nói ấy, Động chủ tỏ ý tự đắc khen vợ sắp cưới của ông là một tuyệt thế giai nhân, trong đời không có một người thứ hai như vậy.
Dương-Qua nói:
- Thật vậy, Tiểu-tử cũng lấy làm lạ. Tại sao trong đời lại có hai sắc đẹp của hai người như một... Vậy tiểu-tử xin phép được biết tôn phu nhân danh hiệu là gì?
Theo tục lệ ở xứ Trung-Nguyên, người con gái không bao giờ ra chào khách một cách dễ dàng như vậy. Nhưng ở đây bọn Kim-luân Pháp-Vương vốn là người rợ miền Tây-vực, nên lễ nghi đều không cố chấp.
Khi thấy cô gái áo trắng bước ra chào không ai ngạc nhiên cả. Họ chỉ lấy làm lạ tại sao đã gần ngày cưới mà cô ta lại còn mặc đồ trắng mà thôi.
Bây giờ Dương-Qua hỏi tên vợ mình, Công tôn động chủ mỉm cười dùng lời nhỏ nhẹ đáp:
- Nàng họ Liễu! Vậy người quen của lệnh tôn có phải họ Liễu chăng?
Dương-Qua lắc đầu đáp:
- Không phải.
Nhưng chàng lại thắc mắc nghĩ thầm:
- Cô ta lại để ra họ Liễu để làm gì? Tại sao phải dấu tên họ. Bỗng nhiên chàng hiểu ra, lẩm bẩm một mình:
- A! Phải rồi! Vì ta là họ Dương nên cô ta đổi ra họ Liễu. Dương Liễu đấy mà!
Nghĩ như thế, chàng lại cảm thấy đau nhói ở cái đầu ngón tay, mày cau lại, mặt hơi tái.
Nàng Lục Ngạc thấy chàng tỏ vẻ đau đớn lấy làm thương hại, đôi mắt nàng vẫn đăm đăm nhìn vào Dương-Qua không bỏ sót một cử chỉ nào.
Dương-Qua cố nén lòng, nhưng bỗng vụt miệng hỏi Động chủ:
- Thưa động chủ! Tôn phu-nhân có phải là người con gái thứ hai không?
Công tôn động chủ ngạc nhiên không hiểu ý gì mà Dương-Qua lại hỏi như thế, nên nói:
- Tại sao lệnh tôn biết?
Dương-Qua mỉm cười nói:
- Tôi chỉ đoán chừng như thế chẳng biết có đúng hay không?
Mọi người đều im lặng, trầm lặng qua phút suy tư.
-
Chương 47 - Động Phòng Hoa Chúc
Chương 47
Động Phòng Hoa Chúc
Sở dĩ Dương-Qua hỏi câu đó là vì chàng nhớ lại một tiểu thuyết đời Đường do Liễu-Nghi sáng tác, trong đó có câu chuyện "Long-Nữ chăn dê" chàng nghĩ rằng Long-Nữ với họ Liễu vốn có nguồn gốc sâu xa, và chàng đinh ninh cô gái áo trắng trước mặt chàng chắc chắn là thầy võ của chàng. Đó là họ Liễu tất phải có liên quan đến Tiểu-Long-Nữ.
Công-tôn Động-chủ thấy Dương-Qua hỏi như vậy, có ý nghi ngờ, đưa mắt nhìn Dương-Qua, rồi lại nhìn cô gái áo trắng. Thấy cô gái áo trắng vẫn cúi đầu không nói một lời, làm cho ông ta khó chịu, muốn hỏi xem sao. Nhưng ông lại nghĩ:
- Việc đó không nên hỏi trước mặt mọi người, cứ để động phòng hoa chúc rồi sẽ hỏi cũng chẳng muộn.
Nhưng thấy Dương-Qua miệng cứ mấp máy mãi, làm cho ông không chịu nổi toan cất lời hỏi Dương-Qua thì chàng đã ứng tiếng hỏi tiếp:
- Liễu cô nương ấy không phải là người sinh đẻ nơi đây, vậy chẳng hay vì đâu Động chủ lại quen biết với nàng?
Câu hỏi của Dương-Qua làm cho Động chủ muốn biết lai lịch của nàng, người vợ mới cưới của mình, nên thầm nghĩ:
- Có lẽ thằng nầy biết rõ lai lịch cô gái nầy chăng? Thế thì ra không nên giấu giếm làm chi.
Ông ta bèn đáp:
- Dương Tráng-sĩ nhận xét quả không lầm! Cách đây nửa tháng tôi có ra ngoài núi hái thuốc, gặp nàng bị trọng thương nằm dưới chân núi, hơi thở thoi thóp. Xem qua tôi biết nàng vì luyện công quá sức, nên nguyên khí bị thoát ra ngoài hết. Tôi liền cứu chữa, và đem nàng về đây bàn tính chuyện xe duyên. Thực ra, việc nầy cũng là chuyện ngẫu nhiên, do tơ hồng khéo buộc.
Kim-luân Pháp-Vương cười ha hả xen vào:
- Đó thật là đúng "Duyên trời định". Cô nương vì muốn đem thân đền đáp nhân nghĩa, nên gởi má hồng vào động chủ. Như thế đẹp duyên biết là bao. Còn gì vui sướng cho bằng khi tình yêu thông cảm giữa đôi gái sắc trai tài.
Pháp-Vương nói thế mục đích tán nịnh động chủ, và cũng để chọc tức Dương-Qua đau buồn mà chơi.
Quả nhiên mặt Dương-Qua biến sắc thở dài nói:
- Té ra trên đời này lại có thứ linh đơn cứu khỏi bệnh cô nương. Tôi cứ tưởng bệnh ấy phải dùng máu tươi mới cứu nổi.
Cô gái áo trắng nghe Dương-Qua nói như vậy bỗng rú lên một tiếng, máu tươi trong miệng vọt ra đỏ ối, nhuộm đỏ cả một vạt áo trông rất ghê rợn.
Mọi người hoảng sợ, không ai bảo ai, nhất loạt đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi.
Nguyên Liễu cô nương nầy chính là Tiểu-Long-Nữ, chẳng phải ai khác.
Sau khi nghe câu chuyện của Hoàng-Dung, nàng nghĩ đi nghĩ lại tính toán đủ điều. Nếu nàng kết duyên với Dương-Qua thì làm nàng trọn đời bị người ta khinh bỉ, thóa mạ. Bằng cứ cùng chàng sống mãi trong cổ mộ thì lâu ngày chàng cũng phải mang mối sầu muộn ai bi.
Suốt mấy đêm dài, nàng vẩn vơ suy nghĩ mãi không sao chợp mắt được.
Kế đó trong một lúc cương quyết, nàng ngầm bỏ đi, nhưng trong tim nàng vẫn còn mang nặng mối tình yêu với Dương-Qua, một tình yêu quá nặng khắc ghi vào tâm khảm không thể phai mờ được.
Cho nên, sau những giờ phút phải vận hết lý trí để thắng tâm hồn, nàng đã thêm bơ vơ trong bụi đời hoang lạnh.
Nàng ra đi! Đi mãi không định hướng, mang theo một nỗi u buồn không bờ bến.
Rồi một ngày kia, vì buồn khổ quá, nàng phải đến một chân núi quạnh vắng để trấn nhiếp tâm hồn.
Nhưng tình yêu của nàng như dồn đầy tâm khảm, không còn có một sức nào có thể đè ép được nữa.
Trong lúc nàng vận nội công chế ngự, thì nhớ thương rào rạt tuông trào như sóng trùng dương, các kinh mạch đều bị xung phá, bệnh cũ tái phát dữ dội.
Nếu không gặp được Công-Tôn Động-chủ qua đường bắt gặp, và gia tâm cứu chữa, thì tấm thân ngà ngọc của nàng đã tan rã nơi núi vắng rừng hoang rồi!
Công-Tôn động chủ góa vợ đã lâu, đường tình ái đã phai nhạt, bỗng một sớm gặp Tiểu-Long-Nữ, một đóa hoa sắc nước hương trời, thật là một việc không thể tưởng tượng trong đời lão. Do đó, lòng hào hiệp của người không khỏi len lỏi vào một tình luyến ái. Lửa tình lại nổi dậy sưởi ấm lòng người cô quạnh kia.
Còn Tiểu-Long-Nữ bấy giờ đã có một tâm trạng chán đời. Lại sợ nếu mình sống cô độc lẻ loi thì không thể tự quản chế đau buồn. Mà lặn suối trèo non đi tìm kiếm Dương-Qua thì không khỏi di hại cho chàng.
Do đó, khi thấy Công-Tôn động chủ thổ lộ tâm tình, nàng cũng bằng lòng, và thầm nhủ:
- Một khi đã làm vợ người ta rồi thì mối dây oan nghiệt giữa nàng và Dương-Qua sẽ cắt đứt. Vả lại động thủy-tiên là chỗ u tịch, hoang vu, ai tìm đến. Tấm thân nàng đã được Công-Tôn động-chủ cứu sống thì kiếp sống thừa ấy cũng chẳng tiếc gì mà không đền đáp cho người ân. Kiếp nầy đã mong chẳng trọn còn mong gì cuộc lương duyên với chàng nữa.
Nàng có ý định như thế, nhưng trời chẳng chiều lòng người khiến Châu-bá-Thông chạy đến đại náo, khiến Dương-Qua tìm vào thủy tiên động. Và, hôm ấy bất ngờ trông thấy mặt chàng, nàng choáng váng cả đầu óc, ruột rối như tơ vò không còn biết tính làm sao nữa.
Nhưng Tiểu-Long-Nữ là kẻ điềm tĩnh, chỉ chốc lát nàng đã quyết định ngay:
- Mình đã hứa đính hôn với người khác, thế thì cũng nên làm mặt lạ đối với chàng cho xong. Thế nào chàng cũng giận và bỏ ra đi. Nhưng như vậy nàng an lòng hơn, vì một chàng trai tài năng tuấn tú chàng lo gì chẳng tìm được một người vợ xứng đáng? Nếu chàng có buồn bực đôi chút thì ngày kia chàng lấy được vợ chàng sẽ vui vẻ hơn, khỏi phải bị ràng buộc bởi hoàn cảnh khó xử của nàng, và chàng sẽ khỏi ôm hận suốt đời.
Vì thế, khi trông thấy Dương-Qua nàng đã cố giữ vẻ lãnh đạm, giả như không quen biết, mặc dù lòng nàng nóng như lửa bỏng.
Nhưng bản lĩnh con người không đủ để chế ngự bản năng. Dương-Qua đến, như đem đến cho nàng bao nhiêu hình ảnh xa xưa, những kỷ niệm êm đềm gợi ra trước mắt, và tình yêu dần dần xâm chiếm cả tâm hồn nàng mỗi lúc một xao động, đau khổ dày vò nàng ghê gớm.
Cho đến lúc nàng chợt nghe câu nói của Dương-Qua: "Tôi tưởng bệnh ấy phải dùng máu mới cứu nổi" thì nàng nghĩ ngay đến chuyện cũ trước kia ở trong cổ mộ, khi chàng cưu mang nàng.
Hồi đó, nàng bị Triệu-chí-Kinh và Doãn-chí-Bình chọc tức đến tức giận thổ huyết. Trong cơn nguy cấp chàng đã không nghĩ đến tánh mạng chàng, liền chích máu tươi của chàng, tiếp vào thân thể của nàng cho nàng được hồi sinh. Cái cảnh thân ái với mối tình tha thiết ấy nàng đã khắc vào tâm khảm, dấu kín trong tim. Nay bị khơi ra, nàng xúc động quá, máu nóng bốc lên mãnh liệt, và nàng bị thổ huyết rất ghê rợn.
Mặt nàng tái nhợt, nàng lảo đảo toan bước vào nhà trong nhưng Công-Tôn Động-chủ vốn giỏi về y lý, nên vội bảo:
- Không không! Em cứ đứng im đừng gượng bước, làm động đậy các gân mạch.
Đoạn lão quay lại nói với Dương-Qua:
- Ngươi hãy ra khỏi nơi nầy, và đừng bao giờ trở lại đây nữa.
Dương-Qua mắt đẫm lệ, không đáp lời Động chủ, quay lại nói với Tiểu-Long-Nữ:
- Thưa cô! Nếu tôi có lầm lỗi gì xin cô nương đánh tôi, mắng tôi hay giết tôi đi, tôi cũng cam lòng, sao cô nương lại nỡ làm lơ không nhìn đến tôi?
Tiểu-Long-Nữ cúi đầu không nói, chỉ ho vài tiếng, máu bắn ra xối xả.
Công-Tôn Động-chủ thấy Dương-Qua dùng lời nói khích đến nỗi vị hôn thê của ông thổ huyết, ông đã có ý giận. Nhưng ông vốn người có tánh kiên nhẫn, mặc dầu giận dữ cũng nén được.
Bây giờ lại nghe Dương-Qua nói nữa, lão cúi gầm mặt dằn mạnh từng tiếng:
- Nếu ngươi lấn khấn không chịu ra khỏi nơi đây thì đừng trách ta vô tình.
Dương-Qua lúc nầy đâu thèm để ý đến sắc mặt và lời nói của Động chủ. Chàng chăm chăm nhìn Tiểu-Long-Nữ, nói như van lơn, kêu cứu:
- Cô nương ơi! Tôi xin thề giữ trọn kiếp sống trong cổ mộ để hầu cô-nương quyết không hối tiếc sau nầy! Hai ta nên đi đi thôi.
Tiểu-Long-Nữ ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mặt Dương-Qua, thấy mặt chàng đầy vẻ thâm tình. Tim nàng đau nhói không sao chịu nổi:
- Nàng lẩm bẩm không ra tiếng:
- Ta theo chàng về thôi!
Nhưng nàng kịp nghĩ lại:
- Không, không! Lúc ra đi ta đã đắn đo suy nghĩ kỹ càng không phải bồng bột trong chốc lát. Chính giờ phút nầy mới là giờ phút cõi lòng ta nông cạn. Nếu ta không đủ sức đè nén thì sau nầy ta lại bị khổ tâm bằng mười trước kia.
Nghĩ như thế, nàng liền quay mặt đi nơi khác, miệng nói thì thào:
- Tôi không biết ông là ai! Ông nói gì tôi chẳng hiểu! Xin ông làm ơn đi ra khỏi nơi nầy, đừng quấy rầy tôi nữa!
Giọng nói nàng thều thào trong cổ họng như cố gắng lắm mới thốt ra được.
Tuy là lời từ chối, song bên trong chứa đựng cái gì tha thiết mến yêu.
Chỉ trừ Mã-quang-Tổ là người thật thà chất phác, không hiểu xa, còn hầu hết mọi người trong đại sảnh ai cũng thấy được lòng nàng còn lưu luyến Dương-Qua lắm!
Giọng nói của nàng như tiếng khóc, chứng tỏ lời nói trái ngược với lời nàng, và là một lời bất đắc dĩ.
Công-Tôn động chủ cảm thấy ghen tức, nhủ thầm:
- Liễu! Cô nương đã nhận lời thành thân với ta, nhưng từ trước tới nay chưa hề mở miệng nói với ta một câu nào âu yếm như thế.
Lão đưa mắt trừng Dương-Qua một cái, nhưng thấy Dương-Qua mặt mũi sáng sủa, tướng mạo khôi ngô, hùng khí hiên ngang, sánh với Tiểu-Long-Nữ thì đúng một đôi gái sắc trai tài trên đời có một.
Ông ta suy nghĩ:
- Xem như thế thì biết hai đứa nầy đã có một tâm hồn yêu thương mãnh liệt, chỉ vì một phút giận hờn nào đó, ả Liễu nầy bỏ đi, rồi gặp ta và nhận lời kết hôn, nhưng trong thâm tâm vẫn không quên được tình xưa nghĩa cũ.
Nghĩ như thế, đôi mắt lão long lanh, nực mùi ghen tức.
Phàn-nhất-Ông vốn trung thành với sư phụ, từ ngày sư-mẫu mất đi, hắn thấy sư phụ của hắn buồn bã không khuây. Thời nay, sư phụ hắn vào rừng hái thuốc, gặp được nàng hoa, bao nhiêu buồn bã như biến đi đâu mất. Do đó, thầy vui thì trò cũng vui lây.
Nào ngờ, hôm nay sư phụ hắn gần đến lúc làm tiệc cưới, động lòng hoa chúc thì Dương-Qua lại xen vào, dùng lời khiêu khích, xảy ra cớ sự lẽ ra sư-phụ hắn phải tỏ rõ thái độ, nhưng thấy sư phụ hắn cứ cắn răn nhịn nhục mãi, nên hắn nổi giận, chỉ vào mặt Dương-Qua hét lớn:
- Này, gã họ Dương! Mày dám vô lễ phạm đến vị sư mẫu của ta sao. Nếu biết điều mau bước ra khỏi động nầy. Sư phụ của ta không thích hạng khách vô lễ như mi.
Dương-Qua đang đau đớn trong lòng, còn để ý gì đến lời nói của kẻ xung quanh. Tuy có tai nhưng chàng không nghe thấy tiếng quát của Phàn-nhất-Ông, chàng vẫn với vẻ mặt đăm chiêu, nhìn Tiểu-Long-Nữ nói:
- Cô nương! Thật cô nương đã quên mất đứa em nầy chăng?
Phàn-nhất-Ông nổi nóng không còn nhịn nhục được nữa, dùng tư thế lợi hại, chụp vào cổ của Dương-Qua lôi tuốt ra ngoài.
Ai cũng tưởng với sự bất ngờ của Dương-Qua, Phàn-nhất-Ông sẽ nắm cổ dễ như chơi. Nào ngờ tay Phàn-nhất-Ông vừa động tới, Dương-Qua đã giật mình vội vận gân cốt chống lại. Chỉ nghe một tiếng "xoạc" bàn tay Phàn-nhất-Ông tuột xuống, nắm trúng vạt áo của Dương-Qua xé rách một lỗ rất lớn.
Tuy vậy, Dương-Qua cũng không thèm quay lại phản ứng. Chàng vẫn tiếp tục dùng lời van vỉ Tiểu-Long-Nữ.
Thấy Tiểu-Long-Nữ không nhìn nhận chàng, lòng chàng nóng như lửa đốt. Giá như lúc ở trong cổ-mộ, hay lúc gặp nàng một nơi nào khác có lẽ Dương-Qua còn năn nỉ nhiều hơn. Nhưng ở đây nơi trang viên của Công-Tôn Động-chủ, trước mặt đông người. Chàng cũng dè dặt phần nào.
Giữa lúc đó, Phàn-nhất-Ông thấy mình nắm hụt Dương-Qua, tức giận chờn vờn toan làm lại một lần nữa.
Dương-Qua tức giận, quay lại gây gổ cho hả giận:
- Khốn nạn! Ta đang nói chuyện với thầy ta, can chi đến thằng lùn mà mi lắm chuyện thế.
Phàn-nhất-Ông phùng má, trợn mắt hét lại:
- Ai cho phép mày phá rối sư mẫu tao? Mày dám nhận sư mẫu tao là thầy mày à? Thằng điên! Mau cút ra khỏi động, nếu đứng đó đừng trách tao khiếm nhã.
Dương-Qua vùng vằng nói:
- Ta không đi! Cô nương ta còn ở đây thì ta cũng ở đây mãi. Dẫu bọn bây có bằm xương xé thịt tao cũng quyết ở gần cô nương tao mà thôi.
Lời nói nầy chính Dương-Qua muốn nói với Tiểu-Long-Nữ hơn là nói với lão Phàn lùn kia.
Công-Tôn động chủ liếc nhìn Tiểu-Long-Nữ thấy mặt nàng đổi khác, vẻ lãnh đạm không còn nữa, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng, rơi xuống từng giọt hòa với vọt máu ướt đẫm trên ngực. Ông ta vừa lo ngại, vừa chua chát trong lòng, vội đưa mắt ra hiệu cho Phàn-nhất-Ông thầm bảo hạ độc thủ, kết liễu sinh mạng Dương-Qua để dứt mối tình lưu luyến giữa hai người.
Phàn-nhất-Ông nhận được lệnh của sư phụ rất ngạc nhiên. Nãy giờ lão tướng Công-Tôn Động chủ chỉ có ý đuổi Dương-Qua ra khỏi động mà thôi, nào ngờ ông ta lại có ý giết Dương-Qua một cách đột ngột như vậy.
Phàn-nhất-Ông nói lớn:
- Hôm nay là ngày vui của sư-phụ chẳng lẽ tôi lại giết người ư?
Dứt lời, Phàn-nhất-Ông đưa mặt nhìn Công-Tôn-Động chủ một lần nữa. Nhưng Công-Tôn Động-chủ lại ra dấu bảo không kiêng cữ gì cả.
Ông ta tỏ ý:
- Muốn cho cuộc vui được hoàn toàn phải hy sinh một vài phút buồn bã.
Phàn-nhất-Ông liền đưa cao cây thiết trượng, đập xuống đất một cái làm rung chuyển cả trang viện, và hét lớn:
- Thằng oắc con này! Mày không sợ chết hả!
Dương-Qua bây giờ trong lòng ngực nóng như đốt. Máu họng như chực trào ra. Bởi vì theo phái Cổ-Mộ đài, đã luyện ngọc-nữ tâm kinh, muốn giữ nội công phải triệt để khắc kỹ nén dục.
Cũng vì thế mà trước đây sư phụ của Tiểu-long-Nữ muốn cho nàng dứt bỏ hẳn mọi thất tình: ai, lạc, hỉ, nộ, ái, ố, dục, để trở nên một người đầy đủ nội công, truyền kế phái Cổ-Mộ đài. Nhưng sau đó, vì Tiểu-long-Nữ động chạm với đời, không dứt bỏ mối thất tình nên đã mấy phen thổ quyết.
Dương-Qua được nàng truyền lại phép nội công của phái Cổ-Mộ thì cũng như nàng, mỗi khi tâm hồn căng thẳng nội tạng bị tổn thương, tay chân chàng lạnh toát, và máu trong người muốn chảy ngược lên.
Chàng lẩm bẩm:
- Ta mửa máu ra trước mặt cô nương xem cô có còn nhẫn tâm không?
Nhưng chàng lại chợt nghĩ:
- Từ trước đến nay cô nương đối xử với mình rất luyến ái, hôm nay bỗng nhiên cô nương có thái độ lạnh nhạt như vậy chắc nội tình có gì rắc rối đây! Có lẽ lão động chúa đã dùng một quyền lực nào ép buộc cô nương, cô nương không dám nhìn nhận ta chăng? Nếu ta không nén lòng, để bị thương thì lấy ai giải cứu cho cô nương thoát khỏi tay chúng nó trong lúc này. Ta cần chiến thắng bọn chúng rồi sẽ liệu.
Nghĩ như vậy Dương-Qua không còn đau đớn vì cử chỉ của Tiểu-Long-Nữ nữa. Chàng trấn tĩnh tinh thần ngay, khí nóng chìm xuống đau điến.
Chàng mỉm cười nhìn Phàn-nhất-Ông nói:
- Cái hẻm núi nầy thật chán ngấy! Lúc ta đến không ai đón mời, giờ ta muốn đi thì cũng không ai van xin ta ở nán lại.
Mọi người thấy Dương-Qua đang bị kích động, thần sắc tiều tụy, bỗng nhiên trở lại bình thường, mặt mày thanh thản, lấy làm lạ trố mắt nhìn nhau.
Phàn-nhất-Ông không có tánh hiểm hóc, giết người như Nãi sư âm chí, nên lão chỉ dọa nạt, không cố ý giết Dương-Qua.
Lão vung thiết trượng lên. Một làn gió thổi tới vùn vụt, làm áo Dương-Qua tung lên phơi phới. Lão hét:
- Mày có chịu ra khỏi chỗ này hay không?
Công-Tôn Động chủ thấy thế nhíu đôi mày, nói với Nhất-Ông:
- Sao mi làm ồn ào như thế mà chưa được việc gì.
Nhất-Ông nghe lời nói sư phụ nửa trách phạt, nửa truyền lệnh, liền vung thiết trượng phất ngang qua đôi giò của Dương-Qua với một tư thế rất mãnh liệt.
Nàng Công-Tôn Lục-Ngạc vốn biết Nhất-Ông vị sư huynh của nàng được truyền hết võ công, nên cây thiết trượng ấy đã vung ra mạng người khó sống. Nhất-Ông đã dùng cây trượng ấy đập chết không biết bao nhiêu mãnh thú trong rừng hoang. Hôm trước tuy chính mắt nàng đã trông thấy Dương-Qua vận nội công chịu đựng với sức lửa trong nhà đá, với sức nội công ấy cũng gọi là độc đáo lắm, song tuổi Dương-Qua còn trẻ, căn bản tập luyện chưa uyên thâm, làm sao chịu nổi cây thiết trượng của sư huynh nàng. Nếu hai người đã giao đấu thì thất bại tất về phần Dương-Qua, mà nàng không thể nào cứu vãn nổi.
Nghĩ thế nàng đánh liều đứng dậy, phóng mình đến bên Dương-Qua, mặc dầu trong lúc đó vẻ mặt cha nàng đang căm giận không thể tả.
Nàng cất tiếng trong như ngọc gọi Dương-Qua nói:
- Dương công tử ơi! Chớ đa đoan làm gì. Lẽ nào không xem sinh mang mình là nặng?
Bọn Kim-luân Pháp-Vương ai nấy đều quay mặt nhìn về phía nàng Lục-Ngạc. Họ ngạc nhiên không hiểu tại sao nàng có cử chỉ ấy đối với Dương-Qua.
Có người nghĩ thầm:
- Thằng bé này vừa vào đây với chúng mình một lúc chẳng biết hắn ta thừa dịp nào tán tỉnh con gái kia, mà coi mòi cô gái kia đã có tình ý với nó?
Nghe Lục-Ngạc nói, Dương-Qua mỉm cười, gật đầu đáp:
- Đa tạ cô nương hảo ý. Vậy tôi xin hỏi cô nương có muốn dùng bộ râu dài kết làm sợi dây buộc lưng mà chơi không?
Lục-Ngạc bỡ ngỡ, không hiểu, hỏi lại:
- Sao? Công tử muốn nói gì vậy?
Dương-Qua đáp:
- Nghĩa là tôi sẽ bứt hết bộ râu của lão lùn nầy tặng cô nương làm món đồ chơi. Cô bằng lòng chứ?
Lục-Ngạc cả người run lên! Nàng không ngờ Dương-Qua lại dám ăn nói lỗ mãn và khinh người như thế. Trong động nầy kỷ luật rất nghiêm, nàng dám đến khuyên Dương-Qua một cầu như thế cũng là mạo hiểm lắm rồi, huống hồ Dương-Qua kẻ được nàng khuyên nhủ lại buông lời thóa mạ, làm nhục Nhất-Ông vị sư-huynh khét tiếng của nàng.
Nàng đỏ mặt, đứng im, không dám nói thêm lời nào.
Phàn-nhất-Ông tuy thân người lùn tịt, cao không quá một thước ba, nhưng bộ râu dài, xưa nay đã nhờ nó làm oai với thiên-hạ, nay nghe Dương-Qua đòi bứt râu mình, lão giận quá, động cây thiết trượng xuống đất một tiếng "bùng" rồi phóng mình nhảy tới một bước, hét:
- Thằng con nít! Ta cho mày biết bộ râu này.
Hàm râu của lão bây giờ cũng tung tăng như đang giận dữ, quật qua quật lại trước mặt Dương-Qua.
Dương-Qua không lùi bước, chỏ miệng vào Nhất-Ông, nói:
- A! Thế ra ông muốn tôi bứt giùm bộ râu của ông phải không? Nào, thử xem?
Vừa nói, Dương-Qua vừa đưa tay ra đằng sau rút một cái kéo lớn lướt tới như muốn xẻo râu địch thủ.
Lão Phàn vội quật ngược bộ râu về đằng sau, rồi bất thần đập xuống đầu Dương-Qua một trượng.
Dương-Qua lẹ làng né khỏi và thừa cơ nhảy phóng tới dùng lưỡi kéo nhắp một cái. Một tiếng "soẹt" nghe rợn người, lão Phàn vội nhảy ra đằng sau mới tránh khỏi. Nếu chậm một chút bộ râu kia đã rơi xuống đất rồi.
Lão Phàn tức giận vô cùng, nói:
- Ta sẽ dùng bộ râu nầy đánh mày cho mà biết tay.
Thật ra, bộ râu của lão Phàn đã có công lực trên ba mươi năm nay lại thêm đôi bàn tay giúp sức, râu ấy thành ra một thứ nhuyễn tiên (roi mềm) vân tráo (chổi mây) lợi hại vô cùng. Lão cứ lắc đầu, vận cổ, dùng tay điều khiển bộ râu quất qua quất lại nghe vun vút, đánh thẳng vào đầu vào mặt Dương-Qua.
Dương-Qua vận hết sức mình vào lưỡi kéo, chân nhảy chập chờn tay nhắp lia lịa, phát ra những tiếng "xoẹt xoẹt" liên hồi.
Nguyên lưỡi kéo này trước kia Dương-Qua đã nhờ Phùng-mặc-Ông rèn cho dùng để đối phó với cây phất trầ của Lý-mạc-Thu.
Dương-Qua nghĩ rằng Lý-mạc-Thu có đôi bàn tay "ngũ độc thần chưởng" lại cầm cây phất trần lợi hại, vung vẩy dọc ngang khắp chốn giang hồ. Công phu "vận trảo" (chổi mây) đã khiến cho Lý-mạc-Thu nổi tiếng, nên Dương-Qua muốn dùng cây kéo lớn để trị Lý-mạc-Thu.
Chàng đã nghiên cứu kỹ về thuật "vận trảo" của Lý-mạc-Thu và dự liệu cây phất trần của Lý-mạc-Thu sẽ đánh cách nào và chàng sẽ dùng kéo cách nào để có thể cắt đứt cây phất trần của Lý-mạc-Thu được.
Nào ngờ cây kéo của chàng chưa đấu với Lý-mạc-Thu lần nào thì hôm nay vào động Thủy-Tiên, chàng đã phải đem ra để đấu với bộ râu dài của lão lùn nầy.
Chàng vừa đánh vừa lẩm bẩm:
- Bộ râu của mày dẫu có lợi hại đến đâu cũng không bằng cây phất trần của Lý-mạc-Thu được.
Tuy là cái kéo và bộ râu hai bên đấu nhau kịch liệt, bộ râu quất vun vút, trong lúc cây kéo xoẹt xoẹt nhắp mãi không ngừng.
Mọi người không ai bảo ai đều quan niệm một cuộc đấu hào hứng, trố mắt nhìn vào hai đối thủ với vẻ thích thú vô cùng.
Hồi sáng, Châu-bá-Thông cũng dùng kéo cắt râu lão lùn, nhưng cắt đã chẳng được còn bị lão lùn cuốn râu quấn chặt kéo, làm cho Châu-bá-Thông phải bỏ kéo đi. Nào ngờ lúc này, Dương-Qua lại sử dụng cây kéo để cắt râu lão nữa.
Tuy nhiên, cây kéo của Dương-Qua khác hẳn với cây kéo của Châu-bá-Thông. Chàng đưa ngang đâm dọc, khi múa khi thu, cứ đuổi theo bộ râu như bám sát vào địch thủ. Trông đó đủ biết cây kéo Dương-Qua lợi hại hơn cây kéo của Châu-bá-Thông nhiều.
Thật ra, xét về vũ thuật và nội lực thì Dương-Qua tuy đã tự mình nghiên cứu thành một phái riêng, song chàng chỉ mới có tập luyện mấy năm, làm sao bì được Châu-bá-Thông. Sở dĩ chàng có nhiều kinh nghiệm thuật dùng kéo là vì chàng đã được đụng độ với Lý-mạc-Thu nhiều lần. Trông vào lối đánh phất trần của Lý-mạc-Thu, Dương-Qua đã học được một bài học về "vận trảo", do đó chàng nghiên cứu cách đả phá rất hữu hiệu.
Chỉ chốc lát, ngọn kéo của Dương-Qua lanh lẹ phi thường, và lão Phàn không còn dùng bộ râu để trấn áp cây kéo của chàng nữa.
Bộ râu của lão Phàn công lực cũng na ná như cây phất trần của Lý-mạc-Thu, chỉ khác chút ít về chi tiết, nên lối đánh râu của lão cũng khá lợi hại.
Lúc đầu lão khinh thường Dương-Qua nên đã mấy lần suýt bị hớt râu, sau đó lão phải dè dặt, đổi phép quật râu, múa lên trên quay, và tung hoành như vũ bão.
Có lúc bộ râu chỉ quật nhẹ để nhử địch, rồi dùng chưởng phong đánh tới, đôi tay lão chỉ đưa lên, rồi dùng bộ râu quất ngang rất mạnh. Nói chung là lối sử dụng "vận trảo" hư hư, thực thực, không thể nào lường được. Thật là một công phu kỳ diệu chưa từng thấy trong giới võ lâm.
Dương-Qua cố hạ bộ râu, nhưng mãi không sao hớt được, chàng tự nhủ:
- Lão nầy là đồ đệ của động chủ mà công phu thâm hậu đến thế nầy, nếu ta không thắng được đồ đệ thì mong gì đánh được thầy.
Chàng cảm thấy sốt ruột, dồn hết tinh thần vào cây kéo, bám sát vào bộ râu.
Nhưng bộ râu lão Phàn còn dài và rậm hơn cây phất trần của Lý-mạc-Thu. Lão quất tới quất lui rất kín đáo, không hề sơ hở tí nào.
Dương-Qua liệu thế không thắn nổi, liền nhảy lui ra đàng sau ba trượng, định thần nhìn lại lối quất râu của lão Phàn để tìm kế thủ thắng.
Chàng thấy lão lắc lư cái đầu nhỏ xíu, đánh ngược, đánh xuôi để điều khiển hàm râu. Bỗng chàng hớn hở reo lên như tìm một bí quyết gì vậy.
- A! Hãy khoan! Này lão Phàn, ta rất tiếc!
Lão Phàn dừng lại hỏi:
- Mày đã không thắng nổi ta, tại sao không chịu ra khỏi nơi đây.
Dương-Qua trợn mắt cười hì hì nói:
- Nãy giờ ta chưa hớt bộ râu của mi là vì ta tiếc cho mi đó thôi. Bộ râu của mi phải săn sóc bảo vệ hơn mấy mươi năm trời mới được như vậy. Bây giờ ta chỉ nhắp một cái là rụng sạch. Như thế có làm cho mi đau đớn chăng?
Lão Phàn thấy Dương-Qua làm bộ mặt quái gở, nói khích như thế, tức giận bước tới, nói:
- Thằng con nít! Đã đánh không lại ta mà không chịu thua còn nói dóc.
Dương-Qua nói:
- Ta chỉ đánh với ngươi trong ba hiệp nữa thì hàm râu ngươi rụng mất.
Lão-Phàn cười hề hề:
- Thật mày là con ếch dưới đáy giếng, nhìn trời không lớn bằng cái vung. Mày cứ hớt thử bộ râu tao xem?
Dương-Qua vừa cầm kéo xông vào vừa nói:
- Đáng tiếc! Đáng tiếc!
Lão Phàn vội tung ra một chưởng, Dương-Qua đưa tay trái gạt ra, tay mặt chìa mũi kéo đâm vào má lão. Lão Phàn vội nghiêng đầu toan tránh, không ngờ Dương-Qua lại lẹ làng dùng tay trái đánh vào má bên phải của lão.
Đòn nầy rất lẹ làng và độc hiểm, nhưng lão né tránh, rất nhanh. Chẳng ngờ trong lúc lão phải lo dùng đầu né tránh mấy đòn của Dương-Qua, bộ râu không còn điều khiển được nữa. Một làn gió phất bộ râu lão tung lên, Dương-Qua lẹ tay đưa kéo hớt một cái.
Một tiếng "xoẹt" phát ra, cả bộ râu dài của lão bay phơi phới, rơi nhẹ xuống đất như một bó chổi sổ.
Ai nấy đều ngạc nhiên không hiểu tại sao Dương-Qua đánh hơn năm mươi hiệp đầu không thắng, mà chỉ có ba hiệp sau chàng lại hớt đứt bộ râu.
Thực ra không có gì là khó hiểu. Dương-Qua là một kẻ khôn ngoan lanh lợi. Trong lúc nhảy ra ngoài, Dương-Qua đã nắm được nhược điểm trong thuật đánh râu: Trước khi râu lão phất về bên trái thì đầu nghiêng về phía tay phải, trước khi tung ngược thì đầu lão phải cúi xuống. Nói chung là lão đã dùng đầu để điều khiển bộ râu.
Biết được yếu tố ấy, Dương-Qua tự nghĩ:
- Hàm râu lão đánh mình được là nhờ ở cái đầu của lão, thế là mình không đánh vào chỗ gốc lại cứ đấu chọi với cái đuôi râu thì thật ngu ngốc quá.
Thế là chàng trực tiếp tấn công vào cái đầu. Và chỉ trong ba hiệp chàng đã cắt được bộ râu như chơi.
Bấy giờ lão Phàn bị cụt râu, mặt mày như chết điếng, đôi mắt thao láo, đau đớn nhìn từng sợi râu bay phất phơ trên mặt đất. Lão vừa căm giận vừa hối tiếc, vung tay cầm lấy cây thiết trượng gầm lên như thú dữ:
- Hôm nay ta quyết một sống một chết với mày. Mày đừng hòng thoát ra khỏi nơi đây.
Dương-Qua cười ha hả đáp:
- Thì ta đâu có nghĩ đến chuyện bỏ động ra đi.
Câu nói kinh khủng của Dương-Qua, làm cho lão Phàn càng tức giận thêm. Trong lúc đó Mã-quang-Tổ đứng một bên, thấy hàm râu lão Phàn trong chốc lát đã cụt lủn, không nhịn cười được, nói lớn:
- Bớ lão Phàn! Tướng ngươi đã lùn mà còn cụt râu nữa thì khó coi quá.
Lão Phàn cúi mặt xuống, cắn môi vận hết nội lực, quất cây thiết trượng vào lưng Dương-Qua một đòn rất mạnh.
Dương-Qua tuy nãy giờ đã đấu với lão nhiều hiệp, song chỉ mới đấu bằng nhu lực của bộ râu, chứ chưa rõ sức gân cốt của lão như thế nào.
Giờ đây bị lão dùng thiết trượng đánh tới, Dương-Qua vội vàng kéo ra đỡ.
Tức thì, một tiếng "choang" rất lớn, như muốn chát tai, cánh tay chàng tê đi, cây kéo bị cây thiết trượng đập trúng trông chẳng còn hình dạng gì nữa. Trên tay chàng chỉ còn một lõi sắt vô dụng.
Mọi người thất kinh không dám chế riễu lão Phàn nữa, vì biết nội lực của lão phi thường, và nghĩ rằng Dương-Qua không sớm thì muộn cũng phải bị nát thây dưới cây thiết trượng của lão.
Nàng Lục-Ngạc thấy vậy vội nhảy đến kêu lên:
- Dương công tử! Công tử không thể nào chống lại với sức nội công của sư huynh tôi đâu, xin chớ đấu nữa.
Công-Tôn Động chủ thấy con gái mình một lần nữa lo lắng cho kẻ thù, mặt hầm hầm sát khí. Ông liếc mắt nhìn về Tiểu-Long-Nữ thì thấy nàng vẫn thản nhiên không chút lo âu.
Hai thái độ ấy làm Động chủ buồn vui lẫn lộn. Ông buồn cho đứa con gái của ông ít , nhưng vui với Tiểu-Long-Nữ thì nhiều.
Ông nhủ thầm:
- Té ra nàng chẳng có gì tình với thằng đó cả. Nếu đã có tình thì trong lúc hắn lâm nguy, mặt nàng không thể giấu được nỗi lo âu.
Thật ra động chủ đã lầm! Tiểu-Long-Nữ dư biết Dương-Qua mưu trí có thừa, mà võ nghệ cũng chẳng đến nỗi thua sút lão Phàn. Hai bên đấu nhau, chàng chỉ có thắng chứ không thể bại. Vì vậy nàng chẳng cần phải để tâm lo ngại.
Bỗng thấy Dương-Qua ném cây kéo vô dụng xuống đất, gọi lão phàn nàn:
- Này Phàn-huynh! Ông thật không phải là đối thủ của tôi. Hãy quăng thiết trượng đi mà chịu thua cho sớm.
Lão Phàn căm giận hét lớn:
Mày thắng nổi cây trượng nầy tao sẽ húc đầu vào đá mà chết.
Dương-Qua cười lớn:
- Thật sao? Xin Phàn-huynh chớ nói thế mà hối hận không kịp.
Chàng nói chưa dứt thì cây thiết trượng của lão Phàn đã nhắm ngay đầu Dương-Qua đánh xuống một cái "vút". Đó là ngón "Thái sơn áo đỉnh" rất lợi hại.
Dương-Qua né mình qua một bên tránh khỏi, rồi lại dùng chân đạp cây thiết trượng.
Phàn lão dùng hết sức mạnh giơ cây trượng lên thì cả thân mình Dương-Qua cũng tung lên theo cây thiết trượng. Tuy nhiên chân chàng vẫn dính vào đó không rơi.
Phàn lão nổi giận giơ lên giơ xuống, thì thân mình Dương-Qua cũng tung lên, hạ xuống theo cây thiết trượng không rời.
Lão giận quá, toan trở đầu thiết trượng lại cho Dương-Qua xuống đất thì Dương-Qua đã lẹ làng đạp luôn chân mặt lên thiết trượng, rồi bước tới tung chân đá phóc vào mặt lão.
Phàn lão bối rối, nếu bỏ thiết trượng xuống thì xấu hổ, còn về đàng sau tránh né thì đồng thời lối đích theo, làm sao tránh được?
Trường hợp nầy nếu còn bộ râu thì lão có thể sử dụng, lắc đầu đét ngang một cái, quất vào chân Dương-Qua. Nhưng bộ râu lão đã cụt lủn rồi, còn dùng sao được nữa.
Cuối cùng, lão đành phải chịu buông thiết trượng.
Một tiếng ''huỵch" nặng nề, cây thiết trượng rơi xuống đất, và Dương-Qua cũng đáp xuống nhẹ nhàng.
Thừa cơ hội, Dương-Qua đớp lấy thiết trượng cầm tay.
Bọn Mã-quang-Tổ, Ni-ma-Tinh, Tiêu-tương-Tử cùng reo lên một lúc. Dương-Qua động đầu trượng xuống đất, hất hàm cười lớn:
- Thế nào đây?
Lão Phàn thẹn đỏ mặt nói:
- Vì sơ ý chốc lát, ta mắc quỉ kế của mi! Ta đâu chịu phục.
Dương-Qua nói:
- Thế thì đấu lại?
Dứt lời, Dương-Qua nhẹ nhàng ném cây thiết trượng về phía Phàn. Nhưng còn cách lão độ ba thước thì Dương-Qua đã phóng mình đến đoạt lại trong lúc lão Phàn chưa kịp đớp lấy.
Bọn Mã-quang-Tổ thấy thế reo hò ầm ĩ.
Mặt lão Phàn sắc đỏ đổi qua sắc tía, rồi lần lần thâm lại vì xấu hổ.
Kim-luân Pháp-Vương và Doãn-khắc-Tây nhìn nhau mỉm cười, thầm khen Dương-Qua người trẻ tuổi mà có nhiều mưu lược.
Hôm trước, Châu-bá-Thông đã dùng mâu, lao người dùng hết sức giật mạnh, khi ngọn mâu đến nửa chừng ông ta bỗng quay sang hướng khác. Có lẽ Dương-Qua đã học được lối "gấp khúc" nầy.
Công tôn động chủ và bọn đồ đệ thấy Dương-Qua ranh mãnh như vậy đều có ý lo sợ.
Dương-Qua lại hỏi lão Phàn:
- Thế nào? Có muốn thử lần nữa hay thôi?
Lão Phàn nghĩ rằng râu lão bị cắt, thiết trượng của lão đoạt chỉ vì thua trí chứ không phải thua sức nên lão vẫn tự quát lớn:
- Nếu ngươi dùng lực thắng nổi ta thì ta mới chịu phục.
Dương-Qua cười nhạt, nói:
- Đạo học võ lấy ''xảo" làm đâu. Sư-phụ của ngươi ngu xuẩn chẳng ra chi, nên đào tạo một lũ đồ-đệ dốt nát; Ta khuyên ngươi đi tìm một ông thầy khác học thêm là hơn!
Câu nói nầy chính Dương-Qua muốn khiêu khích Công tôn động chủ. Nhưng lão Phàn căm tức, thầm nghĩ:
- Mình học võ nghệ không còn cách gì thắng nổi nó thì nên tự vận mà chết để tạ tội với sư phụ.
Nghĩ như thế, lão nghiến răng ken két trợn mắt nhìn Dương-Qua như muốn nuốt sống ăn tươi.
Dương-Qua trao cây gậy tận tay lão Phàn, và nói:
- Lần nầy phải giữ gìn cẩn thận, nếu để ta đoạt nữa thì oán trách ta nhé.
Lão Phàn không đáp đưa tay nhận lấy thiết trượng, nghĩ thầm:
- Lần nầy nó muốn đoạt thiết trượng thì chỉ có cách nó chặt cánh tay ta trước mới có thể đoạt nổi.
Lão cầm thiết trượng thủ thế, rồi thuận tay vút mạnh vào người Dương-Qua.
Nhưng vừa loáng một cái, đã nghe Dương-Qua gọi lớn:
- Coi chừng!
Dứt tiếng, người chàng xông về phía trước tay trái chộp được đầu trượng, tay mặt dùng hai ngón tay xỉ vào mặt lão Phàn. Đó là một tư thế "Ngạo khẩn đoạt trượng" một thế tuyệt diệu "đả cẩu bổn pháp".
Năm xưa, tại đại hội cái bang, Hoàng-Dung đã dùng thế nầy đoạt lấy cây gậy trúc trong tay Dương-Khang, lúc Dương-Khang mạo danh làm bang chủ phá rối ở động đình.
Dương-Qua đoạt thiết trượng của lão Phàn hai lần trước, người trông thấy tuy cảm phục thủ pháp kỳ diệu độc đáo, nhưng vẫn chưa kinh khủng bằng lần này, vì lần này không ai trông thấy Dương-Qua làm cách nào mà lại đoạt cây thiết trượng một chớp nhoáng như vậy. Ngay như lão Phàn cũng không thể thấy cái ảo diệu ở trong, chỉ thấy chớp mắt một cái, thiết trượng đã về tay Dương-Qua rồi!
Mã-quang-Tổ vỗ tay la lên:
- Lão lùn trụi râu! Lần nầy hẳn lão đã phục tùng rồi chứ?
Dương-Qua thấy mặt lão Phàn đỏ ngầu, chàng cười ha hả, quăng trả cây thiết trượng lại cho lão, và nói:
- Thôi được cứ thử chơi vài "keo" nữa xem sao?
Mọi người thấy Dương-Qua có nhiều điêu thuật, tay không đoạt gậy như chơi, nên cũng muốn để cho chàng biểu diễn thêm vài môn nữa cho ngoạn mục.
Nhưng lão Phàn thị lại nghĩ khác. Lão thấy Dương-Qua lanh lẹ có nhiều ngón độc, dù lão cố giữ gậy cũng chẳng được nào, nên đáp:
- Ta sử dụng vũ khí dài và nặng, nếu thắng ngươi chẳng có gì là danh dự.
Dương-Qua cười lớn đáp:
- A! Thế ra ngươi đã sợ cái công lực dùng tay không đoạt vũ khí của ta rồi. Vậy thì để ta cũng dùng thứ vũ khí đấu với ngươi.
Dứt lời, chàng quắc mắt nhìn quanh đại sảnh, thấy trống trơn chẳng có một món nào có thể dùng làm binh khí được. Chàng lại nhìn ra sân thấy gần đó có hai cây liễu, thân cây và cành khá lớn, lá xanh rũ xuống rợp màu.
Chàng quay lại nhìn Tiểu-Long-Nữ, nói:
- Ngày xưa cành tốt biết nay có còn? Cô nương muốn dùng họ Liễu thì em cũng xin dùng cành liễu làm binh khí để đánh chúng nó vậy.
Nói câu nầy, Dương-Qua đã lấy ý ở trong câu thơ của Hàn-Hoành ở đời Đường gởi về cho vợ là Liễu thị.
Trong bài thơ ấy có câu.
Chương đài liễu, chương đài liễu
Tích nhật thanh thanh, kim tại phủ
Tùng sử trướng điều tự cựu thùy
Dã ứng phan chiết tha nhân thủ.
Nghĩa là:
Liễu chương đài, liễu chương đài,
Ngày xưa xanh tốt, biết nay có còn?
Tơ dài, như vẫn còn buông
Ngại rằng ai bẻ cành non mất rồi!
Dứt lời, chàng không cần nhìn lại vẻ mặt Tiểu-Long-Nữ, phóng mình chạy về phía trước sân, bẻ một cành liễu lớn, đường kính hơn một tấc, dài đến bốn thước, đầu đuôi trơn tru, giống như cây đả cẩu bổng ở tổng hội ăn mày Cái Bang vậy.
Tiểu-Long-Nữ xôn xao trong lòng, không biết sự việc sau này sẽ đi đến đâu, và nàng sẽ phải quyết định ra làm sao nếu, Dương-Qua cứ lầy dầy ở đó mãi. Dương-Qua càng ở lâu trước mặt nàng bao nhiêu thì nàng càng khó chịu bấy nhiêu. Bởi vì, dự tính của nàng là cắt đứt mối tình giữa nàng và Dương-Qua, tìm một hoàn cảnh khác để khuây khỏa, mặc dầu hoàn cảnh ấy không tốt đẹp gì.
Nàng nghĩ thầm:
- Nếu cứ đứng đây nhìn chàng mãi, mỗi cử động, mỗi lời nói của chàng chẳng khác gì một đốm lửa nung vào lòng ta, chi bằng ta ra đàng sau cho khuất mắt là hay hơn.
Tuy nghĩ thế, nhưng chân nàng không sao bước đi được. Chẳng biết sức mạnh vô hình nào đã giữ nàng mãi ở đây để chịu cảnh khổ đau.
Phàn-nhất-Ông thấy Dương-Qua không dùng binh khí sắc bén chỉ dùng cành liễu như đồ chơi trẻ con, thì lão cho là chàng có ý khinh lão lắm. Lão có ngờ đâu chính cây gậy trúc đánh chó của ăn mày cũng chỉ chừng đó thôi, mà có thể đánh bạt mọi dáo to, kiếm sắc! Cái ào diệu ở chỗ là biết dùng gậy mà thôi.
Cành liễu của Dương-Qua tuy không bằng cây gậy trúc của Hồng-thất-Công song cũng đủ áp đảo cây thiết trượng của lão Phàn rồi.
Mã-quang-Tổ thấy Dương-Qua không tìm được vũ khí, phải dùng tạm cành trúc làm gậy, nên gọi lớn, nói:
- Này chú Dương! Ta cho chú mượn cây đao của ta đây.
Vừa nói, Mã-quang-Tổ vừa rút đao ra khỏi vỏ. Lưỡi đao chiếu sáng ngời chứng tỏ đó là một bảo đao hiếm có.
Nhưng Dương-Qua chắp hai tay từ chối:
- Cám ơn anh! Lão lùn nay chưa được thầy giỏi dạy dỗ, võ nghệ còn kém quá! Cành liễu nầy cũng đủ cho lão ăn đòn rồi.
Dứt lời, chàng tung cành liễu lên, đập vào thiết trượng của lão Phàn một tiếng "chát".
Lão Phàn thấy Dương-Qua ăn nói vô lễ, nhục mạ đến sư phụ lão, nên lão quyết sống chết với Dương-Qua để bảo tôn thanh danh của lão.
Lão gầm lên một tiếng, triển khai chín chiêu biến ra mười một thế "bát thủy trượng pháp".
Phép đánh cương trượng nầy gọi là "bát thủy" có nghĩa là khí trượng múa lên thì tạt nước vào cũng không lọt. Như thế đủ rõ đường trượng của lão kín đáo đến bực nào.
Lúc đầu tiếng trượng rít lên vun vút, nhắm vào Dương-Qua tấn công dữ dội. Nhưng dần dần về sau người ta thấy phương của cây trượng mỗi lúc một lệch lạc đi. Đầu ngọn trượng chênh lệch thì tiếng gió nghe càng yếu dần.
Sở dĩ như thế là vì Dương Qua đã áp dụng theo thế"đả bổng pháp" bắt đầu dùng chữ "triển" chế ngự vũ khí của đối thủ. Đầu cành liễu cứ xoắng lấy đầu gậy tiếp thép. Trượng xoay về đông thì cành liễu cũng xoay về đông, trượng xoay về tây thì cành liễu cũng xoay về tây. Đầu trượng tung lên thì đầu cành cũng tung lên cao. Sức mạnh cành liễu mỗi lúc một tăng, kiềm chế thiết trượng không còn hoạt đông nỏi. Công phu lợi hại này chính là phương pháp "chỉ gậy đẩy ngàn cân" mà chữ "triển" mới chỉ là một trong năm chữ theo phép "tứ lương bát thiên cân" rất tinh vi ả diệu của phép"đả cẩu bổng pháp" vậy.
Công tôn động chủ vàng trong cuộc đấu càng lấy làm lạ. Không ngờ một cậu thiếu niên trẻ măng như Dương Qua mà lại có một võ công thần diệu đến thế.
Chỉ thấy trượng pháp của lão Phàn mỗi lúc một suy yếu, còn cành liễu của Dương Qua thì kình lực mỗi lúc một tăng lên. Sau ba mươi hiệp, người ta nhận thấy mức tăng giảm giữa hai bên rõ rệt.
Toàn thân lão Phàn bị cành liễu khống chế. Lão càng tăng thêm sức mạnh thì thân mình càng lảo đảo, không thể tự chủ được.
Sau cùng, thân lão như cuốn theo một cơn gió lốc mãnh liệt, tay chân lão mỏi rũ, mắt hoa mặt tối, chẳng còn biết phương hướng nào nữa.
Động chủ đập tay lên bàn một cái cất tiếng gọi:
Phàn-nhất-Ông, hãy lui lại mau!
Bàn tay Động chủ đập lên đá, tiếng kêu nghe rợn người. Ngay đến Dương Qua cũng phải giật mình thầm nhủ:
- Lão này công lực không vừa. Vậy ta phải trấn áp tên đệ tử của lão một hồi để cho lão thất kinh, làm giảm nhuệ khí của lão đã.
Chàng vội vàng chuyển tay một cái, đầu gậy bắt đầu múa sang chữ "chuyển".
Chỉ thấy chàng đứng yên một chỗ, tay múa lia lia, xoay tròn đầu gậy đẩy lão: Phàn từ tả sang hữu, rồi từ hữu sang tả giống như môt cậu bé dùng dây đánh chơi con"vụ". Tay chàng càng múa nhanh thì lão phàn càng chuyển lẹ.
Chàng cất tiếng nói lớn:
-A! Bây giờ nếu ngươi đứng im được mà không ngã thì ta, ngươi là hảo hán anh hùng.
Từ cành liễu tròn, lão Phàn không còn đủ sức tự chủ được chân bước loạng choạng như say rượu. Chẳng mấy chốc, lão té nhào xuống đất.
Công Tôn chủ thấy vậy, lẹ làng nhảy tới, tung mình lên không đưa tay nhắm đầu cây thiết trượng của lão Phàn đập xuống một tiếng "Bốp" và uốn mình nhảy trái trở về.
Hành động chớp mắt! Cây thiết trượng của lão Phàn bị cái đập ấy cắm sâu xuống đất hơn hai thước. Thật là một sức mạnh lạ đời, Dương Qua cũng phải chắc lưỡi khen thầm.
Cây thiết trượng cắm xuống như một cây cột sắt, lão Phàn nhân đó bấu chặt vào cây cột mới khỏi ngã. Mình lão như một con ếch, đầu lắc lư, hai chân còn dãy bần bật, trông rất thảm hại. Qua một lúc lâu, lão mới định thần, đứng vững được.
Bọn Tiểu tương tử và Doãn khắc Tây hết nhình Dương Qua lại nhình Động Chủ, đinh ninh là hai người này không thể nhường nhau. Họ sẵn sàng đón xem một trận sống mái mà thắng phu chưa thể nào định trước được. Mã- Quang-Tổ tánh tình thẳng thắn, muốn ủng hộ Dương Qua nhưng thấy nội lực siêu nhân của Công Tôn Động chủ cũng e ngại vô cùng.
Sau khi định thần, lão Phàn vụt chạy đến trước mặt Động chủ quỳ gối chắp tay lạy, nhưng mắt lão vẫn trừng trừng, hai hàm răng nghiến chặt không lên một tiếng nào.
Động-Chủ chưa kịp mở miệng, thì đã thấy lão Phàn vụt chạy đến một cây đá, húc đầu vào tự tử.
Hành động của lão bất ngờ và chớp nhoáng không ai kịp nghĩ đến.
Sao lão lại nóng tánh đến thế nhỉ? Tỉ võ hơn thua là việc thường đối với những hiệp khách giang hồ, có gì mà phải liều mình tự sát?
Công-Tôn động chủ kêu lên một tiếng:
- Ôi chao!
Rồi tức khắc rời khỏi chỗ ngồi, phóng tới như tên bay, chồm tay túm lấy lão đồ đệ. Nhưng chậm mất rồi, lão Phàn đã lao mình tới quá nhanh làm cho Động-chủ chụp hụt mất.
Lão Phàn nhắm mắt, lao đầu vào cột rất nhanh, định đập vỡ sọ cho mau để khỏi phải cái chết đau đớn. Nhưng khi lão húc vào cột đá thì cảm thấy cột đá mềm nhũn, như lão đã húc phải một cái nệm bông vậy.
Lão ngạc nhiên, mở mắt nhìn. Thì ra Dương-Qua đã nhảy đến kịp đưa tay chận chiếc đầu của lão lại.
Chàng gọi to:
- Lão Phàn, đời còn thiếu gì chuyện tím ruột bầm gan! Việc nầy có gì đến nỗi phải hủy mình?
Thì ra Dương-Qua là kẻ tinh tế phi thường. Lúc lão Phàn quỳ lạy động chủ, chàng nhìn vào đôi mắt lão đã biết được phần nào ý định của lão. Dương-Qua đứng gần lão hơn hết, nên lúc lão lao mình đến cột đá, chàng đã dự ý trước nên nhảy đến kịp, đưa tay chận đầu lão.
Thấy Dương-Qua không để lão được chết, lão gầm lên:
- Mày cản tao để làm gì?
Dương-Qua với giọng đau đớn, nói:
- Tôi cần nói rõ với ông là tôi hiện còn đau đớn gấp mấy lần hơn ông. Nhưng tôi vẫn không muốn hủy mình như ông.
Lão Phàn nghe giọng rên rỉ của Dương-Qua, lấy làm lạ, hỏi:
- Mi đánh thắng ta không phải là một vinh dự hay sao lại đau đớn?
Dương-Qua buồn bã, lắc đầu, nói:
- Đấu võ hơn thua là chuyện thường. Các tay hào kiệt không lấy thắng làm vinh, không lấy thua làm nhục. Trong đời tôi, tôi đã chiến bại biết bao nhiêu lần rồi. Ông thua tôi mà tự tử thì sư phụ của ông đau đớn xót xa, chứ như tôi thua ông mà tự tử thì thầy tôi chẳng chút đoái hoài. Điều đó mới là chuyện đau lòng.
Lão Phàn không hiểu ý Dương-Qua muốn nói gì, đứng ngơ ngác, thì Công-tôn Động-chủ đã gọi lớn:
- Nhất-Ông! Nếu ngươi còn có ý nghĩ điên rồ như vậy tức là ngươi đã trái mệnh ta. Ngươi hãy đứng sang một bên để xem bọn đàn em của ngươi trị tên láo khoét ấy.
Bình sinh, lão Phàn rất tôn kính sư phụ không bao giờ dám trái ý. Nay nghe sư phụ lão truyền dạy như thế, lão liền đưa mắt lườm Dương-Qua một cái, rồi đứng lui ra đàng sau, không dám mở miệng.
Về phần Tiểu-Long-Nữ, tuy muốn tỏ cử chỉ lãnh đạm đối với Dương-Qua, nhưng khi nghe Dương-Qua nói câu thống thiết "... thầy tôi chẳng chút đoái hoài" nàng cảm thấy xốn xang vô cùng. Đôi dòng lệ lã chã chảy xuống hai gò má trắng nhợt.
Nàng thầm nhủ:
- Nếu chàng chết đi thì ta sống được sao?
Công-tôn Động-chủ cứ chốc chốc lại liếc nhìn Tiểu-Long-Nữ để dò xét. Ông ta thấy Tiểu-Long-Nữ
rơi lệ, lấy làm tức giận, đập tay xuống bàn thạch hét to:
- Hãy bắt lấy thằng bé đó cho ta.
Đó là mệnh lệnh của lão truyền cho bọn đệ tử bắt người. Lão tự coi mình là Động-chủ, bậc sư phụ, không hạ mình xuống tranh tài với Dương-Qua.
Bấy giờ hai hàng đệ tử áo xanh nhất tề dạ ran. Mười sáu người cầm bốn tấm lưới chia ra bốn mặt, hô lên một lượt phủ vây Dương-Qua.
Đáng lý ra, bọn Kim-luân Pháp-Vương đã cùng đi với Dương-Qua đến đây, thì trong lúc Dương-Qua lâm nạn, họ phải đứng ra phân giải hòa mới phải, nhưng bọn chúng cứ đứng cười nhạt, tự cho mình như kẻ ngoại cuộc, không hề tỏ ý gì cả.
Tiếp đó, Động-chủ lại đưa tay vỗ lên bàn thạch ba lần, tức thì mười sáu tên đệ tử áo xanh, mỗi người chiếm một phương vị từ từ bước tới đón hẹp vòng vây.
Dương-Qua thấy bốn cái lưới mỗi lúc một khép dần lại, lòng bối rối, chẳng biết phải dùng cách nào để thoát thân, thầm nghĩ:
- Đến như Châu-bá-Thông võ nghệ trùm đời mà còn bị mảnh lưới này bắt chụp được huống hồ ta tài hèn thì sao thoát khỏi? Hơn nữa, Bá-Thông chỉ cần thoát thân, bế xốc được hai gã Phàn, Mã ném vào lưới, rồi thừa cơ nhảy tọt đi. Chứ ta, hiện nay cần phải ở lại động nầy chết sống với cô nương ta thì đâu được rảnh rang như Châu-bá-Thông mà bỏ trốn?
Chàng đang nghĩ ngợi, thì chợt nghe mấy tiếng "tinh tinh" bốn mảnh lưới lại chéo đầu chuyển vị, đưa ngang đưa dọc, lúc ngửa lúc nghiêng, biến đổi hình thể như muốn chụp lấy chàng.
-
Chương 48 - Phong Ba Chưa Ráo Nợ Hồng
Chương 48
Phong Ba Chưa Ráo Nợ Hồng
Dương Qua đã được trông thấy bọn đệ tử động Thủy Tiên bủa lưới chụp Châu bá Thông, nên chàng biết đó là một môn pháp kỳ diệu khó thoát được. Lối bủa lưới này là một trận pháp, chẳng kém trận "Bắc đẩu thiên cang" của giáo phái Toàn Chân. Tấm lưới khi thẳng khi chùng, khi thu hẹp, khi nới rộng ra mỗi bề dài hơn một trượng, người cầm lưới lại núp kín sau mành. Muốn phá trận lưới tất phải giết cho được người cầm lưới, khốn nỗi, khi tiến đến bên người cầm lưới thì bị mảnh lưới chụp ngay, không để cho đối thủ kịp ra tay. Dương Qua đành thúc thủ, chẳng phải biết dùng cách nào được. Trong lúc đó thì mười sáu lên đệ tử áo xanh cứ dần dần tiến đến, mảnh lưới mỗi lúc một khép thêm. Chàng bí lối, chỉ còn cách phóng chân chạy từ đầu nầy sang đầu nọ để tránh né. Lối khinh công của chàng theo lối Cổ mộ, lanh lẹ phi thường. Tuy nhiên chàng chỉ là một con cá đã vào trong lưới dầu có nhảy lung tung cũng chỉ chờ người ta khép hẹp mành lưới lại đề bắt lấy mà thôi. Do đó mặc cho chàng bay lượn, bọn đệ tử áo xanh kia vẫn không đuổi theo chàng, cứ lần lần thu hẹp mành lưới mà thôi.
Trong lúc chạy nhảy tung tăng, Dương Qua để mắt quan sát, tìm xem có chỗ hở nào để thoát thân được chăng, nhưng thấy bốn bề kín mít. Mỗi lần bọn chúng dời đổi phương vị là mỗi lầ n mành lưới thu hẹp thêm hai bước. Tuy không tìm được kẽ hở, nhưng Dương Qua cũng hiểu được trận lưới này bắt chước theo kiểu lưới nhện. Con nhện rình bắt mồi thế nào thì kẻ bố trận cũng rình như thế. Con nhện ẩn mình thật kín, đợi con mồi vướng vào lưới tơ rồi mới chồm ra bắt lấy. Chàng nghĩ bụng: "Không thể đến gần chúng nó được thế thì ta dùng ám khí giết chúng ắt xong. Chàng tung chân nhảy phóc lên mấy cái nữa, rồi thò tay lần vào túi rút ra mấy chiếc "Ngọc phong châm" tung ra một lượt. Bốn mũi phong châm phóng tới bốn người ở phía nam. Loại phong châm nầy rất lợi hại phóng ra tất chết người hoặc bị thương nghìn lần không sai một. Cách xa chàng mấy trượng, chàng vẫn phóng trúng phong phóc thì bốn người nầy đứng gần, làm sao khỏi chết?
Chàng đinh ninh như thế, nào ngờ thấy chàng động thủ, bốn tên giăng lưới đã giơ mành lưới lên án ngữ. Bốn tiếng "tinh, tinh tinh, tinh" vang lên và bốn cây phong châm dính ngay trên mành lưới. Thì ra những sợi thép vàng dùng đan lưới ấy lại có một từ tính nam châm có thể hút được ám khí. Một cái lưới rộng như thế thì bất cứ ám khí của kẻ địch nào tung vào cũng vô hiệu. Dương Qua biết không thể dùng ám khí được nên còn mấy mũi phong châm nơi tay mặt chàng, chưa kịp phóng ra, vội cất ngay vào túi.
Chàng cau mày nhìn vào mặt Công Tôn động chủ tỏ ý khâm phục tài sáng chế của lão. Lúc này ai cũng thấy Dương Qua đang đứng trong tình trạng hiểm nghèo, mà tánh mạng như ở trong tay động chủ rồi.
Người chỉ huy trận pháp lưới hô to một tiếng, cả bọn từ từ lướt tới. Trước mặt chàng ánh kim khí chói lòa. Một tấm lưới tung lên cao đang đổ nghiêng xuống để chụp lấy chàng.
Chàng nhún mình một cái, toan chạy đến hướng tây bắc, thì hai tấm lưới phía nầy đã dồn lại khít nhau, bít ngay mất lối. Chàng hoảng sợ kêu lên:
- Hỏng rồi! Thôi ta đã lọt vào tay động chủ gian manh này, không hiểu sẽ chịu nhục nhã đến thế nào?
Đang lúc nguy khốn. Bỗng nghe một tiếng kêu rất lớn:
- Ôi!
Tiếng kêu như ngọc vỡ và nhẹ nhàng như giọng oanh, phát ra từ chỗ bốn người cầm lưới ở phía Nam. Dương Qua quay đầu nhìn lại thì thấy nàng Lục Ngạc vừa ngã lăn xuống đất, kéo theo một góc lưới sa xuống. Tức thì nghe một tiến "véo" toàn thân Dương Qua đã phóng lọt ra kẻ hở của mành lưới nhanh như một mũi tên. Thật lanh lẹ! Lối phi thân của Dương Qua như điện chớp.
Ai nấy đều kinh ngạc trố mắt nhìn, họ ngạc nhiên trước tài năng Dương Qua thì ít, mà lạ lùng trước hành động của con gái động chủ nhiều hơn. Tuy miệng Công tôn Lục Ngạc kêu đau nhưng mắt nàng lại đảo rất nhanh, liếc nhìn Dương Qua ra dấu, tỏ ý thầm bảo:
- Dương công tử hãy trốn đi khỏi động này lập tức, đừng dấn thân trong chốn hiểm nguy.
Đôi mắt nàng như van lơn, cầu khẩn làm cho Dương Qua cũng phải xúc động. Nhưng chàng dẫu chết cũng không thể nào bỏ trốn khi Tiểu long Nữ còn sờ sờ ra đó. Chàng nhủ thầm: "A! Nàng liều mạng cứu ta, tình ý thật vô cùng nhã cảm. Nhưng nếu ta chạy trốn thì cô ta phải thành hôn với lão chúa động này. Hôm nay dù bị nát thây ta cũng đành chịu, quyết không rời bỏ nơi đây được".
Quả thật, chàng vì nặng tình xưa không kể đến tính mệnh. Đôi mắt chàng đăm đăm nhìn Tiểu long Nữ không chớp. Chẳng lẽ chàng bị khốn nguy như thế mà Tiểu long Nữ không chút động lòng sao?
Thật ra, Tiểu long Nữ lúc này tuy cúi đầu không nói tiếng nào nhưng lòng nàng còn đau khổ hơn Dương Qua gấp bội. Dương Qua đau nhưng còn nói ra được, chàng không nể sợ, thẳng thắn thổ lộ can trường, còn Tiểu long Nữ phải dằn mọi đau đớn trong lòng, nhốt kín trong thâm tâm, để phải chịu đựng một sức giày xéo không bờ bến.
Bị hỏng việc, động chủ đập tay xuống bàn hai cái, bốn tấm lưới rẽ ra. Lão nhìn mặt nàng Lục Ngạc lạnh nhạt hỏi:
- Mày làm gì thế?
Lục Ngạc nhăn nhó thưa:
- Phụ thân! Chân con bỗng nhiên bị xụi gân, đau quá không đứng vững nổi.
Vốn là kẻ tinh đời Công Tôn động chủ còn lạ lùng gì cử chỉ yêu đương say tình của đứa con gái lão. Nếu ngày thường thì lão sẽ làm cái nhiệm vụ "nghiêm huấn". Nhưng hôm nay trước mặt một số đông khách lạ, lão không tiện làm mặt giận quát mắng con gái mình, nên cười nhạt bảo:
- A? thật thế sao? Thôi, hãy vào nhà trong mau!
Đoạn ông ta quay lại gọi một đệ tử nữa:
- Số mười bốn đâu? Hãy thay vào vị trí của nó.
Nàng Lục Ngạc cúi đầu, lủi thủi bước vào trong. Một thiếu nữ bước đến, đầu có hai bím tóc kết thành dây vải xanh. Trong khi thiếu nữ ấy nắm một góc lưới thì nàng Lục Ngạc lại đưa mắt nhìn trộm Dương Qua. Trong ánh mắt bao hàm một cái gì thiết tha sầu não.
Dương Qua hiểu ý thầm nhủ:
- Cô nương ơi! Tấm thịnh tình của cô đối với tôi kiếp này thực không sao báo đáp được. Nhưng cô buộc tôi đi khỏi nơi này, tôi không thể nào nghe theo lời cô được.
Bỗng động chủ vỗ tay xuống bàn bốn cái, tức thì mười sáu tên đệ tử lại lui vào nhà trong.
Dương Qua thấy thế nghĩ thầm:
- Lẽ nào lại chịu thua ta?
Chàng quay lại nhìn Lục Ngạc thì thấy mặt nàng tái mét. Nàng ra dấu giục Dương Qua phải mau mau rời khỏi động tức khắc. Cứ nhìn vào ánh mắt kinh hoàng và thái độ sợ hãi của nàng cũng đủ biết sắp có một việc đại biến xảy đến cho Dương Qua. Nhưng chàng vẫn mỉm cười đưa tay kéo chiếc ghế ngồi xuống giữa đại sảnh.
Chợt từ phía sau nhà phát ra những tiếng kêu lanh lảnh rợn người. Đó là tiếng sắt chạm vào nhau. Chỉ loáng mắt, mười sáu người đệ tử của động chúa lại tiến ra, tay cầm lưới chụp. Trông thấy mành lưới nầy ai nấy đều khủng khiếp. Thì ra động chủ đã truyền đổi bốn tấm lưới khác, trong lưới có treo những lưỡi câu chĩa nhọn sáng lòa cái nào cũng rùng rợn.
Mã quang Tổ la lớn:
- Ôi chao! Động chủ lão huynh ơi! ông dùng cái vật tối độc này để giết người ư? ông không còn nể mặt, nể tình với khách nữa à?
Động chủ lườm mắt nhìn Dương Qua dằn từng tiếng:
- Không phải ta muốn giết người. Đã mấy lần ta yêu cầu ngươi rời khỏi nơi nầy, thế mà ngươi cố tình không chịu nghe theo, cứ ở mãi nơi đây quấy rối. Bây giờ ta bảo cho một lần chót nếu muốn toàn mạng mi hãy đi ngay.
Mã quang Tổ vốn là kẻ già gan lớn mật, nhưng khi trông thấy bốn tấm lưới dị thường ấy cũng phải lè lưỡi rợn người. Nhất là khi nghe những móc câu trong lưới rung lên, hắn không còn giữ được bình tĩnh nữa, bèn đứng phắt dậy, bước tới nắm tay Dương Qua nói:
- Chú Dương ơi! Vật kia hại người ghê gớm quá, nên tránh xa đi là hơn, ăn thua với bọn họ làm gì?
Dương Qua không đáp, quay nhìn Tiểu long Nữ, xem nàng có nói gì không. Nhưng nét mặt nàng vẫn trầm lặng như không.
Thật ra, trước đây Tiểu long Nữ đã quyết định lập trường của nàng rồi, nên nàng mới có thái độ ấy. Nàng mang ơn động chủ cứu mạng lại thấy trong động vắng thâm u, nàng có thể chôn vùi cuộc sống thừa của nàng mà khỏi gặp mặt Dương Qua. Bởi lẽ đó nàng mới nhận lời thành thân với động chúa. Vả lại, nàng thấy động chủ là người ôn hòa, kiến thức uyên bác, thật không phải kẻ tầm thường, nàng có thể gởi thân được. Ngờ đâu, Dương Qua đột nhiên tìm đến, khiến cho nàng không còn tránh né vào đâu được. Bây giờ thấy động chủ đem loại vũ khí độc ác ra, định hại mạng Dương Qua nàng đã nghĩ sẵn đến cái "chết". Nàng định bụng sẵn, hễ mành lưới kia chụp Dương Qua, nàng sẽ lao đầu vào chết theo. Vì đã quyết định như thế, nên mặt nàng vẫn thản nhiên, chờ đến phút lâm chung. Nàng tin rằng chỉ có cái chết bên chàng mới tiêu tan được oan nghiệt mà thôi.
Nỗi u uẩn trong lòng nàng như thế, Dương Qua làm sao biết được. Chàng cứ nghĩ rằng trong lúc mình lâm nạn như thế mà cô mình vẫn thản nhiên, không có một chút đau lòng, xót ruột thì tình nghĩa xa xưa nay còn đâu? Trong lúc đầu óc rối loạn, bỗng Dương Qua nẩy ra một ý nghĩ. Chàng chạy đến trước mặt Tiểu long Nữ, vòng tay lễ phép nói:
- Thưa cô! Nay em Qua rủi mắc nạn, xin cô nương cho em mượn giải lụa và tất tay.
Tiểu long Nữ đang nghĩ đến việc sẽ ôm nhau cùng chết trong mành lưới thì còn thiết gì nữa. Nàng lạnh lùng thò tay vào bọc rút giải lụa và hai chiếc bọc tay màu trắng trao cho Dương Qua.
Đó là hai thứ vũ khí độc đáo nhất của nàng. Chiếc bao tay kia mang vào thì vũ khí đâm không lủng. Còn giải lụa kia ở đầu có một cái chuông nhỏ, dùng tung ra kình địch thủ rất lợi hại.
Dương Qua đưa tay tiếp nhận, và đăm đăm nhìn vào mặt nàng hỏi:
- Thế thì lúc nầy cô nương đã nhận ra em chưa?
Tiểu long Nữ thấy xốn xang trong lòng, không thể nào làm mặt lạnh nhạt được nữa, vì nàng đã quyết định cùng chết với Dương Qua nên nàng mỉm cười bảo:
- Ngay từ lúc thấy mặt, lòng tôi đã nhận anh rồi!
Nét mặt Dương Qua bỗng nhiên hớn hở thần sắc uy nghi, chẳng khác nào vừa uống một viên thần dược. Chàng hỏi với giọng hối hả:
- Thế là cô nương đã nhất định theo em ra đi, không kết hôn với động chủ nầy nữa chứ?
Nàng tươi cười gật đầu:
- Tôi quyết theo anh đến cùng, và không còn lấy ai nữa!
Câu nói của nàng hàm ý là sẽ chết theo Dương Qua. Chí quyết theo nhau dưới tuyền đài mà thôi. Nhưng Dương Qua đâu hiểu được ý ấy. Chàng tưởng Tiểu long Nữ đã hết giận chàng, chàng sung sướng quá sức. Trong lúc đó mọi người đứng xung quanh đều ngạc nhiên trố mắt nhìn nàng. Công Tôn động chủ đau đớn ra mặt, buồn giận tuôn ra một lúc, vung tay đập mạnh lên thạch bàn, giục bọn đệ tử ra tay sớm.
Mười sáu tên đệ tử chuyển bước theo phương vị, bủa lưới vây quanh. Dương Qua lúc nầy đã được Tiểu long Nữ nói mấy lời nên tâm hồn chàng thanh sảng, sức mạnh tăng gấp bội và gan dạ có thừa, dẫu trong dầu sôi lửa bỏng chàng cũng chẳng coi ra gì huống hồ tấm lưới sắt này. Chàng lồng hai chiếc tất vào hai bàn tay rồi cầm giải lụa tung ra, đầu giải lụa tiếng chuông chạm nhau kêu lanh lảnh. Sợi dây lụa bạch phóng ra ngoằn nghèo như con rắn, co giãn, tới lui rất lanh lẹ. Chàng phóng về phía nam, một tiếng "tinh" phát ra, tiếp đó chàng phóng về hướng Bắc, hai tiếng "tinh tinh" phát ra. Cứ mỗi tiếng "tinh" là một tên đồ đệ của Động chủ bị điểm vào trọng huyệt. Chỉ loáng mắt, chàng đã điểm vào ba huyệt "Khúc thạch" của ba tên giăng lưới. Chúng không chịu nổi phải quỵ xuống đất. Những đứa còn lại, thấy vậy trố mắt nhìn nhau và tâm thần dao động, chỉ còn biết tiến đánh, một cách yếu ớt. Thế là trận lưới bị vỡ. Dương Qua thừa thế, vung giải lụa tiếp đánh hai cái nữa. Hai tiếng "tinh tinh" phát ra, tiếp theo hai đứa của Động chủ lăn nhào. Nhưng lúc ấy tấm lưới sắt phía Bắc đã thấp xuống quá gần. Cố nhiên chàng không thể dùng giải lụa để quật được nữa, trong lúc nguy cấp, chàng vội tung bàn tay trái chụp ngay mành lưới hất mạnh trở ra. Vì tay chàng có bọc "chưởng táo" nên các móc câu trong mành lưới sắt như gươm vẫn không nào đâm lủng nổi!
Tiếp dó, chàng lại tung chân nhảy vọt về hướng khác. Thân hình chàng rất dẻo, vì trước đây chàng đã từng nằm trong núi vắng, rừng sâu khổ công ôn lại võ nghệ. Sự luyện tập ấy đã đưa chàng đến một công phu kỳ diệu vô cùng.
Bọn đệ tử không ngờ chàng có thể túm được mành lưới, đẩy ngược bất ngờ, các móc câu quay ngược lại, móc lên đầu chúng đau quá, la ôi ối!
Uy mãnh của Dương Qưa mỗi lúc một tăng. Chàng tung giải lụa đánh tiếp vào huyệt đạo của những đứa còn lại. Chúng sợ quá, không còn dám đến gần, bước lui về phía vách đá thủ thế, và dùng mành lưới làm vật hộ thân, che chở cho nhau, không còn dám tiến đến chụp lưới nữa.
Mã quang Tổ thấy thế, giậm chân múa may khen Dương Qua inh ỏi. Trong lúc đó thì Kim Luân Pháp Vương vẫn đứng nguyên một chỗ, trầm ngâm không nói một lời nào.
Mã quang Tổ quay lại hỏi lớn:
- Pháp vương Hòa thượng! Chú Dương bản lãnh cao cường như thế không đáng cho ngài khen ngợi nửa lời sao?
Kim Luân Pháp Vương mỉm cười đáp:
- Khá lắm! Khá lắm! Nhưng còn có nhiều nguy hiểm hơn, chớ nên vội mừng.
Mã quang Tổ nói:
- Cái nguy hiểm là mành lưới độc ác đó mà đã bị tê liệt thì còn cái nào đáng ngại nữa?
Pháp Vương không đáp, đưa mắt nhìn Công Tôn động chủ.
Bấy giờ Công Tôn động chủ đôi mày dựng ngược lên, chậm rãi bước đến giữa nhà với vẻ mặt đầy sát khí. Trong lúc Công tôn Động chủ nghe Tiểu
long Nữ nói với Dương Qua câu "Tôi nhất quyết theo anh đến cùng" thì lão cảm thấy như lão đã sống trong mộng suốt nửa tháng nay, bao nhiêu mộng đẹp đều đổ vỡ như mây khói. Vì quá căm tức, nên lão đã thầm nhủ: "Nếu không chiếm được lòng nàng thì cũng quyết không để tấm thân nàng lọt vào tay kẻ khác. Giờ ta đập thằng oắt con nầy một chưởng không nát thây thì nàng dẫu không yêu ta cũng không dám trái mệnh ta. Ta sẽ dùng thời gian chinh phục nàng sau". Công Tôn động chủ vốn là kẻ biết xử sự không nóng nẩy, bừa bãi như những kẻ khác. Tuy nhiên, Tiểu long Nữ, một tuyệt sắc giai nhân, đã chung sống với lão hơn tuần nay, nàng đã hứa thành thân với lão, trong lúc hôn lễ sắp thành thì Dương Qua đã đến phá hỏng làm sao có thể chịu nổi. Bất đắc dĩ lão mới có ý định giết Dương Qua.
Dương Qua thấy lão ung dung bước tới, nét mặt hầm hầm, không biết võ công lão đến mức nào, nên chàng cũng e ngại, lui về hai bước, tay nắm chặt giải lụa thủ thế. Chàng biết mạng của chàng chết hay sống, vinh hay nhục, đời Tiểu long Nữ vui hay sầu là do cuộc chiến đấu này định đoạt cả.
Bấy giờ động chủ đưa chân bước từng bước một, dạo quanh trong phòng, còn Dương Qua thì tay nắm chặt giải lụa đứng một chỗ thủ thế đôi mắt chàng không rời Công Tôn động chủ một giây phút nào. Tuy Công Tôn động chủ chưa ra tay song Dương Qua đã biết trước đòn đánh đầu tiên của lão phải là một đòn rất khủng khiếp có thể vong mạng. Bỗng thấy hai tay của lão đưa về phía đằng trước ba lần, rồi đập vào nhau một tiếng
"bốp".
Mọi người thực không ngờ. Đôi tay bằng xương bằng thịt sao vỗ lên nghe chan chát như hai tảng đá đập vào nhau vậy.
Dương Qua rợn người, chưa kịp thối lui thì nhanh như chớp, bàn tay Công Tôn động chủ đã vươn tới nắm lấy mảnh lưới, giật mạnh một cái, hất tung ra đằng sau. Tay Dương Qua đang giữ mảnh lưới, bị cái giật ấy thốn đến xương đau nhói.
Lão quăng lưới vào góc phòng cho bốn đệ tử đỡ lấy và quát:
- Hãy lui mau!
Bốn đệ tử tuân lệnh đem mành lưới vào nhà trong.
Quan khách đứng xem đều thất kinh, khi thấy động chủ diễn ra những tác uy cực kỳ dũng mãnh, chứng tỏ bên trong hàm chứa một công lực phi thường. Ngay như nàng Lục Ngạc cũng chỉ biết cha nàng có một võ công tuyệt tác chứ chưa hề nghĩ đến một nội lực vô cùng thâm hậu như vậy Trong bọn đồ đệ của lão, chỉ riêng Phàn nhất Ông biết được chân lực của lão mà thôi.
Lão đưa mắt nhìn nét mặt còn non trong của Dương Qua, nhủ thầm: "Mày muốn chết thì sẽ được chết! Nhưng có điều ta phải ân hận là ta đã giết một kẻ hậu sinh!".
Dương Qua không dám để động chủ ra tay trước, chàng vội tung giải lụa điểm vào huyệt "Cự cất" trên đầu vai lão và quật luôn vào huyệt "Thiên đỉnh" ở cổ.
Nhưng Công Tôn động chủ là người sáng lập ra một môn phái võ lâm, công lực thâm hậu, lão còn coi giải lụa kia ra gì và việc điểm huyệt đối với lão là điều vô dụng. Lão vẫn đứng trơ ra đấy, hai tay mở rộng để trống cả bụng, ngực có ý khích Dương Qua.
Dương Qua thất kinh nghĩ thầm: "Cô nương ta thường nói, trên đời này chỉ có Âu dương Phong, Hồng thất Công, Hoàng dược Sư, là những kẻ có võ công tuyệt thế, khi trông thấy địch sắp tấn công có thể kịp thời khép kín đạo huyệt. Riêng Âu dương Phong môn nầy còn kỳ ảo hơn, có thể di chuyển các đạo huyệt trật đi chỗ khác, khiến cho địch thủ không tìm ra. Nhưng nội công ấy còn có thể bị người cao thủ dò tìm ra được chứ Công Tôn động chủ thì bị điểm huyệt liên tiếp mà không hề phản ứng, tựa hồ như trên mình lão không có huyệt đạo nào vậy. Công phu nầy thật hiếm thấy trên đời". Nghĩ như thế, Dương Qua đâm ra lo lắng, không dám dùng giải lụa điểm huyệt Công Tôn động chủ nữa.
Công Tôn động chủ thấy Dương Qua ngơ ngác, bèn vung tay đánh tới một chưởng. Bàn tay của động chủ mỗi lúc một vung tới là một luồng hắc khí xông ra, sức gió vùn vụt ép vào người chàng. Chàng biết chưởng lực ấy vô cùng lợi hại, nên không dám dùng sức chống đối phải nghiêng mình sang một bên để tránh. Chỉ trong láy mắt, hai bên đã đánh nhau hơn mười mấy chiêu. Dương Qua để hết tinh thần vào việc chiến đấu. Bỗng như chàng nghĩ ra điều gì lẩm bẩm: "Lạ thật! phương pháp của lão nầy hình như không có gì độc đáo? Mình đã thấy kẻ nào diễn qua rồi!". Thấy lão tung ra một lúc hai chưởng lực, một nhu một cương chàng vội né tránh và la lớn:
- Này! ông biết Hoàng nhan Bình chăng?
Chàng đột nhiên hỏi đến câu ấy, vì chàng nhận ra chưởng pháp của lão động chủ giống hệt chưởng pháp của Hoàng nhan Bình. Có lẽ Hoàng nhan Bình và lão ta cùng một môn phái chăng? Mặc dù công lực lão thâm hậu hơn Hoàng nhan Bình nhiều lắm.
Bấy giờ động chủ vẫn đưa bàn tay lên không, và vụt qua cái lão đã vọt tới trước mặt chàng.
Theo nguyên tắc thông thường, người đấm quyền phát chưởng, ai cũng dùng cánh tay đưa nắm đấm tay vung ra thì nắm đánh sang, nhưng Công Tôn động chủ thì không thế, ông ta dùng toàn thân đưa chưởng phong tới cánh tay không hề co duỗi, tức là lão đã dùng sức mạnh toàn thân. Chính Hoàng nhan Bình cũng có dùng lối đánh nầy. Lối đánh này mạnh hơn lối đánh bằng sức cánh tay, nhưng thường bị chậm hơn, thế mà Công Tôn động chủ đã sử dụng rất lanh lẹ. Lão đánh nhanh như chớp nhoáng, khiến cho Dương Qua không thể lường trước được. Dương Qua không kịp tránh né, phải đưa bàn tay trái liều lĩnh đỡ đòn. Một tiếng "bùng" phát ra, hai luồng chưởng phong đập vào nhau. Dương Qua bị lật ra đằng sau ba bước, trong lúc đó động chủ chỉ đứng nguyên một chỗ, toàn thân hơi rung chuyển chút ít mà thôi. Dương Qua cảm thấy như nóng ran cả người từ bàn tay lên đến cánh tay trái như muốn tê buốt. Chàng nghĩ thầm: "Cái bọc của cô mình kiếm đâm không lủng, chém cũng chẳng đau tay, thế mà chưởng lực của lão này đánh đau thấu đến xương tủy, thật lạ lùng".
Công Tôn động chủ tuy đứng vững một chỗ, có vẻ thắng thế, nhưng thực ra lão bị chưởng lực của Dương Qua phấn kích ác liệt, và lão cảm thấy đau nhói tâm can, thất kinh nhủ thầm: "Hừ! Thằng bé chưa ráo máu đầu vì đâu lại được công lực uyên thâm đến thế. Hắn đã đỡ được đòn chưởng của ta, nếu ta không đem hết sức ra thì khó bề hạ được hắn. Nếu không hạ được hắn thì còn gì danh tiếng của ta tự bấy lâu nay đối với giang hồ hảo hán?". Nghĩ như thế, lão liền đập hai bàn tay một lượt, tung ra song chưởng.
Dương Qua thất kinh nhảy vọt ra đằng sau hơn ba bước. Thực ra, nếu động chủ dùng công lực đánh tiếp thì Dương Qua không thể nào thoát khỏi nguy. Chàng cũng cảm thấy sức chàng không đủ để đương đầu với lão được. Tuy nhiên trước mặt mọi người, trước tình thế chàng không thể lánh mình bỏ Tiểu long Nữ rơi vào tay kẻ khác, nên chàng quên cả hiểm nguy, cố tìm cách đánh vào tâm lý lão động chủ. Chàng nói:
- Chúa động! Người quyết tranh thắng bại với ta để làm gì? Mi đánh thắng ta liệu cô ta có chịu thành thân với ngươi chăng còn ngươi đánh thua ta, cô ta tất không chịu lấy ngươi rồi. Đàng nào ngươi cũng thiệt thòi, nếu ngươi cứ dùng vũ lực.
Câu nói ấy quả đã đánh trúng vào mối lo âu của Chúa động. Tuy đánh trúng song lão nghĩ rằng Dương Qua là người yêu của nàng, nếu giết Dương Qua đi thì nàng sẽ buồn bã, chắc gì nàng đã chịu thành thân, khi vết thương lòng đă in sâu vào con tim sầu khổ kia. Còn nếu không giết Dương Qua để hắn phá đám mãi, lão cũng chẳng làm gì được. Lão thấy mình quả đang ở trong thế bí, không lối thoát. Đôi bàn tay lão đánh vào nhau chan chát, tỏ ra giận dữ phi thường. Bỗng lão nghĩ ra một cách, gọi bọn đồ đệ, bảo lớn:
- Hãy đem binh khí của ta ra đây.
Nàng Công Tôn Lục Ngạc biết rõ binh khí của cha nàng là một món giết người nguy hiểm, Dương Qua không thể nào thoát chết được. Đôi mắt nàng lặng lờ, nhìn Dương Qua như van lơn chàng hãy nhịn cha nàng mà đi nơi khác cho xong.
Thấy nàng rụt rè chưa vào lấy vũ khí, động chủ hét lên:
- Mày không nghe lời tao nói gì hay sao?
Mặt nàng Lục Ngạc tái mét. Nàng "dạ" một tràng nhỏ rồi quay gót vào trong. Dương Qua liếc nhìn trạng thái tâm hồn diễn biến qua hai cha con động chủ, rồi mím môi thầm nghĩ: "Chỉ một đôi tay không của lão cũng đủ đánh ta tan xác rồi, bây giờ lão còn bảo đem vũ khí ra làm gì nhỉ?".
Thật vậy, động chủ thừa hiểu sức lực lão đánh Dương Qua không khó, nhưng lão không muốn giết Dương Qua, gây đau khổ cho Tiểu long Nữ, lão chỉ muốn đem những vũ khí cổ quái của lão để dọa cho Dương Qua sợ, bỏ động này không dám bén mảng đến mà thôi.
Dương Qua biết cơn nguy đã đến, nếu không bỏ chạy còn đợi lúc nào. Chàng bước đến Tiểu long Nữ thỏ thẻ:
- Cô ơi! Thôi chúng ta cùng đi nơi khác, ở đây nguy mất!
Công Tôn động chủ cau mày, nghiến răng, hai bàn tay nắm chặt, chờ cho Tiểu long Nữ đứng dậy là lão đấm cho Dương Qua một chưởng nát xương.
Tiêu long Nữ đã thấy được dự tính của lão, nên vẫn ngồi im, nói với Dương Qua:
- Lúc này chưa phải lúc ra đi với nhau. Em Qua ơi! Mấy hôm nay trong người em có khỏe không?
Câu nói của nàng như chứa đựng một niềm mến yêu tha thiết. Dương Qua sung sướng quá, không còn nghĩ đến nguy hiểm sắp đến, chàng nhìn vào mặt Tiểu long Nữ hỏi:
- Cô ơi! Cô không giận em nữa chứ?
Nàng khẽ mỉm cười, đáp:
- Cô đâu có biết giận em bao giờ. Lòng cô cũng như tự thuở nào!
Đoạn nàng đưa tay ra dấu bảo Dương Qua:
- Em hãy ngồi xuống đây! Quay lưng lại cho cô xem.
Dương Qua không hiểu nàng làm gì nhưng cũng tuân lời, ngồi xuống quay lưng lại. Tiểu long Nữ thò tay vào túi lấy ra cây kim sợi chỉ, khâu áo rách cho Dương Qua. Chỗ áo này vừa rồi do động chủ đánh toẹt một miếng. Nàng vừa vá vừa nói:
- Mấy hôm nay cô định may cho em chiếc áo mới, nhưng lại nghĩ từ nay chúng ta vĩnh biệt không còn gặp nhau nữa thì may làm gì. Ôi, có ngờ đâu em lại đến đây.
Cử chỉ của nàng gợi cho bao kỷ niệm êm đềm tự xa xưa, lúc còn ở nơi Cổ mộ, mỗi lần áo Dương Qua bị rách, chính nàng đã tự tay vá lấy và lúc nầy, cả hai đều trìu mến trong dĩ vãng, quên hẳn trước mặt họ có đông đảo quan khách trố mắt nhìn vào. Đặc biệt là đôi mắt động chủ trao tráo nhìn hai người như nẩy lửa.
Dương Qua nói:
- Cô ơi! Lúc nãy em đã làm cho cô bị tức đến thổ huyết! Em thật có tội.
Tiểu long Nữ mỉm cười, khẽ nói:
- Đó không phải tại em! bệnh cũ của cô đã nhiều lần tái phát. Hôm nay chỉ là một trong những lần thổ huyết mà lúc vắng em, em không trông thấy.
Dương Qua thổn thức:
- Sao cô nỡ bỏ em? Cô không chịu để em được hầu hạ bên cô mà chăm sóc?
Tiểu long Nữ thở dài, nói:
- Xa cách em chẳng bao lâu mà võ nghệ của em đã tiến bộ quá chóng. Hiện nay cô không đáng là sư phụ của em nữa, mà chính cô tôn em làm sư phụ mới đáng.
Lời khen của Tiểu long Nữ làm cho chàng sung sướng quá. Chàng ước được bay liệng không trung, la lên cho rung chuyển cả không gian mới thỏa lòng.
Hai bên chuyện trò, kẻ hỏi người đáp, tuy chỉ là những câu nói, những ý tứ thường tình song ai cũng cảm thấy một mối tình sầu thảm không giới hạn giữa hai con tim trẻ măng đó. Bọn Kim Luân Pháp Vương trố mắt nhìn nhau từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên kia. Trong lúc đó, động chủ như một khúc gỗ, đứng trân trân như kẻ mất hồn, không còn biết đâu nữa. Trong phòng vì vậy vắng lặng như tờ.
Dương Qua cất tiếng nói:
- Cô ơi! Trong những ngày gần đây, em được gặp nhiều dị nhân quá! Cô có biết cái kéo lớn của em vừa rồi do đâu mà có không?
Tiểu long Nữ mỉm cười:
- à! Thật kỳ quặc! Chẳng lẽ em biết trước ở đây có lão lùn râu dài nên đem sẵn kéo đến hớt râu sao? Ôi! Em thật nghịch ngợm quá. Bộ râu của lão ta khổ công nâng niu hàng mấy mươi năm mà em nhẫn tâm hớt trụi như vậy còn gì!
Nụ cười của nàng mỹ miều làm sao, khiến ai trông thấy cũng cảm mến. Riêng động chủ không sao dằn được nữa. Lão vươn tay nắm ngay ngực Dương Qua kéo lôi ra, gào lên:
- Súc sanh! Mày xem trong đời nầy không còn có người hay sao?
Tiếng thét của lão vang lên, làm vang cả căn nhà đá. Nhưng Dương Qua không hề để ý, đưa tay gạt lão ra, và nói:
- Khoan, khoan! Ngươi hãy chờ một chút, đợi cô ta vá áo xong ta sẽ tái đấu.
Bỗng nghe có tiếng nàng Lục Ngạc nói:
- Thưa cha, binh khí đây ạ!
Lão không quay đầu lại, bước lui về đàng sau một bước, quàng tay đỡ lấy khí giới. Đó là hai thứ vũ khí lạ đời. Tay mặt lão cầm một con dao to bản, lưỡi có răng cưa, ánh thép chói lòa chẳng biết đúc bằng kim loại gì mà đen thui thui, có một sức nặng kinh người, còn tay trái lão cầm một cây lao nhọn, vừa dài vừa nhỏ, trông mềm mại và nhẹ nhàng. Hai thứ vũ khí tính cách trái ngược nhau. Một bên thì cứng và nặng một bên thì mềm và nhẹ. Cứ xem hai thứ vũ khí ấy thì biết lối sử dụng của lão phải là một nghệ thuật lạ đời rồi.
Dương Qua chỉ liếc nhìn sơ qua hai thứ vũ khí quái dị ấy, rồi lại quay qua Tiểu long Nữ tiếp tục nói chuyện:
- Cô ạ! Cách đây mấy ngày em có gặp một cô gái ngây ngô. Cô ấy nói cho em biết kẻ đã giết cha em.
Tiểu long Nữ giật mình hỏi:
- Kẻ thù giết cha em là ai?
Dương Qua nghiến răng nói:
- Hạng người ấy cô nương có thể nào đoán nổi. Chính họ là kẻ đối xử với em rất tử tế.
Tiểu long Nữ nóng lòng vặn hỏi:
- Họ là ai thế?
Dương Qua toan đáp thì đằng sau một tiếng "choang" nổi lên làm chói tai chát óc. Đó là tiếng chạm nhau giữa hai thứ binh khí trong tay lão Động chủ. Lão muốn kéo cổ Dương Qua ra giết phứt cho rồi, nhưng Dương Qua cứ mãi ngồi bên Tiểu long Nữ trò chuyện, nên lão muốn giết
lúc nào cũng được không cần phải lợi dụng cơ hội nào hết. Lão nghĩ thầm: "Những cao thủ trong đời này, chỉ có thể đấu với ta bằng đôi bàn tay sắt mà thôi, còn như "ngư võng trân" thì không có ai phá rối nổi, trừ khi bọn Thất tử Toàn Chân dùng "Thiên cang bắc đẩu" lấy trận đấu trận, thì công lực bên nào mạnh bên ấy sẽ thắng. Đến như cặp "âm dương song đao" nầy, ta đem hết sức ra sử dụng có lẽ trong thế gian không còn ai dám địch ta nữa.
Với Dương Qua, lão chỉ cần đánh trong mười chiêu là đã kết thúc tánh mạng ngay. Nhưng lão giết Dương Qua sợ làm cho Tiểu long Nữ buồn lòng, nên lão muốn dùng vũ khí để dọa cho Dương Qua sợ mà thôi. Thấy Dương Qua cứ ngồi lì ở đấy, không chịu ra đấu, lão liền hét lên một tiếng:
- Hãy coi cây gươm đây nầy!
Mũi gươm của lão nhắm ngay ngực Dương Qua đâm tới! Có điều lạ là gươm đâm tới không đâm thẳng mũi gươm cứ xoay tròn múa tít trước ngực chàng. Chàng giựt mình nhẩy lui ra sau một bước để tránh.
Thực ra, động chủ không có ý giết Dương Qua, chứ mũi gươm ấy đâm thẳng tới thì dù Dương Qua có lanh như điện cũng không còn tránh nổi. Mũi gươm cứ tròn xoe quay tít. Dương Qua không còn nhận rõ đường đi của mũi kiếm là đường nào nữa. Chàng né qua bên tả, thì sợ gươm kia đâm bên hữu, né qua bên hữu sợ gươm đâm bên tả, né trên sợ gươm đâm phía dưới, vì vậy chàng chỉ còn có cách lùi lại là an toàn hơn. Nhưng Dương Qua vừa nhảy lùi ra thì ngọn hắc kiếm đã áp tới xoay tròn trước mặt. Vòng xoay mỗi lúc một mở rộng hơn, lúc sau chỉ khoanh trước ngực chàng, về sau cả ngực và bụng chàng đều nằm vào tâm quay của mũi kiếm đó.
Bọn Kim Luân Pháp Vương, Doãn khắc Tây, Tiêu tương Tử, đều là những tay võ công có hạng, hiểu biết sâu xa về võ học, nhưng chưa từng thấy lối kiếm pháp nào lạ lùng như thế. Ai nấy đều đứng ngẩn ngơ nhìn vào đôi tay của động chủ cứ vò tròn trước mặt Dương Qua. Dương Qua cứ lùi tránh mãi, nhưng thuật khinh công của động chủ thật tài tình. Hễ Dương Qua lùi lại ba bước thì động chủ đã tiến tới hai bước, dính liền với Dương Qua, không một phút giây sơ hở.
Chỉ trong loáng mắt, Dương Qua đã nhảy lùi hơn ba mươi lần, vòng quanh trong căn nhà đá. Dương Qua thầm nghĩ: "Lão chỉ mới sử dụng một cây hắc kiếm mà còn lợi hại như vậy, nếu lão dùng cả cây kim đao kia nữa thì ai địch nổi?". Vừa nghĩ chàng vừa tiếp tục thụt lùi để tránh né. Nhưng chỉ thấy lão múa gươm mà không có ý hạ sát mình nên Dương Qua đâm ra bạo dạn, vung giải lụa trắng đánh vào các huyệt đạo của lão. Nhưng vô ích, giải lụa trắng như con rắn dài, cứ điểm trên mình lão những tiếng "tinh tinh" nghe rởn ốc, mà lão vẫn như thường ngang nhiên múa đao xe xóe. Thấy điểm huyệt lão chẳng ăn thua gì Dương Qua liền sinh ra một kế, vụt giải lụa dài quấn vào chân lão rồi giật mạnh một cái, cốt làm cho lão quýnh chân ngã xuống.
Nhưng giải lụa vừa quấn vào chân, lão đã dưa đao xuống dứt ngang một cái. Nghe "vèo" một tiếng, giải lụa Dương Qua đã đứt ra làm hai khúc. ôi! Lưỡi hắc kiếm của lão quả là một vũ khí sắc bén nhất đời.
Mọi người đứng xem thấy thế cùng hét lên một tiếng "á". Và tiếp theo đó, gió rít vèo vèo, động chủ đã vung hắc đao lên tiếp tục tấn công Dương Qua như vũ bão. Dương Qua vươn mình nằm rạp xuống, tức thì một tiếng "xoảng" vang lên chói tai nhức óc. Bốn vách tường như chuyển động, thì ra Dương Qua bị hắc kiếm chặt đứt dây "Kim linh sách" nên phải nhoài mình xuống lượm cây thiết trượng của lão Phàn bỏ rơi lúc này để đối phó. Chàng vừa tung thiết trượng lên đã bị hắc kiếm chém tới một nhát kêu chan chát. Sức chém và sức đỡ rất mãnh liệt. Động chủ giật mình, nghĩ thầm: "Thằng nầy nội lực quả ghê gớm! Nó dám chống lại nhát chém của ta". Liền đó, tay lão động chủ vung ra, cả kim đao và hắc kiếm đều sử dụng một lượt. Tính cách hai thứ vũ khí nầy tương phản. Hắc kiếm mạnh và cứng, đánh chém vù vù, lanh lẹ phi thường, thì kim đao của lão lại đâm tới từ từ lòn lỏi theo một thế yếu, nhưng nhắm vào các nhược điểm của đối phương mà tấn công.
Dương Qua biết lão đã dùng hai vũ khí cổ quái ấy một lúc thì không còn tài nào tranh né được nữa, chàng sực nhớ ra môn "Đả cẩu bổng pháp" nghĩ thầm: "Ta dùng cây trượng nầy làm cây "đả cẩu bổng" may ra mới ngăn trở nổi làn vũ khí ác liệt".
Chàng liền múa đầu thiết trượng thành hình chữ "Phong". Mũi trượng quay tít và bảo vệ trước ngực Dương Qua rất kín đáo.
Công Tôn động chủ tay chém tay thâu, tư thế rất độc, nhưng vì môn "Đả cẩu là một môn võ tuyệt kỹ tử xưa nay, biến hóa khôn lường, nên thật khó mà áp đảo nổi nữa.
Dương Qua tuy dùng thuật "Đã cẩu bổng" chống lại cặp gươm "Âm dương" của động chủ, nhưng phép "Đả cẩu bổng" cốt lanh lẹ dùng loại cây nhẹ mới có thể biến đổi được các tuyệt chiêu trong pháp thuật, đàng này chàng lại dùng cây thiết trượng quá nặng, nên ban đầu có lẹ làng thật, nhưng sau thì dần dần yếu đuối và đầu trượng không còn linh động được nữa.
Công Tôn động chủ thừa thế chém xuống một gươm, một tràng "cắt" vang ra, tức thì cây thiết trượng của Dượng Qua gãy làm hai đoạn.
Tưởng thế là một bất lợi cho Dương Qua, nào ngờ chàng mừng rỡ, reo lên:
- A ha! Tốt lắm! Ta đang bực mình vì cái gậy sắt quá nặng đây. Ngươi chặt đi một khúc thì còn gì hay hơn?
Chàng vừa nói vừa múa tít khúc trượng còn lại, áp dụng phép "Đả cẩu bổng" biến đổi vô cùng lợi hại.
Động chủ gầm lên một tiếng:
- Được! Giỏi lắm! Mày hãy xem đây.
Dứt lời, lão vung tay chém xuống một nhát kiếm. Dao nầy chém từ trên xuống đỉnh đầu, nhưng có điều lạ là lão chém rất chậm, như vướng mắc cái gì vậy. Dương Qua toan nói thì lại bị mũi kim đao của lão tung ra xoáy tròn về phía ấy. Thất kinh, Dương Qua đưa thiết trượng lên đỡ hắc đao thì "choang" một tiếng, đao trượng chạm nhau ánh lửa tóe sáng ra, dưới sức đao mạnh quá làm cả mình Dương Qua rung động đứng liểng xiểng.
Dương Qua vừa định thần thì Công Tôn động chủ lại chém xuống một đao nữa cũng như lần trước. Dương Qua tuy nghiên cứu về đao pháp rất nhiều, nhưng cũng không biết cách gì để giải phá ngón ấy. Vì nếu né tránh nhát đao đó tức khắc sẽ bị mũi nhọn của kim đao đâm phải ngay. Chàng đành vận hết nội công vào cây thiết trượng để chịu dội đòn thứ hai nữa.
Lần nầy mình mẩy Dương Qua còn rung động hơn lần trước. Chàng thầm nghĩ: "Nếu lão chém thêm một nhát nữa thì cả thân thể ta phải rã rời mất".
Quả nhiên chàng đang lúng túng thì lão lại bổ xuống một nhát thứ ba nữa. Nhát này khí thế lại càng hung hăng hơn hai nhát trước.
Nguyên về môn đao này, động chủ gồm có mười chín đòn, cứ mỗi đòn chiêu số lại khác, và mỗi đòn công lực lại gia tăng gấp bội. Công lực đó lợi hại vô cùng, không ai địch nổi. Dương Qua cố gắng đỡ nhát thứ ba thì cây thiết trượng trong tay chàng đã bể đi mấy miếng nữa, nơi hổ khẩu bàn tay mặt bị rướm máu chảy ra từng giọt. Tuy nhiên vì đã có ý định liều chết, Dương Qua không chút gì sợ hãi, nét mặt vẫn tươi vui".
Công Tôn động chủ thấy nét mặt Dương Qua vẫn tươi cười, nổi giận nói:
- Mày liệu có thể đỡ đến nhát đao thứ mấy mà chưa chịu quỳ xuống xin tha mạng?
Vừa nói, lão vừa chém xuống nhát đao thứ tư mạnh tăng đến như sấm sét.
Dương Qua lúc đó bị dồn đến chân tường, không còn nhảy lùi được nữa. Còn né tránh qua một bên thì lại sợ mũi nhọn của kim đao đâm phải. Tuy nhiên lần này nếu đưa thiết trượng ra đỡ một nhát nữa thì toàn thân tê liệt mất.
Trong lúc nguy khốn, nhưng không thể đứng đó chờ cho mũi kiếm kết thúc mạng người. Chàng liều nhảy vọt sang một bên, đưa bàn tay trái hất mũi kim đao qua một phía. Mũi kim đao đâm thẳng vào bàn tay chàng. May thay, chàng nhờ có đeo cái bọc tay của Tiểu long Nữ, bọc nầy rất chắc, nên kim đao dẫu nhọn cũng đâm trượt ra ngoài. Dương Qua thấy bọc tay lợi hại như vậy thì yên tâm, không sợ hắc kiếm nữa. Chàng vội đưa tay sang chộp lấy đầu kiếm. Bất ngờ động chủ giật tay một cái, rồi đâm liều sang một mũi trúng cánh tay của chàng, máu đỏ phun ra ướt áo.
Chàng giật mình, nhảy tránh sang một bên, lùi lại đằng xa. Động chủ nhanh như chớp đã tiến đến trước mặt như bóng với hình. Nếu lão chỉ dùng một kim đao, hay hắc kiếm thì Dường Qua có thể tìm cách thoát nguy, đằng nầy lão dùng hai thứ binh khí cổ quái ấy cùng một lúc, thực khó mà trừ được.
Tuy chàng bị động chủ khốn quẫn, nhưng bọn Kim Luân Pháp Vương đứng bên ngoài cũng khai phục tài chàng. Vì nếu là một người khác trong bọn đấu với động chủ không thể nào né tránh được cặp "âm dương đao" ấy ngay ở phút đầu.
Bấy giờ, lão động chủ lại đâm thêm một đao chém thêm một kiếm nữa, làm cho Dương Qua thêm một vết thương ở bả vai hữu, máu chảy xối xả.
Dù vậy, nét mặt Dương Qua vẫn tươi vui, không chút gì đau đớn. Chàng coi vết thương đó không liên can gì đến định mạng chăng?
Động chủ giận dữ hỏi:
- Mày bị liên tiếp mấy vết thương mà vẫn chưa chịu phục sao? Hay mày đợi ta lấy mạng mày?
Dương Qua cười ha hả nói:
- Ngươi bảo ta phục ngươi thế nào được? Ngươi chiếm cả một ưu thế đến trấn áp ta, mà còn hỏi ta phục hay không? Này lão động chủ, sao mi mặt dạn mày dày quá vậy?
Động chủ thu đao về, trợn mắt hỏi:
- Mi bảota chiếm ưu thế gì?
Dương Qua vừa cười, vừa nói:
- Ngươi dùng cặp kiếm cổ quái ấy tay trái một quái đao, tay mặt một kỳ kiếm. Hai mũi kiếm kia thử hỏi trong gầm trời này chắc gì ngươi đã tìm đâu ra?
Động chủ hỏi:
- Dĩ nhiên ta cố công rèn luyện hai món vũ khí lợi hại nầy để trị các tay đối thủ. Còn ngươi, chiếc bao tay và cây thiết trượng mà không phải là vật quý trên đời nầy sao?
Dương Qua ném cây thiết trượng xuống đất nói:
- Thiết trượng là của lão râu dài, đồ đệ của nhà ngươi đâu phải của ta?
Chàng lại lột bao tay và cuốn giải lụa bị đứt làm hai đoạn, quăng trả cho Tiểu long Nữ và nói:
- Còn cái nầy là của cô ta.
Rồi chàng lại phủi hai bàn tay không, cười hà hà nói:
- Ta đem hai bàn tay không vào đây đâu có dụng ý đánh ai? Người đã dùng các binh khí của ngươi để hiếp ta, bảo ta phải phục tùng ngươi thì thật không chút anh hùng.
Động chủ nghe chàng nói quá khí phách, phong thái hiên ngang, tuy bị mấy vết thương mà chàng vẫn tươi cười như kẻ đắc thắng, nên lão nén lòng suy nghĩ:
- Thằng này tuấn tú hơn mình nếu để nó sống trên đời, thì con Liễu phải say mê đắm đuối nó.
Nghĩ như vậy lão gật đầu kêu lên:
- Được rồi!
Liền vung tay đâm mạnh một kiếm vào ngực Dương Qua. Nhưng Dương Qua đã có ý định dứt khoát:
- Mình không thể nào chống lại với hắn, thôi cứ để hắn giết cho xong.
Cho nên mũi kiếm sáng choang đâm vào ngực, chàng vẫn tự nhiên không đỡ, chỉ chăm chú nhìn Tiểu long Nữ. Chàng thầm nhủ:
- Mình nhìn nàng mà chết, thì chết không ân hận gì.
Tiểu long Nữ thấy thế mỉm cười âu yếm, ung dung bước tới bên chàng. Bốn mắt nhìn nhau trong hoan lạc, chẳng hề lưu ý đến lưỡi kiếm sát hại của lão động chủ một tí nào.
-
Chương 49 - Anh Hùng Và Giai Nhân
Chương 49
ANH HùNG Và GiAI NHÂN
Sự thật Công Tôn Động chủ với Dương Qua xưa nay chưa hề quen biết, nhưng lúc đầu mới gặp, động chủ đã được chàng giúp sức để chống với Châu bá Thông nên lão có cảm mến chàng. Thế thì đâu có thù oán gì mà đi đến chỗ sát hại nhau. Sở dĩ động chủ muốn giết chàng chỉ vì cái sắc đẹp của Tiểu long Nữ mà thôi.
Trong lúc mũi kiếm cuối cùng để kết liễu cuộc đời Dương Qua lão nhìn Tiểu long Nữ với cái nhìn ghen tức, tim lão nhói lên như điện chích vào. Đôi mắt lão hoa lên vì thấy người vợ trẻ đẹp, đang ân ái với chàng trai tuấn tú. Lão nhận thấy cặp mắt nàng say sưa nhìn Dương Qua bao nhiêu tình yêu nồng đượm, còn đôi mắt của Dương Qua như ánh sáng yêu thương, đón nhận hết, ánh mắt của nàng. Thế là mũi kiếm của lão cứ dí thẳng vào ngực chàng. Lão chỉ còn thúc nhẹ tay một cái là mũi kiếm lủng vào tim chàng. Nhưng lão thấy Tiểu long Nữ không một chút kinh hãi, mà thân mình Dương Qua không chút lay động. Hai người lại càng mê mẩn tiến sát vào nhau âu yếm như quên hết mọi người xung quanh. Lão quá tức và cũng ngạc nhiên, vội ngừng tay lại thầm nghĩ: "Ta không thể cho mày chết được sung sướng thế này. Mày chết đẹp đẽ quá sẽ chiếm mất tình yêu của ta. Con Liễu sẽ chết theo mầy mất! Hừ Hừ! Được rồi! Ta phải cho mày sống thêm một ít nữa, để mày được mở mắt trong cảnh tao kết hôn với con Liễu và mầy sẽ sống trong giây lát đau khổ rồi ta sẽ giết không muộn gì?".
Lão liền gọi Tiểu long Nữ nói:
- Em Liễu! Giờ em muốn anh giết nó hay tha mạng nó?
Tiểu long Nữ từ nãy giờ cứ mải mê nhìn Dương Qua, quên cả động chủ, chẳng biết có ai ở xung quanh. Bây giờ chợt nghe tiếng gọi, nàng giật mình, hơ hải đáp:
- Ngài gọi gì? Sao cứ dí kiếm vào ngực nó mãi thế? Ngài cất kiếm đi nào!
Động chủ gượng cười nói:
- Muốn tha cho nó thì dễ lắm! Nhưng em phải đuổi nó ra khỏi nơi này lập tức, để cho cuộc lễ thành thân của hai ta được vui vẻ.
Lúc nàng rời khỏi khu Cổ mộ, là nàng cố hy sinh tình yêu của nàng, để cho Dương Qua khỏi bị tiếng đời chê bai, nên nàng chịu sự đau khổ, tìm những nơi rừng sâu núi thẳm để cho chàng khỏi tìm được mà khoan khoái sống với cuộc đời tươi đẹp với thời gian. Nào ngờ chàng cũng khó nhọc đi tìm nàng, lại bị Chủ động đánh đập không cho chàng gần gũi nàng nữa, nhưng chàng vẫn đành chịu chết, chứ không chịu xa nàng. Thì cái chết của Dương Qua và Tiểu long Nữ hôm nay nó thú vị biết chừng nào! Chứ nàng đâu có thể chịu làm lễ thành hôn với động chủ Công Tôn, để cho chàng đau khổ? Tiều long Nữ quay lại nói:
- Thưa Công Tôn tiên sinh! Đa tạ tiên sinh đã cứu mạng tôi, nhưng tôi không thể thành thân với ngài được nữa!
Động chủ cũng đã dự đoán được lòng nàng rồi, nhưng lão giả vờ hỏi:
- Tại sao vậy em Liễu?
Tiểu long Nữ liền đứng sánh vai với Dương Qua, nắm tay chàng mỉm cười đáp:
- Tôi quả quyết định thành vợ chồng với Dương Qua, cùng chung sống chết trọn đời, lẽ nào ngài không hiểu được điều nầy?
Chúa động run người đau đớn nói:
- Cô Liễu! Hôm nọ nàng đừng tỏ lời ưng thuận thì thôi. Tôi đâu có phải lừa lúc nàng bị nguy mà ép bức. Sao nay nàng nói như thế?
Nàng vồn vã đáp:
- Vẫn biết như vậy. Nhưng hôm nay tôi không thể xa Dương Qua được! Bây giờ chúng tôi muốn cùng nhau ra đi, xin ngài vui cho!
Vừa dứt lời, hai người dắt tay nhau bước đi thoăn thoắt ra cửa. Mọi người không ngớt ngạc nhiên đứng nhìn sững sờ. Trước cử chỉ dứt khoát của nàng. Chúa động như điên người, vội tung mình nhảy vọt ra chận cửa, nói trong hơi thở tức nghẹn:
- Nàng muốn đi khỏi nơi nầy thì nên giết tôi trước đã!
Tiểu long Nữ mỉm cười nói:
- Tôi mang ơn ngài rất nặng, lẽ nào dám nghĩ như vậy! Hơn nữa, ngài là người võ công tuyệt đỉnh, tôi làm gì hại ngài được?
Nàng vừa nói, vừa xé vạt áo buộc vết thương cho Dương Qua. Chợt có tiếng gọi của Kim Luân Pháp Vương:
- Công Tôn đại huynh ơi! Đại huynh nên cho họ đi là hơn.
Động chủ không đáp, nét mặt hầm hầm đứng chận giữa cửa. Kim Luân Pháp Vương thấy vậy vội nói:
- Họ có phép đánh kiếm "liên thủ" hai người hợp lại thì dầu đại huynh ba đầu sáu tay cũng không sao địch nổi với họ. Tốt hơn đại huynh nên thương cho họ đi là hay hơn.
Pháp Vương nói thế là vì trước đây lão đã bị Dương Qua và Tiểu long Nữ dùng "Ngọc nữ tâm kinh kiếm pháp" đánh lão thua liểng xiểng, làm cho lão phải mang nhục ấy hết đời. Cho nên lúc nầy lão thấy "Âm dương đao pháp" của Chúa động lợi hại, biến hóa khôn lường, không hề kém vòng "bánh xe" của lão chút nào. Lão bèn đem lời nói khích, để cho ba người đấu với nhau một phen, như thế lão có hai điều lợi: điều thứ nhất là lão được trông kỹ những đường "liên kiếm" của Dương Qua và Tiểu long Nữ để tìm những chỗ sơ hở của "song kiếm" nghiên cứu phá cho kỳ được để mai mốt thừa cơ gây sự báo thù. Hai là nếu ba người cùng đấu mà cả ba chết hết, hoặc bị thương lão sẽ thừa cơ ấy kết liễu tánh mạng cho rồi, đỡ bớt một mối lo cho lão, trước khi xuống Trung nguyên.
Thực ra nếu Pháp Vương không nói khích đi nữa thì Chúa động cũng nhất quyết không để Dương Qua và Tiểu Long Nữ nắm tay nhau đi ra một cách dễ dàng. Bây giờ nghe Pháp Vương nói khích, Chúa động lại hiểu lầm lẩm bẩm:
- Trước mặt ta mà mi dám nói lời khinh rẽ. Lúc này ta chưa rảnh tay, để vài ngày nữa ta sẽ liệu cho ngươi.
Chúa động tuy sống như ẩn sĩ nhưng lòng chưa được điềm tĩnh. Vả lại lão là một vị Chúa động nên có thói quen "Duy ngã độc tôn". Các đồ đệ không ai dám trái ý lão. Đến như con gái của lão, rủi phạm tội một chút, lão cùng hành tội thật khủng khiếp. Bởi thế, dù với giá nào, lão cũng phải thu phục cho được Tiểu Long Nữ để lấy nàng. Lão nghiến răng nghĩ thầm: "Tại sao nàng lại lạnh nhạt với ta như vậy? Ta đối xử với nàng hết lòng, thế mà không được đền bù, lại còn phản ta ư?". Lúc đầu, lão tưởng đem Dương Qua ra hành tội, để nàng thấy uy thế phải khuất phục. Nhưng cả hai đều không sợ chết chút nào. Lão tức đến điên khùng, định bụng: "Dẫu có giết hai đứa, ta cũng phải giết, nhất định ta không để cho nàng và Dương Qua sống một cách đoàn tụ".
Còn Dương Qua, sau khi được Tiểu Long Nữ đáp lại bằng những lời tha thiết, chàng cảm thấy sung sướng vô cùng, nên quyết chí chiến đấu tăng lên gấp bội phần. Chàng cất giọng oang oang hỏi lại:
- Này động chủ! Ông còn muốn gì nữa mà không để chúng tôi ra đi?
Nghe Dương Qua nói cặp mắt lão dựng ngược lên, lóe hào quang đầy sát khí. Nhưng lão chưa kịp ra tay thì trong nhà có tiếng Mã quang Tổ vọng ra:
- Thôi ông già Công Tôn ơi, người ta đã nói không thể lấy ông được, mà ông còn ngăn chặn làm chi cho nhọc sức?
Trong khi ấy, Tiêu tương Tử cũng nói xen vào:
- Mã huynh đừng xen vào chuyện người động chủ mà mích lòng. Động chủ hôm nay bày tiệc sẵn sàng mời chúng mình ăn uống một bữa no say, đối đãi với chúng mình thật là chu đáo mà!
Mã quang Tổ vẫn lớn tiếng cãi lại:
- ăn rau sống, uống nước lã có gì là no say? Giá tôi như cô nương tôi không bao giờ lấy ông ấy. Cô nương sắc đẹp thế kia, đáng ra phải lấy vị thái tử mới xứng, sao lại đi lấy một ông già ăn rau sống uống nước lã, ở chỗ núi non hiểm trở thế nầy?
Mã quang Tổ tuy nóng nảy, nhưng câu nói của ông xét ra rất có lý. Tiểu Long Nữ nghe Quang Tổ nói như thế quay lại ôn tồn nói:
- Ông Mã! Ông nên biết rằng ơn của chúa động cứu tôi, tôi vẫn ghi lòng tạc dạ, suốt đời không bao giờ quên.
Mã quang Tổ lại kêu:
- Phải rồi! Ông Công Tôn ơi! Như ông là người đại nhân đại nghĩa, trên đời, thì sẵn dịp này, lễ vật ông đã sắm đầy đủ rồi, ông cho hai người nầy mượn tạm cái nhà này làm lễ thành hôn cho hai người, còn chúng tôi là khách thì hay biết chừng nào! Lòng rộng lượng của ông sẽ được người đời khen ngợi. Chứ ông cứu mạng một cô gái, mà buộc cô ta làm vợ ông, nhưng cô ta không bằng lòng, thì ông sanh thù oán. Như thế thì đâu là nghĩa khí giang hồ?
Lời nói trực tính của Mã quang Tổ, tuy mới nghe như bướng bỉnh, nhưng cũng chẳng ai bắt lý gì bài bác được. Công Tôn động chủ căm giận vô cùng, nảy ra một ý quyết liệt: "Ta cho cả bọn này sa vào lưới sắt cho xong chuyện". Lão liền tỏ vẻ lơ đễnh nói:
- Cái động "Tuyệt tình" của ta đây không phải là nơi hiểm độc nhưng các vị muốn quanh quẩn làm gì mặc ý. Gã Công Tôn này đã quá nhường nhịn các ngươi, khiến cho các ngươi quá khinh ta lắm rồi đấy.
Lão lại nhìn Tiểu long Nữ nói:
- Này cô Liễu! Cô còn nhớ chứ?
Tiểu long Nữ mỉm cười nói:
- Tôi không phải họ Liễu. Tôi đã nói dối với tiên sinh đấy. Tôi chính là họ Long, nhưng vì anh Qua này họ Dương, nên tôi phải nhận mình là họ Liễu để ghi nhớ những ngày xa cách.
Cơn ghen tức như đốt cháy phừng phừng trong lòng động chủ, nhưng lão vẫn cố giữ vẻ mặt như thản nhiên, nhỏ nhẹ nói:
- Cô Liễu ơi!
Chưa kịp nói tiếp, Mã quang Tổ đã nói hớt:
- Kìa, cô nương nầy đã xưng họ Long, sao ông cứ gọi là cô Liễu?
Tiểu Long Nữ xen vào:
- Vì Công Tôn tiên sinh gọi thế đã quen, xin để tùy ý tiên sinh muốn gọi thế nào cũng được.
Động chủ được thể, nói tiếp:
- Cô Liễu! Cứ để gã họ Dương nầy đấu thắng cặp "Âm dương đao" trong tay ta, thì ta sẽ cho hắn được tùy ý. Đây là việc riêng giữa ta với hắn, hai bên phải tự giải quyết dứt khoát. Không được ai can dự vào việc nầy.
Suy nghĩ bao nhiêu đi nữa, rồi lão cũng phải dùng công lực để cố chiếm cho được Tiểu long Nữ.
Tiểu long Nữ thở một hơi dài não ruột, nói:
- Tiên sinh ơi! Tôi vốn mang ơn của ngài, nên tôi không muốn đọ tay với ngài. Nhưng một mình anh Dương Qua không đủ sức đấu với ngài, thì buộc lòng tôi phải giúp anh Dương vậy.
Động chủ cau mày nói:
- Cô Liễu! Cô không sợ ư? Cô vừa bị thổ huyết, còn sức đâu mà giúp hắn?
Tiểu long Nữ buồn bã nhìn lão tha thiết nói:
- Hai đứa tôi không có một binh khí gì, tay không đấu với đao kiếm, tức là lãnh chắc phần thua rồi. Nhưng ngài là bậc đại nhân, đại lượng, xin ngài sẵn lòng cho chúng tôi ra khỏi động, để ngài khỏi nhọc lòng.
Kim Luân Pháp Vương vội nói xen vào:
- Công Tôn huynh ơi! Động của huynh rộng lớn bao la, đâu có thiếu binh khí cho họ mượn? Nhưng huynh phải thận trọng, chứ hai người ấy có thuật đánh gươm tiếp tay lợi hại lắm đấy! Sư huynh khó thắng được.
Công Tôn động chủ chỉ về phía tây khẳng khái nói:
- Các ngươi đến dãy phòng ba, dãy nhà kia là phòng gươm đấy. Cứ vào đó mà lựa thứ binh khí nào vừa ý các ngươi. Tôi e rằng những khí giới bén sắc trong đó, dù cơ đồ quý khác ở đâu cũng không thể có một thứ tương đương.
Dương Qua và Tiểu Long Nữ nhìn nhau đều có thâm ý: "Hai chúng mình được tránh khỏi cặp mắt ở đây, cùng vào cái nhà kín ấy, được thông cảm nhau trong chốc lát đủ rồi, sau có chết cũng vui lòng". Thế là họ dắt tay nhau tiến về hướng tây, theo dãy nhà nhà ngang bỏ hai phòng đầu, tới phòng thứ ba tức là "kiếm phòng" của động "Thủy tiên".
Lúc hai người nắm tay kề vai sánh bước, đôi mắt Tiểu long Nữ không rời khuôn mặt Dương Qua. Đến nơi chàng thấy căn phòng đóng kín, đưa tay xô ra, nhưng vừa bước qua ngạch cửa, đột nhiên có ý khả nghi, liền lùi lại nắm tay nàng khẽ kêu:
- A! Khoan ! Phải cẩn thận!
Nàng vội hỏi:
- Vì sao hả anh?
Dương Qua đưa bàn chân mặt trong ngạch cửa, khẽ đặt nhẹ xuống nền ván bên trong. Chàng vội giật chân ra ngay. Không thấy việc gì xảy ra, nàng liền hỏi:
- Anh sợ động chủ đặt bẫy ám hại chúng ta à? Không đâu! Ông ấy có lòng tốt mà, đâu có lý làm như vậy?...
Nàng vừa nói chưa dứt lời, chợt nghe rít vù vù ánh sáng lập lòe trước mắt. Liền nghe "choang" một tiếng. Hai người thấy rõ tám lưỡi kiếm, từ bốn phía khuôn cửa phóng nhập vào giữa. Như thế, nếu không đề phòng, thì dẫu cho người có võ công tuyệt đỉnh, cũng phải bị tám lưỡi kiếm găm vào mình rồi.
Tiểu long Nữ thở dài buồn rầu, nói:
- Anh Qua! Em không ngờ lão chúa động lại có lòng độc ác như vậy! Thôi mình đừng so gươm với lão làm gì nữa, nhân lúc nầy mình tẩu thoát cho xong.
Dương Qua chưa kịp mừng, chợt nghe đằng sau có tiếng nói lớn:
- Động chủ mời hai vị chọn kiếm nhanh trở lại. Chúng tôi đang mong đợi.
Họ quay đầu nhìn lại, thì thấy tám đệ tử áo xanh đã giăng lưới kín ở phía sau rồi, và dưới lưới có treo những móc sắt nhọn, trông rợn người. Không thể nào tẩu thoát được, mà đứng thì hết đường chống đỡ. Cái giây "Kim linh sách" của Tiểu long Nữ đã bị lưỡi hắc kiếm của động chủ cắt đứt rồi, không thể tung đánh bọn đệ tử được nữa.
Công Tôn động chủ đã lo đề phòng trước, đoán biết cả hai sẽ mưu trốn, nên đã cho đệ tử bủa lưới giữ chân.
Tiểu Long Nữ ngẫm nghĩ rồi nói:
- Anh Qua! Anh đoán trong phòng này còn gì nguy hiểm nữa chăng?
Chàng đưa hai tay nắm lấy tay nàng, như âu yếu nói:
- Cô ơi! Lúc nầy mình được gần nhau thế nầy, thì còn sợ hãi gì nữa? Dẫu có gặp muôn ngàn gươm đâm cho nát thịt, tan xương, thì chúng ta được chết chung một chỗ.
Lòng nàng dâng tràn muôn ngàn mối yêu thương! Hai người sẽ bước vào phòng kiếm, thấy rương đủ cỡ, chứa đựng những gươm đủ loại mà hơn hai phần là loại gươm cổ. Có nhiều thanh dài hơn bảy tám thước, có mũi ngắn chừng năm tấc. Thứ thì nổi hoa đủ màu, thứ toả ánh sáng rợn người.
Họ loạn mắt, trong chốc lát không thể nào nhìn tường tận được hết. Tiểu long Nữ nhìn chàng không chớp mắt, bỗng nghe "xoà" một tiếng, nàng ngã người gục đầu vào ngực chàng. Dương Qua ôm chặt lấy Tiểu Long Nữ. Hơi ấm áp làm lòng chàng rạo rực, mắt đê mê như dắn vào khuôn trăng diễm lệ. Chàng không thể nén được tình yêu nên không coi nàng là "thầy võ" như trước. Chàng cúi xuống áp vào mặt nàng. Cử chỉ đượm yêu đương làm cho Tiểu long Nữ xiêu lòng mê mẩn.
Chợt nghe "kẹt" một tiếng, cánh cữa mở ra, thấy một gã đệ tử áo xanh lớn tiếng gọi:
- Hai người chọn kiếm nhanh lên, ra khỏi phòng lập tức, không được chần chờ như thế!
Động chủ đã nóng lòng rồi đấy.
Mặt Dương Qua đỏ bừng, vội buông tay ra. Tiểu long Nữ vốn lòng thầm yêu chàng, khi nãy chưa được thổ lộ, giờ mới được dịp tỏ tình yêu chưa thỏa lòng khao khát, lại bị người khuấy nhiễu, nàng thở dài, thỏ thẻ:
- Anh Qua! Mình cố sức đánh bại lão động chủ, rồi hãy thân ái cùng nhau!
Chàng mỉm cười gật đầu nói:
- Thế cô lựa kiếm đi!
Nàng sung sướng nói:
- Anh cùng lựa với em chứ!
Hai người đưa mắt nhìn khắp các loại kiếm. Nàng định ý:
- Ta phải lựa một đôi sắc bén, dài, nặng cho bằng nhau, để cùng chàng dùng pháp "liên thủ ngự địch" là được thắng lợi như trước kia.
Nhưng lựa mãi chẳng có đôi nào giống nhau, bằng nhau cả, mỗi chiếc mỗi khác. Nàng lại hỏi chàng:
- Anh Qua! Sao khi nãy anh mới bước đến cửa này, anh biết được có máy gài ám khí?
Chàng vui vẻ nói:
- Tôi nhìn sắc mặt lão động chủ là hiểu được lão không cưới được cô, ánh mắt chứa đầy ghen tức, thì đáng ngờ rồi. Dã rõ được tâm địa độc ác của lão, tôi không thể tin lão thực lòng mời chúng ta lựa gươm.
Nàng thở dài nói:
- Chúng mình tiếp tay nhau, dùng "Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp". Anh định có chắc thắng được lão ấy hay không?
Dương Qua bình tĩnh nói:
- Nội công lão tuy mạnh, nhưng cũng không hơn Kim Luân Pháp Vương, như thế ta cũng có thể thắng được lão.
Nàng vồn vã nói:
- Phải đấy! Lúc nãy Pháp Vương đã nhiều lời khích lão để đấu với chúng mình. Chắc hắn còn uất hận vì đấu thua mình lúc trước.
Chàng mỉm cười, nói:
- Lòng người như dã thú, tinh ma. Như thế cô cũng hiểu được ý ác của lão rồi đấy.
Bỗng nhiên chàng biến sắc mặt, nói:
- Tôi lo cho cô quá! Cô mới bị thổ huyết.
Nàng mỉm cười như hoa xuân nói:
- Anh cứ an tâm, chỉ vì xuất động thương tâm thì ứa máu như thế, nhưng lúc nầy em được sung sướng với anh lắm rồi. Điểm nội thương ấy không còn lo ngại nữa. Mà hôm nay em thấy võ nghệ của em đã tiến bộ nhiều hơn lúc đánh với Pháp Vương. Thì ngày nay có gì đáng lo?
Dương Qua nghe nàng nói lòng thầm phấn khởi, chàng tin tưởng nắm chắc phần thắng trong trận đấu với lão chúa động nầy. Chàng âu yếm nắm tay nàng, khẽ nói:
- Nhưng cô phải vui lòng một điều để đáp ứng lòng tôi nhé!
Nàng thỏ thẻ nói êm như ru:
- Anh còn nghi ngờ lòng em làm gì? Từ lâu em đã không còn là "thầy võ" của anh nữa. Thì em là vợ anh. Từ nay em xin nghe lời anh.
Chàng sung sướng quá nói:
- Thì ra... Thì còn... còn gì hơn nữa!...
Thế mà cô để cho tôi đau khồ từ trước đến giờ! Chẳng biết gì cả...
Nàng tỉ tê nói:
- Em nhớ mãi cái buổi chiều tối hôm ấy, Chung Nam, hai đứa mình đã thân ái nồng nàn như thế rồi. Nên sau đó, em đâu làm nổi "cô thầy" của anh nữa? Tuy anh chưa nhận em làm vợ, nhưng trong lòng em đã tự nhận em là vợ anh rồi.
Dương Qua không hiểu buồi chiều hôm ấy ở núi Chung Nam đầu đuôi thế nào mà chàng được thân ái với nàng? Chàng nghĩ rằng nàng cũng vì thân yêu mình từ lâu, nên e thẹn đành bỏ ra đi, chứ chàng đâu biết được chuyện độc ác của Doãn chí Bình gây ra.
Chàng thầm nghĩ:
- à! Hôm ấy, nghĩa phụ Âu dương Phong truyền thụ võ nghệ cho ta đã đánh ngã nàng, chớ ta đã thân ái với nàng đâu?
Nhưng bên tai chàng những lời ân ái trìu mến của nàng hòa trong hơi thở như rót vào tâm hồn. Chàng say mê, chẳng biết nói gì nữa. Nàng lại ngả người vào ngực chàng thỏ thẻ:
- Anh muốn em chiều ý điều gì?
Dương Qua đưa tay vuốt làn tóc huyền óng ả của nàng, nói:
- Chúng mình thắng động chủ rồi thì lập tức cùng nhau đi về Cổ mộ. Từ đó cố gắng mãi mãi bên tôi, không bao giờ chúng mình rời nhau nửa bước nhé, dầu việc đời khó khăn thế nào đi nữa?
Tiểu long Nữ từ từ ngửa mặt nhìn lên đôi mắt chàng, nói:
- Em có bao giờ thích xa anh? Sau khi rời bỏ anh ra đi, em đã phải đau lòng xót ruột hơn cả anh nữa? Cố nhiên em phải nghe lời anh. Dù cho nguy biến đến đâu em cũng không thể xa anh được nữa.
Chàng quá sung sướng, đang đê mê lời tha thiết của nàng, bỗng có tiếng người gắt lên. Gã đệ tử áo xanh hỏi gắt:
- Đã chọn gươm xong chưa?
Tiểu long Nữ mỉm cười trìu mến nhìn Dương Qua, nói:
- Thôi! Chúng mình phải ra đi.
Hai người đứng nhìn khắp phòng, định lựa đôi gươm nào hơi giống nhau cũng được. Nhưng chợt thấy vách tường phía Tây có vệt lửa sém rất lớn. Cả hai liền rảo bước đến thì thấy đầu mấy cái bàn gần đó cũng cháy sém
hết cả. Dương Qua mỉm cười nói:
- Lão già ấy thường vào phòng nầy lắm. Có lẽ đêm tối lão cầm đuốc vào tìm vật gì đây, vô tình gác đuốc một chỗ, đến nỗi lửa sém như vậy.
Nhân lúc nhìn các vật bị cháy sém, thình lình hai người trông thấy hai vỏ gươm lộ ra dưới bức tranh bị cháy quá nửa. Chàng thầm đoán: Hai thanh gươm này vốn trước kia được treo giấu vào hai bức tranh. Sau bị lão vô ý để lửa cháy sém mất nửa dưới, nên gươm mới lòi ra đây. Người chủ đã cất cẩn thận như thế, có lẽ là đôi gươm đặt biệt quí giá. Chàng liền đưa tay vào, lấy hai thanh kiếm ra, trao cho nàng một thanh. Nhưng khi chàng tuốt gươm ra khỏi vỏ, cả hai đều bỡ ngỡ thấy kiếm chỉ một màu đen sì ở cán đến mũi, chẳng có một ánh thép nào. Trông như một thanh gỗ mun. Nàng cũng vội tuốt gươm trong tay nàng, thì thấy cũng một màu đen thui, như thanh gươm của chàng.
Hai người so hai thanh kiếm vào nhau, quả bằng nhau từ bề dài bề rộng, đến hình mũi, hình cán cũng không khác tí nào. Đặt chúng nằm kề nhau trên bàn, thì trong phòng lại có một khí lạnh. Nhưng nhắm hình dáng thì thật khó coi. Mũi kiếm không nhọn, lưỡi sống đều như nhau, không chút sắc bén.
Dương Qua hơi thất vọng, cầm thanh gươm lật đi, lật lại mãi, chợt thấy đầu cán có khắc chữ "Anh hùng". Chàng nhìn sang kiếm của Tiểu long Nữ lại có hai chữ "Giai nhân". Lòng chàng cảm thấy phơi phới lạ thường. Chàng cảm thấy sung sướng với bốn chữ trên cán gươm, mà đem lòng mến cặp kiếm ấy. Chàng ngắm nhìn xem nàng có ý thế nào?
Nàng nói:
- Hay lắm anh Qua! Gươm này không nhọn, không sắc, mình dùng đấu với động chủ là hợp. Vì dầu sao lão cũng đã cứu em, thì chúng mình cũng không nỡ giết lão.
Dương Qua mỉm cười nói:
- Trông lại cây gươm nầy lạ thường. Gươm đao là vật giết ngươi, mà lại rất hiền từ, cho nên được mang hai cái tên tuyệt đẹp: "Anh hùng" và "Giai nhân".
Dứt lời, chàng đưa gươm lên vung thử mấy cái, nhận thấy sức mạnh rất vừa tay, sử dụng rất hợp ý. Chàng vui vẻ nói:
- Tốt lắm? Mình dùng ngay đôi kiếm nầy.
Tiểu long Nữ cũng tra gươm vào vỏ, hai người định đi khỏi phòng chợt nàng để ý đến lọ hoa trên bàn, thầm nghĩ:
- Bó hoa gì mà có màu tươi mơn mởn, thật đẹp! Nhưng ai cắm lệch như thế. Một vẻ mỹ thuật uổng quá.
Nàng vội bước đến đưa tay nắm bó hoa, sửa lại. Dương Qua hớt hải, kêu lên:
- ấy chớ! Chớ mó vào đó!
Nhưng trễ rồi! Tay Tiểu long Nữ đã bị gai đâm mấy mũi. Nàng kinh ngạc quay lại hỏi chàng:
- Có gì hợi hại lắm hả anh?
Chàng liền nói:
- Hoa nầy chính là loại "Tình hoa". Cô ở trong dộng nầy đến mấy ngày, mà lại ngớ ngẩn quá vậy?
Nàng đưa vết gai đâm lên miệng, phà hơi cho đỡ nhức, lắc đầu nói:
- Em có biết gì đâu?
Dương Qua định giải thích cho nàng rõ, thì bọn đệ tử áo xanh đã thúc giục. Thế là hai người đã trở lại công sảnh. Công Tôn động chủ đợi quá lâu, trừng mắt quát mắng bọn đệ tử, vì sao không thúc giục hai người ra cho mau, lại để họ ở trong phòng gươm lâu như thế? Lão có biết đâu, chàng với nàng đã lợi dụng nơi kín đáo đễ tâm tình với nhau rồi!
Động chủ đợi hai người đến gần, gượng vui nói:
- Cô Liễu! Cô đã chọn gươm chưa?
Nàng liền đưa thanh kiếm "Giai nhân" ra gật đầu nói:
- Chúng tôi sở dĩ chọn hai thanh kiếm cùn nầy, vì chẳng có ý so gươm với động chủ. Nhưng phải tuân lời cho vừa lòng tiên sinh.
Động chủ trông thấy thanh kiếm giật nẩy người, lớn tiếng hỏi:
- Ai đã xúi cô lựa hai thanh kiếm ấy?
Dứt lời lão đã quắc mắt nhìn sang nàng Lục Ngạc, như thầm quở phạt con gái lão. Rồi lão lại nhìn qua Tiểu long Nữ. Nàng thấy lão có vẻ kinh ngạc liền đáp:
- Tự ý tôi chọn, chứ không ai bày vẽ cả. Chứ đôi kiếm này tôi dùng không được sao tiên sinh? Nếu vậy thôi để chúng tôi vào phòng chọn kiếm khác vậy.
Lão trừng mắt giận dữ, lườm sang Dương Qua thầm nghĩ: "Hừ! Vào chọn cặp khác, để rồi ở lì trong đó cho sung sướng. Còn ta phải đứng chờ hơn nửa ngày nữa sao?". Lão gằn giọng nói:
- Không cần phải đổi nữa. Hãy quyết đấu ngay!
Tiểu long Nữ nói:
- Này, Công Tôn động chủ, chúng tôi xin nói trước cho ngài rõ: như một mình ta, hoặc một mình anh Qua đấu với tiên sinh cũng có thế được rồi. Nhưng ngài đã đồng ý cho hai chúng tôi cùng đấu với ngài thì chúng tôi nắm chắc phần thắng, nếu vậy phần thắng chúng tôi không được là phần thắng vinh dự.
Động chủ cười gằn nói:
- Cô Liễu! Hãy chờ thắng được ta rồi hãy nói. Nếu hai người thắng được cặp đao kiếm trong tay ta, ta sẽ cho các ngươi được quyết định. Còn nếu các ngươi thua ta, thì cô Liễu phải thành hôn với tôi chứ không được tráo trở nữa.
Tiểu long Nữ mỉm cười nói:
- Nếu chúng tôi thua, thì tôi cũng chết theo anh Qua trong động "Tuyệt tình" nầy.
Động chủ nổi giận đùng đùng không còn nói gì nữa, vung tay trái lia một đao nghe "vù" một tiếng, đã đâm thẳng vào mặt Dương Qua. Chàng vung kiếm lên đánh bạt ra, rồi chém trả một đòn "Bạch lạ lượng xí". Đó là một đòn chánh quyền trong phái "Toàn Chân". Động chủ thầm nghĩ: "Đòn này tuy đánh trúng pháp độ nhưng dễ đỡ chưa có gì. Lão liền đâm thêm một đao vào ngực chàng. Thế là lão đã gạt Tiểu long Nữ ra, và đao lẫn kiếm vẫn chém ngay Dương Qua. Chàng tiếp chiêu rất lanh lẹ. Kiếm pháp Toàn Chân chàng đã học được ở Cổ Mộ, nhưng võ nghệ lúc này chàng sử dụng rất thần diệu. Những đòn này so với những đòn chàng đánh với Kim Luân Pháp Vương lúc trước đã tiến hơn mấy bực. Một mình chàng đã tiếp ba đòn, nhưng trong cái mới mẻ tinh vi vẫn bao hàm cái cổ pháp thần hậu. Kim Luân Pháp Vương thấy chàng còn trẻ mà kiếm pháp đã thâm hậu, lòng vừa thầm phục vừa ghen tức. Tiểu long Nữ thấy động chủ đánh chàng liên tiếp ba đòn, mà không lưu ý đến nàng, liền ứng kiếm tiến đến. Nhưng lão vẫn không để ý đến đường gươm của nàng. Mọi người trông thấy lối gạt đỡ của lão, đủ biết lão không cố tâm đánh với Tiểu long Nữ. Pháp Vương xem qua bảy, tám hiệp, mỉm cười gọi bảo:
- Huynh Công Tôn! Nếu huynh còn tiếc ngọc thương hương, thì sẽ bị đau đớn lắm đấy.
Động chủ cau mày đáp:
- Đại hòa thượng! Nếu chỗ nào còn sơ xuất xin người cứ im lặng mà xem, đợi đấu xong sẽ chỉ giáo. Lúc nầy nói xen vào, chỉ tốn lời không lợi gì.
Miệng nói tay lão vung đao kiếm, tiếng gió rít vu vu, đường sáng lập lòe trông như chớp. Tiếp đến những tiếng "choang choang" nghe chát chúa, của đôi kiếm Dương Qua và Tiểu long Nữ hợp sức nhau đỡ hơn sáu, bảy hiệp nữa. Dương Qua lại đánh một đòn "Mạc bắc hoành hành" của phái Toàn Chân. Tiểu long Nữ đánh ra thì đòn "Thái bút hoa mi" trong kiếm pháp Ngọc Nữ. Hai đường gươm cùng tiến đến chém vào người động chủ. Hai đòn ấy hợp lại thành đòn "Liêm hạ sơ trang" động chủ giật mình, không dám tung kiếm ra đỡ. Trong lúc nguy cấp, không còn cách nào, lão phải đưa hắc kiếm tay mặt đỡ gươm Dương Qua còn tay trái kim đao giữ vững ngang mày. Thế là mũi kiếm Tiểu Long Nữ thẳng vào giữa cặp mắt lão, nghe "cạch" một tiếng, đầu kim đao của động chủ bị văng ra gần nửa lưỡi! Mọi người trông thấy đều lắc đầu kinh ngạc, không ngờ thanh kiếm trong tay Tiểu long Nữ trông đen thui, bèm bẹp! Ngay đến Dương Qua và Tiểu long Nữ cũng không ngờ được. Khi lựa đôi gươm ấy, hai người chỉ thích hai cái tên khắc trên chuôi kiếm mà thôi, nào ngờ lúc giao đấu mới biết nó là một báu vật vô giá. Từ đó, chàng và nàng thêm phấn khởi, đôi gươm càng lúc càng linh động hơn. Công Tôn động chủ võ học cực kỳ uyên thâm "Âm dương song đao" của lão một cương một nhu, nên khi sử dụng thì cứ sau mỗi đòn sức mạnh lại tăng lên một bậc, nhưng lúc nãy lão phải giật mình, lo nghĩ: "Con Liễu với thằng này võ công đều kém ta, dầu hai đứa hợp sức lại ta coi ra gì chỉ ngặt có đôi gươm lợi hại ấy. à, thế ra lão Hòa thượng kia nói đúng. Chúng có thuật hỗ trợ, rủi hôm nay mà mình thua hai đứa này, thì nguy hiểm....". Nghĩ đến đây, lão bèn vung mạnh đao tay trái chém sang bên hữu, đưa kiếm tay mặt đâm chéo sang bên tả. Lão đã thử xuất bình sinh tuyệt học ra đánh theo pháp "âm dương loạn đao". Phép này rất kỳ diệu vô song. Hắc kiếm thuộc âm thì mềm, lúc chém ra rất cứng, kiếm pháp âm dương liên tục. Còn cây đao răng cưa to nặng lại đâm rất lẹ, chém qua lại rất dẻo, hóa thành những thanh kiếm rất nhẹ nhàng. Trong cuộc ác đấu, rõ ràng kim đao hóa thành kiếm, kiếm hóa thành kim đao, một thuật quá kỳ ảo, khó ai chống nổi. Doãn khắc Tây vốn tự phụ đã xem hết những cuộc biểu diễn võ học trong thiên hạ nhưng lúc này cũng lắc đầu, thừa nhận chưa hề trông thấy cái thuật đánh "đảo đao kiếm" thế này bao giờ, mà cũng chưa nghe ai nói đến.
Mã Quang Tổ trố mắt kêu lên:
- Ô kìa! ông già chúa ơi! Ông đánh cách gì loạn lên và kỳ quái quá vậy?
Công Tôn động chủ mới hơn bốn mươi tuổi cũng chưa đến nỗi già mấy. Nay định lấy Tiểu long Nữ làm vợ, thế mà cứ bị cái chú "ruột ngựa" đó kêu là "Ông lão" hay "cụ già" thì sao lão khỏi tức bực? Lúc ấy lão không rảnh tay được để sửa trị Mã quang Tổ một trận cho đã giận. Lão đành nén giận, cố sức trổ tài "đảo pháp loạn" mà lão đã dày công luyện tập hơn mười năm. Lão định ý đánh bại Dương qua và Tiểu long Nữ rồi sẽ tính với đao với kiếm của lão. Trông bên ngoài như không phân định được kiếm của khách, đao của chủ, nhưng thực ra, lão phân biệt rõ ràng không thể lầm lẫn. Hắc kiếm là chính, kim đao là phụ, nhưng lúc đánh đảo loạn thì không ai còn phân biệt được hắc kiếm, kim đao. Đó là thuật "âm dương đao pháp". Pháp đao âm dương này, lão chưa hề dùng trước mặt người ngoài bao giờ. Ngay như Phàn nhất Ông là đệ tử đứng đầu của lão, theo học đã hơn hai mươi năm rồi, mà đến hôm nay mới được trông thấy cái đặc oai của môn võ công đó.
Dương Qua và Tiểu long Nữ hai gươm hợp sức đánh đòn "liên hạ sơ trang", là chiếm được ưu thế rõ rệt. Nhưng vì đối thử đao loạn đao gươm, đánh đỡ kỳ lạ, nên hai người đâm ra ngượng tay suýt bị mấy đòn nguy hiểm. Lúc này, võ nghệ và nội công của Dương Qua đã trội lên Tiểu long Nữ. Chàng thấy hắc kiếm có vũ lực mạnh hơn kim đao, nên dùng kiếm chống trả với hắc kiếm, nhường cho nàng đỡ cây đao. Chàng thầm đoán: "Để nàng chống đỡ phần nhẹ thì kiếm của nàng có thể gây được áp lực, đối phương không dám chọi thẳng tới nữa. Do đó, hai người bớt phần nguy hiểm. Nhưng chỉ có điều bị địch thủ dùng thuật kỳ quái quá, không thể đem kiếm pháp phái Toàn Chân ra chống được nên phải đánh theo lối tùy cơ ứng biến".
Nguyên trước kia, lúc Lâm triều Anh mới khai sáng "Ngọc nữ tâm kinh" cố tập luyện với Vương trùng Dương cùng nhau đi tung hoành khắp giang hồ, giờ đây chàng sử dụng kiếm pháp phái Toàn Chân còn nàng sử dụng Ngọc Nữ tâm kinh kiếm pháp. Nhưng thấy địch thủ đánh thuật quá kỳ chàng lại bỏ thuật phái Toàn Chân, trổ lối kiếm pháp tự sáng chế của chàng để chống với động chủ. Kiếm thuật tự luyện của chàng xét về lợi hại thì cũng không hơn gì kiếm thuật phái Toàn Chân, nhưng được cái lợi là dùng kiếm pháp tự sáng chế thì tâm ý thân thể, lục hợp duy nhất, mỗi đòn đánh ra hoặc chống đỡ, đều hợp với cá tính của chàng tạo thành một kiếm pháp ngoại lệ, trở nên linh diệu đặc biệt.
Nhưng chàng đánh thế "Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp" bị mất đà sụp xuống nửa công lực. Lúc này chàng và nàng ai lo phần nấy và hai đòn kiếm không còn tiếp sức nhau nữa, cho nên sức mạnh cũng như sự nhanh nhẹn cũng bị giảm bớt.
Công Tôn động chủ thừa thắng vung hắc kiếm chém ba đòn nghe "choang choang". Đồng thời lượn tay trái đâm tiếp bốn mũi "Địch dương chân", "Hư khí phân kim", "Kình tha thích cẩu" và "Cửu phẩn liên đài". Bốn đường rõ là những đường kiếm phiêu dật lưu chuyển. Bốn mũi đao hợp sức với ba nhát kiếm.
Dương Qua còn đủ sức chống đỡ nhưng Tiểu long Nữ bối rối, nàng toan dùng "Thục nữ Kiếm" chặt cụt kim đao, thì cây đao trong tay trái động chủ cứ tung lượn như chớp nên không thể nào chém tới được. Dương Qua cảm thấy nàng đuối sức liền nghiêng mình qua chống đỡ. Chàng tung một đòn trong kiếm pháp Toàn Chân là "mã tự lạc hoa" lao ngang người qua vút gươm lên gạt kiếm lẫn đao của địch thủ.
Tiểu long Nữ vội hồi kiếm đâm ngay lưng động chủ. Chỉ là chàng với nàng trở lại hợp khởi, đôi kiếm trở lại thuật "Ngọc nữ tố tâm kiếm". Thuật này được linh động như thế là nhờ ở hai người sử dụng kiếm liên thủ một lòng với nhau, tính tình như một người. Mà đòn này Dương Qua còn phải liều mình cứu nàng làm cho kiếm thuật tâm pháp cực cao, thành thử đòn "mã tựu lạc hoa" có một uy lực rất thịnh, đã đỡ gạt được đao kiếm của động chủ, mà thừa thế áp đảo. Tiểu long Nữ thấy chàng không che giữ mặt trước của chàng mà phải liều thân qua cứu nàng, nên lòng quá cảm động, vung kiếm sang đỡ môn hậu cho chàng. Thế là cả hai vốn không tự giữ mình mà trở thành được che kín cả.
Lúc này đôi gươm trở nên ác liệt. Sau mấy đòn, Công Tôn động chủ trên trán đã nhễ nhại mồ hôi, còn chàng và nàng lối đánh tiếp tay mỗi lúc một thuận. Dương Qua thừa thắng đưa tay trái múa thành hình "khoái", tay mặt phóng kiếm đâm xiên xuống hông trái đối phương. Tiểu long Nữ thì hai tay giữ chặt thanh gươm, vung ngược lên một nhát. Đòn này gọi là "Cử án tề mi" một đòn lợi hại vào loại đẹp mắt trong "Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp". Thấy thắng địch dễ dàng, lòng nàng hân hoan, nên tình yêu đương cũng rạo rực cả tâm hồn. Nàng quay lại nhìn chàng một cái để cảm thông. Bỗng nhiên nàng nhức buốt cả tim gan, sức đau khốc liệt như ai đâm một mũi kiếm vào tim nàng vậy. Cả hai tay như rã rời, mặt nàng trở nên xám ngắt, thanh kiếm trong tay như muốn rơi xuống vì bàn tay đã tê hết!
Công Tôn động chủ thấy thế cười nhạt:
- A! Tình hoa! Tình hoa!
Nàng đau đớn quá! Không biết lão nói gì cả. Dương Qua đã thừa hiểu nàng bị chất độc của tình hoa ngấm vào da thịt nên tác động mạnh. Vì lúc ở trong phòng kiếm, nàng mó tay vào bó "Tình hoa" bị gai đâm vào ngón tay, nên đến lúc này nàng nắm chặt đuôi gươm đánh đòn "Cử án tề mi" thì xúc động chân tình, ngón tay bị gai đâm phát nhức, theo các mạch máu đau nhói khắp châu thân không chịu nổi.
Dương Qua đã bị gai "Tình hoa" nên những cơn đau đớn đó chàng thừa hiểu. Chàng quá thương hại cho nàng, hồi hộp hỏi:
- Đau lắm hả cô?
Động chủ thừa dịp lơ đãng ấy vung cả kiếm lẫn đao đánh tới tấp vào chàng.
Tiểu long Nữ hơi bớt đau, cố sức tung kiếm lên giải nguy cho chàng. Dương Qua lo sợ vội bảo:
- Cô nên nghỉ một lát đi!
Nhưng chàng cũng bất ngờ, vì chàng quá cảm động nghĩ đến tình yêu đắm đuối, ngón tay chàng cũng đau nhói lên luôn. Động chủ là tay lợi hại, thừa dịp chém một kiếm. Tức thì nghe "choang" một tiếng, đã thấy cây kiếm "Anh hùng" trên tay chàng rơi xuống. Liền đó mũi hắc kiếm đã đâm thẳng vào ngực chàng. Nàng hốt hoảng phóng người qua đưa gươm đánh mạnh, thì bị kim đao của lão chận lại, không thể nào tiến qua phía chàng được nữa.
Động chủ quát gọi đồ đệ:
- Bắt lấy thằng nầy!
Bốn gã đệ tử áo xanh liền chạy lại tung lưới trên đầu Dương Qua, chụm gọn chàng trong mành lưới. Động chủ quay lại hỏi nàng:
- Cô Liễu! Cô định thế nào?
Tiểu Long Nữ thấy mình bị cô thế, không thể nào đánh lão được nữa bèn ném luôn "Giai nhân kiếm" xuống đất nghe "cạch" một tiếng, thanh "Anh hùng kiếm" và "Giai nhân kiếm" cùng tự động chạy vút trên mặt đất rồi cả hai dính nhập vào thành một khối.
Tiểu long Nữ thấy hai thanh kiếm cũng có tình tiết thắm thía như thế, liền cương quyết trả lời:
- Gươm là vật vô tri mà còn như thế huống hồ là người? Ông giết hết cả hai chúng tôi là xong.
Công Tôn động chủ hừ một tiếng, bảo nàng:
- Cô Liễu ơi! Tôi đâu có ác ý như thế? Thôi bây giờ cô theo tôi vào đây! Rồi ra lệnh cho bọn đệ tử khiêng Dương Qua vào hậu đường. Động chủ chắp tay quay sang bọn Kim Luân Pháp vương nói:
- Vô phép quý khách trong chốc lát.
Dứt lời lão bước vào hậu đường, bốn gã đệ tử túm Dương Qua trong lưới khiêng theo lão. Tiểu Long Nữ cũng lẽo đẽo theo sau.
Mã quang Tổ ngơ ngác nhìn rồi quay sang Tiểu Long Nữ, Kim Luân Pháp Vương và đồng bọn nói
- Đại hoà thượng ơi! Bây giờ hoà thượng tính cách nào để chúng được biết.
Kim Luân Pháp Vương mỉm cười không đáp. Tiêu Tương Tử cười nhạt đáp:
- Chú Tổ ơi! Chú mày có thể đánh động chủ đó chăng?
Mã Quang Tổ vò đầu suy nghĩ chưa ra cách nhưng luôn miệng nói:
- Đánh không nổi cũng đánh! có đánh mới biết nổi hay không chứ?
Công Tôn động chủ gầm mặt đi truớc. Đến gian nhà đá nhỏ lão nói:
- Cô Liễu! Tôi không có ý làm nhục cô đâu. Chỉ sợ cô liều thân huỷ mạng.
Dứt lời lão vẫy tay một cái, bốn đệ tử vung lưới chụp luôn Tiểu Long Nữ. Lúc này trong nhà đá nhỏ có hai bọc lưới, một bọc nhốt Dương Qua, một bọc nhốt Tiểu long Nữ. Động chủ liền truyền lệnh cho bọn đệ tử:
- Các ngươi ra vườn cắt mấy bó tình hoa đem vào đây.
Dương Qua và Tiểu long Nữ ngồi trong mành lưới nhìn nhau mỉm cười thầm nhủ:
- Dù động chủ có hành hạ đến đâu, chúng ta đến mức cùng là thề đồng chết với nhau.
Vì vậy hai người không hề để ý đến lời nói, và cử chỉ của động chủ. Chốc lát từ cửa nhà đá đã phảng phất một mùi hương kỳ lạ, làm cho hai người phải say hồn lạc vía. Hai người quay ra nhìn, chợt thấy mười bó hoa màu rực rữ trên tay bọn đệ tử áo xanh đem vào, bàn tay gã nào cũng đeo một lớp da trâu đề phòng gai "Tình hoa" chích vào tay.
Động chủ phảy tay áo một cái rồi cười nhạt nói:
- Hãy rắc hết lên người thằng này.
Chỉ trong nháy mắt, Dương Qua đã cảm thấy như muôn ngàn mũi nhọn như nọc ong sắc châm đốt khắp thân thể. Cơn nhức đã rần khắp mình chàng. Chàng không thể nén nổi, buột miệng kêu:
- ối chao!
Tiểu long Nữ quá thương xót cho chàng, và hết sức căm giận lão Công Tôn. Nàng quắt mắt nhìn lão quát:
- Ông giở trò độc hại nầy để toan làm gì?
Lão nghiêm sắc mặt nói:
- Cô Liễu, hôm nay là ngày lành, tôi và cô đã đồng ý làm lễ động phòng hoa chúc, nào ngờ thằng này đến đây để phá đám. Cũng vì nó làm thất điên bát đảo cả động nầy. Nhưng tôi với nó vốn không có quen biết gì, thì đâu gọi là thù oán. Hơn nữa, nó lại là học trò của cô, lẽ ra nó phải giữ đúng lễ tân khách, tôi sẽ kính trọng nó. Thôi, sự việc đến thế nầy rồi...!
Nói tới đây, lão trỏ tay một cái, bọn đệ tử lập tức ra khỏi nhà, khép kín cửa lại. Lão bèn nói:
- Sự việc đã thế này, thì họa hay phúc đều do cô quyết định.
Dương Qua bị muôn ngàn mũi gai "Tình hoa" không ngớt châm chích, cơn đau đớn thật kinh khủng. Nhưng chàng vẫn cố gắng gượng tỏ ra không đau đớn gì, để Tiểu long Nữ bớt lòng thương hại, lo sợ cho chàng và sờn lòng trước sự đe dọa của động chủ. Tuy chàng cố cắn răng giữ lại những cơn đau dồn dập, nhưng hơi thở uất hận trào lên cửa miệng, tạo thành những hơi thở não ruột. Chàng không tài nào giấu nổi sự đau đớn hiện trên sắc mặt được.
Nàng nhìn sắc mặt chàng, thương xót vô cùng, thì vết thương trên ngón tay nàng nhức tê cả người. Nàng suy nghĩ:
- Mình chẳng qua bị sơ sơ vài mũi gai đâm mà đau buốt thế này. Còn chàng bị trăm ngàn mũi đâm mãi trên thân thể thế kia, thì sức đâu mà chịu nổi?
Lão Công Tôn thấy nàng buồn bực dịu giọng nói:
- Cô Liễu ơi! Tôi thành tâm cùng cô kết mối lương duyên trăm năm, nên đối với cô, tôi đã giốc hết lòng kính yêu. Chứ tuyệt nhiên không có ý tà. Điều đó tôi không nói nhiều cô tự nghĩ cũng đã rõ được.
Nàng cúi mặt cho khuất những giọt lệ, nói:
- Ngài đối đãi với tôi thật quý hóa. Trước khi cứu tôi đem về đây, ngài đã ân cần lo lắng chu đáo. Thật là trăm thương ngàn quý. Ngài chiều theo ý tôi chỉ sợ tôi buồn.
Đến đây nàng thở ra một hơi dài, như nấc lên nói tiếp:
- Công Tôn tiên sinh! Nếu như ngày ấy ngài không gặp tôi trong núi thẳm rừng sâu và không cứu mạng tôi, thì tôi đã được im lìm mà chết, Hôm nay ba chúng ta không sanh ra chuyện oái oăm này. Nhưng giờ ngài cứ ép buộc tôi thành thân với ngài tôi sẽ đau buồn suốt đời thì ngài có sung sướng chi?
Đôi mày lão nhíu lại, lão trầm ngâm giọng nói:
- Tôi là người biết trọng lời nói, nếu đã nói ra không thay đổi được. Tôi không một lời hứa và quyết không để ai phụ rẫy làm nhục tôi. Như cô đã
hứa thành thân với tôi là tôi phải được thành thân. Còn những sự vui mừng đau khổ ở đời là không ai có thể đoán trước được.
Rồi lão trỏ tay vào mành lưới nhốt Dương Qua nói tiếp:
- Cô hãy nhìn rõ đây! Khắp mình hắn đã bị "Tình hoa" châm chích, cứ sau một giây một khắc hắn sẽ bị đau thêm một bậc. Qua ba mươi sáu ngày, toàn thân nó sẽ đau đớn kịch liệt rồi chết. Nhưng ta có thứ thuốc bí chế linh diệu, nếu cho uống vào có thể cứu được mạng. Nếu cô muốn cho hắn chết, sống tuỳ theo ý cô định liệu.
Lão thong thả bước gần ra cửa đưa tay mở hai cánh cửa và quay lại nói: - Hay là cô muốn để cho hắn kéo dài lê thê đau đớn rồi mới chết? Nếu đó là ý muốn của cô thì cô cứ ở đây chứng kiến qua ba mươi sáu ngày mà trông ngắm hắn. Đối với cô ta không có ý hại đâu.
Nói xong lão toan bước ra ngoài. Tiểu Long Nữ thấy lão quả quyết nàng tưởng dù sao cũng được ôm chồng mà chết một lúc, nào ngờ lão dùng trăm mưu ngàn kế, bày trò chia cắt đôi bên độc hại thế này. Lại thấy Dương Qua run rẩy vì cơn đau ghê rợn, răng cắn vào môi máu đầm đìa, đôi mắt đã lờ mờ trắng đục. Lúc đầu đau đến thế thì những giờ sau chất độc thấm đến tim gan hành hạ đến bực nào? Và phải chi đến 36 ngày, dẫu đến dưới địa ngục cũng chưa có cực hình ghê rợn đến thế, nàng không thể nhìn được cảnh đau đớn của chàng nữa, răng nàng nghiến kèn kẹt, gọi:
- Công tôn tiên sinh! tôi chiều lòng ngài. Hãy thả ngay hắn ra, và đổ thuốc giải cứu lập tức!
Lão động chủ cố ý bức bách chỉ vì mong đợi câu nói ấy của nàng. Lúc bấy giờ lão sung sướng vừa ghen hờn, nghĩ thầm: "Từ nay trở đi, nàng chỉ còn giận ghét ta chứ không bao giờ yêu mến ta được nữa".
Lão gật đầu nói:
- Cô hồi tâm tĩnh trí thì tốt đẹp cho ba chúng ta lắm. Thôi, cứ để sau đêm động phòng hoa chúc của chúng ta, rồi sẽ lấy thuốc cứu hắn cũng chẳng muộn.
Tiểu long Nữ hét lên:
- Không! Không được như thế? Ngài hãy đem thuốc ra cứu liền ngay đi.
Lão thản nhiên đáp:
- Cô Liễu ơi! Cô coi rẻ tôi lắm! Tôi phải cố công cực khổ mới được cô nhận lời. Nhưng thật ra lòng cô đâu có được như lời hứa của cô. Điều ấy tôi đã hiểu thì sao tôi lại làm theo cô mà đem thuốc cứu hắn ngay được.
Nói rồi, lão gỡ lưới mở Tiểu Long Nữ. Lão bước ra khỏi nhà đá, chỉ để trơ hai người trong đó.
Nàng đứng ngoài nhưng chàng vẫn nằm run lẩy bẩy trong mành lưới.
-
Chương 50 - Cứu nhau rời đầm cá sấu
Chương 50
Cứu nhau rời đầm cá sấu
Dương Qua nhìn Tiểu Long Nữ qua một hồi đau khổ, rồi bảo nàng:
- Cô ơi! Tôi đã được cô thật lòng yêu thương thì nay thân này có chết xuống suối vàng
cũng được sung sớng lắm rồi. Vậy cô hãy đánh vào đầu tôi một chưởng cho sớm
thoát cảnh cực hình này! Sau đó cô hãy tìm cách xa lánh nơi đây!
Nàng thầm nhủ:
- à! Mình đánh chàng chết, rồi mình tự tử luôn và hết đau khổ!
Nàng liền nghiến răng giơ cao tay, vận hết nội công để đánh. Dương Qua mặt ửng
hồng, mỉm cười, ánh mắt nhu hòa, hân hoan nhìn nàng hạ thủ, và nói:
- Cô ơi! Sung sướng lắm! Giờ khắc này mới chính là giờ động phòng hoa chúc của đời
ta.
Nàng thấy chàng sao lại vui vẻ, không hề sợ chết, thì nàng lại nghĩ:
- Ôi chao! Một người chồng thanh niên tuấn tú thế này, sao trời già trớ trêu, cay
nghiệt bắt phải chết oan uổng?
Lập tức, tim nàng đau nhói lên, máu uất như trào nghẹn cả cổ họng. Bỗng nhiên sức
nội công bay đi đâu mất, làm cho tay chân nàng rã rời! Nàng run rẩy ngã nhào đè sấp
trên mình chàng. Hai tấm thân chỉ cách nhau một mành lưới rỗng lỗ, trăm ngàn mũi
gai tình hoa châm chích vào da thịt nàng. Nàng kêu lên:
- Anh Qua! Thôi hai ta cùng chịu đau đớn với nhau.
Chợt nghe sau lưng có tiếng nói khàn khàn:
- Sao lại khổ thân như thế? cô có gì mà phải chịu đau đớn? Như thế này là giảm bớt
đau đớn của hắn rồi.
Đó là tiếng nói của lão động chủ. Tiểu long Nữ đắm đuối nhìn Dương Qua một lúc,
rồi từ từ quay lại, lầm lũi đi ra khỏi nhà đá không hề nhìn lại.
Lão động chủ bảo chàng:
- Này em Dương, nằm yên đi! Qua sáu tiếng đồng hồ nữa ta sẽ đem linh dược đến
cứu. Nhưng nên nhớ kỹ điều này: Trong lúc em chờ đợi phải giữ lòng trong trắng,
đừng nghĩ đến mảy may tình dục, là cơn đau bớt đi không có gì thiệt hại.
Nói rồi lão bước chân ra khỏi cửa, gài kín cửa lại đi thẳng.
Dương Qua lúc nầy da thịt đau rã rời, ruột như đứt từng khúc. Chàng tự hỏi:
- Sao lúc nãy nàng lại ngừng tay không đánh cho ta chết để tránh đau khổ?
Càng nghĩ chàng càng thấy đau khổ, nhục nhã hơn: Thật ra bao nhiêu đau khổ trước
kia cũng không đáng kể gì. Chỉ có tiếng lão động chủ hiểm độc như lang sói nầy là
đáng hận. Không lẽ ta chết đi bỏ mặc cho nàng sa vào tay hắn? Nàng sẽ chọn đời đau
khổ với hắn ? Hơn nữa, thù cha ta cũng cha trả được, ta há vì đau khổ mà phải liều
chết, rồi để cho bọn giả nhân, giả nghĩa vợ chồng Quách Tỉnh và Hoàng Dung ược
vui mãi trên đời sao?
Nghĩ đến đây chàng như trút hết nỗi đau đớn, đầu óc sáng lên: Không chết được! Dù
gặp nguy biến đến mức nào cũng cương quyết chịu đựng để thoát chết. Nếu như nàng
bị lão bắt buộc phải làm vợ thì ta cũng cần phải sống để tìm cách cứu nàng về với ta
mới được. Ta cần phải cố công luyện võ thề để báo thù cha mẹ ta.
Chàng cắn răng ngồi nhỏm dậy, xếp bằng trong lới. Tuy ngồi không được thong thả
nhưng cũng dồn được khí tức xuống đáy lòng.
Độ hai giờ sau, chợt có người mở cửa, chàng nhìn ra thì thấy gã đệ tử áo xanh bưng
mâm bước vào phòng chàng. Trên mâm có bốn cái bánh bao, hắn nói:
- Hôm nay là ngày tân hôn của động chủ. Ngài gởi tặng cho ngươi ăn một bữa thật
no.
Rồi hắn cầm từng cái bánh đưa qua lỗ lưới cho Dương Qua. Tay hắn được bao mấy
lớp vải rất cẩn thận, vì sợ chạm vào gai "tình hoa". Dương Qua không thèm nói gì cả,
chỉ đưa tay nhận lấy bốn chiếc bánh ăn hết một lúc. ăn hết bánh, chàng bình tĩnh nói:
- Ta đã nhất định ra tay với lão nầy thì dại gì phải đau khổ mà nhịn ăn cho thiệt?
Gã đệ tử lại nói:
- Không ngờ người lại ăn khỏe quá. Thế là tì vị tốt lắm đấy.
Chợt một bóng xanh thoáng qua cửa. Một gã đệ tử khác bước nhẹ vào, không nghe
một tiếng động. Hắn đứng sau lưng gã đệ tử vừa vào trước, rồi xuất quyền đánh bất
thần một đòn như chớp. Gã vào trước kịp nhận ra ai thì đã bị nhào xuống đất ngất
lịm!
Dương Qua ngạc nhiên trố mắt nhìn kỹ, thì té ra ngời đánh trộm lại là nàng Công
Tôn Lục Ngạc, con gái của động chủ! Chàng kinh hãi kêu lên:
- Cô! Cô!
Lục Ngạc vội quay ra gài chốt cửa cẩn thận, rồi quay vào thì thào:
- Anh Dương! Nói khẽ chứ! Tôi vào cứu anh đây.
Dứt lời, Lục Ngạc đã mở lưới, tha Dương Qua ra ngoài. Chàng đứng dậy khẽ nói:
- Nếu Công Tôn động chủ biết, thì...
Nàng không để cho chàng nói hết câu, vội nói:
- Thì tôi phải chịu hình phạt là cùng.
Nàng lượm một bó "Tình hoa" nhỏ đem đặt trên miệng gã đệ tử áo xanh, để khi hắn
tỉnh dậy không thể kêu la được, rồi lấy lưưới bao hắn lại, lượm hoa rắc lên mình.
Nàng hạ giọng bảo chàng:
- Anh Dương ơi! Anh ở đây, nếu có ai vào anh núp sau cánh cửa nhé! Vì lúc này anh
đã bị gai "Tình hoa" truyền chất độc vào mình dữ lắm. Để tôi đi lấy thuốc cho anh
dùng.
Chàng quá cám động, thấy nàng mạo hiểm liều thân như vậy, nên thầm nghĩ: "Mình
với nàng gặp nhau cha đầy một ngày, mà nàng đã phản cha nàng để cứu mình ?".
Chàng ấp úng:
- Thưa cô nương. Tôi làm phản cô nương nhiều... sợ...cô...
Lòng chàng quá xúc động, không thể nói hết câu đứng lặng thinh với đôi mắt ngấn lệ.
Nàng Lục Ngạc đang lo âu, sợ sệt, bỗng nhiên trở nên vui tơi hớn hở, thầm nhủ:
- Anh có lòng với em nh thế, thì em có rủi ro bị cha em hành phạt đến đâu, em cũng
nhắm mắt cam lòng...
Đoạn nàng dặn tiếp:
- Anh ở đây đợi em một chút nhé? Em trở lại ngay với anh.
Nàng nhẹ bước thoăn thoắt ra khỏi phòng. Dương Qua ngẩn người như trong cơn
mộng:
- Sao ta lại được nàng đối đãi như thế này?... ôi! Lạ thật! nàng là con gái của lão gian
ác kia mà! Ôi! Từ nhỏ bị khinh khi nhục nhã, tưởng trên đời không ai là người nhân
từ đạo đức nữa, nào ngờ lại có nhiều người đem chân tâm đối với ta. Nhu cô Tiểu
Long Nữ, thầy dạy học của ta đã đành, còn Tôn Bà, Hồng thất Công, nghĩa phụ Âu dương Phong, Hoàng dược Sư và nay còn có những thiếu nữ chịu liều thân sống chết với ta trong cơn nguy biến như Trình Anh, Lục Vô Song, và Lục Ngạc nữa. Thật những người đối với ta hết lòng hết dạ. Giá đừng có những kẻ đối với ta quá ác độc như chúa động, thì đâu thấy những cái quý hóa của người có chân tâm, hy sinh đau đớn lo cho ta như cô Tiểu long Nữ và nàng Lục- Ngạc?
Thực ra, những cuộc tương ngộ trên đời Dương Qua đều thấy cả hai thái cực. Nếu
không phải là người yêu mến giúp đỡ chàng thật lòng, thì là kẻ cực ác, làm cho chàng
thiệt hại một cách tàn nhẫn. Đó không phài là tại người mà chính là thiên tính của
chàng đã gây nên. Khi gặp ai hợp tình là chàng dốc hết lòng thành đối với họ, nếu ai
không hợp ý hợp lời, thì chàng đối xử như kẻ thù. Bởi chàng đối với người như thế,
nên người ta cũng đối xử lại chàng như vậy...
Chàng đứng sau cánh cửa chờ đợi đã lâu mà chẳng thấy bóng Lục Ngạc trở vào. Thời
giờ cứ lặng lẽ trôi qua trong cảnh hồi hộp. Dần dần gã đệ tử nằm trong lưới tỉnh lại,
mắt hắn trắng nhợt, toàn thân run run. Hắn quá đau đớn nhưng không thể nói ra lời.
Dương Qua thấy quá lâu, lòng lo ngại. Lúc đầu chàng nghĩ rằng vì trong phòng thuốc
có người nên nàng chưa tiện lấy trộm được. Nhưng rồi mỗi lúc một biệt tăm chàng lại
nghĩ: - Nếu nàng không thể lấy được thuốc thì nàng cũng trở lại nói một lời cho ta
biết, lẽ nào nàng để mình đứng chờ lâu thế này sao? Có lẽ nàng gặp điều gì không
may đâu! Nàng đã vì mình mắc vạ to thì mình phải đi tìm cứu ân nhân chứ?
Chàng bèn đẩy hé cánh cửa đa mắt nhìn ra ngoài không thấy một bóng người. Chàng
vội nhón chân bước ra. Nhng chàng không biết, Lục Ngạc bị hành phạt ở phòng
nào?
Chàng đang bối rối, chợt nghe có tiếng chân bước rầm rập. Chàng vội nép mình vào
góc tường sau thấy hai gã đệ từ áo xanh sánh vai đi tới, tay cầm một cây tua tủa
những gai. Đó là loại binh khí đặc biệt làm cho chàng thầm nghĩ: có lẽ nào động chủ
lại hành hạ đứa con gái ông ta bằng hình phạt ghê gớm nầy!
Chàng liền nhón chân theo hai gã đệ tử, mà họ vẫn không biết. Đi loanh quanh qua
các ngạch đá một lúc, thì đến trước một căn nhà. Họ cất tiếng thưa:
- Bẩm động chủ, chúng con đã đem trượng gai đến.
Rồi hai gã đẩy cửa bước vào. Tim của Dương Qua nh muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Lão động chủ khốn kiếp quả đang ngồi trong phòng nầy. Chàng đảo mắt nhìn quanh,
thấy phía đông căn phòng đá có một cửa sổ, bèn nhón chân bước tới đó, nhìn trộm
vào trong, thì y hệt như chàng đã đoán: Nàng Lục Ngạc bị bắt dẫn vào phòng. Cha
nàng ngồi giữa, hai gã đệ tử cầm trượng gai đứng hai bên. Động chủ thấy trượng gai
đã đem đến, liền đưa tay nắm lấy, hằn học bảo con gái:
- Con Ngạc! Mày là máu mủ của tao, sao mầy lại phản cha mày như thế?
Nàng Lục Ngạc chỉ cúi đầu không đáp. Lão mắng tiếp:
- Mày đã mê cái thằng họ Dương ấy rồi, lý nào tao không biết? Nhưng tao đã bảo là
tao phải hành phạt nó, rồi đến ngày mai tao tha cho nó đi, sao mày dám vội vàng như
vậy? Thôi để ngày mai tao hỏi ý kiến rồi tao gả cho nó là xong.
Dương Qua đâu phải là kẻ ngây ngốc gì mà không hiểu ý Lục Ngạc. Chàng vẫn biết
rằng nàng có lòng dạ yêu chàng. Song vì lòng chàng đang bấn loạn đắm đuối Tiểu
long Nữ, nên chàng phải quên đi, không nghĩ đến. Nhưng lúc này, nghe lão động chủ
nói trắng trợn ra, chàng giật mình hồi hộp, hai má nóng rần... Chợt thấy nàng Lục
Ngạc ngẩng đầu cất tiếng lanh lảnh:
- Thưa cha! Lúc nầy cha đang bận tâm lo ba việc thành hôn của cha, thì đâu còn để ý
gì đến con?
Động chủ quắc mắt "hừ" một tiếng không thèm nói. Nàng lại tiếp:
- Thưa cha, điều đó không sai. Con quả khâm phục Dương công tử là người đường
đường chính chính, chí nghĩa, chí tình. Nhưng con đã thấy rõ lòng chàng lúc nào cũng
chỉ biết có Long cô nương mà thôi! Sỡ dĩ con phải cứu chàng là vì... con thấy việc
làm của cha thật quá chứ con không có ý gì khác.
Dương Qua núp bên ngoài nghe rõ, lòng vô cùng kính phục:
- Lão động chủ là một tay gian xảo, bạc ác ai ngờ lại sanh một cô gái đầy đủ đức
hạnh, cao thượng thế này!
Công Tôn động chủ mặt hầm hầm, trơ trơ như tượng gỗ. Lão lạnh lùng đáp:
- Mày nói như thế tức là mày mắng cha mày vô nhân, bất nghĩa hả?
- Lục Ngạc ngơ ngác nói:
- Con đâu dám nghĩ nh thế! chỉ có điều...
Lão gắt giọng, hỏi:
- Điều gì?
Nàng bối rối nói:
- Dạ, chỉ có điều Dương công tử đã bị Tình hoa châm chích muôn ngàn mũi, thì
chàng chịu đau đớn sao nổi? Cha ơi! Cha hãy ban ân đức thả chàng ra!...
Động chủ cười nhạt:
- Cứ để đến ngày mai tao hãy cứu nó, thả nó việc gì mầy phải xen vào cho lôi thôi?
Lục Ngạc cúi đầu suy nghĩ:
- Cha ta làm sao có được hảo ý với chàng. Nếu chàng còn sống thì Long Nữ không
thể thuận lời cha ta. Hơn nữa tình yêu nồng thắm của họ chỉ tạo cho cha ta một ý căm
hờn làm sao cha ta có thể đối với chàng như cha ta vừa nói?
- Thưa cha, con mang ơn dưỡng dục từ bé đến giờ, có lẽ nào con lại vì Dương công tử
là người xa lạ bên ngoài mới đến? Nếu con biết chắc ngày mai cha sẽ cho thuốc và
thả hắn đi thì con đâu dám bước vào phòng đàn ông.
Lão gằn giọng hỏi:
- Mày biết thế sao còn lẻn vào đây?
Nàng bạo dạn tiếp:
- Vì con biết ý cha không tốt với hắn. Đêm nay, sau khi thành thân với Long cô
nương rồi, ngày mai cha sẽ có độc mưu trừ mạng hắn, để cho tình duyên giữa hắn và
Long cô nương không còn nữa.
Công Tôn động chủ thường ngày dù giận dù mừng, không mất vẻ bình thân, nên
những lúc phân xử mọi việc lớn nhỏ trong động lão xét đoán được công minh đối xử
với đệ tử, cho nên trong động ai ai cũng một lòng khâm phục. Nhưng Lục Ngạc lần
này đã thầm biểu tình ý cũa lão nên lão nổi giận gầm gừ:
- Hừm? Đúng là sanh con hoang rước họa vào mình! Tao nuôi mày khôn lớn chừng
nầy, không ngờ nay mày lại kết tội tao!
Lão tóm lấy vạt áo Lục Ngạc lôi mạnh một cái. Lục Ngạc hỏi:
- Cha làm gì thế?
- Mày còn giả ngơ ngẩn ? Đừng chối nữa! Viên thuốc "tuyệt tình" trị chất độc đâu
rồi?
Nàng thản nhiên đáp:
- Con không hề lấy.
Lão đứng phắt dậy lớn tiếng:
- Thế thì nó biến đi đâu?
Bấy giờ, Dương Qua nhìn vào phòng, thấy các hộp mở nắp, đặt trên bàn la liệt. Trên
tường treo đầy các thứ cỏ, lá, rễ... không biết được là thuốc gì. Bàn phía Tây để ba cái
lò luyện thuốc trước cửa phòng có đề hai chữ "đơn phòng". Chàng nhìn vẻ mặt động
chủ thầm lo:
- Hôm nay dù thế nào nàng Lục Ngạc cũng không thể tránh khỏi trọng hình:
Bỗng có tiếng nàng nói:
- Thưa cha! con tự tiện vào đơn phòng, quả có ác ý muốn lấy thuốc, để cứu Dương
công tử, nhưng con tìm hơn nửa ngày mà chẳng kiếm được. Nếu con tìm được thì con đã đi rồi, đâu đến nỗi lại bị cha bắt được?
Động chủ hét:
- Chỗ cất thuốc bí mật vô cùng. Những quan khách hiện còn ngồi ở đại sảnh, chưa ai
rời đi một bước thế mà viên thuốc "Tuyệt tình" đã biến đâu mất tích? lẽ nào nó có
cánh?
Nàng quỳ xuống khóc sụt sùi:
- Lạy cha! Cha rộng lượng tha cho Dương công tử, để hắn được toàn mạng ra khỏi
động, vĩnh viễn không cho vào nữa thế là yên.
Động chủ cười nhạt:
- Nếu không may tính mạng tao lâm nguy chưa chắc mày đã chịu quỳ khóc để cầu
cứu.
Nàng không nói nữa, cứ ôm lấy hai chân cha nàng. Lão động chủ nói:
- Mày lấy mất viên thuốc "tuyệt tình đơn" rồi, tao lấy gì mà cứu nó? Được! Mày
không nhận thì mặc mày. Để cho mày cứ ngồi đây trọn ngày thâu đêm. Mày lấy
thuốc mà không cho thằng họ Dương ấy uống, thì để hai ngày tao mới thả nó ra.
Nói rồi lão ra cửa. Nàng biết rõ một gai tình hoa chỉ châm sơ vào da một cái cũng đã
gây độc đau đớn mãi đến ba ngày. Thế mà
(*** mất 10 trang ***)
Dù có đau đớn thế nào cũng phải cố sống để cứu nàng mới được. Lão động chủ kia dù
có ác độc đến đâu đi nữa, cũng phải có tình cha con. Thế nào rồi lão cũng sẽ hồi tâm
đổi ý, khi gặp con gái lão thoát nạn.
Chàng miên man suy nghĩ nhiều chuyện. Trong chốc lát quên hẳn cả Tiểu Long Nữ,
rồi cơn đau được dịu dần. Chàng nói:
- Công Tôn cô nương ơi! Đừng sợ nữa. Tôi tin chắc thế nào Công Tôn động chủ cũng
cứu cô lên. Người chỉ giận một mình tôi thôi, chứ cô dù thế nào cũng là nguời thương
yêu của người. Và lúc này nhất định thân phụ cô đang hối hận.
Nàng Lục Ngạc nghe qua lòng xúc động ứa lệ nói:
- Hồi em còn nhỏ, quả thật cha em thương em lắm. Nhưng sau khi mẹ em mất, tình
thương của cha em đối với em trở nên khe khắt. Tuy thế, em cũng hiểu là trong thâm
tâm cha em không hề ghét em.
Nàng ngừng một lúc, để hồi tưởng lại bao nhiêu chuyện kỳ lạ lúc trước, rồi bảo
chàng:
- Anh Dương ơi? Em vừa nhớ lại hình như cha em có ý sợ em vậy. Anh ạ!
Dương Qua ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao người lại sợ cô? Điều nầy thật kỳ lạ.
Nàng nói tiếp:
- Thật vậy. Trước đây em nhận thấy nhiều lúc sắc mặt cha em đổi khác, mất hẳn vẻ tự
nhiên, tựa như trong lòng có giấu giếm một ẩn tình gì đó, sợ em hiểu được. Thật ra từ
trước đến nay mỗi lúc thấy vẻ mặt người cha đổi khác nàng Lục Ngạc vẫn lấy làm lạ.
Nhưng rồi lần nào cũng quên đi. Vì cho rằng cha nàng quá thương mẹ nàng, nên khi
nhìn thấy con thì xúc động, đau buồn biến sắc. Nhưng đến lúc nầy nàng không cho là
thế nữa. Vì cha nàng đã xô nàng rơi xuống hầm cá sấu rõ ràng là một mưu mô cố ý,
chứ không phải trong cơn nóng giận mà lỡ tay. Trong lúc cha nàng đổi chỗ ba cái lò
luyện đơn trong "đan phòng" chính là ông ta đã mở then chốt của bộ máy giết người
vậy. Nếu nói rằng lão căm giận Dương Qua nên tống nàng xuống chỗ chết, thì không
đúng, vì lão cần gì phải làm nh thế? Trên mình chàng đã bị châm muôn ngàn mũi
gai "tình hoa", chất độc đã ngấm nhiều lắm rồi! Lão cứ việc làm ngơ không cứu, là
chàng phải chết! Cần gì phải xô xuống vực sâu? Mà nếu lão muốn giết chàng xuống,
sao lại nắm vai nàng thúc một chưởng cho rớt xuống luôn?
Bàn tay lão đã tàn nhẫn như thế thì đâu còn tình cha con!
Nàng càng nghĩ càng băn khoăn, lại càng nhớ nhung hành vi ngôn ngữ của cha nàng
trước đây. Khi nãy nàng không hiểu, vì không lưu ý tìm hiểu, chỉ cho rằng đó chỉ là
những hành vi cùa một người tu luyện, nên khác với người thường. Nhưng lúc này
nàng không thể nghĩ như thế được nữa. Bây giờ cá sấu đã quây quần nhau lại một
chỗ. Chúng tranh nhau xé thây một con đồng loại bị Dương Qua giết chết. Thấy
chúng không bò lên đá nữa, Dương Qua nhìn mặt Lục Ngạc, thấy nàng ngơ ngẩn, liền
hỏi:
- Phải chăng thân phụ cô có điều gì bí ẩn, vô ý để cô bắt gặp?
Nàng lắc đầu nói:
- Không! Cha tôi vốn đoan nghiêm đường hoàng, xử sự công minh chính trực nên mọi
người trong động đều kính trọng. Cho đến hôm nay, cha tôi mới đối xử với anh như
thế nầy.
Dương Qua mới bước chân vào động "Thủy Tiên" lần đầu, chưa hiểu gì về lai lịch nên
khó mà đoán giúp cho nàng về ẩn ý của cha nàng được. Dưới vực thẳm, bên đám cá
sấu khí lạnh như băng, hai người lại bị ướt cả mình mẩy. Vê phần Dương Qua, trước
kia đã luyện nội công trên giường "ngọc hàn" nên khí lạnh lúc nầy đối với chàng
không ra gì. Còn nàng Lục Ngạc thì đã tái tê, run lập cập, phải nằm gọn vào lòng
chàng để chờ khí ấm. Dương Qua lo lắng:
- Sức nàng không thể chịu nổi cảnh rét buốt nầy.
Chàng vừa thương vừa sợ, định kiếm vài câu chuyện nói cho nàng vui, nhưng chợt
nhìn xuống bầy cá sấu lố nhố dưới hầm, thấy chúng xâu xé cướp giật con vật đồng
loại bị chết, chàng mỉm cười bảo nàng:
- Công Tôn cô nương ơi! Hôm nay chúng ta cùng chết, thì sau này cô định làm kiếp
gì? Phần tôi, nhất định không bao giờ tôi làm cá sấu kia! Nàng khẽ mỉm cười:
- à! Thế anh biến làm một đóa hoa "Thủy Tiên" nhé! Vừa đẹp vừa thơm, ai trông thấy
cũng yêu mến.
Chàng vui vẻ nói:
- Nếu biến làm kiếp hoa thì chỉ có người như cô mới hợp. Chứ như tôi có quý lắm là
biến đực cây gai ngạc đầu là cùng.
Nàng bật cười:
- Nếu nh Diêm Vương bắt anh phải biến thành một đóa hoa "Tình hoa" anh có bằng
lòng không?
Chàng im lặng không đáp, lòng hối tiếc thầm nghĩ:
- Nếu cứ dùng gươm tiếp tay "Ngọc nữ tố tâm" với cô ta, thì lão động chủ làm gì
chống nổi. Tuy lão võ công cao cường, nhưng vị tất đã hơn Kim Luân Pháp Vương.
Nhưng rủi cho cô ta đã phải gai "tình hoa" trong phòng kiếm mà phép đánh kiếm "tố
tâm" lại buộc hai người phải cảm thông tâm linh như nhau mới phát xuất được uy lực.
ôi! Như thế nầy cũng là số trời đã định, ta không nói làm chi nữa! Nhưng không hiểu
lúc này số phận cô ta ra sao?
Nghĩ đến Tiểu Long Nữ, các vết thương trong người chàng ngấm ngầm đau nhói lên.
Nàng Lục Ngạc thấy chàng không đáp, biết mình lỡ lời nhắc đến "Tình hoa" bèn nói
lảng sang chuyện khác:
- Anh Dương ơi! Trong bóng tối đen mò thế nầy, mà mắt anh kịp thời nhận ra cá sấu.
Em thì như mù tịt chẳng trông thấy gì cả.
Chàng cười nói:
- Thôi, mấy ông cá sấu kia xấu và tồi quá, đừng nhìn các ông ấy nữa.
Dứt lời chàng nhè nhẹ vỗ vai nàng, tỏ ý an ủi. Nào ngờ toàn thân nàng cảm thấy mát
rợi, đê mê cả tâm hồn. Chàng thầm nghĩ: "à! Lúc nàng ở trong phòng thuốc, bị tra
khảo gắt gao, lão già đó đã khăng khăng kết tội nàng lấy cắp thuốc cho nên nàng đã
phải thoát cả xiêm y thanh minh. Bây giờ mình nàng chỉ còn có chiếc áo lót nhỏ nầy
?
Chàng giật mình vội co tay lại. Nàng nghĩ đến thần lực của đôi mắt chàng có thể nhìn
rõ trong bóng tối như chỗ sáng thì nàng vô cùng thẹn thùng. Vì toàn thân ngọc ngà
của nàng đã đi lộ trước mặt chàng.
Lúc đầu, cả hai đều hoảng hốt trước lưỡi kiếm của lão già, kế đến lại điên đầu trước
cuộc chống với lũ cá sấu, cho nên cả hai sát lấy nhau mà tuyệt nhiên không hề nghĩ
đến việc nam nữ tiếp xúc quá thân. Đến lúc này, một đàng giật mình rụt tay một đàng
cùng đường hết cách, chỉ có thăng thiên độn thổ mới thoát được.
Dương Qua vội ngồi nhích ra xa, rồi cởi áo ngoài khoác lên mình nàng. Trong lúc cởi
áo chàng không những chỉ tưởng đến Tiểu long Nữ, mà còn liên tương đến nàng Trình
Anh, người đã tự tay may áo tặng cho chàng. Chàng lại còn nghĩ đến nàng Lục vô
Song đã tự nguyện chết thế cho chàng nữa. Chàng cảm thấy một đời chàng đã mang
lấy ơn bao nhiêu người đẹp mà thẹn là cha báo đáp được ai, nên quá xúc động thở
một hơi dài não ruột!
Nàng Lục Ngạc lấy chiếc áo chàng mặc vào rồi thắt dây lưng lại. Bỗng nhận thấy
trong túi áo chàng có vật gì nhỏ. Nàng lần tay ra móc trả cho chàng và hỏi:
- Cái gói gì đây hả anh? ậ trong túi áo anh đây nầy.
Dương Qua đưa tay cầm lấy và lạ lùng nói:
- ủa cái gì thế này?
Nàng càng ngạc nhiên hơn, vội nói:
- Vật nầy, ở trong túi áo anh, sao anh lại hỏi em?
Chàng định thần nhìn kỹ thì thấy một gói có bọc vải xanh từ trước đến nay chàng
chưa trông thấy bao giờ. Chàng liền mở ra xem, thì lập tức có một tia sáng từ trong
gói lóe ra, và thấy bốn lọ tròn nhỏ xíu, trong lọ có ánh sáng tỏa ra, hình như ánh sáng
của loại ngọc quí.
Lục Ngạc bỗng kêu lên:
- Ôi này!
Nàng đưa tay lấy mấy lọ thuốc trong tay chàng rối rít bảo:
- Thuốc "Tuyệt tình đan" đây rồi anh ơi?
Dương Qua vừa giật mình vừa mừng rỡ, vội hỏi:
- Có phải là thuốc chữa vết thuơng bị "Tình hoa" đâm chăng?
Nàng vui mừng đáp:
- Đúng là thuốc chữa bệnh cho anh đấy!
Hồi nãy em vào đan phòng tìm cả nửa ngày trời mà không thấy. Làm sao lại lọt vào
túi anh thế này? đã lấy được sao anh không uống đi? anh không biết đó là thuốc chữa
độc "Tình hoa" ?
Quá vui sướng, Lục Ngạc hỏi dồn dập làm cho Dương Qua không kịp trả lời, chàng
đưa tay ra trước mặt, nói:
- Tôi không hiểu gì cả, đây là lọ đan dược ? Tại sao nó lại lọt vào túi tôi thế này?
Thật là chẳng hiểu đầu đuôi ra sao!
Viên ngọc gắn trên đầu thìa tỏa ánh sáng lờ mờ, nhờ đó Lục Ngạc thấy được những
vật xung quanh. Nàng bắt gặp một cái gói, một lọ thuốc một mảnh giấy và một nửa
tai nấm tía Linh Chi.
Nàng lầm bầm:
- Nửa tai nấm Linh Chi nầy là do lão già quỷ quái đã bẻ gãy...
Dương Qua hỏi:
- Lão già nào? Có phải lão họ Châu?
Lục Ngạc đáp:
- Phải, chính lão đó đã đại náo nơi thư phòng, kiếm phòng, đan phòng, bẻ gãy cây
nấm Linh Chi nầy đây! Một tay lão gây ra bao nhiêu chuyện. Bấy giờ Dương Qua mới
chợt nhớ ra, gãi đầu gãi tai nói:
- Phải rồi! Chắc là thế.
Lục Ngạc hỏi lại:
- Cái gì mà phải? Mà chắc?
Dương Qua không đáp, nghĩ thầm: "Cái túi nhỏ xíu này là chính tay lão Châu đã nhét vào túi mình!
Thì ra đến lúc đó Dương Qua mới hiểu Châu bá Thông có ý thân giúp chàng. Chàng
đổi thái độ, không gọi Bá Thông là lão già nữa mà bằng "cụ Châu".
Nàng Lục Ngạc đoán biết phần nào, liền hỏi:
- Thế ra ông ấy trao cho anh?
Duơng Qua vừa cười vừa nói:
- Quả vậy! Vị tiền bối đó là một tay cao thủ đệ nhất võ lâm, đã từng đi đó đi đây quấy
phá mọi ngời để làm vui. Ông ta lấy cây kéo và chiếc mặt nạ của tôi mà tôi không
biết đã đành, ông ta lại còn bỏ gói thuốc nầy vào ngời tôi nữa? Ôi chao! Thật chẳng
khác nào một bậc thần thánh. Võ công của tôi so với ông ta kém xa một trời một vực.
-
Chương 51 - Thoát hầm cá sấu Lục Ngạc gặp thân mẫu
Chương 51
Thoát hầm cá sấu Lục Ngạc gặp thân mẫu
Dương Qua nhìn Tiểu Long Nữ qua một hồi đau khổ, rồi bảo nàng:
- Cô ơi! Tôi đã được cô thật lòng yêu thương thì nay thân này có chết xuống suối vàng
cũng được sung sớng lắm rồi. Vậy cô hãy đánh vào đầu tôi một chưởng cho sớm
thoát cảnh cực hình này! Sau đó cô hãy tìm cách xa lánh nơi đây!
Nàng thầm nhủ:
- à! Mình đánh chàng chết, rồi mình tự tử luôn và hết đau khổ!
Nàng liền nghiến răng giơ cao tay, vận hết nội công để đánh. Dương Qua mặt ửng
hồng, mỉm cười, ánh mắt nhu hòa, hân hoan nhìn nàng hạ thủ, và nói:
- Cô ơi! Sung sướng lắm! Giờ khắc này mới chính là giờ động phòng hoa chúc của đời
ta.
Nàng thấy chàng sao lại vui vẻ, không hề sợ chết, thì nàng lại nghĩ:
- Ôi chao! Một người chồng thanh niên tuấn tú thế này, sao trời già trớ trêu, cay
nghiệt bắt phải chết oan uổng?
Lập tức, tim nàng đau nhói lên, máu uất như trào nghẹn cả cổ họng. Bỗng nhiên sức
nội công bay đi đâu mất, làm cho tay chân nàng rã rời! Nàng run rẩy ngã nhào đè sấp
trên mình chàng. Hai tấm thân chỉ cách nhau một mành lưới rỗng lỗ, trăm ngàn mũi
gai tình hoa châm chích vào da thịt nàng. Nàng kêu lên:
- Anh Qua! Thôi hai ta cùng chịu đau đớn với nhau.
Chợt nghe sau lưng có tiếng nói khàn khàn:
- Sao lại khổ thân như thế? cô có gì mà phải chịu đau đớn? Như thế này là giảm bớt
đau đớn của hắn rồi.
Đó là tiếng nói của lão động chủ. Tiểu long Nữ đắm đuối nhìn Dương Qua một lúc,
rồi từ từ quay lại, lầm lũi đi ra khỏi nhà đá không hề nhìn lại.
Lão động chủ bảo chàng:
- Này em Dương, nằm yên đi! Qua sáu tiếng đồng hồ nữa ta sẽ đem linh dược đến
cứu. Nhưng nên nhớ kỹ điều này: Trong lúc em chờ đợi phải giữ lòng trong trắng,
đừng nghĩ đến mảy may tình dục, là cơn đau bớt đi không có gì thiệt hại.
Nói rồi lão bước chân ra khỏi cửa, gài kín cửa lại đi thẳng.
Dương Qua lúc nầy da thịt đau rã rời, ruột như đứt từng khúc. Chàng tự hỏi:
- Sao lúc nãy nàng lại ngừng tay không đánh cho ta chết để tránh đau khổ?
Càng nghĩ chàng càng thấy đau khổ, nhục nhã hơn: Thật ra bao nhiêu đau khổ trước
kia cũng không đáng kể gì. Chỉ có tiếng lão động chủ hiểm độc như lang sói nầy là
đáng hận. Không lẽ ta chết đi bỏ mặc cho nàng sa vào tay hắn? Nàng sẽ chọn đời đau
khổ với hắn ? Hơn nữa, thù cha ta cũng cha trả được, ta há vì đau khổ mà phải liều
chết, rồi để cho bọn giả nhân, giả nghĩa vợ chồng Quách Tỉnh và Hoàng Dung ược
vui mãi trên đời sao?
Nghĩ đến đây chàng như trút hết nỗi đau đớn, đầu óc sáng lên: Không chết được! Dù
gặp nguy biến đến mức nào cũng cương quyết chịu đựng để thoát chết. Nếu như nàng
bị lão bắt buộc phải làm vợ thì ta cũng cần phải sống để tìm cách cứu nàng về với ta
mới được. Ta cần phải cố công luyện võ thề để báo thù cha mẹ ta.
Chàng cắn răng ngồi nhỏm dậy, xếp bằng trong lới. Tuy ngồi không được thong thả
nhưng cũng dồn được khí tức xuống đáy lòng.
Độ hai giờ sau, chợt có người mở cửa, chàng nhìn ra thì thấy gã đệ tử áo xanh bưng
mâm bước vào phòng chàng. Trên mâm có bốn cái bánh bao, hắn nói:
- Hôm nay là ngày tân hôn của động chủ. Ngài gởi tặng cho ngươi ăn một bữa thật
no.
Rồi hắn cầm từng cái bánh đưa qua lỗ lưới cho Dương Qua. Tay hắn được bao mấy
lớp vải rất cẩn thận, vì sợ chạm vào gai "tình hoa". Dương Qua không thèm nói gì cả,
chỉ đưa tay nhận lấy bốn chiếc bánh ăn hết một lúc. ăn hết bánh, chàng bình tĩnh nói:
- Ta đã nhất định ra tay với lão nầy thì dại gì phải đau khổ mà nhịn ăn cho thiệt?
Gã đệ tử lại nói:
- Không ngờ người lại ăn khỏe quá. Thế là tì vị tốt lắm đấy.
Chợt một bóng xanh thoáng qua cửa. Một gã đệ tử khác bước nhẹ vào, không nghe
một tiếng động. Hắn đứng sau lưng gã đệ tử vừa vào trước, rồi xuất quyền đánh bất
thần một đòn như chớp. Gã vào trước kịp nhận ra ai thì đã bị nhào xuống đất ngất
lịm!
Dương Qua ngạc nhiên trố mắt nhìn kỹ, thì té ra ngời đánh trộm lại là nàng Công
Tôn Lục Ngạc, con gái của động chủ! Chàng kinh hãi kêu lên:
- Cô! Cô!
Lục Ngạc vội quay ra gài chốt cửa cẩn thận, rồi quay vào thì thào:
- Anh Dương! Nói khẽ chứ! Tôi vào cứu anh đây.
Dứt lời, Lục Ngạc đã mở lưới, tha Dương Qua ra ngoài. Chàng đứng dậy khẽ nói:
- Nếu Công Tôn động chủ biết, thì...
Nàng không để cho chàng nói hết câu, vội nói:
- Thì tôi phải chịu hình phạt là cùng.
Nàng lượm một bó "Tình hoa" nhỏ đem đặt trên miệng gã đệ tử áo xanh, để khi hắn
tỉnh dậy không thể kêu la được, rồi lấy lưưới bao hắn lại, lượm hoa rắc lên mình.
Nàng hạ giọng bảo chàng:
- Anh Dương ơi! Anh ở đây, nếu có ai vào anh núp sau cánh cửa nhé! Vì lúc này anh
đã bị gai "Tình hoa" truyền chất độc vào mình dữ lắm. Để tôi đi lấy thuốc cho anh
dùng.
Chàng quá cám động, thấy nàng mạo hiểm liều thân như vậy, nên thầm nghĩ: "Mình
với nàng gặp nhau cha đầy một ngày, mà nàng đã phản cha nàng để cứu mình ?".
Chàng ấp úng:
- Thưa cô nương. Tôi làm phản cô nương nhiều... sợ...cô...
Lòng chàng quá xúc động, không thể nói hết câu đứng lặng thinh với đôi mắt ngấn lệ.
Nàng Lục Ngạc đang lo âu, sợ sệt, bỗng nhiên trở nên vui tơi hớn hở, thầm nhủ:
- Anh có lòng với em nh thế, thì em có rủi ro bị cha em hành phạt đến đâu, em cũng
nhắm mắt cam lòng...
Đoạn nàng dặn tiếp:
- Anh ở đây đợi em một chút nhé? Em trở lại ngay với anh.
Nàng nhẹ bước thoăn thoắt ra khỏi phòng. Dương Qua ngẩn người như trong cơn
mộng:
- Sao ta lại được nàng đối đãi như thế này?... ôi! Lạ thật! nàng là con gái của lão gian
ác kia mà! Ôi! Từ nhỏ bị khinh khi nhục nhã, tưởng trên đời không ai là người nhân
từ đạo đức nữa, nào ngờ lại có nhiều người đem chân tâm đối với ta. Nhu cô Tiểu
Long Nữ, thầy dạy học của ta đã đành, còn Tôn Bà, Hồng thất Công, nghĩa phụ Âu dương Phong, Hoàng dược Sư và nay còn có những thiếu nữ chịu liều thân sống chết với ta trong cơn nguy biến như Trình Anh, Lục Vô Song, và Lục Ngạc nữa. Thật những người đối với ta hết lòng hết dạ. Giá đừng có những kẻ đối với ta quá ác độc như chúa động, thì đâu thấy những cái quý hóa của người có chân tâm, hy sinh đau đớn lo cho ta như cô Tiểu long Nữ và nàng Lục- Ngạc?
Thực ra, những cuộc tương ngộ trên đời Dương Qua đều thấy cả hai thái cực. Nếu
không phải là người yêu mến giúp đỡ chàng thật lòng, thì là kẻ cực ác, làm cho chàng
thiệt hại một cách tàn nhẫn. Đó không phài là tại người mà chính là thiên tính của
chàng đã gây nên. Khi gặp ai hợp tình là chàng dốc hết lòng thành đối với họ, nếu ai
không hợp ý hợp lời, thì chàng đối xử như kẻ thù. Bởi chàng đối với người như thế,
nên người ta cũng đối xử lại chàng như vậy...
Chàng đứng sau cánh cửa chờ đợi đã lâu mà chẳng thấy bóng Lục Ngạc trở vào. Thời
giờ cứ lặng lẽ trôi qua trong cảnh hồi hộp. Dần dần gã đệ tử nằm trong lưới tỉnh lại,
mắt hắn trắng nhợt, toàn thân run run. Hắn quá đau đớn nhưng không thể nói ra lời.
Dương Qua thấy quá lâu, lòng lo ngại. Lúc đầu chàng nghĩ rằng vì trong phòng thuốc
có người nên nàng chưa tiện lấy trộm được. Nhưng rồi mỗi lúc một biệt tăm chàng lại
nghĩ: - Nếu nàng không thể lấy được thuốc thì nàng cũng trở lại nói một lời cho ta
biết, lẽ nào nàng để mình đứng chờ lâu thế này sao? Có lẽ nàng gặp điều gì không
may đâu! Nàng đã vì mình mắc vạ to thì mình phải đi tìm cứu ân nhân chứ?
Chàng bèn đẩy hé cánh cửa đa mắt nhìn ra ngoài không thấy một bóng người. Chàng
vội nhón chân bước ra. Nhng chàng không biết, Lục Ngạc bị hành phạt ở phòng
nào?
Chàng đang bối rối, chợt nghe có tiếng chân bước rầm rập. Chàng vội nép mình vào
góc tường sau thấy hai gã đệ từ áo xanh sánh vai đi tới, tay cầm một cây tua tủa
những gai. Đó là loại binh khí đặc biệt làm cho chàng thầm nghĩ: có lẽ nào động chủ
lại hành hạ đứa con gái ông ta bằng hình phạt ghê gớm nầy!
Chàng liền nhón chân theo hai gã đệ tử, mà họ vẫn không biết. Đi loanh quanh qua
các ngạch đá một lúc, thì đến trước một căn nhà. Họ cất tiếng thưa:
- Bẩm động chủ, chúng con đã đem trượng gai đến.
Rồi hai gã đẩy cửa bước vào. Tim của Dương Qua nh muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Lão động chủ khốn kiếp quả đang ngồi trong phòng nầy. Chàng đảo mắt nhìn quanh,
thấy phía đông căn phòng đá có một cửa sổ, bèn nhón chân bước tới đó, nhìn trộm
vào trong, thì y hệt như chàng đã đoán: Nàng Lục Ngạc bị bắt dẫn vào phòng. Cha
nàng ngồi giữa, hai gã đệ tử cầm trượng gai đứng hai bên. Động chủ thấy trượng gai
đã đem đến, liền đưa tay nắm lấy, hằn học bảo con gái:
- Con Ngạc! Mày là máu mủ của tao, sao mầy lại phản cha mày như thế?
Nàng Lục Ngạc chỉ cúi đầu không đáp. Lão mắng tiếp:
- Mày đã mê cái thằng họ Dương ấy rồi, lý nào tao không biết? Nhưng tao đã bảo là
tao phải hành phạt nó, rồi đến ngày mai tao tha cho nó đi, sao mày dám vội vàng như
vậy? Thôi để ngày mai tao hỏi ý kiến rồi tao gả cho nó là xong.
Dương Qua đâu phải là kẻ ngây ngốc gì mà không hiểu ý Lục Ngạc. Chàng vẫn biết
rằng nàng có lòng dạ yêu chàng. Song vì lòng chàng đang bấn loạn đắm đuối Tiểu
long Nữ, nên chàng phải quên đi, không nghĩ đến. Nhưng lúc này, nghe lão động chủ
nói trắng trợn ra, chàng giật mình hồi hộp, hai má nóng rần... Chợt thấy nàng Lục
Ngạc ngẩng đầu cất tiếng lanh lảnh:
- Thưa cha! Lúc nầy cha đang bận tâm lo ba việc thành hôn của cha, thì đâu còn để ý
gì đến con?
Động chủ quắc mắt "hừ" một tiếng không thèm nói. Nàng lại tiếp:
- Thưa cha, điều đó không sai. Con quả khâm phục Dương công tử là người đường
đường chính chính, chí nghĩa, chí tình. Nhưng con đã thấy rõ lòng chàng lúc nào cũng
chỉ biết có Long cô nương mà thôi! Sỡ dĩ con phải cứu chàng là vì... con thấy việc
làm của cha thật quá chứ con không có ý gì khác.
Dương Qua núp bên ngoài nghe rõ, lòng vô cùng kính phục:
- Lão động chủ là một tay gian xảo, bạc ác ai ngờ lại sanh một cô gái đầy đủ đức
hạnh, cao thượng thế này!
Công Tôn động chủ mặt hầm hầm, trơ trơ như tượng gỗ. Lão lạnh lùng đáp:
- Mày nói như thế tức là mày mắng cha mày vô nhân, bất nghĩa hả?
- Lục Ngạc ngơ ngác nói:
- Con đâu dám nghĩ nh thế! chỉ có điều...
Lão gắt giọng, hỏi:
- Điều gì?
Nàng bối rối nói:
- Dạ, chỉ có điều Dương công tử đã bị Tình hoa châm chích muôn ngàn mũi, thì
chàng chịu đau đớn sao nổi? Cha ơi! Cha hãy ban ân đức thả chàng ra!...
Động chủ cười nhạt:
- Cứ để đến ngày mai tao hãy cứu nó, thả nó việc gì mầy phải xen vào cho lôi thôi?
Lục Ngạc cúi đầu suy nghĩ:
- Cha ta làm sao có được hảo ý với chàng. Nếu chàng còn sống thì Long Nữ không
thể thuận lời cha ta. Hơn nữa tình yêu nồng thắm của họ chỉ tạo cho cha ta một ý căm
hờn làm sao cha ta có thể đối với chàng như cha ta vừa nói?
- Thưa cha, con mang ơn dưỡng dục từ bé đến giờ, có lẽ nào con lại vì Dương công tử
là người xa lạ bên ngoài mới đến? Nếu con biết chắc ngày mai cha sẽ cho thuốc và
thả hắn đi thì con đâu dám bước vào phòng đàn ông.
Lão gằn giọng hỏi:
- Mày biết thế sao còn lẻn vào đây?
Nàng bạo dạn tiếp:
- Vì con biết ý cha không tốt với hắn. Đêm nay, sau khi thành thân với Long cô
nương rồi, ngày mai cha sẽ có độc mưu trừ mạng hắn, để cho tình duyên giữa hắn và
Long cô nương không còn nữa.
Công Tôn động chủ thường ngày dù giận dù mừng, không mất vẻ bình thân, nên
những lúc phân xử mọi việc lớn nhỏ trong động lão xét đoán được công minh đối xử
với đệ tử, cho nên trong động ai ai cũng một lòng khâm phục. Nhưng Lục Ngạc lần
này đã thầm biểu tình ý cũa lão nên lão nổi giận gầm gừ:
- Hừm? Đúng là sanh con hoang rước họa vào mình! Tao nuôi mày khôn lớn chừng
nầy, không ngờ nay mày lại kết tội tao!
Lão tóm lấy vạt áo Lục Ngạc lôi mạnh một cái. Lục Ngạc hỏi:
- Cha làm gì thế?
- Mày còn giả ngơ ngẩn ? Đừng chối nữa! Viên thuốc "tuyệt tình" trị chất độc đâu
rồi?
Nàng thản nhiên đáp:
- Con không hề lấy.
Lão đứng phắt dậy lớn tiếng:
- Thế thì nó biến đi đâu?
Bấy giờ, Dương Qua nhìn vào phòng, thấy các hộp mở nắp, đặt trên bàn la liệt. Trên
tường treo đầy các thứ cỏ, lá, rễ... không biết được là thuốc gì. Bàn phía Tây để ba cái
lò luyện thuốc trước cửa phòng có đề hai chữ "đơn phòng". Chàng nhìn vẻ mặt động
chủ thầm lo:
- Hôm nay dù thế nào nàng Lục Ngạc cũng không thể tránh khỏi trọng hình:
Bỗng có tiếng nàng nói:
- Thưa cha! con tự tiện vào đơn phòng, quả có ác ý muốn lấy thuốc, để cứu Dương
công tử, nhưng con tìm hơn nửa ngày mà chẳng kiếm được. Nếu con tìm được thì con đã đi rồi, đâu đến nỗi lại bị cha bắt được?
Động chủ hét:
- Chỗ cất thuốc bí mật vô cùng. Những quan khách hiện còn ngồi ở đại sảnh, chưa ai
rời đi một bước thế mà viên thuốc "Tuyệt tình" đã biến đâu mất tích? lẽ nào nó có
cánh?
Nàng quỳ xuống khóc sụt sùi:
- Lạy cha! Cha rộng lượng tha cho Dương công tử, để hắn được toàn mạng ra khỏi
động, vĩnh viễn không cho vào nữa thế là yên.
Động chủ cười nhạt:
- Nếu không may tính mạng tao lâm nguy chưa chắc mày đã chịu quỳ khóc để cầu
cứu.
Nàng không nói nữa, cứ ôm lấy hai chân cha nàng. Lão động chủ nói:
- Mày lấy mất viên thuốc "tuyệt tình đơn" rồi, tao lấy gì mà cứu nó? Được! Mày
không nhận thì mặc mày. Để cho mày cứ ngồi đây trọn ngày thâu đêm. Mày lấy
thuốc mà không cho thằng họ Dương ấy uống, thì để hai ngày tao mới thả nó ra.
Nói rồi lão ra cửa. Nàng biết rõ một gai tình hoa chỉ châm sơ vào da một cái cũng đã
gây độc đau đớn mãi đến ba ngày. Thế mà
(*** mất 10 trang ***)
Dù có đau đớn thế nào cũng phải cố sống để cứu nàng mới được. Lão động chủ kia dù
có ác độc đến đâu đi nữa, cũng phải có tình cha con. Thế nào rồi lão cũng sẽ hồi tâm
đổi ý, khi gặp con gái lão thoát nạn.
Chàng miên man suy nghĩ nhiều chuyện. Trong chốc lát quên hẳn cả Tiểu Long Nữ,
rồi cơn đau được dịu dần. Chàng nói:
- Công Tôn cô nương ơi! Đừng sợ nữa. Tôi tin chắc thế nào Công Tôn động chủ cũng
cứu cô lên. Người chỉ giận một mình tôi thôi, chứ cô dù thế nào cũng là nguời thương
yêu của người. Và lúc này nhất định thân phụ cô đang hối hận.
Nàng Lục Ngạc nghe qua lòng xúc động ứa lệ nói:
- Hồi em còn nhỏ, quả thật cha em thương em lắm. Nhưng sau khi mẹ em mất, tình
thương của cha em đối với em trở nên khe khắt. Tuy thế, em cũng hiểu là trong thâm
tâm cha em không hề ghét em.
Nàng ngừng một lúc, để hồi tưởng lại bao nhiêu chuyện kỳ lạ lúc trước, rồi bảo
chàng:
- Anh Dương ơi? Em vừa nhớ lại hình như cha em có ý sợ em vậy. Anh ạ!
Dương Qua ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao người lại sợ cô? Điều nầy thật kỳ lạ.
Nàng nói tiếp:
- Thật vậy. Trước đây em nhận thấy nhiều lúc sắc mặt cha em đổi khác, mất hẳn vẻ tự
nhiên, tựa như trong lòng có giấu giếm một ẩn tình gì đó, sợ em hiểu được. Thật ra từ
trước đến nay mỗi lúc thấy vẻ mặt người cha đổi khác nàng Lục Ngạc vẫn lấy làm lạ.
Nhưng rồi lần nào cũng quên đi. Vì cho rằng cha nàng quá thương mẹ nàng, nên khi
nhìn thấy con thì xúc động, đau buồn biến sắc. Nhưng đến lúc nầy nàng không cho là
thế nữa. Vì cha nàng đã xô nàng rơi xuống hầm cá sấu rõ ràng là một mưu mô cố ý,
chứ không phải trong cơn nóng giận mà lỡ tay. Trong lúc cha nàng đổi chỗ ba cái lò
luyện đơn trong "đan phòng" chính là ông ta đã mở then chốt của bộ máy giết người
vậy. Nếu nói rằng lão căm giận Dương Qua nên tống nàng xuống chỗ chết, thì không
đúng, vì lão cần gì phải làm nh thế? Trên mình chàng đã bị châm muôn ngàn mũi
gai "tình hoa", chất độc đã ngấm nhiều lắm rồi! Lão cứ việc làm ngơ không cứu, là
chàng phải chết! Cần gì phải xô xuống vực sâu? Mà nếu lão muốn giết chàng xuống,
sao lại nắm vai nàng thúc một chưởng cho rớt xuống luôn?
Bàn tay lão đã tàn nhẫn như thế thì đâu còn tình cha con!
Nàng càng nghĩ càng băn khoăn, lại càng nhớ nhung hành vi ngôn ngữ của cha nàng
trước đây. Khi nãy nàng không hiểu, vì không lưu ý tìm hiểu, chỉ cho rằng đó chỉ là
những hành vi cùa một người tu luyện, nên khác với người thường. Nhưng lúc này
nàng không thể nghĩ như thế được nữa. Bây giờ cá sấu đã quây quần nhau lại một
chỗ. Chúng tranh nhau xé thây một con đồng loại bị Dương Qua giết chết. Thấy
chúng không bò lên đá nữa, Dương Qua nhìn mặt Lục Ngạc, thấy nàng ngơ ngẩn, liền
hỏi:
- Phải chăng thân phụ cô có điều gì bí ẩn, vô ý để cô bắt gặp?
Nàng lắc đầu nói:
- Không! Cha tôi vốn đoan nghiêm đường hoàng, xử sự công minh chính trực nên mọi
người trong động đều kính trọng. Cho đến hôm nay, cha tôi mới đối xử với anh như
thế nầy.
Dương Qua mới bước chân vào động "Thủy Tiên" lần đầu, chưa hiểu gì về lai lịch nên
khó mà đoán giúp cho nàng về ẩn ý của cha nàng được. Dưới vực thẳm, bên đám cá
sấu khí lạnh như băng, hai người lại bị ướt cả mình mẩy. Vê phần Dương Qua, trước
kia đã luyện nội công trên giường "ngọc hàn" nên khí lạnh lúc nầy đối với chàng
không ra gì. Còn nàng Lục Ngạc thì đã tái tê, run lập cập, phải nằm gọn vào lòng
chàng để chờ khí ấm. Dương Qua lo lắng:
- Sức nàng không thể chịu nổi cảnh rét buốt nầy.
Chàng vừa thương vừa sợ, định kiếm vài câu chuyện nói cho nàng vui, nhưng chợt
nhìn xuống bầy cá sấu lố nhố dưới hầm, thấy chúng xâu xé cướp giật con vật đồng
loại bị chết, chàng mỉm cười bảo nàng:
- Công Tôn cô nương ơi! Hôm nay chúng ta cùng chết, thì sau này cô định làm kiếp
gì? Phần tôi, nhất định không bao giờ tôi làm cá sấu kia! Nàng khẽ mỉm cười:
- à! Thế anh biến làm một đóa hoa "Thủy Tiên" nhé! Vừa đẹp vừa thơm, ai trông thấy
cũng yêu mến.
Chàng vui vẻ nói:
- Nếu biến làm kiếp hoa thì chỉ có người như cô mới hợp. Chứ như tôi có quý lắm là
biến đực cây gai ngạc đầu là cùng.
Nàng bật cười:
- Nếu nh Diêm Vương bắt anh phải biến thành một đóa hoa "Tình hoa" anh có bằng
lòng không?
Chàng im lặng không đáp, lòng hối tiếc thầm nghĩ:
- Nếu cứ dùng gươm tiếp tay "Ngọc nữ tố tâm" với cô ta, thì lão động chủ làm gì
chống nổi. Tuy lão võ công cao cường, nhưng vị tất đã hơn Kim Luân Pháp Vương.
Nhưng rủi cho cô ta đã phải gai "tình hoa" trong phòng kiếm mà phép đánh kiếm "tố
tâm" lại buộc hai người phải cảm thông tâm linh như nhau mới phát xuất được uy lực.
ôi! Như thế nầy cũng là số trời đã định, ta không nói làm chi nữa! Nhưng không hiểu
lúc này số phận cô ta ra sao?
Nghĩ đến Tiểu Long Nữ, các vết thương trong người chàng ngấm ngầm đau nhói lên.
Nàng Lục Ngạc thấy chàng không đáp, biết mình lỡ lời nhắc đến "Tình hoa" bèn nói
lảng sang chuyện khác:
- Anh Dương ơi! Trong bóng tối đen mò thế nầy, mà mắt anh kịp thời nhận ra cá sấu.
Em thì như mù tịt chẳng trông thấy gì cả.
Chàng cười nói:
- Thôi, mấy ông cá sấu kia xấu và tồi quá, đừng nhìn các ông ấy nữa.
Dứt lời chàng nhè nhẹ vỗ vai nàng, tỏ ý an ủi. Nào ngờ toàn thân nàng cảm thấy mát
rợi, đê mê cả tâm hồn. Chàng thầm nghĩ: "à! Lúc nàng ở trong phòng thuốc, bị tra
khảo gắt gao, lão già đó đã khăng khăng kết tội nàng lấy cắp thuốc cho nên nàng đã
phải thoát cả xiêm y thanh minh. Bây giờ mình nàng chỉ còn có chiếc áo lót nhỏ nầy
?
Chàng giật mình vội co tay lại. Nàng nghĩ đến thần lực của đôi mắt chàng có thể nhìn
rõ trong bóng tối như chỗ sáng thì nàng vô cùng thẹn thùng. Vì toàn thân ngọc ngà
của nàng đã đi lộ trước mặt chàng.
Lúc đầu, cả hai đều hoảng hốt trước lưỡi kiếm của lão già, kế đến lại điên đầu trước
cuộc chống với lũ cá sấu, cho nên cả hai sát lấy nhau mà tuyệt nhiên không hề nghĩ
đến việc nam nữ tiếp xúc quá thân. Đến lúc này, một đàng giật mình rụt tay một đàng
cùng đường hết cách, chỉ có thăng thiên độn thổ mới thoát được.
Dương Qua vội ngồi nhích ra xa, rồi cởi áo ngoài khoác lên mình nàng. Trong lúc cởi
áo chàng không những chỉ tưởng đến Tiểu long Nữ, mà còn liên tương đến nàng Trình
Anh, người đã tự tay may áo tặng cho chàng. Chàng lại còn nghĩ đến nàng Lục vô
Song đã tự nguyện chết thế cho chàng nữa. Chàng cảm thấy một đời chàng đã mang
lấy ơn bao nhiêu người đẹp mà thẹn là cha báo đáp được ai, nên quá xúc động thở
một hơi dài não ruột!
Nàng Lục Ngạc lấy chiếc áo chàng mặc vào rồi thắt dây lưng lại. Bỗng nhận thấy
trong túi áo chàng có vật gì nhỏ. Nàng lần tay ra móc trả cho chàng và hỏi:
- Cái gói gì đây hả anh? ậ trong túi áo anh đây nầy.
Dương Qua đưa tay cầm lấy và lạ lùng nói:
- ủa cái gì thế này?
Nàng càng ngạc nhiên hơn, vội nói:
- Vật nầy, ở trong túi áo anh, sao anh lại hỏi em?
Chàng định thần nhìn kỹ thì thấy một gói có bọc vải xanh từ trước đến nay chàng
chưa trông thấy bao giờ. Chàng liền mở ra xem, thì lập tức có một tia sáng từ trong
gói lóe ra, và thấy bốn lọ tròn nhỏ xíu, trong lọ có ánh sáng tỏa ra, hình như ánh sáng
của loại ngọc quí.
Lục Ngạc bỗng kêu lên:
- Ôi này!
Nàng đưa tay lấy mấy lọ thuốc trong tay chàng rối rít bảo:
- Thuốc "Tuyệt tình đan" đây rồi anh ơi?
Dương Qua vừa giật mình vừa mừng rỡ, vội hỏi:
- Có phải là thuốc chữa vết thuơng bị "Tình hoa" đâm chăng?
Nàng vui mừng đáp:
- Đúng là thuốc chữa bệnh cho anh đấy!
Hồi nãy em vào đan phòng tìm cả nửa ngày trời mà không thấy. Làm sao lại lọt vào
túi anh thế này? đã lấy được sao anh không uống đi? anh không biết đó là thuốc chữa
độc "Tình hoa" ?
Quá vui sướng, Lục Ngạc hỏi dồn dập làm cho Dương Qua không kịp trả lời, chàng
đưa tay ra trước mặt, nói:
- Tôi không hiểu gì cả, đây là lọ đan dược ? Tại sao nó lại lọt vào túi tôi thế này?
Thật là chẳng hiểu đầu đuôi ra sao!
Viên ngọc gắn trên đầu thìa tỏa ánh sáng lờ mờ, nhờ đó Lục Ngạc thấy được những
vật xung quanh. Nàng bắt gặp một cái gói, một lọ thuốc một mảnh giấy và một nửa
tai nấm tía Linh Chi.
Nàng lầm bầm:
- Nửa tai nấm Linh Chi nầy là do lão già quỷ quái đã bẻ gãy...
Dương Qua hỏi:
- Lão già nào? Có phải lão họ Châu?
Lục Ngạc đáp:
- Phải, chính lão đó đã đại náo nơi thư phòng, kiếm phòng, đan phòng, bẻ gãy cây
nấm Linh Chi nầy đây! Một tay lão gây ra bao nhiêu chuyện. Bấy giờ Dương Qua mới
chợt nhớ ra, gãi đầu gãi tai nói:
- Phải rồi! Chắc là thế.
Lục Ngạc hỏi lại:
- Cái gì mà phải? Mà chắc?
Dương Qua không đáp, nghĩ thầm: "Cái túi nhỏ xíu này là chính tay lão Châu đã nhét vào túi mình!
Thì ra đến lúc đó Dương Qua mới hiểu Châu bá Thông có ý thân giúp chàng. Chàng
đổi thái độ, không gọi Bá Thông là lão già nữa mà bằng "cụ Châu".
Nàng Lục Ngạc đoán biết phần nào, liền hỏi:
- Thế ra ông ấy trao cho anh?
Duơng Qua vừa cười vừa nói:
- Quả vậy! Vị tiền bối đó là một tay cao thủ đệ nhất võ lâm, đã từng đi đó đi đây quấy
phá mọi ngời để làm vui. Ông ta lấy cây kéo và chiếc mặt nạ của tôi mà tôi không
biết đã đành, ông ta lại còn bỏ gói thuốc nầy vào ngời tôi nữa? Ôi chao! Thật chẳng
khác nào một bậc thần thánh. Võ công của tôi so với ông ta kém xa một trời một vực.
-
Chương 52 - Câu Chuyện Rùng Rợn Của Hai Mươi Năm Cũ - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 52 - Câu Chuyện Rùng Rợn Của Hai Mươi Năm Cũ
Bà Cừu thiên xích sực nhớ lại con gái mình mồ côi mẹ ngay từ khi còn thơ ấu, thì xúc động trong lòng muốn ứa nước mắt. Bà dịu giọng nói:
- Hai cậu con là anh em song sinh, cậu lớn tên Cừu Thiên Lý. Cậu thứ hai tên Cừu Thiên Nhận. Hai người giống nhau như hai giọt nước, từ dáng điệu mặt mày cho tới lối trang phục. Nhưng trái lại tính tình và cuộc đời lại hoàn toàn khác nhau. Cậu hai thì võ nghệ tuyệt luân cậu cả thì chỉ tầm thường mà thôi. Võ nghệ và nội công của mẹ hoàn toãn do cậu hai truyền dạy lại cả đấy. Nhưng trái lại mẹ và cậu cả lại gần nhau và hợp ý hơn. Cậu hai là Bang chủ Thiết Chưởng bang, tính tình nghiêm nghị khắc khổ lại bận rộn nhiều công việc trong Bang đâu còn đủ thì giờ để chuyện trò với mẹ. Cậu cả thương mẹ lắm, một lời cũng "em anh" hai lời cũng "anh em", mẹ cũng mến cậu ấy cho nên mỗi khi có sự xung đột về ý kiến giữa hai cậu, lúc nào mẹ cũng bệnh vực cậu cả hết.
Lục Ngạc hỏi:
- Nhưng tại sao hai cậu lại hay cãi vã xung đột lắm vậy?
Bà có vẻ tươi vui hơn, bèn cười bảo con:
- Câu chuyện này kể ra cũng không quan trọng lắm và cũng không thể gọi là nhỏ được. Tựu trung cũng vì cậu hai hơi quá đáng. Cậu hai là Bang chủ Thiết Chưởng với danh hiệu "thủy thượng phiêu" khắp sông hồ ai ai lại không nghe tiếng? Cậu cả thì tầm thường nên có ai hay nên biết hiệu được. Vì vậy nên thỉnh thoảng trong những dịp đi du ngoạn xa, cậu cả cũng thừa dịp hai người giống nhau như đúc, và cũng ỷ tình máu mủ ruột thịt, tạm mượn danh hiệu của cậu hai lòe với thiên hạ để cho nở mày nở mặt đôi chút. Việc này có lấy chi làm quan hệ, thế mà cậu hai cứ hằn học tức tối mãi về việc này, nhiều khi nặng lời cùng anh. Nhưng cậu cả được cái tính xuề xòa, dù sao cũng chỉ giả lả xin lỗi mà thôi. Có một bận, thấy cậu hai nặng lời quá đáng, mẹ đứng gần không dằn lòng được cố xen vào bênh vực cậu cả. Trong khi tức sẵn anh cả, cậu hai đem bao nhiêu nỗi uất hận trút hết lên đầu mẹ, vì vậy một cuộc cãi vã xảy ra vô cùng gay cấn. Sau đó mẹ tức quá, bỏ núi Thiết Chưởng ra đi, không trở về nữa. Một thân một bóng ngang dọc giang hồ, có một bận, mẹ theo đuổi một tên hắc đạo lạc vào động Thuỷ tiên này. âu cũng là bắt đầu của một mối tình oan nghiệt.
Bà nghỉ một chút rồi nói tiếp:
- Vào đây mẹ gặp Công Tôn Chỉ. Hai người yêu nhau rồi lấy nhau. Nếu so về tuổi tác và tài nghệ thì hắn nhỏ tuổi hơn mẹ và bản lãnh lại càng kém xa. Tuy là vợ chồng nhưng lúc nào mẹ cũng xem hắn như đứa em, mọi việc, từ miếng ăn manh áo nhất nhất thảy đều lo lắng chu toàn, hắn không mảy may lo lắng.
Bà thở dài, lắc đầu mấy cái rồi tiếp luôn:
- Mẹ không ngờ lại có hạng người lòng thú dạ lang, lấy ơn làm oán sau khi có bản lãnh cao cường không biết nhớ ơn kẻ đã truyền dạy võ công cho mình, lại đem lòng phụ bạc. Nếu không thì làm sao có cái cảnh như ngày nay?
Nói tới đây bà phẫn uất quá nổi nóng chửi rủa Công Tôn Chỉ thậm tệ, với nhưng lời lẽ thô bỉ nặng nề hết sức, khiến cho nàng Lục Ngạc ngượng quá, nhìn Dương Qua mặt mày đỏ gay vì mẹ mình ăn nói hồ đồ tục tĩu như vậy thì làm sao mình không bị ảnh hưởng lây? Nàng luôn miệng can ngăn nhưng vẫn không kết quả gì hết.
Dương Qua trong lòng nuôi sẵn một mối hận cùng Công Tôn Chỉ nên khi nghe bà chửi rủa lão ấy thì hả dạ vô cùng, cứ tìm lời tán dương thêm, thật không khác nào lửa chế thêm dầu, làm cho bà thêm hứng chí càng chửi tệ hơn nữa. Giá không có mỹ nhân bên cạnh, Dương Qua cũng muốn hùa lời chửi theo cho hả dạ. Bà Cừu Thiên Xích chửi bới mãi một hồi lâu mỏi miệng rồi mới chịu ngừng và nói tiếp:
- Hồi ấy, mẹ đang mang thai con. Một người đàn bà trong lúc bụng mang dạ chửa ai ai cũng bị mỏi mệt suy yếu, hay cau có gắt gỏng và cần được chăm sóc dịu dàng chu đáo. Hắn đối đãi với mẹ rất ân cần, nhưng không ngờ đó là việc che đậy bên ngoài mà thôi. Thật ra hắn đã lén lút thông gian với một con hầu trẻ tuổi trong động. Hắn cố dàn cảnh bên ngoài để mẹ khỏi nghi ngờ và tiếp tục hành động bỉ ổi, tồi bại đó. Khi mẹ sinh hạ con thì hắn càng tỏ ra ân cần chăm sóc hơn nữa. Công chuyện cứ tiếp diễn mãi tới mấy năm sau. Khi con đã khá lớn, biết đi biết chạy, nói năng, tình cờ một hôm mẹ nghe được câu chuyện kín đáo của đôi gian phu dâm phụ ấy. Bọn chúng bàn lén với nhau là sẽ tìm cách trốn thoát rời khỏi động Thủy Tiên này và mãi mãi không trở lại nữa. Khi Công Tôn Chỉ thủ thỉ cùng con bé kia thì mẹ nấp vào một gốc cây lớn bên cạnh nghe được rõ ràng.
Hai đứa vì hãi sợ võ nghệ của ta quá cao không thể nào chúng cự nổi, chỉ còn một cách xa lánh mà thôi. Và trốn càng xa càng bảo đảm. Bọn chúng cho rằng vì ta kiểm soát kiềm chế quá chặt chẽ nên không thể tự do luyến ái, và muốn tìm một chỗ khác để tận hưởng mọi sinh thú ở đời mà không bị áp bức của ta.
Bà chép miệng, lắc đầu mấy cái rồi kể tiếp:
- Con ạ, xưa nay mẹ vẫn đinh ninh Công Tôn Chỉ một dạ yêu thương quý mến vợ con. Hôm ấy nghe được câu chuyện này, mẹ uất ức quá suýt ngất xỉu. Giận quá, mẹ muốn xuống cho mỗi tên một chưởng xong đời, nhưng bỗng hồi tâm nghĩ lại:
- Chẳng qua hắn vì bị nữ sắc quyến rũ nhất thời, chứ xưa nay bản chất hắn cũng tốt. Hơn nữa, dù sao cũng vợ chồng chung sống gần mười năm qua, có con có cái với nhau rồi, không nên vì một câu chuyện này mà dứt đoạn tình nghĩa được, biết đâu không phải vì con bé kia dùng giọng tiếng quyền mà khiêu động dâm tình, đưa hắn vào vòng tội lỗi? Vì vậy nên ta cố nén giận núp bên gốc cây chăm chú nghe thêm cho tường tận. Hai đứa đã bàn kỹ: Sau ba ngày nhân lúc ta vào phòng riêng luyện công và ở luôn trong ấy bảy ngày đêm liên tiếp, bọn chúng thừa dịp trốn đi. Quá bảy ngày, khi ta ra khỏi phòng, dù có biết cũng không thể nào theo đuổi bắt kịp nữa! Nghe tới đây trong lòng ta như bị nung nấu, tóc tai dựng ngược, nhưng trong lòng cũng thầm cám ơn trời đất xui khiến cho ta tình cờ biết, nếu không thì trong mấy ngày nữa chúng cao bay xa chạy? trời đất mênh mông biết đâu mà tìm nữa?
Kể tới đây, bà giận quá nghiến răng kèn kẹt, mắt lộ tròng rất dữ tợn. Lục Ngạc nói thêm:
- Đứa nữ tỳ hồi ấy bao lớn, tên họ là gì, có xinh đẹp lắm không mà có sức cám dỗ mãnh liệt như vậy?
Bà "hừ" một tiếng rồi bĩu môi đáp:
- Con đó đâu có đẹp đẽ gì, nhưng nó chỉ giỏi cái chiều chuộng. Mỗi khi lão Công Tôn Chỉ thích gì thì hắn chiều chuộng thỏa mãn ngay. Con bé đòi hỏi thứ gì trái lại thằng kia cũng thật tình hết. Không biết nó có bùa ngải, phép thuật gì hay không chẳng rõ. Còn tên nó, hừ, nó tên... con Nhu!
Nghe tới đây Dương Qua cảm thấy ái ngại trong lòng và lo lắng cho Công Tôn Chỉ. Chàng nghĩ thầm :
- Có lẽ cũng vì bà ta kèm riết quá đáng, làm cho ông ta mất cả tự do hứng thú, mọi việc nhất nhất phải tuân theo quyền điều khiển của bà, và có lẽ đó là mầm mống của sự phản bội chăng?
Lục Ngạc hỏi thêm:
- Rồi sao nữa mẹ?
Bà nói :
- Trước khi chia tay nhau, hai tên khốn kiếp đã hẹn nhau đến trưa ngày thứ hai sẽ gặp nhau tại nơi đây. Chúng đã căn dặn nhau giữ kín đáo trong hai người chờ đợi, đừng lộ một cử chỉ gì có thể khiến ta nghi ngờ. Lắng nghe bọn chúng tán tỉnh nhau, ta đứng ngẩn ngơ gần như chết cứng tại chỗ, nhưng cũng nghiến răng bấm bụng đi về phòng. Đêm đó ta suy nghĩ xốn xang và trằn trọc mãi không thể nào ngủ được. Chờ tới ngày thứ ba, ta có cảm giác như thời gian kéo dài hàng năm. Sáng hôm ấy, ta giả vờ vào nhà kịp chuẩn bị luyện công, Công Tôn Chỉ rón rén đứng ngoài cửa sổ, mặt mày lấm la lấm lét nhìn trộm vào, có vẻ hả hê sung sướng lắm. Nhưng cái bản mặt đểu giả của hắn ta đã đoán được hết những cảm tưởng tiềm tàng trong ruột gan hắn. Chờ khi hắn bước đi một chập, tức thì ta thi triển thượng thặng khinh công phóng tới chỗ bọn chúng đã hò hẹn. Vừa tới nơi, đã thấy con Nhu đứng chờ từ lâu. Ta nổi giận, không thèm nói một lời, tung cước đá một chiếc nó lăn lông lốc rồi túm ngay ngực ném tuốt vào bụi tình hoa.
Dương Qua và Lục Ngạc nín nghe bà kể chuyện, đến khi nghe nàng Nhu bị quăng vào bụi tình hoa thì cảm thấy rợn người cùng "ồ" lên một tiếng vì quá hoảng hốt.
Cừu Thiên Xích nhìn hai người có vẻ kinh ngạc lắm, nhưng bà không nói gì điềm nhiên kể tiếp:
- Mấy phút sau, lão Công Tôn Chỉ tới, thấy con bé Nhu đang lăn lộn trong bụi tình hoa, lão vội vàng nhảy xổ định cứu ra, nhưng ta đã từ phía sau bụi cây phóng ra vung tay xô lão văng luôn vào đấy rồi quay mình, đi thẳng về phía phòng riêng. Ta đi rồi, lão loay hoay tìm cách chui ra và cứu con nọ ra khỏi bụi tình hoa. Theo thủ tục trong động này lưu truyền đời này sang đời khác, mỗi khi có người bị trúng gai tình hoa thì dùng thuốc tuyệt tình đan để giải cứu. Vì vậy nên Công Tôn Chỉ dìu con khốn ấy vào phòng thuốc để tìm cách cứu chữa và lấy thuốc cho uống.
Kể tới đây bà vùng dậy cười lớn và hỏi hai người:
- Ta hỏi thử các con có biết lão ấy có tìm được thuốc tuyệt tình đan cho con bé ấy không nào?
Lục Ngạc lắc đầu đáp:
- Mẹ cứ nói đi, chứ con biết làm sao được chuyện hồi ấy?
Dương Qua nghĩ bụng:
- Có lẽ bà ta đã đem lọ tuyệt tình đan giấu mất chứ còn gì nữa mà tìm cho uổng công.
Bà ta cười lớn:
- Khi lão dìu con bé vào phòng thấy bao nhiêu tuyệt tình đan đều đổ hết ra một cái bát thật to hòa lẫn với chất độc "tỳ sương", nếu uống vào chết ngay nên lão không dám cho nó uống. Nguyên phương pháp luyện chế tuyệt tình đan, do ông tổ mấy đời của lão truyền lại, nhưng việc luyện chế không phải ngày một buổi mà nên được hơn nữa, các thứ thuốc để chế cũng không dễ gì tìm có ngay đủ hết. Nhiều thứ đã có sẵn, nhưng cần phải bằng nước sương mùa thu, nước mưa mùa xuân trong suốt một năm trời mới có hiệu lực. Nản quá, lão không còn biết làm gì hơn bèn quay chạy về phòng ta quỳ xuống lạy mãi, cầu ta cứu mạng cho con bé.
Nghĩ một chặp, bà nói với giọng dịu hơn:
- Hắn cũng thừa hiểu, dù sao ta cũng nghĩ tình chồng vợ không đến nỗi nhẫn tâm lắm và thế nào cũng phải giữ lại một vài viên thuốc tuyệt tình đan. Vì vậy nên lão vừa khóc vừa thề nguyền: Nếu cứu sống cho hai mạng rồi, lão sẽ đuổi con bé đi khỏi và từ đấy về sau xin thề không còn dám mèo chuột bậy bạ với bất cứ một ai nữa. Để cho lão van xin một hồi lâu, ta đặt một viên tuyệt tình đan lên bàn rồi nghiêm giọng bảo: "Tôi chỉ còn giữ lại một hoàn mà thôi. Chắc anh cũng biết rõ một viên chỉ có thể cứu mạng cho một người mà thôi. Nếu chia đôi, cho mỗi người một nửa thì không công hiệu nữa. Vậy tùy anh liệu định, hoặc cứu lấy mạng anh, hoặc anh chịu hy sinh tánh mạng để cứu con ma đầu kia cũng được". Nghe ta nói như vậy, lão lặng thinh lấy hoàn thuốc rồi lặng lẽ đi ra không nói một lời. Ta cũng bước theo xem thử lão gỉai quyết ra sao cho biết. Khi vào tới phòng chứa thuốc, thấy con bé Nhu đang lăn lộn rên xiết thảm thiết. Thấy vậy, lão lên tiếng an ủi: "Em Nhu, cứ yên tâm. Bây giờ không còn thuốc cứu chữa nữa, vậy anh sẽ cùng chết bên em cho trọn tình". Nói dứt lời, lão tuốt gươm ra. Con bé nọ tưởng đâu lão giữ vẹn mối tình chung thủy cùng mình nên lộ vẻ hân hoan nói: "Hay lắm, anh hãy giết em rồi tự tử luôn, để chúng ta cùng xuống âm ty tiếp tục nối tình chồng vợ kiếp này". Lão không trả lời. Một tiếng "soẹt" khô khan vừa vang lên thì lưỡi gươm đã xuyên qua ngay tim con bé khốn nạn. Ta đứng ngoài cửa sổ sợ rằng lão sẽ tự vận luôn theo nó nên vội vàng lên tiếng định cản ngăn, nhưng lão điềm nhiên chùi lưỡi kiếm vào mông con Nhu, khoan thai tra gươm vào bao rồi quay lại vòng tay nói với ta: "Việc trót lỗi lầm, xin nương tử rộng lòng dung thứ một phen". Nói dứt lời, lão bỏ viên tuyệt tình đan vào miệng nuốt luôn. Thật ra ta cũng không ngờ lão xử trí như vậy nên cũng động lòng về sự hối hận của lão, không còn giận nữa. Ngay đêm đó, lão sai đặt biệt tiệc tại phòng riêng để tạ lỗi. Cứ mỗi bận nâng ly, lão lại nhắc lại lời thề chung thủy, từ đây một dạ trung thành với nghĩa vợ chồng đến trọn đời mãn kiếp.
Nghe tới đấy, nàng Lục Ngạc bỗng òa lên khóc. Bà Cừu Thiện Xích nổi giận mắng luôn:
- Con thương tiếc con bé Nhu lắm sao mà khóc lóc như vậy hử?
Nàng Lục Ngạc chỉ lắc đầu không đáp, vì trong thâm tâm nàng lúc đó xúc động quá thương cha biết hối hận ăn năn.
Bà tiếp tục kể:
- Ta vừa uống rượu vừa tươi cười sung sướng vì thấy người chồng đã thật tâm hối cải và hy vọng từ nay sẽ độc chiếm tình yêu trong hạnh phúc gia đình. Ta thò tay vào túi lấy ra hai viên tuyệt tình đan khác, đặt lên trên bàn vừa cười vừa nói:
- Hồi sáng nay anh nông nổi giết nó cũng tội nghiệp thật. Chậm lại đôi chút, cũng có thể dùng thuốc nầy lấy mạng nó.
Lục Ngạc nhìn mẹ hỏi:
- Lúc ấy mẹ đang có định ý cho giải cứu nàng ta hay quyết giết?
Bà suy nghĩ một chặp rồi đáp:
- Thật ra lòng ta cũng không nỡ hạ sát nó và dự định cứu chữa để sau này nó còn cải tà quy chánh rồi biết ơn mình mãi mãi.
Rồi bà kể thêm:
- Nửa ngày sau, Công Tôn Chỉ vui vẻ đến nâng chén, mời ta uống một chén để tạ ơn tha tội. Thấy chồng đã thật tình biết lỗi, lòng ta hân hoan sung sướng, tiếp lấy uống cạn. Ngờ đâu vừa uống khỏi miệng đã ngã xuống mê man ngay.Khi ta tỉnh dậy thì thấy bao nhiêu gân ở chân đều bị cắt đứt và bị ném trong động này. Và từ đó tới nay ta vẫn sống một mình không biết trên đó đã xảy ra những gì. Có lẽ sau khi hạ xong độc thủ, nó tin rằng ta đã bò xuống nơi chốn này rồi.
Nói tới đây bà trợn mắt tỏ vẻ vô cùng oán hận.
Lục Ngạc hỏi:
- Suốt bao nhiêu năm qua, mẹ chỉ ăn táo mà sống thôi sao?
Bà nhìn con buồn rầu đáp:
- Chứ còn gì nữa mà ăn hử con? Trong mấy ngày đầu, mỗi buổi sáng Công Tôn Chỉ có ném xuống cho một vắt cơm, nhưng chỉ có mấy ngày rồi dứt hẳn. Trong thời gian ấy, mẹ chỉ có tìm rêu rong ăn đỡ, ngoài ra còn biết lấy gì đỡ dạ nữa?
Nàng Lục Ngạc đau lòng quá vội ôm chầm lấy mẹ gào lên:
- Trời ơi khổ thân mẹ tôi quá. Có ngờ đâu mẹ lại phải chịu đựng một cực hình kéo dài mãi như thế này?
Dương Qua không muốn nghe kể chuyện dài dòng nữa, nên mới gợi ý hỏi bà:
- Thưa bá mẫu, trước khi bị vứt xuống đây, có khi nào Công Tôn Chỉ kể cho bá mẫu nghe biết có lối nào ra khỏi động này hay không?
Bà cười chua xót đáp:
- Ta với lão tuy kết nghĩa vợ chồng nhưng tình chồng vợ không khác chi Trang Tử xưa kia, cho nên chẳng có chuyện gì kín đáo mà lão chịu để cho ta nghe hết. Ngay như cái đầm cá sấu trước kia lão cũng không hề cho ta hay biết bao giờ. Còn cái động này dù có lối ra chăng nữa, nhưng tay chân ta đã bị cắt gân hết rồi, làm sao mà trèo leo đi ra cho được?
Nghe bà nói thế, Dương Qua mừng như chết đi sống lại. Chàng vội đề nghị:
- Như vậy bá mẫu cùng hai chúng tôi hợp sức lại cả ba cùng tìm cách thoát ra, dù gian nguy khó nhọc tới đâu cũng vượt qua được.
Nghe chàng đề nghị, Lục Ngạc bèn nói với mẹ:
- Bây giờ để con cõng mẹ lên lưng rồi mẹ chỉ đường cho cả ba cùng đi ra.
Nguyên trong động này có một lối bí mật để đi ra, nhưng vì đường sá quanh co khúc khuỷu lên xuống khó khăn, khi đi được vài chục trượng sẽ có một khoang rộng có mấy chục cây táo mọc, bà Cừu Thiên Xích đưa tay chỉ vào lối đó và nói:
- Nơi có táo mọc mà vừa rồi chúng ta chọi trái rụng xuống để ăn đó chỉ là một lối hờ mà thôi. Đi lối đó có nhiều thứ rắn rết thật nguy hiểm và nhiều chất nhựa độc, chạm phải chết ngay. Còn cửa hang này có thể thông thương với bên ngoài được, nhưng vức vách đá cao hàng trăm trượng, làm sao ra cho được?
Dương Qua ngước mặt nhìn lên, thấy miệng hang cao vòi vọi, không thể nhẩy hay leo lên được. Dù có leo lên đọt táo cũng không thấm thía gì hết. Vì mỗi cây táo cao nhất cũng bảy tám trượng là cùng. Như vậy chắc không phương thế nào thoát ra được nữa. Nhưng chàng lại thầm nghĩ: "Nhưng bây giờ chẳng lẽ mình khoanh tay chờ chết hay sống mãn kiếp nơi đây sao?". Nghĩ xong, chàng phi thân lên trên đọt táo cao nhất, phóng tầm mắt quan sát hết khắp nơi. Từ phía trên đọt táo, vách đá có nhiều chỗ lồi ra lõm vào chứ không thẳng đứng như dưới. Chàng bèn nín hơi vận sức nhảy phóng lên cao thêm bám vào vách đá rồi tiếp tục nhảy thêm nữa, mỗi lúc một cao. Trong bụng mừng hớn hở, Dương Qua quay đầu nhìn xuống gọi lớn:
- Có hy vọng rồi, cô nương và bá mẫu cứ yên tâm chờ một tý. Tôi lên tới miệng hang sẽ thòng dây xuống kéo lên nhé.
Thế rồi chàng cứ bám vào vách đá trèo lên như vượn, vừa leo vừa nhảy, chuyền từ mỏm này sang mỏm khác. Có nhiều chỗ quá cheo leo phải bám chặt như dơi. Nhờ tài khinh công trác tuyệt, không bao lâu Dương Qua đã vượt hơn một trăm trượng cao. Khi còn cách miệng hang tháng hai chục trượng nữa, chàng nhìn thấy vách đá trở nên
nhẵn thín, không còn một chỗ nào để bám víu được nữa. Dù có móng vuốt như hùm beo hay có nhiều chân như rết cũng chưa chắc leo được nữa. Ngắm nghía một chặp lâu thấy không thể nào leo lên nữa được, chàng bèn tuột xuống. Khi tuột xuống tới đáy hang, chàng mừng rỡ báo tin lành:
- Thôi, chuyến này có thể leo ra được rồi, nhưng trên ấy cần phải có dây tốt mới được.
Nói xong chàng dùng dao tách một số lớn vỏ táo rồi cùng Công Tôn Lục Ngạc hì hục bện được một sợi dây thật dài và khá chắc chắn.
Lúc bấy giờ trời đã bắt đầu tối. Dương Qua cầm hai mối dây giằng thử thật mạnh miệng nói:
- Dây cũng khá bền lắm, không thể nào đứt được đâu mà sợ.
Nói xong, chàng níu một cành táo khá lớn, chặt lấy một khúc đem buộc vào một đầu dây mang theo. Thế rồi chàng từ từ leo lên lần nữa. Khi leo lần tới miệng, gặp chỗ vách đá trơn trợt, chàng bèn vận sức ném thẳng khúc gỗ táo lao vút lên trên xa, miệng hét:
- Tôi lên này!
Sức chàng ném mạnh quá, cành táo lao vút lên không trung nằm bắc ngang trên miệng hầm. Chàng đưa tay khẽ giật giật mấy cái khiến cành táo ngáng vào hai hốc đá trên miệng hang, rồi nhìn xuống la lớn:
- Tôi leo lên đây này.
Nói vừa dứt lời chàng dùng hai tay thu dây leo lên thoăn thoắt như một con sóc. Không bao lâu đã tới miệng hang. Dương Qua quay đầu nhìn xuống, thấy hai mẹ con Lục Ngạc chỉ còn là hai cái bóng mờ mờ nhỏ xíu. Ngồi nghỉ trên miệng hang, chàng suy nghĩ: "Không bao lâu nữa, ta sẽ đem được thuốc trị độc tình hoa để trao tận tay Long cô nương rồi. Sung sướng quá". Chàng đem cột thật chặt hai đầu cây vào mỏm đá để khỏi lăn hay sút ra. Trong khi đó trăng đã lên khỏi đỉnh núi, chiếu ánh sáng xuống nửa hang, nhưng nhìn xuống phía dưới thì tối đen như mực. Dương Qua ngửa mặt nhìn trăng rồi trông xuống hang sâu, lòng suy nghĩ: "Ngày còn chung sống với cô nương trong Cổ Mộ, có bao giờ ta ngán cảnh thâm u của rừng núi, chẳng hiểu tại sao hôm nay chỉ vừa trông thấy hang này đã ngán lắm rồi. Té ra cảnh vui hay buồn chỉ tại lòng người mà ra chứ không phải vì cảnh". Suy nghĩ xong, chàng loay hoay tìm cách thòng dây xuống.
Trong lúc đó dưới hang bà Cừu Thiên Xích biết rõ chàng đã lên tận trên miệng hang rồi nên lớn tiếng rầy con gái:
- Sao mày ngốc vậy? Mày để nó leo lên một mình, thoát thân rồi thì còn nghĩ gì tới mẹ con mình nữa?
Lục Ngạc đáp:
- Xin mẹ cứ yên tâm. Con biết rõ bản tánh anh ấy lắm. Con người như anh ấy rất thủy chung và trọng điều tín nghĩa, không khi nào quên tình phụ nghĩa mà bỏ rơi mẹ con mình đâu.
Bà không tin, càng mắng lớn:
- Con gái tôi thật thà quá, như vậy thì còn gì là đời con gái với cái tánh quá tin người như vậy nữa? Con trai đời này có thằng nào có thể gọi là thủy chung với con gái đâu mà con tin như vậy?
Lục Ngạc đỏ mặt nói:
- Mẹ nói sao con chẳng hiểu.
Bà cười nói:
- Không hiểu sao mặt mày đỏ bừng lên như vậy? Phàm ở đời có lạ chi thứ gái gần trai như rơm gần lửa. Mày tin nó thì nó dại gì không lợi dụng. Một khi bướm đã bắt hoa thì còn thiết tha gì nữa? Mày đã lỡ rồi thì phải bám riết lấy nó chứ sao lại bỏ tuột đi như vậy? Chẳng lẽ rồi đây một mình nuôi con cho hắn hay sao? Con gái trong trắng, khôn ba năm dại một giờ, có lẽ thằng Công Tôn Chỉ đã phụ rẫy tao rồi mày là con gái phải trả nợ cho cha ư?
Hai mẹ con đương cãi vã giằng co thì đường dây của Dương Qua thòng xuống đã chạm mặt đất. Lục Ngạc mừng quá, vội vàng bẻ hai cành cây cột chữ thập thật chắc đặt mẹ ngồi lên, quấn thêm một vòng bụng cho bảo đảm rồi vừa cười vừa hỏi:
- Bây giờ mẹ tin lời con chưa? Anh Dương Qua đâu phải như mẹ tưởng. Bà Cừu Thiên Xích hử một tiếng rồi nói:
- Ta chỉ dặn cho mà xem chừng, từ nay nên bám riết nó đừng thả ra như vậy nữa nghe không. ở đời hễ tin bợm thì mất bò con ạ.
Nghe mẹ nói, nàng Lục Ngạc chạnh lòng suy nghĩ: "Mẹ mình đã nếm mùi tình phụ, nên đã thành kiến với tất cả đàn ông trên trần thế. Ai ai bà cũng cho là hạng đểu giả, lúc nào cũng chực phụ rẫy đàn bà". Nàng giật nhẹ mối dây ra hiệu. Phía trên, Dương Qua cầm dây kéo lên vùn vụt. Bà Cừu Thiên Xích tung bổng người lên cao vùn vụt như muốn bay lên mây, không mấy chốc mất dạng.
Lục Ngạc đứng dưới nhìn theo. Nàng biết chắc thế nào Dương Qua cũng thòng dây trở xuống kéo mình lên, nhưng ảnh hưởng những lời nói của Bà Cừu vừa dặn cũng khiến cho nàng ngài ngại và cảnh vắng lặng trong hang đá khiến nàng cảm thấy sờ sợ, muốn rợn gáy.
Dương Qua kéo được bà Cừu Thiên Xích lên khỏi miệng hang rồi bèn mở ra đặt bà ngồi trên một tảng đá bên cạnh, rồi thòng dây trở xuống cho Lục Ngạc. Nàng Lục Ngạc nắm được đầu dây, đem quấn vào lưng mấy vòng rồi hai tay bám thật chặt, giật giật mấy cái ra hiệu. Dây được từ từ kéo lên. Nàng quay đầu nhìn xuống thấy ngọn táo mỗi lúc một xa dần và ánh trăng càng lúc càng sáng chói lọi. Khi còn cách miệng hang độ vài chục trượng, bỗng nghe có tiếng quát thật lớn, dây lại tuột xuống. Nàng thất kinh lo sợ và nghĩ bụng:
- Trời ơi sao thế này? Nếu rơi xuống đáy thì còn gì là xương thịt nữa?
Trên miệng hầm Dương Qua đang cố phăng dây, chỉ còn chút nữa là thành công, thình lình có tiếng chân người đi rầm rập rồi có tiếng gươm khua, chàng đoán mình đang bị kẻ nào đánh lén. Chưa kịp quay đầu lại nhìn, bỗng nhiên chàng nghe có tiếng người quát lớn: "bọn bây định làm trò chi tại đây" tiếp theo một tiếng vụt như trời giáng vào lưng chàng. Trước tình thế đó Dương Qua phải buộc lỏng buông dây, để dùng hai tay đỡ đòn, chàng vừa gạt được một cây gậy sắt nặng linh trăm cân thì nhìn lại kẻ địch là Phàn Nhất ông đệ nhất đệ tử của Công Tôn động chủ. Trước đây Phàn Nhất ông bị Dương Qua xén mất bộ râu quý nên trong lòng mang mãi mối hận, hôm nay lại bị chàng gạt luôn cây gậy sắt, ông bực tức thêm bèn xông nhầu vào vụt loạn đả. Nếu Dương Qua chỉ chậm một tý cũng tan xương nát thịt. Dưới làn gậy vô cùng ác liệt, Dương Qua
không còn cách nào lẩn tránh nữa, chàng bèn nhảy liều xuống hang theo Lục Ngạc. Lục Ngạc theo đầu dây tuột gấp xuống, sợ thét hỏi ầm ĩ. Trên miệng hang, bà Cừu Thiên Xích cũng quát lớn bảo Phàn Nhất Ông:
- Mày hại con ta thì ta cũng cho mày phải cùng chết với nó luôn thể.
Nói xong bà tung đầu dây ra quấn luôn trên người họ Phàn ba vòng rồi giật mạnh.
Phàn Nhất ông hoảng quá hai tay vội nắm lấy đầu dây kéo lại. Trong lúc đang giằng co, Phàn Nhất Ông bỗng cảm thấy sau lưng đau nhói như kim
châm và Cừu Thiên Xích quát lớn:
- Huyệt linh đài đã bị ta điểm rồi, các mạch máu đều ngừng chạy, đừng hòng chống cự nữa vô ích.
Vừa nghe ba tiếng "linh đài huyệt" Phàn Nhất Ông rụng rời không hồn vía nữa. Từ trước đến nay ông thường nghe sư phụ giảng giải cho biết Linh đài huyệt đạo trọng yếu nhất trong con người hễ bị điêm trúng, tất nhiên bao nhiêu mạch máu đều ngừng chảy "Linh Đài tiểu tổn, bách mạch câu phế". Vì vậy nên khi nghe bà nói xong, ông chỉ biết đứng sửng
sốt không dám cử động hay bỏ chạy nữa. Rồi máu tươi từ miệng ra như suối.
Thấy địch thủ đă bị trọng thương. Thiên Xích yên trí, nắm lấy đầu dây giật và thét lớn:
- Các con leo lên, đừng sợ nữa.
Nhờ có võ công cao siêu và thuật khinh công tuyệt đỉnh, Dương Qua nhảy xuống hang, đứng được trên ngọn cây táo mà chàng đã đoán trước được vị trí rồi cố nắm dây cho tuột xuống từ từ để Lục Ngạc khỏi bị thương tích. Trong khi ấy Lục Ngạc hoảng sợ quá đã hôn mê bất tỉnh rồi. Dương Qua bèn dùng dây buộc ngang lưng nàng hai vòng thật bảo đảm rồi kẹp bên hông leo lên. Leo lên khỏi miệng hầm, chàng thấy Lục Ngạc còn đê mê hồn quế nên giải huyệt cho nàng. Lục Ngạc mở mắt nhìn quanh, trong tâm hồn nửa mê nửa tỉnh, vừa trông thấy Dương Qua đứng dưới ánh trăng nhìn mình cười mỉm thì nàng mừng quá chồm lên ôm chàng thổn thức:
- Dương đại ca! Có phải hai ta đã cùng chết hết rồi phải không? Đây là chốn nào, có phải âm ty chăng?
Dương Qua đỡ nàng ngồi dậy, xoa nhẹ nơi má cười nói:
- Phải đấy, cả hai chúng ta đều chết hết rồi.
Lục Ngạc thấy chàng nói đùa cùng mình, bèn liếc nhìn ra sau thấy mẫu thân đang nhìn mình miệng cười âu yếm. Nàng ngượng quá, nhảy xổ lại ôm mẹ gọi lớn:
- Mẹ ơi, chúng ta đã thoát khỏi hầm rồi, sướng quá.
Dương Qua nhìn lại thấy bà Cừu Thiên Xích tuy bị cắt đứt hết chân tay mà vẫn có thể hạ thủ dễ dàng một tay võ công lợi hại là Phàn Nhất Ông thì phục sát đất, vội hỏi:
- Lão bà đã dùng phép gì hạ được thằng cha nầy như vậy?
Bà Cừu Thiên Xích vừa cười vừa đáp:
- Chỉ dùng một viên đá nhỏ là đủ, cần chi phải dùng phép thuật đối với hắn?
Nguyên trước kia bà đã dạy cho Công Tôn Chỉ vê thuật điểm Linh đài huyệt, nên thế nào Công Tôn Chỉ cũng đem dạy lại và lòe với bọn đệ tử cho nên khi dùng mồm phóng viên đá chạm vào mình Phàn Nhất Ông mất tinh thần, không dám chống đối nữa.
Riêng Dương Qua thì bất cứ lúc nào cũng chỉ trông mong được gặp lại Tiểu Long Nữ, nay thấy hai mẹ con Lục Ngạc đã ra khỏi hang bình yên vô sự, và kẻ địch là Phàn Nhất Ông đã bị điểm huyệt nằm sóng soài trên mặt đất, thì vội lên tiếng nói:
- Xin lão bà và cô nương hãy ngồi tạm nơi đây một chút, để tôi đem tuyệt tình đan cứu cho một người bạn thân.
Cừu Thiên Xích hỏi lớn:
- Nhà ngươi cũng có tuyệt tình đan sao? Hãy đưa ta xem thử nào?
Dương Qua vui vẻ đáp:
- Dạ cháu có mấy viên, xin lão bà xem lại có chân thật tuyệt tình đan hay không?
Miệng nói, tay thò vào túi rút ra một cái bình thuỷ tinh nho nhỏ trút ra mấy viên thuốc đen hình vuông đưa cho bà.
Bà Cừu Thiên Xích mân mê mấy viên thuốc trong tay, đưa lên mũi ngửi thấy thơm ngào ngạt, gật đầu khen:
- Phải đúng là tuyệt tình đan đây. Ngươi lấy ở đâu mà được số này. Nghe ngươi cũng bị tình hoa đâm phải sao không uống đi cho rồi?
Dương Qua chắp tay đáp:
- Cám ơn lão bà, câu chuyện này hơi dài. Chờ cháu đi cứu cho người quen xong sẽ trở lại đây và kể chuyện lại cho lão bà rõ.
Nói xong chàng đưa tay cầm lại mấy viên thuốc chực bước đi. Lục Ngạc thấy vậy có ý quyến luyến vừa lo âu hỏi nhỏ:
- Dương huynh! Nếu cha em ngăn trở thì anh làm sao?
Bà Thiên Xích nổi giận thét lớn:
- Con bé này gan thật, ai cho phép mi gọi lão ấy bằng cha nữa? Nếu từ nay mi còn gọi hắn là cha thì đừng gọi ta là mẹ nữa nghe không?
Để bà khỏi la con, Dương Qua xen vào nói:
- Tôi đem thuốc cho Long cô nương thì can chi ông lại cản ngăn. Theo tôi nghĩ có lẽ ông còn mừng rỡ là khác chứ.
Lục Ngạc bảo:
- Nếu ông không can ng ăn thì ông cũng có thề dùng độc dược khác để hại mạng anh, cần phải đề phòng cho lắm.
Dương Qua cười nhạt nói:
- Sự việc tới đâu hay đó biết đâu mà đoán trước được?
Cừu Thiên Xích nghe hai người trò chuyện thì xen vào hỏi:
- Bây giờ tìm gặp Công Tôn Chỉ đấy sao?
Dương Qua gật đầu đáp:
- Dạ phải.
Bà sáng rực đôi mắt nói:
- Nếu vậy ngươi cho ta cùng theo với. Biết đâu ta sẽ giúp được nhiều việc có ích cho ngươi.
Trong khi quá nóng lòng gặp Tiểu Long Nữ, Dương Qua quên nghĩ chuyện xa gần hơn thiệt. Nay nghe bà nói vậy, chàng bỗng suy nghĩ:
- Bây giờ ta đem vợ lớn của lão tới đó, thì nhất định lão không còn dám thành thân cùng Long cô nương rồi. Hay quá, tiện quá.
Nghĩ xong chàng, mừng rỡ nhưng lại ngại chuyện khác:
- Tuyệt tình đan chỉ còn có một lọ vừa cho Long cô nương uống. Còn ta, thuốc đâu để uống nữa đây? Như thế chắc mình phải chết rồi.
Trong lòng lo ngại, nét phân vân hiện rõ ràng trên nét mặt chàng. Thấy Dương Qua mới vui mừng bỗng lo ngại buồn rầu ngay Lục Ngạc cũng thấy buồn lây và nghĩ bụng:
- Phần ta cũng còn nhiều chuyện đáng lo lắm. Khi cha mẹ giáp mặt nhau thế nào cũng xảy ra nhiều chuyện động trời và vô cùng khó xử.
Nghĩ vậy nàng càng bối rối thêm. Bà Cừu Thiên Xích lớn tiếng bảo:
- Ngạc con, hãy cõng mẹ đi con. Lẹ lên!
Lục Ngạc đáp:
- Thưa mẹ, nếu mẹ muốn đi, cũng cần phải tắm rửa cho sạch sẽ kiếm quần áo thay tử tế chẳng lẽ đễ mình mẩy lõa lồ lá cây bao phủ quanh người như vậy coi sao được?
Sở dĩ Lục Ngạc đề nghị như thế là muốn diên trì cuộc gặp gỡ của cha mẹ được chừng nào hay chừng ấy, vì nàng nghĩ nếu hai người gặp nhau thế nào cũng có sự đụng độ nẩy lửa, một mất một còn.
Bà Cừu Thiên Xích cau mày gắt lớn:
- áo quần rách hết, rồi lấy đâu mà thay? Xưa nay vẫn dùng vỏ cây che thân đã sao? Chỉ trừ phi...
Nói tới đây bà bỗng suy nghĩ:
- Hai anh mình là Cừu Thiên Nhận và Cừu Thiên Lý thường xô xát nhau vì bởi Lý hay cải trang giả làm Cừu Thiên Nhận. Hôm nay ta bị cắt hết gân chân gân tay thì làm sao đủ sức chống lại Công Tôn Chỉ? chi bằng ta
cũng noi gương anh cả giả dạng hai anh để lòe lão trước đã. Xưa nay lão chưa biết nhị ca ta và yên chí là ta đã rục xương trong động đá từ năm nào rồi nên không thể nào nghi ngờ được.
Nhưng bà lại lo lắng:
- Ta cùng lão đã cùng nhau chung sống bao năm quen mặt biết lời quá nhiều từ hôm nay làm sao lừa gạt cho được?
Dương Qua thấy sắc diện Bà quá ư phân vân lo lắng bèn hỏi nhỏ:
- Có phải lão bà ngại Công Tôn Chỉ nhận diện ra được phải không? Nếu vậy cháu đã có cách hay đây rồi, xin đừng lo nữa.
Nói xong chàng thò tay vào túi rút ra chiếc mặt nạ da người trao cho bà và nói:
- Xin lão bà cứ dùng cái mặt nạ này đeo vào người thì có trời mà biết được.
Bà Thiên Xích mừng rỡ đưa tay cầm chiếc mặt nạ rồi quay sang Lục Ngạc bảo:
- Ngạc con, con hãy cõng mẹ lại gần động Thủy tiên, tìm cho mẹ một bộ quần áo thay đỡ và một cây quạt lớn với một áo rộng nhé.
Lục Ngạc ghé vai cõng mẹ rồi theo Dương Qua bước đi. Dương Qua định thần nhìn lại phương hướng để tìm lối đi. Chàng thấy bọn mình đang đứng trên một núi cao vòi vọi, tứ bề cây mọc rậm rạp xanh um. Trông về phía Thạch trang u cốc, hình như cách xa hàng mấy dặm đường trường.
Cừu Thiê n Xích cũng đễ ý quan sát phong cảnh xung quanh rồi thở dài nói:
- Đây là ngọn núi Lệ Quỷ. Tử đời này sang đời khác, người trong động khẩu truyền cùng nhau rằng trên núi này thường có quỷ hiện và sát hại tất cả những ai vô phước gặp chúng. Vì vậy nên không có một kẻ nào dám đặt chân lên đây. Không ngờ ngày hôm nay chúng ta vừa thoát khỏi miệng hầm thì lại trúng đúng ngay chỗ núi này, hay thật.
Dương Qua quát hỏi Phàn ông:
- Nhà ngươi đến đây do lối nào?
Lúc này Phàn Nhất Ông cũng vừa tỉnh dậy, mặc dù biết mình đã rơi vào tay địch nhưng ông vẫn không sờn lòng. Khi nghe Dương Qua hỏi, ông cười gằn quát lớn:
- Mi cứ giết ta đi cho rồi, đừng nói dài dòng vô ích.
Dương Qua hỏi nữa:
- Có phải Công Tôn động chúa sai mi tới đây dò xét phải không?
Phàn Nhất Ông trợn mắt đáp:
- Phải đấy. Chính sư phụ ta sợ bọn tay sai tác yêu tác quái, nên có dặn ta phải để ý coi chừng trước sau. Quả nhiên ông đoán không sai, và ta đã bắt gặp bọn bay làm ma quỷ trên đỉnh núi này.
Miệng đáp nhưng mắt ông vẫn không rời Cừu Thiên Xích bụng nghĩ:
- Không biết lão già này là ai mà Công Tôn Cô nương lại gọi bà là mẹ?
Nguyên Phàn Nhất Ông tuổi tác không thua vợ chồng Cừu Thiên Xích là bao nhiêu nhưng lão nhận Công Tôn Chỉ làm sư phụ để học võ công. Khi lão bắt đầu về sống nơi động Thủy Tiên thì Cừu Thiên Xích đã bị hại rồi nên lão không hề biết gì về bà. Trong khi bị đau, nằm tịnh dưỡng, nghe ba người nói chuyện, ông đoán biết có ý không tốt đối với sư phụ mình nên xông ra can thiệp mà thôi.
Cừu Thiên Xích nghe qua biết lão ta rất trung thành cùng Công Tôn Chỉ nên trong lòng oán ghét vô cùng. Bà bảo Dương Qua:
- Hãy giết phứt hắn đi cho rảnh nợ.
Dương Qua liếc nhìn thấy Phàn Nhất Ông vẫn lộ vẻ khí khái, cũng có lòng mến phục, tuy nhiên vì không muốn làm phiền ý bà nên chàng nhìn lão nói:
- Vâng tôi sẽ thanh toán thằng cha này cho. Xin cô nương cứ cõng Lão bà đi trước. Xong chuyện tôi sẽ chạy theo.
Lục Ngạc xưa nay vẫn mến cái đức tính ngay thẳng khảng khái của Phàn Nhất Ông, không nỡ để ông bị chết oan uổng, bèn nhìn Dương Qua khẩn khoản nói:
- Dương đại ca...
Nhưng Cừu Thiên Xích đã quát lớn, cắt lời:
- Thôi lẹ lên chứ. Tao nói gì mày cũng chẳng nghe, thì còn mẹ con gì nữa chứ?
Lục Ngạc chẳng dám nói gì thêm lẳng lặng cõng mẹ bước đi tìm lối xuống núi.
Thấy hai người đi một đoạn khá xa, Dương Qua bước lại cạnh Phàn Nhất Ông khẽ bảo:
- Phàn đại huynh. Tôi và đại huynh không thù không oán, tôi nỡ nào giết hại đại huynh cho đành. Đùi bên trái đai huynh bị điểm huyệt, tôi đã giải cho rồi. Rán chờ vào lúc cuối giờ thìn sẽ mạnh lại như cũ, anh đừng ngại gì hết nhé.
Chàng đưa tay giải huyệt xong rồi tung mình chạy theo Lục Ngạc. Phàn Nhất Ông đang lặng thinh nhắm mắt chờ chết, không ngờ Dương Qua đã không giết còn đối xử tốt với mình như vậy thì trong lòng ngỡ ngàng và cảm động quá. Ông chưa kịp nói gì thì Dương Qua đã quay mình chạy ra rồi, nên đành ngồi dậy ngơ ngác nhìn theo ba bóng người đang khuất dần trong rặng cây rừng đang tắm ánh trăng khuya.
Dương Qua chạy một chặp đã theo kịp Lục Ngạc. Chàng nặng lòng muốn gặp Tiểu Long Nữ, thấy Lục Ngạc đi chậm quá nên cất tiếng nói:
- Lão bá, xin để tôi cõng đỡ sức cho cô nương một quãng đường nhé.
Lục Ngạc đang lo ngại tánh ý của mẹ mình và Dương Qua không hợp nhau, nay bỗng nhiên nghe chàng tự nguyện xin cõng bà thì lòng mừng vô hạn, nhưng cũng vờ từ chối:
- Có đâu lại làm phiền Dương huynh nhiều như vậy?
Nàng dịnh nói như vậy để dò ý mẹ thì bà Cừu Thiên Xích gắt:
- Ta mang thai mày mười tháng, nuông chiều quý mến mày như ngọc bây giờ mới cõng ta vài dặm đường đã muốn trao lại cho người khác sao? Hiếu lắm thế con gái?
Dương Qua chẳng nói gì, bế xốc bà lên vai rồi tung người bay lẹ như tên bắn. Bà Cừu Thiên Xích xưa nay tự hào khinh công của mình là cao diệu được chân truyền từ Thiết chưởng thủy thượng phiêu, từ Trung Nguyên đến miền Tây vực chưa mấy ai dám ra mặt so tài. Thế mà từ lúc nằm trên lưng Dương Qua thấy chàng tung người lao đi vun vút như chẳng hề đặt chân trần mặt đất thì bà hết sức kinh ngạc phải tấm tắc khen thầm:
- Thằng bé này còn ít tuổi mà khinh công cao diệu như thế này kể ra cũng hiếm có. Như vậy quả xứng đáng làm rể duy nhất của ta lắm.
Chưa bao lâu, Dương Qua đã công bà xuống tận chân núi. Chàng quay đầu nhìn lại thấy Lục Ngạc còn lẽo đẽo chạy theo trên lưng chừng núi, nên phải tạm dừng chân chờ đợi. Một lát sau nàng vừa tới nơi, mệt thở hổn hển, mồ hổi mồ kê đầm mình.
Xuống khỏi núi rồi, cả ba cùng bàn cách vào trang viện. Lục Ngạc chạy lại xóm gần mượn được một bộ áo quần, một cái áo rộng và một cây quạt khá lớn đem lại cho mẹ.
Cừu Thiên Xích mặc áo, đeo mặt nạ và cầm quạt rồi để cho Lục Ngạc và Dương Qua dìu đi dần vào trang viện. Sau khi bước qua khỏi cổng. Cừu thiên Xích cảm thấy cõi lòng rào rạt vì không ngờ sau hai chục năm gian khổ ngày nay còn hân hạnh nhìn lại cảnh này và đặt chân lại trên con đường này. Càng suy nghĩ lòng bà càng ngập một niềm bi thương, mừng mừng tủi tủi.
Ngay trước cửa trang viện có treo đèn kết hoa rực rỡ, bên trong chưng diện toàn những đồ xa hoa lộng lẫy, văng vẳng thoáng qua có tiếng nhạc dìu dặt du dương. Hình như trong trang viện có việc gì vui mừng. Bọn gia đinh nhìn ra thấy có ba ngườị đi vào thì cùng đứng lên định ngăn cản, nhưng khi trông thấy có bóng Công Tôn Lục Ngạc đi kèm một bên thì không nghi ngờ gì, để cho ba người tự do đi vào. Khi bước vào phòng khách thấy đông người, ai ai cũng lộ vẻ hân hoan vui vẻ. Công Tôn Chỉ mặc áo gấm hoa, phía bên mặt là cô dâu đầu đội mũ cánh phượng, mặt che khăn choàng thêu, không trông thấy mặt, nhưng Dương Qua đã đoán biết là Tiểu Long Nữ.
Bỗng ba hồi chuông trống vang lên, sau đó ba tràng pháo thi nhau nổ, rồi tiếng người xướng lớn:
- Giờ lành đã đến, xin mời chú rể cô dâu làm lễ bái tạ trời đất...
Cừu Thiên Xích cười lên ha hà. Tiếng cười vang lên làm bao nhiêu đèn đuốc đều chập chờn muốn tắt, rồi nghiêm giọng hỏi:
- Cô dâu chú rể bái tạ thiên địa, còn người cũ thì làm chi đây?
Tuy gân tay gân chân bị cắt đứt nhưng nội công bà vẫn còn như cũ. Hơn nữa suốt mười mấy năm bị giam hãm trong hang, bà đã dốc lòng rèn luyện chuyên cần, không kém gì kẻ khác tập trong hai mươi tám năm, vì vậy hôm nay bà vận nội công nói ra âm thanh là rung chuyển cả căn nhà, khiến mọi người phải đinh tai nhức óc. Đèn đuốc trong nhà cũng vì tiếng
nói tắt gần phân nửa. Mọi ngươi thất sắc cùng quay đầu nhìn ra.
Công Tôn Chỉ vừa nghe tiếng cười đã thấy ớn lạnh xương sống rồi. Nhìn lại thấy Dương Qua và con gái mình hãy còn sống yên lành đứng cạnh một người mặt mày như quỷ, ông vừa kinh ngạc vừa lo sợ, run run cất tiếng hỏi:
- Tôn giá là ai, xin vui lòng cho biết rõ phương danh quý tánh.
Cừu Thiên Xích cười gằn rồi đáp lớn:
- Ta với ngươi vốn cũng là họ hàng quen thuộc, thế mà ngươi nỡ làm mặt lạ, như vậy sao phải?
Xung quanh động Thủy tiên bao bọc toàn núi cao vách đá trên chu vi bốn năm dặm. Tiếng nói của bà tuy không vang rền như sấm sét nhưng tiếng vọng ra cũng thấy kinh người và vách núi dội đi dội lại mãi không dứt. Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây đứng ngoài dự lễ, nghe nói thảy đều thầm phục nội công ngươi này quả thiên hạ vô song. Nghĩ vậy nên ai nấy cùng chăm chú nhìn theo không chớp mắt. Công Tôn Chỉ nhìn thấy người nầy mặc áo rộng, tay phe phẩy cây quạt lông thì giật mình nghĩ bụng:
- Con người này sao có vẻ giống hệt anh vợ của ta lắm vậy?
Tuy chưa biết mặt Cừu Thiên Nhận nhưng trước đây lão thường nghe vợ tả lại hình dáng và trang phục của ông. Nghĩ xong ông thầm suy tiếp:
- Hình như người này có ý không tốt đối với ta. Vậy phải đề phòng chu đáo mới được.
Nghĩ xong, ông lễ phép hỏi:
- Tôi và ngài thật chưa hề quen biết, chẳng hiểu vì sao lại bảo có họ hàng quen thuộc, thật cũng khá buồn cười.
Trong các cao thủ có mặt hôm nay chỉ có Doãn Khắc Tây là người am thạo công chuyện trong giới võ lâm hơn cả, cho nên khi thấy Cừu Thiên Xích mặc áo rộng phe phẩy quạt lông thì bỗng nghĩ ra một người rồi cất tiếng nói:
- Các hạ có phải Thiết Chưởng thủy thượng phiêu Cừu Thiên Nhận hay chăng?
Cừu Thiên Xích ngước mặt cười lớn làm vang động cả gian nhà rồi nói lớn:
- Tôi những tưởng bao nhiêu người cũ lúc này chết cả rồi nhưng không ngờ vẫn còn một vị hề... hề...
Công Tôn Chỉ chẳng sờn lòng hỏi vặn lại:
- Lẽ ngài là Cừu Thiên Nhận? Tôi chỉ ngại có kẻ dám đội lốt hùm lắm.
Cừu Thiên Xích nghe nói chột dạ nghĩ: "Thằng già này có thể đoán ra được sự giả mạo của mình chăng?". Tuy vậy, nhưng bà chỉ cười lạt không nói gì để dò xét thêm thái độ của Công Tôn Chỉ.
Dương Qua thừa lúc hai ông bà cãi nhau, và mọi người chăm chú nhìn vào Cừu Thiên Xích, vội vàng chạy lại gần Tiểu Long Nữ, tay mặt đưa thuốc, tai trái vạch tấm lụa đỏ che mặt cô dâu nói nhỏ:
- Việc chi cô nương phải che mặt như thế?
Tiểu Long Nữ nhận ra chàng, vừa mừng vừa sợ vội hỏi:
- Cậu vẫn mạnh giỏi đấy chứ?
Tiễu Long Nữ biết rõ lòng dạ Công Tôn Chỉ ác độc vô cùng. Nếu nàng cự tuyệt nhất định lão sẽ giết Dương Qua ngay. Hôm nay bỗng nhiên thấy chàng tới đây, thì đinh ninh rằng Công Tôn Chỉ đã giứ đúng lời hứa, giải độc cho Dương Qua và tha chàng tìm tới gặp mình.
Dương Qua đưa thuốc kề miệng nàng giục:
- Cô nương hãy uống liền lẹ lên đi.
Tiểu Long Nữ không hiểu chi hết, nhưng nghe chàng giục gấp cũng nuốt ngay. Thuốc vừa chạy qua khỏi cổ, nàng thấy toàn thân mát rượi, tinh thần sảng khoái vô cùng.
Lục Ngạc thấy vậy vội gọi chàng hỏi lớn:
- Dương huynh, sao anh đưa cả cho Long cô nương mà không uống viên nào hết?
Tiểu Long nữ nghe nói hiểu ngay vội hỏi gặng lại:
- Cậu chưa uống thuốc giải độc sao?
Trong cảnh rối loạn này, Công Tôn Chỉ thấy Dương Qua lại tới phá rối, muốn tìm cách can ngăn, nhưng ngặt có người khách lạ kỳ quái này nữa nên chưa dám động thủ ra sao.
Dương Qua giật chiếc mũ thêu phượng trên đầu Tiểu Long Nữ xé nhỏ ném xuống đất, kéo nàng và nói khẽ:
- Để lát nữa cô nương xem. Hôm nay lão động chủ sẽ bị điên đầu với câu chuyện sắp xảy ra.
Lòng Tiểu Long Nữ rối beng, không biết nói gì hơn, chỉ đứng tựa bên chàng thổn thức. Mã Quang Tổ thấy Dương Qua bất ngờ lại xuất hiện, bèn chạy lại lớn tiếng hỏi thăm. Doãn Khắc Tây xưa nay vốn nghe oai danh Cừu Thiên Nhận và có lòng ngưỡng mộ từ lâu. Hôm nay tình cờ được gặp, lão mừng rỡ muốn tìm cách làm quen giao hảo, nên lễ phép chắp tay vái dài một cái thưa lớn:
- Hôm nay là ngay vui mừng nhất đời của Công Tôn động chủ, xiu Cừu lão tiền bối hãy cùng chúng tôi uống cốc rượu mừng.
Cừu Thiên Xích trỏ vào Công Tôn Chỉ hỏi:
- Ông có biết hắn có liên hệ gì với tôi không?
Doãn Khắc Tây đáp:
- Quả tình tôi không được biết.
Cừu Thiên Xích nói:
- Vậy ông cứ hỏi y tự khắc biết ngay.
Công Tôn Chỉ bực mình quá hỏi lại:
- Có phải ngài là Thiết chưởng thủy thượng phiêu thật không? Miệng hỏi ông vỗ tay và hướng về phía bọn đệ tử nói:
- Chúng bay vào phòng ở bàn phía đông mang cái hộp đem ra đây.
Lục Ngạc lúc nào tinh thần cũng dao động chẳng nói năng gì hết. Nàng thẫn thờ đứng một bên rồi kéo mẹ cùng ngồi xuống ghế.
Công Tôn Chỉ nhìn Lục Ngạc và Dương Qua lạ lùng tự hỏi:
- Hai đứa này đã sa xuống hầm cá sấu, nhưng tại sao còn sóng sót về đây? Ai cứu chúng thoát chết? Cũng lạ thiệt!
Ngay lúc ấy, bọn đệ tử áo xanh mang ra một cái hộp trình lên. Công Tôn Chỉ tiếp lấy rồi mở ra, rút một phong thư lạnh lùng nói:
- Trước đây vài năm tôi có nhận thư của Cừu Thiên Nhận gởi. Nếu ngài là Cừu Thiên Nhận thiệt, thì chẳng lẽ lá thư này là giả hay sao?
Nghe nói bà Cừu Thiên Xích bỡ ngỡ và ngạc nhiên quá, nghĩ bụng:
- Lâu quá không có tin tức gì về anh ta, chẳng hiểu tại sao lại gửi thư cho lăo mọi này? Không biết trong thư nói gì đây, rắc rối nhỉ.
Suy nghĩ một khắc bà bỗng nghiêm giọng mắng lớn:
- Ngươi chớ đặt điều nói láo. Ta chưa bao giờ có gửi thư hết.
Vừa nghe giọng nói sau, Công Tôn Chỉ bỗng nhớ lại giọng nói của một người và cảm thấy rùng mình, lạnh cả xương sống. Ông lẩm bẩm:
- Không lẽ là mụ được? Ta đã cắt hết gân, bỏ vào hang kia, bây giờ có lẽ cũng đã mục xương rồi. Nhưng tại sao tiếng nói giống quá như vậy? Nếu không phải thì là ai đây?
Tuy phân vân như vậy nhưng ông không biết giải quyết ra sao, đành lấy thư ra đọc: "Anh tin cho hai em Chỉ và Xích được rõ: Từ ngày đại ca bị chết dưới tay Quách Tỉnh trên núi Thiết Chưởng, do vợ y là Hoàng Dung giúp sức thì..."
Vì tình cốt nhục bị xúc động quá mãnh liệt nên khi nghe đọc tới đây Cừu Thiên Xích không suy nghĩ gì hết, quát lớn:
- Vô lý tại sao dám bảo đại ca ta bị giết? Vô lý!
Ngay từ khi còn thơ ấu, Cừu Thiên Xích và Cừu Thiêu Lý hợp tính tình nhau và thương yêu thắm thiết, cho nên khi nghe tin Lý chết, bà đau đớn như xé ruột banh gan quát lớn câu trên. Nhưng vì thiếu bình tĩnh, đã để lộ ra tiếng đàn bà rõ rệt.
Công Tôn Chỉ vốn con người lanh lợi man trá, khi nghe tiếng nói đàn bà thì đoán ngay nhất định kẻ này không phải là Cừu Thiên Nhận". Tuy nhiên lão vẫn tiếp tục đọc hết bức thư: "Thằng anh này rất ăn năn và xấu hổ đối với hai em về hành động của hai mươi năm trước, do sự cố chấp khiến cho huynh đệ bất hòa, tan rã tình cốt nhục. Trăm điều tội lỗi cũng tại nơi anh mà ra cả. Lắm đêm trằn trọc không ngủ được, anh thiết nghĩ đối với anh Cả, anh làm không tròn nghĩa vụ đứa em, đối với em gái anh cũng không xứng là người anh nữa. Kỳ luận kiếm Hoa sơn lần thứ hai, anh may mắn được Nhất Đăng đại sư giác ngộ, bỏ hết gươm đao, quy y tam bào. Tục duyên chưa cắt đứt, hiềm vì thời gian nương mình dưới bóng từ bi chưa bao lâu, anh tự thấy mình vẫn chưa trút hết những tham vọng vô lý của trần ai. Lắm khi thả hồn theo tiếng chuông câu kệ, anh chợt nhớ lại người anh hiền và đứa em thảo, cũng chỉ có cách gửi tình thương nỗi nhớ theo gió trăng và dĩ vãng. Anh chỉ biết cầu mong cho anh cả chóng siêu thăng miền cực lạc và em gái của anh sẽ hưởng muôn điều
hạnh phúc trong cõi trần ai".
Lắng nghe đọc thư, Cừu Thiên Xích thương anh quá không cầm được giọt lệ, và khi đọc xong bức thư, bà không còn dằn tâm được kêu lớn:
- Đại ca ơi, anh chết rồi sao? Nhị ca ơi, anh có hiểu cho em của anh bị bao điều cơ cực như thế này không?
Nói xong bà gỡ chiếc mặt nạ xuống hỏi lớn:
- Công Tôn Chỉ, mi có nhận ra ta chăng?
Câu hỏi của bà làm rung động không khí như trận cuồng phong khiến bảy tám cây đèn trong phòng phải lung linh rồi tắt ngấm. Còn mấy cây tuy còn cháy nhưng không đủ ánh sáng rọi rõ trong nhà. Trong cảnh nửa tối nửa sáng, mọi người nhìn lại kẻ này là một bà lão. Ai ai cũng đều ngơ ngác lạ lùng, vì thật ra không một ai biết bà lão ấy là ai hết. Có nghi ngờ không biết đó là người hay là ma quỷ?
Bỗng trong đám người hầu, có một lão bộc nhảy xổ tới trước mặt bà la lớn:
- Trời ơi lão mẫu. Chủ mẫu ơi, người còn sống đến nay hay sao?
Cừu Thiên Xích gật đầu đáp:
- Phải, ta đây. Té ra Trương Nhị Thúc cũng còn nhận ra được ta hay sao?
Lão bộc vốn người thẳng cương trực, thấy chủ mình còn sống mừng rỡ quá mức, chắp tay bái lia lịa rồi nói:
- Ơn trời phật phù trì lão chủ vẫn còn sống thật là điều quý hóa.
Công Tôn Chỉ lớn tiếng bảo:
- Mọi người hãy tránh ra cho ta xem lại.
Ai nấy đều ngạc nhiên nhìn lại thì thấy ông ta đưa tay chỉ vào mặt Cừu Thiên Xích hét lớn:
- Nữ tặc, mi ở đâu về đây? Ngày nay mi còn mặt mũi nào về nhìn lại mặt ta nữa?
Lục Ngạc thấy cha thịnh nộ, rón rén lại gần quỳ xuống ôm chân cha năn nỉ:
- Con xin cha tha lỗi cho mẹ con.
Công Tôn Chỉ trợn mắt thét lên một tiếng vang trời:
- Khốn kiếp, hãy cút đi.
Rồi bất thình lình, lão tung ra một ngọn cước như trời giáng, bắn tung cả thân hình ngà ngọc mảnh mai của Công Tôn Lục Ngạc bay lộn lên không và bay vút vào giữa mặt Cừu Thiên Xích.
Bị cắt đứt gân cốt, tê liệt trên mười năm trời, Cừu Thiên Xích còn hơi sức đâu chống đỡ nổi, đành hứng lấy ngọn đòn ác nghiệt rồi bật ngửa ra sau đập mặt vào tường, huyết lưu mãn địa.
Thấy cảnh thương tâm diễn ra trước mắt quá ư tàn nhẫn, Dương Qua không chịu được nữa. Chàng định ra tay can thiệp. Nhưng Tiểu Long Nữ đã rút tay mình ra khỏi tay chàng, lao vút một cái như một bóng mờ đáp tới cạnh Cừu Thiên Xích, đưa ngón tay trắng muốt như ngọc điểm nhẹ trên huyệt "ngọc chẩm" sau ót bà để cầm máu lại.
Dương Qua cũng nhảy theo, xé vạt áo ra băng bó vết thương cho bà Cừu Thiên Xích.
Thấy hai người lại xoắn xít lấy nhau, cơn ghen nổi dậy đùng đùng, định quát mắng, thì Tiểu Long Nữ đã quay lại trừng mắt nhìn ông hỏi lớn:
- Công Tôn Chỉ, bà này là vợ chính của mi mà mi nỡ đang tâm tàn nhẫn với người ta như vậy sao? Mi đã có vợ tại sao còn cưới ta nữa? Nếu ngày nay ta ưng mi thì mai hậu cũng sẽ bị mi đối xử tàn ác như thế mà thôi.
Tiêu Tương Tử ngồi tận trên hàng cao nhất, nghe nói gõ nhẹ cái thìa xuống mặt bàn tán thưởng:
- Nàng nói nghe chí lý quá!
Bị bêu xấu quá, Công Tôn Chỉ tím mặt không biết đáp ra sao. Lão thối lui vài bước. Lật phắt chiếc thảm nhung trải giữa nhà rút cặp "âm dương song đao" rồi hét lớn:
- Ta nhất định liều chết cùng bọn bay phen này.
Tiểu Long Nữ cười nhạt một tiếng rồi thò tay vào chiếc áo thêu phụng của cô dâu, rút ra một thanh kiếm đen như huyền.
Toàn thể quan khách sửng sốt thấy cả chú rể và cô dâu thảy đều có dự bị sẵn khí giới ngay trong buổi lễ hợp cẩn. Quả thật là một chuyện thế gian hi hữu. âu cũng là một chuyện ngang trái của tình đời.
Dương Qua thấy vậy reo lên mừng rỡ. Chàng mừng không phải vì gặp cặp kiếm quý mà vì được thấy cô nương quyết tâm đánh với lão già ác ôn để cứu mình.
Chàng kính cẩn tiếp lấy thanh "quân tử" kiếm từ trong tay mỹ nhân trao sang, lùi lại hai bước chuẩn bị trận thế "Song kiếm liên hoàn" để đối địch. Vì đã từng nếm qua những đường kiếm tinh diệu của kiếm pháp này nên ngay sau khi vào trận, Công Tôn Chỉ đã áp dụng ngay những thế võ hết sức hiểm độc, xưa nay chưa từng thấy để áp đảo cấp tốc đối phương trong thời gian ngắn. Quả đúng theo điều lão tiên liệu, ngay trong mấy hiệp đầu lão đã dồn ép cả Dương Qua và Tiểu Long Nữ trong thế bị động, đường kiếm lúng túng không thi thố được gì hết và đã lâm vào thế hạ phong rõ rệt. Dần dần hai người phải đấu lưng vào nhau và đứng lùi vào một góc phòng.
Trong khi hàng trăm quan khách đang mải mê theo dõi trận đấu, thình lình có một tiếng rít lên như lụa xé. Tiểu Long Nữ phi thân lao vút ra trận chiến như làn điện xẹt. Chiếc áo cô dâu đang mặc đã rách toạc một đường dài và máu tươi phun dầm dề trên vai tả.
Thấy người yêu bị thương không chiến đấu được nữa, Dương Qua đau lòng như dao cắt, chàng thét lên môt tiếng thanh thoát rồi thay đổi kiếm pháp quyết tử chiến cùng Công Tôn Chỉ.
Phía đầu phòng, Lục Ngạc dần dần tỉnh dậy. Nàng lết lại kéo một chiếc ghế cho mẹ ngồi rồi xé áo băng cho Tiểu Long Nữ. Lúc ấy Dương Qua đã bỏ hẳn kiếm pháp của Toàn Chân phái, sử dụng Ngọc nữ tâm kinh quyết chiến.
Công Tôn Chỉ thấy những đường kiếm của Dương Qua hoàn toàn đổi hẳn, mới trong mấy phút mà hình như có hai ngươi khác nhau. Nhiều thế kiếm vừa tinh kỳ vừa bóng bẩy lả lướt nhưng tựu trung có một sức mạnh phi thường, ông cũng phải thầm khen bản lãnh chàng quả đáng nể. Nhưng chỉ trong vòng mươi hiệp, Dương Qua đã dần dần núng thế, mắt nổ đom đóm, mồ hôi ra như tắm, tay chân đã bắt đầu luống cuống.
Trong lúc mười phần nguy biến, bỗng nhiên Cừu Thiên Xích nhắc lớn:
- Đao không phải đao, kiếm chẳng phải kiếm!
Câu nói ấy không khác nào một lằn chớp nhoáng đang rọi sáng trong đầu óc Dương Qua đang tối đen và bối rối. Như người vừa chợt tỉnh cơn mê, chàng đã nhận thấy võ thuật của Công Tôn Chỉ là một lối võ hư hư thực thực, tráo trở vô cùng, chỉ chuyên môn làm rối trí đối phương. Ngọn đao nặng nề của ông chỉ sử dụng toàn những ngón nhẹ nhàng lả lướt, quả là những đường gươm tuyệt diệu. Nhưng trái lại thanh kiếm mỏng manh nhẹ nhàng của ông lại luôn luôn chém ngang chặt dọc, toàn là những thế hùng mạnh và cứng nặng của môn đại đao.
Nhờ nhận thức được bí quyết này mà Dương Qua đã tránh né được dễ dàng hai thế tuyệt kỹ của Công Tôn Chỉ. Lòng hân hoan mừng rỡ, Dương Qua cảm thấy tinh thần càng phấn khởi, bắt đầu mở cuộc tấn công. Trong khi ấy bỗng tiếng quát của Cừu Thiên Xích lại nổi lên the thé:
- Tấn công đùi bên tả, mau lên, tấn công ngay tức khắc.
Dương Qua như một cái máy tuân theo lệnh của tài xế, vội hoành thân qua một bên tấn công ngay vào đùi bên trái. Tức thì Công Tôn Chỉ hạ ngang thanh đao xuống chận đòn. Trong khi ấy vai bên trái của ông ló ra vô cùng trống trải. Không chờ Cừu Thiên Xích mách nữa, Dương Qua lập tức quay ngược thanh quân tử kiếm đâm thốc từ dưới lên trên, đâm ngay bả vai, nhưng Công Tôn Chỉ đã lanh chân trốn thoát được. Tuy vậy nhưng mũi kiếm đã rạch thẳng một đường ngay trên chiếc áo rộng xanh của chàng rể. Công Tôn Chỉ nổi nóng, chửi đổng mấy câu rồi trừng mắt nhìn thẳng vào mặt Cừu Thiên Xích hình như muốn ăn gan uống máu bà mới đã. Lão hậm hực nghiến răng rít lớn:
- Con mọi già, mi hãy xem ta phen nầy. Ta không thể nào để mi sống sót nữa.
Nói xong hắn vũ lộng hai môn vũ khí tấn công Dương Qua tới tấp. Dương Qua vừa chống đỡ thêm một hiệp thì Cừu Thiên Xích lại quát to:
- Đá móc vào hậu tâm lập tức. Đá mau.
Trong khi đấu cùng một tay cao thủ tài nghệ cao hơn mình mà bảo đá vào hậu tâm thì quả là một điều mạo hiểm quá đáng. Nhưng vì Dương Qua quá tin tưởng vào bà Cừu Thiên Xích, nên khi vừa nghe xong đã áp dụng ngay thuật khinh công lòn ra sau, đá móc vào ngay hậu tâm Công Tôn Chỉ nghe vút một cái. Công Tôn Chỉ hoảng hốt vội lật lưỡi kim đao đâm ngược ra sau để bảo vệ hậu tâm, nhưng trái lại để trống phía trước mặt. Đã thất bại chuyến trước, lần nầy Dương Qua rút kinh nghiệm thận trọng hơn quay vòng mũi gươm lại thích mạnh vào ngay chỗ hở. Lần này Công Tôn Chỉ hết phương tránh né, đành nhận lấy một đòn vô cùng hiểm ác. Lưỡi gươm của Dương Qua đâm thủng qua hai lần áo, ghìm luôn vào bả vai, máu tuôn xối xả. Toàn thể cử tọa đều ngạc nhiên, cùng "ồ" lên một tiếng rất to, rồi đều đứng dậy một lúc, hình như quá ngạc nhiên về cái thảm hại của Công Tôn Chỉ.
Công Tôn Chỉ mặt mày biến sắc, mồ hôi xuất dầm dề, phải bước lùi ra sau trên năm bước, giữ vững tinh thần rồi mới tiếp đấu lại được. Lúc bấy giờ cả đôi bên đã thấm mệt, tiến thoái qua lại không còn lanh lẹ như trước nữa, cuộc tranh tài cũng gần tới giờ kết liễu. Hễ bên nào sơ hở trên đường tơ kẽ tóc sẽ nếm mùi thất bại ngay.
Nàng Lục Ngạc lo sợ quá ghé vào tai mẹ nói nhỏ:
- Mẹ ơi, nên bảo họ dừng tay lại cho rồi.
Cừu Thiên Xích hử một tiếng rồi bảo lớn:
- Hãy rót cho ta hai cốc nước, mau lên.
Lục Ngạc tuy chưa biết mục đích để làm gì nhưng trong lúc tinh thần căng thẳng vội vàng tuân lệnh ngay. Nàng chạy ra ngoài rót hai cốc nước đầy mang vào.
Cừu Thiên Xích lặng lẽ tháo chiếc băng quấn đầu, vết thương lại ứa máu tuôn ra từng giọt.
Lục Ngạc thất sắc vội gọi lớn:
- Mẹ, tại sao thế?
Nhưng Cừu Thiên Xích trợn mắt bảo:
- Hãy nín im, đừng nói gì hết.
Mặc Lục Ngạc há hốc mồm nhìn theo, mặt đầy kinh ngạc, bà lẳng lặng vắt chiếc băng máu nhỏ mấy giọt vào hai cốc nước rồi gọi lớn:
- Thôi cả hai đều có vẻ mỏi mệt lắm rồi. Xin hãy dừng tay tạm nghỉ và uống chén trà giải lao.
Nói xong bà nhìn Công Tôn Lục Ngạc bảo như ra lệnh:
- Hãy bưng trao cho hai người mỗi người một cốc trà để giải khát, mau lên.
Sau trận kịch chiến của hai đấu thủ đã mệt mỏi thở dốc, mồ hôi ướt đẫm mình, miệng khô cổ rát, khát nước quá sức. Khi nghe nói được giải khát ai ai cũng lộ vẻ vui mừng và chờ đợi.
Công Tôn Lục Ngạc bưng hai cốc trà vào giữa sảnh đường cung kính dâng lên. Công Tôn Chỉ ái ngại nhìn hai cốc trà, bụng nghĩ thầm:
- Phải xem chừng, có pha thuốc độc vào đấy rồi cũng nên.
Suy nghĩ xong, lão đưa mũi gươm khoát mấy cái rồi trỏ vào Dương Qua nói:
- Hãy mang lại cho hắn uống trước.
Dương Qua thản nhiên tiếp lấy cốc trà sắp đưa lên miệng. Công Tôn Chỉ bỗng quát lớn:
- Hãy khoan. Để lại cốc này cho ta.
Nói vừa dứt lời, y đưa tay cướp lấy cốc trà trên tay Dương Qua, sẽ liếc qua nhìn mặt Lục Ngạc thấy vẫn điềm nhiên tươi tỉnh không lộ nét nào đáng nghi ngại thì lão bưng cốc trà uống luôn một hơi cạn ráo rồi ném cái cốc không lại giữa sảnh đường thét lớn:
- Thôi, hãy đấu lại lập tức khỏi cần phải nghỉ ngơi nữa.
Nói xong tay vung binh khí, hùng hổ tấn công ngay. Nhưng Cừu Thiên Xích đã cười một tràng dài rùng rợn và thét lớn:
- Này Dương Qua cháu, phép vận công bế huyệt của lão này ta đã phá mất rồi, vậy cháu cứ tấn công vào các yếu huyệt hắn cho rồi đời.
Nghe câu nói ấy, Công Tôn Chỉ có cảm giác như tiếng sét đánh lưng trời, rồi một mùi máu tanh bỗng xông lên trong miệng, đầu lưỡi nghe tê tái, cổ họng muốn lợm mửa. Lão kinh hoàng muốn đổ mồ hôi hột, vì theo phép bế huyệt của lão thì tuyệt đối kỵ máu tươi, nếu lỡ nếm một giọt máu nhất định bao nhiêu công phu thảy tan theo mây khói hết. Cũng vì vậy mà xưa nay lão ra nghiêm lệnh cho toàn thể những người trong động Thủy Tiên phải ăn chay trường tất cả. Mặc dù đã phòng bị như vậy, nhưng không ngờ hôm nay chỉ sơ hở một chốc mà công phu khổ luyện trong mấy chục năm trường đã trôi theo dòng nước hết. Nhưng cơn giận vừa thoáng qua, xem thêm những cảm giác cả lo lắng và mến tiếc, tiếc bao công phu của mình cũng như tiếc vì kẻ hỏi mình lại là Cừu Thiên Xích. Lửa giận bốc lên ngùn ngụt, Công Tôn Chỉ liếc mắt thấy Cừu Thiên Xích đang nằm ngửa trên một cái ghế bành, tay bưng một đĩa lệ chi nhai ngấu nghiến có vẻ ngon lành lắm.
Bà thản nhiên nói:
- Ta đã truyền cho mi phép "vận công bế huyện" này, thì ngày nay chính ta phá hủy công phu ấy của mi, kể ra cũng không có gì là lạ và đáng tức cả.
Công Tôn Chỉ tức quá lịm người, đôi mắt đỏ ngầu và long lên sòng sọc nhìn thẳng vào Cừu Thiên Xích như muốn nhảy xổ lại ăn tươi nuốt sống bà ta mới hả dạ.
Lão hét lên một tiếng thật lớn, phi thân lao vút về phía ấy, quyết sống chết một lần cùng Cừu Thiên Xích.
Lục Ngạc hoảng hốt, vội vàng nhảy xổ ra chận giữa hai người để tìm cách can gián. Nhưng chân nàng chưa chạm đất đã nghe tiếng ám khí bay vút xé không khí qua cạnh tai, và tiếp theo đó là tiếng thét hãi hùng của Công Tôn Chỉ. Nàng định nhỡn nhìn lại thấy cha mình tay chân xuội lơ, buông rơi hai món vũ khí đánh choang xuống đất rồi bụm mặt chạy dài ra cửa trước. âm thanh thét dội qua các vách núi trong động Thủy Tiên chưa dứt, thì bóng của Công Tôn Chỉ đã khuất dạng sau bức màn đêm âm u của rừng thẳm.
Thấy Công Tôn Chỉ chạy đi rồi, Dương Qua bỗng sực nhớ lại một chuyện. Chàng thò tay vào túi lấy ra một viên thuốc, bảo nhỏ Tiểu Long Nữ:
- Cô nương hãy há miệng ra.
Lời nói của chàng có một ma lực rất mạnh khiến cho mỹ nhân riu ríu nghe theo. Nàng mỉm cười, từ từ hé hai làn môi thắm như hoa hồng, Dương Qua khẽ đặt viên thuốc giữa hai hàm răng trắng trong như ngọc và dịu dàng bảo:
- Nuốt đi!
Tiểu Long Nữ cũng ngoan ngoãn nghe theo và nuốt liền. Viên thuốc vừa qua cổ họng, bỗng có một mùi thơm nhè nhẹ như xạ hương xông lên tận mũi, và trong châu thân có một cảm giác mới mẻ chạy khắp nơi, khí huyết luân chuyển mạnh, và cân não trở lên khoan khoái sáng suốt vô cùng.Tiểu Long Nữ vừa mừng vừa ngạc nhiên đắm đuối nhìn chàng hỏi nhỏ:
- Thuốc gì lạ vậy?
Dương Qua đáp:
- Tuyệt tình đan đấy.
Chàng vừa nói dứt lời bỗng Lục Ngạc hoảng hốt hỏi lại:
- Trời, anh đưa hết cho nàng, chứ không chịu uống, thì làm sao giải độc cho anh được hở Dương huynh?
Tiểu Long Nữ nghe qua bao nhiêu đó đã hiểu ngay là Dương Qua đành cam tâm hy sinh phần mình để dành viên thuốc duy nhất giải độc Tình hoa cho mình. Nàng cảm động quá, không biết nói gì hơn, chỉ nhìn chàng sửng sốt rồi hai tay siết chặt lấy tay chàng, trong lòng vừa sung sướng vừa đau khổ. Nàng sung sướng vì thấy người mình yêu đã hy sinh tuyệt đối, không kể mạng sống để cứu mệnh. Nàng buồn là vì hiện nay không còn một phương thuốc nào khả dĩ trục hết nọc độc và một ngày gần đây chàng sẽ thảm tử bỏ cõi đời.
Hai người cứ lẳng lặng bước ra, tay trong tay, đầu óc bâng khuâng không định hướng. Nhưng khi Dương Qua vừa bước chân ra khỏi ngạch cửa, bà Cừu Thiên Xích đã quát lớn:
- Dương Qua, cháu đi đâu vậy?
Dương Qua từ từ quay lại, chắp tay xá bà một xá thật dài, miệng lễ phép thưa:
- Thưa lão bà và cô nương, xin cho phép cháu được đi khỏi chốn này.
Bà Cừu Thiên Xích quát lớn:
- ủa, ta đã hứa gả con gái ta cho mi rồi, sao mi chưa gọi ta là nhạc mẫu mà giờ nầy lại còn định bỏ đi đâu nữa?
Dương Qua cười thầm và nghĩ bụng:
- Bà hứa gả con cho ta, nhưng ta đã nhận lời đâu mà vội chất vấn như vậy. Bà nầy ngang thật.
Nghĩ xong, tay trái chàng cầm tay Tiểu Long Nữ, tay phải để nơi chuôi thanh "Quân tử kiếm" nghiêng mình thưa rằng:
- Thưa lão bà, cháu luôn luôn ghi nhận lòng hảo tâm của lão bà đối với cháu. Nhưng tiếc rằng tim cháu đã trót gởi cho cô nương Tiểu Long Nữ từ lâu, kính xin lão bà và cô nương thứ lỗi cho.
Lục Ngạc lòng đau như kim châm, nhưng nàng cố gắng thưa với mẹ:
- Mẹ ơi, Dương huynh và Long cô nương đã hứa hôn cùng nhau từ trước rồi, xin mẹ đừng bận tâm nữa. Ngày mai mẹ con mình sẽ lên đường đi tìm cậu của con nhé. Mẹ tính sao?
Vừa nghe con gái nhắc tới mấy chữ "đi tìm cậu con" bà Cừu Thiên Xích thấy cõi lòng quặn thắt vì tình cốt nhục phân ly. Cứ theo trong thư thì Cừu Thiên Lý đã bị vợ chồng Quách Tỉnh sát hại rồi. Bà đối với anh cả có nhiều cảm tình tha thiết hơn anh hai. Nên đối với Quách Tỉnh bà đã thấy có một mối thù không đội trời chung cần phải thanh toán. Bỗng bà nghĩ ra một kế nên cười gằn nói:
- Dương Qua, cháu có biết cháu sắp từ giã cõi đời chăng?
Nghe nói, Dương Qua sực nhớ lại mình đã bị chất độc của tình hoa xâm nhập vào cơ thể quá nhiều, chỉ trong vòng ba mươi sáu hôm phải chết nếu không được uống Tuyệt tình đan. Chàng chán nản buồn rầu, không biết nói sao chỉ thở dài và siết chặt bàn tay mềm mại của Tiểu Long Nữ hình như sợ nàng sẽ biến mất đời đời. Nhưng bà Cừu Thiên Xích đã thò tay vào túi lấy ra một viên thuốc vuông màu đen lấp lánh đưa lên cao. Dương Qua vừa trông thấy mừng quá rú lên:
- ủa, lão bà cũng còn tuyệt tình đan sao?
Cừu Thiên Xích cười hà hà đáp:
- Còn chứ, nhưng chỉ còn một viên duy nhất này mà thôi, Dương Qua, ta nhận cho cháu viên này để cứu mạng cháu nhưng trái lại cháu phải giúp tạ thực hiện được một điều...
Không khác gì người chết đuối vớ phải bè chuối, Dương Qua vội hỏi:
- Lão bà cần việc gì, xin cứ nói ra xem?
Cừu Thiên Xích nhìn thằng vào mặt chàng nói:
- Ta cần thủ cấp hai người.
Dương Qua bàng hoàng nhìn Tiểu Long Nữ không hiểu gì hết. Trong khi ấy bà Cừu Thiên Xích nói tiếp:
- Ta không hiểu nhà ngươi có liên hệ gì tới hai người ấy hay không, nhưng ta nhất định phải thanh toán tánh mạng họ để trả thù, vì họ đã nhẫn tâm giết hại anh cả của ta.
Để khích động sự thèm muốn của Dương Qua, bà mân mê viên thuốc dồi lên dồi xuống trong bàn tay rồi nói tiếp:
- Cháu có biết hai người ấy không? Họ chính là Quách Tỉnh và vợ là Hoàng Dung đó.
Dương Qua mừng rỡ nói lớn:
- ồ thế thì hay lắm. Việc này sẽ nhất cử lưỡng tiện, vì đối với họ, cháu cũng có một mối thù lớn. Họ đã sát hại cả cha và mẹ cháu.
Cừu Thiên Xích tươi hẳn nét mặt, đưa ngay viên thuốc cho Dương Qua. Chàng tiếp lấy xem lại thì thấy chỉ có nửa viên thôi. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc, chàng mỉm cười hỏi bà với một giọng lạnh lùng chua chát:
- Phải có đủ thủ cấp của hai người mới đổi được nửa viên thuốn kia phải không?
Bà Cừu Thiên Xích cười lớn gật đầu nói:
- Đúng lắm, hay lắm cháu quả thông minh tuyệt vời, đoán trúng ý muốn của ta.
Dương Qua ngẫm nghĩ:
- Việc tới đâu hay tới đó, bây giờ ta cứ uống nửa viên này, rồi hạ hồi phân giải.
Nghĩ xong, chàng bỏ luôn nửa viên thuốc vào miệng nuốt luôn.
Bà Cừu Thiêu Xích nhìn chàng thong thả nói từng tiếng một, với một giọng nói thật trịnh trọng:
- Đây là viên thuốc giải độc tình hoa duy nhất còn sót lại trên thế gian này. Cháu đã uống được một nửa rồi. Còn một nửa ta cất kỹ nơi đây. Sau mười tám hôm, cháu cố gắng mang hai cái thủ cấp kia lại đây để đổi, nếu không có thì không thể nào nhận được thuốc đâu nhé. Bây giờ chúng ta tạm biệt nhau, mười tám hôm nữa sẽ gặp lại nhé.
Nói vừa dứt lời bà ngồi dựa người trên chiếc ghế bành hai mắt nhắm nghiền như nhập định.
Tiểu Long Nữ lạ lùng quá lẩm bẩm:
- Tại sao lại chỉ có mười tám hôm thôi?
Cừu Thiên Xích vẫn nhắm mắt nhưng miệng đáp:
- Theo lẽ thì phải ba mươi sáu ngày nọc độc mới phát. Nhưng vì Dương Qua đã uống hết nửa viên, cho nên bao nhiêu chất độc đều tụ hết về đan điền, thời gian cũng được rút ngắn lại phân nửa. Sau mười tám ngày phải
uống tiếp thêm nửa viên khác để trừ nọc, nếu không thì nọc độc sẽ phát lên công phạt, chừng ấy thì...
Nói tới đây bà ngừng bặt rồi đưa tay ra dấu tống khách. Cả hai thấy vậy biết rằng dù có nói nhiều cũng vô ích nên lặng lẽ đi ra luôn. Dương Qua tóm lại con ngưa ốm của mình, rồi cả hai cùng lên yên theo đường lớn ra khỏi động Thủy Tiên.
-
Chương 53 - Quyết Lấy Đầu Quách Tỉnh - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 53 - Quyết Lấy Đầu Quách Tỉnh
Khi hai người cưỡi ngựa ra khỏi thung lũng thì trời vừa hửng sáng, ánh hồng đã le lói phương đông, chim rừng ríu rít bay từng đoàn và trên đường cỏ hãy còn đẫm sương mai ướt át. Quay đầu nhìn lại phía sau thấy quang cảnh lòng chảo của động Thủy Tiên tưng bừng đón nắng mai rực rỡ, Dương Qua bồi hồi nhớ lại nhứng giờ phút sống chết và nguy hiểm đã cùng người ngọc sống nơi đây suốt ba ngày qua, trong lòng thấy bàng hoàng cảm động.
Tiểu Long Nữ cảm thấy trong lòng ấm áp rộn rực, nàng áp người vào ngực Dương Qua cho hơi nóng chan hòa, không nói tiếng gì hết. Dương Qua, một tay cầm cương, một tay ôm ghì lấy tấm thân dịu dàng mảnh khảnh của người yêu, run run vì hồi hộp và sung sướng. Nhìn xuống, thấy nàng đang nhoẻn miệng cười tươi như đóa hoa hồng hé nở dưới nắng ban mai chàng khẽ gọi:
- Cô... Cô... nương!
Tiểu Long Nữ âu yếm nói:
- Thôi, từ nay khỏi gọi bằng cô nương nữa.
Dương Qua cảm thấy tâm hồn lâng lâng như muốn bay bổng lên mấy từng mây. Chàng lim dim đôi mắt như để tận hưởng giây phút say sưa bên cạnh người ngọc và thả hồn trôi về dĩ vãng, chàng lẩm bẩm:
- Trong đời tôi, những ngày rực rỡ nhất là thời gian cùng chung sống trong Cổ Mộ. Đó là những ngày đầm ấm nhất và nên thơ nhất, và cũng là những ngày đáng ghi nhớ nhất đã nuôi dưỡng và làm trưởng thành cả mối tình mãnh liệt và cao thượng nhất ngày nay. Hồi ấy tôi gọi bằng cô nương, thì về sau và mãi cho đến khi trút hơi thở cuối cùng tôi cũng thích được xưng hô bằng cô nương mà thôi. Cô nương... cô nương...
Luồng gió nhẹ thoảng qua, đem lại một mùi hương thơm của cây nội hoa ngàn, hòa lẫn với mùi thơm da thịt từ trong mình Tiều Long Nữ phát ra khiến cho chàng càng say sưa ngây ngất.
Đang đi nước kiệu, con ngựa bỗng vấp phải một viên đá nhủi tới gần té Dương Qua vội vàng ghìm cương đứng lại và nhìn xuống thấy đôi mắt nàng long lanh đẫm lệ. Chàng giật mình vội hỏi:
- ủa, tại sao cô nương lại khóc?
Nghe hỏi, Tiểu Long Nữ bỗng òa lên khóc lớn. Nàng khóc nức nở không nói được. Mãi một hồi lâu nàng rúc đầu vào vai chàng nói nhỏ:
- Chúng ta chỉ gần nhau được mười tám hôm nữa mà thôi.
Bao nhiêu câu đó đã diễn tả hết lòng nàng. Dương Qua chợt hiểu, cảm động, đưa tay đỡ nhẹ chiếc cằm thon thon, nhìn thẳng vào khuôn mặt sáng rực rỡ như ngọc và đôi mắt ướt, lóng lánh đen huyền như đôi mắt bồ câu, cương quyết nói:
- Dù thiên sơn, vạn hải, khổ nhọc tới đâu, tôi cũng quyết tâm lấy cho được hai chiếc thủ cấp của Quách Tỉnh và Hoàng Dung để đánh đổi chuỗi ngày hạnh phúc đời đời của hai ta. Cô nương đừng ngại và lo âu gì hết.
Nói xong chàng âu yếm đặt trên làn môi đỏ mọng một cái hôn đắm đuối.
Trong lúc cả hai đang chìm đắm trong những cảm giác mê ly nhất đời, bỗng đàng xa có tiếng cười ha hả và một giọng nói nổi lên rang rảng:
- Giữa ba quân thiên hạ mà các người cũng cứ tự do, không nể nang ai hết sao?
Dương Qua mắc cỡ đỏ bừng hai má, quay đầu nhìn lại thì không ai lạ, trước mặt đủ cả đoàn người của Kim Luân Pháp Vương, Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử. Lúc bấy giờ hai người mới chợt hiểu, bọn này cũng rời thung lũng Thủy Tiên bám sát theo mình từ lâu mà cả hai vô tình đâu có để ý? Vừa thẹn vừa bực trí, chàng muốn lên tiếng mắng lại, bỗng đâu đàng xa có tiếng vó câu dồn dập, hình như có một đoàn người ngựa rất đông đang tiến lại gần. Từ trong eo núi xông ra một đoàn nhân mã, đi đầu là một vị đại tướng oai phong lẫm liệt tướng mạo phi phàm, khôi giáp rực rỡ, trong tay cầm một cánh cung sắt thật lớn, rõ ràng là đương kim Thái tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt.
Thấy Thái Tử Hốt Tất Liệt bất ngờ xuất hiện, cả bọn vội vàng chạy lại gần, xuống ngựa phủ phục thi lễ.
Hốt Tất Liệt cười ha hả nói lớn:
- Quý vị đi đâu mà suốt ba hôm không về? Ta nóng ruột quá chờ không được, phải đi tìm xem sao, không ngờ may lại gặp đây. Hiện nay chiến cuộc tại thành Tương Dương quá ư khẩn thiết, tôi ngại không gặp lại các ngài cho nên trước khi đi có viết thư đề lại căn dặn, bây giờ gặp nhau càng hay.
Nói xong nhìn qua phía Tiểu Long nữ y nghĩ bụng: "Trên đời sao có mỹ nhân xinh đẹp quá như thế này, cả tam cung lục viện chưa chắc đã có người bì nổi".
Thấy nàng cùng Dương Qua nắm tay ra vẻ trìu mến thân mật lắm, Hốt Tất Liệt nhìn chàng hỏi:
- Nàng là ai vậy?
Dương Qua đáp:
- Đây là sư phụ dạy võ nghệ cho tôi, và cũng là hôn thê của tôi nữa đấy.
Hốt Tất Liệt cười nói:
- Hai người quả thật xứng đôi vừa lứa. Trên đời khó tìm được cặp trai gái nào xứng đôi như thế này.
Kim Luân bèn hỏi qua chuyện lớn:
- Bẩm Thái tử, quân đội ta tấn công thành Tương Dương có thu được kết quả nào hay không?
Hốt Tất Liệt nhăn mặt và rầu rầu đáp:
- Viên tướng thủ thành Tương Dương là Lữ Văn Hoán, tài nghệ đâu đáng ta lưu ý. Nhưng người đáng ngán nhất là Quách Tỉnh, và cũng chỉ có một mình Quách Tỉnh là người đáng sợ nhất cho chúng ta mà thôi.
Nghe nói tới tên Quách Tỉnh, Dương Qua cảm thấy bồi hồi trong lòng, tim đập đồm độp vội hỏi:
- Hiện nay Quách Tỉnh cũng có mặt tại thành Tương Dương hay sao? Hốt Tất Liệt điềm tĩnh trả lời:
- Xưa kia Quách Tỉnh là bạn chí thân của phụ vương ta, đã từng lập những chiến công rực rỡ trong quân đoàn bách thắng của đại quân Mông Cổ. Khi phụ vương ta băng hà có trối lại rằng: "tại miền Nam hiện nay vua tôi nhà Tống không có ai đáng kể, vì vua thì ham mê tửu sắc, thì gian nịnh, binh tướng ươn hèn. Nhưng nếu gặp Quách Tỉnh thì cần phải đề phòng cho lắm. Ngày nay, gặp được Quách Tỉnh rồi ta mới biết những lời di thác của phụ vương là chí lý. Suốt mấy tháng trời nay quân ta công phá thành Tương Dương biết mấy trăm lần, nhưng có Quách Tỉnh thủ thành nên cũng đành bó tay không làm chi được".
Dương Qua vùng đứng phắt dậy thưa rằng:
- Quách Tỉnh đối với tôi có mối đại thù giết cha, vì vậy nên tuy tôi bất tài cũng tình nguyện xin đến thành Tương Dương tìm cách lấy đầu hắn.
Hốt Tất Liệt mừng rỡ nói:
- Hay lắm, lâu nay ta chỉ trông mong có chừng ấy thôi. Nhưng Quách Tỉnh là một người thao lược và võ công song toàn một mình ngươi không làm chi xuể, việc cần phải tập trung nhiều lực lượng phù trợ nữa mới mong thành công được. Khi nào công việc xong ai ai tham gia cũng đều có công lớn cả. Nhưng người nào chính tay giết được Quách Tỉnh thì ta sẽ tâu cùng Hoàng thượng phong cho chức Mông Cổ đệ nhất dũng sĩ.
Đối với bọn Doãn Khắc Tây, Tiểu Tương Tử thì chữ Công Hầu Khanh nào có nghĩa lý gì đâu. Nhưng đối với họ, chức vị "Mông cổ đệ nhất dũng sĩ" mới là điều ước vọng cao quý nhất. Khi nghe Hốt Tất Liệt công bố điều kiện này thì ai nấy đều thấy phấn khởi và hớn hở vô cùng.
Nhưng Tiểu Long Nữ lại nghĩ khác. Nàng liếc mắt nhìn Dương Qua rồi nghĩ bụng: "Công Hầu Khanh Tướng mà chi, đệ nhất dũng sĩ mà làm gì? Ta chỉ cần được một mình Dương Qua, để cùng nhau chung sống mãn đời trong Cổ Mộ là hạnh phúc lắm rồi".
Hàng chục vệ sĩ đem chiến mã lại cho bọn Dương Qua, Kim Luân, Tiêu Tương Tử... lên đường. Toàn bọn nối gót Hốt Tất Liệt buông cương nhằm Tương Dương thành trực chỉ.
Đi suốt ba ngày đêm, bọn nguời đã đi gần tới địa phận thành Tương Dương. Nghe tin Hoàng Thái Tử đích thân chỉ huy cuộc tấn công thành này, tất cả các vị quan văn võ có mặt tại đây thẩy đều tập trung cùng nhau ra cách thành ba chục dặm nghênh đón. Khi Hốt Tất Liệt tới nơi, hơn hai chục vị quan Mông Cổ cùng xuống ngựa phủ phục bên đường. Hốt Tất Liệt gò cương đứng lại nhìn mọi người gằn giọng nói:
- Tại sao đã mấy tháng trời bao vây thành Tương Dương mà không hạ được? Các ngươi muốn đem chôn vùi thanh danh của Đại Mông Cổ nơi chốn này chăng?
Mọi người thất kinh cùng đập đầu xuống đất và đồng thanh thưa lớn:
- Muôn tâu Thái Tử, tội của chúng thần thật đáng muôn thác, xin Thái Tử rộng lòng khoan dung.
Hốt Tất Liệt không nói thêm lời nào, vung roi quất mạnh vào mông ngựa giục mau tới trước. Toàn thể các quan đều gục đầu nhìn xuống đất nín im thin thít chẳng dám nói một lời. Dương Qua thấy Hốt Tất Liệt đối với bọn Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử thật khoan hòa nhân ái, trái lại đối với các quan binh Mông Cồ thì hết sức nghiêm nghị đanh thép, trong lòng hết sức khâm phục, nghĩ rằng: "Người Mông Cồ quân hùng tướng mạnh, kỷ luật sắc bén minh minh, họ đã nhờ vào đó xua quân nam tiến thôn tính đất nước ta. Vua quan nhà Tống ươn hèn nhu nhược như thế thì làm sao chống cự cho lại. Giang san gấm vóc của Tống trào không sớm thì muộn cũng vào tay quân địch mà thôi".
Sáng tinh sương ngày sau, quân Mông Cổ đã cử toàn lực tấn công. Tiếng tù và rúc từng hồi một, tên bắn như mưa rào, ngựa hí vang rân, quân Mông Cổ thừa thế xông tới bên chân thành vác thang leo lên như kiến cỏ. Thình lình một tiếng pháo nổ vang, mõ đánh liên miên vang dội, từ trên đầu tường một đoàn quân cung nỏ thủ, dùng toàn cung cứng tên bén, cùng buông ra một lượt, chận đứng ngay cuộc tấn công ào ạt của địch quân. Tiếp theo đó từ trong thành xông ra một đoàn quân dùng toàn đoản đao đánh xáp lá cà với quân Mông Cổ. Trong đoàn quân ấy ai cũng thấy một vị tướng quân tạc độ trung niên, mình mặc áo dài màu nâu, trong tay không có vũ khí, chỉ múa hai quyền xông xáo, tung hoành trong rừng người, đi tới đâu quan tướng Mông Cổ nhào như rạ. Hốt Tất Liệt đang đứng lược trận phía xa xa trông thấy người ấy quá ư dũng mãnh thì bất giác thở dài than nhỏ:
- Thật bao nhiêu dũng sĩ trên thế gian nầy, chưa một người nào qua mặt được vị anh hùng này. Chẳng hay vị ấy là ai?
Dương Qua đứng cạnh nghe hỏi vội nói:
- Vương gia không biết nguời ấy là ai sao?
Hốt Tất Liệt sửng sốt một chặp và chợt nghĩ lại hỏi gấp:
- Người ấy có phải là... Quách Tỉnh chăng?
Dương Qua đáp:
- Thưa chính là Quách Tỉnh đấy.
Nói tới đây thì mấy trăm quân Mông Cổ đang leo lên thang đã bị đánh bật trở xuống hết, chỉ còn vẻn vẹn có ba viên Bách phu trưởng tay trái cầm khiên, tay phải cầm giáo dài dựa lưng vào vách thành tử chiến cùng binh Tống.
Viên vạn phu trưởng bèn rúc lên mấy hồi (mất 4 trang)
Tiểu nhân này tuy bất tài, nhưng xin phép Vương gia cho tới thành Tương Dương lấy được thủ cấp Quách Tỉnh mang về cho Vương gia.
Hốt Tất Liệt ngẫm nghĩ một chặp rồi nhìn Dương Qua ân cần nói:
- Quách Tỉnh là người dũng lược song toàn, người có đi, xin khá cẩn thận cho lắm mới được, chớ có xem thường mà nguy hiểm lắm đấy.
Dương Qua lãnh ý lui ra.
Chiều hôm ấy Dương Qua và Tiểu long Nữ giả dạng thường dân đến trước thành Tương Dương gọi lính trong thành nói lớn:
- Tôi là họ Dương tên Qua, có việc muốn đến xin ra mắt Quách Tỉnh đại hiệp, nhờ các ông vào trình lại.
Quân vào thông báo giây lâu mới thấy trên mặt thành hiện ra hai người thanh niên mặt mày tuấn tú, nhìn lại không ai khác hơn là hai anh em Võ tu Văn và Võ đôn Nho. Vừa trông thấy Dương Qua, Võ tu Văn mừng rỡ gọi lớn:
- Quả thật là anh Dương Qua đây rồi.
Đôn Nho cũng reo lớn:
- Kính mời chư vị vào thành.
Nói xong truyền lính bỏ cần treo, rước hai người vào thành.
Dương Qua và Tiểu long Nữ bước theo hai anh em họ Võ đến trước một ngôi dinh thự khá đồ sộ. Quách Tỉnh vừa trông thấy, mừng rỡ từ trong chạy ra niềm nở đón tiếp và bái Tiểu long Nữ một cái. Đoạn ông nắm tay Dương Qua thân mật nói:
- Hôm nay quân Mông Cổ công thành rất gắt, thời nay con và Cô nương tới đây thật là phải lúc vô cùng. Thật là một hồng phúc cho nước nhà mà cũng là một cái hên cho bá tánh thành này lắm lắm. Hai người có thể giúp cho chúng tôi một lực lượng mới.
Dương Qua và Tiểu long Nữ muốn vào trong xin ra mắt Hoàng Dung. Quách Tỉnh tươi cười gật đầu nhưng sau cản lại nói:
- Hiện nay bác gái của con đã tới gần ngày sanh đẻ nên không được mạnh lắm, để vài hôm sau sẽ gặp nhau không muộn gì.
Nói rồi truyền lệnh dọn tiệc đãi dằng cho hai người. Dương Qua và Tiểu long Nữ ăn tiệc xong đã quá canh ba, Quách Tỉnh bảo Quách Phù đưa Tiểu long Nữ vào phòng trong an nghỉ, còn mình thì nắm tay Dương Qua đưa vào nằm chung một giường. Dắt Dương Qua về giường, Quách Tỉnh luôn mồm ca ngợi Dương Qua đã can đảm xả thân đánh Kim Luân Pháp Vương và đã biết dùng cơ mưu cứu được Hoàng Dung ra khỏi trận loạn thạch. Rồi ông bắt chuyện hỏi thăm sức khoẻ của chàng và Tiểu long nữ trong những ngày gần đây ra sao?
Dương Qua ranh mãnh không cho biết những cuộc gặp gỡ Trình Anh, Lục vô Song, bà già điên và Hoàng dược Sư mà chỉ trả lời có một câu vắn tắt như sau:
- Sau khi bị thương cháu lẩn trốn, nằm dưỡng bệnh trong một hốc núi, bất ngờ gặp cô nương của cháu đây rồi hai người cùng đưa nhau tới để gặp Quách bá bá.
Quách Tỉnh vừa cởi áo dài vừa hỏi:
- Hiện nay cơ đồ nhà Tống thật bấp bênh như chuông reo chỉ mảnh, như trứng để đầu gậy. Thành Tương Dương là vị trí yết hầu của Tống Bang, nếu một mai thành này thất thủ thì bao nhiêu dân Hán sẽ trở thành nô lệ cho bọn rợ Mông Cổ cả thẩy. Người nào có chút tinh thần vì Quốc gia dân tộc, nếu được chứng kiến cái cảnh quân Mông Cổ sát hại dân lành cũng không thể nào chịu đựng nổi.
Ngừng một chặp, ông nói tiếp:
- Chúng ta là con nhà võ tất nhiên phải đem hết tài năng sở trường ra làm việc nghĩa, cứu nước giúp dân qua cơn nguy biến. Tuy nhiên đó cũng chỉ là một việc nhỏ mà thôi. Xưa nay thiên hạ thường tôn ta làm đại hiệp là vì ta biết xả thân đền nợ nước chứ không phải vì ta tài giỏi hơn ai. Nhưng tuy vậy ta vẫn suy nghĩ mà thẹn với lương tâm, vì sức mình không đủ tài sức lo cho tròn nghĩa vụ với quốc gia dân tộc để xứng đáng với cái mỹ danh "đại hiệp". Ta nhận thấy cháu thông minh, trí tuệ sáng suốt hơn ta nhiều lắm, tuy còn nhỏ tuổi mà bản lãnh cũng khá cao cường, hơn nữa chí khí cũng đáng khen, vậy tương lai của cháu nhất định sẽ rạng rỡ hơn ta. Ngày nay ta chỉ có một ước vọng là cháu ghi tạc trong tâm khảm tám chữ "vị dân vị quốc hiệp chi đại giả" và lấy đó làm phương châm rèn tâm dưỡng tánh hầu trở nên một vị "đại hiệp" bốn biển lừng danh, nêu gương muôn thuở. Đó là kỳ vọng duy nhất của ta nơi cháu đó.
Nghe những lời nói nghiêm trang, đầy lòng nghĩa khí, chính đại quang minh, Dương Qua hết sức cảm động. Mặc dù Quách Tỉnh là kẻ tử thù đã giết chết cha mình, nhưng trong giờ phút này trước những câu nói bao hàm bao nhiêu ý nghĩa cao cả, đáng kính khiến cho chàng thấy vô cùng mến phục. Chàng trả lời với giọng run run vì cảm động:
- Thưa Bá bá, những lời nói đáng giá nghìn vàng của Bá bá, cháu xin ghi tạc trong tim, dù biển cạn sông mòn cháu cũng không quên.
Quách Tỉnh thấy cháu biết nghe thì hể hả lắm, nhìn Dương Qua mỉm cười rồi đặt lưng xuống chiếu ngủ ngay. Dương Qua thấy Quách Tỉnh đã ngủ vùi thì mối phụ thù trong thâm tâm lại nổi dậy bừng bừng. Chàng mân mê chiếc đoản đao đã giấu trong mình đề phòng hành thích và nghĩ bụng: "Thật là dịp may hiếm có. Thôi đêm nay ta thừa lúc xuất kỳ bất ý, cắt đầu ông ta rồi tìm luôn Hoàng Dung thanh toán cho rồi. Bà ấy tuy tài cao, võ giỏi tới đâu, nhưng đã tới gần ngày sinh đẻ cũng không tài nào chống cự nổi. Đem hai chiếc thủ cấp này về động Thủy Tiên để đổi lấy nửa viên thuốc tuyệt tình đan giải độc. Xong đâu đấy rồi, ta cùng Tiểu long Nữ trở về cổ mộ sống một cuộc đời ẩn dật tự tại an nhàn, mặc cho giang sơn nhà Tống ra sao thì ra, mặc cho người đời sâu xé chém giết nhau muốn sao thì muốn...".
Nghĩ tới đây chàng phấn khởi vô cùng lẳng lặng rút chiếc đoản đao sắc như nước định ra tay hạ sát. Bỗng nhiên bên phòng kế đó có tiếng trẻ con khóc oa oa và tiếp theo đó là tiếng hát à ơi của người mẹ ru nho nhỏ với giọng hát ngái ngủ. Tiếng khóc nhỏ dần và dứt hẳn, và mẹ cũng thôi ru khi đứa con ngủ kỹ. Tiếng trẻ con khóc gợi lại trong lòng Dương Qua hình ảnh ngày nào bọn lính Mông Cổ tàn sát dân chúng. Chàng tưởng tượng lại hình ảnh một tên Mông Cổ đang say rượu dùng một thanh dáo thật dài xe vào bụng một đứa con nít mới lên ba, vung lên không trung rồi vác đi cùng đường để thị uy. Tiếng rên rỉ của đứa trẻ con khốn nạn ấy bây giờ còn văng vẳng bên tai chàng, khiến Dương Qua lại suy nghĩ: "Ta giết Quách Tỉnh rồi, thành Tương Dương nhất định sẽ mất, chừng ấy bao nhiêu vạn dân chúng, nam phụ lão ấu trong thành này sẽ làm mồi cho lửa đạn, hàng ngàn trẻ con sẽ chết thê thảm như độ nào. Ta chỉ vì báo thù riêng mà gieo tang tóc lại cho muôn dân lành thì quả là điều không nên làm. Bây giờ phải xử sao đây?".
Trong tâm hồn chàng bỗng nổi lên một cuộc tranh chấp kịch liệt giữa hai ý kiến mâu thuẫn. Nhưng bỗng chốc thêm một ý kiến thứ ba lại xẩy ra:
- Đêm nay là một dịp may ngàn năm có một, nếu ta không giết được Quách Tỉnh thì làm sao nhận được viên thuốc giải độc của Cừu thiên Xích? Ta chết rồi thì Tiều long Nữ sẽ ra sao? Chắc chắn nàng không thể nào sống được nữa... Trời ơi, làm sao đây? Thôi, mặc cho bá tánh thành Tương Dương, mặc cho giang sơn nhà Tống... Ta từ nhỏ tới lớn nếm biết bao nhiêu điều cay đắng gian lao, có kẻ nào đoái hoài tới ta đâu? Như thế chuyện gì ta phải lo cho họ để đến nỗi cả hai đều chết yểu một cách âm thầm và bi thương như thế này?
Nghĩ xong, chàng quả quyết nắm chặt thanh đoản đao, trừng mắt nhìn Quách Tỉnh định ra tay. Dưới ánh đèn lờ mờ, Quách Tỉnh nằm ngửa mặt ngáy pho pho, vô cùng nhân hậu, khiến Dương Qua chạnh lòng nghĩ lại: "Quách Bá bá một đời quanh minh chính trực, hánh động hết sức quân tử đại lượng, chẳng lẽ vô cớ đi giết cha mình sao? Câu chuyện này thế nào cũng có sự bí ẩn đây, cần phải tìm biết mới được". Thần trí đang phân vân rối loạn, bỗng nhiên có tiếng gõ cửa nhè nhẹ.
Vừa nghe tiếng gõ cửa, Quách Tỉnh trở mình hỏi:
- Ai đó, bà phải không?
Dương Qua hoảng hồn vội dấu đao nằm xuống không dám cục cựa. Bên ngoài vẫn lặng yên không ai lên tiếng cả. Quách Tỉnh lạ lùng quá vùng dậy bước ra mở cửa, đưa mắt nhìn quanh, thấy Hoàng Dung đứng tận ngoài xa, đưa tay vẫy. Quách Tỉnh bước theo ra, lạ lùng hỏi nhỏ:
- Chuyện chi mà có vẻ bí mật lắm vậy?
Hoàng Dung không đáp, nắm tay Quách Tỉnh kéo đi cách nhà khá xa, nhìn quanh quất một chặp, không có ai mới khẽ bảo chàng:
- Hồi chiều em nghe Quách Phù thuật lại, lần này Dương Qua đột nhiên trở lại thành Tương Dương nhưng thần sắc có vẻ bất thường, nên ngại có chuyện gì bên trong chưa biết. Lại nghe anh cùng ngủ chung một giường với hắn thì em lo quá. Vì vậy nên em trằn trọc mãi không ngủ được, cứ quanh quẩn xem chừng trước phòng để đề phòng nếu có gì không hay sẽ xẩy ra chăng? Theo ý em thì hình như nó tình nghi chúng mình giết cha nó trước kia, vì vậy nên anh không nên ngủ chung một giường cùng nó nữa.
Quách Tỉnh nghe xong đứng lặng người suy nghĩ một chập rồi gật đầu đáp:
- Em nói cũng có lý. Thôi ngày mai ta sẽ vào trong dinh ngủ cũng được.
Quách Tỉnh đưa vợ về phòng riêng rồi trở lại chỗ cũ, thấy Dương Qua đang nằm ngáy vang xem chừng ngủ mê lắm. Quách Tỉnh vô tình không biết rằng trong lúc hai vợ chồng ra ngoài nói chuyện thầm Dương Qua đã rón rén đi theo lắng tai nghe trộm hết mọi việc. Khi hai người bàn xong, Quách Tỉnh đưa vợ về nhà trong, chàng vội trở về giường giả vờ nằm ngủ mê man. Thật ra trong khi đó chàng đã nghĩ ra một chuyện táo bạo: "Nếu để ngày mai hai vợ chồng lão vào trong dinh ngủ riêng thì còn cơ hội nào hạ thủ nữa? Nhất định trong đêm nay phải thi hành cho xong ý định, nếu không thì không bao giờ còn gặp dịp này nữa...". Rồi nằm ngáy vang nhưng tâm thần Dương Qua vẫn tỉnh táo và đang lẳng lặng theo dõi mọi hành động của Quách Tỉnh. Chàng thấy Quách Tỉnh sẽ kéo chăn đắp ngực cho mình, miệng lẩm bẩm:
- Chú bé này ngủ ngon quá!
Quách Tỉnh vừa đặt lưng xuống chiếu định ngủ, bỗng thấy Dương Qua cựa mình lăn qua một vòng, nhưng miệng vẫn ngáy đều không gián đoạn. Ông giật mình suy nghĩ: "Phàm người nào đang ngủ mà cựa mình thì hơi thở và tiếng ngáy phải gián đoạn, cớ sao tiếng ngáy của Dương Qua vẫn cứ đều đều một cách lạ lùng như vậy? Hắn bị bệnh gì chăng?". Suy nghĩ vậy, ông bỗng lo lắng cho Dương Qua vô cùng, và từ đó ông không ngủ nữa, cứ nằm lặng yên theo dõi hơi thở và tiếng ngáy của chàng. Dương Qua trở mình hai ba lần thấy Quách Tỉnh vẫn nằm mê không cục cựa. Chàng vẫn giữ hơi ngáy đều đặn rồi se sẽ ngồi dậy, bò dần xuống giường. Chàng dự định đứng cạnh thành giường, đâm mạnh vào ngực Quách Tỉnh rồi thoát ra ngoài cửa sổ. Tuy nhắm mắt nhưng bao nhiêu hành động, cử chỉ của Dương Qua Quách Tỉnh thẩy đều biết rõ. Ông đinh ninh có lẽ chú bé này vì ham mê luyện công quá nhiều cho nên tâm thần thác loạn. Ông không nỡ làm trở ngại giấc ngủ của chàng, chỉ lẳng lặng theo dõi xem sao. Dương Qua se sẽ rút mũi đao găm giấu trong tay áo, nắm chặt lấy chuôi vận sức đưa lên cao, định đâm phập xuống một nhát. Bỗng nhiên Quách Tỉnh hỏi một cách êm ái ngọt ngào:
- Qua con! con nằm chiêm bao thấy gì đó?
Nghe câu hỏi như tiếng sét đánh ngang đầu, Dương Qua lạnh cả xương sống, rồi không biết xử trí ra sao cho tiện, chỉ khẽ nhún mình nhảy tung ra ngoài khung cửa sổ. Nhưng khi thân hình chàng vừa ra khỏi cửa, chân chưa chạm đất thì đã bị Quách Tỉnh chộp đứng trên lưng xách bổng trở vô phòng. Tinh thần giao động đến cực độ, Dương Qua bi quan quá, biết thế nào cũng bị chết, nên lẳng lặng chờ đợi một cực hình ghê gớm. Không ngờ Quách Tỉnh chỉ đặt nhẹ nhàng lên giường rồi ngồi ngay ngắn, nhắm mắt như đang nhập định than thiền. Dương Qua ngạc nhiên quá sức, chẳng hiểu Quách Tỉnh định dùng thủ đoạn lạ lùng như thế nào để hành tội mình đây? Chàng bỗng nhớ tới Tiểu long Nữ rồi vận sức hít một hơi thật dài gọi lớn:
- Cô nương, mau cứu tôi với, tôi đã sa cơ bị bắt rồi...
Không ngờ Quách Tỉnh vừa trông thấy chàng mấy hơi hít mạnh lại sợ dùm cho sức khoẻ của chàng nên vội vàng đưa bàn tay chặn ngay trên đan điền, khiến chàng không gọi ra tiếng nữa. Dương Qua đang hoang mang chưa biết số mạng sẽ ra sao, bỗng Quách Tỉnh từ tốn bảo:
- Dương Qua cháu, vì cháu nôn nóng luyện công quá sức, khiến thần kinh thác loạn, thường mơ tưởng những mộng mị viển vông, tinh thần không định được, có hại cho sức khỏe lắm. âu cũng là một bài học về câu "giục tốc bất đạt" đấy nhá, hãy lấy đó mà làm gương về sau. Bây giờ cháu hãy ngồi yên, để ta giúp cháu điều hành lại khí huyết trong người cho.
Ông nói chưa dứt lời đã thấy một luồng hơi ấm truyền từ bàn tay Quách Tỉnh, qua khắp cơ thể, khiến tinh thần trở nên khoan khoái dễ chịu vô cùng. Vốn con người thông minh tuyệt mức, nên bao nhiêu đó cũng đủ cho Dương Qua hiểu hết tự sự. Chàng bèn tương kế tựu kế, lập tức vận dụng nội công, khiến cho huyết mạch chạy lộn xộn để lừa Quách Tỉnh. Quách Tỉnh tính thật đâu biết, ông cố đem hết sức mình truyền vào thân thể Dương Qua để giúp chàng chỉnh đốn lại kinh mạch đang bị xáo trộn. Mãi tới hết canh năm, huyết mạch của Dương Qua mới điều hòa lại bình thường. Vì dùng sức chọi nhau nên cả hai đều mệt nhoài. Mỗi người phải ngồi tĩnh tọa mãi tới rạng đông mới phục hồi lại công lực đầy đủ như trước. Quách Tỉnh vui mừng bảo Dương Qua:
- Cháu đã thấy khoẻ và đỡ hơn trước chưa? Thật ra không ngờ cháu có một công lực cao siêu như vậy?
Dương Qua chắp tay tạ ơn, đáp:
- Cháu cám ơn Quách Bá bá đã có lòng cứu giúp, nếu không có Bá bá chuyển sức phù trợ cho thì mạng cháu đã nguy rồi.
Ngay lúc đó có người mang thức ăn điểm tâm tới. Cả hai người cùng ăn xong, Quách Tỉnh bảo Dương Qua:
- Cháu sắp sửa yên cương cùng theo ta ra ngoài thành thị sát một chặp nhé.
Nừa giờ sau hai bác cháu so cương sát cánh nhau cùng ra ngoài thành. Nhưng khi vừa ra khỏi cửa tây đã gặp một con sông đang uốn khúc chảy vòng quanh theo chân đồi, nước trong leo lẻo. Quách Tỉnh nói:
- Con sông tuy bé nhỏ nhưng đã được ghi tên vào lịch sử Trung Quốc, cháu có biết nó tên chi không? Đó là con sông "Đàn khê" đấy.
Nghe tiếng "Đàn khê" Dương Qua ô một tiếng vì ngạc nhiên và nói:
- Xưa kia Lưu hoàng Thúc giục ngựa nhảy Đàn khê, không ngờ lại là con sông này!
Quách Tỉnh cười nói:
- Thiên hạ hồi ấy đồn rằng con ngựa Đích Lô sát chủ, nhưng không, chính con Đích Lô đã nhảy khỏi dòng sông, cứu được Lưu hoàng Thúc là chủ nó.
Hai người vừa nói vừa đi mãi, một chập sau đã lên tận đỉnh đồi. Đứng trên đồi cao nhìn xuống, thấy dòng sông Hán Thuỷ cuồn cuộn chảy siết về phía Nam. Nhìn lại bốn phía, trong đồng nội bao la, chỗ nào cũng đầy cả dân chúng đang bồng bế nhau lũ lượt kéo về thành Tương Dương tỵ nạn. Quách Tỉnh cầm roi chỉ vào đám dân đi lánh nạn bảo Dương Qua:
- Có lẽ quân Mông Cổ tới đâu tàn sát dân lành tới đó, nên bao nhiêu người phải đành bỏ nhà chạy trốn về thành Tương Dương hết thảy.
Rồi ông lại chỉ về bên kia triền đồi phía hữu thấy có dựng một tấm bia lớn có khắc hàng chữ:
"Đường Công Bộ lang, Đỗ Phủ cố lý"
Dương Qua chắc lưỡi nói:
- Không ngờ thành Tương Dương bé nhỏ như thế này mà lại có lai lịch nổi danh như vậy. Thì ra đây là quê hương của đại thi hào Đỗ Phủ đây mà.
Quách Tỉnh không nói gì, chỉ quất mạnh chiếc roi ngựa trong không khí nghe vun vút rồi khẽ ngâm mấy dòng thơ của nhà thi hào Đỗ Phủ đã quá cố:
"Hồ lại đang tự phủ,
Khái phục ưu tây đô
Gian nan phấn trường kích
Vạn cổ dụng nhất phu"
Câu thơ ngâm chưa dứt, bỗng thấy bao nhiêu dân chúng đang xúm xít trước cửa thành chạy thối lui trở lại rần rần, khóc lóc vang dậy.
Tuy phía trước thối lui, nhưng làn sóng người phía sau vẫn ào ạt tiến tới như nước vỡ bờ. Quách Tỉnh giật mình tự hỏi:
- ủa, tại sao lại cản ngăn không cho dân chúng vào thành ty nạn?
Nói rồi giục ngưa chạy xuống phía trước thành. Bỗng đâu một Đám quân cung thủ đang lắp tên sẵn, ở trên thành chĩa thẳng vào đám dân, Quách Tỉnh thấy vậy nạt lớn:
- Bọn bây làm gì lạ vậy? hãy mở cửa thành cho dân chúng vào ty nạn chứ?
Viên trưởng chi huy chỗ này trông thấy Quách Tỉnh và Dương Qua bèn vội vàng mở cửa thành cho vào và thưa rằng:
- Lữ đại nhân vừa cho biết bọn gian tế Mông Cổ đang trà trộn vào số dân này, nên người ra lệnh đóng chặt cửa thành lại không cho ai được vào hết.
Quách Tỉnh hét lớn:
- Cứ mở cửa cho dân vào.
Quách Tỉnh đối với quan binh trong thành rất có uy tín, cho nên khi ông bảo lập tức viên thủ thành tuân theo ngay, mở cửa cho dân chúng tuôn vào như thác lũ, đồng thời sai người cấp báọ với Lữ Văn Hoán biết.
Dân chúng vừa dắt nhau vào thành thì bỗng thấy cát bụi rợp trời, một quân đoàn Mông Cổ đã từ hướng Bắc kéo tới tấn công ngay. Đứng trên cao nhìn xuống, thấy đoàn hùng binh Mông Cổ đi sau và chặn trước có một đám đông người ăn mặc rách rưới, tay cầm gậy gộc vừa chạy vừa la hét:
- Chúng tôi đều là dân chúng của Đại Tống cả, xin trên thành dừng bắn xuống tội nghiệp.
Kể từ triều đại Thành Cát Tư Hãn, bọn Mông Cổ áp dụng một chiến thuật vô cùng dã man là bắt dân lành đi trước đỡ tên cho chúng, và cũng nhờ kế hoạch này mà bọn chúng đã đoạt được rất nhiêu thành địch. Thấy đoàn kỵ binh Mông Cô binh khí tuốt trần, đi thẳng vào lương dân lương thiện, thúc đẩy tiến tới sát thành, không còn bao nhiêu bước nữa là tới sát bên thang. Lữ văn Hoán thấy nguy quá bèn ra lệnh buông tên, xạ thủ. Tức thì từng loạt tên bay xuống thành như mưa bấc, khiến đoàn bá tánh phải chạy đều trở lại. Đoàn kỵ binh Mông Cổ đi sau thấy vậy, huy động binh khí chém giết không tiếc tay. Bá tánh đã lọt vào tình thế tiến không được mà lùi cũng chết nên kêu khóc vang trời. Thấy rõ âm mưu thâm độc của Mông Cổ, Lữ văn Hoán đứng trên thành ra lệnh tiếp tục bắn mãi. Quách Tỉnh bất nhẫn quá luôn miệng gào thét:
- Dừng tay, đừng giết dân vô tội.
Mặc dù Quách Tỉnh quát tháo, nhưng trên thành tên vẫn thi nhau bay như mưa bấc. Quách Tỉnh thấy tình thế có phần gay cấn, bèn đốc suất một đội quân tinh nhuệ, toàn là những phần tử có bản lãnh trong Cái Bang xông ra ngoài thành cản bước tiến của quân giặc.
Dương Qua muốn đi theo, nhưng Quách Tỉnh bảo:
- Cháu chưa được mạnh lắm, hãy ở trên thành lược trận cũng được, không nên ỷ sức xông xáo ra trận tiền.
Dương Qua vâng lời bèn leo lên mặt thành nhìn xuống. Quách Tỉnh dẫn đoàn quân mở cửa thành xông ra đánh thốc vào mặt tả của cánh quân Mông Cổ. Hai bên vừa chạm nhau thì ngót một trăm quân Mông Cổ đã ngã gục ngay. Đoàn quân của Quách Tỉnh quá ư dũng mãnh và thiện chiến, tiến lên như vũ bão, như vào chỗ không người. Bá tánh thấy trong thành có đoàn quân xông ra ứng chiến, quân Mông Cô đang chống đỡ, bèn thừa dịp chạy toán loạn hết. Bỗng nhiên có từng hồi tù và rúc lên liên tục, và từ hướng Đông có hai thiên nhân đội, mỗi đội ngàn người, xông ra. Kế đó ở phía Tây cũng có hai thiên nhân đội nữa. Bốn thiên nhân đội cùng ào ra một lượt phủ vây cánh quân Quách Tỉnh vào giữa. Dương Qua đứng trên mặt thành tuy mắt nhìn xem trận đấu nhưng trong lòng vẫn nhớ lại mấy câu nói nhân đạo của Quách Tỉnh "dừng tay, đừng giết dân vô tội" mà lòng tràn ngập một niềm cảm xúc vô biên.
Thấy vòng vây của bốn đội quân Mông Cổ mỗi lúc một siết chặt thêm Dương Qua chợt nghĩ: "Nếu trên thành cứ buông tên bắn mãi thì quân Mông Cổ không thể nào đến sát bên tường để tấn công được nhưng sở dĩ Quách bá bá đã liều thân đem quân ra tiếp chiến với Mông Cổ là vì người không muốn giết người vô tội. Ôi những người dân ấy đối với ông nào có bà con ruột thịt chi đâu? Thế mà Bác đã không nghĩ thân mình xông ra cứu họ. Một người lòng dạ rộng rãi nhân đạo như thế, lẽ nào đi đang tâm giết hại cha ta là một người anh em kết nghĩa?".
Chàng đang phân vân suy nghĩ thì dưới thành tiếng trống trận thúc liên hồi, tiếng quân reo tở mở. Đoàn quân của Quách Tỉnh cố liều mạng mở một đường máu nhưng đánh mãi không phùng nổi. Chu tử Liễu thấy vậy bèn cùng hai anh em họ Võ thống lãnh một đoàn quân khác xông ra để giải vây. Bỗng tiếng tù và lại rít lên từng hồi nữa. Thêm bốn ngàn quân tinh nhuệ của Mông Cổ từ xa xông lại chờ sẵn bên thành, hễ trong này mở cửa thì cướp đường xông vào chiếm thành ngay lập tức.
Lữ văn Hoán thấy thế giặc như vậy thất kinh, hạ lệnh không cho ai được phép mở cửa thành nữa. Rồi ông ra lệnh cho mấy trăm tên lính lực lưỡng, hờm sẵn đại đao đứng gác cửa, hễ ai đến gần chém ngay tức khắc.
Trong thành cũng như ngoài thành, tiếng quân hòa lẫn với tiếng trống thúc liên hồi. Trong lòng Dương Qua cũng đã xẩy một trận tranh chấp kịch liệt giữa hai luồng tư tưởng trái ngược nhau. Có khi chàng cầu mong cho Quách Tỉnh đắc thắng khải hoàn, cũng có lúc chàng lại muốn ông bỏ thây nơi chiến địa. Bỗng nhiên hàng ngũ quân Mông Cổ bắt đầu rung động và lộn xộn hẳn lên. Quách Tỉnh tay cầm giáo dài múa tít xông khỏi trùng vây, phía sau lưng ông, đoàn quân tinh nhuệ can trường cũng nối theo không xa một bước, bao nhiêu con người đó đã hợp thành một lực lượng vô cùng vững chắc. Lực lượng này vừa đánh vừa lui dần vào gần cửa thành. Mặc dù quân Mông Cổ cố đánh thốc mũi dùi để phá vỡ, nhưng mặt trận vẫn giữ vững như vách sắt tường đồng không hề lay chuyển. Khi rút lui lại gần chân thành rồi, bỗng nhiên Quách Tỉnh quất ngựa lao vút ra sau cản hậu, nhường cho đoàn quân mình cướp đường đi trước vào thành. Thấy thắng thế, Lữ văn Hoán, cả mừng ra lệnh khai thành tiếp đón Quách Tỉnh và đoàn quân.
Nhưng Quách Tỉnh không chịu vào, cứ một mình một ngựa một giáo cản hết muôn quân Mông Cổ cho quân lính của mình vào thành trước.
Quân Mông Cổ thấy mưu kế của mình sắp hỏng bèn huy động cờ vàng, tức thì cả vạn quân đùng đùng tràn tới như nước vỡ bờ. Quách Tỉnh dù tài năng xuất chúng cũng không thể nào một mình cản nổi vạn người ngựa đang liều chết tấn công. Cả một biển người lũ lượt tràn gần chân thành, càng lúc càng thêm hùng hậu. Trên thành Lữ Văn Hoán trông thấy nguy cơ, sợ quá vội kêu lớn:
- Quách đại hiệp, xin hãy vào thành ngay, chúng tôi không thể nào chờ đợi nữa.
Quách Tỉnh nghe gọi bèn liếc mắt nhìn xung quanh thấy bộ hạ của mình chưa vào hết nên chưa chịu vào. Trái lại ông còn vung giáo xông ra sau đâm luôn một hơi cả chục viên kiện tướng Mông Cổ đang ở gần nhất.
Chu tử Liễu đứng trên thành cũng gọi thật lớn:
- Quách ca, hãy níu đầu dây này để tôi kéo lên mau.
Quách Tỉnh đưa mắt nhìn lại thấy một tên bộ hạ cuối cùng của mình vừa lọt vào cửa thành đã có trên mười tên Mông Cổ xông tới bám sát để tấn công. Hai trăm tên cầm đầu đao gác thành một mặt chống cự lại bọn này, một mặt lo đóng cửa thành lại.
Quách Tỉnh hét to một tiếng, vung giáo đâm chết luôn một tên thập phụ trưởng rồi tung mình lao vút lên không, nắm lấy đầu dây của Chu tử Liễu. Chu Tư Liễu vận sức rút mạnh chiếc dây lên. Thân hình Quách Tỉnh như con diều gặp gió vụt thẳng lên cao hơn hai trượng.
Tên vạn phu trưởng đang chỉ huy tại mặt trận này bỗng hô lớn:
- Bắn ngay!
Tức thì hàng vạn mũi tên nhọn thi nhau nhắm vào thân hình Quách Tỉnh lao tới. Nhưng trong khi lao mình nắm lấy đầu dây, Quách Tỉnh đã dùng thế "thoát bào nhượng vị" cởi chiếc áo dài mặc ngoài rồi một tay nắm dây, một tay vung chiếc áo như một cái khiên che chở khắp thân mình khiến cho muôn ngàn mũi tên thảy đều rơi xuống đất cả. Chu tử Liễu lanh tay rút thẳng lên, không bao lâu chỉ còn độ vài trượng thì Quách Tỉnh đã tới mặt thành.
Bỗng nhiên từ trong rừng người Mông Cổ một người xông ra, đó là Kim Luân Pháp Vương. Lão liền giật lấy một cánh cung cứng trong tay tướng Mông Cổ gần nhất, lắp tên kéo thẳng và buông đi một cái vụt, nhắm ngay vào sợi dây đang kéo Quách Tỉnh lên thành. Còn sợ hai người tìm cách đối phó nên bắn luôn liên tiếp hai mũi tên khác, một mũi Quách Tỉnh và một mũi ngay Chu tử Liễu. Tài bắn của Kim luân pháp Vương thật là tuyệt diệu. Trong khi mũi tên đầu vừa cắt đứt sợi dây khiến thân hình Quách Tỉnh từ từ rơi thì hai mũi kia cũng vừa bay tới, và thân hình mũi thứ ba vẫn lao vun vút tới ngay cổ họng Chu tử Liễu.
Nhưng Chu tử Liễu đâu phải tầm thường? Khi thấy tên xé gió bay tới đã khẽ đưa hai ngón tay kẹp ngay thật chặt. Thấy dây đã đứt, Quách Tỉnh lo ngại vô cùng, vì nếu rơi ngay vào cái rừng người ấy thì còn gì mà nói nữa, cho nên trong lúc vô cùng nguy hiểm, ông vẫn giữ được bình tĩnh để tìm cách thoát hiểm. Ông bèn hét lên một tiếng thánh thót rồi dập mạnh chân vào bờ tường, toàn thân bỗng bắn vọt trở lên hơn một trượng. Tiếp theo đó ông phóng chân khác đạp luôn một chiếc nữa, thân hình lại tung cao thêm một trượng nữa. Đây là thuật "bắc thang lên trời" xưa nay ít người luyện được. Hàng trăm ngàn quân binh Mông Cổ và Tống đang giao chiến bỗng đứng im phăng phắc, muôn vạn cặp mắt dán chặt vào chỗ Quách Tỉnh để tán thưởng tài nghệ tuyệt luân do ông ta đang thi thố trên vách thành cheo leo cao vòi vọi.
Kim Luân Pháp Vương cũng vô cùng ngạc nhiên về tài ba tột chúng của Quách Tỉnh. Ông suy nghĩ: "Muốn phá thuật bắc thang lên trời này, chỉ có cách là làm sao cho hơi thở của hắn bị gián đoạn mới được". Nghĩ thế, y liền giương cung nhắm ngay Quách Tỉnh bắn ra một phát, ngay vào phía hậu tâm.
Quách Tỉnh tung người bay lên, bỗng nghe tiếng xé gió ào ào thì biết có kẻ bắn tên, nên lắc đầu than nhỏ:
- Nguy rồi!
Miệng than, tay với ra sau bắt đầu mũi tên. Hàng vạn tiếng hoan hô từ miệng binh sĩ đôi bên reo hò vang dậy, nhưng thân hình của Quách Tỉnh cũng vì vậy mà tụt xuống thấp gần một trượng.
Trong thời gian ấy, trong đầu Dương Qua cũng nổi lên một cuộc tranh chấp mãnh liệt. Chàng suy nghĩ: "Lão đã giết cha mình, lẽ nào ta đi cứu?
Tại sao không thừa cơ hội này giết phứt đi cho rồi, để thanh toán hận thù?". Nghĩ tới đó, bỗng mũi tên của Kim Luân làm gián đoạn hơi thở khiến Quách Tỉnh đề khí không được, tụt xuống non một trượng sâu. Lòng Dương Qua rối ren như tơ vò, không còn suy nghĩ gì nữa. Tức thì chàng vung tay trái chụp lấy đầu dây của Chủ tử Liễu nhảy phóc xuống thành còn tay mặt chộp vào vai Quách Tỉnh.
Trong thời gian ấy, Chu tử Liễu cũng lanh trí bèn nhún đầu dây xuống một chút để lấy trớn rồi rút mạnh trở lên. Quách Tỉnh và Dương Qua như hai con chim bằng cất cánh vọt thẳng lên trên cao, quay luôn một vòng rồi là là đáp xuống yên lành trên mặt thành giữa tiếng hoan hô vang dậy của hàng vạn hùng binh đôi bên. Trong khi thân thể còn bay lơ lửng giữa không trung, Quách Tỉnh nghĩ giận những mũi tên phá đám của Kim Luân vừa rồi nên cũng muốn thi thố tài năng cho hắn thấy và kiêng oai một mẻ. Ngay khi ngón chân trái vừa điểm trên đầu thành. Quách Tỉnh đã giật phắt cánh cung của tên quân đứng canh, tra tên phóng ra một mũi lao vút về phía Kim Luân Pháp Vương. Vừa khi ấy, Kim Luân Pháp Vương cũng bắn ra một mũi. Hai mũi tên gặp nhau giữa chừng trời nghe xoạc một tiếng khô khan và mũi tên của Kim Luân Pháp Vương gãy làm hai. Kim Luân đang ngẩn ngờ thì mũi thứ hai đã bay tới chạm đúng ngay cung y đang cầm trong tay gãy tiêu. Loay hoay chưa biết đối phó ra sao, bỗng mũi thứ ba của Quách Tỉnh bắn ngay cột cờ Hốt tất Liệt. Cây soái kỳ đang sừng sững oai nghiêm, phía trên một lá cờ tung bay phất phới bỗng nhiên bi bắn đứt dây tuột ngay xuống đất.
Hốt tất Liệt thấy Quách Tỉnh thần võ quá khiếp thì buồn rầu lo sợ, bèn ra lệnh gióng chiêng thu quân.
Quách Tỉnh trên đầu thành nhìn xuống thấy Mông Cổ rút quân có trật tự quy củ, hàng ngũ chỉnh tề, trước không lộn xộn, sau chẳng xôn xao, không lộ vẻ gì hấp tấp sợ sệt liền thở dài than rằng:
- Mông Cổ hành quân đúng phép, tiến thoái đàng hoàng, kỷ luật nghiêm minh như thế này Tống quân địch làm sao nổi?
Than xong mặt mày buồn bực, không nói một lời. Dương Qua và Chu tử Liễu thấy Quách Tỉnh biểu lộ thần oai trước trận tiền, xông vào chỗ muôn binh như vào chốn không người, thua không hoảng sợ, thắng không kiêu hãnh nên trong lòng ai nấy đều thán phục vô cùng. Khi đội quân Mông Cổ rút lui cách xa thành Tương Dương rồi thì Lữ văn Hoán truyền mở tiệc khao quân ăn mừng chiến thắng.
Trong tiệc Dương Qua được xem như là thượng khách, vì ai ai cũng khen ngợi chàng có dũng lực và can đảm đã một mình phi thân xuống thành cứu được Quách Tỉnh khỏl rơi vào tay địch.
Tiệc xong đã quá canh hai. Đêm nay, Quách Tỉnh và Dương Qua ngủ riêng. Vừa ngủ ngon giấc, Dương Qua nghe tiếng gõ cửa thật gấp. Chàng ngồi dậy mới hay có lệnh của Quách Tỉnh mời ra trung quân bàn chuyện khẩn cấp.
Vừa vào tới trung quân, chàng đã thấy Hoàng Dung mặc áo rộng ngồi chống tay lên án thư mặt buồn dàu dàu, thân hình tiều tụy. Quách Tỉnh đang chắp tay sau lưng đi qua đi lại trong phòng tỏ vẻ suy nghĩ lung lắm. Cạnh đó Quách Phù ngồi làm thinh, đôi mắt còn ngấn lệ, có lẽ đã khóc nhiều rồi. Trên án thư có đặt hai thanh gươm dài, dằn trên một tờ giấy có viết chữ bị gió thổi tung bay phần phật. Nhìn đôi trường kiếm, Dương Qua ngạc nhiên vô cùng vì chàng đoán rõ là hai thanh gươm của hai anh em họ Võ.
Thấy Dương Qua tới nơi Quách Tỉnh nói ngay:
- Cháu có đoán biết hai anh em họ Võ đang đêm đột nhập vào trại giặc để làm chi không?
Dương Qua điềm nhiên đáp:
- Thưa Quách bá bá, cháu không biết rõ lắm, tuy nhiên cháu cũng có thể đoán rằng vì thấy quân giặc vây thành quá ngặt, hai người mạo hiểm qua đấy để hành thích tướng địch, may ra thành công thì sẽ được vang danh với thiên hạ.
Quách Tỉnh thở dài, đưa tay sờ vào thanh trường kiếm mà nói:
- Hai đứa nó thật không tự lượng sức mình, để đến nỗi bị người ta vây bắt đoạt khí giới gửi trả lại đây nầy.
Nói xong, ông rút tờ giấy dằn dưới hai thanh gươm trao cho Dương Qua xem.
Dương Qua tiếp lấy tờ giấy, kê gần đèn đọc nhỏ:
- Đệ nhất Quốc Sư đại Mông Cổ là Kim Luân Pháp Vương cung kính gởi thư này cho Quách đại hiệp tường lãm:
"Đêm nay nhân lúc đi săn về, tôi có bắt gặp hai đệ tử của Đại hiệp là hai chàng họ Võ đến viếng trại bất ngờ. Vì ngưỡng mộ uy danh của đại hiệp tôi không nỡ sát hại mà tạm giữ chúng nơi đây. Với thư nầy, tôi trân trọng kính mời Đại hiệp quá bộ sang dinh chúng tôi dùng chén rượu lạt và tỏ chút tâm tình, sau đó sẽ dẫn hai cháu trở về trại Tống bình yên vô sự".
Kim Luân Pháp Vương bái bút.
Lời lẽ trong thư tuy hết sức khiêm nhường, từ tốn, nhưng nội dung không ngoài mục đích muốn giữ hai anh em họ Võ làm con tin để buộc Quách Tỉnh thân hành sang trại giặc. Họ chỉ nêu điều kiện là Quách Tỉnh phải dấn thân vào miệng cọp để cứu cháu về.
Thấy Dương Qua đọc thư, Quách Tỉnh liền hỏi:
- Cháu nghĩ sao?
Dương Qua cũng thừa hiểu dụng ý của Hoàng Dung muốn với mình tới đây để nhờ tháp tùng theo Quách Tỉnh sang trại Mông Cổ, nên chàng trả lời ngay một cách vui vẻ:
- Thưa bá bá và bá mẫu, tôi và cô nương tôi sẽ giả dạng tùy tùng đi theo Quách bá bá qua trại giặc. Nếu bọn chúng trở mặt đánh nhau, hai tôi sẽ dùng song kiếm hợp bích để đối địch. Như thế cũng có thể giải quyết được phần nào tình trạng nguy biến. Với ba người, chắc chắn họ sẽ không làm hại chúng ta nổi đâu.
Quách Tỉnh thấy Dương Qua có lòng sốt sắng thì mừng lắm vội nói:
- Như vậy thì hay lắm, vậy xin cho mời Long cô nương sang đây cùng đi cho kịp.
Nhưng Hoàng Dung đã can thiệp nói:
- Không nên đâu, theo ý tôi thì một mình cháu Qua cũng đủ rồi. Long cô nương là đàn bà con gái, không nên để mạo hiểm vào hang hùm làm chi. Tôi không muốn thế.
Dương Qua giật mình, suy nghĩ: "hèn chi thiên hạ đồn Hoàng Dung đa mưu túc trí, quả không sai. Bà sợ ta phản bội không về nên muốn giữ Tiểu long Nữ lại đây để làm con tin và cầm chân mình chứ gì. Bà này cao kiến thật". Nghĩ xong, để Hoàng Dung khỏi ngờ vực chi về mình Dương Qua vui vẻ nói luôn:
- Quách bá mẫu nói như vậy cũng phải, thôi một mình cháu và Quách bá bá cũng đủ rồi.
Lập tức hai người cùng nai nịt gọn gàng, lên yên giục ngựa nhắm trại giặc trực chỉ. Không đầy nửa giờ sau, hai bác cháu đã tới trại Mông Cổ.
Hốt Tất Liệt nghe quân phi báo có Quách Tỉnh sang dinh thì nửa sợ nửa mừng, vội truyền cho mời vào trong dinh đàm đạo.
Quách Tỉnh bước vào căn lều to nhất ở giữa, nhìn thấy một thiếu niên ngồi ngay chính giữa, mặt vuông tai lớn, đôi mắt sâu sáng quắc, diện mạo uy nghi đường bệ, bỗng giật mình nghĩ bụng:
- Hốt tất Liệt quả giống y cha nó là Đà Lôi như tạc.
Hình ảnh bao nhiêu ngày còn thiếu thời bỗng diễn ra trong ký ức. Quách Tỉnh nhớ lại mối tình bè bạn thắm thiết giữa mình và Đà Lôi khi còn thơ ấu cùng chung sống tại sa mạc Mông Cổ, bất giác chạnh lòng cảm động rưng rưng hai dòng nước mắt.
Hốt tất Liệt vội vã đứng lên bước ra tận cửa nghênh tiếp, chắp tay xá dài Quách Tỉnh và thưa rằng:
- Kính chào Quách đại hiệp. Ngày phụ vương tôi còn sanh tiền vẫn thường nhắc tới bác luôn luôn. Ngày nay được diện kiến cùng bác quả thật là một điều vinh hạnh cho kẻ hậu sinh này.
Quách Tỉnh chắp tay đáp lễ rồi ung dung nói:
- Đà Lôi nghĩa huynh cùng tôi kết tình "ân đáp" thân tình hơn cốt nhục. Ngày tôi còn thiếu thời đã sống bao năm nương nhờ dưới trướng của Thái Tổ Đại Hãn. Không ngờ ngày nay tôi còn sống sót mà bạn thiết đã qua đời khiến tôi rất đau lòng xót dạ.
Hốt tất Liệt thấy Quách Tỉnh ăn nói thành thực, đã có cảm tình ngay và nhớ đến cha mình, cũng muốn ra nước mắt. Sau đó Hốt tất Liệt giới thiệu Quách Tỉnh cùng Doãn khắc Tây và bọn Tiêu tương Tử...
Quách Tỉnh uống xong một ly sữa tươi rồi vẫn chưa thấy hai anh em họ Võ thì đã có bụng lo muốn cất tiếng hỏi thăm nhưng Hốt tất Liệt đã gọi lính hầu ra lệnh:
- Quân bay mau mời hai vị thiếu niên họ Võ ra đây.
Bọn vệ sĩ lãnh mạng lui ra, một chập sau hai anh em họ Võ được dẫn vào. Hai người bị trói thúc hai cánh tay ra sau lưng, quần áo tả tơi, mặt mày tiều tụy. Khi vừa thấy Quách Tỉnh, cả hai xấu hổ và lo sợ, cúi mặt chẳng dám nhìn lên, miệng sẽ gọi:
- Sư phụ!
Hốt tất Liệt nạt tả hữu:
- Ta đã dặn bay đối đãi tử tế với hai vị này, tại sao bây lại đem trói người ta như vậy? Hãy mau mau mở trói lập tức.
Bọn vệ sĩ thất thanh dạ ran và vội vàng chạy lại mở trói. Nhưng vì dây gân bò cột chặt, nút bị gút cứng, chúng mở mãi không ra. Tức thì Quách Tỉnh đứng dậy, bước lại gần, đưa tay bấm vào mất nút dây. Ngón tay của ông sờ tới đâu thì mối dây gân bò đều đứt tiện rơi xuống đất hết.
Hốt tất Liệt truyền mang rượu ra đãi anh em họ Võ. Nhưng Quách Tỉnh nóng lòng muốn cho hai người sớm thoát khỏi hang hùm nên đứng dậy chắp tay vái dài và nói:
- Hai tên súc sinh này vì còn nhỏ tuổi lau chau chưa biết oai hùm lớn nhờ quí vị thương tình và đã cho chúng một bài học đích đáng để ngày sau xử mình, tôi rất lấy làm cám ơn lắm lắm. Bây giờ xin các lỗi cùng quí vị cho chúng nó được về trước.
Rồi không cần ý kiến bên này, ông xua tay sang hai anh em họ Võ khoát tay bảo:
- Hãy làm lễ tạ ơn rồi về ngay, thông báo cho Lữ Đại Nhân biết rằng cần phải canh phòng nghiêm ngặt, bất cứ có một biến cố nào xảy ra cũng không được khai hành, và để phòng địch quân đánh úp nghe chưa.
Lời nói của Quách Tỉnh uy nghiêm khiến cho Hốt tất Liệt cũng hiểu dụng ý của Quách Tỉnh muốn bảo rằng dù sao thành Tương Dương vẫn liều chết phòng thủ chứ không bao giờ chịu đầu hàng giặc.
Võ Tu Văn và Đôn Nho bái tạ rồi lui ra.
Hốt tất Liệt cười nói:
- Chắc bác không biết gì về chuyện hai anh em người này đến đây để hành thích cháu.
Quách Tỉnh gật đầu đáp:
- Vâng, quả tình tôi không hề hay biết gì hết. Bọn này còn trẻ người, cạn nghĩ đã hành động điên rồ, gây nhiều sự rắc rối quá.
Hốt tất Liệt cười ha hả nói luôn:
- Giữa bác và cháu, chúng ta đã quen biết thân tình cùng nhau ba đời rồi, chắc không bao giờ bác nỡ dùng thủ đoạn ấy đối với nhau.
Quách Tỉnh nghiêm giọng đáp:
- Cũng đúng mà cũng có thể không. Phàm gặp việc công phải gác việc tư lại. Xưa kia nghĩa huynh Đà Lôi đem quân vây đánh thành Tương Dương, tôi đã có ý hành thích nghĩa huynh để lui binh địch và cứu nguy cho xã tắc. Cũng may khi chưa thi hành kịp mưu này thì nghe tin Thái Tổ đau nặng, truyền Mông Cổ rút quân về nước lập tức. Nhờ vậy nên tôi mới giữ trọn danh tiết. Ngày xưa cố nhân có dạy "đại nghĩa diệt thân" nếu gặp đại nghĩa cũng có thể giết cả người thân để làm tròn sứ mạng, huống chi là tình bằng hữu?
Ông nói với một giọng rộn ràng uy nghi, khiến cho bao nhiêu kẻ như Kim Luân, Doãn khắc Tây thẩy đều nhìn nhau biến sắc.
Mấy câu nói này khiến Dương Qua rung động cả cõi lòng và suy nghĩ: "Phải rồi. Vì đại nghĩa mà giết nghĩa huynh nghĩa đệ. Việc đây đã trở thành ngón sở trường của mi rồi. Không rõ xưa kia cha ta đã làm chi nên tội mà khiến cho mi phải dứt tình bằng hữu để hạ thủ ông ấy?". Nghĩ đến đây, máu phục thù này sùng sục trong huyết quản.
Quách Tỉnh tuy nói trắng ra như vậy nhưng Hốt tất Liệt không giận mà tươi cười hỏi:
- Nếu vậy sao bác bảo hai anh em họ Võ làm việc này để gây thêm điều rắc rối?
Quách Tỉnh đáp luôn:
- Gây rắc rối là vì chúng không biết lượng sức, đi hành thích bất thành khiến cho địch đề phòng chặt chẽ và gây rắc rối cùng khó khăn cho công việc những kẻ làm sau.
-
Chương 54 - Đơn Đao Thoát Khỏi Hang Hùm - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 54 - Đơn Đao Thoát Khỏi Hang Hùm
Kim Luân Pháp Vương thấy Quách Tĩnh tay không và một thân vào chốn hang hùmg miệng rắn mà ko chút nể gì, nói năng hiên ngang ko chút nào nể sợ, thì cũng lấy làm kính phục.
Hốt Tất Liệt thấy Quách Tĩnh vũ khí hiên ngang, nói năng thẳng thắn thì trong lòng thêm phần mến chuộng và nghĩ rằng:
- Một người như thế này mà mua chuộc được, thì còn quý bằng cả mấy thành Tương Dương.
Nghĩ vậy nên nói tiếp:
- Quách thúc phụ, cháu nghĩ rằng triều đình nhà Tống, vua thì hoang dâm vô đạo, tôi thì xiểm nịnh, gia thần hết quyền hành người trung can bị âm mưu hãm hại, có phải đúng vậy hay không?
Quách Tĩnh đáp:
- Đúng như vậy. Lý thông Hoàng đế là một hôn quân vô đạo.
Mọi người đều giật mình kinh ngạc vì ko ngờ Quách Tĩnh lại dám công nhiên chửi mắng vua mình trước mặt Hốt Tất Liệt.
Hốt Tất Liệt nhân cơ hội nói:
- Nếu vậy hà tất thúc phụ phải liều thân phục vụ cho bọn hôn quân vô đạo ấy?
Quách Tĩnh đứng vùng dậy nghiêm giọng trả lời:
- Ta tuy ko tài cán bao nhiêu, nhưng ko bao giờ để cho bọn vua quan nhu nhược ấy lợi dùng được. Sở dĩ ta đem hết bầu nhiệt huyết ra phục vụ, san hà là cũng vì hạnh phúc của muôn triệu lương dân bá tánh Hán tộc mà thôi.
Hốt Tất Liệt rót đầy chung rượu, nhìn mọi người nói:
- Một thánh hiền của quý quốc có nói một câu bất hủ:"Dân vì quý xã tắc thứ chi, quân vi khinh". Câu này ngụ ý bảo rằng giang sơn gấm vóc là tài sản của muôn dân chứ không phải là của riêng của một người hay một dòng học nào. Nước Đại Mông Cổ ta trị quốc an dân, dem lại thành binh lạc nghiệp cho muôn dân. Nay thấy vua Tống hoang dâm vô đạo, khiến cho bá tánh lầm than cơ cực, vì vậy nên mới hưng binh phạt Tống để đem lại hạnh phúc cho muôn triệu người Hán. Đó là chính nghĩa của công cuộc Nam tiến. VIệc làm này quả thật hợp với lời nói của ước vọng của Quách bá phụ vừa rồi. Vậy chúng ta hãy cùng nhau đụng lý uống để tán thưởng và mừng cho sự gặp gỡ này.
Toàn thể mọi người thảy đều nâng ly định uống. Quách Tĩnh bỗng vung tay áo quay một vòng khiến bao nhiêu ly rượu của cử tọa thảy đều rơi xuống đất, rồi thét lớn:
- Nguỵ biện, chúng bây hãy nín đi đừng nói nữa. Từ khi Mông cổ hưng binh Nam tiến: xương máu Hán tộc chồng chất như núi sông, tang tóc lan tràn từ thôn quê tới đô thị, nước mất nhà tan, lương dân đồ thán, sao còn nói chuyện giả ân giả nghĩ vì dân làm việc nghĩa.
Nói dứt lời ông bái một vòng chào hết mọi người rồilui ra khỏi tiệc. Hốt Tất Liệt cung kính tiễn ra.
Kim Luân Pháp Vương và Tiêu Tương Tử nghĩ bụng:
- Tốn baonhiêu công phu tâm trí mới dụ được hắn về đây. Bây giờ Thái tử lại tiễn hắn ra khỏi tiệc, thì có khác chi thả hổ về rừng.
Nhưng khi Hốt Tất Liệt đưa Quách Tĩnh bước ra khỏi lều thì bỗng có tám người dũng sĩ xông ra bao vây Quách Tĩnh nạt lớn:
-Quách Tĩnh, từ khi tại thành Tương Dương mi giết hại anh em chúng tao ko biết bao nhiêu mà kể. Hôm nay gặp nhau tại đây, đừng có dương oai múa mỏ nữa. Vương gia ta cho mi về, chứ anh em ta quyết chẳng dung mi toàn mạng.
Nói xong cả tám người dùng thế đô vật xông lại tấn công.
Từ thuở bé, Quách Tĩnh đã sống tại Mông Cổ đã học và luyện rất nhiều về phép đô vật của xứ này cho nên ông cũng dùng đô vật mà chống lại. Ông vừa ra tay ko đầy mấy phút, cả tám tên lực lưỡng đã bị ném văng ra xa lắc nằm ko cục cựa, bao nhiêu người đứng gần cất tiếng cười vang.
Ngay lúc ấy từng hồi ốc tù và rú lên, ba bốn thiên nhan đội từ bốn phương tám hướng nhất tề xông ra, vây chặt Quách Tĩnh và Dương Qua vào chính giữa.
Quách Tĩnh liếc nhìn qua tình hình cũng thấy nao núng, bèn ghé tai Dương Qua dặn nhỏ:
- Hãy giựt cho được một cái khiên để che tên, xông ra hướng Nam một đoạn rồi bất ngờ tiến về phía bắc.
Tuy ngạc nhiên, nhưng Dương Qua chợt hiểu ngay dụng ý của Quách Tĩnh.
Vì thành Tương Dương ở về phía Nam nên tất nhiên quân Mông Cổ đã bố trí án ngữ nơi đó chặt chẽ hơn, bây giờ chạy về phía bắc dễ dàng hơn. Còn đang phân vân, bỗng nhiên từ phía dinh trại của Hốt Tất Liệt có bốn bóng đen lao vút ra như tên bắn. Tiếp theo là tiếng kêu vi vu, hai chiếc vòng sắt và đồng trong tay Kim Luân Pháp Vương đã quay tít tấn công tới tấp.
Kim Luân Pháp Vương vừa ngăn đầu ngựa trong vài phút thì tiếp tới bọn Doãn Khắc Tây và Ni ma Tinh cũng xông ra ngay, cùng bủa vây hai người rất chặt chẽ,.
Quách Tĩnh nhận xét trong mấy người đang bao vây có Doãn Khắc Tây tương đối kém hơn, nên tung song chưởng giả bộ đãnh dứ vào mặt Tiểu Tương Tử rồi bất thình lình theo tư thế "thần long bài vĩ" nắm chặt lấy ngọn roi của Doãn Khắc Tây.
Doãn Khắc Tây tự lượng mình ko đủ sức chống cự lại Quách Tĩnh và giật roi cũng ko xong, nên nhảy liều tới trước rút ra ngọn đoản đao đâm vào hông Quách Tĩnh cốt dùng áp lực này khiến ông phải buông roi ra.
Ko ngờ Quách Tĩnh đã ko chịu buông roi mà còn sử dụng chiêu thế cầm nã thủ giật luông chiếc đoản đao trong tay hắn.
Trong tình trạng thập phân nguy biến ấy thì Kim Luân Pháp Vương và TIểu Tương Tử đã đòng thời tấn công tới kịp.
Thấy ko thể nhân nhượng được nữa, Quách Tĩnh thét lên một tiếng long trời, một luồng sức mạnh từ trong tay ông chuyền vào ngọn roi rồi xuyên thẳng vào ngực khiến cho Doãn Khắc Tây có cảm giác như bị một ngọn dùi lửa đâm vào tim, chịu ko nổi la lên một tiếng, thổ ngay mấy búng máu rồi phi thân ra ngoài vòng chiến đấu.
Kim Luân Pháp Vương thấy chỉ trong vài ngọn đầu mà Quách Tĩnh đã loại được Doãn Khắc Tây ra ngoaì vòng chíên đấu thì ngán vô cùng. Trong lòng ông vừa mừng vừa sợ lẫn lộn. Mừng là đã loại được một đối thủ trong chức vị đệ nhất dũng sĩ Mông Cổ sợ là vì Quách Tĩnh qủa là trang vũ dũng phi thường đúng như lời thiên hạ truyền tụng, nếu hở cơ một ly là sẽ bị mất mạng như chơi.
Trong khi bị bốn năm tay cao thủ võ lâm nguy khốn, bên ngoài thì hàng vạn binh lính và chiến mã bao bọc không biết mấy trăm vòng.
Quách Tĩnh vẫn ko nao núng. Ông lần lượt giở hết tuyệt nghệ của Giáng long thập bát chưởng để chống lại. Dương Qua vẫn ung dung đứng ngoài vòng chiến theo dõi trận đấu.
Hai bên đánh nhau hơn trăm hiệp chưa phân thắng bại. Bỗng nhiên Tiểu Tương Tử rú lên một tiếng, lao vút người lên ko trung rơi từ trên nhào xuống, đầu gậy nhắm thẳng vào người Quách Tĩnh, ông vừa qua một bên tránh né, bỗng thấy từ đầu gậy xẹt ra một lằn khói xanh xám bao phủ cả người Quách Tĩnh. Quách Tĩnh vừa hít phải tự nhiên đầu óc choáng váng, nên đoán biết địch thủ đánh thuốc độc, ông vội vàng áp dụng tư thế "Kiến long tại điền" trong Giáng long thập bát chưởng, đánh bật cả người và gậy văng xa hơn một trượng.
Tiểu Tương Tử cố gắng nhoai người lại chĩa đầu gậy phóng thêm hơi độc nữa. Lần này Quách Tĩnh đã đề phòng rồi nên thi triển thế "Tầm long vật dụng" là chưởng lực toả ra bốn bề nhưng tại ngay giữa lòng bàn tay lại có.
Khi vận dụng nội lực để chống chọi lại nhưng ko thấy trở lực, hắn đã biết mình trúng kế vội vàng thu trở về, nhưng đã muộn rồi. Chưởng lực của Quách Tĩnh đã bao trùm khắp chung quanh như một cái nơm úp kín, Tiêu Tương Tử thất kinh hồn vía, vội vàng lăn tròn dưới đất để lánh né và trốn đòn. Quách Tĩnh nhân cơ hội này bèn nhảy vọt ra khỏi vòng vây thét lớn:
- Qua nhi, mau mau theo ta.
Thấy Quách Tĩnh đã thoát khỏi vòng vây, Kim Luân Pháp Vương tức tốc tung người phóng theo. Nhưng Quách Tĩnh đã giật được hai ngọn giáo dài lao vút trở lại để cản hậu.
Thấy hai cây giáo như hai con thần long lao tới ngay mình. Kim Luân bèn vũ lộng hai chiếc vòng ngăn lại. Nhờ đó, Quách Tĩnh đã thoát được và lẫn vào đám biển người.
Lúc đó ông tả xung hữu đột một mình, vẫy vùng trong đám người như rồng tiên uốn khúc, đột nhiên tách rời ra một bên, trở về phương Bắc để thoát khỏi vòng vây. Ông đưa tay vào miệng rít lên tiếng còi lảnh lót. Tức thì con TIểu hồng mã đã vùn vụt phi lại nhưng gió thổi.
Dương Qua đứng nhìn theo thấy rằng nếu để cho Quách Tĩnh lên được lưng Tiểu Hồng Mã thì có khác chi thả cọp về rừng, rồng thần xuống biển, làm sao cản nổi nữa, nên chàng nghĩ ra một kế bèn ngã ngửa ra sau miệng la lớn:
- Ôi chao, chết tôi rồi!
Quả nhiên tiếng kêu có hiệu lực phi thường. Quách Tĩnh đã leo lên lưng Tiểu hồng mã nhưng vừa nghe Dương Qua kêu lớn bèn quay mình trở lại xông lại gần hỏi ngay:
- Sao thế cháu, có hề chi ko?
Dương Qua trả lời yếu ớt:
- Cháu đang kịch chiến cùng Mã quang tổ bỗng thấy trên ngực đau nhói, chắc có lẽ vì dùng sức quá nhiều nên bị nội thương cũng nên.
Quách Tĩnh sốt sắng bảo:
- Vậy cháu hãy mau mau leo lên lưng để bác công thoát ra khỏi vòng vây.
Dương Qua đang lưỡng lự thì Quách Tĩnh đã khòm xuống kéo Dương Qua bỏ ngay lên lưng rồi phi thân ra hướng Băc.
Ngay lúc ấy Kim Luân Pháp Vương, Tiểu Tương Tử và Ni ma Tinh đã xông lại vây chặt Quách Tĩnh vào giữa. Trong tiếng quân reo tở mở, Quách Tĩnh thi triển thần lực đánh nhau và liếc mắt nhìn về phía xa thấy Hốt Tất Liệt đang bưngly rượu lên môi tỏ ý vui mừng như sắp bắt được ông.
Quách Tĩnh nổi nóng bèn cõng Dương Qua chạy thẳng về hướng đó. Hơn mấy chục thân binh liều chết xông ra truy cản. Dương Qua nghĩ bụng:
- Nếu để Quách Tĩnh đánh được Hốt Tất Liệt thì việc lớn hỏng bét.
Chàng bèn rút thanh Quân tử kiếm nắm nơi tay rồi hỏi Quách Tĩnh:
- Bác Quách, xưa kia cha tôi đã làm tội gì đại ác, nên buộc lòng bác phải giết ôngấyphải ko?
Quách Tĩnh thật lòng đáp không suy nghĩ:
- Cha mi là kẻ phản dân hại nước, ai ai cũng có bổn phận phải giết đi.
Dương Qua cười gằn:
- A, té ra thế sao?
Chàng trở mạnh thanh quân tử kiếm nhắm ngay ót Quách Tĩnh thọc mạnh xuống một nhát. Làn kiếm đang ngon trớn cắm xuống bỗng chạm phải một vật gì vụt ngang qua một bên ko trúng đích. Dương Qua nhìn lại vật ấy là chiếc gậy của TIêu Tương Tử.
Thấy hắn gạt kiếm mình Dương Qua ngạc nhiên nhưng chàng chợt hiểu ngay: - Hắn sợ mình giết mất Quách Tĩnh thì đoạt cả chức"Đệ nhất dũng sĩ" đây chứ gì? Cũng vì cái hư danh hão huyền này mà hắn lại cản mũi mình thật đáng tức.
Chàng nổi nóng, vung quân tử kiếmtấn công Tiêu Tương Tử luôn ba thế buộc hắn phải dang ra để có thể quay kiếm lại đâm Quách Tĩnh lần nữa, nhưng nhát kiếm thứ hai vừa vung ra thì lại bị gậy của Tiêu Tương Tử vụt tới gạt đi lần nữa.
Trong khi đó Quách Tĩnh đang bận tâm đối phó cùng Kim Luân Pháp Vương nên ko hề hay biết việc gì xảy ra trên vai. Khi thấy Tiêu Tương Tử cứ lăn xả vào tấn công Dương Qua hoài ông bỗng nổi giận vùng bàn tay tả tống ra một chưởng đẩy hắn văng ra xa mấy bước.
Ngay lúc ấy, phía trước mặt Kim Luân Pháp Vương tấn công gấp nên buộc Quách Tĩnh phải dùng tay chống đỡ lại. Tiêu Tương Tử thấy ông đang bận lo mặt trước lại xông vào tấn công Dương Qua nữa.
Giận quá, Quách Tĩnh ko nương tay nữa, ông bèn dùng thế "Thần long bài vỹ" vụt trúng Tiêu Tương Tử một chưởng la "oái" thật to. Nhưng vì hở cơ Quách Tĩnh cũng lãnh một đòn của Kim Luân Pháp Vương vào hông trái nhưng ko hề gì.
Thừa dịp này, Ni Ma Tinh dùng gậy đầu rắn thọc mạnh phía dưới nách, Quách Tĩnh tung một bước như trời giáng vào lưng Ni ma Tinh khiến hắn lộn một vòng lên cao, gãy luôn ba chiếc xương sườn.
Thừa lúc Quách Tĩnh bị thương Kim Luân Pháp Vương cả mừng và thêm hứng chí tấn công như bão táp, Quách Tĩnh thấy một sức nặng như núi Thái Sơn dồn ép vào người, trước ngực nóng ran, hộc ra một búng máu.
Tuy bị thương ói máu nhưng Quách Tĩnh vẫn ko quên Dương Qua và gọi lớn:
- Dương Qua, cháu hãy cướp một con ngựa lánh thân trước đi, đã có ta cản hậu đây rồi.
Thấy trong giờ phút nguy nan mà Quách Tĩnh vẫn một lòng lo nghĩ tới mình, Dương Qua cảm thấy thẹn thùng trong dạ. Chàng bèn nhảy xuống vung cây quân tử kiếm vùn vụt chém ngang chặt dọc như con hổ điên khiến bọn Tiêu tương Tử phải gạt qua một bên và ngạc nhiên hỏi:
- Dương Qua, tại sao vậy, ngươi điên rồi sao?
Dương Qua bất chấp những lời của chúng, trong miệng cứ lẩm bẩm mãi:
- Quách bá phụ, cháu đã làm hại bác, cháu đã hại bác.
Trong lúc ấy nọc độc của cây xà trượng bắt đầu công phạt, khiến Quách Tĩnh thấy đầu óc đảo lộn, đứng ko vững nữa, té ngồi xuống đất.
Dương Qua phải cõng Quách Tĩnh lên vai mà chạy. Vì phải thêm gánh nặng trên mình, việc day trở có phần chậm chạp nên ko bao lâu chàng đã lãnh một chiếc vòng trên vai, máu chảy đầm đề.
Trong lúc thập tử nhất sinh, bỗng nhiên hàng ngũ quân Mông Cổ náo loạn, từ trong đám xông ra một người hình dáng kì dị, một tay chống gậy sắt, tay cầm búa thợ rèn, xông vào tiếp tay cùng Dương Qua. Người ấy là Phùng Mặc Phong, đệ tử của Hoàng Dược Sư đảo chúa.
Nguyên Phùng Mặc Phong bị trưng dụng vào trong quân ngũ Mông Cổ để làm thợ rèn sửa sang binh khí cho lính. Nhưng trong thâm tâm của ông lúc nào cũng nuôi hi vọng sẽ sát hại được một vài viên tướng Mông Cổ để lấy thành tích trước khi tẩu thoát. Nhưng chờ mãi chưa có được cơ hội thuận tiện. Hôm nay thấy Quách Tĩnh và Dương Qua bị vây ngặt nghèo ông mới xuất đầu lộ diện xông ra tiếp cứu.
Nhưng vì võ công của Phùng Mặc Phong, so với bọn Kim Luân Pháp Vương còn sút kém một bực xa cho nên ko được một hiệp đã bị dồn vào thế lúng túng rồi.
Nhân lúc hỗn loạn, Tiêu Tương Tử giáng mạnh một gậy xuống đầu Quách Tĩnh, đồng thời bấm nút cho thuốc độc xịt ra thêm. Không ngờ Dương Qua đã liều mạng nắm được đầu gậy, còn tay kia đâm lẹ một gươm khiến Tiêu Tương tử phải buông để thoát thân.
Không ngờ nhờ thế này mà Dương Qua đã được cây xà trượng lợi hại của hắn.
Trong khi Dương Qua lo giật gậy đã để một khoảng trống phía trên lưng Quách Tĩnh. Kim luân pháp vương thừa thế đưa tay chộp thẳng vào lưng ông, định bắt sống.
Thấy tình thế quá ư khẩn cấp, Phùng Mặc Phong bèn liều mạng đánh tạt một búa vào lưng Kim luân để giải đòn cho Quách Tĩnh.
Nhưng Kim Luân quá ư lợi hại, một mặt phóng chiếc vòng đỡ búa Mặc Phong, còn tay kia vẫn tung ra chộp lưng Quách Tĩnh ko tha.
Phùng Mặc Phong liều chết, thét to lên một tiếng vang trời rồi nhảy vào ôm chầm lấy Kim Luân mà vặt. Bị ôm bất ngờ, Kim Luân thất thế té ngửa trên mặt đất. Ông nổi nóng tống luôn một cùi chỏ vào hông Mặc Phong làm gãy hết một xương sườn.
Tuy bị trọng thương, nhưng Phùng mặc Phong vẫn bám riết Kim Luân ko tha, khiến ông điên tiết tống luôn bốn quyền chết tốt.
Nhờ giây phút hỗn độn này mà Dương Qua thoát khỏi vòng vây, tay múa chiếc gậy của Tiểu Tương Tử cản hậu.
Hàng vạn binh lĩnh của Hốt Tất Liệt ồ ạt, tuôn tới như nước vỡ bờ. Dương Qua vung tít cây gậy cản lại. Trong lúc bất ngờ chàng bấm trúng cái nút khiến một luồng khói đen từ đầu gậy xông ra làm cho gần một trăm quân đứng gần ngã quay chết giấc. Thừa dịp ấy Dương Qua thoát khỏi vòng vây chạy miết.
Chạy thoát độ vài dặm, chàng huýt gió gọi con hồng mã của mình. Nghe dấu hiệu của chủ, con ngựa khôn ngoan phi bốn vó chạy tới như bay.
Nhưng Dương Qua leo lên giục chạy quá trăm trượng thì nó đã đuối sức đi chậm dần. Phía sau, muôn binh Mông Cổ đuổi tới rất gấp. Trên lưng Dương Qua, Quách Tĩnh lại hôn mê lần nữa.
Trong lúc quá nguy cấp, Dương Qua dùng roi quất vào ngựa. Ko ngờ trong lúc hấp tấp chàng đập trúng chân Quách Tĩnh, ông bị đánh choàng tỉnh dậy mở mắt nhìn bốn phía rồi huýt còi gọi con Tiểu hồng mã. Vừa nghe tiếng còi con Tiểu hồng mã từ trong rừng người xông ra phi tới vùn vụt như một vệt đỏ kèm sát một bên.
Thấy con hồng mã đã kiệt sức. Dương Qua hít một hơi dài vận sức vác Quách Tĩnhphóc lên mình TIểu Hồng mã, thúc chạy như tên bắn.
Ngay lúc đó từ phía sau hàng vạn mũi tên cũng lao tới như mưa bấc. Con hồng mã hí lên một tiếng não nùng quỵ hai chân trước vì bị tên nhưng nó vẫn có gượng nhìn chủ trân trân, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng trước khi ngã gục.
Con Tiểu hồng mã lao vút như trận cuồng phong, ko mấy chốc đã vượt đi quá xa, thoát nạn.
Dương Qua hai tay ôm Quách Tĩnh vào lòng tha thiết hỏi:
- Quách bá phụ, bác có sao ko?
Nhưng Quách Tĩnh hôn mê trở lại, nín thinh ko nói.
Dương Qua thất kinh vội đưa tay sờ vào ngực Quách Tĩnh, thấy tim còn đập nhẹ. Chàng cũng kiệt sức quá, ôm lấy Quách Tĩnh gục trên mình ngựa, mặc cho con tuấn mã sải bốn vó suốt đường trường.
Chàng mệt quá thiết đi một hồi lâu, khi chợt tỉnh dậy bỗng thấy lô nhô trước mặt có một đạo quân đón đường, hình như muốn bắt Quách Tĩnh nữa. Chàng say máu rút kiếm chém loạn xạ miệng thét lớn:
- Ko ai được chạm tới bá phụ ta, hãy tránh xa ra, tránh ra.
Con Tiểu hồng mã bỗng bị trúng tên nơi chân quỵ xuống hất hai người ngã xuống đất. Dương Qua thả Quách Tĩnh thiếp mất.
Chàng hôn mê ko biết bao nhiêu, đến khi tỉnh dậy lại gọi lớn:
- Các người hãy giết tôi đi, xin đừng hại tới bá phụ tôi.
Rồi chàng quơ quào bốn phía dớn dác hỏi:
- Bá phụ? Quách bá phụ đâu rồi?
Bỗng văng vẳng bên tai có giọng ai ngọt ngào bảo:
- Dương Qua, Dương Qua, Quách bá phụ ko hề chi đâu. Đừng ngại. Dương Qua ngạc nhiên mở choàng mắt nhìn lên.
Người nói đó chính là Hoàng Dung. Phía sau, Tiểu long nữ đang đứng nhìn mình, đôi mắt còn đẫm lệ.
Dương Qua vùng thét lớn:
- ủa, cô nương cũng bị chúng nó vây hay sao? Chạy mau lên đi cô nương, nguy lắm rồi.
Tiểu long Nữ dịu dàng bảo:
- Dương Qua hãy bình tĩnh, chúng ta đều đang ở trong thành Tương Dương cả đây mà.
Dương Qua thở dài một cái như trút bớt lo âu. Rồi vì tứ chi rũ liệt, trong người mệt mỏi như giần, chàng lại thiếtp đi lần nữa. Bên tai còn nghe văng vẳng tiếng Hoàng Dung dặn Tiểu long nữ:
- Nó sẽ tỉnh lại ngay chứ ko hề chi đâu mà ngại. Cô ngồi đây săn sóc và xem chừng nó nhé.
Và Tiểu long Nữ khẽ đáp:
- Vâng.
Hoàng Dung mỉm cười định bước đi, bỗng nghe tiếng sột soạt khẽ động trên mái ngói. Biết có kẻ gian lẻn vào Hoàng Dung biến sắc vội phất tay áo bao nhiêu đèn trong phòng vụt tắt, căn phòng chìm đắm trong màn đen như mực, Dương Qua vừa tỉnh dậy, thấy tứ bề tối quá chẳng hiểu vì lẽ gì vội chống tay lồm cồm ngồi dậy.
Trải qua một trận chiến ác liệt hao tổn quá nhiều khí lực thêm vết thương nơi vai làm mất quá nhiều máu. Dương Qua đã ngất đi mấy lượt. May nhờ Hoàng Dung cho uống hai viên "Cửu hoa ngọc lộ" và tĩnh dưỡng nửa ngày bây giờ đã gần phục sức lại đầy đủ. Vừa nghe chạm nhẹ trên mái nhà, Dương Qua cũng vùng dậy hăm hở định nhảy lên ứng chiến.
Nhưng Tiểu long nữ đã đưa tay cản lại, rút thanh giai nhân kiếm để sẵn nơi đầu giường khẽ bảo:
- Dương Qua hãy nằm im, có em bảo vệ và lo liệu cho mọi việc.
Chàng vâng lời nằm lại như cũ.
-
Chương 55 - Vì Nước Quên Tình Nhà - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 55 - Vì Nước Quên Tình Nhà
Ngay lúc đó có tiếng người cười ha hả trên mái ngói, rồi nói lớn:
- Tôi là người mang thơ của Quốc Sư Mông Cổ đến đây, nhưng không ngờ quý vị lại tiếp khách trong bóng tối như thế này, lạ thực.
Nghe giọng nói, mọi người đoán biết tên này là Hà Đô một đệ tử của Kim Luân Pháp Vương. Hoàng Dung đâu có chịu nhịn, bèn nói khích lại:
- Chúng ta tùy theo người mà tiếp đãi. Giữa thanh thiên bạch nhật thì tiếp người quang minh lỗi lạc, còn trong bóng tối lại tiếp những phường chuột nhắt ăn sương.
Hà Đô cứng họng không biết đối đáp ra sao, vội phi thân nhảy xuống sân và nói lớn:
- Kim Luân Pháp Vương sai tôi mang thư kính dâng Quánh đại hiệp.
Hoàng Dung đưa tay mở rộng cánh cửa phòng bảo lớn:
- Vậy xin mời vào trong.
Hà Đô ái ngại nhìn vào trong bóng tối đen, không dám vào, cứ đứng lẩn quẩn ngoài phòng mãi, rồi nói tiếp:
- Thư đây này, xin nhận lấy.
Hoàng Dung cười lớn bảo:
- Đã tự xưng là khách tại sao người ta mời vào mà không dám vào?
Hà Đô đáp:
- Người quân tử không khi nào vào nơi ám địa, sợ có kẻ tiểu nhân dụng kế ám hại bất ngờ.
Hoàng Dung mắng lại ngay:
- Tự xưng là quân tử mà lấy dạ tiểu nhơn để độ lòng người sao không biết nhục?
Hà Đô thẹn quá đỏ mặt, chỉ ấp úng không biết trả lời làm sao. Hắn cố đem hết tinh thần vào đôi mắt nhìn thử vào trong, nhưng mọi vật đều nhuộm một màu đen tối, hắn bèn dùng hai tay cầm thư chìa vào ngưỡng cửa. Ngay lúc ấy, Hoàng Dung thọc gậy ngay vào giữa mặt khiến hắn giật mình hết vía, muốn ngã ngửa ra sau, nhìn lại thì phong thư đã biến đâu mất rồi. Té ra Hoàng Dung dùng gậy lấy phong thư chứ không phải dụng ý đâm hắn như hắn đã lầm tưởng. Thẹn quá, Hà Đô chẳng biết làm gì hơn nữa, chắp tay nói:
- Xin kính chào Hoàng Bang chủ.
Nói vừa dứt lời y quay quả lui ra. Nhưng Hoàng Dung thầm nghĩ: "Thành Tương Dương của chúng ta đâu phải chỗ xuất nhập tự do như mi hòng tưởng? Hôm nay ta phải cho mi nếm một bài học đích đáng để mi biết thân nhé". Vừa nghĩ xong, bà bèn chụp lấy bình trà trên mặt bàn hất mạnh ra ngoài cửa một cái. Một dòng nước từ trong vòi trà bắn mạnh ra ngoài xẹt một đường xối mạnh vào người Hà Đô rát lạt, khiến cho từ đầu tới lưng hắn ướt mèm. Vì chất nước nóng và bắn quá mạnh, khiến cho y thất kinh nghi ngại không biết chất độc gì nên vội vàng lộn mình một vòng nhào đại ra sau để né tránh, nhưng đã muộn rồi.
Hoàng Dung thừa thế tung gạy gạt ngang, khi chân hắn vừa chạm trên mặt đất đã bị gậy quẹt té lăn cù nằm dài trên mặt đất. Ngay khi đó hai anh em họ Võ nghe tiếng nói cùng nhau chạy tới. Hoàng Dung ra lệnh trói Hà Đô lại tức thì. Hai người tuân lệnh, cùng xông lại. Nhưng khi chưa đụng tới người hắn thì thảy đều bị điểm trúng huyệt mình mẩy cứng đơ. Thừa dịp có hai anh họ Võ che trước mặt, Hà Đô lanh chân tung mình nhảy trái ra ngoài tẩu thoát. Nhưng khi chân hắn vừa đặt trên đầu tường thì Hoàng Dung đã cảnh cáo:
- Mi đã trúng độc của ta rồi mà chưa biết thân còn tìm đường trốn tránh làm chi nữa cho thiệt thân?
Hà Đô nghe nói hoảng kinh hồn vía nên nghĩ thầm:
- Trời ơi thuốc độc hèn chi nóng bỏng cả da thịt. Không biết đây thuộc loại thuốc độc gì?
Nhìn vẻ mặt ngơ ngác lo âu của hắn, Hoàng Dung đã thừa đoán rõ tim đen của hắn rồi nói thêm để áp đảo tinh thần hắn đang dao động:
- Mi trúng thuốc độc nhưng chưa biết tên của nó thành thử dù có chết cũng không yên lòng. Để mi khỏi ức lòng lúc nhắm mắt, ta cũng làm ơn báo cho mi biết nhé. Độc dược này tên gọi là "Tý ngọ kiến cốt".
Hà Đô ngơ ngác nói nhỏ:
- Tý ngọ kiến cốt ư?
Hoàng Dung cười lớn và nói thêm:
- Phải đấy, Kẻ nào trúng phải thuốc độc này vào người hồi giờ Tý thì qua giờ Ngọ không còn hồn nữa. Như thế thì trong vòng mười hai tiếng đồng hồ nữa thôi thì mi sẽ theo ông bà về chầu Diêm chúa.
Hà Đô nghe nói rụng rời tay chân, xửng lửng đứng trên bờ tường tâm thần ngơ ngác, không biết nên xuống hay nhảy ra ngoài. Nhưng Hoàng Dung đoán thấy y cũng là người lanh lẹ, nếu để kéo dài e phát giác ra sự thật, nên mở lời:
- Ta với mi vốn không thù không oán, nếu mi không tỏ lời vô lễ ngạo mạn thì đâu đến nỗi chết tức tối như thế này. Thật cũng đáng tiếc.
Hà Đô nghe nói có vẻ ít gắng thì trong bụng hy vọng còn có cơ cứu vãn. Hắn cố dìm lòng tự ái từ trên tường vọt xuống, phủ phục trước mặt Hoàng Dung thưa lớn:
- Kẻ tiểu nhân trót dại khờ xúc phạm đến bề trên, xin Hoàng Bang chúa niệm tình nhất thứ.
Từ trong phòng tối, Hoàng Dung búng ra một viên "cửu hoa ngọc lộ" và bảo lớn:
- Hãy uống ngay đi.
Hà Đô mừng quá hai tay chộp lấy viên thuốc bỏ ngay vào miệng nuốt liền. Thuốc vừa qua khỏi cổ bỗng nghe thấy thơm tho và mát rượi, khiến toàn thân cảm thấy sảng khoái vô cùng. Một luồng sình khí từ đan điền xông ra tỏa khắp châu thân, cả tứ chi đêu thấy nhẹ nhàng thư thái. Hắn vái dài một cái và nói:
- Thành thật cảm tạ Hoàng Bang chúa thương tình cứu mạng.
Nói rồi khép nép thụt lùi sân ra tận vách tường rồi mới nhảy lên đi mất.
Hà Đô đi khỏi, Hoàng Dung thở ra một hơi dài rồi ngồi lên chiếc ghế nghỉ cho bớt mệt. Một chập sau Tiểu long Nữ đốt đèn lên, bà bóc thư ra đọc:
"Đệ nhất quốc sư Mông Cổ là Kinh Luân Pháp Vương kính gửi Quách đại hiệp.
Thật hân hạnh được tiếp xúc hôm nay cùng Quách đại hiệp, nhưng rất tiêc là Quách đại hiệp lại vội ra đi. Để phỉ tình mong ước, xin kính báo trước là ngày mai tôi sẽ tới tận quý phủ để viếng đại hiệp. Mong đại hiệp đừng để cho kẻ này bị thất vọng".
Đọc xong bức thư Hoàng Dung thấy đổ mồ hôi hột. Bà bèn trao cho Tiểu long Nữ và Dương Qua cùng xem và nói thêm:
- Thành Tương Dương tuy kiên cố nhưng làm sao cản được những tay cao thủ võ lâm? Hiện nay Quách bá phụ của cháu hoang mang, bệnh chưa khá, ta lại gần ngày sinh đẻ. Nếu công khai nghênh chiến thì phần thất bại chắc về phần ta. Cháu nghĩ sao?
Dương Qua ấp úng nói:
- Quách bá phụ...
Nhưng Tiểu long Nữ đã cắt ngang câu nói của chàng:
- Anh cứ lo toàn những chuyện viển vông của thiên hạ đến nỗi mang thương tích và trọng bệnh như thế hoài.
Hoàng Dung nghe nói có bụng nghi ngờ nên nói dò:
- Long cô nương, hiện nay Dương Qua và Quách bá phụ đang đau nặng, nơi đây chỉ còn một mình Chu tử Liễu may ra có thể giúp sức được mà thôi. Cô có thể giúp cho chúng tôi không?
Tiểu long Nữ tánh tình chân thật nghĩ sao nói vậy không biết lời lẽ môi miếng gì hết:
- Hiện nay tôi chỉ biết lo cho Dương Qua lành bệnh mà thôi ngoài ra không còn điều gì phải bận tâm nữa.
Câu nói cộc lốc càng khiến Hoàng Dung nghi ngờ hơn nữa. Bà bèn mời nàng về phòng riêng gạn hỏi. Con người của Tiểu long Nữ thành thật thẳng thắn đã quen không thể giấu giếm ai được một điều gì cho nên nàng đã nói rõ đầu đuôi câu chuyện cho Hoàng Dung nghe. Từ khi gặp lại Dương Qua tại động Thủy tiên, trúng độc Tình hoa, nào là cuộc mưu sát hại vợ chồng Quách Tỉnh để đổi thuốc độc, mọi việc ra sao nàng đều thuật lại rõ ràng không thiếu một chi tiết.
Hoàng Dung nghe nói vô cùng ngạc nhiên. Lúc đầu bà ngờ Dương Qua muốn giết hại Quách Tỉnh là để trả thù cha mà thôi, nhưng thật không dè lại có câu chuyện bí ẩn như thế nữa. Bà không ngờ Cừu thiên Lý còn người em gái là Cừu thiên Xích, nên không thể tưởng tượng đến mối thù rắc rối này thêm. Mặc dù có những nguyên nhân này mà Dương Qua vẫn tận tình cứu giúp Quách Tỉnh cho đến mang trọng bệnh, thì quả là một tấm lòng hào hiệp đáng kính vô cùng. Hành động này không khác chi là một cuộc tự sát.
Hoàng Dung thở dài đứng dậy đi đi lại lại trong phòng không biết bao nhiêu bận, cố tìm cách đối phó với Kim luân Pháp vương. Thình lình từ phía ngoài có tiếng chân người chạy vào và có tiếng Quách Phù gọi rối rít:
- Mẹ ơi, mẹ...
Hoàng Dung đứng lại hỏi:
- Chuyện gì thế?
Quách Phù vừa khóc vừa nói:
- Hai anh em họ Võ đã đem nhau ra ngoài thành quyết đấu một trận sống còn. Họ thề một còn một mất mới trở về đây. Làm thế nào hở mẹ?
Hoàng Dung bực mình gắt:
- Chuyện quốc gia đã rối ren còn lắm chuyện trẻ con nữa? Mặc kệ chúng nó, đừng có bận rộn nữa.
Nói xong bà ngồi xuống ghế lặng thinh. Trong khi ấy Quách Tỉnh cựa mình, và ngoài kia trời đã rạng sáng. Quách Tỉnh nói khẽ:
- Em nhớ dặn hai anh em họ Võ phải canh phòng cẩn mật nhé. Quân địch biết anh đang trọng bệnh thế nào cũng thừa dịp đánh úp bất ngờ, nếu hở cơ sẽ trở tay không kịp đấy.
Hoàng Dung gật đầu vâng dạ. Bà không dám nói chuyện hai anh em họ Võ ra ngoài và cũng không hề thổ lộ việc Kim Luân hẹn tới đây, vì sợ Quách Tỉnh lo lắng có hại cho sức khỏe.
Quách Tỉnh lại hỏi thêm:
- Cháu Qua bệnh tình ra sao? Có khá hơn chút nào không?
Ngay lúc ấy, Dương Qua vừa tới trước cửa phòng, nghe nói liền lên tiếng đáp:
- Thưa Quách bá bá, cháu chỉ bị ngoại thương nhẹ, sau khi được bá mẫu cho uống "Cửu hoa ngọc lộ" đã bình phục lại rồi. Bá bá đừng lo ngại làm chi.
Từ khi Quách Phù vào phòng, Tiểu long Nữ bỏ đi ra ngoài Dương Qua nhìn quanh quất không thấy bóng Tiểu long Nữ đâu mới hỏi:
- Quách bá mẫu, cô nương tôi không vào đây sao?
Hoàng Dung đáp:
- Cô mới vừa nói chuyện cùng ta đó. Có lẽ mới bước ra ngoài chăng.
Dương Qua muốn rút lui ra ngoài để tìm Tiểu long Nữ, thì bỗng từ trần mái nhà tận đàng xa một chuỗi cười nổi lên theo gió sớm dội vào tận tai mọi người. Tiếp theo tiếng cười là những tiếng leng keng từ các vòng sắt phát ra nghe rùng rợn. Kim Luân Pháp Vương đã tới rồi.
Quách Tỉnh biến sắc, nắm tay Hoàng Dung kéo ra phía sau lưng mình để che giấu. Nhưng Hoàng Dung đã bình tĩnh nói:
- Tỉnh ca, anh hãy nghĩ lại xem thành Tương Dương quan trọng hay mối tình hai ta quan trọng? Mạng em và mạng anh, mạng nào hệ trọng hơn?
Nghe nói, Quách Tỉnh buông tay vợ ra đáp:
- Phải đó, việc nước trên việc nhà, tình chung hơn tình riêng chứ.
Hoàng Dung rút cây gậy trúc ra đứng ngay giữa nhà chờ đợi.
Nghe hai vợ chồng Quách Tỉnh đối đáp cùng nhau. Dương Qua bàng hoàng như sét nổ bên tai. Chàng lẩm bẩm:
- Phải, nợ nước trước tình nhà, việc chung lên việc riêng, đúng lắm.
Bao lần qua, chàng chẳng ngại gian nguy xả thân cứu Quách Tỉnh vì cảm kích bởi tấm lòng đại nghĩa của ông. Chàng muốn liều chết để xứng đáng với một tâm hồn cao thượng thanh cao ấy. Hôm nay được nghe thêm câu "việc nước trên tình nhà". Dương Qua bỗng sực nhớ lại câu nói của Quách Tỉnh đã thoát ra ngoài thành Tương Dương hôm nọ: "vị quốc, vị dân, hiệp chí đại giả". Bao nhiêu đó đã cởi mở tất cả những khúc chiết và gúc mắc từ lâu trong lòng chàng. Dương Qua suy nghĩ: "vợ chồng Quách bá bá tình thâm nghĩa trọng, nhưng gặp lúc nước nhà nguy biến, đã vì đại cuộc gác tình riêng qua một bên, huống chi ta đây, lúc nào cũng chỉ hẹp hòi trong việc báo thù riêng và vì mối tình cùng Tiểu long Nữ, đến nỗi quên cả cái cảnh nhà tan, hàng triệu bá tánh sanh linh đồ thán vì bàn chân quân giặc, so với tâm hồn Quách Tỉnh, mình còn thấp thỏi hèn hạ quá". Trong giây phút ấy, Dương Qua cảm thấy tâm tư cởi mở, đầu óc sáng suốt thanh thản vô cùng.
Ngày còn trên Đào Hoa đảo, Hoàng Dung thường dạy chàng mấy câu "sát nhân thành nhân, xá sinh thù nghĩa", bây giờ các câu ấy hiện lại rành rành trong trí óc, khiến chàng cảm thấy thẹn thùng, muốn làm một việc gì cao thượng để bù lại với những cử chỉ và tư tưởng hẹp hòi và vị kỷ của mình. Với những ý nghĩ ấy, Dương Qua tự thấy cõi lòng phấn khởi và xem thường tất cả mọi nguy hiểm.
Hoàng Dung liếc mắt theo dõi thái độ Dương Qua. Bà thấy chàng có vẻ thẫn thờ như hổ thẹn, dần dần đôi mắt sáng lên như có điều gì kích động, và sau cùng trở nên bình tĩnh, nên không hiểu trong thâm tâm chàng đang suy nghĩ những gì. Bà đang suy nghiệm thì Dương Qua đã rút phăng thanh Quân tử kiếm nhảy lại đứng cạnh Hoàng Dung, miệng nói:
- Xin bá mẫu cứ bình tĩnh, tôi xin hết lòng cùng bá mẫu để đối phó với bọn dã man này.
Ngay lúc đó, Kim Luân Pháp Vương, hai tay cầm hai chiếc vòng đang đứng trên mái ngói, cười lớn, nói:
- Dương Qua, con người như mi phản phúc không chừng, sớm đầu tối đánh, quả không bằng một đứa tiểu nhân. Mày có tự thấy hổ thẹn không?
Dương Qua vẫn điềm tĩnh tươi cười đáp lại ngay:
- Kim Luân, lời mi nói chí lý lắm đấy. Nhưng mi có biết tại sao ta đổi ý giúp sức Quách Tỉnh về tới thành Tương Dương rồi trốn ở xó nào mất tích đến nay ta chưa tìm ra được, mi có biết lão đang ở chốn nào không?
Miệng đáp, chàng đã phi thân lên nóc nhà, đứng cách Kim Luân chừng vài thước mà thôi.
Kim Luân nghe Dương Qua hỏi, khẽ liếc chàng một cái trong lòng phân vân suy nghĩ: "Thằng bé này thật quỷ quyệt nhiều mưu kế, không biết nó nói thật hay nói đùa nữa dây?
Y mỉm cười nhìn Dương Qua hỏi lại:
- Nếu mi gặp hắn thì sao?
Dương Qua đáp ngay:
- Thì ta sẽ vung kiếm lên...
Miệng đáp, tay đưa kiếm lên cao làm ra vẻ muốn đâm xuống.
Kim Luân ngạc nhiên hỏi:
- Sao, mi dám đâm Quách Tinh ư?
(mất 2 trang)
Nghĩ xong chàng cất tiếng gọi lớn:
- Cô nương, có tôi tiếp chiến đây này.
Nói xong vũ lộng thanh kiếm tấn công thật mạnh khiến Kim Luân phải thối lui mấy bước rồi tung mình chạy tới chỗ Tiểu long Nữ. Thấy Dương Qua chạy đi rồi, Kim Luán không đuổi theo mà chỉ lo băng bó vết thương rồi cúi xuống phía dưới nhà thét lớn:
- Quách Tỉnh đã trốn xó nào, có giỏi hãy ra đây xem thử?
Kêu gọi nói khích hồi lâu không thấy Quách Tỉnh đáp lại, y nổi nóng nghĩ ra rồi nhảy xuống dưới châm mồi phóng hỏa. Hắn chạy một vòng đốt luôn năm sáu chỗ, lửa bốc ngất trời. Thấy lửa cháy ngùn ngụt Kim Luân đắc chí nghĩ bụng: "Lửa cháy như vầy, xem mi trốn đàng nào cho biết".
Dương Qua thấy lửa đỏ rực trời thất kinh nghĩ bụng: "Quách bá bá đang mang bệnh, Quách bá mẫu lại gần ngày sanh nếu vì lửa cháy chạy ra gặp Kim Luân thì làm sao chống cự lại". Nghĩ xong, chàng xách kiếm trở vào phòng tìm Quách Tỉnh. Khi tới gần giường, thấy Hoàng Dung đang ngồi cạnh Quách Tỉnh nằm mê man, nhưng nét mặt bà vô cùng bình tĩnh, không lộ chút gì là rối loạn, hình như xung quanh không có điều gì xảy ra hết. Dương Qua bước lại gần khẽ bảo:
- Quách bá mẫu. Để cháu dụ địch ra ngoài rồi bá mẫu dìu Quách bá phụ lánh đi nơi khác tỵ nạn nhé.
Nói xong, chàng giật chiếc mũ của Quách Tỉnh đang đội rồi vọt ra ngoài đi mất. Hoàng Dung đang bỡ ngỡ chưa biết chàng toan tính việc chi, nhưng thấy khói lửa rợp trời, trong phòng cũng tràn ngập những lửa thì đứng dậy đỡ Quách Tỉnh nói nhỏ:
- Thôi, chúng mình đi nơi khác.
Vừa định rời đi thì bỗng nhiên trong bụng đau quặn từng cơn, tay chân rời rã đứng không vững nữa. Bà liền ngồi trở xuống, nghiến răng nói thầm:
- Tại sao không để khi khác, lại lựa khi nguy ngập như thế này mà đẻ, ác thật!
Bụng càng đau gắt và sắp sanh.
Dương Qua chạy ra khỏi cửa, nhìn qua làn khói lửa mịt mù thấy quân lính xôn xao tấp nập, tiếng la hét vang trời. Kẻ lo chữa lửa, người lo đánh nhau và bắn lên mái ngói. Trong khi ấy những người đang đánh nhau chia thành ba toán rõ rệt. Tiểu long Nữ cự với Tiêu tương Tử và Ni ma Tinh, Chu tử Liễu chống với Đạt nhĩ Ma và Hà Đô. Phía gần đấy, Kim Luân pháp Vương múa tít đôi vòng bao phủ khắp mình Quách Phù, tuy không cố giết hại nàng nhưng muốn bức bách nàng phải khai chỗ ẩn nấp của cha mẹ để tới bắt.
Quách Phù đầu tóc rối bời, nghiến răng trợn mắt quyết tử chiến với Kim Luân chứ không chịu khai.
Dương Qua thoát ra khỏi cửa thấy một tên quân thân hình vạm vỡ đang cầm cung bắn lên mái nhà. Chàng đưa tay điểm huyệt cho nó mê man, đem chụp cái mũ Quách Tỉnh lên đâu rồi cõng lên vai, phi thân bay lên nóc nhà bên cạnh. Kim Luân đang bức bách Quách Phù, trông thấy Dương Qua cõng một người đầu đội mũ chạy trên mái ngói, bèn bỏ nàng, phi thân đuổi theo bén gót. Tiêu tương Tử, Ni ma Tinh và Đạt nhĩ Ma cũng vừa trông thấy, ai ai cũng bỏ cuộc đấu, băng mình đuổi theo tới tấp.
Dương Qua chạy ngang qua mặt Tiểu long Nữ, đưa mắt nhìn nàng nhoẻn một nụ cười hóm hỉnh, chưa biết dụng ý gì. Tiểu long Nữ thấy vậy biết chàng đã có mưu mô chi đây nên trong bụng cũng đỡ lo.
Ngay lúc ấy, từ phía dưới, giữa đám khói lửa có tiếng con nít khóc oa oa. Quách Phù lắng tai nghe rồi vỗ tay nói:
- Đẻ rồi, mẹ em đã đẻ em bé rồi!
Reo xong nàng phi thân xuống dưới chạy tìm. Tiểu long Nữ cũng động tính hiếu kỳ, bèn chạy theo Quách Phù xem thử em bé ra sao.
-
Chương 56 - Chiếm Đoạt Hài Nhi - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 56 - Chiếm Đoạt Hài Nhi
Kim Luân nhắm theo Dương Qua đuổi riết, mỗi lúc khoảng cách càng gần thêm, khiến lão càng phấn khởi đuổi nhanh hơn nữa, lòng thầm nghĩ: "Phen này bọn bây không thể nào thoát khỏi tay ta được nữa".
Dương Qua vừa chạy vừa lắng tai nghe tiếng chân dồn dập đuổi theo. Bỗng nhiên chàng sa mình xuống đường cái rồi cứ theo những ngõ phố khúc khuỷu chạy quanh co mãi. Chạy vòng quanh được một chặp thì bọn Tiêu tương Tử và Chu tử Liễu cũng vừa theo kịp. Vừa trông thấy Dương Qua chui vào một ngõ hẻm. Kim Luân Pháp Vương bảo Ni ma Tinh:
- Nhờ ngươi đứng chận đầu ngõ này chờ tôi vào trong lùa hắn chạy ra nhé.
Nhưng Na ma Tinh quắc mắt nhìn lại thét:
- Việc ai nấy làm, chuyện chi ngươi điều khiển cả ta nữa?
Kim Luân vừa tức vừa thẹn, không đáp lại, phi thân vọt lên cao phóng tầm con mắt nhìn vào phía trong, thấy Dương Qua đang cõng Quách Tỉnh đứng nép mình vào góc tường nghỉ mệt, há miệng thở hổn hển. Kim Luân Pháp Vương mừng quá sức, vừa định sa xuống để bắt thì Dương Qua bỗng quay mình chui thẳng vào một khoảng nhà đang bốc khói mù mịt, không trông thấy gì nữa hết. Kim Luân đang nhướng mắt cố tâm tìm
kiếm, bỗng có tiếng Đạt nhĩ Ma rú lên mừng rỡ:
- Đây rồi, hắn nấp đây rồi.
Kim Luân Pháp Vương như mở cờ trong bụng, bất chấp lửa khói tung mình sà tới nơi, thì thấy Dương Qua đang dồn Đạt nhĩ Ma vào trong một góc hẻm, có phần lúng túng, ông vội vàng ném một chiếc vòng đề giải nguy cho đồ đệ, không ngờ chiếc vòng lại đúng vào lưng Quách Tỉnh. Kim Luân mừng quá la lớn:
- Trúng rồi, đã đánh trúng Quách Tỉnh rồi.
Miệng la, chân nhảy, toàn thân lão chồm hẳn về phía trước, vươn cánh tay thật dài định thộp vào lưng Quách Tỉnh. Nhưng ngay lúc đó Dương Qua thoáng nghe gió thổi tạt tới vội phi thân đánh mạnh vào ngực Đạt nhĩ Ma một đòn như trời giáng để cướp đường chạy tới. Nhưng chàng vừa thoát qua một ngõ hẻm, ló đầu ra một khúc quanh đã nghe tiếng cười đắc chí bảo:
- Chạy đi đâu, ta chờ đã lâu rồi. Phen này con chỉ phải đầu hàng thôi con ạ.
Dương Qua ngước mặt nhìn lên, thấy Tiêu tương Tử hoành gậy đứng chặn giữa đường, hiu hiu tự đắc. Sau lưng có người đuổi, trước mặt lại có kẻ địch đón đường, Dương Qua liếc mắt nhìn xa một tý thấy trên đầu tường, Ni ma Tinh cũng cầm roi chực sẵn từ lúc nào. Dương Qua không chút suy nghĩ, phi thân phóng đại lên đầu tường ném Quách Tỉnh vào giữa mặt Ni ma Tinh, miệng hô lớn:
- Tặng mi lão Quách Tỉnh đấy.
Ni ma Tinh mừng quá, đưa tay ôm chầm lấy Quách Tỉnh, trong lòng hân hoan với kết quả bất ngờ, nhưng ngay lúc đó Dương Qua đã vọt thẳng lên cao phóng chân tặng luôn một ngọn cước lọt tuột xuống đường. Mặc dù bị đá văng lộn nhào mấy vòng nhưng Ni ma Tinh vẫn ôm chặt lấy Quách Tỉnh, miệng la không ngớt:
- Được rồi, chính ta đã bắt được Quách Tỉnh đây rồi.
Nhưng Đạt Nhĩ Ma và Tiêu Tương Tử đâu để cho hắn được yên thân với thành tích bất ngờ ấy, cả hai cùng nhào tới để đoạt lại. Thế rồi mỗi người túm được một cánh tay, ra sức kéo mạnh về phía mình. Cuộc giằng co giữa ba người khiến cho tên lính khốn nạn bị toét thành ba mảnh, mỗi người nắm một phần. Khi chiếc nón trên đầu hắn vừa văng xuống đất, mọi người nhìn lại thấy mặt mày hắn ốm nhom không phải là Quách Tỉnh. Ba người vừa mắc cỡ vừa bực tức, thảy đều bàng hoàng đứng trân như ba pho tượng.
Kim Luân thấy Dương Qua phóng Quách Tỉnh...
(mất 2 trang)
Năm chiếc vòng lộng lên như gió cuốn, cố áp đảo đối phương như bị kiếm quang của hai người dệt thành một bức tường thành kiên cố chận đứnglại. Kim Luân thở dài than rằng:
- Mặc dù ta đã khai triển hết tài năng vào năm chiếc vòng này nhưng cũng không thể nào qua được lối "lưỡng kiếm liên hoàn" này.
Trong khi còn lo lắng phân vân chưa biết đối phó ra sao cho ổn, bỗng nhiên có tiếng trẻ nít khóc oa oa từ trong bụng Tiểu long Nữ phát ra, khi khiến ai nấy vừa ngạc nhiên vừa buồn cười.
Tiểu long Nữ đưa tay xoa nhẹ vào bụng dỗ:
- Em hãy nín đi và nằm yên xem chị hạ sát thằng cha trọc đầu này.
Không ngờ, nàng càng dỗ đứa bé càng khóc to hơn. Dương Qua hỏi nhỏ:
- Có phải con của Quách bá mẫu không?
Nàng khẽ gật đầu rồi thuận tay đâm vút một gươm vào bụng Kim Luân. Ông tung vòng đỡ nghe "choang" một tiếng, xẹt lửa sáng ngời.
Dương Qua hỏi thêm:
- Bà vẫn mạnh khoẻ chứ? Cả bá bá cũng vậy phải không?
Nàng kể:
- Hoàng bang chủ vừa đỡ Quách đại hiệp bước ra khỏi căn nhà cháy...
Nàng vừa nói tới đây bỗng chiếc vòng sắt của Kim Luân vừa giáng xuống, phải ngừng nói để đỡ và nói tiếp:
- Bà đã đẻ trong khi nhà sắp sập thì tôi bồng được đứa bé này.
Dương Qua vừa tung gươm tấn công Kim Luân vừa hỏi tiếp:
- Con gái phải không?
Nàng đáp:
- Vâng, con gái. Cậu hãy ẵm lấy nó đi.
Miệng nói tay thò vào bọc lôi đứa bé ra trao cho Dương Qua. Nhưng đứa bé la khóc om sòm và ba chiếc vòng của Kim luân cứ loang loáng trên đầu hai người, chực hở cơ là đánh xuống. Vì ông tấn công quá gắt nên Dương Qua không còn cách nào tiếp nhận đứa trẻ cho được.
Tiểu long Nữ nóng ruột giục:
- Cậu hãy bồng đứa bé này, cưỡi con tiểu hồng mã gấp rút đi.
Chiếc vòng của Kim Luân lại xẹt xuống lanh như chớp làm đứt ngang lời nói của nàng.
Đánh thêm mấy hiệp nữa, vì bận phải đứa bé nên hai người bị lúng túng, dần dần yếu thế. Tiểu long Nữ kinh hãi nói:
- Lần này chúng ta khó thắng được lão. Thôi! cậu bồng đứa bé này phi ngựa vào động tuyệt tình cho mau...
Nghe tới đây, Dương Qua bỗng hiểu được thâm ý của Tiểu long Nữ. Trong thời gian bảy ngày, với tốc lực của tiểu hồng mã cũng có thể về kịp động thủy tiên. Nàng muốn ta mang đứa bé này thay thế đầu lâu của Quách Tỉnh và Hoàng Dung. Vì mặc dù không giết hai người nhưng bắt con họ mang đi thì thế nào họ cũng tự tìm đến, chừng đó mặc cho bà Cừu thiên Xích đối phó. Trong khi bà Cừu thiên Xích bị cắt hết gân không thể chiến đấu đàng hoàng, tất nhiên bà phải giao luôn nửa viên thuốc kia cho ta uống để lành bệnh và đủ sức đối phó lại với vợ chồng Quách Tỉnh. Giá hai ngày trước đây thì thế nào Dương Qua cũng vui vẻ thi hành kế này. Nhưng thời gian qua vì đã quá cảm kích về tấm lòng tha thiết yêu nước của Quách Tỉnh nên chàng không thể nào làm được một chuyện thiếu minh bạch như thế. Chàng dứt khoát không đồng ý nên trả lời ngay:
- Tôi không làm được việc như thế đâu.
Tiểu long Nữ thất sắc hỏi lớn:
- Sao, ngươi nói sao?
Ngay lúc ấy, Kim Luân đánh trúng tay nàng khiến đứa bé bị sút khỏi tay rơi ngay xuống đất. Cả Dương Qua cùng Tiều long Nữ, hai người thất thanh rú lên một tiếng cúi xuống bồng lên, nhưng đã muộn rồi. Qua cuộc nói chuyện vừa rồi, Kim Luân cũng thừa hiểu đứa hài nhi này là con của Quách Tỉnh, đã có lòng muốn chiếm đoạt làm con tin. Khi thấy đứa bé sút khỏi tay Tiểu long Nữ sắp rơi xuống đất ông bèn vung ra một chiếc vòng xoay tròn đỡ nhẹ dưới lưng đứa bé.
Cả ba người cùng lanh như ba cái bóng ma bay vút theo định cướp lấy đứa bé. Dương Qua nhờ đứng gần nhất lại có tài khinh công cao diệu nên nhảy đến gần quay luôn mấy vòng, lòn ngay xuống dưới đỡ vào đứa bé. Bỗng đâu có một cánh tay hiện ra hất nhẹ chiếc vòng qua một bên đỡ nhẹ đứa bé rồi quay mình chạy mất.
Dương Qua đang lồm cồm ngồi dậy, Tiểu Long Nữ và Kim Luân cùng tới một lượt nhưng thảy đều trật hết. Vừa thoáng thấy bóng người ấy, Tiểu long Nữ la lớn:
- Sư tỷ!
Dương Qua thoáng thấy người ấy mặc áo vàng, tay cầm chiếc phất trần, rõ ràng là Lý mạc Thu không sai.
Tiều long Nữ gọi lớn:
- Sư tỷ! Chị mang đứa nhỏ đi đâu thế? Hãy trả lại đây.
Lý mạc Thu mỉa mai đáp:
- Tất cả các đệ tử trong Cổ mộ đều là xử nữ, chỉ riêng ngươi lại có con, thật không biết xấu hổ.
Tiểu long Nữ nổi nóng thét lớn:
- Nói xàm, đứa bé này không phải con ta, hãy trả lại lập tức.
Nàng hít một hơi dài lấy sức rồi định dùng khinh công đuổi theo bắt lại, bỗng nhiên có một cái bóng xam xám lờ mờ từ đâu lao đến cản ngay trước mặt, và hỏi nhỏ:
- Cô nương vẫn bình an đấy chứ?
Tiểu long Nữ không thèm nhìn lại người ấy, chỉ né qua một bên định bước lên chạy về phía trước đuổi theo Lý mạc Thu, nhưng người ấy dùng quạt khẽ điểm vào vai nàng hỏi nhỏ:
- Sao cô nương nỡ vô tình đối với tôi lắm vậy?
Tiểu long Nữ nhìn ra phía trước, tràn sang một bên miệng đáp:
- Ta đang bận lắm.
Người ấy lại dùng quạt điểm nhẹ vào vai bên kia của nàng và nói thêm:
- Dù sao cô nương cũng cảm phiền dừng lại một giây cho tôi giãi bày câu chuyện.
Trong lúc ấy Lý mạc Thu. Kim luân Pháp Vương và Dương Qua đã chạy quá xa nên Tiểu long Nữ dừng chân lại, liếc mắt nhìn qua thấy kẻ đó chính là Hoắc Đô Vương Tử. Hắn đang nhăn nhó cười tình, tay phe phẩy chiếc quạt to tướng. Nàng bỗng xuay mình dùng kiếm đâm nhanh vào vai mặt hắn một nhát. Khi mũi kiếm sắp chạm tới vai, nàng thu ngay lại và đảo sang vai trái lẹ như chớp nhoáng. Vì ngón đòn tráo trở bất ngờ nên Hoắc Đô tránh né không kịp lãnh một vết thương bên vai máu chảy đỏ áo.
Tiểu long Nữ nhân cơ hội này lòn sang một bên rồi triển khai khinh công đuổi theo bọn Dương Qua như mũi tên xẹt. Lúc bấy giờ từ trong đến ngoài thành, đâu đâu cũng đầy tiếng quân hò ngựa hí vang trời. Tiểu long Nữ chạy tới đây vừa gặp Lỗ hữu Cước đang đốc xuất bộ hạ chữa cháy. Vừa gặp Tiểu long Nữ ông đã hỏi ngay:
- Long cô nương, có thấy Hoàng Bang chúa và Quách đại hiệp đâu không Hai người chắc cũng mạnh giỏi cả chứ?
Tiểu long Nữ không trả lời mà hỏi vặn lại:
- ông có gặp Dương Qua, Kim Luân Pháp Vương và một người đàn bà bồng một đứa bé mới đẻ chạy về hướng này không?
Lỗ hữu Cước chỉ ra ngoài thành nói lớn:
- Ba người ấy đang chạy về hướng này và nhảy xuống thành này. Tiểu long Nữ ngạc nhiên nhìn về phía tay chỉ, thấy thành cao vòi vọi nên nghĩ thầm:
- ủa, bờ thành quá cao như thế, sao họ nhảy xuống được kia?
Còn đang đứng ngẩn người suy nghĩ, bỗng thấy một tên thân binh đang tắm cho con Tiểu Hồng mã cạnh đó. Nàng chợt nghĩ:
- Nếu Dương Qua đoạt lại đứa bé chắc cũng không thể nào chạy về hang tuyệt Tình kịp hạn định vì thiếu con Tiểu Hồng mã.
Vừa nghĩ xong, nàng phi thân tới nắm lấy cương ngựa quay lại nói với Lỗ hữu Cước:
- Ta tạm mượn con ngựa hồng này có chút việc cần nhé.
Miệng nói, chân thúc vào hông con Tiểu Hồng mã vọt đi như tên.
Lỗ hữu Cước quá lo âu cho tánh mạng Hoàng Dung và Quách Tỉnh, vội hỏi với theo:
- Còn Quách, Hoàng, nhị vị ra sao cô nương?
Tiểu long Nữ quay đầu lại đáp vội:
- Cả hai người thẩy đều mạnh giỏi bình an, chỉ có đứa bé mới sinh ra bị người đàn bà vừa rồi đoạt mất. Bây giờ ta cần con ngựa này để đuổi theo giật lại.
Lỗ hữu Cước vội vàng thét quân thả cầu xuống. Cầu treo đang quay xuống, thòng chưa tới mặt đất thì Tiểu long Nữ đã giục ngựa sải tới. Con Tiểu Hồng mã qủa thật ngựa thần nó chỉ cần phóng mạnh hai chân sau, chở Tiểu long Nữ tung mình lao vút qua khỏi hào thành, trong những tràng hoan hô và vỗ tay vang dậy của hàng ngàn binh sĩ. Ngựa vừa lướt qua, Tiểu long Nữ đưa mắt nhìn xuống hào thành, thấy có hai tên quân và một con Chiến mã đang nằm chết vắt ngang bờ hào đổ ruột lòi gan trông thật rùng rợn. Nàng gia roi thúc ngựa phi hết nước, nhắm hướng Đông Bắc trực chỉ.
Nhắc lại Dương Qua và Kim Luân đuổi theo Lý mạc Thu khi tới đầu tường, Lý mạc Thu thấy bờ thành quá cao không tiện vọt qua. Nhưng vì quá túng, nàng bèn chộp lấy một tên quân ném thẳng ra ngoài rồi bất thần lao vút theo như chớp. Khi thi thể tên quân rơi gần tới ngáng chân hào, nàng bèn đặt chân lên lưng hắn dùng làm điểm tựa rồi nhún một cái vượt thêm mấy trượng nữa, vượt khỏi ra ngoài, rồi mau chân chạy nữa.
Kim Luân thấy nàng mạo hiểm tài tình quá, cũng phải lắc đầu thở dài vì thán phục. Nhưng lão nào chịu sút, nên cũng chộp một tên quân khác làm y như vậy qua khỏi thành rất dễ dàng. Dương Qua tới sau thấy vậy, bèn tung chưởng hất bay một con ngựa già đang ăn cỏ gần đấy tung bắn lên cao, rơi khỏi bờ thành rồi bước chân lên vọt theo sát nút.
Lý mạc Thu cắm đầu chạy mãi. Một chặp sau nàng quay đầu nhìn lại thấy Kim Luân và Dương Qua đuổi đã cận kề. Nàng nhìn quanh đấy thấy rừng núi hiểm trở, đá dựng chập chồng, cố chạy mau hơn nữa, định bụng rẽ vào rừng ẩn nấp. Tuy Tiểu long Nữ bảo rằng đứa bé này không phải con nàng, nhưng thấy Dương Qua cố đuổi theo bắt lại, Lý mạc Thu nghĩ rằng nhất định là con của hai người nhưng sư muội vì xấu hổ tìm cách chối quanh. Nàng định tâm bắt được đứa bé này để sau buộc hai người đem Ngọc nữ tâm kinh đổi lại. Như thế thì ước nguyện của nàng trong bao năm qua sẽ thực hiện được.
Cả ba càng chạy, rừng càng hiểm trở, lên dốc xuống đèo nguy nan vất vả, đường sá quanh co khúc khuỷu. Kim Luân Pháp Vương nghĩ rằng nếu
không bắt lại sớm, để cho địch lọt vào rừng thì không thể nào tìm lại được nữa. Vì vậy ông bèn ném theo một chiếc vòng. Chiếc vòng từ tay ông thoát ra xoay tít như chong chóng, xé gió rít vù vù lướt qua đầu Lý mạc Thu nghe cái vụt. Nhưng khi qua khỏi rồi, bỗng nhiên nó quay trở lại tấn công khiến nàng buộc lòng phài dừng chân lại. Nhờ vậy mà Kim Luân đã theo kịp bên chân. Lý mạc Thu bèn đứng lại rồi vung mạnh chiếc phất trần khiến bao nhiêu sợi lông trên ấy xỉa thẳng ra như muôn ngàn mũi dùi nhọn xuyên thẳng vào chiếc đầu trọc của Kim Luân. Kim Luân vội vàng dùng tay phải múa vòng chống cự lại còn tay trái đưa ra thu hồi chiếc vòng khi nãy vừa bay trở về.
-
Chương 57 - Vào Hang Núi Dùng Quỷ Kế Gạt Kim Luân - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 57 - Vào Hang Núi Dùng Quỷ Kế Gạt Kim Luân
Chiếc phất trần và vòng sắt chạm nhau một tiếng "ầm" dữ dội khiến cả hai cùng thấy tê buốt cả cánh tay. Thấy gặp phải tay địch thủ xứng đáng, Lý mạc Thu càng thêm phấn khởi, đem hết sở trường học lực ra tranh đấu, càng lúc càng quyết liệt. Hai người vừa đánh vùi hơn hai mươi hiệp,
Dương Qua đứng ngoài vừa xem vừa vận dụng nội công hít hơi lấy sức lại. Lý mạc Thu tuy là một tay kiệt hiệp giang hồ, nhưng đối với Kim Luân về võ công lẫn sức mạnh vẫn còn thua một bậc, nên sau gần trăm hiệp nàng đã kém thế dần trông thấy rõ. Tuy nhiên Lý mạc Thu để ý thấy mặc dù Kim Luân Pháp Vương thắng thế, nhưng mỗi khi chiếc vòng sắp chạm tới thân hình đứa nhỏ thì lão vội vàng thu lại ngay vì sợ chạm trúng nó bị thương. Nàng chợt nhớ ra một kế:
- Lão này đã muốn cướp đứa bé, lẽ tất nhiên không khi nào muốn nó bị thương tích, vậy ta phải dùng đứa bé làm bình phong để chống lại lão thì tiện lợi lắm.
Sau khi nắm trúng nhược điểm của Kim Luân thì cứ mỗi bận lâm nguy. Lý mạc Thu lại dùng đứa bé đưa ra chống đỡ khiến cho Kim Luân không dám đánh mạnh đòn. Kim Luân Pháp Vương tuy thắng thế và nóng ruột muốn giải quyết chóng mau nhưng cũng không thể làm chi được. Kim Luân tấn công luôn ba thế vô cùng ác liệt Lý mạc Thu đưa đứa bé ra đỡ. Dương Qua trông thấy hoảng sợ vì nếu một trong hai người sơ ý một tý là đứa bé vô tội mất mạng ngay. Chàng đang băn khoăn suy nghĩ cách đối phó, bỗng nhiên Kim Luân tung hai chiếc vòng từ ngoài đánh thốc vào như muốn ôm choàng lấy đối phương vào lòng, khiến Lý mạc Thu giận mặt, mắng thầm một kẻ tu hành lạì dùng một thế võ thiếu lễ độ và kỳ cục đối với một phụ nữ. Nàng vội vung chiếc phất trần một vòng rộng đánh bật đôi vòng ra rồi dùng đứa bé lên án ngữ trước ngực.
Nhưng lúc đánh ra thế này, Kim Luân đã có dự liệu trước, nên thình lình vụt một chiếc vòng bay khỏi bàn tay xắn vào đầu đối phương. Lý mạc Thu không còn cách nào hơn để tránh đỡ, phải ngã bật người ra phía sau, tay vẫn đập cây phất trần vào vai Kim Luân. Kim Luân lách vai hữu tránh đòn ấy, dùng tay tả chém thật mạnh vào cánh tay mặt của Lý mạc Thu nghe "bịch" một tiếng khiến toàn cánh tay nàng phải rủ riệt và tê rần như không còn cảm giác nữa. Đứa bé lại bị Kim Luân đoạt mất. Kim Luân đang hân hoan, bỗng nghe một luồng gió mát xướt qua mang tai, Dương Qua đã bất thần phóng tới giật lại đứa bé rồi múa kiếm thành một vòng tròn che chở khắp mình nó, đoạn dùng thế "đẩy thuyền theo nước" chận hậu rồi tung người đứng dậy nhìn Kim Luân mỉm cười đắc chí.
Đó là một đòn liều mạng mà Dương Qua đã bất ngờ tung ra để đoạt lại đứa bé trước sự căm giận sôi gan của Kim Luân.
Chỉ trong khoảnh khắc mà đứa bé đã chuyền trong tay ba người mau như chớp nhoáng. Lý mạc Thu phải buột miệng khen lớn:
- Hay quá, Dương Qua đã sử dụng thế võ hay lắm đáng khen thật. Kim Luân nổi khí xung thiện, tung vòng tấn công ngay Dương Qua múa kiếm chống lại và quay mình định bỏ chạy nhưng Lý mạc Thu đã vung phất trần chận lại khẽ bảo:
- Khoan chạy đã, hãy ở lại chống cự với lão hòa thượng này rồi sẽ đi.
Ngay lúc đó chiếc vòng của Kim Luân vù vù ập tới như núi sập khiến Dương Qua phải lo chống đỡ.
Suốt mấy ngày cùng nhau giao đấu, ai ai cũng đã hiểu các ngón sở trường của nhau rồi, nên trong giờ phút này người nào cũng quyết đem hết tài nghệ đánh gấp để giải quyết mau lẹ. Dương Qua vì phải bồng thêm một đứa bé, nên chỉ trong vòng năm chục hiệp đã núng thế dần. Cứ so sánh trong ba đối thủ này thì Kim Luân có bản lãnh cao nhất, Lý mạc Thu lại hiểm độc ác nghiệt, nhưng Dương Qua lại nhiều cơ mưu xảo quyệt nhất. Trong khi bị đối phương đẩy vào thế bị động, Dương Qua bèn cố tìm mọi cách để cải thiện tình hình, lợi dụng cơ hội thoát thân, chàng nghĩ bụng:
- Ngày xưa, trong thời kỳ Tam quốc, vì nước Nguỵ mạnh mẽ nhất nên Lưu Bị phải liên kết với Tôn Quyền mới chống cự lại nổi với Tào Tháo. Hôm nay nếu Lý mạc Thu không chịu giúp ta thì ta phải giúp bá bá mới chống nổi với lão hòa thượng này.
Nghĩ xong, chàng vung kiếm chém luôn hai nhát thật mạnh, khiến Kim Luân phải thối lui ra sau rồi chàng đưa đứa bé cho Lý mạc Thu miệng bảo:
- Sư bá hãy bồng lấy.
Hành động quá ư bất ngờ khiến Lý mạc Thu tuy mừng rỡ nhưng không biết dụng ý của Dương Qua ra sao hết. Tuy nhiên nàng cũng đưa tay nhận lấy đứa nhỏ.
Dương qua lại la lớn:
- Sư bá hãy bồng nó thoát đi, phía sau đã có tôi cản hậu đừng lo gì hết.
Nói xong, chàng vận sức vào tay, chém lên vùn vụt, tung ra liên tiếp những thế ác liệt vô cùng, khiến cho Kim Luân phải ngán mà không dám xáp lại gần.
Lý mạc Thu nghĩ thầm:
- Có lẽ trong lúc cùng nguy ngập, hắn nghĩ tình đồng môn giúp đỡ ta chăng? Chắc hắn biết rằng ta không khi nào nỡ hại tới đứa bé nên mới trao cho ta bồng để thoát thân.
Nhưng Lý mạc Thu không ngờ Dương Qua đã cố đẩy đại họa về mình. Khi thấy đứa bé đã lọt vào tay họ Lý, Kim Luân đã bỏ Dương Qua vung
chiếc vòng tấn công mạnh vào hậu tâm nàng ngay.
Đây là một miếng đòn vô cùng lanh lẹ và hiểm yếu. Lý mạc Thu vừa nhún chân nhảy đi thời chiếc vòng đã xoắn tít theo sau như bóng với hình, khiến cho nàng buộc lòng phải dừng chân lại để đối địch.
Dương Qua thấy mưu kế đã thành, thở phào một tiếng như trút hết gánh nặng rồi đứng yên một chỗ hô hấp để điều hòa công lực, rồi múa gươm xông vào trợ chiến nữa.
Khi ấy mặt trời đã đứng lên đỉnh đầu, ánh nắng xuyên qua rừng rậm sáng choang, khiến cho Dương Qua cảm thấy tinh thần thêm phấn chấn càng đấu càng hăng thêm. Bỗng nhiên một tiếng "choang" vang động cả khu rừng, chiếc vòng của Kim Luân đã bị thanh quân tử kiếm của Dương Qua chặt đứt mất một mảng lớn. Dương Qua nghĩ thêm một kế nên gọi lớn:
- Lý sư bá khá cẩn thận, đừng chạm tới chiếc vòng này vì nó đã bị nhiễm độc rồi đấy nhé.
Lý mạc Thu lạ lùng quá hỏi lớn:
- Vì sao vậy?
Dương Qua đáp:
- Vì thanh gươm tôi có ngâm thuốc rất mạnh.
Lúc nãy Kim Luân bị thanh gươm chém một vết khá sâu, trong lòng đang sợ trúng độc. Đã lâu chưa thấy đau nhức gì, hắn đang nghi ngại chưa biết ra sao thì Dương Qua bỗng nhắc thêm lần nữa, khiến y lại suy nghĩ: "Công Tôn Chỉ là đứa hiểm ác, gươm của hắn có tẩm độc cũng nên".
Vì phân tâm bởi ý nghĩ nhiễm độc, y sơ hở bị Lý mạc Thu đập một phát trúng vào lưng và gọi lớn:
- Dương Qua hãy dùng kiếm độc và đâm hắn đi cho rồi.
Nàng nói xong liền vung bàn tay phải như để quăng ám khí khiến Kim Luân giật mình nhảy vọt qua một bên. Nhưng thật ra đó chỉ là một hư thế đánh lừa đối phương để tìm cách thoát khỏi áp lực quá mạnh của mấy chiếc vòng.
Thấy nàng vừa nhún mình thoát thân, Kim Luân vẫn không chịu bỏ cứ cố bám theo mãi. Dương Qua thấy trận đấu cứ tiếp diễn mãi như thế này thì biết chừng nào mới kết liễu. Nếu để kéo dài e đứa bé nhiễm lạnh hoặc bị thương, chi bằng liên kết với Mạc Thu để đối phó với lão này, rồi sau đó sẽ hay.
Nghĩ xong, chàng hô lớn:
- Sư bá hãy chạy mau, tên ác tăng đã nhiễm độc rồi mạng sống của hắn không còn bao lâu nữa đâu.
Nói chưa dứt lời thì Lý mạc Thu đã bồng đứa nhỏ chui tọt vào một hang đá gần đó mất dạng. Kim Luân Pháp Vương ngơ ngác nhìn quanh chưa dám đuổi theo vì trong đó chật hẹp khó xoay trở, nếu hắn dùng ám khí thì nguy lắm. Dương Qua tuy trao đứa bé cho Lý mạc Thu nhưng chàng chưa đoán ra nàng muốn bắt nó để làm gì, nên khi thấy nàng lọt vào hang núi rồi cũng cảm thấy hoảng sợ, e rằng sẽ có điều gì bất trắc.
Chàng vội cầm kiếm án ngữ phía trước rồi xông luôn vào hang. Bỗng nghe ba tiếng "choang, choang, choang" lảnh lót, ba ngọn "băng phách ngân châm" đã chạm phải thanh gươm rơi xuống đất. Dương Qua hoảng hốt la lớn:
- Sư bá hãy dừng tay, cháu đây mà.
Mặc dù trong hang đá tối mò, nhưng mắt chàng có thể nhìn được trong tối nên Dương Qua trông thấy Lý mạc Thu một tay bồng đứa nhỏ, một tay cầm sẵn ba mũi băng phách ngân châm khác định phóng ra.
Để gây thiện cảm cùng họ Lý, Dương Qua quay lưng vào trong, mặt nhìn ra cửa nói khẽ:
- Chúng ta phải liên kết cùng nhau mới giết được tên ác tăng này.
Miệng nói, tay chàng nắm chặt đốc gươm chặn ngay cửa hang. Trong khi đó Kim Luân Pháp Vương dự đoán hai người chưa dám chạy ra liền dừng chân lại ngồi xếp bằng phía xa, cởi áo soát lại vết thương.
Thấy vết thương chỉ có máu tươi chay ri rỉ, không có hiện tượng gì bị nhiễm độc, đè thử thấy đau chứ không tê tái, vận nội công thì huyết mạch vẫn lưu thông đều đặn bình thường. Kim Luân mới mừng rỡ nghĩ thầm: "Thằng ranh con đã gạt ta, khiến mình lo sợ mãi từ sáng tới giờ qủa vô lý quá".
Lúc bấy giờ Kim Luân mới để ý quan sát phía trước cửa động thấy tứ bề cỏ mọc rậm và cao. Miệng hang vừa thấp vừa chật, xét lại thân hình mình thì phốp pháp đẫy đà, chen vào bất tiện vừa nguy hiểm nên Kim Luân chỉ đứng ngoài tìm cách khác.
Trong lúc đang phân vân tìm chưa ra mưu kế gì cả thì từ phía sau trên núi có tiếng người hỏi:
- Pháp Vương làm chi ngẩn người đứng đó?
Nghe giọng nói, Kim Luân biết Ni ma Tinh, nhưng đôi mắt ông vẫn không ngó lên cứ chăm chú vào cửa hang và đáp:
- Ta đang tìm cách đuổi ba con thỏ vừa chạy vào hang này.
Nguyên Ni ma Tinh sau khi chiến đấu tại thành Tương Dương không kết quả thì mình buồn lòng định trơ về bản trại, bỗng nghe tiếng vòng kêu leng keng về phía núi thì đoán chắc Kim Luân Pháp Vương đang chiến đấu cùng kẻ địch nên vội tìm đến xem sao. Khi Ni ma Tinh đến nơi thì hai người đã chui vào hang rồi chỉ còn một mình Kim Luân đứng ngoài chăm chú nhìn vào, thì vui vẻ hỏi:
- Sao, Quách Tỉnh đã trốn trong hang này phải không?
Kim Luân thờ ơ đáp:
- Không phải đâu, chỉ có một con thỏ cái, một con thỏ đực còn tơ và một con thỏ con mà thôi.
Ni ma Tinh hân hoan nói:
- à phài rồi, nhất định là vợ chồng Quách Tỉnh và Dương Qua rồi chứ không còn ai nữa hết.
Kim Luân không đáp, đưa mắt nhìn xung quanh rồi vùng nghĩ ra một kế. Ông bèn chạy đi lượm một số cỏ khô và cành cây chất trước miệng hang rồi đánh lửa đốt lên. Ngọn lửa vừa bốc lên, gặp gió đang thổi mạnh càng cháy rần rật, khói tuôn mù mịt, luồn vào tận trong hang.
Dương Qua vừa thấy Kim Luân chất củi đã đoán biết được mưu toan của ông, đồng thời thấy thêm một địch thủ lợi hại nữa là Ni ma Tinh nên chàng quay sang nói nhỏ cùng Lý mạc Thu:
- Sư bá xem chừng, tôi đi quan sát lại coi hang này có ngách nào trốn đi nơi khác chăng nhé.
Nói dứt lời chàng xông xáo đi khắp các nơi để xem xét. Hang này vào trong độ non một trượng nữa là bí lối, ngoài ra không còn một hẻm ngách nào khác nữa.
Dương Qua hỏi nhỏ Lý mạc Thu:
- Sư bá, bọn chúng quyết đốt lửa xông bọn ta, bây giờ nên đối phó làm sao đây?
Lý mạc Thu suy nghĩ: "Nếu bây giờ chạy ra chắc không thoát tay của lão hòa thượng. Trái lại nếu cứ ở lỳ trong hang thì làm sao chịu khói cho nổi. Thôi đến đâu hay đấy chứ sao. Tới phút chót cùng lắm là ném đứa bé cho lão là xong. Ta với lão đâu có thù oán gì mà cố lòng hại nhau. Lão cố tình bức bách ta chẳng qua là vì muốn dành lấy đứa bé. Khi đã giao cho hắn rồi, tất nhiên hắn sẽ không còn lý do làm khó dễ mình nữa".
Nghĩ vậy nên Lý mạc Thu yên trí không lo ngại gì hết, nét mặt thản nhiên như không có gì nguy hiểm đang diễn ra trước mặt. Chốc chốc trên môi lại nở một nụ cười nham hiểm.
Theo gió thổi lồng ngày càng mạnh, khói xông vào hang ngày một nhiều thêm. Dương Qua và Lý mạc Thu nhờ nội công cao cường, có thể nín thở để chịu đựng, nhưng đứa bé bị ngộp khói khóc lạc giọng.
Thấy Dương Qua đưa mắt nhìn đứa bé ra chiều thương xót, Lý mạc Thu cười gằn hỏi:
- Mi có đau lòng và thương xót hắn không?
Dương Qua đã trải bao nhiêu vất vả gian nguy với đứa bé trong tay, nên đã thấy mến thương nó nhiều lắm. Thấy nó khóc nhiều quá, chàng cũng nóng ruột đưa tay bảo:
- Sư bá hãy đưa nó cho tôi bồng hộ một lát.
Lý mạc Thu lườm chàng một cái, cầm phất trần quất luôn lên lưng và thét lớn:
- Dang ra chỗ khác, mi không sợ Băng phách ngân châm sao?
Dương Qua hoảng hốt vội lùi xa ra mấy bước. Khi nghe Lý mạc Thu nhắc tới bốn tiếng "Băng phách ngân châm" chàng bỗng nhớ ra một kế cúi ngay xuống, xé vạt áo bọc tay lượm ba cái ngân châm vừa rơi lúc nãy đem cắm trên mặt đất ngay trước cửa hang để làm bẫy. Làm xong, chàng nói nhỏ cùng Lý mạc Thu:
- Sư bá hãy ráng dỗ cho nó nín đi, tôi đã có kế hoạch đối phó với chúng rồi.
Nói xong chàng thét lớn ai nấy cùng nghe:
- Sư bá, tôi đã tìm được ngách đi ngang rồi, chúng ta cứ theo lối ấy cho rồi...
Thấy chàng nói có vẻ quả quyết và tự nhiên quá Lý mạc Thu vừa mừng rỡ vừa ngạc nhiên, bèn đáo mắt nhìn quanh tìm lối đi ngang. Nhưng Dương Qua lại gần nói nhỏ:
- Không phải đâu, đó là kế nghi binh để dụ địch đó mà!
Phía ngoài Kim Luân và Ni ma Tinh vừa nghe Dương Qua bảo có lối trổ đi nơi khác thì hoảng hốt, vội lắng tai nghe động tịnh. Trong hang trở nên lặng yên và tiếng trẻ con khóc cũng dần dần chìm mất nơi xa. Bọn họ nghĩ rằng hai người đã bồng đứa bé đi ra chỗ ấy chứ có ngờ đâu Dương Qua đã dùng vải bịt miệng đứa bé lại không cho khóc nữa. Ni ma Tinh có tánh nông nổi và nóng nảy vô cùng, nên khi nghe nói chẳng cần đắn đo bèn phi thân chạy vòng ra phía sau núi để đón chận ngõ ra!
Nhưng Kim Luân thì cẩn thận hơn, ông đứng lại lắng tai nghe kỹ và nhận thấy tiếng đứa trẻ khóc nhỏ dần là vì bịt miệng lại chứ không phải vì bồng đi xa. Ông thừa hiểu Dương Qua dùng quỷ kế gạt mình, nếu nông nổi chạy ra phía sau núi, hắn sẽ thừa cơ tẩu thoát ngay. Ông mỉm cười tự đắc lẩm bẩm:
- Mi khôn lanh lừa được ai chứ gạt ta sao nổi?
Nói xong nắm chặt hai chiếc vòng tay, nín thở nép mình dưới bụi cỏ cao trước miệng hang, kiên nhẫn chờ đợi, hễ hai người ló đầu ra là tấn công liền. Ngay lúc đó Dương Qua nói lớn:
- Hai thằng ác ôn đã đi xa rồi, chúng ta đi ra thôi sư bá.
Nói xong chàng ghé tai Lý mạc Thu dặn nhỏ:
- Chúng ta cùng rú lớn để dụ hắn chạy vào nhé.
Lý mạc Thu chẳng biết sự định của Dương Qua ra sao nhưng nàng thừa biết cậu ta là một người lắm mưu nhiều kế nên cũng gật đầu đồng ý. Thế rồi hai người cùng rú lên một tiếng não nề như vừa bị thương nặng. Dương Qua rên rỉ nói:
- Mi nỡ nào gạt ta để hạ độc thủ như vậy?
Lý mạc Thu cũng mắng lại:
- à thằng ranh con, dù ta bị chết về tay mi, nhưng ta cũng quyết phanh thây mi từng mảnh trước khi nhắm mắt.
Kim Luân đứng ngoài cửa hang nghe hai người rú lên và đối thoại như thế thì mừng húm va suy nghĩ: "Té ra chúng bây đã giành đứa nhỏ mà sát
hại lẫn nhau. Cứ như giọng nói thì nhất định cả hai đều mang trọng thương hết".
Rồi sợ đứa bé bị hại lây, chừng ấy mình không có thứ gì làm con tin uy hiếp vợ chồng Quách Tỉnh nên ông vội vẹt bụi, lách cỏ xăm xăm bước vào. Cửa hang đã tối lại chật nên Kim Luân cứ bước, hầu như không trông thấy gì hết. Chỉ bước được năm bước, bỗng nhiên chân trái bị thốn mạnh một cái và tê rần. Kim Luân vội vàng nhấn mạnh chân phải tung mình nhảy vọt trở ra gọn gàng.
Khi bàn chân trái vừa chấm đất đã thấy không còn cảm giác nữa, vì trong thời gian này, thuốc độc của Băng phách ngân châm đã thấm vào máu và bắt đầu công phạt rồi.
Kim Luân Pháp Vương biến sắc lo ngại:
- Thói thường, nếu bị chém hay đâm vào thịt chỉ thấy đau chứ không bao giờ tê buốt như thế này. Có lẽ ta đã chạm phải một thứ ám khí gì đó âm độc nặng lắm.
Suy nghĩ xong, muốn cởi giày ra xem thử nhưng ngay lúc đó Ni ma Tinh đã từ phía sau núi chạy ra lẩm bẩm:
- Qủa là thằng nhỏ nói khoác. Nào thấy ngõ ngách nào đâu mà trốn ra? Có lẽ Quách Tỉnh vẫn còn ẩn nấp trong hang chứ chưa đi đâu hết.
Nghe y nói, Kim Luân ngừng tay không cởi giày nữa, cố giữ giọng bình tĩnh nói:
- Ngươi đoán có lẽ không sai. Hang này không có ngõ nào khác nữa. Hồi lâu bị xông khói có lẽ chúng đã hôn mê vì ngộp thở rồi.
Vừa nghe nói, Ni ma Tinh mừng quýnh, chắc bụng phen này chức "đệ nhất dũng sĩ" phải về mình. Rồi quá hấp tấp không chịu suy nghĩ vì sao Kim Luân lại ngồi ngoài này chẳng chịu vào để lập kỳ công, Ni ma Tinh vung cây gậy ra phía trước thủ thế phòng bị tấn công bất ngờ rồi khom người chui luôn vào hang. Đang hăm hở bước vào độ năm bước bỗng đạp phải một mũi ngân châm chưa kịp phản ứng thì chân kia cũng lãnh thêm một mũi nữa.
Vốn bản chất hung hăng và liều lĩnh, nên mặc dù biết đạp phải ám khí nhưng Ni ma Tinh vẫn không chịu rút lui, cứ vung gậy quét mạnh phía dưới rồi phi thân chạy xông vào quyết bắt cho được Quách Tỉnh. Nhưng khi vừa bước được năm ba bước nọc đã thấm vào máu, công phạt lẹ làng, khiến toàn thân rúng động, cả hai chân bị tê liệt không cử động nổi, té dài dưới đất. Lúc ấy, Ni ma Tinh biết mình rủi đạp trúng một thứ kim có tẩm thuốc quá độc, vội vàng chống tay bò gấp trở ra. Vừa tới miệng hang đã thấy Kim Luân Pháp Vương cởi giày tay ôm bàn chân sưng vù như cái bắp chuối, xung quanh bầm tím cả và ông ta đang vận nội công bế huyệt để cản chất độc, không cho rút vào tim. Ni ma Tinh vừa sợ vừa giận, mặt mày tái mét thét lớn:
- Lão già trọc quả nhiên hiểm ác! Tại sao mi đã trúng kim độc mà không báo trước cho ta biết để đến nỗi này?
Kim Luân nhăn nhở cười hề hề và nói:
- Ta đã trúng kế bọn chúng thì cũng để cho mi nếm mùi một tý cho có bạn và khỏi phải phân bì chứ.
Ni ma Tinh tức giận, gầm lên như cọp rống:
- Thôi hôm nay ta không cần bắt Quách Tỉnh nữa, chi quyết liều sống chết cùng mi mà thôi.
Bởi hai chân đã tê liệt mất rồi không thể cử động được, hắn dùng tay trái chống xuống đất phóng ngược lên trên, đáp ngay vào người Kim Luân rồi dùng tay mặt vụt một gậy vào mặt Kim Luân.
Kim Luân tung chiếc vòng chận gậy rồi thốc một cùi chỏ vào ngực Ni ma Tinh trả miếng tức thời.
Vì thân hình đang lơ lửng trên không, chân lại tê chết rồi, nên Ni ma Tinh không thể nào tránh né nổi, đành nhận một đòn thật nặng ngay giữa ngực, đau thấu ruột gan. Đau quá sanh liều, Ni ma Tinh xông ào tới chụp đại Kim Luân, kê miệng cắn nhầu, bất ngờ cắn trúng ngay huyệt "khí xá" ở dưới cổ Kim Luân.
Với tài nghệ của Kim Luân, thì không khi nào Ni ma Tinh có thể nhập nội và phạm được vào yếu huyệt của Kim Luân như vậy, nhưng hôm nay vì đang bị nọc độc công phạt, bao nhiêu công lực phải dồn hết vào huyệt "khúc tuyền" nơi đầu gối, ngăn chặn nọc độc chạy về tim, nên Kim Luân đành để cho Ni ma Tinh hành hung và cắn trúng huyệt nơi cổ. Kim Luân chỉ có cách đưa ngược chân lên đạp mạnh vào chân Ni ma Tinh, khiến cả hai cùng mất thăng bằng nhào lăn trên mặt đất. Kim Luân cố sức vẫy vùng để thoát khỏi vòng tay của Ni ma Tinh, nhưng vì trong huyệt đã bị cắn không làm sao xuể. Cùng cực ông mới cố lòn tay xuống dưới chặt khóa huyệt "Đại xuy" của hắn. Thế rồi hai người quấn chặt lấy nhau lăn lộn đùng đùng trên đất, không bao lâu đã lăn ra xa, suýt rơi xuống vực đá thật sâu trước mặt. Trong khi bị nguy biến muôn phần, Kim Luân bỗng nghĩ ra một kế, bèn la lớn:
- Quách Tỉnh, bây giờ mi mới tới sao?
Ni ma Tỉnh sợ quá vội hỏi:
- Quách Tỉnh đâu rồi?
Vì há miệng hỏi nên Ni ma Tinh đã vô tình rời khỏi huyệt "khí xá" cho Kim Luân. Khi biết mình bị lừa, Ni la Tinh tức quá lại lăn xả vào ôm nữa. Kim Luân tống luôn ra một quyền ác liệt, nhưng trong lúc liều mạng Ni ma Tinh không kể chết, cứ bám chặt lấy ông. Thế là cả hai lại tiếp tục vật nhau một keo nữa. Bất ngờ cả hai cùng hụt chân cùng lăn tòm xuống hố sâu thăm thẳm.
Trong hang Lý mạc Thu lặng thinh theo dõi thấy mưu kế Dương Qua có hiệu lực thì bất giác khen:
- Thắng bé quả có nhiều mưu cao.
Ngoài hang, hai người đánh và vật nhau huỳnh huỵch vang động cả vách đá. Hai người muốn thừa cơ tẩu thoát ra ngoài, nhưng ngay lúc đó Kim Luân và Ni ma Tinh cùng rú lên một tiếng hãi hùng rồi nín bặt luôn, không nghe gì nữa. Lý mạc Thu ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao chúng nín thinh như thế?
Dương Qua cũng không ngờ hai tay bản lãnh tuyệt vời lại có thể nhào lăn xuống vực thắm như thế nên ngơ ngúc một chặp rồi nói:
Lão hòa thượng này lắm mưu nhiều kế lắm, không chừng bắt chước mình làm kế dụ địch để bọn ta đi ra mà bắt cũng nên. Lý mạc Thu thấy chàng đoán có lý nên gật đầu bảo:
- ừ đúng đấy, thế nào chúng cũng lừa chúng mình ra để ép trao thuốc trừ độc chứ gì.
Nhưng chờ mãi hàng giờ vẫn không thấy động tĩnh, Lý mạc Thu bảo Dương Qua:
- Thôi, nhổ hết kim lên rồi ra ngoài xem sao, chả lẽ cứ rú trong này mãi sao?
Dương Qua đáp:
- Cần gì nôn nóng. Chúng ta cứ đứng lỳ đây một chặp nữa, chờ nọc độc ngấm vào tim chúng chết hết sẽ ra cho bảo đảm.
Nghe chàng nói, Lý mạc Thu cũng ngán cho...
(*** Mat 2 trang ***)
Dương Qua nghe nói hết hồn, mồ hôi nhỏ giọt khắp mình, nhưng chàng vẫn giả bộ nói cứng:
- Nếu mi không nói xấu cô nương ta thĩ ta mới nghe lời mi được.
Lý mạc Thu dịu giọng nói:
- Thôi, ta không nói xấu hắn nữa đâu. Bây giờ mi hãy ra ngoài xem thử bọn chúng đang làm gì?
Dương Qua vâng lời rón rén bước nhẹ ra ngoài hang xem động tĩnh. Chàng nhìn khắp xung quanh không thấy Kim Luân và Ni ma tinh đâu hết, trong lòng nghi hoặc vô cùng, một chặp mới nói vọng vào trong:
- Không biết chúng đã đi ngả nào mất cả rồi.
Vừa nghe xong Lý mạc Thu chạy thẳng ra khỏi cửa hang rồi lao mình chạy luôn, không nhìn trở lại.
Dương Qua hỏi theo:
- Mi bồng đứa bé đi đâu vậy?
Lý mạc Thu không dừng chân, trả lời luôn:
- Về nhà ta chứ còn đi đâu nữa.
Chàng hoảng hốt hỏi:
- ủa, hắn đâu phải con mi mà mi bồng về nhà?
Lý mạc Thu thẹn đỏ mặt mắng:
- Đừng có nói nhảm. Mi hãy đưa tập Ngọc Nữ Tâm Kinh cho ta thì ta trao đứa bé này lại ngay.
Nói xong, nàng dùng khinh công bay vút về phía Bắc. Dương Qua không chịu bỏ, phi thân chạy theo thét lớn:
- Khoan đã, mi hãy cho nó bú tí đi nó đã khát sữa lắm rồi.
Lý mạc Thu vừa giận vừa mắc cỡ, mặt mày đỏ gay, quay lại nạt lớn:
- Thằng chết băm chỉ chuyên môn nói bậy nói bạ, không biết nể nang ai hết. Ta thưởng cho một mũi ngân châm mất mạng bây giờ.
Dương Qua tuy buồn cười trong bụng, nhưng cố làm nghiêm đáp:
- Quả thật nó đang khát sữa chứ ta đâu có nói gàn. Nếu mi không cho bú nó sống sao nổi?
Lý mạc Thu nổi nóng quát lớn:
- Nói bậy! Con người ta trong trắng như tuyết băng, làm sao có sữa mà cho hắn bú được?
Dương Qua nở một nụ cười đắc chí đáp:
- Sư bá! Tôi đâu có bảo thế. Tôi chỉ muốn sư bá tìm sữa cho nó bú đấy thôi. Nào phải buộc sư bá tự mình...
Lý mạc Thu đang phi thân vùn vụt, bỗng đứng phắt lại bảo lớn:
- Câm mồm.
Dương Qua dịu lời nói:
- Sư bá hãy chịu khó vào xóm xem có người đàn bà nào có sữa, nhờ họ cho hắn bú tý kẻo tội.
Lý mạc Thu đồng ý, bèn phi thân chạy thẳng trên chóp núi, đưa mắt quan sát tận đằng xa. Bỗng thấy đằng phía Đông có làn khói xám đang bốc lên trời. Nàng cả mừng phi thân chạy về hướng đó.
Không mấy chốc hai người đã gặp một xóm nghèo nàn nhỏ bé, chỉ lưa thưa có năm ba túp lều tranh xơ xác. Hai người đến từng nhà xem có ai để nhờ cậy mãi tới nhà thứ tư mới gặp một thiếu phụ đang bồng một đứa con độ sáu bảy tháng, ngồi cho bú trên đầu giường.
Lý mạc Thu mừng rỡ, đưa tay kéo đứa bé ném ra đầu giường ra lệnh:
- Hãy cho đứa bé này bú đi, hắn đang đói lắm.
Nàng vừa nói vừa nhét đứa con Quách Tỉnh vào lòng thiếu phụ ấy. Đứa nhỏ kia bị ném ra giường khóc ngất. Thiếu phụ đau lòng, vội vàng đưa tay bồng lên. Nhưng Lý mạc Thu thét lớn:
- Ta ra lệnh ngươi phải cho đứa bé này bú ngay, tại sao ngươi chẳng vâng lời mà cứ cho con ngươi bú mãi?
Nói vừa dứt lời bỗng nghe "bịch" một tiếng. Dương Qua nhìn lại thấy Lý mạc Thu đã dùng phất trần cuốn đứa bé, ném vào một góc nhà. Thiếu phụ nóng ruột vì quá thương con, vội chồm theo, miệng òa lên khóc ngất. Lý mạc Thu nổi nóng, dùng phất trần đập vào lưng nàng nọ. Dương Qua bất nhẫn quá, bèn rút thanh Quân tử kiếm ra can, trong bụng nghĩ:
- Trên đời không có ngươi đàn bà nào ác độc bằng con mẹ này!
Tuy trong bụng rủa thầm, nhưng ngoài miệng vẫn ngọt ngào nói:
Nếu sư bá giết nó thì lấy đâu ra sữa đâu cho đứa bé bú nữa?
Lý mạc Thu trợn mắt thét lớn:
- Cấm ngươi dạy khôn ta nữa. Sở dĩ ta phải làm như thế là vì muốn con mi no bụng.
Dương Qua cười giả lả nói:
- Nó đói quá, cho nó bú tý kẻo tội nghiệp.
Vừa nói, chàng đưa tay định bồng. Nhưng Lý mạc Thu đưa phất trần ngăn lại nói:
- Cấm mi không được sờ tới nó.
Dương Qua phải rút lui ra xa miệng cười đáp:
- Thôi, tôi không ẵm đâu.
Lý mạc Thu bồng đứa bé lên định trao cho thiếu phụ, nhưng nàng đã thừa lúc hai người không để ý bồng con chạy mất.
Lý mạc Thu nổi nóng, phi thân lên nóc nhà nhìn ra xa, thấy người thiếu phụ đang bồng con cắm đầu chạy đằng xa. Tức thì nàng phi thân đuổi theo, dùng phất trần đập mạnh một cái cả hai mẹ con thiếu phụ nát bấy như tương. Rồi trong lúc cơn giận chưa nguôi, Lý mạc Thu nổi lửa đốt luôn mấy gian nhà tranh của vùng này, xong mới bỏ ra ngoài đầu xóm.
Dương Qua ngao ngán, nhưng cũng lẽo đẽo bước theo. Hai người lẳng lặng bước đi, không ai nói câu nào. Sau khi vượt qua trên mười dặm đường xóm rừng núi, thì đứa bé đã khóc đã cả người nằm thiếp trên tay Lý mạc Thu.
Trong khi đang đi bỗng nhiên Lý mạc Thu ồ lên một tiếng rồi đứng phắt ngay lại. Trước mặt nàng có hai con beo con rất mụ mẫm đang nô đùa trong mấy bụi cỏ. Lý mạc Thu tiến tới mấy bước, định gạt chúng tránh qua một bên, bỗng có tiếng gầm gừ từ trong gộc đá bên cạnh đó, rồi một con beo rất lớn nhe răng đập đuôi phóng vút lại chụp nàng, lanh như chớp.
Lý mạc Thu lẹ làng né sang một bên, rồi dùng chiếc phất trần đánh tạt vào mặt nó. Con beo gầm lên một tiếng rồi ngồi sụp xuống thủ thế, hai mắt muốn phát ra điện, chỉ chờ cơ hội là nhảy lại tấn công ngay.
Lý mạc Thu vung tay áo, tức thì hai mũi ngân châm lao thẳng về cặp mắt beo. Dương Qua lẹ làng nhảy tới dùng gươm gạt phắt hai mũi ngân châm rớt xuống đất miệng thét:
- Khoan đã!
Nhưng ngay lúc đó con beo đã tung mình nhảy vút lên cao rồi chụp xuống ngay đầu Dương Qua.
Dương Qua vừa gạt rớt hai mũi ám khí thuận tay dùng sống kiếm đánh tạt ngang cổ con beo khiến hắn mất thăng bằng ngã lăn ra đất, bốn vó chổng lên trời.
Lý mạc Thu ngạc nhiên không hiểu vì sao Dương Qua lại hất mấy mũi ngân châm của mình không cho hạ sát con ác thú. Nàng đang suy nghĩ tìm nguyên do của hành động này thì con beo đã đập đuôi lồm cồm đứng dậy. Nhưng nó chưa đứng vững đã bị Dương Qua tấn công luôn một chưởng ngã quay ra, và liên tiếp thêm mười chưởng nữa, khiến con ác thú không chịu đựng nổi quay đầu chạy trốn.
Dương Qua dự định hễ con beo quay mình lại sẽ nắm đuôi để bắt nó. Nhưng vì bị liên tiếp mấy đòn quá đau, beo ta đã cụp đuôi mất thành thử không nắm được vào đâu cả và đành phải để nó chạy thoát vậy.
Chàng đang lẩm bẩm tiếc rẻ thì con beo chạy được mấy trượng bỗng dừng lại gọi hai con chạy theo.
Dương Qua chợt nghĩ ra một kế. Chàng túm lấy hai con beo con đưa cao lên không giả bộ như sắp vật chứng xuống đá.
Con beo mẹ nóng lòng vì sợ hai con bị hại, vừa rống lên một tiếng vang lừng nhảy xổ tới tấn công Dương Qua. Dương Qua lẹ tay trao hai con beo nhỏ cho Lý mạc Thu rồi tunh mình bay bổng lên cao. Khi chàng rơi xuống ngồi đúng trên lưng con beo mẹ. Lập tức chàng nắm luôn hai tai nó lôi vật mạnh xuống, miệng bảo Lý mạc Thu:
- Lý sư bá hãy bóc một số vỏ cây trói bốn cẳng nó lại có việc cần dùng bây giờ.
Lý mạc Thu hứ một tiếng rồi lạnh lùng đáp:
- Thôi, ta không thì giờ đâu đùa việc trẻ con với mi nữa.
Nói xong, nàng quay lưng định bước đi. Nhưng Dương Qua thét lớn:
- Tôi đâu có đùa với sư bá! Con beo này có nhiều sữa tốt lắm mà.
Lý mạc Thu bỗng sực nhớ lại gật gù nói:
- Phải, thằng bé này quả lanh thiệt.
Nói xong, nàng chạy lại mấy cây gần tước một số vỏ kết thành một sợi dây khá chắc buộc chặt bốn chân beo bỏ nằm dưới đất.
Công việc xông xuôi, Lý mạc Thu bồng đứa nhỏ lại kê miệng nó vào vú beo cho bú. Vì khát sữa quá lâu, vừa đánh được hơi sữa là bú ngay. Một chặp sau đứa bé bú đã no nê, rời vú nằm thiêm thiếp ngủ yên lành trong lòng Lý mạc Thu.
Khi ấy hai con beo con cũng xáp lại rúc vào lòng beo mẹ để bú. Bóng chiều đã rơi xuống, rừng núi thâm u, tứ bề vắng lặng như tờ.
Lý mạc Thu ngước mặt nhìn trời lẩm bẩm:
- Trời tối rồi, đêm nay ta ngủ nơi nào đây?
Dương Qua nói:
- Chị vú này lôi thôi lắm, chúng ta không tiện dẫn hắn đi theo được. Vậy để tôi đi tìm một hang đá tạm trú một đêm rồi ngày mai sẽ hay. Nói rồi chàng rảo bước đi quan sát khắp vùng, tìm được một cái hang đá khá kín đáo. Chàng lại đi quơ thêm một mớ cỏ khô đem bện thành một cái ổ cho Lý mạc Thu và nói:
- Đêm nay sư bá tạm nghỉ trên cái giường cỏ này vậy. Tôi đi ra ngoài tìm món gì ăn đỡ dạ.
Miệng nói, chân thoăn thoắt bước lanh ra ngoài. Độ một giờ sau Dương Qua trở về trên tay xách ba con thỏ rừng thật mập, đèo thêm một xách trái cây chín đỏ rất ngon lành.
Chàng xé thịt thỏ cho con beo mẹ ăn, đoạn nổi lửa nướng hai con kia cho mình và Lý mạc Thu. ăn thịt thỏ, tráng miệng trái cây no nê, thì đêm cũng đã khuya. Dương Qua rút trong mình một sợi dây, nói với Lý mạc Thu:
- Lý sư bá cứ yên chí ngủ ngon, tôi sẽ gác bên ngoài hang cho.
Nói rồi bước thẳng ra ngoài, đem sợi dây buộc ngang qua hai cây tùng thật to rồi phi thân leo lên nằm nghỉ.
Dương Qua ngủ một chập khá lâu, bỗng từ phía Đông Nam có tiếng chim gáy lảnh lót. Tiếng chim gáy rất thanh tao, nghe rất êm tai, nghe không biết chán. Chàng lắng tai nghe một hồi lâu trong bụng suy nghĩ không biết đây là loại chim gì mà có tiếng gáy lạ lùng lảnh lót quá. Rồi vì tính hiếu kỳ, chàng rón rén ngồi dậy mon men đi dần về hướng ấy.
Tiếng chim lạ gáy mỗi lúc một gần, khi mau khi chậm, lúc bổng lúc trầm, không khác nào một nhạc công đang đánh đàn. Dương Qua bỗng nảy ra ý muốn tìm bắt con chim ấy để nuôi.
Chàng cứ lẳng lặng dò từng bước một đi tới. Đường đi xuống thấp dần. Không bao lâu, Dương Qua đã lọt vào một cái thung lũng khá rộng và tiếng chim gáy đã phát hiện ngay trước mặt không xa.
Chàng sợ con chim thấy bóng người sẽ bay mất nên cố kìm hơi thở nhè nhẹ dò từng bước một rón rén đi tới, vừa đi vừa vạch lá nhìn những bỗng nhiên chàng suýt bật cười thành tiếng khi vừa trông thấy con chim.
Thật một chuyện không ngờ, đáng buồn cười thật. Tiếng gáy càng thanh tao lảnh lót bao nhiêu thì thân hình và điệu bộ con chim lại, thô kịch xấu xí bấy nhiêu. Thân chim vừa cao vừa lớn, đứng cao hơn Dương Qua cả một cái đầu, lông lá lơ thơ dường như bị ai vặt bớt một nửa. Mỏ chim vừa to vừa quặp vào như cái càng cua, trên đầu thêm một cái mồng sù sì to tướng. Con chim đang đi lại, lúc đứng im khi quạt cánh, cái đầu không ngớt cử động thỉnh thoảng nghiêng tai có vẻ hiên ngang mạnh mẽ. Con chim vừa gáy ó o, bỗng đổi sang giọng khác từ chỗ điềm đạm êm thấm bỗng biến sang hùng hổ và gay gắt hình như sắp gây sự đánh nhau. Ngay lúc ấy, từ trong bụi rậm bên cạnh cũng phát ra những tràng rít vo vo nghe rợn người. Vốn chuyên làm nghề bắt rắn từ còn bé thơ nên Dương Qua biết ngay là nơi đó có một bầy rắn độc đang bò tới.
-
Chương 58 - Thanh Tử Vi Bảo Kiếm - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 58 - Thanh Tử Vi Bảo Kiếm
Dương Qua cố nhón gót cao hơn để nhìn thử, thì bỗng từ trong bụi có ánh rằn rì loang loáng một lần có tám con rắn mai hoa, trên mình bông dơm rực rỡ đang bò lại
mau như chớp, hìn như để tấn công con chim lạ.
Nhưng con chim điêu không hề lộ vẻ hoảng sợ, lập tức xù lông há mỏ mổ lia lịa một
hơi, nuốt chửng cả tám con rắn trong nháy mắt, trước cặp mắt ngỡ ngàng thán phục
của Dương Qua.
Chàng đang ngẩn người suy nghĩ thình lình có một mùi hôi tanh xông lên khó chịu
vô cùng. Đánh hơi đó, Dương Qua đoán chắc thế nào cũng có một con mãng xà thật
to đang bò lại, cách đấy không xa.
Con chim điêu cũng đoán biết có kẻ địch đến nên đập cánh gáy luôn ba tiếng.
Thình lình một tiếng áo não thật to nổi lên, một luồng gió mạnh làm cả vùng này rung động, từ trên cây cổ thụ, một con mãng xà cực lớn quăng mình lao vút về phía chim điêu tấn công liền.
Chim điêu vẫn không di chuyển, hai cánh xòe ra, đầu lách sang một bên rồi bất ngờ
mổ vút vào mắt con mãng xà và nuốt luôn cả tròng, lanh như điện chớp.
Mãng xà bị đau quá, văng mình lồng lộng quật đuôi ầm ầm rồi chồm lại cất cổ thật
cao mổ ngay vào chiếc mồng đầu chim điêu.
- Cái mổ quá ư bất ngờ mau lẹ, khiến cho Dương Qua cũng giật mình "a' " lớn một
tiếng, trợn mắt nhìn sững sốt.
Cái mổ của mãng xà đã trúng đích và tiếp theo đó nó uốn cả khúc mình vĩ đại quấn
khắp mình con chim điêu rồi từ từ siết lại.
Dương Qua vốn có cảm tình cùng con chim điêu, hơn nữa vì mẹ chàng chết vì rắn
độc nên trong thâm tâm chàn oán ghét loại này lắm. Sợ chậm chim điêu sẽ chết nên
chàng không nghĩ ngợi tuốt thanh quân tử kiếm chém một nhát thật mạnh vào mình
con mãng xà.
Một tiếng "keng" thật to vang lên, lửa xẹt sáng lòa và hổ khẩu của Dương Qua tê
rần cả, thanh quân tử kiếm dội ngược trở lên. Dương Qua vừa sợ vừa ngạc nhiên, nghĩ bụng:
- Thanh quân tử kiếm chém sắt như chém bùn, thế sao không chém đứt nổi mình con rắn và còn dội lại như thế này? Quả điều quái gở thật.
Chàng nghiến răng, nắm chặt đốc gươm thẳng tay chém luôn ba tiếng nữa. Ba
tiếng "keng, keng, keng" lại vang lên. Rõ ràng là tiếng thép chạm nhau chứ không
phải chém vào da thịt con rắn.
Dương Qua ngạc nhiên đưa kiếm lên xem. Lưỡi quân tử kiếm đẫm máu đỏ lòm và
mẻ luôn ba miếng thật to. Có lẽ con mãng xà bị trọng thương, nhưng không hiểu vì
sao lại có tiếng keng keng như vậy mà thân hình nó không đứt ra?
Cuộc chiến đấu giữa chim điêu và mãng xà ngày càng thêm khốc liệt, con mãng xà
mỗi lúc càng siết chặt thêm vào, chim điêu tuy có cố gắng vùng vẫy, nhưng dần dần
đã yếu thế. Nếu không có một cứu tinh nào cứu vãn tình thế, có lẽ chim điêu sẽ làm
mồi cho con rắn lớn.
Dương Qua thấy nếu mình không ra tay ngay lúc này thì chim điêu sẽ chết ngay,
nên chàng vận sức vung kiếm chém thêm một nhát nữa. Vì chém quá mạnh nên sau một tiếng "choeng" vang dậy, thanh quân tử kiếm đã gẫy đôi, và máu từ thân hình con mãng xà cũng tuôn ra xối xả.
Bị thương bất ngờ, con mãng xà vùng lên một cái, khúc giữa nới ra một chút.
Chim điêu nhân cơ hội ấy thoát thân, bay thẳng lên không trung, rồi từ trên cao lao
xuống mổ luôn vào con mắt thứ hai khiến mãng xà đui luôn.
Vừa bị đau, vừa bị đui, con mãng xà nổi xung, đập mạnh ầm ầm, cất cổ mổ loạn xạ
nhưng không trúng vào đâu hết. Nhưng bỗng có một việc lạ lùng hơn hết là chim điêu lại đưa chiếc mồng đến ngay miệng con mãng xà mổ xuống. Vừa trông thấy vậy, Dương Qua lạ quá, nghĩ bụng:
- Có lẽ trong mồng chim điêu có chất độc ghê lắm. Đối với con mãng xà, bảo kiếm
chém không đứt thì chỉ có thể chế ngự bằng độc dược mà thôi.
Khi đớp trúng mồng chim rồi, con mãng xà bèn quấn ngay thân chim lại như lần
trước. Lần này đã kinh nghiệm bản thân, nên chim điêu giữ riêng hai vấu ở ngoài
vòng siết của thân hình con rắn. Khi mãng xà b¡t đầu siết mạnh thì chim điêu dùng
hai vấu chộp lấy đuôi rắn bẻ mạnh một cái gãy làm hai khúc.
Lúc bấy giờ hình như chất độc trên mồng đã thấm vào cơ thể, nên mãng xà lơi dần,
nằm giãy giụa chờ chết chứ không tấn công hay lồng lộng như trước nữa. Khi mãng xà chết rồi, chim điêu cất cao cổ gáy lớn hình như để mừng chiến thắng, đoạn nhìn về phía Dương Qua cục cục mấy tiếng như đón chàng lại gần. Dương Qua cả mừng bước lại bên mình chim tỏ ý thân thiện. Bỗng nhiên chim điêu mổ mạnh vào tay chàng và cướp phăng nữa thanh quân tử kiếm. Dương Qua là một tay kiếm khác bản lãnh cao siêu quần. Muốn cướp được thanh kiếm trong tay chàng không phải là việc dễ.
Thế mà chim điêu chỉ mổ nhẹ một cái đoạt được ngay. Chàng hoảng sợ vội tung người lộn ngược ra sau né tránh và đứng xa hơn một tý. Chim điêu gặp được thanh kiếm, vung mỏ ném vút xuống suối rồi ngẩn đầu nhìn Dương Qua, không có vẻ gì ác ý. Dương Qua chợt nhớ lại lẩm bẩm:
- Phải rồi, té ra anh không muốn tôi cầm vũ khí đứng gần anh chứ gì ? Anh đừng
quá lo xa và hiểu lầm vì tôi không bao giờ có ý nghĩ hãm hại anh đâu.
Chim điêu kêu khẽ và tiếng rồi rão bước lại gần chàng, dùng cánh vỗ nhẹ trên hai
vai tỏ tình thân thiện.
Dương Qua cũng đưa tay vuốt lông nó một cách trìu mến lắm. Chàng cúi xuống
nhìn con mãng xà mình dính đầy máu đang nằm chết sóng sượt trên mặt đất thì ngạc nhiên không hiểu vì sao thân mình nó có thể chống lại và làm gẫy đôi thanh quân tử kiếm?
Chàng bước lại bẽ gẫy một nhánh cây, đè nhẹ trên thân mình con rắn thấy da thịt
vẫn mềm chứ không có gì đặc biệt. Chàng dùng đầu nhánh cây khiều nhẹ vào vết
thương thì chạm phải một vật cứng hình như không phải là xương. Vì vậy Dương
Qua quyết tâm tìm ra sự bí ẩn này xem sao?
Chàng dùng đầu cây ấn mạnh vào chổ ấy rồi rút ra xem thử thì thấy nhánh cây bị
chẻ làm hai. Như thế thì vật này, trong mình con rắn phải là một thứ đao kiếm gì vô
cùng sắt bén.
Chàng cúi đầu nhìn kỹ thêm, thì thấy dưới làn máu đỏ có bốc lên một làn hơi lạnh,
thoang thoáng như sương mù.
Mặt chàng ở cách xa thân con mãng xà chừng ba tấc nhưng cũng cảm thấy có một
hơi lạnh tạt vào má, càng nhích lại gần, hơi lạnh càng gia tăng thêm.
Chàng lượm khúc mũi thanh quân tử kiếm gãy rơi bên cạnh, rạch dọc theo vật cứng
này thì thấy hơi lạnh càng nhiều hơn và có tỏa một ánh sáng xanh biếc.
Sợ trong ấy có độc, chàng dùng mũi kiếm gãy chém mạnh lên một nhát, bỗng nghe
keng một cái và mũi kiếm bị bể thêm một mãnh khá nữa khá lớn. Lúc bấy giờ Dương
Qua nhất định trong bụng mãng xà có một thanh đao hay kiếm gì vô cùng sắt bén,
nên có bụng mừng. Chàng từ từ dùng mũi kiếm rọc xuôi theo chiều dài, vật ấy nằm
sâu dưới các thớ thịt của mãng xà.
Khi lớp thịt và mỡ được xẻo đi rồi, bỗng lộ ra một thanh kiếm dài chừng ba thước.
Chàng mừng lắm, dùng mũi kiếm thọc xuống dưới nạy ngược trở lên.
Chỉ veo một tiếng lảnh lót, thanh kiếm bật tung lên, lao vút vào thân cây cổ thụ gần
đấy, ngập tới cáng. Quả là một thanh kiếm báu sắt như nước.
Nãy giờ chim điêu điềm nhiên đứng nhìn theo Dương Qua xẻ thịt rắn khi thấy thanh
kiếm văng ra ghim vào cây, h¡n bèn rảo bước chạy lại dùng mỏ rút ra rồi ngậm luôn
đem lại bờ suối. Dương Qua cũng lật đật bước theo. Chàng thấy chim điêu dùng mỏ
gắpkiếm rửa qua rửa lại rất lâu trong nước suối đến khi thật sạch mới thôi. Chàng
nghĩ thầm:
- Anh này quả nhiên chu đáo. Vì thấy kiếm nằm trong mình rắn quá lâu ngày, sợ
nhắm độc, nên anh mới đem rửa kỹ trước khi dùng.
Khi thanh kiếm thật sạch, chim điêu khẻ dùng mỏ vung một cái, thanh kiếm như
một chiếc cầu vồng sáng xanh lao vút về phía Dương Qua.
Chàng vội vàng đưa tay tiếp lấy chuôi kiếm, miệng nói:
- Cám ơn Điêu huynh.
Chàng cúi xuống nhìn kỹ thấy trên chuôi kiếm có hai chữ triện "Tử Vi" rất sắt
sảo.
Dương Qua cầm kiếm loang mấy vòng nghe tiếng xé không khí vo vo thật êm tai.
Lưỡi kiếm mềm mại và bền vô cùng. Chính nhờ sự mềm mại này mà thanh kiếm có
thể lượn theo thân hình con rắn không rạch đứt thịt da để bật ra ngoài. Thuận tay,
chàng chém ngang một nhát vào thân cây cổ thụ, nghe soạt một tiếng, đứt lìa thành
hai đoạn.
Chim điêu khẻ kêu vài tiếng rồi dùng mỏ gắp vạt áo Dương Qua kéo đi. Chàng
đoán biết chim điêu có dụng ý chi đây, nên lẳng lặng bước theo. Bước đi của chim
điêu ung dung thong thả nhưng mau vô cùng. Dương Qua đã khai triển hết tài khinh
công nhưng vẫn không theo kịp. Thỉnh thoảng chim điêu phải dừng lại chờ đợi.
Càng đi, đường càng dốc thật thấp. Không bao lâu, chàng nhìn thấy phía trước
mặt có một thung lũng thật sâu. Cứ đi mãi thêm một giờ đã tới trước một miệng hang
thăm thẳm. Chim điêu dừng lại trước hang cung kính gật đầu ba cái để làm lễ.
Dương Qua trông thấy thái độ lạ lùng này liền suy nghĩ:
- Trong hang này thế nào cũng có bậc dị nhân tu luyện, và chim điêu này hẳn là
thần vật của người, ta không nên thất lễ.
Nghĩ xong chàng cung kính sụp quỳ trước động lạy luôn bốn lạy và nói lớn:
- Đệ tử Dương Qua xin kính yết kiến tiền bối.
Nói xong chàng lắng tai nghe, nhưng mãi không có tiếng người trả lời. Chim điêu lại cắn áo chàng kéo đi nữa.
Vào trong hang tối đen như mực, hai bên vừa chật lại thêm mùi xú uế xông nồng
nặc khó thở quá. Dương Qua nắm chặt thanh tử vi kiếm lầm lũi bước theo chim điêu.
Nhưng chỉ đi chừng ba trượng thì đã đến cùng ngõ. Trong hang chỉ có một cái bàn
và một cái ghế đá. Chim điêu nhìn vào góc hang gáy lên ba tiếng. Dương Qua chú
mục về phía đó thấy có một đống đá chất cao nghiệu hình như một ngôi mộ. Chàng
thầm nghĩ:
- Có lẽ đây là ngôi mộ của dị nhân tiền bối nào đây. Rất tiếc thần điêu không biết
nói để hỏi biết lai lịch của vị này.
Ngẩng nhìn lên trán vách thấy có dạng lờ mờ như khắcchữ, chàng bèn xẹt lửa đốt
một cành thông khô làm đuốc soi sáng, đưa tay xóa hết lớp bụi dày bám trên vách đá, quả nhiên lộ những hàng chữ đại ý như sau:
"Suốt ba mươi năm ngang dọc giang hồ, giết không biết bao nhiêu quân địch cường
hào ác bá, đánh bại không biết bao nhiêu hào kiệt võ lâm, rất tiếc ta chưa hề gặp tay đối thủ. Ta buồn lòng lùi về động này, lấy thanh tử vi kiếm làm vợ, cùng thần điêu bè bạn sớm hôm. Hỡi ôi, đời ta chỉ mong gặp được người xứng sức nhưng vẫn chưa toại nguyện. Đáng buồn thay!"
Kiếm ma Độc Cô Cầu Bại ký tên.
Dương Qua nghiền ngẫm mãi thấy hàng chữ, càng lâu càng thấm thía bất giác
chàng nghĩ thầm:
- Vị này đã xưng là "kiếm ma" thì nhất định là kiếm pháp đã tới chỗ tuyệt diệu tinh
vi rồi. Còn "Cầu bại" có lẽ mong gặp người giỏi hơn để đánh bại được mình chăng ?
Không biết vị này tên chi, sống vào thời đại nào ?
Chàng cầm đuốc cẩn thận soi khắp các nơi nhưng chẳng tìm thấy dấu vết gì khác
lạ, ngoài đống đá lù lù như nấm mộ, nên trong bụng nghĩ:
- Có lẽ sau khi dị nhân này tạ thế, thần điêu đã dùng mỏ gắptừng viên đá đ¡p lên
ngôi mộ để an tán người bạn già đây chăng ? Còn thanh tử vi kiếm, không hiểu tại
sao lại lọt vào bụng rắn. Đây cũng là một chuyện bí ẩn khó nghĩ, tiếc vì thần điêu
không biết nói để giải thích cho rành.
Dương Qua đứng ngẩn người trong giây lát, rồi thổi t¡t luôn cây đuốc, trong hang
lại chìm đ¡m trong bóng tối thâm u. Thanh Tử Vi kiếm tỏa ra một luồng ánh sáng
xanh lè đủ soi thấy lờ mờ những vật gần trong vài thước.
Chàng chạnh lòng nghĩ tới vị kỳ nhân "Kiếm Ma Độc Cô", trước kia với một thanh
Tử Vi kiếm tung hoàng trong thiên hạ không gặp đối thủ, tình cờ ngày nay báu kiếm
lại về tay mình thật cũng là điều ba sinh vạn hạnh.
Nghĩ đến đó, chàng vội sụp xuống lạy luôn ba lạy trước mộ phần. Thần điêu đứng
bên, trông thấy Dương Qua hết lòng cung kính đối với ngôi mộ chủ mình, có vẽ mừng
rỡ lắm, bèn tới gần chàng dùng cánh vỗ nhẹ trên vai tỏ ý trìu mến. Dương Qua buồn rầu nhìn nó nói lớn:
- Điêu huynh, hai ta điều có duyên hạnh ngộ từ tiền kiếp nên mới gặp được nhau
đây. Ngặt vì hiện nay tôi còn chút việc riêng cần kíp phải đi ngay không thể lưu luyến
lại thêm nhiều ngày giờ nữa. Vậy Điêu huynh muốn cùng đi với tôi hay ở lại giữ mộ
phần lão tiền bối ?
Chim điêu ngước cổ kêu lên mấy tiếng rồi bước lại đứng bên ngôi mộ. Dương Qua
cảm động hiểu rằng nó muốn ở lại giữ mộ nên ôm cổ nó vuốt ve một hồi rồi đứng dậy
lầm lũi bước ra khỏi hang.
Chân bước đi nhưng lòng còn quyến luyến, thỉnh thoảng chàng quay đầu nhìn lại.
Cứ mỗi lần nhìn lại, chàng b¡t gặp chim điêu cũng đưa mắt ngó theo và kêu lên mấy
tiếng, hình như không muốn xa nhau. Dương Qua chạnh lòng nói:
- Điêu huynh, thân tôi không còn sống bao nhiêu lâu nữa. Nhưng tôi cần phải lo liệu
cho đứa con của Quách bá phụ tôi cho xong, rồi sẽ giã từ cô nương tôi trở lại đây chết bên cạnh ngôi mộ của Độc Cô lão tiền bối. Được vậy, đời tôi cũng hả hê lắm rồi.
Nói dứt lời, chàng tra thanh Tử Vi bảo kiếm vào chiếc bao của Quân Tử kiếm rồi đi
luôn. Trên con đường đi gập ghền trong thung lũng, chàng miên man suy nghĩ tới
cuộc kỳ ngộ lạ lùng đêm nay, rồi chợt nhớ tới Tiểu long Nữ và đôi bảo kiếm khiến
chàng bâng khuâng lo lắng:
- Ta và Tiểu long Nữ cùng chia nhau hai thanh bảo kiếm Quân Tử và Thục Nữ, kể
ra cũng là một điềm tốt. Nhưng hôm nay thanh quân tử kiếm gãy mất rồi. Tuy thanh
tử vi kiếm tốt hơn nhiều, nhưng phải chăng đây là một triệu chứng cho biết trước
rằng duyên nợ giữa ta và nàng không thể nào thành tựu được? Nếu hai ta không được cùng nhau kết tóc tới lúc bạc đầu, thì quả là một điều bạc hạnh. Nghĩ tới đây, Dương Qua cảm thấy cõi lòng xót xa, bất giác hai hàng nước mắt đã rưng rưng lưng tròng. Đang mãi miết bước đi thình lình có một tiếng gậy đen từ trong bụi rậm bên mặt tung ra, và ngay lúc đó phía bên trái cũng có tiếng xé không khí của một môn võ khí tấn công bất ngờ.
Dương Qua không thể tưởng tượng nơi chốn hoang vu này lại có kẻ địch dánh lén
nên chẳng để ý đề phòng. Vì cả hai đòn cũng đánh một lần rất nhanh và mạnh, nếu
tránh được bên mặt tất nhiên phải lãnh đòn bên trái, nếu tránh bên trái tất nhiên phải bị đòn bên mặt. Trong lúc quá nguy khốn, chàng chỉ còn cách tung mình nhảy vút lên không trung, loang thanh Tử Vi kiếm mấy vòng để bảo vệ toàn thân rồi là là rơi xuống.
Chân vừa chấm đất bỗng từ phía sau thần điêu bay vù tới dùng mỏ mổ ngay vào bụi rậm, nhưng một chiếc vòng sắt đã tung ra chận lại.
Từ bụi bên kia Kim Luân Pháp Vương xuất hiện, hai tay múa tít hai chiếc vòng.
Dương Qua ngại Kim Luân sát hại thần điêu vội vàng gọi lớn:
- Điêu huynh hãy lui ra để một mình tôi đối phó cùng bọn nó cũng được.
Nhưng thần điêu xòe cánh tả ra cản Dương Qua lại rồi bất thình lình, dùng cánh phải đập mạnh vào vai Kim Luân đúng theo tư thế "Bạch Hạc Xuyên Vân" mà các cao thủ võ lâm thường sử dụng nhưng khí thế và công lực hùng hậu hơn nhiều. Thì ra trong cuộc đấu chí tử hồi trước, Kim Luân và Ni ma Tinh đã ôm nhau cùng lăn tòm xuống vực thẳm. Thời may cả hai vướng vào một nhánh cây mọc chìa ra trên bờ vực, do đó hai người chỉ bị xây xát nặng chứ không thiệt hại đến tánh mạng. Mặc dù trong hoàn cảnh thật tử nhất sinh, Ni ma Tinh vẫn bám chặt lấy Kim Luân như nam châm hút thép. Kim Luân phải cố dùng "cầm nã thủ" cố đẩy ra và hét lớn:
- Hãy buông ta ra ngay.
Nhưng Ni ma Tinh vẫn cố bám mãi không chịu buông. Kim Luân cười gằn nói:
- Hai chân mi điều trúng độc, không lo tìm cách trục ra cho rồi, chẵng lẽ chờ chết
mới tha nhau ra sao ?
Ni ma Tinh nghe nói chợt nhớ lại, bèn nhìn xuống dưới thấy cả hai chân điều sưng
vù như hai khúc gỗ. Lão bèn rút ph¡t chiếc gậy cắnrăng, vận dụng cả công lực giáng
một gậy hết sức mạnh vào hai đầu gối, nghe rốp một tiếng khô khan, cả hai chân đứt lìa, máu tươi tràn ra như suối, và Ni ma Tinh cũng lăn ra bất tỉnh.
Kim Luân thấy gã can trường như vậy đã có lòng thán phục, hơn nữa với hai chân
đã gãy rồi, Ni ma Tinh không thế nào hại được mình nữa, nên ông bước lại gần, đưa
tay điểm luôn vào các huyệt cầm bớt máu lại, đoạn dùng thuốc kim thương buộc kỹ.
Một chặp sau Ni ma Tinh tỉnh lại, nhìn thấy Kim Luân đang ngồi bên cạnh, cất
tiếng thều thào nói nhỏ:
- Anh có lòng tốt cứu tôi, từ nay oán thù xí xóa, chúng ta nên làm lành với nhau thì
hơn.
Kim Luân cười chua chát, nghĩ bụng:
- Tuy mi đã mất cả hai chân, nhưng bao nhiêu nọc độc điều trục hết rồi, ta đây mặc
dù thân thể còn nguyên vẹn, nhưng chưa biết tính sao để tống hết chất độc ra khỏi
người được. Phần ta đáng còn đáng lo âu hơn mi nhiều lắm.
Nghĩ xong ông ngồi xếp bàn tròn, hai mắt nh¡m nghiền cố vận khít trục độc ra
ngoài, nhưng suốt mấy tiếng đồng hồ nội lực hao tổn rất nhiều cũng chỉ mới trục được một phần ít mà thôi.
Hai người cứ ngồi lỳ nơi đó suốt một ngày để lo luyện khí trục độc và dưỡng thần.
Mãi tới nữa đêm, bỗng có tiếng chân người từ xa bước lại. Kim Luân nhẹ ẵm Ni ma
Tinh giấu vào bụi rậm gần đất rồi bản thân nấp sau một gốc cây lớn rình xem.
Trong bóng đêm mờ mờ, Kim Luân thấy Dương Qua đang dùng khinh công chạy
theo một con chim điêu hình dung cổ quái, lướt qua trước mặt mình không xa.
Kim Luân suy nghĩ:
- Ta bị nọc độc nhắm
đầy thân thể, tại sao không lợi dụng cơ hội này bịt sống thằng con buộc nó đưa thuốc giải độc có hay hơn không ?
Sau khi cùng nhau bàn tán kỹ càng, Kim Luân và Ni ma Tinh cùng phục tại đây
chờ Dương Qua trở lại để bất thần đánh úp.
Thời may cho Dương Qua, vì hai người điều bị nọc độc công phạt yếu sức quá
nhiều, nếu không thì chàng không thể nào thoát chết được.
Sau khi lanh chân né được hai đòn phục kích, Dương Qua quay đầu nhìn lại thấy
Thần điêu và Kim Luân đang cùng nhau chiến đấu vô cùng ác liệt.
Cứ như lời tiến thoái và đánh đỡ của thần điêu, dúng theo quy củ trong võ lâm cũng
đủ thấy rõ ràng đã được một kỳ nhân chỉ điểm và luyện tới một mức siêu phàm rồi.
Nhờ vậy mà mặc dù Kim Luân, một cao thủ võ lâm Mông Cổ đánh mãi vẫn không
sao nao núng được.
Kim Luân vừa đấu vừa nghi ngờ sợ hãi:
- Con thần điêu này của ai mà tài nghệ quá cao cường, nếu Dương Qua nhảy vào
tiếp chiến nữa thì mình chịu sao nổi. Trận chiến kéo dài thêm lát nữa, chủ nó thế nào
cũng tới đây, thì tánh mạng mình không còn bảo đảm nữa.
Nghĩ xong, ông tấn công hai đòn liên tiếp rồi nhảy lùi ra sau hổn hển hỏi Dương
Qua:
- Dương Qua, con thần điêu quái gở này ở đâu mà mày dẫn tới đây như vậy?
Dương Qua đưa tay vuốt ve thần điêu ra chiều trìu mến rồi mỉm cười bảo Kim
Luân:
- Đây là bạn thiết của ta, nếu mi vô lễ thì nó sẽ bay bổng lên cao tấn công xuống mi
sẽ đui mắt hoặc bỏ mạng ngay.
Kim Luân nghe nói giật mình hoảng sợ, nghĩ thầm:
- Chỉ đánh tay đôi trên đất mà ta còn vất vả như thế này, nếu h¡n bay lên cao nữa
thì nguy hiểm không kể hết.
Nghĩ xong lão đứng yên một chỗ không dám khiêu khích nữa.
Dương Qua ân cần nói với thần điêu:
- Điêu huynh, cám ơn anh đã hộ tống tôi tới đây, và chỉ bao nhiêu đó cũng đủ làm
cho bọn này khiếp sợ lắm rồi, khỏi phải làm phiền anh nhiều nữa. Giờ tôi xin tạm biệt.
Thấy thần điêu lườm lườm nhìn Kim Luân, Dương Qua vui vẻ nói:
- Phiền điêu huynh chịu khó quản thúc hộ bọn này trong thời gian. Bây giờ tôi xin
bái biệt.
Nói xong, chàng chấp tay cúi đầu chào rồi băng mình chạy vào trong hang đá để
xem tình hình đứa hài nhi của Quách Tỉnh ra sao.
Vừa trông thấy chàng, Lý mạc Thu đã càu nhàu nói:
- Mi đi đâu suốt cả đêm nay, có con ma nào vừa hiện ra kêu khóc suốt đêm chịu
không nổi nữa.
Dương Qua ngạc nhiên hỏi:
- Làm gì lại có ma ?
Chàng hỏi chưa dứt lời, bỗng từ phía xa đưa lại một giọng khóc và kể lể vô cùng
thiết tha ai oán. Dương Qua tuốt thanh Tử Vi kiếm ra khỏi vỏ, nói nhỏ với Lý mạc Thu:
- Sư bá đừng lo, xin cứ coi chừng đứa bé, để tôi lo đối phó với con ma trù này cho.
Lưỡi Tử Vi kiếm vừa rút ra khỏi vỏ đã có một luồng lãnh khí toát ra cùng với một
luồng thanh quang lập lòe trong hang tối. Lý mạc Thu lạ lùng hỏi:
- Mi tìm ở đâu ra thanh báu kiếm như thế này?
Dương Qua chưa kịp đáp, bỗng bên ngoài vang lên một giọng khóc than kể lể vô
cùng bi thiết:
- Sao mà khổ thân tôi thế này hỡi trời ? Vợ tôi đã bị kẻ thù giết, chỉ còn lại hai đứa
con, ngày nay chúng lại nhất định đánh nhau cho tới chết...
Nghe tới đây Dương Qua biết ngay là người chứ không phải ma quỷ gì hết.
Chàng đưa mắt nhìn về hướng ấy, bỗng thấy một người đầu bù tóc rối đang sờ
soạng như kẻ mất hồn, vừa khóc than kể lể.
Lý mạc Thu bảo:
- Té ra là một thằng điên. Mi hãy đuổi nói đi cho rảnh.
Người ấy lại kể lể tiếp qua những tiếng khóc nức nở:
- Đời ta chỉ còn hai đứa con là kẻ thân yêu. Bây giờ chúng cố giết nhau nữa thì ta
sống sao cho nổi ?
Dương Qua chợt nghĩ ra và lẩm bẩm:
- Phải rồi, quả đúng là ông ta rồi.
Nghĩ xong, chàng tuốt kiếm chạy ra tới gần hỏi nhỏ:
- Xin người cho biết có phải Võ lão tiền bối đấy không ?
Người ấy vừa nghe hỏi ngạc nhiên trợn mắt nhìn chàng quát:
- Ngươi là ai ?
Dương Qua lễ phép đáp:
- Cháu là Dương Qua. Xin hỏi lão tiền bối có phải là họ Võ quý danh làm Tam
Thông không ? Vì sao ra nông nỗi này?
Người ấy đúng là Võ tam Thông. Trước kia ông bị Lý mạc Thu dùng ngân châm
đã thương, nhào lăn ra bất tỉnh. Thời gian bị mê man không rõ bao lâu, nhưng khi
chợt tỉnh thấy vợ mình là Võ tam Nương đang quỳ chân dưới đất hút máu bầm chổ
vết thương ra. Ông thất kinh vội xô vợ ra hét lớn:
- Trong máu có nhắm nọc độc, tại sao dùng miệng mà hút, nguy hiểm quá?
Võ tam Nương nhổ máu xuống đất, tươi cười nói:
- Hết rồi, chất độc đã hút ra hết, bây giờ chỉ còn máu tươi không hề chi đâu.
Võ tam Thông nhìn mặt vợ thấy đã sưng vù và b¡t đầu bầm tím thì hoảng hốt bắp
bắp không ra lời:
- Trời ơi, Tam nương.....em.....tại sao....
Trong lúc xả thân cứu chồng, Võ tam Nương cũng thừa biết mình sắp chết, bèn
vuốt đầu hai đứa con trai, trăn trối:
- Chúng ta cùng nhau chung sống bao ngày chưa từng hưởng được tròn hạnh phúc.
Ngày nay em ra đi, xin anh ở lại nuôi con, thay em chăm sóc chúng nó nên người, anh
nhé...
Nói đến đây nàng đã ngã ra chết tốt. Đôi mắt còn cố nhìn Võ tam Thông ghi lại
hình ảnh chồng để mang theo về bên kia thế giới.
Võ tam Thông nhìn hai đứa con thơ ôm xác mẹ khóc than thảm thiết mà gan ruột
cũng rã rời. Vì quá căng thẳng về thần kinh, ông đã phát điên, bỏ hai đứa con thơ lạc
lõng giữa đời, dấn thân lưu lạc rày đây mai đó, mặc cho số mạng trôi giạt về đâu.
Sau này Nhất Đăng đại sư hay tin cho người dẫn về núi chữa bệnh. Khi tâm bệnh
đã lành, Võ tam Thông nghe hai đứa con mình đang sống với Quách Tỉnh nơi thành
Tương Dương, mới lặn lội đi tìm kiếm.
oOo
-
Chương 59 - Huynh Đệ Tương Tàn - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 59 - Huynh Đệ Tương Tàn
Nhưng khi ông đặt chân tởi thành Tương Dương thì nơi đây khói lửa ngụt trờị nhờ gặp Chu tử Lễu vởi Quách Phù, ông mởi biết hai đứa con của mình đã quyết cùng nhau tử chiến độ tranh đoạt Quách Phù.
Nghe được câu chuyện, Võ tam Thông cố tìm hai con độ lấy lại khuyên nhủ. Sau một thi gian tìm kiếm khá lâu, ông đã gặp cả hai trong một tòa miếu cổ, nhưng dù ông năn nỉ khuyên can thế nào cũng không được. Hai người nằng nằn quyết một mất một còn, độ tranh lấy người đẹp.
Ông rờinh nghe biết được chổ hẹn độ cùng nhau thanh toán, nên nửa đêm nay quyết tìm tởi nơi độ khuyên một lần chót.
Qúa đau khổ và tủi thân, ông đã vừa đi vừa khóc như một kẻ điên rồ. Bất ng khi vừa qua khỏi miệng hang bỗng gặp một thanh niên tuấn tú ra chận hỏi và nói đúng tên mình thì ngạc nhiên vô cùng bèn quát hỏi:
-Ngươi là người nào, vì sao biết rõ danh tánh ta được ?
Dương Qua vòng tay cung kính đáp:
-Thưa tiền bối, cháu họ Dương tên Qua, hồi còn bé có cùng hai anh ấy sống chung trên đảo Đào Hoa, cho nên mởi biết rõ được tên họ của lão tiền bốị
Võ tam Thông lắc đầu nói lởn:
-Chỉ là láo khoét cả. Nếu mi là bạn của hai con ta, vì sao không có lại khuyên ngăn để đến nỗi gây nên cở sự. Hai là chính mi đã xúi giục chúng thêm và đứng ra làm trọng tài cho chuyện chém giết này chăng ?
Dương Qua định mở miệng phân trần, nhưng Võ tam Thông đã quá nóng nảy, liềng sử dụng "nhất dương chỉ" tấn công liền.
Nguyên "nhất dương chỉ" là một môn học bí truyền và danh tiếng nhất trong nghiệp võ. Vì vậy nên khi Võ tam Thông xuất thủ, Dương Qua cảm thấy uy lực tỏa ra bốn mặt, chổ nào cũng thấy đàn áp nặng nề không không biết sẽ tấn công và đâu độ tránh né nữạ
Trong lúc loay hoay chưa biết phương kế nào cứu vãn, chàng bỗng sực nhở lại dùng ngay "đạn chỉ thần công" búng ngay vào ngón tay của đối phương.
Võ tam Thông giật mình "ối" một tiếng nói lởn:
-À đúng là ngươi có sống tại Đào Hoa đảo rồi nên mởi sử dụng được ngón nàỵ
Vậy hãy rán đỡ thêm ngón thứ hai đây nhé.
Nói xong ông liền đổi thế, tung một ngón vào ngay đơn điền của chàng. Tức thì bao nhiêu trọng huyệt ở gần bụng Dương Qua điều bị uy hiếp trầm trọng. Thấy thế này quá mạnh, Dương Qua không dám dùng "đạn chỉ thần công" vì sợ không đủ sức chống lại, mà nhiều khi hỏng cả ngón tay là khác nữạ Chàng bèn áp dụng phép, "cầm tâm ám thông" rút ngay thanh Tử Vi kiếm ra khỏi vỏ, loang tít lên che kín trưởc bụng và ngực. Lưỡi kiếm tuy nhỏ, bề rộng không quá một tất, nhưng toát ra một luồng lãnh khí rợn người, thanh quang sáng chói, khiến cả một vùng xung quanh điều rúng động.
Mặc dù ngón tay Võ tam Thông cách xa luồng kiếm quang trên sáu bảy tất, nhưng đã thấy đau buốt chịu không nổi vội rút ngay về.
Nhưng ngay sau đó, ông tung ra một ngón thứ ba lanh như điện nhoáng, nhắm thẳng giữa mày Dương Qua, dùng chàng có lanh lẹ tởi đâu cũng không rút kiếm về bảo vệ kịp. Trong khi ấy Dương Qua bỗng nảy ra một kế, đưa ngón tay búng vào chuôi kiếm khiến lưỡi kiếm bay ngược trở lại, nhắm ngay ngực mình đâm vàọ
Vừa trông thấy Dương Qua sử dụng một thế hiểm độc độ tự sát, Võ tam Thông hoảng hốt chỉ kịp thét lên một tiếng "ối" rồi trầm cánh tay mặt thấp xuống, toan giật cáng kiếm độ cứu mạng chàng.
Nhưng thật ra đó chỉ là một hư thế của Dương Qua mà thôị
Khi mũi kiếm vừa đến gần ngực, chàng đã dùng hai ngón tay kẹp chặt cán kiếm lại, rồi theo lối "Hoa kiếm" múa tít như chong chóng độ che chở khắp thân mình.
Tuy Võ tam Thông xuất thủ thật lẹ làng, nhưng cũng hơi muộn rồị Chỉ còn một tý nữa là cả năm đầu ngón tay của ông đã bị kiếm quang gọt đứt tiện hết.
Nhìn Dương Qua múa kiếm theo lối "Hoa kiếm", Võ tam Thông có cảm tưởng như một luồng khí xâm nhập vào tận cơ th, buốt cả xương tủy, muốn phát rung.
Nhất dương chỉ tuy lợi hại, nhưng không thể nào đẩy bạt được ánh kiếm ra xạ Lão đứng sửng sốt nhìn chàng, rồi buông tay than lởn:
-Quả thật là niên thiếu anh hùng, hậu sinh khả úy! Hay quá, từ nay lão đã thành vô dụng.
Dương Qua cảm động dừng tay cúi đầu thưa:
- Nếu lão bá không vì thương cháu ra tay giật kiếm, chỉ dùng ngón thứ ba đâm vào chân mày thì cháu đâu còn sống sót nổị
Võ tam Thông cảm thấy tâm tư nhẹ nhàng thư thái, vui vẻ đáp:
-Xưa kia, một lần Hoàng Dung đã dùng kế thắng được lão, ngày nay lại bị thua cháu một lần nữa cũng vì mưu kế. Các cháu tuy tuổi trẻ nhưng tài caọ Chúng ta tuy cao niên nhưng còn dại dột thiếu kinh nghiệm.
Vừa nói tởi đây, bỗng có tiếng chân động trên đất, phía trưởc có hai người sánh vai nhau đang đi tởị Dương Qua vội kéo Võ tam Thông nấp sau bụi cây khá rậm rạp độ nhìn xem.
Tiếng chân tiến lại gần, nhìn kỹ rõ ràng là hai anh em họ Võ. Khi vừa tởi gần chỗ hai người nấp, Võ tu Văn dừng chân đưa mắt quan sát xung quanh một lượt rồi cất tiếng nói:
đại ca, chỗ này thuận tiện lắm rồi, nào chúng ta ra tay đi thôị
Võ đôn Nho gật đầu đồng ý. Hai thanh trưng kiếm đã tuốt ra khỏi vỏ. Nhưng Võ tu Văn chưa động thủ, nói rằng:
đại ca, hôm nay nếu em bại trận, chắc anh không nỡ xuống tay, nhưng em không thể nào sống được nữạ Sau khi chết rồi còn lại ba gánh nặng nề là báo thù cho mẫu thân, phụng dưỡng cha già, và che chở đùm bọc cho Quách muội, xin nhờ anh niệm tình chu toàn hết cho nhé.
Võ tu Văn tiến thêm mấy bưởc nhỏ nhẹ nói:
đại ca, chúng ta mồ côi từ tấm bé. Cha già lại đi xa, phải nương nhau mà sống.
Nay xảy ra việc này, chắc anh không trách em chứ?
Võ tam Thông nghe nói chạnh lòng rơi lệ. Võ đôn Nho cũng thiết tha nói:
- Số trời đã định, ta chẵng thế nào cãi được đâụ
Võ tu Văn nói:
Đù ai sống, ai chết cũng mặc, kẻ nào sống sót nhất định suốt đi không được tiết lộ câu chuyện này cho cha và Quách Phù phải đau khổ đấy nhé.
Võ đôn Nho không nói gì thêm, chỉ khe khẽ gật đầu, rồi siết mạnh tay trái của Tu Văn. Hai anh em lặng nhìn nhau, không khí có vẻ lắng dịụ
Võ tam Thông nhận thấy hai người có vẻ yêu thương hòa hoãn cùng nhau, trong bụng đã mừng, muốn bưởc lại khuyên hai con không nên quá ngu xuẩn và bồng bột nhất thi như vậỵ Nhưng bỗng một trong hai người thét lởn:
-Chúng ta bắt đầu nào ?
Hai người cùng rút kiếm, soạt soạt liền liền, ánh kiếm nháng lên, Tu Văn tấn công liên tiếp lẹ như sao băng. Đôn Nho đỡ được ba nhát ấy và trả lại liền hai nhát nữa ngay vào chỗ nhược của Tu Văn. Mỗi nhát kiếm vung ra là một nhát trống dội vào ngực Võ tam Thông, tim ông đập liên hồi, tâm hồn tán loạn không biết trong hai đứa con trai đứa nào sẽ bị thương hay bỏ mạng. Tiếng thép chạm nhau choang choang liên miên giữa chốn rừng sâu hoang vắng. Là anh em ruột một cha một mẹ, nhưng gi phút này họ đâm chém nhau không chút nương taỵ Võ tam Thông sợ hãi xanh máu mặt theo dõi trận đấu, không biết gi phút nào sẽ chứng kiến giòng máu thân yêu phải vọt rạ Ông nghĩ bụng:
-Nếu bây gi mình xuất hiện thì cũng có thể ngừng được trận đấu ngay, nhưng như thế không phải là một cách dứt khoát, vì tuy ngừng hôm nay nhưng họ sẽ hẹn nhau một nơi khác mà ta không thể biết được trưởc. Chả lẻ ta cứ bám sát theo bên chân hai người độ giám sát và ngăn ngừa mãi hay sao ?
Thấy việc làm của hai đứa con trai yêu quý, Võ tam Thông lại nghĩ tởi cái thân thế long đong bầm dập của mình, bất giác cõi lòng thổn thức, giọt lệ chan hòạ
Hồi còn thơ ấu, Dương Qua và hai anh em họ Võ không ưa nhau nay nhìn thấy cảnh huynh đệ tương tàn, lúc đầu chàng cảm thấy khoái trá, nhưng nhìn lại thái độ thiu não buồn đau của Võ tam Thông lại chạnh lòng. Nhở lại đi mình không còn sống bao nhiêu ngày nữa bỗng một hảo ý hiện ra trong trờí óc, chàng nghĩ bụng:
đi mình chưa làm đượcmột việc thiện, thì sau khi chết chắc cô mình cũng đau xót. Kim điểm lại những người có thiện cảm cùng ta cũng chỉ quanh quẫn giữa cô Trờinh Anh, Lục vô Song một số hồng nhan trời kỹ mà thôị Tại sao nhân cơ hội này ta không ra ơn một chuyến đd cho lão bá nghĩ tởi mình và khi ta không còn sống nữa, ít ra cũng được thêm một người nhắc nhở tởi tạ
Nghĩ xong, chàng ghé miệng vào tai Võ tam Thông nói nhỏ:
-Lão bá, cháu có một cách giúp bác khiến cho hai anh em không quyết đấu nhau nữạ
Võ tam Thông như người chết đuối túm được phao, quay lại nhìn sững Dương Qua lòng tràn ngập niềm cảm kích. Ông cảm động quá chỉ biết nắm chặt hai tay Dương Qua, mà nói chẵng nên lạị
Suốt đi ông, từ lúc thiếu thi đã bị chữ tình ràng buộc. Khi người vợ đã hy sinh cứu mình mà bỏ mạng, ông dồn hết tình thương vào hai đứa con thơ, chỉ mong sao chúng nó sẽ cùng nhau chung sống trong tình thân mật thuận hòa, không ng lại có cái cảnh như ngày nay, càng nghĩ chừng nào ruột gan ông hình như bị ai cắt đứt.
Trong cái cảnh tuyệt vọng này, ông thấy Dương Qua không khác nào là một vị cứu tinh đã mang hạnh phúc lại cho đi mình, nỗi hân hoan lộ ra quá rõ ràng trên nét mặt.
Thấy nét mặt quá cảm xúc của Võ tam Thông, lòng Dương Qua như quặn thắt và nghĩ thầm:
-Nếu cha mình còn sống, có lẽ ông cũng thương mình như vậy chẳng khác nàọ Chàng ghé tai Võ tam Thông bảo nhỏ:
-Lão bá đừng cho họ thấy mặt, nếu không thì hỏng cả đấỵ
Trong khi đó trận đấu của hai anh em họ Võ ngày càng quyết liệt. Hai người đem ra áp dụng toàn là Việt Nữ kiếm pháp do Hàn Tiu Oanh truyền dạy kỳ trưởc, nhưng ngọn nào cũng có vẻ điêu luyện và già dặn hơn hồi luyện tập.
Võ tu Văn nhẹ nhàn lanh lẹ, thân pháp uyn chuyn, luôn luôn nhảy nhót nhẹ nhàng, cố tìm chỗ hở mà tấn công. Võ đôn Nho thì trầm hùng điềm tĩnh, lúc nào cũng nhiệm nhặt giữ thế, thỉnh thoảng trả lại một vài đòn chắt nụị
Dương Qua đứng xem hồi lâu rồi cười ha hả từ từ bưởc rạ Vừa trông thấy chàng, cả hai anh em giật mình ngừng tay nhìn sửng rồi hỏi gấp:
-Mi tởi đây có việc chi ?
Dương Qua hất hàm hỏi lại:
-Còn bọn bây ở đây làm gì ?
Tu Văn nói:
-Chúng ta nhân thi gi nhàn rỗi ra đây dượt kiếm cùng nhaụ
Dương Qua cười lại bĩu môi nói:
-Chà, siêng năng chăm chỉ quá nhỉ? Luyện kiếm cung tởi nỗi quyết liều sống chết, chưa thấy ai tích cực như các ngườị
Võ đôn Nho nổi nóng nạt lởn:
-Mặc chúng ta, mỗi người có quyền tự do và công việc rờiêng, khỏi cần mi xen vàọ
Hãy cút đi cho rảnh.
Dương Qua cười gằn:
-Nếu quả thật bọn bây luyện kiếm thì không bao gi ta lại can dự vào làm chị
Đàng này chú bây chẳng những quyết đấu má còn can dự tởi em Phù của ta nữa, thì bảo ta làm lơ sao được.
Vừa nghe mấy chữ "em Phù của ta" thì hai anh em họ Võ bỗng thấy nóng tai tái mặt, cùng hét lởn:
-Sao, mày bảo sao ? Láo thật !
Dương Qua điềm tĩnh nói:
-Quách Phù là con gái cưng của Quách Bá Phụ và Quách Bá Mẫu, lẽ cố nhiên việc dựng vợ gả chồng thảy điều do kẻ bề trên quyết định. Hai ông bà Quách bá bá và bá mẫu đã hứa hôn nàng cho ta từ lâu nào phải bây không hay biết. Thế mà hôm nay chúng bây dám ra đấu kiếm hòng cưởp giựt hôn thê của ta, như vậy chúng bây có xem ta ra gì đâu ? Dương Qua này không bao gi chịu đd yên được.
Hai anh em họ Võ không biết lấy lại gì đối đáp trưởc những câu nói quá bất ng và rành rẽ của Dương Qua, vì cả hai điều biết rõ Quách Tỉnh đã nhận Dương Qua làm r-. Hôm nay ý nghĩ của mình bị lột trần quá trắn trợn, nên cả hai đứa chưa biết nên xử trờí như thế nàọ
Một chập sau Tu Văn cười nhạt hỏi:
-Mi gọi "hôn thê" sao không biết ngượng mồm ? Ta cũng phục mi là con người lì lợm và mạnh miệng đấỵ Chẵng hay mi đã cậy ai làm mai mối và đã trờinh sính lễ hồi nào mà đã gọi là "hôn thê".
Dương Qua cười ha hả hỏi lại:
-Nếu như vậy thì chắc bọn bây đã có sính lễ hay cha mẹ tán thành cả rồi sao ? Theo phong tục đi Tống, việc hôn nhân do quyền cha mẹ quyết định và cần phải có mai mốị Trong việc tranh chấp của hai anh em họ Võ, kẻ nào bại sẽ tự vận mà chết. Người còn sống sẽ cầu hôn vởi Quách Phù chừng ấy nàng sẽ không còn lẽ gì chọn lựa nữa và nhất định nàng phải ưng thuận.
Nghe Dương Qua hỏi quá đột ngột và hóc búa, cả hai không biết trả lại thế nàọ Mãi một hồi Tu Văn mởi nói:
-Chúng ta biết rõ Sư Phụ đồng ý gả Quách Phù cho mị Nhưng Sư Mẫu lại hứa gả cho một trong hai anh em chúng ta rồị Giữa ba đứa mình ngày nay danh phận chưa có, việc tương lai sẽ giải quyết ra sao bây gi làm sao đoán trưởc được ?
Dương Qua không nói, chỉ ngưởc mặt nhìn trời cười sằng sặc mãị Tu Văn bực trờí quát nạt lởn:
-Tại sao mi cười ? Ta nói không phải hay sao ?
Dương Qua nói:
-Li ta nói mởi đúng, mi nói sai rồị Quách Bá Phụ thương ta thì Quách Bá Mẫu
cũng vậỵ Anh em bây những gì đặc biệt dám đem so sánh cùng ta xem thử ?
Tu Văn cười gằn đáp:
-Sự thật còn đó, ngươi muốn che giấu cũng không được nữạ Đừng hòng gạt ngườị Dương Qua gằn giọng nói:
-Chuyện gì mà phải đi lừa gạt bọn bây ? Quách bá mẫu cũng đồng ý hứa hôn từ lâu rồị Nếu không, chuyện gì ta phải xả thân cứu cả nhạc phụ và nhạc mẫu trong mấy lần liên tiếp ? Hành động hy sinh ấy cũng chỉ vì mối tình cùng em Phù mà thôị Bây nói vậy thì ta xin hỏi: Sư mẫu đã hứa vởi bây, có bằng chứng chi không ?
Hai anh em chỉ nhìn nhau chưa biết đối phó và trả lại ra sao cả. lại Dương Qua cũng có lý lắm. Vì tranh chấp mối tình của Quách Phù mà anh em đã quyết tâm một mất một còn. Chưa giải quyết xong, nay lại thêm một tình địch lợi hại xen vào thật quả rắc rốị độ đối phó hai người cần phải gác bỏ mọi hiềm khích nội bộ độ hợp sức nương tựa lẫn nhau mởi được.
Vì có lần lé nghe được lại Quách Phù nói cùng hai anh em họ Võ nên chàng dụng ý gợi cho hai người ghen cho bỏ ghét:
- Em Phù đã lắm lần nói vởi ta rằng vì chúng bây đeo đuổi nàng mãi nàng cũng không tiện công nhiên từ chối, thành thử phải nói bằng lòng cả haị Chúng bây há không nghĩ rằng, một người đoan trang hiền thục như Quách Phù, lại là con nhà trâm anh thế phiệt, lẽ nào lại một lúc thích cả hai người đàn ông sao ? Có thể nói trắng ra rằng "thích cả hai là không thích một người nào hết". Phải không ?
Rồi chàng giả bộ nũng nịu nhái lại lại nói của Quách Phù độ nọ:
-Anh hai, sao anh cứ đeo đuổi tôi mãi làm gì ? Anh không hiu lòng tôi đang phân vân ái ngại sao ? Còn anh cả cũng vậy, thôi thà chết phức cho rảnh nợ !
Chàng nói cả hai anh em họ Võ thất sắc, mồ hôi chảy ưởt mình cả hai cùng bàng hoàng suy nghĩ:
-Quả đúng lại nói của Quách Phù nói rờiêng vởi ta trong bữa nọ. Nếu nàng không thuật lại thì sao hắn biết được câu chuyện tâm tình này ? Té ra nàng thoái thác không chịu nhận lại vởi người nào cũng chỉ vì thế. Quả là điều bẽ bàng và sỉ nhục.
Nhìn qua thần sắc của hai người, Dương Qua đã đoán biết hết những ý nghĩ trong lòng họ. Thấy cả hai đã lầm kế mình, chàng từ tốn và nghiêm nghị bảo:
-Như vậy Quách Phù là hôn thê của ta rồị Mai hậu ta vởi nàng sẽ là vợ chồng, cùng nhau nối tóc tởi già, xây dựng gia đình hạnh phúc, con cháu nối nghiệp đi đị
Vừa nói tởi đây bỗng có tiếng thở dài của ai rất não ruột, hình như là Tiu long Nữ. Dương Qua vừa nghe choáng váng cả người, muốn buộc miệng gọi Cô Nương, nhưng đã kịp thi dằn được, vì chàng đoán biết kẻ ấy là Lý mạc Thụ Con người ấy, nhất định không nên giáp mặt được cùng cha con nhà họ Võ.
Rồi chàng lởn tiếng bảo:
-Chúng bây chỉ si tình, nuôi hy vọng hảo huyền vô ích quá. Ta vì tình nhạc phụ,
nhạc mẫu nên bỏ qua hết mọi chuyện, bây gi khá mau về thành Tương Dương giúp đỡ nhạc phụ, nhạc mẫu ta đd thủ thành thì hơn.
Hai anh em họ Võ ngao ngán và chán nản quá, siết tay nhau cảm thông trong số phận hẩm hiu chung.
Võ tu Văn từ tốn nói:
Đương huynh, xin kính chúc anh và Quách cô nương đặng tròn dễm phúc trăm năm cầm sắc hòa hợp. Từ nay xin cứ xem hai anh em chúng tôi như không còn trên cõi đi này nữạ
Nói xong hai người nắm tay nhau bưởc đị Dương Qua mừng rỡ thấy kế hoạch mình đã thành tựu mỹ mãn. Võ tam Thông dang nấp người sau khóm trúc, thấy hai con mình nói lại từ biệt và định đem nhau đi ẩn dật xứ xa thì trong lòng bất nhẫn, vội nhảy ra gọi lởn:
-Văn nhi, Nho nhi, hai con đi đâu đấy ? chưa ta theo cùng.
Hai anh em vừa nghe tiếng Võ tam Thông đã ngạc nhiên, quay mình nhìn lại thấy quả cha mình, cùng thốt lên một tiếng "cha". Võ tam Thông chắp tay xá Dương Qua nói:
-Lão đây nguyện suốt đi ghi ơn tiu đệ.
Dương Qua bực mình vì thấy Tam Thông đã nông nỗi làm lộ công chuyện, định kiếm lại nói át đi, nhưng Võ tu Văn đã nghe được, quay sang bảo anh:
đại ca, có lẽ chúng ta đã bị gạt rồị
Võ đôn Nho tuy không lanh miệng khéo mồm, nhưng cũng có óc thông minh lanh lợị Chàng nghe nói, quay sang nhìn cha rồi nhìn em gật đầụ
Võ tam Thông thấy mình đã làm hỏng chuyện, vội tìm lại đính chính:
-Con chở hiu lầm. Cha không có nhờ Dương huynh khuyên bảo hay dàn xếp gì về chuyện này hết.
Câu cải chính này xác nhận thêm một lần nữa sự việc mà hai anh em đa nghi hoặc. Bấy gi Tu Văn và Đôn Nho mởi tin rằng những chuyện vừa rồi Dương Qua bày đặt hết, vì vậy hai người chợt nghĩ:
-Xưa nay Dương Qua và Quách Phù thưng hục hặc cùng nhau có ai ưa ai đâụ Huống chi Dương Qua đã có tình thiết tha cùng Tiu long Nữ thì làm sao hứa hôn cùng Quách Phù được ?
Tu Văn bảo anh:
- Đại ca, chúng ta cứ về thành Tương Dương hỏi lại Phù muội độ nàng trực tiếp trả lại thì chắc hơn.
Đôn Nho gật đầu đáp:
-Phải rồi, hơi đâu đi tin những lại xảo ngữ được.
Tu Văn ngó cha nói:
-Thưa cha, nhân tiện cha hãy cùng chúng con về thành Tương Dương thăm vợ chồng Quách bá phụ luôn th, hai người cùng cha là bạn cũ mà.
Võ tam Thông thấy công chuyện lở hỏng bét thì không biết đối phó sao cho phảị
Ông muốn đem quyền làm cha ra răn dạy hai con, nhưng lại sợ, kho không có mình chúng nó trở lại thanh toán nhau như cũ thì càng nguy nữạ
Ông đang ú ở chưa biết nên nói gì thì Dương Qua đã cười lạt nói:
-Võ nhị ca, tôi cấm anh không được nhắc đến hai chữ "Phù muội" và ngay cả trong lòng cũng không được nghĩ tởi nữa đấỵ
Võ tu Văn trợn mắt quát lởn:
-Trên đi chưa có kẻ nào ngang ngược và vô lý như mị Chữ "Phù muội", ta đã dùng trên bảy tám năm rồi, không những vậy ta vẫn tiếp tục dùng ngày nay và cả trong tương lai nữạ Phù muội ta kêu mãi đã sao đâu ?
Thình lình có một tiếng bốp chát chúa nổi lên, má Tu Văn đã in dấu năm ngón tay của Dương Qua đỏ ửng.
Tu Văn tuốt thanh trưng kiếm gầm lên:
-Thằng Dương Qua đáng trờị thật. Xưa nay ta vởi mi chưa từng so kiếm xem sao ? Võ tam Thông nạt lởn:
-Văn nhi, không được động thủ.
Dương Qua quay sang nhìn Tam Thông hỏi lại:
-Võ lão bá, trong hai người bác bênh aị
Theo lẽ thưng thì Tam Thông phải bênh con mình mởi phảị Nhưng ông đã rõ sơ?
dĩ Dương Qua muốn hành động cũng chỉ vì muốn giúp mình giải quyết một chuyện rắc rối mà mình đành bất lực, khiến cho hai con mình khỏi tàn sát lẫn nhaụ
Vì vậy cho nên ông đứng yên, cứng miệng chẵng biết nói làm saọ
Dương Qua bèn nói:
-Tôi xin bác cứ ngồi yên trên tảng đá độ thưởng thức cuộc tranh tài nàỵ Tôi xin hứa không giết họ đâu mà lọ
Mặc dù Dương Qua còn nhỏ tuổi nhưng xử thế như thần, huống hồ chi chuyện này chàng lo cho mình, nên Võ tam Thông phải nghe theo lại chàng đề nghị, đến ngồi trên tảng đá lởn bên cạnh đó.
Dương Qua tuốt phăng Tử Vi bảo kiếm, chém soạt luôn hai nhát thành hình chử thập trên một tảng đá khá nặng trên ngàn cân đang lù lù trưởc mặt rồi phi cưởc đá văng ra thành bốn mảnh bằng nhaụ Chổ bị kiếm chém bằng phẳng như cưạ
Anh em họ Võ thấy thanh bảo kiếm bén quá thất kinh nhìn sửng.
Dương Qua cài kiếm vào vỏ rồi nói:
-Vởi hai người, ta chẳng cần phải dùng tởi kiếm này đâu mà lọ
Nói xong chàng bưởc lại cây lởn gần đó bẻ một cành, tuốt hết lá biến thành một cây đoản côn chừng ba thưởc, nói lởn:
-Ta đã nói mà chúng bây chưa tin rằng nhạc Mẫu thương ta hơn. Bây gi ta sẽ chứng minh cho xem. Ta chỉ dùng chiếc cây này, cho hai anh em bây cùng tấn công một lượt tất cả những ngón nhạc phụ ta đã truyền và cũng có thể dùng Nhứt dương Chỉ học của Chu tử Lễu nữạ Ta chỉ dùng toàn thế võ của nhạc mẫu truyền dạy độ đối phó mà thôi, nếu có dùng thứ võ nào khác thì xem như thua bâỵ
Võ đôn Nho thấy vậy cho rằng nếu theo các điều kiện này thì dù anh em mình thắng cũng chẳng danh dự gì, định nói lại, nhưng Võ tu Văn đã lanh miệng nói:
-Hay lắm, đó là do mi đề nghị chứ anh em ta không buộc. Nhưng nếu mi dùng các thế võ của Toàn Chân phái hay trong Ngọc Nữ tâm kinh thì sao ?
Dương Qua bình tĩnh đáp:
-Thì xem như ta thua chứ saọ Hôm nay chúng ta đánh nhau không phải là vì thù oán mà chỉ độ tranh lấy Phù muội mà thôị Nếu ta thua thì nhất định phải đi xa, vĩnh vễn không được nhìn tởi nàng nữạ Còn hai người thì sao ?
Câu hỏi của Dương Qua đã dồn hai anh em vào thế bí nhưng không còn cách nào chống chế nữa, Tu Văn đành nói:
-Thì chúng ta cũng vậy chứ saọ Nếu hai ta bị thua, sẽ mãi mãi không gặp nàng nữạ
Dương Qua nhìn Đôn Nho hỏi lại:
đó là ý kiến của hắn thôi, còn mi thì sao ?
Võ đôn Nho trừng mắt quát:
-Em ta sao thì ta vậy, anh em chúng ta cùng chung một ý kiến thôị Dương Qua đắc chí cười vang:
-Hôm nay nếu kẻ nào bị bại mà không giữ đúng lại hứa thì quả là đồ vô liêm sĩ, thua cả loài chó lợn đấy nhé.
Tu Văn đáp ngay:
đúng như vậỵ Bây gi hãy đỡ kiếm ta đây, thằng mọị
Nói dứt li, chàng vung trưng kiếm chém vụt vào chân Dương Qua đồng thi Đôn Nho cũng chém thẳng vào chân bên kia, khiến Dương Qua phải phi thân nhảy vọt lên cao độ tránh né và buột miệng khen:
-Hay lắm, huynh đệ nhứt tâm, sức mạnh có thể xô thành đổ núi, lợi hại lắm.
Võ đôn Nho tung kiếm chém nữa, Dương Qua cầm côn nhưng không thèm đỡ nghiên mình né tránh, miệng đọc bốn câu: -"Vợ chồng như quần vởi áo, "Anh em như tay vởi chân,
"Áo quần rách, có thể thay, "Tay chân gãy, làm sao chấp nốỉ
Hai anh em bây đã biết bốn câu thơ này chưa ?
Tu Văn quát lởn:
-Hãy đánh đi đừng ba xạọ Võ công của sư mẫu truyền dạy cho đâu sao chẳng đem ra thi thố, cứ tránh né hoài như vậỷ
Đôn Nho không nói lại nào, cứ bặm môi múa kiếm chém ngay vào các chỗ nhược. Dương Qua cười lởn bảo:
-Hay đấy, bây gi hãy cẩn thận nhé, rán mà đỡ những ngón võ tinh kỳ của Nhạc mẫu ta dạy đây nè.
Nói dứt li, chàng dùng gậy đập thẳng theo thế "quất" trong phép đánh chó, đồng thi đưa ngón tay điểm vào huyệt của Đôn Nhọ Đôn Nho vội vàng nhảy lên tránh khỏi, nhưng khúc cây lại đánh trúng vào giò Tu Văn té lăn ra đất.
Thấy em bị nhào, Đôn Nho vội hoành thân tu kiếm chém mạnh như bảo táp, Dương Qua chép miệng khen lởn:
-Hay lắm, phàm thấy em lâm nạn, liều thân giải cứu như vậy mởi đúng đạo làm anh chứ.
Chàng vừa nói xong thì khúc cây đã xoay lại nện trên lưng Đôn Nhọ Tuy bị một đòn không đau lắm nhưng Đôn Nho cũng thừa biết phần thất bại đã về phần mình rồị
Ngay khi đó Tu Văn lồm cồm ngồi dậy, nói lởn:
đó là phép đánh chó, nào võ công của sư mẫu dạy mị Khi bà dạy cho Lỗ hữu Cưởc, chính mi và chúng ta đã nấp xem và học lóm thế mà cũng đưa ra lòe, đâu có gì là giỏỉ
Y nói chưa dứt lại đã lãnh thêm một đòn té xấp xuống đất. Dương Qua chưa chàng lồm cồm ngồi dậy rồi mởi nói:
-Phép đánh chó là một môn võ công tuyệt diệu và khó học vô cùng. Nếu chỉ học lóm mà biết, tại sao anh em bây lại không biết. Quách bá mẫu chỉ dạy cho Lỗ trưởng lão những khẩu quyết thông thưng, còn các thế đánh thì bà chỉ ngầm dạy rờiêng ta mà thôị Cả Phù muội cũng chưa hề học được, thì bọn bây làm sao học được mà mong.
Tu Văn nào biết được câu chuyện Dương Qua đã gặp Hồng thất Công, nên nghe lại chàng nói, đối vởi sự hiu biết của mình, đã tin là hợp lẽ, tuy nhiên ngoài miệng chàng vẫn cứng cỏi nói:
-Mi biết được chẵng qua nhờ trời phú cho có thiên tư đặc biệt mà thôị Chúng ta tuy vô tình nghe sư mẫu giảng giải chứ đâu có độ tâm học lén. Chỉ có những thứ vô liêm sĩ mởi dụng ý này mà thôị
Dương Qua há miệng cười lởn, rồi bỗng nhiên xoay côn lẹ như chởp nghe "bốp, bốp" hai tiếng, mỗi người lãnh thêm một đòn trên lưng tuy không đau lắm nhưng mặt
đã có vẻ thẹn thuồng.
Dương Qua vừa cười vừa nói:
- Bây gi có nói ra cũng không có gì làm chứng và bảo đảm cho, dù ta dùng đả bổng pháp hạ bây nhưng lòng không phục cũng chẵng thích gì. Thôi ta dùng một võ công của nhạc mẫu do ai đích truyền hay không?
Tu Văn hằn học nói lởn:
Đẹp đi mi, cứ mỗi chút là nhạc mẫu vởi nhạc phụ mà không biết ngượng mồm.
Khỏi nói chuyện vởi mi nữa!
Dương Qua cười hè hè nói:
-Cậu này quả hẹp lượng và câu chấp. Thôi cũng được, vậy hãy cho ta biết, võ công
của sư mẫu do ai truyền dạy ?
Tu Văn nghênh mặt tỏ ý tự phụ đáp:
-Sư mẫu ta là con gái duy nhất của Hoàng Đảo Chúạ Võ công của bà do Hoàng đảo chúa truyền dạy chứ còn ai nữả
Dương Qua gật đầu nói:
-Phải đấy, nhưng sau khi chung sống nhiều năm trên đảo Đào Hoa các người có biết sở trưng tuyệt kỷ của Hoàng đảo chúa là môn nào không ?
Võ tu Văn đáp:
-Hoàng đảo chúa là một dị nhân tài kiêm văn võ. Con người như ông thì ngón võ nào cũng tuyệt diệu cả không phân biệt ngón nào sở trưng cả.
Dương Qua gật gù nói:
- lại mi nói cũng chí lý, tuy nhiên về kiếm pháp, mi có biết Hoàng đảo chúa sở trưng kiếm pháp nào hay không ? Võ tu Văn đáp:
-Nếu mày biết sao còn hỏi nữạ Trên giang hồ ai lại không biết Hoàng đảo chúa sở trưng về "Ngọc Tiêu Kiếm Pháp", oai trấn võ lâm, không ai bì nổị
Dương Qua lại hỏi nữa:
-Anh em bây đã gặp Hoàng đảo chúa lần nào chưa ?
Võ tu Văn thấy chàng hỏi mãi bực mình, nhăn mặt xẵng giọng:
-Mi hỏi dai quá cỡ, lẽ cố nhiên không gặp rồị Vì Hoàng đảo chúa trên mười mấy năm nay đi chu du thiên hạ có bao gi về đảo đâụ Cả sư phụ sư mẫu còn hiếm khi gặp gỡ huống chi bọn nàỵ
Dương Qua nói:
- Vậy thì chắc hai người cũng chỉ nghe nói chứ chưa bao gi được thưởng thức Ngọc tiêu kiếm pháp phải không?
Võ tu Văn đáp:
-Trong dịp kỷ niệm sinh nhật của Hoàng đảo chủ, sư mẫu thiết tiệc ăn mừng, ngay trong tiệc bà có biu dễn Ngọc Tiêu kiếm pháp, ta đã được xem, nhưng anh ta khi đó bận lên Trùng Dương cung học nghệ nên không xem được.
Dương Qua cười lởn nói:
-Hay lắm, mi đã xem được rồi thì càng hay lắm. Môn này sư mẫu đã truyền lại cho ta rồị
Hai anh em họ Võ nghe nói nhìn nhau trong lòng ng vực:
-Ngọc tiêu kiếm pháp là một kiếm thuật kỳ diệu vô cùng, ngay như Quách Phù là con gái cưng mà chưa được Hoàng Dung truyền lại, huống hồ Dương Quạ Từ ngày rời Chung Nam sơn, Dương Qua có mấy khi được dịp gần Hoàng Dung lâủ Nếu có gặp nhau cũng chỉ trong vài gi rồi lại chia tay ngay, như thế làm sao có đủ điều kiện độ học cho được?
Đang suy nghĩ nửa tin nửa ng, chưa biết nói sao, bỗng Dương Qua thét lởn:
- Đây là thế Tiên Ông Cỡi Rồng!
Miệng nói tay đâm ngọn roi về phía trưởc nghe bộp một tiếng trúng ngay ngực Đôn Nhọ Nếu là mủi kiếm thật thì ngực Đôn Nho đã thủng rồị
Tu Văn vung kiếm thọc vào hông Dương Qua, nhưng chàng đã thu roi về điểm trúng vào Tu Văn.
Tu Văn hoảng hốt thu kiếm, rùn mình thấp xuống độ né roi rồi tung cưởc đá vụt ra một đá. Khi ấy, ngọn roi của Dương Qua đã đỗi chiều, điểm ngay vào huyệt "Thái Dương" của Tu Văn, vừa công vừa thủ lợi hại phi thưng. Tu Văn đá hụt vào không khí. Đôn Nho cũng đứng vào tình trạng nguy biến, phải dùng hết sức loang kiếm khắp người mởi tạm tránh được những thế tấn công vô cùng ác liệt của Dương Quạ
Sau năm hiệp, hai anh em họ Võ đã yếu sức dần dần, không đủ sức độ chống đỡ chứ đừng nói đến chuyện tấn công.
Dương Qua thì miệng đọc các khẩu quyết, chân tay tu ra liên hồi, hết thế nàng sang thế khác như nưởc chảy mây trôi khiến cho hai anh em họ Võ tối tăm mặt mũi chẵng biết ứng phó đánh đỡ ra làm sao nữa, tay chân rụng rời, mồ hôi ra như tắm.
Xưa kia Tu Văn có dịp xem Hoàng Dung biu dễn Ngọc Tiêu kiếm pháp, tuy thấy hay nhưng cũng không tưởng tượng được lối đánh bay bưởm, uyn chuyn và lợi hại thế nàỵ
Vừa đánh đỡ hai người cảm thấy trong lòng xốn xang, vì tin rằng Hoàng Dung đã truyền cho Dương Qua thật. Hai người nào biết được Dương Qua có dịp may chung sống vởi Hoàng Dược Sư thi gian khá lâu và trong khi ấy, chàng đã được ông ta thân truyền cho hai môn tuyệt kỹ của Đào Hoa kiếm pháp là "Ngọc Tiêu kiếm thuật" và "Đàn chỉ thần công".
Càng đấu chừng nào Đôn Nho và Tu Văn càng cảm thấy áp lực của Dương Qua càng thêm trầm trọng. Ngọn roi chàng múa tuy mềm mại ẻo lả nhưng có một sức mạnh vô cùng hùng hậu hút cả đôi trưng kiếm khiến hai người điều khin khá khó khăn và thưng chém sai đích.
Thấy hai người đã xanh mặt, thở lên hồng hộc, Dương Qua lại cười lởn nói thêm: -Ngọc tiêu kiếm pháp không phải chỉ bao nhiêu mà còn lắm chổ kỳ diệu hơn nữạ
Hãy xem đây nhé.
Chàng nói vừa dứt lại bỗng nghe "bập" một tiếng, ngọn roi và thanh kiếm của Đôn Nho đã gắn chặt vào nhau, đồng thi Đôn Nho cảm thấy một luồng kình lực hút mạnh thanh kiếm như muốn sút khỏi tay bay đị Chàng phải bậm môi cố sức nắm chặt lại độ khỏi mất kiếm.
Dương Qua tiến thêm một bưởc, nương theo áp lực của địch hưởng ngọn roi lại hút chặt luôn cây kiếm của Tu Văn luôn.
Tức thì chàng quát lên một tiếng lởn, vận sức truyền lực vào roi, đè hai ngọn trưng kiếm chúi mũi xuống đất.
Hai anh em họ Võ cố sức bình sinh định rút nhanh kiếm ra khỏi vòng áp lực của Dương Qua, nhưng chàng bỗng tiến thêm hai bưởc dùng bàn chân giậm lên hai thanh kiếm rồi bật ngược đầu roi trở lên chỉ thẳng vào yết hầu hai người miệng tủm tỉm cười hỏi:
đã phục và chịu thua chưả
Nếu cây roi này là thanh kiếm thì hai anh em đứt họng rồi, nên cả hai thất sắc, đứng lặng thinh, mặt mày tái mét.
Dương Qua thấy anh em họ Võ đã khuất phục và kinh hoàng như vậy thì cũng thấy hả hê vì đã báo được mối thù ngày trưởc trên Đào Hoa đảo họ đã hiếp đáp mình. Chàng lùi mấy bưởc, quắt mắt nhìn, hãnh diện.
Đôn Nho và Tu Văn thật không ng Hoàng Dung đã thương yêu Dương Qua và truyền cả tuyệt nghệ võ công cho chàng như vậỵ
Nhưng cả hai đã trót yêu Quách Phù quá nặng, nếu bây gi giữ lại hứa, không nhìn mặt nàng nữa thì làm sao chịu nỗi ?
Đôn Nho thở dài não nuột, rồi muốn bỏ kiếm chịu thua cho rồi, nhưng Tu Văn nói: đại ca, chúng ta chưa thể chịu thua hắn, quyết đấu một keo nữa xem saọ Đôn Nho gật đầu đồng ý.
Cả hai xách trưng kiếm chém nhầụ Lần này người nào cũng quyết đem hết tài nghệ tuyệt học thí mạng cùng Dương Qua độ đánh đổi một mối tình mà họ không thể nào tự ý rời bỏ cho được.
Dương Qua cười rộ nói:
-Có đánh hăng như vậy mởi thấy hứng thú chứ.
Nói xong chàng ném phắt ngọn roi, xoay mình lòn qua hai ánh kiếm hình như không xem hai người ra chi hết. Chàng đùa một hồi bỗng đứng yên lặng, rú lên một tiếng, dùng ngón tay búng mạnh vào hai sống kiếm.
Hai người cảm thấy tê rần rần cả hổ khẩu, không còn đủ sức giữ được, độ hai thanh trưng kiếm thoát khỏi tay bay vút lên không trung như hai chiếc pháo thăng thiên.
Dương Qua phi thân nhảy theo đưa tay xởt lấy cả hai thanh kiếm như một trò chơi, rồi nhìn hai anh em nói:
-Còn đấy là "đạn chỉ thần công", biết chưả
Thấy hai anh em cùng tái mặt không miệng nào đáp lại, Dương Qua trao hai thanh kiếm trả lại và nói:
-Tôi xin hai vị thứ lỗi chọ
Tu Văn tiếp lấy thanh trưng kiếm nghẹn ngào nói:
-Thôi rồi, tôi đành vĩnh biệt cùng Phù muội đi đị
Nói vừa dứt lại chàng trở ngược lưỡi kiếm thọc vào yết hầụ
Ngay lúc đó, Võ đôn Nho cũng xoay lưỡi kiếm cứa mạnh vào cổ.
Dương Qua thất sắc nhảy luôn tởi trưởc đưa tay búng mạnh vào hai sống kiếm nghe "choang, choang" hai ngọn kiếm chạm vào nhau gãy làm bốn đoạn rơi xuống đất.
Ngay lúc đó Võ tam Thông đã nhảy ra nắm áo hai con thét lởn:
-Trời ơi, hai anh em chúng bây chỉ vì một đứa con gái màm đi liều mình tự tử, quả là điều đê hèn quá đáng.
Tu Văn ngẩn lên nhìn cha, mặt đầy nưởc mắt:
-Cha, cha cũng suốt một đi đau khổ vì một người đàn bà. Chúng con... con...
Chàng nói chưa hết li, nhưng thoáng trong bóng sao đêm thấy nét mặt cha già chứa đựng đầy đau khổ, nưởc mắt chan hòa, chàng cảm thấy chúng mình đã đi tàn sát lẫn nhau, đem mối âu lo cho cha già, đã chừng này tuổi mà không tròn quả phúc. Niềm hối hận tràn ngập như ánh chởp trong những bóng tối giữa đêm đông, hai người ôm chầm lấy nhau khóc lởn.
Võ tam Thông buông áo, kéo hai con trai vào lòng, ba cha con ôm nhau thổn thức vì bị xúc động mãnh liệt.
Trong giây phút đau đởn này, Tu Văn nghĩ bụng:
-Ta đã yêu Quách Phù vởi một mối tình chân thật, không ng nàng lại thương mến Dương Quạ Thậm chí một người như sư mẫu cũng lừa dối anh em mình, đem hết võ công truyền rờiêng cho r tương lai bao nhiêu đó cũng đủ chứng minh rằng thiên hạ chẳng qua là giả dối bề ngoài chỉ toàn là xảo trá. Chỉ có tình cha mẹ và anh em ruột thịt mởi là thành thật mà thôị
Càng nghĩ chàng càng thấy thấm thía hối hận gục đầu vào lòng cha nức nở nghẹn ngào thổn thức mãị
-
Chương 60 - Quách Phù Hài Tội Dương Qua - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 60 - Quách Phù Hài Tội Dương Qua
Mặc dù Dương Qua có tâm hồn phóng khoáng, vì lòng nghĩa hiệp giúp Võ tam Thông bằng cách quyền biến, nhưng đã khiến cho anh em họ Võ mang một mối hận lòng, không thiết đến mạng sống nữa. Nếu là Quách Tỉnh chắc không bao giờ ông chịu làm được những thủ đoạn xáo trá như vậy, dầu các thủ đoạn ấy chỉ nhằm một múc đích tốt.
Nhìn thấy anh em họ Võ đã hối hận làm lành với nhau và ba cha con ôm nhau khóc lóc, Dương Qua cảm thấý hân hoan và hãnh diện về việc mình làm. Chàng nghĩ thầm:
- Trước giờ từ giã cõi đời, ta đã làm thêm được một điều thiện. Âu cũng là một niềm an ủi cho số phận hẩm hiu của chàng Dương Qua này.
Bỗng Võ Tam Thông bảo hai con:
- Phàm làm trai không bao giờ thiếu vợ. Đứa con gái nhà họ Quách đã không có lòng đoái tưởng đến thì chuyện gì hai con còn lưu luyến làm gì nữa. Công chuyện đầu tiên hiện nay mà hai con cần làm là chi, có biết không?
Võ Tu Văn đáp:
- Chúng con cần rửa thù cho thân mẫu.
Võ tam Thông gật đầu rồi cao tiếng nói:
- Phải đấy, dù phải đi khắp chân mây mặt nước, chúng ta cũng phải tìm cho ra Xích Luyện tiên tử Lý mạc Thu để trả thù.
Vừa nghe câu này, Dương Qua chột dạ nghĩ: "ủa chết, ta cần đưa họ đi một chỗ khác, nếu để lọt vào tai Lý Mạc Thu trong lúc này thì rắc rối lắm".
Chàng vừa nghĩ tới đó, chưa kịp nói ra thì đã có giọng cười lảnh lót trong hang vọng ra, một người đàn bà thét lớn:
- Cần chi phải đi tìm đâu xa nữa. Xích luyện tiên tử Lý Mạc Thu ta chờ bây tại đây lâu rồi.
Từ trong hang nàng tiến ra từng bước một, trên tay trái bồng đứa hài nhi, tay phải nắm phất trần, hai tà áo bào bay phần phật trước ngọn gió rừng trông vô cùng hống hách.
Cha con họ Võ không ngờ gặp kẻ tử thù nơi đây. Võ tam Thông rít lên một tiếng, chồm tới tấn công ngay. Võ Đôn Nho và Võ tu Văn cũng lượm hai thanh kiếm gẫy tấn công hai bên tả hữu.
Dương Qua gọi lớn:
- Xin chư vị tạm dừng tay, tôi có điều muốn thưa lại.
Võ tam Thông hậm hực nói:
- Dương tiểu huynh, xin hãy chờ tôi giết con ác tặc này rồi sẽ nói chuyện sau.
Nói xong lão dùng tả chưởng đánh liền ba đòn liên tiếp. Nhờ xáp lá cà nên tuy kiếm gãy cũng lợi hại không khác gì đoản đao trủy thủ.
Dương Qua thừa biết họ đối với nhau có một mối đại thù, chưa chắc gì nghe mình mà dừng tay được. Ngặt vì có hại tới đứa bé nên chàng hướng về Lý mạc Thu nói:
- Lý sư bá hãy giao đứa bé cho tôi bồng.
Võ tam Thông trố mắt hỏi:
- ủa, sao mi gọi con ác phụ này là sư bá?
Lý Mạc Thu cười bảo Dương Qua:
- Dương sư điệt, cháu hãy tấn công vào mặt sau bọn chúng còn đứa bé này để mặc ta không hề chi đâu.
Lý Mạc Thu nhận xét qua ba thế võ vừa rồi, thấy Võ Tam Thông đã có một bản lãnh cao cường hơn ngày xưa nhiêu lắm. Hơn nữa thêm hai anh thanh niên giúp sức nữa thì quả là một chuyện rắc rối, khó mà đối phó. Vì vậy nàng gọi Dương Qua bằng sư điệt để gây kế ly gián, uy hiếp tinh thần ba cha con họ Võ.
Không ngờ Võ Tam Thông đã trúng kế. Ông bèn bảo hai con:
- Nho và Văn, hai con hãy đề phòng tên họ Dương, còn con ác phụ này một mình cha liều mạng với nó cũng được.
Dương Qua dừng tay không đánh nói lớn:
- Cả hai bên, tôi không tiếp ai cả, nhưng xin chớ làm tổn thương tới đứa hài nhi đấy nhé.
Võ Tam Thông thấy Dương Qua đã rút lui ra ngoại cuộc thì trong dạ bớt lo phần nào. Ông bèn múa chưởng tấn công Lý Mạc thu liên tiếp. Mạc Thu cũng múa phất trần bình tĩnh kháng cự vừa đánh vừa gọi lớn:
- Nhị vị công tử, theo hành động của nhị vị vừa rồi, tuy có vẻ đa tình lãng mạn, nhưng còn hơn bao nhiêu bọn đàn ông vong ân bội nghĩa đáng ghét khác. Nể tình hôm nay, ta rộng dung cho hai vị khỏi chết, vậy hãy mau rời khỏi chốn này cho rồi.
Võ tu Văn nổi xung thét lớn:
- Mi quả là một con đàn bà lòng lang dạ thú, độc ác hơn hùm beo, mi dám lấy tư cách gì mà bảo rằng bọn ta là đa tình được?
Miệng nói tay tấn công tới tấp. Lý Mạc Thu nổi xung thét:
- Quả đồ súc sinh không biết thân còn dám lớn lối.
Nói rồi múa phất trần thành một vòng tròn gạt luôn mấy thanh kiếm gãy của hai anh em. Khi hai thanh kiếm vừa chạm phải phất trần, anh em họ Võ thấy tê rần cùi tay, toàn thân rúng động, ngực đau nhói. Nhờ Võ tam Thông đẩy tới ba chưởng cứu nguy hiểm Lý Mạc Thu phải thu phất trần về chống đỡ, hai anh em mới rảnh tay để thở.
Dương Qua sẽ tiến lại gần phía sau Lý Mạc Thu chờ lúc nàng hở cơ sẽ xông vào giật đại đứa bé. Nhưng vì ba cha con họ Võ đánh gắt quá khiến nàng phải vũ lộng cây phất trần bao phủ khắp thân mình không một chỗ nào hở thành thử chàng không thi hành được mưu kế. Thấy cha con họ Võ chẳng chút nể nang gì đến đứa bé. Dương Qua hoảng quá, chỉ sợ nếu có bề nào gây thương tích cho hắn thì biết ăn làm sao nói làm sao với vợ chồng Quách Tỉnh về sau cho tiện. Chàng lại cất tiếng gọi lớn:
- Sư bá, hãy giao đứa bé tôi bồng cho.
Miệng vừa gọi, hai tay tung ra hai chưởng đẩy cây phất trần qua một bên rồi thình lình nhập nội sát bên mình nàng giật đứa bé. Vì đang đứng giữa bốn người, Lý Mạc Thu không thể nào hở tay để giành lại. Nhưng nếu để mặc chàng giật đứa bé đem đi thì chẳng đành lòng nên nàng trợn mắt hét
lớn:
- Nếu mi cố giật nó, ta sẽ kẹp mạnh cho nát thây, chừng đó đừng có trách nhé.
Dương Qua hoảng kinh thối lui không dám giật nữa.
Thừa lúc Lý Mạc Thu bị phân tâm, Võ Tam Thông dùng tay trái đẩy ra một chưởng còn tay phải luồn xuống phía dưới điểm thẳng vào hông Lý Mạc Thu.
Bị điểm trúng yếu huyệt đau nhói, hai chân bủn rủn muốn sụn, Lý Mạc Thu vội vàng thu hết tàn lực đá mạnh vào tay Võ Đôn Nho làm bắn thanh kiếm gãy đi xa lắc, rồi múa cây phất trần thành một cơn gió lốc đàn áp Võ Tu Văn.
Võ Tam Thông lật đật nắm áo Tu Văn kéo mạnh sang một bên tránh được đòn này.
Lý Mạc Thu tự thấy mình mang trọng thương e khó cầm cự lâu dài, nên múa tít cây phất trần mở đường phi thân chui vào hang núi.
Võ Tam Thông mừng quá la lớn:
- Con ma đầu đã bị một đòn rất nặng, e khó sống nổi.
Hai người con định cầm thanh kiếm gãy xông vào truy kích, nhưng Võ Tam Thông ngăn lại bảo:
- Hãy khoan, chớ hành động hấp tấp mà trúng nhầm độc kế của con tiện tỳ. Hãy đứng canh phòng nơi đây, chờ hắn chui ra sẽ đánh.
Hai anh em vừa cất kiếm lui ra thì bỗng có một tiếng gầm vang dội cả hang đá, rồi từ bên trong phóng ra một con mãnh thú, mắt sáng như đèn. Võ Tam Thông giật mình hoảng sợ và suy nghĩ:
- Lý Mạc Thu đã nấp trong hang, sao còn thú dữ, còn hắn đâu rồi?
Ông vừa thối lui vài bước, bỗng thấy ánh sáng lấp lánh phía dưới bụng ác thú. Võ Tam Thông biết có ám khí vội vàng phi thân lên cao tránh né. Nhưng hai anh em họ Võ vô tình tránh né không kịp mỗi người lãnh một mũi ngân châm cùng thét lên thất thanh lùi ra loạng choạng, Võ Tam Thông hoảng sợ, tim muốn vọt ra khỏi lồng ngực.
Lý Mạc Thu từ dưới bụng con beo lộn người lên, tay trái ôm đứa trẻ, tay phải vung phất trần, miệng cười ngạo mạn, rồi thúc con beo nhảy khỏi miệng hang, sải một lúc rồi nhảy xuống dòng suối cạnh sườn núi.
Dương Qua không tưởng tượng rằng Lý Mạc Thu cưỡi beo thoát nạn nên khi thấy con beo chạy khá xa chàng vội gọi lớn:
- sư bá... Lý sư bá...
Nhìn hai con nằm bất động trên mặt đất, Võ Tam Thông lòng đau như cắt, nổi giận xung thiên, chụp lấy Dương Qua miệng hét:
- Ta quyết liều thân cùng mi phen này.
Dương Qua không ngờ ông trở mặt, không đề phòng trước nên bị Võ Tam Thông ôm chặt. Chàng lính quýnh la lớn:
- Hãy bỏ tôi ra để tôi theo đoạt dứa bé về cho kịp.
Nhưng Võ Tam Thông như một con thú điên, đôi mắt đỏ ngầu, la lớn:
- Phen này hai đứa cùng chết cho rồi. Ta không thiết sống nữa đâu.
Dương Qua cuống quít, dùng thế "tiểu cầm nã thủ" để gỡ tay Võ Tam Thông nhưng Võ Tam Thông như một kẻ điên đang liều mạng, tay trái bám chặt lưng chàng, tay mặt dùng thế chống lại. Dương Qua nhìn theo bóng con beo và Lý Mạc Thu khuất trong dòng suối thì thở dài than rằng:
- Võ lão bá, bác giữ cháu làm gì cho hư hết mọi việc. Sao không lo cứu hai người kia cho rồi?
Tam Thông như người mê chợt tỉnh, mừng rỡ đáp:
- Phải đấy, nhưng người có chữa đặng vết thương độc này không?
Nói xong lão buông ra, chạy lại phía hai con. Dương Qua cúi xuống nhìn hai anh em họ Võ thấy có hai cây kim bạc ghim sâu vào vai trái và đùi phải của Đôn Nho và Tu Văn. Thời gian chưa bao lâu mà chất độc đã nhiễm vào huyết, hai người thở đã yếu, nằm lim dim bất tỉnh.
Chàng xé một miếng vải lót tay nắm rút hai cây kim ra.
Võ Tam Thông hỏi gấp:
- Ngươi có thuốc giải độc không, hãy nói mau?
Khi cùng sống chung với Trình Anh và Lục Vô Song, Dương Qua đã học thuộc sách ngũ độc kỳ thư của Lý Mạc Thu, biết được cách chưa các loại nhưng tìm cho đủ các thứ thuốc trong hoàn cảnh này đâu phải chuyện dễ? Chàng đành thờ thẫn nhìn hai người đang nằm rên rỉ vì thuốc độc hành hạ thân thể và lắc đầu trở ra.
Tình cha con nặng như núi, Võ Tam Thông nhìn hai đứa con thân yêu mà đôi mắt mờ lệ. Ông sực nhớ lại hồi nào vợ mình đã hy sinh hút máu độc trên vết thương của mình, nên vội cúi xuống kề miệng trên đùi Tu Văn để hút.
Dương Qua hoảng kinh la lớn:
- Lão bá, không nên đâu.
Nói xong, chàng đưa tay điểm vào huyệt "đại thôi" trên lưng Võ Tam Thông, khiến ông ngã sấp tới trước nằm không cử động, nhìn sững hai con đang vật lộn với tử thần, hai hàng lệ thảm từ từ lăn dài trên má.
Trong khi ấy Dương Qua suy nghĩ:
- Ta chỉ còn năm hôm nữa là chất độc Tình hoa bột phát mà chết. Còn sống thêm hay chết sớm đi năm ngày đâu có nghĩa lý gì. Hai anh em họ Võ tuy là hạng tầm thường, không đáng kể nhưng Võ bá bá là một bậc có hào khí rất đáng mến phục, đời người đã đau khổ nhiều vì vợ con. Bây giờ ta cũng không còn thiết gì nữa, đành hy sinh năm ngày sống sót để giúp cho gia đình người được đoàn tụ, xây đắp phần nào hạnh phúc cho Võ lão bá lúc về già.
Nghĩ xong, chàng không do dự, kề miệng vào đùi Tu Văn hút hết chất độc và máu bầm nhổ ra rồi hút luôn chất độc nơi vai Võ Đôn Nho.
Võ Tam Thông nằm thấy chàng hút hết chất độc cho hai con, lòng mừng rỡ nhưng cảm động xót xa vì quá cảm kích. Ông chỉ tức vì mình đã bị điểm trúng huyệt không thể can ngăn hoặc đích thân hút máu độc cứu con. Dương Qua hút mãi cho đến khi chất đắng trong miệng trở nên mặn. Lúc ấy óc chàng đã hoa, đầu choáng váng. Chàng biết mình cũng bị nhiễm độc quá nhiều, cố sức hút thêm mấy miếng nữa nhổ đi rồi ngã vật ra hôn mê bất tỉnh.
Thiếp đi một hồi lâu, không biết mấy giờ, đến khi chợt tỉnh lại, Dương Qua thấy hình như có nhiều bóng người đang qua lại rất đông. Chàng cố nhướn mắt nhìn xem nhưng càng nhìn càng mờ rất khó phân biệt. Một chập sau chàng hôn mê trở lại.
Không biết bao lâu, Dương Qua mở mắt nhìn quanh, thấy Võ Tam Thông đang ngồi trước mặt, hớn hở nói:
- Tỉnh lại rồi! May quá, quý quá!
Nói xong ông sụp quỳ xuống mọp đầu lạy luôn mười lạy, miệng nói rối rít:
- Dương huynh người đã xả thân cứu mạng hai con và cũng đã cứu cả già này... ơn này không biết để đâu cho hết, thật ngàn đời già không dám quên.
Nói xong, lão lại đứng dậy rồi phủ phục lạy một người khác đang ngồi bên, miệng nói:
- Muôn đội ơn sư thúc...
Quay sang nhìn người ấy, Dương Qua thấy không khác gì Ni Ma Tinh, mặt mày đen đủi, mũi cao mắt sâu hóm, tóc quấn từng nùi, nhưng chỉ khác có một điều là tuổi già nên tóc trắng phau.
Dương Qua biết Võ Tam Thông là đồ đệ của Nhất Đăng đại sư, nhưng không biết ông có một vị sư thúc ở Thiên Trúc nữa. Chàng muốn nghiêng mình nhìn lại thật kỹ nhưng vì quá mệt, tứ chi rũ riệt không thể nào cử động được. Đưa mắt nhìn quanh một chặp, chàng thấy mình đang nằm trên một chiếc giường, ngay tại căn phòng của chàng đã ở trước kia tại thành Tương Dương. Chàng có cảm giác rằng mình vẫn còn sống. Khi thấy thoáng bóng người đàn bà gần đó, chàng mừng quá vội kêu lớn:
- Cô... cô nương.
Một người bỗng bước lại ấn nhẹ tay trên trán bảo:
- Qua nhi, hãy nằm yên tĩnh dưỡng, cô nương của con đang đi có việc cần bên ngoài rồi.
Dương Qua nhìn kỹ lại thì kẻ ấy là Quách Tỉnh. Chàng mừng quá nhưng bỗng nhớ lại:
- Theo căn bệnh của Quách bá bá phải trải qua đúng bảy ngày bảy đêm mới lành được. Nay người có vẻ mạnh khỏe, chẳng lẽ ta cũng mê man quá lâu như vậy sao? Nếu vậy thì chất độc Tình hoa trong mình ta sao chưa hoành hành?
Chàng suy nghĩ một chút đầu óc choáng váng, ngủ mê lúc nào không hay. Khi chàng tỉnh lại lần thứ ba thì nhằm vào lúc giữa đêm, tứ bế vắng lặng, chỉ có một ngọn đèn hong leo lét trên đầu giường. Võ Tam Thông vẫn ngồi yên một bên canh chừng không biết mỏi, mắt nhìn chàng đăm đăm.
Dương Qua nhoẻn miệng cười nói:
- Bá bá, tôi không hề chi đâu! Võ bá bá đừng lo ngại. Hai anh em kia có bình yên không?
Võ Tam Thông quá cảm kích chỉ nhìn chàng gật đầu, mắt đẫm lệ chứ không nói nên lời. Xưa nay hình như chưa bao giờ ông biết qua những giây phút quá cảm động như vậy.
Dương Qua ái ngạ quá, bèn nói qua chuyện khác:
- Làm sao chúng mình về được thành Tương Dương như thế này, bá bá?
Võ Tam Thông gạt lệ nói:
- Long cô nương nhờ Chu sư đệ của tôi đem con Hãn huyết thần mã tới hoang sơn tặng Dương huynh, khi tới nơi thấy chúng ta nằm lăn dưới đất nên mới vực đem về đây.
Dương Qua ngạc nhiên hỏi:
- ủa, tại sao Long cô nương biết tôi đang ở chốn đó mà nhờ đem ngựa tới được. Người có việc chi cần kíp đến nỗi không đích thân đi được phải nhờ đến bác Chu?
Võ Tam Thông lắc đầu tỏ ý không biết và nói:
- Tôi về tới thành cũng chưa được gặp Long cô nương. Tôi chỉ nghe Chu sư đệ cho biết nàng còn nhỏ tuổi, nhan sắc tuyệt vời mà bản lãnh rất cao cường, trong giang hồ ít người dám sánh. Tôi chỉ tiếc là chưa có hân hạnh được yết kiến mà thôi.
Nghe Võ Tam Thông ca tụng cô nương mình, Dương Qua rất vui lòng và càng thêm cảm tình của ông hơn nữa. Nếu cứ tính theo tuổi tác thì Tiểu Long Nữ chỉ đáng là hạng con cháu, nhưng ông đã dùng tới danh từ "tiếp kiến", cũng vì mến phục học trò mà kính trọng lây tới thầy như vậy.
Chàng nói nhỏ:
- Cháu chỉ bị thương mà thôi.
Nhưng Tam Thông đã chặn ngang nói:
- Dương đệ, lão trong võ lâm ra tay cứu người bị nạn là chuyện thường tình. Nhưng có gan xả mạng sống của mình vì một kẻ khác, đó mới là một hành động vô cùng cao quý. Huống chi Dương đệ lại đi hy sinh cho hai đứa con tôi trong lúc chúng tôi đã thất lễ cùng Dương đệ cách đó không bao lâu. Việc này, tôi dám chắc trên đời này, trừ sư phụ tôi ra, chẳng có kẻ nào làm nổi. Như vậy mà...
Dương Qua khoát tay tỏ ý bảo ông thôi nói, nhưng Võ tam Thông vẫn nói:
- Nếu tôi gọi Dương đệ, là ân công thì chắc không bằng lòng, nhưng nếu Dương đệ cứ tiếp tục gọi tôi là Lão bá thì đã đánh giá Tam Thông này quá thấp.
Dương Qua vốn con người thực tế, không thích những lễ nghi và tiểu tiết tầm thường. Chàng đã thầm xem Tiểu Long Nữ là vợ chưa cưới của mình, nên thích làm những chuyện khác các tập quán thường tình trong xã hội, nên vui vẻ đáp:
- Thôi, từ này tôi xin gọi người là đại ca vậy.
Nhưng nếu gặp hai anh em Đôn Nho và Tu Văn thì cũng hơi khó xưng hô một tý.
Võ Tam Thông nói:
- Đâu có gì mà phân vân về bọn nó. Hai đứa ấy đã nhờ Dương đệ cứu sống, dù phải làm thân trâu ngựa cũng chưa thể đền nổi.
Dương Qua nói:
- Võ đại ca người không nên cám ơn tôi quá vậy. Hiện nay trong người tôi đã nhiễm độc tình hoa, chẳng còn sống bao nhiêu nữa, vì vậy việc tôi hút chất độc trong người hai anh em kia cũng không có gì đáng ca tụng cho lắm.
Võ Tam Thông quả quyết cãi:
- Dương đệ không nên nói như vậy. Đừng nói chất độc đang hoành hành cho tới ngày nào, phàm con người ai cũng tham sống sợ chết, hễ sống được giờ phút nào cũng bám lấy để nuôi hy vọng được cứu thoát. Theo quy luật thiên nhiên, con người trước sau cũng trở về với cát bụi, nhưng kẻ nào dám bỏ cái mạng sống của mình, mặc dù chỉ trong giây phút, mới là điều hiếm có.
Dương Qua cười nói trở qua chuyện khác:
- Chúng mình về đây đã mấy ngày rồi nhỉ?
Võ Tam Thông đáp:
- Tính tới nay vừa đúng bảy ngày.
Dương Qua ngạc nhiên quá nói:
- Nếu vậy thì tôi đã đến thời hạn phải bị chết vì chất độc của Tình hoa, tại sao vẫn còn sống như thế này? Lạ quá?
Võ Tam Thông vui vẻ nói:
- Sư thúc tôi là một bậc đệ nhất danh y thiên hạ, nổi danh về việc chuyên trị các chất độc tại Thiên Trúc. Xưa kia chính cũng nhờ sư thúc tôi chữa cho sư phụ tôi thoát chết bởi chất độc do Quách Phu nhân vô tình mang tới. Để tôi đi mời người vào đây nhé.
Nói xong ông đứng dậy bước ra khỏi phòng.
Dương Qua mừng thầm nghĩ bụng:
- Có lẽ trong khi mình đang mê man vị Thiên Trúc thần tăng đã chẩn mạch cho uống linh đơn giải hết chất độc tình hoa trong người đi chăng? Lạ quá không hiểu Long cô nương đi đâu mà đến nỗi ta bị đau nặng cũng không vào thăm được? Nếu nàng biết ta không chết, chắc hẳn phải mừng lắm lắm.
Chàng hồi tưởng lại những giây phút tâm tình âu yếm cùng Tiểu Long Nữ, nghe thấy cõi lòng rạo rực hân hoan, nhưng bỗng nhiên từ trong ngực bị đau nhói lên một cái như ai dùng dùi lửa nung vào, chịu không xuể thét lên một tiếng.
Từ ngày uống nửa viên thuốc của Cừu Thiên Xích cho đến nay, chưa khi nào Dương Qua bị một cơn đau dữ dội như thế này. Chàng nghĩ có lẽ chất độc trong người chưa hết, nay nghĩ tới Tiểu Long Nữ nên chất độc lại bộc phát cũng nên.
Chàng ôm ngực chịu đau và mồ hôi đổ ra dầm dề ướt áo. Khi sắp ngất xỉu vì quá đau, bỗng nghe có tiếng niệm "Nam Mô A di đà Phật" từ bên ngoài vọng lại. Vị thần tăng xứ Thiên Trúc lững thững bước vào, Võ Tam thông chắp tay bước theo sau.
Thấy Dưung Qua đang nằm lăn lộn vì quá đau đớn, Võ Tam Thông hoảng hốt vội hỏi:
- Dương đệ làm sao thế, thấy trong người hiện giờ ra sao?
Rồi quay sang phía vị sư Thiên Trúc, ông khẽ thưa:
- Thưa sư thúc y đang bị chất độc hành hạ, xin sư thúc thương tình cứu chữa, cho được uống thuốc giải độc để khỏi kéo dài sự đau đớn.
Vị thần tăng không hiểu Tam Thông nói gì lẳng lặng tới nắm tay Dương Qua chẩn mạch.
Võ Tam Thông sực nhớ lại cho người đi mời Chu Tử Liễu vì chỉ có ông mới hiểu và nói được tiếng Thiên Trúc mà thôi. Chặp sau Chu Tử Liễu tới.
Dương Qua cố đem hết tinh thần chịu đựng ra chống chọi với cơn đau, một lát mới có thể thuật lại cho vị thần tăng Thiên trúc nghe rõ về câu chuyện trúng độc tình hoa.
- Sau khi gạn hỏi tỷ mỷ về hình dáng của loại tình hoa, vị thần tăng tỏ ý vô cùng ngạc nhiên bảo:
- Tình hoa là một loại thuộc đời Thượng cổ, đã mất giống từ lâu rồi. Cứ theo sách Phật thì xưa kia loại hoa này đã giết hại không biết bao nhiêu sanh linh, Phật Thích ca mới hóa phép tiêu diệt loài hoa này để bớt một di họa cho nhân loại. Không ngờ ngày nay loại ấy còn sót lại Trung Nguyên này. Bần tăng chưa tận mắt nhìn thấy hoa ấy thì chưa thể tìm được thuốc trừ độc dược.
Ai nấy nghe nói đều lộ vẻ buồn rầu thất vọng. Nghe Chu Tử Liễu dịch lại, Võ Tam Thông chấp tay thưa với vị Thần tăng:
- Thưa sư thúc, xin sư thúc từ bi cứu chữa cho Dương đệ phen này.
Thần tăng chắp tay niệm Phật, nhắm mắt cúi đầu suy nghĩ. Mọi người trong phòng lẳng lặng theo dõi, không ai dám nói lời nào. Chặp sau vị Thần tăng mở mắt nói:
- Cứ như chất độc trên người hai sư điệt, chỉ cần hút vài cái là chết ngay. Thế mà Dương cư sĩ đã hút hết chất độc cho hai người mà không bị hại, đến nay bổn mạng vẫn không hề chi. Còn chất độc của tinh hoa, tới nay qua hạn vẫn chưa hại được mạng cư sĩ, có lẽ đây là một trường hợp tình cờ may mắn nhờ độc trị độc chăng? Hai chất độc này đã công phạt và đối phó lẫn nhau khiến cho cư sĩ khỏi chết, âu cũng là một trường hợp khá hy hữu.
Dương Qua và Chu Tư Liễu là những người thông minh lanh lợi, vừa nghe nói đã hội ý ngay, gật gù cho phải. Thần tăng nói tiếp:
- Phàm con người làm thiện sẽ gặp thiện, Dương cư sĩ đã xả thân cứu người thì Phật trời cũng phù hộ xui khiến cho có cách giải được độc.
Võ Tam Thông mừng quá nói:
- Vậy xin sư thúc rộng lòng chữa cho.
Thần tăng đáp:
- Ta phải tới động Thủy tiên nơi Tuyệt Tình cốc một phen để nhìn được tận mắt loại hoa này.
Cả ba người ngạc nhiên suy nghĩ:
- Đường đi từ đây tới Tuyệt tình cốc xa xôi ngàn dặm, vừa đi vừa về trong ngày làm sao kịp?
Vị thần tăng nói thêm:
- Muốn tìm phương pháp cứu chữa, bần tăng cần phải nhìn tận mắt hoa này. Trong khi chờ đợi, Dương cư sĩ đừng suy nghĩ hay mơ tưởng tới ý trung nhân, để cho chất độc khỏi bộc phát, làm tổn thương tới chân khí, sau này khó chạy chữa lắm đấy.
???Dương Qua chưa kịp nói. Hay là chúng ta cùng tới Tuyệt Tình cốc, buộc con mẹ già nọ giao thuốc giải độc cứu Dương đệ cho tiện.
Chu Tử Liễu vẫn còn nhớ ơn Dương Qua trước kia đã lập mưu ép buộc Hoắc đô vương tử toa thuốc giải độc cứu mạng mình thoát khỏi độc châm, nên cũng muốn nhân dịp này đền đáp. Vì vậy ông gật gù ưng thuận ngay.
- Phải đó, chúng ta cần theo hầu sư thúc, và tìm mọi cách để lấy thuốc giải độc.
Khi hai người hăng hái bàn bạc thì vị Thiên Trúc thần tăng đứng trầm ngâm nhìn Dương Qua ra chiều lo lắng. Dương Qua thấy trong tia mắt của Thần tăng có vẻ buồn buồn thì suy nghĩ:
- Có lẽ loại độc dược này khó trị lắm cho nên một vị đệ nhất thần y trong thiên hạ cũng phải e dè suy nghĩ.
Chàng gượng gạo hỏi:
- Đại sư có điều chi dặn bảo xin cứ nói!
Thần tăng nghiêm trang nói:
- Cái độc của Tình hoa khác hẳn với bao nhiêu độc dược khác, vì chất độc lại liên hệ đến cái tình, cái hại dính liền với tâm tư. Trường hợp cư sĩ rất có thể giải thoát nếu không vương vấn cái tình. Trái lại ví dụ đem được nửa viên thuốc nữa về cũng chưa chắc trục được hết chất độc. Tôi cần tới Tuyệt tình cốc là để chứng tỏ hết lòng cứu chữa mà thôi, còn sự thành tựu hay chăng là do phần cư sĩ quyết định. Nếu cư sĩ có gan cắt đứt được mối tình, đừng bận tâm suy tưởng tới nữa thì độc này tự nhiên dứt hết, khỏi cần thuốc thang gì hết.
Dương Qua thầm nghĩ:
- Tình của Tiểu Long Nữ là lẽ sống của ta mà bảo ta dứt đi thì dù có sống sót cũng còn nghĩa lý gì nữa. Thà để cho chất độc hành hạ đến chết
còn hơn.
Tuy vậy nhưng chàng vẫn lễ phép đáp:
- Đa tạ đại sư đã chỉ dạy. Tôi xin cố gắng tuân theo.
Chàng muốn khuyên họ không nên tới Tuyệt Tình cốc làm gì vô ích nhưng biết rằng lời khuyên can đối với những người trọng tín nghĩa cũng chẳng ích chi cho nên chàng đành làm thinh luôn.
Võ Tam Thông an ủi:
- Dương đệ, người hãy yên tâm dưỡng bệnh, đừng lo lắng chi hết. Sáng mai này chúng tôi sẽ khởi hành và ráng về càng sớm càng hay. Chừng nào Dương đệ hoàn toàn hết bệnh, chúng tôi sẽ hân hạnh uống chén rượu mừng hôn lễ giữa Dương đệ và Quách cô nương tại đây.
Dương Qua nghe nói rất bực mình, tuy nhiên trong thời gian ngắn ngủi quá không thể nào giãi bày cho được, vì vậy chàng chỉ ấm ớ lấy lệ cho qua chuyện. Khi mọi người ra ngoài rồi, chàng nằm trên giường nhắm mắt cố ru giấc ngủ.
Ngủ được một giấc khá dài, hồi chợt tỉnh lại thì gà đà gáy sáng. Qua bao nhiêu ngày không có món gì vào bụng Dương Qua cảm thấy đói cồn cào cả ruột gan. Trên đầu giường có để sẵn mấy đĩa để đầy bánh và trái cây. Chàng đưa tay với lấy một chiếc bánh đưa lên miệng cắn ăn đỡ. Ngay khi đó phía ngoài có tiếng gõ cửa khe khẽ. Cánh cửa kêu kẹt một tiếng rồi từ từ hé rộng. Nhờ ánh sáng lờ mờ của cây bạch lạp, Dương Qua thấy một nàng mặc áo hồng, đẩy cửa bước vào, mặt mày hậm hực hình như đang giận dữ một chuyện gì. Người đó là Quách Phù.
Dương Qua sững sờ vì quá đột ngột, nhưng cũng cất tiếng chào:
- Xin chào Quách cô nương.
Quách Phù chỉ "hừ" một tiếng, không nói gì thêm, xắm xúi lại ngồi trên chiếc ghế cạnh giường, quắc mắt nhìn Dương Qua, giận dữ. Nàng cứ nhìn một hồi lâu, nhưng không nói thêm lời nào.
Không chịu được dưới cái nhìn soi mói đó, Dương Qua giả lả hỏi trước:
- Quách bá bá sai cô nương đến đây có việc chi cần dặn tôi không?
Quách Phù chỉ đáp gọn:
- Không!
Bị luôn hai lần tấn công có vẻ thiếu lịch sự nếu là những lần khác thì khóe mắt Quách Phù có nhiều nét khác thường, hơn nữa chẳng biết nàng tìm mình quá sớm chắc có dụng ý chi đây, nên chàng cười nói:
- Quách bá mẫu sanh xong cũng khỏe mạnh chứ?
Quách Phù vẫn giữ vẻ mặt lạnh lùng khó chịu và nói xẵng:
- Mẹ tôl mạnh hay yếu cũng không cần anh phải bận tâm đến!
Trong đời chàng, trừ Tiểu Long Nữ, Dương Qua không chịu nhường nhịn một người nào khác, vì vậy nên hôm nay bị Quách Phù đối xử tàn nhẫn như thế chàng thấy khó chịu vô cùng, nghĩ thầm:
- Cha nàng là đại hiệp, mẹ nàng là Bang chủ, chắc nàng tự cho mình là cao quý lắm rồi?
Nghĩ xong, chàng chỉ "hứ" một tiếng lớn rồi nhắm mắt lại như người ngủ.
Quách Phù hỏi:
- Vì sao anh hứ?
Dương Qua chán quá nhưng trong lòng khinh không thèm đáp lại, "hứ" thêm một tiếng nữa.
Quách Phù nổi nóng hỏi lớn:
- Ta hỏi hứ cái gì?
Dương Qua cười hồn nhiên:
- Đàn bà là phải! Mình chỉ hứ một tiếng mà đã nóng nảy sừng sộ lên rồi!
Chàng điềm tĩnh đáp:
- Vì trong người không được khỏe, tôi "hứ" vài tiếng cho xả hơi bớt mệt.
Quách Phù lẩm bẩm:
- Nghĩ một nơi nói một nẻo, quả là hạng tiểu nhân hèn hạ!
Bỗng nhiên bị mắng thình lình, chàng giật mình, ái ngại: "Chẳng lẽ nàng đã biết những lời ta bịa đặt ra để gạt hai anh em họ Võ rồi sao?
Thấy nàng nổi giận và nặng lời cùng mình, nhưng trên khuôn mặt mỹ miều cũng có nhiều nét đáng thương, hơn nữa Dương Qua vốn có sãn tính phong lưu thương người, nên dịu dàng hỏi:
- Quách cô nương, có phải cô muốn nói về những lời tôi đối đáp cùng anh em họ Võ chăng?
Quách Phù nhìn thẳng vào mặt chàng nói:
- Người đã nói với họ những gì, cứ thuật lại thử xem nghe được chăng?
Dương Qua cười giả lả nói:
- ấy chẳng qua vì tôi muốn khỏi có cuộc tương tàn đáng tiếc trong hai anh em họ Võ, tránh sự đau lòng cho lão bá trong lúc tuồi già, chứ thật tình lòng tôi đâu muốn vậy. Có lẽ lão bá đã thuật cho cô nương nghe rồi thì phải.
Quách Phù nghiến răng nói:
- Lão vừa gặp ta đã chúc mừng rối rít và ca tụng mi như thần như thánh. Ta dù sao cũng là một nữ nhi thanh bạch đâu phải hạng người để chúng bây đặt điều nói nhảm như vậy được?
Nói tới đây nàng nghẹn ngào không nói được nữa, hai hàng nước mắt tuôn ra ướt đầm đôi má.
Dương Qua hối hận, cúi đầu không đáp. Trong lúc cao hứng chàng đã nói ba hoa cùng anh em họ Võ, không ngờ đã vô tình làm thương tổn tới danh dự Quách Phù. Hậu quả này cũng khó mà hàn gắn cho được.
Thấy chàng làm thinh không đáp, Quách Phù càng tức giận, khóc tức tởi nói:
- Và lão bá có biết hai anh em họ Võ đánh thua mi nên đã bị mi buộc không được gặp mặt ta nữa phải không?
Dương Qua rất bực tức Võ Tam Thông đã lớn tuồi rồi mà không nhận định được sự thật hơn để đi nói toẹt hết cho Quách phù nghe khiến cho chàng còn miệng mà không thể biện luận được. Chàng phải gật đầu nhận:
- Tôi có đặt điều nói lừa họ nhưng đây là vì để dàn xếp công chuyện cho họ, hoàn toàn không có một dụng ý nào tà hết. Xin nàng niệm tình châm chước cho.
Quách Phù lau nước mắt hỏi lớn:
- Đêm qua, mi còn nói gì nữa?
Dương Qua giật mình ngơ ngác hỏi:
- Đêm qua tôi có nói gì đâu?
Quách Phù nói:
- Trước khi đi, Võ lão bá có bảo khi nào mi lành bệnh sẽ uống rượu mừng hôn lễ giữa mi và ta, cớ sao mi dám gật đầu nhìn nhận mà không biết xấu?
Dương Qua mới hoảng hồn vì biết rằng đêm qua Quách Phù đã nấp nghe hết mọi việc rồi. Chàng vội tìm cách chống chế:
- Khi ấy đau quá tôi đang mê man nào có nói được gì nhiều, ngoài ra cũng không hiểu hết những gì người ta nói.
Quách Phù biết chàng trớ trêu nên giận quá hét lớn:
- Ngươi bảo rằng mẹ ta đã vừa lòng ngươi, nhận ngươi làm rể rồi còn lén dạy ngươi võ nghệ nữa phải không?
Bị nàng hạch hỏi tới tấp Dương Qua không biết đối đáp sao nữa, lúng túng nghĩ bụng:
- Ta nói đùa về chuyện Quách cô nương, dù sao cũng có thể xem là một chuyện nói dóc để tán gái thông thường mà thôi. Nhưng nó động tới Quách bá mẫu, quả là một điều phạm thượng, lỗi nặng vô cùng. Phải làm sao để Quách bá bá đừng hay biết tới chuyện này mới được.
Nghĩ xong chàng năn nỉ:
- Quách cô nương, trong lúc nông nổi, tôi có nói vài điều thiếu thận trọng có lỗi với cô nương và bề trên, tôi cũng thấy hối hận rồi. Xin cô nương đừng để lệnh tôn biết.
Quách Phù cười gằn nói:
- Nếu đã thấy sai, biết sợ, sao còn đặt chuyện nói bậy làm gì?
Dương Qua nói:
- Tôi xem Quách bá phụ như cha, lúc nào cũng một niềm kính mến. Ngặt vì trong lúc nóng lòng, muốn dàn xếp cho hai anh em họ Võ đừng tàn sát lẫn nhau nên nỗi như vậy mà quên suy nghĩ.
Dù sao Quách Phù và hai anh em họ Võ đã chung sống và nhiều cảm tình mật thiết từ thuở nhỏ, bây giờ nghe Dương Qua buộc họ không được nhìn mặt mình nữa thì tức giận phừng phừng, trợn mắt thét lớn:
- Thôi việc này sau sẽ thanh toán, bây giờ mi hãy cho ta biết rõ em bé của ta đâu rồi?
Dương Qua đáp:
- Xin mời lệnh tôn đến đây, tôi muốn thưa cùng người đôi lời về chuyện này.
Quách Phù đáp:
- Giờ đây cha ta đã ra thành tìm em bé rồi. Ngưòi thật là một kẻ táng tận lương tâm, nỡ bắt em ta đi đổi lấy thuốc giải độc. Ha... ha... trên đời chỉ có mạng ngươi là quí, còn mạng em ta là cỏ rác hay sao?
Dương Qua đang tủi thân về câu chuyện trước, còn vấn đề của đứa bé thì dù sao chàng cũng chưa hề có việc gì làm trái với lương tâm cho nên chàng mạnh dạn nói:
- Lúc nào tôi cũng có lòng muốn giật được em bé đem về cho lệnh tôn thế mà bảo Dương Qua này cố ý đem lệnh muội đổi thuốc giải độc thì quả là oan quá. Tôi cam đoan là không bao giờ có ý nghĩ đen tối như vậy.
Quách Phù hỏi thêm:
- Vậy em ta đâu rồi?
Dương Qua đáp:
- Lệnh muội đã bị Lý Mạc Thu bắt đem đi, tôi kém tài không đoạt lại được, thật đáng hổ thẹn. Nếu tôi không bị chết giấc thì đã đuổi theo để cướp cho kỳ được mang về rồi.
Quách Phù cười gằn hỏi thêm:
- Vậy Lý Mạc Thu có phải là sư bá của mi chăng. Đêm nọ cả bọn bây cùng trú chung một hang đá phải không?
Dương Qua đáp:
- Vâng, Lý mạc Thu là sư bá tôi . Nhưng giữa bà và cô nương tôi không thuận nhau từ lâu rồi.
Quách Phù xì một tiếng rồi hỏi:
- Không thuận nhau, tại sao bà ấy nghe theo ngươi đem em ta đi đổi thuốc giải độc?
Dương Qua nôn nóng vùng ngồi dậy nói:
- Quách cô nương hãy thận trọng lời nói. Xin đừng vu khống như thế. Tôi tuy còn ít tuổi nhưng không bao giờ làm điều xằng bậy như vậy đâu.
Quách Phù bĩu môi đáp:
- Thôi đừng lãnh phần phải nữa! Nếu mi không có ý đó tại sao cô nương mi lại như vậy. Chẳng lẽ nào đặt điều nói láo ư?
Dương Qua ngơ ngác hỏi:
- Sư phụ ta bảo sao?
Quách Phù đứng thẳng người dậy, đưa tay chỉ vào mặt Qương Qua dằn từng tiếng:
- Chính sư phụ ngươi đích thân cho Chu thúc thúc biết hiện ngươi và Lý Mạc Thu đang ở trong hang đá, nàng yêu cầu Chu thúc thúc đem con Tiểu hồng mã tới cho mi để mang em ta đến Tuyệt Tình cốc cho sớm. Thế mà...
Dương Qua nghe nói vô cùng kinh ngạc, bèn phân trần:
- Phải đấy. Chính sư phụ tôi có bàn định như thế. Tôi có nhiệm vụ bồng lệnh muội tới Tuyệt Tình cốc trước để đổi lấy nửa viên tuyệt tình đan rồi sẽ liệu lại. Đây chẳng là một chiến thuật tạm thời lúc đầu sau đó sẽ tùy cơ ứng biến, thật tình chúng tôi không có ý gì làm hại lệnh muội cả.
Quách Phù ngắt lời chàng:
- Em ta mới chào đời chưa được một ngày, mà nỡ đem đi hàng ngàn dặm để mưu toan đổi thuốc cho mình, như thế mà dám bảo không có lòng hãm hại, quả là giọng nói của con người thiếu lương tâm. Ngày còn thơ ấu, mi mồ côi cha mẹ, phụ thân ta đã đối xử với mi như thế nào? Nếu ngươi không thương tình đem mi về Đào Hoa đảo để nuôi thì làm sao mi được sống sót tới hôm nay được? Không ngờ ngươi nỡ thừa lúc cha mẹ ta đau bệnh, âm mưu cùng kẻ địch đánh cắp em ta để làm chuyện bất lương.
Nàng càng nói càng hăng, cứ xỉ vả như tát nước vào mặt, Dương Qua không còn cách nào biện bạch nên tức giận vô cùng, máu nóng xông lên xây xẩm cả mặt mày, thét lớn một tiếng, ngã quay ra bất tỉnh.
Mãi một chập sau chàng lần lần tỉnh. Quách Phù vẫn còn ngồi một chỗ cũ, lạnh lùng đưa mắt nhìn chàng, miệng không ngớt xỉ vả đay nghiến:
- Té ra mi cũng còn chút lương tri để hối hận với hành vi đen tối hèn hạ của mình sao?
Dương Qua rầu rầu đáp:
- Nếu tôi quả có lòng dạ như vậy chuyện gì tôi không bồng thẳng lệnh muội tới tuyệt tình cốc cho rồi?
Quách Phù nói:
- Tại vì chất độc trong người mi bộc phát, hành hạ thể xác mi đến nỗi chết giấc bên đường, làm sao còn đủ sức để bồng cho được? Cũng may trời xanh chẳng giúp đứa gian, khiến cho cơ mưu chúng bay không thành tịu được.
Tình ngay lý gian, Dương Qua thấy không còn cách nào biện hộ được nữa, đành phải xuống nước đáp:
- Nàng muốn nói sao tùy ý, tôi khỏi cần biện bạch nữa, sau này trắng đen nàng sẽ biết. Bây giờ thì sư phụ tôi đâu rồi?
Quách Phù nổi nóng đỏ hồng đôi má trừng mắt nói:
- Trò nào thầy nấy, thế thường vẫn như vậy cả Cô nương mi cũng chẳng tốt gì đâu.
Dương Qua nộ khí xung thiên, vùng ngồi dậy nói lớn:
- Nàng chửi mắng tôi thậm tệ, nhưng tôi đã vị tình cha mẹ nàng tha thứ hết. Nhưng tôi cấm nàng không được nói xấu tới sư phụ tôi.
Quách Phù cũng không vừa, nạt lại:
- Ta cứ nói, mi dám làm chi ta. Ai khiến sư phụ mi cũng hay nói năng càn dở?
Dương Qua thầm nghĩ:
- Cô nương là con người trầm tĩnh, đứng đắn, đời nào đi nói năng càn dở được.
Nghĩ xong, chàng mỉa mai:
- Trong lúc mình nghĩ chuyện xấu, rồi cứ tưởng ai cũng xấu xa bừa bãi cả.
Quách Phù dự định không nói lại những câu nói của Tiểu Long Nữ, nhưng bị chàng nói móc, bỗng nổi giận tuôn ra hết:
- Sư phụ của mi bảo rằng: Quách cô nương, Dương Qua vốn là một kẻ thuần lương thành thực, mồ côi cha mẹ từ ngày còn tấm bé, tình cảnh đáng thương hãy nên tử tế với hắn. Hai người xứng đôi, lại được cha mẹ bằng lòng hãy cùng nhau sống chung xây dựng hạnh phúc lâu dài. Cố chuyển lời bảo hắn hãy quên ta đi, ta không bao giờ trách móc gì đâu! Rồi nàng trao cho ta thanh "Thục nữ kiếm" bảo để cùng "quân tử kiếm" thành một đôi, cùng với ngươi. Như vậy không phải là nói năng càn dở hay sao?
Trong lúc vừa thẹn vừa giận, Quách phù thuật lại đúng những lời của Tiểu Long Nữ, nhưng với một giọng khác hẳn.
Mỗi lời nói của nàng như một mũi kiếm chọc thẳng vào tim óc Dương Qua. Chàng bối rối không hiểu vì sao cô nương mình lại có ý nghĩ như vậy?
Chờ Quách Phù nói hết câu, Dương Qua trợn mắt nhìn nàng trừng trừng quát lớn:
- Nàng đừng đặt chuyện nói bậy. Vậy Thục nữ kiếm đâu rồi, sao không đưa ra đây để chứng minh sự thật? Đã nói mà không đưa bằng chứng tất nhiên là dối trá rồi .
Quách Phù điềm nhiên đưa tay ra sau rút ra một thanh kiếm đen huyền, quả là thanh Thục nữ kiếm, lúc trước hai người đã chọn trong động Thủy tiên và giữ làm binh khí tùy thân.
Sự thật quá bẽ bàng, Dương Qua không biết nói gì hơn, mắng đùa:
- Ai thèm đi hết hợp cùng nàng? Thanh quân tử kiếm của ta đã gẫy từ lâu rồi. Chính nàng đã lén lấy thanh kiếm này của cô nương ta rồi về đây đặt điều nói bậy.
Quách Phù từ bé đến lớn được cha mẹ nuông chiều, xung quanh ai ai cũng chỉ tâng bốc nàng chứ không ai nói xẵng lời nào. Anh em họ Võ lúc nào cũng tìm mọi cách làm hài lòng nàng, hễ nàng nói sao cũng cho là phải, vì vậy nên chưa khi nào nàng nghe một câu nói nào trái ý bao giờ.
Vì tức những lời nói móc của Dương Qua nên nàng cố nén lòng tự ái và thẹn thuồng thuật lại những lời Tiểu Long Nữ, không ngờ chàng lại phản ứng như vậy, cho nàng nói lát và lén cắp thanh kiếm này thì quả là một chuyện không thể chịu đựng nổi. Nàng xếch đôi mày liễu, tay nắm chặt chuôi kiếm định hành hung nhưng chợt nghĩ:
- Hắn ta lúc nào cũng kính trọng sư phụ, vậy ta nên kể luôn chuyện này cho hắn ứa gan luôn thể!
Trong lúc quá giận dữ, Quách Phù không còn suy nghĩ gì đến hậu quả của câu chuyện nữa. Thanh Thục nữ kiếm vừa định rút ra đã đẩy lại vào bao. Nàng từ từ ngồi xuống ghế nói:
- Cô nương mi quả có sắc đẹp tuyệt vời, tài cao tột đỉnh. Rất tiếc nàng đã làm một việc không đúng tí nào.
Dương Qua hỏi ngay:
- Việc gì vậy?
Quách Phù đáp:
- Rất tiếc nàng thiếu đứng đắn, thỉnh thoảng qua lại có chuyện tâm tình cùng bọn đạo sĩ phái Toàn Chân.
Dương Qua gạt ngang:
- Đừng nói xàm. Sư phụ ta cùng bọn Toàn Chân phái có một mối thù sâu như biển, làm gì có chuyện như thế được.
Quách Phù cười mỉa mai nói:
- Ta muốn nói chuyện qua lại tâm tình là để có một danh từ cho tao nhã mà thôi. Thật ra câu chuyện của nàng đã làm một người con gái như ta không thể diễn tả cho đúng sự thật được.
Dương Qua bốc giận điên đầu nạt lớn:
- Hãy câm mồm. Sư phụ ta trong trắng như băng tuyết, ta cấm mi nói hồ đồ như vậy. Nếu còn nói bậy ta sẽ vả tét miệng ngay.
Quách Phù lạnh lùng nói:
- Phải rồi, việc ấy nàng làm được chứ ta không thể nào làm được, còn việc trong trắng hay không có lẽ chỉ có mi là biết rõ. Nếu là một người đàn bà trong trắng tại sao lại lân la cùng một tên đạo sĩ được?
Dương Qua tức quá tái cả mặt, rít lên:
- Nàng hãy nói rõ thêm.
Quách Phù nói:
- Một khi chính ta, ta đã nghe thì không thể bảo là lầm được nữa. Có hai tên đạo sĩ phái Toàn Chân đến thăm cha ta, trong lúc ông đang bận việc ngoài thành Tương Dương nên ta phải tiếp thay.
Dương Qua bồi hồi hỏi gấp:
- Rồi sao nữa, nói mau lên.
-
Chương 61 - Biết Được Thủ Phạm Trộm Hoa Trên Núi Chung Nam - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 61 - Biết Được Thủ Phạm Trộm Hoa Trên Núi Chung Nam
Quách Phù liếc qua thấy chàng trợn trừng đôi mắt, hai đường gân nổi hằn trên trán, vẻ mặt vô cùng thiểu não thì đắc trí nói: - Hai tên đạo sĩ ấy là Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính, mi có quen biết họ không?
Dương Qua gật đầu đáp: - Có biết rồi sao nữa? Quách Phù cười lạt nói tiếp:
- Ta chỉ sắp đặt chỗ ăn nằm cho chúng xong rồi bỏ đấy đi ra ngoài, không ngờ nửa đêm có một đệ tử Cái Bang ra cho biết là hai tên này đang dùng kiếm đánh nhau kịch liệt trong phòng.
Dương Qua nghe nói nghĩ bụng:
- Hai tên này xưa nay vẫn hục hặc nhau mãi. Việc chúng đánh nhau có gì lạ đâu?
Quách Phù kể tiếp:
- Ta rón rén đến gần cửa sổ, nhón chân nhìn vào, thấy họ thôi đấu kiếm và đang cãi nhau kịch liệt. Triệu Chí Kính đã bảo Doãn Chí Bình cùng sưphụ mi làm chuyện bậy bạ, Doãn Chí Bình nghe qua không chối cãi, chỉ trách tên kia sao nói quá lớn mà thôi.
Dương Qua vội tung chiếc khăn đang quấn ngang trên mình, chồm dậy thét lớn:
- Vô lý, như vậy nghĩa là sao, không tin được!
Quách Phù bẽn lẽn đôi má ửng hồng nói:
- Ta đâu có biết, chỉ nghe chúng nói sao thuật lại thôi. Còn chuyện có hay không, tốt hay xấu, chỉ có thầy trò chúng bay biết rõ mà thôi.
Thấy nàng đáp với một vẻ quá khinh bạc, Dương Qua tức dằn tâm không nổi tát thẳng vào mặt Quách Phù một cái nghe "bốp". Quách Phù ngã ngửa, mặt mày tối sầm, bên má sưng vù im dấu năm ngón tay. Nếu Dương Qua không bị giảm sút sức lực vì vết thương thì có lẽ nàng không bay hàm thì cũng bay mất hết cả răng rồi.
Quách Phù chưa khi nào nhận được một đòn đánh phũ phàng như vậy. Nàng đâu biết bình sinh Dương Qua chỉ kính mến một mình Tiểu Long Nữ mà thôi. Xúc phạm tới nàng không khác gì dùng gươm đâm thẳng vào tim chàng, nên chàng không còn nghĩ ngợi gì nữa. Con người Quách Phù cũng đầy tự ái, một khi đã bị đau và nhục thì bắt chấp mọi hậu quả về sau. Nàng thét lên một tiếng, rút thanh Thục nữ kiếm nhằm đầu Dương Qua chém xuống.
Vừa vung tay tát Quách Phù, Dương Qua đã chợt nghĩ:
- Trong lúc nóng giận ta đã nặng tay xúc phạm tới nàng công chúa thành Tương Dương, con gái cưng của vợ chồng Quách bá bá, thì từ nay hết còn chỗ nương thân nữa rồi.
Nghĩ xong chàng thòng chân xuống giường tìm giày để đứng dạy. Chàng vừa ngồi dạy thì thanh kiếm của Quách Phù chém xuống nghe tiếng vút.
Dương Qua cười gằn, đưa tay đẩy ra rồi ngéo một cái đoạt ngay thanh Thục nữ kiếm.
Quách Phụ bị thua liên tiếp hai đòn thì nổi nòng, nhìn quanh thấy trên đầu giường có một thanh kiếm khác để nằm ngang trên gối.
Nàng chồm lại lấy ngay, tuốt ra khỏi vỏ, đâm thẳng vào ngực Dương Qua.
Thanh kiếm vừa tuốt ra thì một luồng ánh sáng nhoáng lên, tiếp theo là một làn sát khí rợn người. Thanh kiếm chính là Tử vi bảo kiếm.
Dương Qua hoảng vía, không dám dùng tay không chống đỡ với thanh kiếm này vội vàng dùng thanh Thục nữ kiếm loan vòng trước ngực che thân. Không ngờ, sau bảy ngày bị chất độc hành hạ, thiếu ăn, thiếu uống, sức khoẻ giảm sút, nên vừa loan thanh Thục nữ kiếm ra trước ngực thì chân tay bủn rủn rã rời hết cử động nổi.
Thanh Tử vi bảo kiếm vừa chém xéo ngang một nhát chạm trúng thanh Thục Nữ kiếm nghe keng một tiếng nhỏ. Thanh kiếm đen bị đứt tiện làm hai đoạn.
Quách Phù cũng hoảng sợ, không ngờ thanh kiếm này lại lợi hại như thế
này. Nhưng nhân lúc thắng thế, nàng chỉ nghĩ tới việc trả thù về chiếc tát tai vừa rồi nên thầm nghĩ: - Hắn tán tận lương tâm cố hại em mình, dù có giết hắn đi chắc cha mẹ mình cũng không phiền trách.
Nàng nhìn Dương Qua té quỵ bên giường, không còn sức khỏe để chống cự lại, thanh kiếm gãy còn hoành ngang trước ngực để che chở, nhưng trong ánh mắt vẫn điềm nhiên không có gì là ân hận hết. Nàng cắn răng vận sức chuyển hết thần lực chém xuống một nhát.
Tiểu Long Nữ chiếm được con Tiểu hồng mã bèn cho phi nhanh như tên bắn quyết đuổi theo Kim Luân Pháp Vương và Dương Qua. Nhưng khi con Tiểu hồng mã chạy trên chục dặm đường, nàng mới biết đã lạc đường nên vội vã quay trở lại.
Khi tới nơi thì hai người đã biến vào trong thung lũng mất rồi.
Nàng lo sợ quá, cứ nhìn bóng mặt trời xuống dần mà lo cho tính mạng của Dương Qua sống không còn bao lâu nữa. Không nề hà nguy hiểm, nàng giục Tiểu hồng mã chạy vòng quanh thành Tương Dương để tìm kiếm. Con Tiểu hồng mã chạy rất mau. Khi chạy được trên ba chục dặm thì đã quá nửa đêm rồi. Xung quanh rừng núi thâm u, tứ bề vắng lặng, nàng lắng nghe tiếng khóc thảm thiết của Võ Tam Thông từ xa đưa lại.
Cứ theo hướng có âm thanh đi dò lần tới, không bao lâu tới gần và nghe tiếng gươm của hai anh em họ Võ chạm nhau loảng xoảng.
Kế đó lại nghe tiếng nói của Dương Qua.
Tiểu Long Nữ mừng quá, nhưng nàng lại lo Dương Qua gặp tay kình địch lợi hại nên chưa muốn ra mặt ngay, chỉ ẩn thân vào bụi cây gần đó để
đề phòng khi lâm nguy sẽ ngầm giúp đỡ.
Nàng cột con Tiểu hồng mã nơi một nhánh cây rồi rón rén đến nấp sau một tảng đá khá to để quan sát.
Trong thời gian rình xem, nàng nghe Dương Qua cứ lập đi lập lại mãi câu chuyện hứa hôn cùng Quách Phù. Chàng gọi Quách Phù là hôn thê rồi vợ chồng Quách Tỉnh và Hoàng Dung là nhạc phụ, nhạc mẫu nữa...
Bao nhiêu lời này khiến Tiểu Long Nữ sửng sốt như người trên cung trăng rơi xuống, Hoàng Dung lén truyền võ công cho chàng lại còn cấm hai anh em họ Võ không được gặp mặt người yêu của chàng nữa.
Mỗi lời nói của Dương Qua như một mũi dao đâm vào trái tim Tiểu Long Nữ khiến nàng thấy trời đất như đảo lộn, vạn vật tối sầm.
Nếu một người khác thấy hành động khác thường của Dương Qua ít ra cũng cần cân nhắc tìm hiểu, nhưng Tiểu Long Nữ vốn con người chất phác, xưa nay chưa hề giao thiệp với đời, đâu hiểu được những bề ngoài dối trá, xảo quyệt. Dương Qua đối với kẻ khác thì ba hoa xảo kế, mánh lới đủ điều, nhưng đối với nàng lúc nào cũng thẳng thắn, không hề nói đùa hay giả dối, cho nên một lời của chàng thốt ra nàng tin ngay là thực.
Thấy Dương Qua thắng hai anh em họ Võ, Tiểu Long Nữ xót xa tới số phận mình, từ nay hết hy vọng cùng ai đắp xây hạnh phúc.
Chán nản quá nàng buột miệng thở dài não nuột.
Khi ấy Dương Qua có nghe tiếng thở dài này, chàng có cất tiếng hỏi, nhưng Tiểu Long Nữ đã phi thân đi mất.
Dương Qua tưởng là Lý Mạc Thu cố tình nghe chuyện riêng của mình nên không bận tâm nghĩ tới nữa.
Tiểu Long Nữ dắt con Tiểu hồng mã đi lang thang một mình giữa cánh rừng khuya u tịch, đầu óc như tơ vò.
Nàng nghĩ tới nghĩ lui chưa biết xử trí thế nào cho phải. Mặc dù đã hai mươi tuổi đầu, nhưng xưa nay sống cách biệt xã hội loài người đâu có hiểu gì về nhân tình thế thái, tâm hồn trong sạch như tờ giấy trắng, từ cử chỉ và hành động không khác gì một đứa trẻ ngây thơ.
Nàng tự nghĩ:
- Nếu Dương Qua đã hứa hôn cùng Quách Phù, lẽ cố nhiên phải bỏ rơi mình chứ làm sao chung sống với ta trăm năm được nữa. Bây giờ ta mới hiểu rõ vì sao vợ chồng Quách đại hiệp cứ tìm đủ mọi cách để cản trở không cho mình kết thân với chàng. Có lẽ Dương Qua sợ mình buồn nên cố tình dấu diếm. Dù sao chàng cũng khá tốt đối với ta đấy chứ.
Nàng thật tình yêu Dương Qua tha thiết, nên tuy chính tai nghe chàng nói sẽ thành hôn với Quách Phù nàng cũng không mảy may oán hận mà chỉ trách phận mình sao khéo long đong.
Nàng lại nghĩ tiếp:
- Trước nay ta chẳng hiểu vì sao chàng cứ nay lần mai lữa không chịu xuống tay giết Quách đại hiệp để trả phụ cừu, té ra chỉ vì đã đa mang cảm tình cùng Quách Phù quá nặng. Như thế đã chứng minh dự định kết hôn của chàng rồi. Nếu hôm nay ta mang con thần mã này trả lại cho chàng, biết đâu chẳng khiến chàng lưu luyến tới mình và sinh ra rắc rối trong mối lương duyên cùng Quách cô nương, cũng tội nghiệp.
Nàng thở dài và quả quyết:
- Ta suốt đời sống trong Cổ mộ đã quen, bây giờ trở lại với đời sống lẻ loi cũng được. Với thời gian rồi cái gì cũng xoá nhoà trong quên lãng hết. Sống trong cái thế giới xảo trá với trò đời muôn mặt ta không thể nào chịu đựng được nữa rồi.
Sau một chập suy nghĩ, phân vân, Tiểu Long Nữ đã dứt khoát tư tưởng. Mặc dù lòng xót xa như muối xát, khó nên được mối tình đang nuôi nấng trong lòng từ bấy lâu nay, nhưng nàng cũng không thể nào làm lơ để cho Dương Qua phải chết vì chất độc tình hoa, nên quay trở lại thành Tương Dương. Về đây nàng sẽ nhờ Chu Tử Liễu thay mình mang con Tiểu hồng mã lại thung lũng trao cho Dương Qua dùng đi về Tuyệt tình cốc cho kịp hạn định.
Trong khi ấy mặc dù bọn thích khách đã đi xa, nhưng trong thành Tương Dương vẫn rối ren vì Quách Tỉnh và Hoàng Dung còn đang bị bệnh. Bao nhiêu công việc đều do Lỗ Hữu Cước chu toàn sắp đặt cả. Chu Tử Liễu cũng cố đem hết tài năng và nhiệt tình ra giúp thêm cho Lỗ Hữu Cước trong việc chống giữ và bảo vệ thành này.
Tiểu Long Nữ về gặp Chu Tử Liễu nhờ ông mang ngựa lại thung lũng cho Dương Qua và buộc chàng phải cấp tốc tới Tuyệt tình cốc mang theo đứa con của Quách Tỉnh để đổi lấy Tuyệt tình đan giải độc cho mình. Vì nàng nói tắt quá, Chu Tử Liễu không hiểu đầu đuôi câu chuyện, phải gạn hỏi lại.
Tiểu Long Nữ trong lúc thần trí rối ren không biết nói sao hơn chỉ hối ông đi ngay cho, để kịp cứu mạng cho Dương Qua. Trong khi nàng nói có Quách Phù đứng bên cạnh nhưng nàng cũng chẳng cần đếm xỉa tới, vì trong bụng nàng nghĩ rằng: - Dương Qua đã là chồng tương lai của Quách Phù, thì dù tạm mượn em gái nàng ít lâu để lại Tuyệt tình cốc đổi linh đan cứu chồng nàng khỏi chết cũng không hại chi. Nếu cần để giúp cho người chồng tương lai còn sống sót chắc Quách Phù cũng sẵn lòng giúp sức thêm là khác.
Nàng ân cần nhắc nhở Chu Tử Liễu. Mỗi khi nói tới tên Dương Qua thì nàng cảm thấy xót xa trong dạ.
Từ nhỏ nàng đã tu luyện để tìm cách kiềm chế mọi tình cảm đừng chi phối nội tâm, nhưng từ khi yêu Dương Qua đến nay sự kiềm chế này đã hoàn toàn bất lực, đôi khi tim nàng bị cảm xúc mạnh hơn người thường nữa.
Nói chưa hết ý mà nước mắt đã chan hoà trên đôi má, nàng không gắng ngượng được nữa, cắm đầu chạy thẳng về phòng, ôm gối nức nở khóc một mình.
Dù là một vị trạng nguyên thông minh lanh lợi hơn người Chu Tử Liễu không thể nào đoán ra được ý định của Tiểu Long Nữ và lý do câu chuyện của nàng.
Nàng vừa nói dứt, vừa dặn dò qua những tiếng nấc, chẳng có đầu đuôi, gốc ngọn. Chu Tử Liễu tuy không hiểu lắm, nhưng vì có mấy câu thúc đẩy liên quan đến tính mạng của Dương Qua khiến ông phải lên đường ngay, mọi việc khác sẽ tuỳ hoàn cảnh đối phó sau.
Khi Chu Tử Liễu ra ngõ thì không thấy con Tiểu hồng mã, hỏi lại thì quân lính cho hay Quách Phù đã cưỡi đi rồi. Tìm kiếm Quách Phù khắp nơi không gặp, Chu Tử Liễu không rõ nàng ẩn nấp nơi đâu, chỉ đành thở dài suy nghĩ: - Mấy cô gái này sao lắm chuyện rắc rối, nói chuyện thì hồ đồ không đầu đuôi gốc ngọn, còn hành động thì lén lút như bóng ma.
Vì lo sợ cho tính mạng Dương Qua, Chu Tử Liễu đành tìm một con tuấn mã khác, rồi dẫn một vài đồ đệ trong Cái Bang theo lộ trình do Tiểu Long Nữ chỉ vẽ tìm tới thung lũng nọ.
Khi tới hoang cốc, thì gặp Dương Qua và ba cha con họ Võ đang nằm im lìm trên mặt đất. Võ Tam Thông đang cố vận nội công để giải huyệt, còn Dương Qua và hai anh em họ Võ thì bất tỉnh từ lúc nào rồi.
Chu Tử Liễu bèn vực hết bốn người về thành Tương Dương thời may gặp vị sư thúc là Thiên Trúc Thần Tăng từ nước Đại Lý tới thăm, nhờ cho thuốc giải cứu.
Tiểu Long Nữ về phòng nằm khóc mãi cho vơi sầu. Càng suy nghĩ nàng càng thấy xót xa, nên hai hàng lệ càng lúc càng tuôn tràn không cầm lại nổi. Nàng rút khăn tay lau nước mắt bỗng chạm phải thanh Thục nữ kiếm đang
đeo bên mình, bèn nghĩ bụng:
- Ta còn giữ thanh kiếm này làm chi nữa. Hãy đem giao luôn cho Quách cô nương để tác hợp cho hai người về sau có hay hơn không.
Vì quá yêu dương Qua cho nên bất kỳ việc gì có lợi cho chàng là nàng làm ngay không chút ngần ngại. Nàng vội vã ngồi dạy, lau sạch lệ rồi chạy đi tìm Quách Phù.
Khi ấy đã nửa đêm, Quách Phù đang yên giấc. Tiểu Long Nữ không cần gõ cửa, phi thân nhảy luôn vào phòng, gọi Quách Phù dậy, trao thanh Thục nữ kiếm và căn dặn những lời như Quách Phù đã thuật lại cho Dương Qua nghe ở đoạn trên.
Khi trao xong thanh Thục nữ kiếm, nàng tất tả đi ngay. Quách Phù ngỡ ngàng gọi lại hỏi: - Cô bảo những gì tôi không hiểu?
Tiểu Long Nữ chẳng thèm đáp, chỉ lắc đầu, tung mình qua cửa sổ đi luôn.
Quách Phù gọi lớn:
- Khoan đã Long cô nương, hãy trở lại cho tôi hỏi thêm. Nhưng Tiểu Long Nữ vẫn đi luôn.
Nàng phi thân thẳng vào hao viên, ngồi kề một bụi "mai quế" đang toát ra một mùi hương thơm ngào ngạt. Bất giác nàng nhớ lại những giây phút cùng Dương Qua chuyên luyện võ nghệ trên Chung Nam sơn, mặc dù vai cọ má kề nhưng không hề có chút tà tâm. Ngày nay nàng cố tình đối xử với chàng như tình thầy trò như lúc trước, nhưng không thể nào được nữa.
Trong khi nàng đang bàng hoàng suy nghĩ bỗng bên phòng bên có tiếng người nói: - Tại sao mi cứ mở miệng là nhắc tới Tiểu Long Nữ, lúc nào cũng nói suốt ngày? Không nhắc tới có sao không?
Tiểu Long Nữ giật mình tự hỏi:
- Tại sao có kẻ lại nhắc đến tên mình nơi đây, ai thế? Nàng rón rén lại gần, cố lắng tai nghe.
Bỗng có tiếng nói tiếp:
- Ngươi làm được, thì ta cũng có thể nói ra chứ? Người trước nói nhỏ:
- Nơi đây đâu phải nhà mình, phàm tai vách mạch rừng, lỡ có kẻ nào nghe được thì đâu còn là danh dự của Toàn Chân giáo chúng ta nữa?
Người sau cười hà hà mỉa mai nói:
- Té ra mi cũng biết giữ danh dự phái Toàn Chân à? Đã biết vậy, thì trước kia bên cụm hoa hồng trên Chung Nam sơn, mi đừng hưởng cái dư vị mê ly cùng nàng chứ sao lại... hà... hà...
Tiểu Long Nữ giật mình suy nghĩ:
- Chẳng lẽ trong đêm ấy Dương Qua lại với ta, bị hai tên này trông thấy hay sao?
Qua hai giọng quen thuộc, nàng thừa biết hai người này là Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình đệ tử phái toàn chân rồi.
Nàng rón rén lại gần thêm để nghe thêm nữa.
Hai người tiếp tục nói rất nhỏ, tuy nhiên từ chỗ Tiểu Long Nữ đến đó rất gần nên nàng có thể nghe được rõ ràng.
Nàng nghe Doãn Chí Bình hỏi:
- Chẳng hay vì sao đêm nay sư huynh lại tìm cách mạt sát đệ tệ quá nhưvậy?
Triệu Chí Kính xẵng giọng đáp: - Ngươi cứ tự nghĩ sẽ hiểu.
Lời nói của Chí Bình có vẻ tha thiết hơn:
- Tôi khẩn khoản xin sư huynh đừng thắc mắc tới chuyện này nữa, ngoài ra sư huynh muốn tôi phải tự sát tại đây sao?
Triệu Chí Kính lạnh lùng đáp qua một chuỗi cười gằn:
- Ta cũng không hiểu đễ làm chi, nhưng chỉ không dằn lòng được nên mới nhắc mà thôi.
Doãn Chí Bình hình như không giữ được lòng bực tức nói hơi to tiếng: - Dù sư huynh không nói ra tôi cũng đoán được. Thâm ý của sư huynh chỉ là để hả lòng ghen tức. Chính sư huynh đã ganh tỵ cái diễm phúc thần tiên mà tôi đã được bên nàng khi ấy.
Hình như Triệu Chí Kính không lời đáp lại câu ấy, cho nên sau đó là yên lặng.
Chặp sau Doãn Chí Bình nói thêm:
- Quả đúng đêm ấy nàng bị Tây độc Âu Dương Phong điểm huyệt không còn cử động được nên tôi mới hưởng được cái giây phút thần tiên hằng mơ ước. Thật ra tôi cũng không cố tình giấu giếm sư huynh làm chi. Giá tôi không thuật lại thì làm sao sư huynh hay biết được việc này? Chính tôi thuật lại mà sư huynh nay lại lợi dụng chuyện ấy mà làm tình làm tội tôi
đủ điều. Tuy nhiên tôi vẫn không một chút gì ân hận.
Giọng hắn nhỏ dần rồi im luôn như để sống lại những giây phút thần tiên.
Tiểu Long Nữ nghe qua như sét đánh bên tai, tâm thần bấn loạn hai chân phát run... Nàng suy nghĩ:
- Chẳng lẽ là thằng khốn kiếp này chứ không phải Dương Qua sao?
Nhất định là hắn đặt điều nói dóc để bêu xấu mình. Nhất định phải là Dương Qua, ngoài ra không còn ai hết.
Triệu Chí Kính nói với một giọng cứng rắn và lạnh lùng khó chịu: - Ta biết mi không bao giờ hối hận về việc này, ta cũng hiểu rằng mi dụng ý phô trương việc này cho kẻ khác biết để sung sướng với cái chuyện ngàn năm có một đó. Được rồi, từ nay về sau cứ mỗi ngày ta sẽ nhắc lại cho ngươi nhớ mà sung sướng.
Bỗng có tiếng "bộp, bộp" làm rung cả vách tường. Thì ra Doãn Chí Bình tức quá, đập đầu vào vách nói: - Sư huynh cứ nói đi, nói cho cả thiên hạ biết việc này... Tôi không còn biết sợ nữa... Thôi tôi van xin sư huynh đừng nói nữa, rồi sư huynh muốn bảo gì tôi cũng nghe theo.
Chỉ trong một đêm nay mà Tiểu Long Nữ nghe luôn hai chuyện não lòng! Nàng hoang mang, đứng đờ ngời bên cửa sổ, như kẻ sống trong mê.
Bỗng Triệu Chí Kính vừa cười vừa nói:
- Chúng ta là kẻ tu hành, nhưng một khi lòng tục chưa hết lỡ phạm vào dục vọng thì cần phải sám hối và có một nghị lực thật mạnh để chấm dứt lòng tà, ngõ hầu trở lại với Thiền môn. Sở dĩ ta nhắc mãi tới nàng là để cho ngươi chán nản rồi tự khắc phải quên đi. Đó là một hoả ý giúp ngươi tu hành, tại sao không chịu được?
Doãn Chí Bình khẽ đáp với một giọng thiết tha:
- Tiểu Long Nữ là một vị tiên tử của lòng tôi. Không khi nào tôi có thể chán ghét nàng.
Đột nhiên y lại cao giọng nói:
- Triệu sư huynh, anh ác độc lắm, tôi há không hiểu biết sao? Sư huynh nói chuyện này ra một phần vì ganh tỵ với tôi, một phần cũng để trả thù Dương Qua. Sư huynh muốn việc này tới tai Dương Qua và gây sự nghi kỵ hờn ghen giữa hai người, để cho cuộc kết hợp của họ đời đời bị lỡ dở.
Nghe nhắc đến tên Dương Qua, Tiểu Long Nữ thấy trong lòng đau nhưcắt, tim rạt rào đập mạnh, miệng nàng cứ lẩm bẩm hai chữ Dương Qua...
Nàng mong sao hai tên đạo sĩ cứ nhắc mãi tới câu chuyện này để nàng
đ ược tiếp tục tưởng tới cái tên mà mỗi lần nhắc tới đã sưởi ấm lòng nàng.
Triệu Chí Kính nghiến răng nói:
- Thằng ranh con ấy thật đáng ghét. Ta phải làm sao cho nó điêu đứng dày vò mới hả được cơn giận. Nhưng cũng vì... vì...
Doãn Chí Bình tiếp lời:
- Chỉ vì võ công nàng cao siêu quá, chúng ta chưa phải là đối thủ của nàng, phải không sư huynh?
Chí Kính đáp:
- Chưa hoàn toàn như thế, với những phép bàng môn tả đạo ấy đâu có gì đáng kể. Cần thật sự chạm chán một lần sẽ biết tay nhau ngay. Võ công tuyệt diệu của chính tông Toàn Chân giáo phái đã lừng danh trong thiên hạ đâu có ngán tên tiểu tốt ấy đâu. Sư đệ cứ chờ xem ta sẽ làm cho hắn nếu không bị nội thương cũng bị cụt tay gãy chân để cho Long cô nương của sư đệ dở sống dở chết vì đau đớn cho mà xem.
Tiểu Long Nữ nghe nói thế như chế dầu vào lửa. Nếu lúc thường thì nàng đã đạp tung cửa sông vào cho mỗi đứa một đòn cho bỏ mạng, nhưng vì hôm nay tinh thần nàng bị chi phối, những đau buồn dồn dập, tâm trí hoang mang bất định, không còn thiết gì hết, nàng cứ sửng sốt như kẻ mất hồn.
Tiếp đó là giọng cười mỉa mai của Doãn Chí Bình:
- Thật là chuyện đáng tức cười vì võ thuật chính tông của Toàn Chân phái chưa thắng nổi những ngón bàng môn tả đạo của người.
Triệu Chí Kính quát lớn:
- Mi quả thật vô liêm sỉ. Vì quá si mê Tiểu Long Nữ rồi cứ đi tâng bốc tài nghệ của người mà không biết nhục.
Bị sỉ nhục trong mấy ngày liên tiếp, giờ đây Doãn Chí Bình không còn dằn lòng được, nạt lại: - Tại sao mi bức bách ta làm vậy. Phàm việc gì cũng vừa phải thôi, đừng để tức nước vỡ bờ!
Triệu Chí Kinh đinh ninh mình đã nắm được nhược điểm và bí mật của Doãn Chí Bình, dù sao hắn cũng không dám cãi lại hay lớn tiếng cùng mình, vì nếu sự việc này phát giác ra tới tai Mã Ngọc hay Trường Xuân Khưu Xứ Cơ thì Doãn Chí Bình sẽ bị xử tử ngay.
Hôm nay bỗng nhiên Doãn Chí Bình dám cự lại, quả là một sự ngoài sự dự liệu của Triệu Chí Kính, cho nên hắn không còn nương tay nữa, liền sấn tới vung tay tung ra một chưởng.
Doãn Chí Bình không ngờ Triệu Chí Kính lại ra tay tấn công mình nên chẳng đề phòng. Đến chừng trông thấy muốn né tránh nhưng không kịp nữa. Một tiếng bốp vang lên, chưởng của Triệu Chí Kính đã đập ngay vào ót Doãn Chí Bình.
Triệu Chí Kính cũng là một tay có hạng trong hàng đệ tử của phái Toàn Chân nên chưởng lực cũng lợi hại. Doãn Chí Bình lãnh một chưởng toàn thân lảo đảo muốn té. Hắn nổi nóng liền rút kiếm ra chém liền bắt chấp mọi hậu quả.
Triệu Chí Kính nghiêng mình tránh kiếm rồi cười ha hả nói: - Mi cả gan lại dám chém ta sao?
Nói xong liền rút kiếm ra đánh lại. Doãn Chí Bình trợn mắt bậm môi nói từng tiếng một: - Nếu để mi mỗi ngày hành hạ mãi ta cũng không sống nổi. Chi bằng liều cùng mi một trận, ta dù bỏ mạng cũng yên thân.
Thế là trận chiến bắt đầu. Doãn Chí Bình là học trò khá nhất của Khưu Xứ Cơ, võ công của chàng chẳng kém gì Triệu Chí Kính. Trong lúc căm thù quyết tử, chàng dùng toàn những đòn chí mạng đánh bừa. Triệu Chí Kính tuy đánh nhưng trong lòng đã nuôi sẵn một cái mộng lớn nên không dám đả thương Chí Bình. Vì vậy nên dần dần Triệu Chí Kính bị dồn vào thế hạ phong, càng đánh càng bị thất thế.
Trong khi hai người cùng nhau tử chiến, thì mấy tên đồ đệ Cái Bang đi báo cho Quách Phù biết. Nàng vội khoác áo đến xem. Khi vừa tới nơi, nàng
đã trông thấy Tiểu Long Nữ đứng đó từ bao giờ nên gọi lớn: - Long cô nương.
Tiểu Long Nữ đang rối loạn tâm thần cứ đứng thừ người không nghe biết gì hết. Quách Phù lấy làm lạ, nhưng không gọi nữa, cứ đứng ngoài cửa sổ quan sát và lắng tai nghe.
Triệu Chí Kính vừa đánh vừa luôn mồm chế riễu, lời nào cũng có liên hệ đến Tiểu Long Nữ hết.
Vì là con gai mới lớn không thể nghe nổi những lời thô bỉ ấy nên Quách Phù mắc cỡ muốn bỏ đi. Nhưng khi nàng nhìn lại thấy Tiểu Long Nữ cứ đứng thừ người ra nhìn sững hình như không có phản ứng gì đôí với các lời
ấy nên lấy làm lạ, bước lại gần khẽ hỏi:
- Có phải hai tên ấy nói về cô hay không?
Tiểu Long Nữ như kẻ mất hồn, chỉ gật đầu và đáp nhỏ:
- Phải, và chúng nói thật đấy.
Nghe nói, Quách Phù cảm thấy ngao ngán và khinh miệt nàng vô cùng,
chỉ "hứ" một tiếng rồi quấy quá bỏ đi ngay.
Mặc dù vẫn đang cùng nhau quyết đấu, nhưng dù sao Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính cũng là những tay cao thủ có hạng nên nghe được hết những lời hai người vừa nói. Bỗng nhiên hai thanh gươm chạm nhau một tiếng mạnh rồi cùng dừng ngay lại.
Triệu Chí Kính hỏi: - Ai đó?
Tiểu Long Nữ đáp: - Ta đây.
Nghe giọng nói của nàng, Doãn Chí Bình lạnh cả xương sống cất tiếng hỏi lại: - Ta là ai, xin cho biết tên.
Nàng đáp ngay: - Là Tiểu Long Nữ.
Tên này vừa xưng ra cả Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính sợ đến toát mồ hôi lạnh, hồn vía lên mây. Trước kia hai người đã từng chứng kiến Tiểu Long Nữ trổ tài đại náo Trung Dương Cung, võ nghệ cao siêu như Hách Đại Thông sư thúc mà còn đại bại suýt nữa phải tự tử huống chi là họ, làm sao chống cự nổi.
Cả hai cũng không ngờ Tiểu Long Nữ lại có mặt nơi thành Tương Dương này. Nẫy giờ có lẽ nàng đã nghe hết mọi việc do hai người nói chuyện. Nghĩ tới đây cả hai điếng hồn, đứng sững chẳng biết tẩu thoát nơi nào.
Doãn Chí Bình tuy sợ nhưng đã có ý định. Chàng không tẩu thoát nhưng bước lại mở tung cánh cửa sổ nhìn ra.
Ngoài vườn bên cụm hoa lan, một nữ lang áo trắng thướt tha như nàng tiên trong mộng, quả là người đẹp mà hắn hàng đêm mơ mộng.
Doãn Chí Bình lẩm bẩm: - Đúng là nàng.
Tiểu Long Nữ hỏi:
- Vâng ta đây. Những điều chúng bay vừa nói có thật không? Doãn Chí Bình đáp như người mất hồn: - Đúng cả, xin nàng hãy giết tôi đi.
Nói xong hắn quay kiếm lại chìa cán ra cửa sổ.
Tiểu Long Nữ nghe nói bàng hoàng cả người, trong giây phút bấm loạn nàng bỗng nghĩ: - Thôi đi, dù có bầm thây, xé xác tên này đi nữa thì cuộc sống của nàng cũng không còn chi nữa. Mang thân là gái mất tân, đâu còn trinh tiết mà hòng ăn ở mãn đời cùng Dương Qua. nàng cảm thấy không còn xứng đáng với tình chàng nữa.
Nàng thơ ơ không thèm tiếp lấy thanh trường kiếm, chỉ đứng lặng yên
đưa mắt nhìn Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình, lòng phân vân không biết nên xử trí ra sao.
Triệu Chí Kính thấy nàng ngẩn ngơ như người mất trí, thì cho rằng đó là cơ hội tốt để đào tẩu, nên hắn nắm vai Doãn Chí Bình khẽ bảo: - Thôi, lo chuồn đi cho rồi, còn chần chừ chi nữa. Chắc nàng không nỡ giết mi đâu.
Nói xong hắn lôi Doãn Chí Bình chạy luôn ra cửa.
Doãn Chí Bình vừa thấy bóng Tiểu Long Nữ đã hồn siêu phách lạc, đứng chần chừ không tự chủ được nữa. Khi Triệu Chí Kính kéo đi chàng loạng choạng mấy cái rồi cũng rảo bước chạy theo.
Triệu Chí Kính trổ thuật khinh công tuyệt diệu lao người đi mau như tên bắn, kéo bừa cả Doãn Chí Bình chạy theo. Mãi một chập sau Doãn Chí Bình mới hoàn hồn và cũng vận dụng khinh công chạy theo sát gót. Hai người đều là hạng đệ tử đời thứ ba của Toàn Chân phái, nếu tính thời gian theo thầy học võ công thì còn hơn cả Quách Tỉnh nữa. Khi hai người nỗ lực chạy mau không khác nào hai con thần mà đang đua trên đại lộ, bao nhiêu cây cối xô rạt về phía sau, mà không mấy chốc đã cách xa thành tương Dương không biết còn bao nhiêu nữa.
Cả hai chạy thẳng về phía cửa Đông gọi mở. các đệ tử cái Bang đứng gác trên thành nhìn xuống thấy hai vị đạo sĩ Toàn Chân giáo đều là người quen biết, nếu kể về thứ bậc thì còn lớn hơn Quách Tỉnh nữa. Nên khi nghe Triệu Chí Kính yêu cầu mở cửa có chuyện khẩn cấp thì vội vàng mở cửa ra ngay.
Cửa thành vừa hé mở đủ chen lọt một người thì cả hai đã phi thân lướt qua như hai cái bòng mờ, khiến bao nhiêu binh sĩ và đệ tử Cái Bang thảy đều khen ngợi.
Chưa kịp đóng cửa thì đã có một cái bóng trắng lướt qua, theo luôn vào trong, khiến ai nấy đều thất kinh vội hỏi: - Còn người nào nữa đây?
Nhưng khi nhìn lại thì bóng trắng đã biến đâu rồi.
Khi ấy trời chưa sáng hẳn, nên mọi người chỉ nhìn nhau mà lắc đầu, rồi dụi mắt nhìn lại lần nữa. Khi chẳng trông thấy gì hết thì họ cho rằng vì trong bóng tối nên nhận lầm mà thôi.
Triệu, Doãn hai người không dám dừng chân đứng nghỉ. Mặc dù đã vào thành rồi nhưng vẫn cố sức chạy mãi hơn mấy dặm đường rồi mới chậm lại chút ít để dưỡng sức.
Triệu Chí Kính lấy tay áo rộng lau mồ hôi trên trán, chợt há hốc mồm than nhỏ: - Thôi chết rồi!
Hắn vừa quay mình ra sau đã thấy hai chân bủn rủn như không còn hơi sức nữa, suýt té lăn ra đất, vì cách đó không xa có hiện ra một bóng nữ lang áo trắng đứng thẳng người nhìn theo mình, không phải ai xa lạ mà chính là Tiểu Long Nữ.
Triệu Chí Kính hoảng sợ quá vội "á" một tiếng thất thanh.
Hắn ngờ rằng hai đứa đã bỏ nàng một quãng khá xa ai ngờ lúc nàng đuổi theo sau lưng lướt đi quá nhẹ nhàng không gây tiếng động nên không hề biết chi hết.
Vừa trông thấy nàng, không khác gì gặp tử thần ác quỷ, Triệu Chí Kính vội nắm tay Doãn Chí Bình cắm đầu chạy nữa.
Chạy được mấy dặm nữa, hai chân đã quýnh, nhưng khi quay đầu lại thì Tiểu Long Nữ chỉ cách họ ba trượng thôi.
Triệu Chí Kính sợ quá lại cắm đầu chạy lần thứ ba nữa. Lần này hắn không dám quay đầu nhìn ra sau. Vì cứ mỗi lần nhìn thấy Tiểu Long Nữ thì thần hồn nát thần tính, tinh thần bị giảm sút, hai chân cũng quýnh lên không chạy được lẹ làng như trước nữa.
Mãi một chập sau, hai chân đã bủn rủn trã rời cất đi hết nổi, Triệu Chí Kính liền bảo Doãn Chí Bình:
- Sư đệ, nếu nàng định giết chúng ta thì chẳng cần kéo dài đến như thế này. Hay là nàng có dụng tâm gì khác chăng?
Doãn Chí Bình không hiểu gì hết, ngơ ngác hỏi lại: - Còn dụng tâm gì nữa, sư huynh nói chi lạ vậy? Triệu Chí Kính nói:
- Theo ta phỏng đoán có lẽ nàng định bắt chúng ta về đem ra khiến phạt trước bao nhiêu anh hùng thiên hạ để bêu xấu cho Toàn Chân phái chăng?
Doãn Chí Bình nghe nói thất kinh rụng rời tự nghĩ:
- Mình đã gây nên tội lỗi, dù nàng có hạ sát ngay nơi đây cũng đáng đời không chút gì ân hận. Nhưng đối với sư phụ là TRường Xuân Khưu Xứ Cơ và sư môn là giáo phái Toàn Chân, xưa nay đã thọ ơn rất nặng, nếu vì mình mà sư phụ mang tiếng, giáo phái bị mất mặt thì dù chết cũng không an tâm. Toàn Chân phái từ khi Vương Trung Dương giáo chủ gây dựng đã bao năm lừng lẫy giang hồ, nay phút chốc chỉ vì mình mà tiêu tan hết sao?
Nghĩ tới đây, chàng cảm thấy như một gáo nước lạnh dội vào xương sống rồi không còn biết làm chi hơn là rảo bước chạy theo Triệu Chí Kính.
Hai người không dám theo đại lộ, cứ men theo các chỗ cây cối rậm rạp chạy đi, nhưng hễ cứ mỗi lần quay lại thì ngó thấy Tiểu Long Nữ cách xa không đầy trăm trượng.
Tài khinh công của Cổ Mộ phái thật thiên hạ vô song. Tiểu Long Nữ chỉ cần lướt nhẹ tới mà đã theo sát gót hai người. Nàng không muốn bắt ngay, và chỉ muốn chạy theo để khỏi lạc mất, trong khi còn đang suy nghĩ chưa tìm
được giải pháp thích đáng.
Dù sao nàng vẫn là một cô gái còn ngây thơ, đối với một chuyện quá sức liên hệ tới danh dự và hạnh phúc cả đời mình, nàng chưa biết phải làm sao cho đúng.
Triệu, Doãn vừa chạy mà lòng như tơ rối, chẳng hiểu Tiểu Long Nữ cứ theo riết mình để làm gì? Càng nghĩ càng rối trí, càng hoảng sợ.
Chạy mãi từ sáng tới trưa, rồi từ trưa tới chiều không hề nghỉ dưỡng sức, cho nên dù nội công có thâm hậu đến đâu cũng phải kiệt sức. Vì vậy khi mặt trời càng xuống gần đỉnh núi thì hai người càng thở mạnh, chân tay càng bủn rủn, chậm tốc lực dần. tuy đã về chiều nhưng nắng vẫn còn oi bức. Cả hai mồ hôi ra như tắm, cổ họng rát khô vì khát nước, hai chân loạng choạng, bỗng thấy trước mặt có con sông lớn vắt ngang. Hai người vừa thấy sông đã sinh liều: - Dù sao cũng phải uống nước đã. Nếu rủi bị nàng bắt sống cũng đành chứ không làm sao được.
Nghĩ xong cả hai cùng nhào xuống sông bụm nước uống ừng ực. Tiểu Long Nữ cũng khoan thai tiến về phía bờ sông, lấy tay vốc nước uống vài ngụm. Mặt nước lung linh trong suốt, phản chiếu bóng nàng thiếu nữ chập chờn theo làn sóng như nàng tiên nga trên nguyệt điện. Tiểu Long Nữ cảm thấy tâm hồn bâng khuâng trống rỗng. Trong lúc quá xúc cảm và chán nản, nàng không còn thấy ngượng ngập, cứ đứng yên nhìn bóng mình soi dưới nước rồi bứt một đoá hoa nhỏ trên bờ cài lên mái tóc, đôi má bơ phờ, sầu mang mác.
Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính vừa uống nước vừa lấm lét trông chừng Tiểu Long Nữ. Trông thấy nàng đứng thản nhiên soi bóng trên dòng sông, thẫn thờ không còn đoái hoài gì đến vạn vật xung quanh nữa, họ bèn liếc nhau ra dấu rồi rón rén bước vòng qua phía sau lưng nàng.
Chờ mãi vẫn không thấy nàng thay đổi chỗ đứng, cả hai cùng lanh chân chạy tới nữa để trốn thoát.
Lần này cả hai đinh ninh đã thoát khỏi rồi. Nhưng khi Doãn Chí Bình quay đầu nhìn thử phía sau thì thấy bóng trắng của nàng chỉ cách mình không đầy năm trượng.
Doãn Chí Bình thất vọng quá nói:
- Triệu huynh thôi đừng chạy nữa. Sức ta không thoát được nàng đâu. Thà đứng lại nàng bắt tha tuỳ ý, cứ chạy hoài cũng tới kiệt sức mà vẫn không thoát thân được.
Nói xong, dừng chân đứng lại. Nhưng Triệu Chí Kính cự nự:
- Mi muốn chết thì tuỳ ý chứ ta có làm nên tội gì mà bắt ta phải chết theo mo?
Nói xong Triệu Chí Kính núi tay Doãn Chí Bình chạy luôn, nhưng Doãn Chí Bình không đi cưỡng lại. Triệu Chí Kính tức quá tát cho Doãn Chí Bình một tát nên thân. Doãn Chí Bình nổi giận trợn mắt nói: - Lại đánh nữa ư?
Tiểu Long Nữ thấy hai người lại đánh nhau nữa thì lạ lùng lắm, trố mắt nhìn sững.
Vừa khi ấy từ phía xa xa có hai tuấn mã phi nước đại chạy tới như tên bắn. Xem kỹ lại là hai tên quân truyền tin của Mông Cổ.
Triệu Chí Kính sinh ra một kế liền nói khẽ:
- chúng ta cứ giả đánh nhau để Tiểu Long Nữ đừng nghi ngờ để thừa cơ
đoạt ngựa chạy cho mau.
Nói xong hắn thoi ra một quyền. Doãn Chí Bình đỡ được rồi phóng lại
một chưởng. Đánh nhau một chập, hai người kéo nhau ra gần giữa lộ.
Hai tên lính Mông Cổ vừa tới nơi thấy hai người đánh nhau chặn đường sắp dừng ngựa lại. Bỗng nhiên Triệu, Doãn nhảy phốc lên lưng, tiện tay gạt hai tên lính xuống đất rồi thúc ngựa như bay biến, nhằm hướng bắc trực chỉ. hai ngựa này thuộc loại chiến mã hạng tốt bên Mông Cổ nên chạy lẹ vô cùng. hai người chạy một chập quay đầu lại thấy Tiểu Long Nữ không còn
đuổi theo nữa, chừng ấy mới thấy yên tâm.
Chạy đủ mười dặm bỗng gặp một ngã ba đường. Triệu Chí Kính nói:
- Nàng thấy ta chạy về hướng bắc rồi, bây giờ cần đổi hướng để lừa nàng mới được.
Nói xong hai người quay ngựa trở lại phía đông.
Mãi tới khi trời vừa chạng vạng hai người đã tới một thị trấn nho nhỏ. Vì phải chạy suốt cả ngày không có hột cơm trong bụng nên cả hai đều thấy bao tử cồn cào khó chịu. Họ cùng xuống ngựa tìm một quán cơm ghé vào bảo xào một đĩa thịt và mấy cân bánh chiên.
Cùng ngồi xuống ghế, hai người lặng thinh dưỡng sức và để cho sự kinh hoàng trong ngày lắng bớt xuống. Triệu Chí Kính chợt nhớ lại những chuyện vất vả nguy hiểm vừa qua trong lòng ngao ngán. Hắn không hiểu vì sao Tiểu Long Nữ cứ đuổi theo hoài mà không ra tay bắt hay giết?
Doãn Chí Bình mặt tái canh, ngồi chống tay trên cầm suy nghĩ mông lung như kẻ mất hồn.
Thịt bánh dọn lên hai người cầm đũa sắp ăn, bỗng nghe tiếng ngựa hí to trước cửa, tiếp theo có tiếng hỏi lớn: - Hai ngựa này của ai cột đây?
Tiếng nói ra vẻ hách dịch và lơ lớ kiểu Mông Cổ.
Triệu Chí Kính đứng dậy bước ra nhìn thử. Ngoài cửa có một quan Mông Cổ và bảy, tám tên lính theo hầu, đang đứng chỉ vào hai con ngựa cột bên đường hạch sách vang cả lên.
Bọn tiểu nhị trong tiệm hoảng sợ chắp tay cúi đầu, miệng dạ rối rít. Suốt ngày nay Triệu Chí Kính bị Tiểu Long Nữ rượt chạy gần hụt hơi, trong lòng phẫn uất chưa biết trút đâu cho hết, nay vừa gập bọn này chọc phá liền bước ra hách dịch đáp: - Ngựa này của ta, việc chi các ngươi hỏi.
Tên quan Mông Cổ hỏi lại: - Mi làm sao có được ngựa này? Triệu Chí Kính quắc mắt nói:
- Ngựa ta thì mặc xác ta, can chi bay phải vặn hỏi?
Hiện nay từ thành tương Dương đổ ra bắc, đâu đâu cũng do bọn Mông Cổ chiếm giữ. Dân chúng nhà Tống phải chịu dưới sự đè nén hà khắc của bọn quan quân Mông Cổ, không ai dám hở môi nói năng vô lễ với chúng một lời nào. Tuy Triệu Chí Kính ăn nói xấc xược, nhưng tên quan Mông Cổ thấy y thân thể vạm vỡ lại có gài trường kiếm trên lưng cũng có ý nể, hỏi thêm: - Ngựa này mua hay cướp giật của ai?
Triệu Chí Kính nạt lớn:
- Chăng mua cũng chẳng giật của ai hết, ngựa này của ta nuôi. Tức thì tên quan Mông Cổ khoát tay hô lớn: - Bắt nó cho mau.
Tức thì bảy, tám tên lính vũ lộng đao kiếm xông lại ngay. Triệu Chí Kính sờ tay nơi đốc kiếm nói:
- Tại sao ngươi bắt người? Tên ấy lạnh lùng bảo:
- Tên trộm ngựa to gan lớn mật dám múa mỏ trước mặt đại quan, muốn sống mau mau nhận tội ngay bây giờ.
Nói xong hắn vạch mớ lông đùi hai con ngựa chỉ hai dấu in chữ Mông Cổ, ghi rõ thuộc quân ngũ nào rất rành mạch.
Thật là một chuyện bất ngờ mà Triệu Chí Kính đâu biết trước. tuy vậy y vẫn nói càn: - Ai dám bảo đây là ngựa Mông Cổ. Ngựa của ta há không thể đóng dấu ghi hiệu hay sao?
Tên quan Mông Cổ thấy từ khi chiếm đóng vùng này tới nay không có kẻ nào dám cãi lệnh mình, thế mà tên này dám cả gan ngang ngạnh với mình, nên nổi nóng cành hông, đưa tay thộp ngực Triệu Chí Kính.
Triệu Chí Kính chột lấy cổ tay tên ấy, còn tay mặt nắm ngang eo ếch xách bổng lên cao rồi tung mạnh ra tận đằng xa.
Tên quan Mông Cổ bị ném nhào trên đống chén bát của tiệm ăn làm bể nát như tương, mà mặt mày mình mẩy hắn cũng bị cào rách nhiều nơi máu chảy dầm dề. hắn nằm lăn lộn một chốc không thể ngồi dậy nổi.
Bao nhiêu quân lính vội vàng chạy lại, kẻ đỡ người xoa, còn bao nhiêu lo dọn dẹp, không còn ai hỏi gì tới kẻ trộm ngựa nữa.
Triệu Chí Kính cười ngạo nghễ rồi nghênh ngang bước vào và lại tiếp tục ăn uống.
Sự việc vừa xảy ra, bao nhiêu quán cơm tiệm nước xung quanh đều lo đóng cửa, bao nhiêu khách ăn cũng lo lảng tránh hết. Nơi đây từ trước tới giờ chỉ có quân Mông Cổ đánh chết người Hán, chứ chưa có chuyện người Hán đánh đập quân Mông Cổ bao giờ.
Việc này xảy ra thế nào cũng gây đổ máu và giết chóc dân chúng trong vùng này.
Triệu Chí Kính đang ngồi uống rượu bỗng chủ quán bước tới trước mặt sụp lạy liên hồi. Y biết chủ quán sợ liên luỵ bèn đứng dậy nói: - Ngươi khỏi phải lo nữa, anh em ta cũng ăn no rồi, xin đi ngay bây giờ.
Chủ quán sợ hãi quá, chẳng biết nói sao cứ cúi đầu lạy mãi. Doãn Chí Bình thấy vậy hỏi: - Ngươi sợ chúng ta bỏ đi rồi bọn Mông Cổ lại đây tìm không ra sẽ trị tội chúng bay phải không? thường ngày Doãn Chí Bình vốn là con người thông minh tháo vát, xử sự hơn Triệu Chí Kính nhiều lắm. Sở dĩ hôm nay quá xúc động về chuyện Tiểu Long Nữ nên quên hết mọi việc. Bây giờ ngồi yên, chàng bỗng nghĩ ra một kế rồi quay sang bảo chủ quán:
- Thôi được, cứ mang rượu thịt ra đây để anh em ta ăn uống chờ đợi. Chúng ta đã gây chuyện thì cũng dám chịu chứ không để liên luỵ tới các ngươi đâu.
Chủ quán mừng quá dạ dạ luôn miệng rồi hối thúc tửu bảo mang rượu thịt ê chề cho hai người ăn uống nữa.
Tên quan Mông Cổ bị một cái ném khá nặng, máu chảy cùng mình nhưng cũng gắng gượng đứng dạy cho đồng bọn đỡ lên ngựa đi mất Triệu Chí Kính vừa cười vừa nói: - Chúng ta đang bực tức vì câu chuyện trong ngày, vậy chốc nữa bọn chúng dẫn xác lại đây sẽ đánh một trận cho hả bớt cơn giận.
Doãn Chí Bình gật đầu tỏ ý tán thành.
Bọn Mông Cổ kéo nhau đi rồi, những người xung quanh mừng rỡ hết sức bèn dọn thêm rượu ngon thịt béo lên đãi hai người rất hậu.
-
Chương 62 - Châu Bá Thông Xuất Hiện - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 62 - Châu Bá Thông Xuất Hiện
Ăn uống được một chặp, Doãn Chí Bình bỗng nhiên đứng vùng dậy đưa tay vỗ một tên tửu bảo ngã sắp. Chủ tiệm không biết nguyên do tại sao nhưng cũng cứ chạy lại quỳ xuống xin lỗi.
Chủ quán khẩn khoản nói:
- Thằng ấy còn khờ dại quá không biết chiều khách, xin quý khách rộng lòng tha thứ.
Nói chưa dứt lời, Doãn Chí Bình đưa chân gạt nhẹ một cái, tên phổ ky đứng gần đó nhào lăn ra đất.
Triệu Chí Kính không hiểu vì sao Doãn Chí Bình lại hành động như vậy, hay là y hoang mang về câu chuyện ban sáng rồi sinh ra quẫn trí hay chăng, nên vội gọi lớn: - Doãn sư đệ làm chi thế?
Doãn Chí Bình vẫn không đếm xỉa gì tới lời can của Triệu Chí Kính, vung tay xô ngã chiếc bàn sang một bên, chén đĩa tung toé khắp nhà rồi gạt nhào thêm hai, ba tên phổ ky nữa.
Trong lúc gạt nhào, Doãn Chí Bình đã điểm huyệt luôn khiến bao nhiêu người ngã xuống đều nằm yên không cử động được.
Lúc ấy Doãn Chí Bình mới dừng tay nói:
- Lát nữa quân Mông Cổ kéo tới đây, thấy các ngươi bị đánh đập, nhà cửa bị đập phá, thì mới khỏi trút bao nhiêu tội lỗi vào đầu các ngươi được. Nếu không thì chúng bảo các ngươi bao bọc chúng tôi để hành hung chống lại thì đại hoạ. Hiểu chưa? Ngay bây giờ các ngươi cứ đánh nhau thêm cho vỡ đầu chảy máu, có chút ít thương tích để che mắt bọn chúng chứ.
Mọi người mới hiểu và đồng khen là diệu kế. Thế rồi cả bọn xúm nhau lại đập phá thêm và tự chọi vào đầu cho có vết máu, xé quần áo rách thêm nhiều chỗ, mặt mũi bầm sưng.
Khi vừa nghe tiếng vó ngựa dồn dập phía trước, bọn tửu bảo và phổ ky lại la lớn: - Trời ơi, chết chúng tôi rồi, xin ngài nương tay kẻo tội nghiệp.
Tiếng vó ngựa dừng ngay trước cửa. Bốn tên quân Mông Cổ hùng hổ tiến vào, theo sau có một thầy tu người Tây Tạng cao và cùng một người giống như rợ, đen thui, đầu tóc rối bù, hai chân bị cụt phải dùng gậy chống đi.
Bọn lính Mông Cổ nhìn thấy quang cảnh trong quán thì có vẻ khó chịu, cau mày rồi hét lớn: - Mau mau dọn ăn để chúng ta còn đi có chuyện gấp.
Té ra đây có bọn khác, chứ không phải bọn tới giải quyết vụ khi nẫy. cả bọn trong bàn thẩy đều lo lắng: - Lát nữa bọn kia mới tới thì phải giải quyết làm sao đây, không lẽ lại giả bộ trước mặt bọn này, e lộ mất chăng.
Còn đang suy nghĩ thì bọn quan Mông Cổ đã cầm roi quất vào đầu những người nằm đó nhưng họ không thể nào ngồi dậy được nữa. Mấy tên tửu bảo ở nhà trong phải lo thu xếp chỗ ngồi để mời họ lại dọn ăn ngay.
Thì ra hai người này không ai khác chính là Kim Luân Pháp Vương và Ni Ma Tinh. Sau mấy ngày trong thung lũng, hai người nhờ nội công siêu việt đã trục hết khí độc trong người, bước đi được, vừa may gập mấy tên quan quân Mông Cổ, nhờ bọn chúng đưa về doanh trại của htl.
Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính vừa trông thấy đã nhận ra ngay hai người. Trong dịp tranh chức Minh chủ võ lâm trong cuộc đại hội quần hùng, Kim Luân Pháp Vương đã biểu diễn tài nghệ thật quả đã tới mức cao siêu thần diệu. Hơn nữa, trước đây đồ đệ của Kim Luân Pháp Vương là Hoắc Đô
đã tới Trùng Dương cung đại náo, vũ lộng thần oai khiến cho bao nhiêu sưbá, sư thúc trong phái Toàn Chân không chống cự lại, huống hồ hôm nay, hai người đâu có nghĩa lý gì với họ. Vì vậy nên Doãn, Triệu lấm lét nhìn quanh, cố tìm cơ hội lẩn tránh cho rồi.
Cũng may Doãn, Triệu biết rõ Kim Luân Pháp Vương nhưng Kim Luân Pháp Vương lại chưa hề biết mặt hai người.
Lúc này gập thời chiến tranh hỗn loạn nên những cuộc chém giết tàn phá đã trở nên quá thường. Vì vậy nên trong quán đồ đạc bị đạp đỏ, nhiều người bị thương nằm la liệt Kim Luân Pháp Vương vẫn thản nhiên không thèm để ý tới.
Ông mải suy tính làm sao có cớ nào để chống chế cho đỡ xấu trước mặt Hốt Tất Liệt về sự thất bại chua cay vừa rồi tại thành Tương Dương, cho nên tuy ngồi đó mà thần trí để tận đâu đâu.
Dù trước mặt có hai đạo sĩ cùng ngồi ăn, nhưng Kim Luân Pháp Vương vẫn không thèm quan tâm lưu ý.
Vừa ngay lúc đó, trước tiệm có tiếng hò hét vang rần, một đám lính Mông Cổ kéo nhau ùa vào quán. Vừa trông thấy Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình thì la lối chỉ chỏ rồi xông lại định bắt.
Doãn Chí Bình nói nhỏ:
- Mình chuồn ngõ sau cho xong.
Nói xong chàng xô chiếc bàn ngã ngang trước lối đi, chén bát thịt cá đổ bể ngổn ngang, rồi phi thân chạy ra lối sau.
Trong lúc Kim Luân Pháp Vương ngồi ngay tại cửa trước nên hai người không dám chạy ra hướng ấy, sợ y sẵn tay chộp bắt thì nguy.
Doãn Chí Bình vừa chạy ra phía nhà sau, quay đầu nhìn lại đằng trước, thấy Kim Luân Pháp Vương ngồi trầm ngâm cầm ly rượu vừa nhắm vừa suy tư thì mừng rỡ nghĩ bụng: - Miễn lão đừng can thiệp thì mình đỡ khổ rồi.
Nhưng bỗng có một bóng đen thoáng qua, một người lùn cụt chân đã chắn ngang trước mặt, vung gậy đập cản đường rút lui của hai người.
Tuy chưa biết kẻ này là ai, nhưng thấy y xuất thủ quá lanh thì hai người cũng lo sợ, vội lách mình né tránh.
Đập hụt một gậy, Ni Ma Tinh biết đây cũng chẳng phải tay vừa liền vung gậy đánh tiếp. Nhưng Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính đã đồng thời vung kiếm đỡ tạt ra quyết cướp đường tẩu thoát.
Kể về bản lãnh thì Ni Ma Tinh vượt hơn hai người một bậc xa, nhưng vì y đang bị thương, hai chân cụt mất, thiếu thăng bằng và nguyên khí cũng bị tiêu hao khá nhiều, một gậy lại phải dùng để chống đỡ thân mình chỉ dùng một gậy tấn công rất bất tiện. Không bao lâu y đã có vẻ thất thế quá nhiều.
Kim Luân Pháp Vương từ từ đứng dậy bước lại gần nhìn xem.
Trong khi Triệu Chí Kính vung kiếm chém ngay vào ngực khiến Ni Ma Tinh đưa gậy chống đỡ thì thanh kiếm của Doãn Chí Bình đã đồng thời chặt ngang bên hữu vô cùng hiểm ác. Ni Ma Tinh chỉ còn cách phóng mình lên cao rồi nhẩy lùi ra tránh né.
Kim Luân Pháp Vương nhẹ chân tiến tới, ngay lúc Ni Ma Tinh vừa rơi xuống. Lão đưa tay trái đỡ ngang bàn toạ Ni Ma Tinh, rồi ấn luôn lên tay hắn.
Chiếc gậy của Ni Ma Tinh và thanh kiếm của Triệu Chí Kính còn đang dính liền vào nhau. Khi Kim Luân Pháp Vương chuyền nội lực vào người Ni Ma Tinh, Triệu Chí Kính cảm thấy một luồng khí nóng rần rật xâm nhập cơ thể, tê tái cả cánh tay, lồng ngực như bị lửa đốt chịu hết nổi, phải vứt thanh trường kiếm xuống đất nghe "choang" một tiếng.
Tuy còn kém về nội công nhưng võ nghệ Ni Ma Tinh cũng khá cao siêu, cho nên thấy Triệu Chí Kính đã buông rơi thanh trường kiếm thì hắn liền đảo lộn cây gậy kiềm chế lưỡi kiếm của Doãn Chí Bình ngay.
Doãn Chí Bình vừa trông thấy kinh nghiêm nơi Triệu Chí Kính nên khi Kim Luân Pháp Vương vừa điểm trên tay Ni Ma Tinh thì vội vàng vận nội công chống lại. Nhưng vì nội công Kim Luân Pháp Vương quá ư hùng hậu có cả nhu lẫn cương cho nên chỉ nghe "xoảng" một tiếng lớn, thanh kiếm của Doãn Chí Bình đã gẫy làm hai đoạn.
Kim Luân Pháp Vương nhẹ nhàng đặt Ni Ma Tinh ngồi xuống ghế rồi đặt tay lên vai Doãn, Triệu miệng cười nói:
- Hai vị là ai, võ công cũng thuộc hạng khá, tại sao chưa chi đã ra tay với nhau làm gì. Thôi chúng ta hãy ngồi xuống đây cũng nhau dàm đạo cho vui.
Miệng nói có vẻ hiền từ nhưng lão đã ra tay dùng nội lực đè nén trên hai vai như có một sức mạnh ngàn cân chặn xuống, khiến hai người cố vận nội công chịu đựng.
Nếu mở miệng nói chân khí thoát ra, thân hình sẽ bị đè bẹp tức khắc nên hai người cứ phải mím môi rán sức chống lại, chẳng nói được lời nào để đáp lại.
Lúc bấy giờ, bọn quân Mông Cổ đã xông vào bao vây bốn người. Một tên thiên phu trưởng chỉ huy toán này vừa trông thấy Kim Luân Pháp Vương
đã biết rằng đây là vị Pháp Vương rất được thái tử Hốt Tất Liệt ưu đãi nên lễ phép chắp tay vái dài thưa: - Bẩm Pháp Vương, hai tên này đã cả gan đánh cắp ngựa của quân ta lại còn hành hung đánh đập binh sĩ Mông Cổ nữa, vậy kính nhờ Pháp Vương...
Vừa thưa tới đây, hắn bồng ngó ngay Doãn Chí Bình rồi hỏi ngay: - Ông có phải là Doãn Chí Bình chăng?
Tuy không nhận ra hắn là ai, nhưng Doãn Chí Bình cũng gật đầu. Kim Luân Pháp Vương rút tay ra khỏi hai người nghĩ thầm:
- Hai tay này kể ra cũng có bản lãnh khá cả, hiếm có trong võ lâm Trung nguyên hiện nay.
Tên thiên phu trưởng Mông Cổ vừa cười vừa nói:
- Mười chín năm trước đây chúng ta đã cùng nhau nướng thịt đê ăn đỡ đói lòng trên xa mạc Hoa La Tư đó mà. Tôi là Tát Đa đây.
Định thần nhìn kỹ lại, Doãn Chí Bình mừng rỡ nói lớn:
- Đúng rồi, quả là Tát Đa, nhưng tại sao bây giờ anh lại để râu lạ quá, làm tôi không nhìn ra được.
Tát Đa cười lớn rồi vui vẻ nói:
- Thân tôi bôn tẩu giang hồ quá nhiều, lăn lóc phong sương cũng lắm nên tới nay đầu tóc đã bạc, râu ria cũng nhiều, chỉ có Doãn ca là y như trước, không thấy già thêm chút nào cả. Hèn chi Thành Cát Tư Hãn đại đế thường bảo những vị đạo sĩ như các ông có thuật tu tiên, trẻ hoài không già. Hà... hà...
Đoạn hắn quay sang thưa với Kim Luân Pháp Vương:
- Thưa quốc sư, người này trước kia đã cùng đạo trường Khưu Xứ Cơ nhận lời mời của Thành Cát Tư Hãn đại đế, vì vậy nên cũng là người quen biết trong nhà cả.
Kim Luân Pháp Vương gật đầu nhìn hai người mỉm cười.
Thì ra trước kia Thành Cát Tư Hãn, theo để nghị của Quách Tỉnh có cho mời Khưu Xứ Cơ về Tây vực để hỏi thăm về thuật trường sinh bất tử.
Trong chuyến tây du hàng muôn dặm này, Khưu Xứ Cơ có đem theo mười chín người đệ tử mà Doãn Chí Bình là đại đệ tử. Thành Cát Tư Hãn phái hai trăm quân theo hộ vệ, trong số đó có Tát Đa. Hồi đó Tát Đa chỉ là một tên tiểu tốt trong số quân này, do đó hắn còn nhớ rõ Doãn Chí Bình tới ngày nay.
Ngót hai mươi năm qua, nhờ lập nhiều chiến công hiển hách, tiểu tốt tát Đa ngày nay đã thành Thiên phu trưởng. Bây giờ gặp lại Doãn Chí Bình hắn mừng rỡ hết sức, nên vội hối bọn tửu bảo dọn rượu thịt lên đãi đằng. Chính hắn tự tay rót rượu mời Doãn Chí Bình rất lễ phép.
Kim Luân Pháp Vương cũng từng nghe danh Khưu Xứ Cơ là người có võ công cao siêu nhất trong các hảo thủ phái Toàn Chân. Ngày nay gặp hai người tuy còn trẻ tuổi nhưng tài nghệ cũng khá điêu luyện, rất ông rất kính phục phái Toàn Chân quả danh bất hư truyền. Hôm nay cũng may ông ra tay trước nên mới được thắng mau nếu để kéo dài chưa chắc trong bốn năm chục chiêu đã hạ thủ nổi.
Tát Đa luôn mồm hỏi thăm sức khỏe Khưu Xứ Cơ và mười tám vị đệ tử kia. Nhắc lại những câu chuyện cũ thời còn rất trẻ, anh ta luôn mồm kể lể rất hăng say thích thú.
Bỗng nhiên một bóng trắng thoáng qua và một nữ lang đã từ cửa đủng đỉnh bước vào.
Kim Luân Pháp Vương, Ni Ma Tinh và nhất là Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình hai người vừa trông thấy nàng thảy đều tái mặt vì chính là Tiểu Long Nữ.
Ni Ma Tinh nói lớn:
- Kính chào Thuỷ Tiên cốc cô nương. Cô vẫn mạnh giỏi đấy chứ? Tiểu Long Nữ chỉ khẽ gật đầu rồi kéo ghế ngồi vào một bàn trong góc nhà không thèm nhìn ngó đến ai hết. gọi chủ quán dọn cho một bát mì chay
ăn lót dạ.
Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính như ngồi trên lò lửa, sắc mặt lúc đỏ
lúc xanh hồi hộp lo sợ không biết nàng ra tay lúc nào. Kim Luân Pháp Vương và Ni Ma Tinh đoán thế nào Dương Qua cũng sắp tới, chừng ấy làm sao chống cự lại với "song kiếm hợp bích" và "ngọc nữ kiếm pháp" của hai người. Trong đời ông cho đến nay chỉ ngán hai thế võ này hơn cả.
Mỗi người đều có một tâm sự riêng, mạnh ai nấy ăn, không buồn chuyện vãn.
Tuy đã ăn no rồi, nhưng nếu cứ ngồi làm thinh sợ có kẻ khác nghi ngờ nên Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính phải ráng ngồi gắp thức ăn và nhai mãi cho qua chuyện.
Lúc đó Tát Đa cao hứng hỏi lớn:
- Thưa Doãn đạo trưởng, ngài đã gập mặt Hoàng đệ của chúng tôi chưa? Doãn Chí Bình ngơ ngác lắc đầu.
Tát Đa nói tiếp:
- Hoàng đệ này là đệ tứ vương tử của Đà Lôi hoàng gia, ông ta quả là con người anh minh xuất chúng, võ nghệ siêu quần, tính tình khí khái và nhân hậu, đã được toàn thể binh lính và tướng tá hết lòng ủng hộ. Hôm nay tôi đi tìm ngài để báo cáo quân tình. Nếu Doãn đạo trưởng muốn, tôi xin đưa ngài lại yết kiến luôn thể.
Doãn Chí Bình như kẻ mất hồn, chỉ lắc đầu chứ không biết đáp sao cả. Triệu Chí Kính bỗng nẩy ra một ý kiến, liền quay sang hỏi Kim Luân Pháp Vương: - Có phải đại sư cũng định tìm bái yết vương gia phải không?
Kim Luân Pháp Vương đáp:
- Phải đấy, đệ tứ vương tử là bậc anh hùng đệ nhất đời này. Nhị vị cũng nên tìm gặp người cho biết.
Triệu Chí Kính lộ vẻ hân hoan nói:
- Tốt quá, tôi cũng muốn theo đại sư và Tát Đa tướng quân đến đó lắm. Nói xong y thò tay xuống véo nhẹ Doãn Chí Bình một cái rồi lấy mắt ra hiệu.
Tát Đa nghe nói thích trí vỗ tay reo:
- Hay quá, nếu được vậy thì có chi hay bằng.
Tài cán và trí tuệ của Doãn Chí Bình vượt xa Triệu Chí Kính nhiều lắm, nhưng vì sự hiện diện của Tiểu Long Nữ đã khiến cho chàng mất hồn vía, không còn nhận định gì hết. mãi một chập sau nghĩ lại mới đoán ra dụng tâm của Triệu Chí Kính.
Triệu Chí Kính muốn nhân dịp này theo bọn Kim Luân Pháp Vương thoát khỏi Tiểu Long Nữ. Mọi người ăn xong vội vã lên ngựa ngay.
Lo mãi không thấy Dương Qua xuất hiện, chừng ấy Kim Luân Pháp Vương mới cảm thấy yên tâm phần nào. Ông nghĩ:
- Toàn Chân giáo là một giáo phái quan trọng bậc nhất của võ lâm Trung nguyên, nếu kéo họ về thần phục Mông Cổ thì quả là một mối lợi rất lớn. Thời may, ta sẽ nhờ chuyện này mà vớt vát lại được ít nhiều sự thất bại ở thành Tương Dương trước mặt Hốt Tất Liệt.
Vì lẽ ấy, nên Kim Luân Pháp Vương đã ngấm ngầm có hảo ý cùng hai người.
Bóng đêm đã xuống bao trùm cả vạn vật. Từ xa xa có bóng vó câu dập dồn trên con đường sạn đạo. Triệu Chí Kính quay đầu nhìn lại. Dưới ánh sáng sao hôm mờ mờ, bóng Tiểu Long Nữ đang cưỡi ngựa chạy theo không mấy trượng xa.
Pháp Vương trông thấy nổi giận suy nghĩ:
- Nếu một mình hắn thì đâu phải là đối thủ của ta, tại sao dám mạo hiểm theo hoài như vậy. Hay là có nhiều đứa khác ẩn nấp để tiếp viện chăng.
Nếu lúc ấy Pháp Vương quay lại gây sự thì Tiểu Long Nữ sẽ nguy ngay. Nhưng vì mới gặp Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình, cần phải giữ tiếng nếu xảy điều gì sơ suất sợ không hay, nên ông đành giả vờ như không hay biết.
Quá nửa đêm cả bọn tới một khu rừng. Tát Đa hạ lệnh quân sĩ hạ trại ven rừng nghỉ chân đỡ mệt.
Khi mọi người ngồi lại dưới bóng cây nghĩ ngơi, Tiểu Long Nữ cũng dừng lại cách đó xa xa cách vài ba chục trượng. Thấy nàng có vẻ bí mật quá nên Pháp Vương cũng e dè không dám động thủ.
Triệu Chí Kính thấy Ni Ma Tinh có chào hỏi Tiểu Long Nữ, không biết hai bên có liên hệ quen biết thế nào nên chẳng đến nữa.
Sau một hồi nghỉ ngơi, mọi người lại lên yên tiết tục đi nữa. Khi qua khỏi cụm rừng, Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính lắng tai nghe vẫn thấy tiếng vó ngựa của Tiểu Long Nữ lẽo đẽo theo hoài.
Đoàn người vừa tới một khoảng đất khá rộng, Pháp Vương nhìn quanh thấy tứ bề vắng vẻ không có bóng người mới sanh lòng ác độc suy nghĩ: - Từ khi bước chân vào Trung nguyên tới nay, ta xem thường bao nhiêu hào kiệt võ lâm nhưng phải chịu thua dưới đôi "Song kiếm hợp bích" của cặp này thật đáng tức. Không biết tại sao hôm nay con bé cứ lẽo đẽo theo hoài. Hay là ta ra tay hạ sát nó cho rồi, miễn giết được một trong hai đứa thì từ nay trên thế gian này không còn ai kiềm chế được ta nữa.
Nghĩ xong ông bèn gò cương đứng lại chờ. Thình lình có tiếng nhạc ngựa vang lừng, bụi bay mịt đất, một đoàn người từ phía trước chạy tới như bay. Pháp Vương suy nghĩ: - Uổng quá, giá mình biết viện quân nó bây giờ mới tới thì đã hạ thủ từ trước cho xong.
Bỗng nhiên Tát Đa hô lớn: - Lạ quá, lạ quá!
Pháp Vương quay lưng lại nhìn thì thấy đoàn người ngựa quả quái dị. Trong đoàn có cả thẩy bốn con lạc đà. Con đi đầu phía hữu, phía trên cắm một lá cờ to tướng, quả là kỳ hiệu của Hốt Tất Liệt. Nhưng từ đằng xa trông lại không thấy một người nào cưỡi trên lưng lạc đà hết.
Tát Đa lẩm bẩm:
- Có phải Vương gia không?
Thế là hắn thúc ngựa ra giữa đường nghênh đón. Khi gần tới nơi hắn bỏ ngựa nhảy xuống vệ đường, chắp tay kính cẩn đợi.
Pháp Vương nghĩ bụng:
- Nếu quả là Vương gia thì khoan sát hại con tiện nữ này đã.
Pháp Vương sợ Hốt Tất Liệt hiểu lầm mình đường đường một vị Pháp Vương lại đi sát hại một cô gái cô độc rồi đem lòng xem rẻ đi chăng.
Bốn con lạc đà cứ tiến tới lanh như tên bắn. Pháp Vương không xuống ngựa cứ ngồi trên yên chờ. Khi tới gần, Pháp Vương thấy một cụ già đầu tóc bạc
phơ đang ngồi trên mấy sợi dây buộc lủng lẳng giữa bốn con lạc đà, miệng cười toe toét.
Cụ già ấy quả là Châu Bá thông, con người kỳ lạ cùng ông chia tay ở Thuỷ Tiên cốc khi trước. Vừa trông thấy mấy người, Châu Bá Thông đã lớn tiếng nói: - Hay quá, hôm nay tình cờ lại gặp lão hoà thượng, chú lùn lọ nồi và thêm con bé xinh xinh kia nữa.
Giữa đám bụi mù Châu Bá Thông ngồi lửng giữa không trung khiến Pháp Vương ngạc nhiên vô cùng. Khi tới gần, ông mới biết lão già đang ngồi trên sợi dây thừng cột liền mấy con lạc đà với nhau, thật là tinh nghịch.
Châu Bá Thông là sư đệ của Vương Trùng Dương, giáo chủ sáng lập Toàn Chân phái. Nói về vai vế thì hiện nay ông là người cao nhất trong giáo phái. Nhưng từ trước tới nay chưa trở về Trung Dương cung lần nào. Hơn nữa ông cũng ít qua lại với bọn Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, cho nên tuy gặp mặt mà Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình vẫn không nhận ra được vị sư thúc tổ của mình.
Hai người đã nhiều lần được nghe sư phụ thuật lại là Toàn Chân giáo hiện còn một vị sư thúc tổ. Nhưng người này thích đi ngao du sơn thuỷ nay đây mai đó đã lâu quá rồi không còn ai gặp mặt, có lẽ người đã qua đời cũng nên. Hôm nay đứng trước mặt Châu Bá Thông, hai người không tưởng tượng được vị này là vị sư thúc tổ của mình.
Kim Luân Pháp Vương biết rõ Châu Bá Thông võ công quá đỗi cao cường không thể nào chọc ông ta được nên cau mặt hỏi: - Có phải Vương gia ở phía sau sắp tới không?
Châu Bá Thông đưa tay chỉ lại phía sau bảo:
- Doanh trại của Vương gia đóng cách dây bốn chục dặm về hướng này. ta khuyên các ngươi không nên đi về đó làm chi.
Pháp Vương ngạc nhiên hỏi: - Vì sao vậy?
Châu Bá Thông cười rồi đáp:
- Vì hiện nay Vương gia đang nổi trận lôi đình. Ta e rằng nếu hoà thượng đến yết kiến lúc này có lẽ cái đầu trọc kia cũng sẽ bị chặt mất.
Kim Luân nóng mặt hỏi:
- Đừng nói bậy, vì sao Vương gia lại giận dữ như thế?
Châu Bá Thông đưa tay chỉ lá hiệu kỳ của Hốt Tất Liệt đang phấp phới trên lưng lạc đà nói: - Làm vua làm tướng có lá hiệu kỳ để ta ăn cắp mất, thử hỏi không tức mình nóng giận sao được?
Kim Luân nghe nói giật mình nghĩ bụng:
- Lão già này hễ nói là có, mà võ công của ông ta thật là thần xuất quỷ nhập, nếu ông muốn lấy cắp hiệu kỳ của Vương gia thật cũng không khó khăn gì.
Suy nghĩ xong ông hỏi lại:
- Lão ăn cắp kỳ soái của Vương gia để làm gì? Châu Bá Thông không đáp ngay mà hỏi lại: - Ngươi có biết Quách Tỉnh không?
Kim Luân gập đầu đáp: - Biết, nhưng hỏi để làm gì? Châu Bá Thông mỉm cười đáp:
- Quách Tỉnh cùng ta là đôi bạn chí thân. Chúng ta xa cách nhau đã mười mấy năm nay chưa hề gặp mặt. Ngày nay hắn ở thành Tương Dương chống quân Mông Cổ. Ta muốn đến thăm hắn một phen. Vì thế ta ăn cắp hiệu kỳ của Vương gia Mông Cổ đem tặng Quách Tỉnh mừng ngày hội ngộ.
Kim Luân nghe nói thất sắc:
- Nguy quá, thành Tương Dương chưa lấy được mà hiệu kỳ của chúa mình lại bị người ta lấy mất. Quả thật là điều điếm nhục cho quốc thể. ta phải làm sao lấy lại cho được mới xong.
Bỗng Châu Bá Thông hét lên một tiếng, bốn con lạc đà tung mười sáu chân chồm tới trước chạy mau về hướng Tây, bao một vòng rồi quay trở lại. Ông đứng thẳng người trên bốn sợi dây, hai tay nắm cương, thúc lạc đà tế mau như tên bắn. NGọn kỳ hiệu của Hốt tất Liệt phất phơ theo gió ngàn kêu phần phật trông thật oai nghi và đẹp mắt.
Châu Bá Thông có vẻ đắc chí nên khi bày lạc đà phi tới trước mặt mọi người, ông chỉ giật nhẹ một cái, chúng đã đứng yên không cử động. Chẳng hiểu ông
đ ã đào luyện chúng bằng cách nào mà làm được quy củ thế.
Châu Bá Thông cười ha hả hỏi Kim Luân:
- Này hoà thượng, ngươi xem mấy con lạc đà của ta thế nào?
Kim Luân gật đầu đáp: "thật tuyệt", nhưng trong bụng cứ suy nghĩ tìm cách đoạt lấy cây soái kỳ.
Châu Bá Thông khoát tay nói:
- Đại hoà thượng, tiểu cô nương, lão Ngoan Đồng xin tạm biệt nhé.
Vừa nghe tới ba chữ "lão Ngoan Đồng", Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình giật mình buột miệng kêu lớn: - Sư thúc tổ!
Gọi xong cả hai cùng quỳ xuống đất, vập đầu làm lễ. Đoạn Doãn Chí Bình thưa lớn: - Thưa, ngài có phải là Châu lão tiền bối, sư thúc tổ của Toàn Chân phái hay không?
Châu Bá Thông trợn mắt hỏi:
- Hai đứa bay là học trò thằng nào, sao không làm đủ lễ đi.
Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính mới lạy một cái, định tiếp tục lạy nữa cho đủ lễ, nhưng nghe Châu Bá Thông nói có vẻ kỳ khôi quá nên trong lòng hơi ngờ vực vùng đứng khựng lại.
Thấy hai người đứng trân nhìn mình Châu Bá Thông hỏi lại: - Ta hỏi, bay là đồ đệ của đứa nào?
Doãn Chí Bình cung kính thưa:
- Triệu Chí Kính là đồ đệ của Ngọc Dương Tử Vương đạo trưởng, còn đệ tử là Doãn Chí Bình môn đồ của Trường Xuân Tử Khưu đạo trưởng.
Châu Bá Thông hừ một tiếng quắc mắt nhìn hai người nói lớn:
- Bọn đệ tử Toàn Chân thật quả lếu láo. ta xem hai đứa bay còn kém cỏi chứ không phải tay lỗi lạc.
Bỗng vung hai chân đá tung hai chiếc giày rách về phía hai người.
Doãn Chí Bình nhất định đây là sư thúc tổ nên vẫn đứng yên không dám tránh né.
Triệu Chí Kính hoảng hồn vội đưa hai tay đón bắt.
Nào ngờ hai chiếc giày quay tít vừa tới gần đầu hai người bỗng dừng lại rồi đổi hướng tức thì, chiếc tả quay sang bên hữu còn chiếc hữu quay sang phía tả, lượn một vòng rồi chạy lộn trở về. Châu Bá Thông điềm nhiên đưa chân ra đón. Hai chiếc giày tự nhiên tròng lại vào chân không sai ly nào.
Tuy chỉ là một trò đùa, nhưng nếu không có một bản lĩnh cao diệu và trình độ nội công phi thường, không khi nào điều khiển được như ý muốn như thế. Khi còn ở dưới trướng của Hốt Tất Liệt, Kim Luân và Ni Ma Tinh đã từng thưởng thức tài nghệ của Châu Bá Thông phóng kiếm ra rồi thu trở lộn về. Cho nên hôm nay thấy hai chiếc giày bay tới rồi chạy trở về chân, cũng không còn ngạc nhiên lắm.
Nhưng Triệu Chí Kính xưa nay quá tự tin tài nghệ mình có thể tự hào bắt ám khí rất giỏi, không ngờ chỉ một chiếc giày rách bay từ từ lại trước mặt mà phải chụp hụt thì quả là một chuyện không thể tưởng tượng được.
Bao nhiêu đó cũng đủ chứng minh tông tích vị tiền bối này nên Doãn, Triệu vội vàng quỳ lậy lia lịa và thưa: - Đệ tử xin kính bái sư thúc tổ.
Châu Bá Thông cười ha hả nói lớn:
- Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất thiển cận quá, nên mới thu dụng bọn đệ tử quá kém như tụi bay. Thôi đứng cả dạy, bày đặt lậy lục làm chi nữa.
Nói xong ông thét lớn: - Xung phong!
Tức thì bốn con lạc đà cùng cất vó chạy tới.
Kim Luân vội vàng phi thân chặn phía trước miệng nói: - Khoan đã.
Nói xong lão đặt nhẹ hai chưởng lên chán hai con lạc đà đi đầu.
Hình như bị một sức mạnh vô hình cản ngăn lại nên bốn con lạc đà đang phi nhanh bỗng dừng ngay lại như một cái máy, thối lui mấy bước.
Châu Bá Thông trợn mắt vểnh râu thét lớn:
- Này đại hoà thượng, mi định đánh lộn nữa hay sao? Đã mười mấy năm nay rồi, lão Ngoan Đồng này chưa hề gặp người ngang sức nên cũng ngứa tay lắm. Vậy nhân tiện hôm nay đánh chơi một trận cho phí sức.
Châu Bá Thông vốn là ngươi ham chuộng võ nghệ, suốt đời chỉ mê luyện tấp và thách đấu nhau. Nhưng về sau tài nghệ của ông đã tiến tới một mức quá cao siêu, không còn một ai dám so tài nữa. Vì vậy ông rất bực chưa gặp đối thủ. Hôm nay thấy Kim Luân cũng thuộc hạng khá, khả dĩ có thể hầu mình
đ ược năm ba hiệp, nên vừa nói đã muốn ra tay ngay.
Nhưng Kim Luân đã ranh mãnh khoát tay nói:
- Bình sinh ta chưa hề bao giờ đánh nhau với những kẻ mặt dạn mày dày. Dù mi có đánh đập ta cũng không thèm chống đỡ đâu.
Châu Bá Thông nổi nóng nạt lớn:
- Khốn kiếp, mi dám chửi ta là mặt dạn mày dày sao? Kim Luân nói:
- Mi biết ta không có mặt tại đại bản doanh nên thừa dịp ấy mà ăn cắp soái kỳ, sao không biết nhục? Té ra mi cũng tự lượng sức mình không địch nổi ta nên mới làm như vậy. Nếu là tay hảo hán thì sao không chờ có mặt ta rồi mới ra tay. Một người như Châu Bá Thông không ngờ lại có hành động yếu hèn như vậy, quả là xấu hổ.
Châu Bá Thông gật gù nói:
- Có chi đâu, muốn biết ta có địch lại mày hay không cứ choảng nhau một trận bây giờ tức khắc thấy rõ liền.
Kim Luân lắc đầu nói:
- Ta nhất định không chịu đấu với hạng người hèn kém như vậy, đừng nài ép làm chi uổng công. Con người ta lạ lùng lắm, khi nào đánh phải một địch thủ thiếu khí tiết, không xứng đáng với mình thì xấu hổ và ân hận mãi hàng năm không thôi.
Châu Bá Thông tức quá trợn mắt thét lớn: - Như vậy mi muốn làm sao bây giờ? Kim Luân biết lão đã lầm mưu mình nên đáp:
- Muốn tỏ ra là kẻ có khí tiết thì ngay bây giờ mi phải trả ta soái kỳ để ta mang về. Ta đã có mặt và canh chừng tại đại bản doanh rồi. Khi đó mi muốn đánh cắp công khai hay lấy trộm, bất cứ cách nào cũng được. Khi nào soái kỳ rơi vào tay mi lần thứ nhì, thì ta mới phục mi là anh hùng hoả hán. Bản tính Châu Bá Thông không bao giờ muốn ai chê bai mình và càng gặp chuyện khó khăn càng thích làm cho kỳ được, vì vậy nên nghe Kim Luân nói xong, ông rút ngay cây soái kỳ ném phăng trước mặt hắn thét lớn: - Hãy giữ lấy đi. Đêm nay ta sẽ đến đoạt lại đây.
Châu Bá Thông phóng cây cờ với một sức mạnh vô biên, khiến cho Kim Luân đưa tay vận sức nắm, phải thối lui ba bước mới đứng vững được.
Nãy giờ bốn con lạc đà bị chưởng lực Kim Luân hạn chế không thể đi tới
được. Khi ông bận đưa tay tiếp lá soái kỳ, chúng như được phóng thích, tung chân chạy liền như chớp nhoáng. Không mấy chốc. cả người và vật đã khuất sau đám bụi mịt mù.
Kim Luân đứng nhìn theo một hồi lâu rồi mới trao cờ cho Tát Đa bảo: - Hãy giữ lấy và lên đường.
Trong khi ấy Kim Luân cố suy tính một phương sách nào để đối phó đêm nay mới hòng thắng nổi một con người có bản lãnh tột bậc cao siêu như lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông.
Lão liếc nhìn Triệu, Doãn thấy cả hai cứ lấm la lấm lét nhìn trộm Tiểu Long Nữ hình như sợ sệt lắm nên đoán thầm: - Có lẽ con bé cố đeo đuổi hai tên đạo sĩ này chăng?
Quay sang hai người Kim Luân hỏi dò:
- Này Doãn đạo huynh chẳng hay người có quen biết cô nương này không? Doãn Chí Bình đáp vắn tắt: - Có.
Kim Luân đoán biết có lẽ giữa bọn này có mối ẩn tình chi đây, nên hỏi phăng tới mãi:
- Có lẽ các ngươi đã gây sự khiến nàng nổi giận cố theo để trả thù phải không. Nàng ấy bản lãnh quá cao cường nếu chọc tới thì e lành ít dữ nhiều đấy nhé.
Kim Luân nào biết sự tình giữa ba người, nhưng chỉ nhìn theo thần sắc lo sợ của họ mà đoán càn, không ngờ trúng phóc.
Nhân dịp này, Triệu Chí Kính cũng khơi mào luôn:
- Cô ấy cũng có gây sự và chọc tức đại sư ít nhất là một lần. Trong cuộc đại hội anh hùng, đại sư đã bị nàng đánh thua, có lẽ đại sư không khi nào bỏ qua mối hận ấy phải không?
Kim Luân ngạc nhiên hỏi:
- Té ra ngươi cũng biết chuyện này sao?
- Kết quả hôm đại hội anh hùng đã loan truyền trong thiên hạ, ai mà không biết.
Kim Luân nghĩ bụng:
- Hai tên này cũng đáo để lắm. Mình định lợi dụng hắn thì hắn lại định mượn tay ta đánh nàng. Dù sao chúng nó cũng là tay khá lợi hại, tốt hơn là nên thẳng thắn cùng nhau bàn định sẽ có lợi hơn.
Nghĩ xong hỏi liền:
- Nàng định giết chết hai ngươi. Hai ngươi tự lượng mình không đủ sức chống cự, muốn nhờ ta giúp sức phải không?
Doãn Chí Bình đáp:
- Kẻ này thà chịu chết chứ nhất định không bao giờ nhờ kẻ khác che chở. Hơn nữa, chưa chắc đại sư đã thắng nổi nàng.
Kim Luân vừa nghe qua những lời nghiêm nghị đầy vẻ chân thành của Doãn Chí Bình, suy nghĩ: - Không lẽ ta đoán sai hay sao?
Vì chưa biết rõ ý muốn của hai người như thế nào nên ông chỉ mỉm cười nói: - Nếu có cả nàng và Dương Qua sử dụng "song kiếm hợp bích" thì quả nhiên lợi hại thật. Nhưng nếu chỉ một mình nàng thì ta hạ sát dễ như không. Triệu Chí Kính lắc đầu nói: - Tôi chưa dám tin như thế được, trong cuộc so tài hôm đại hội quần hùng, ai ai cũng biết rõ Kim Luân Pháp Vương đã bị đại bại dưới tay Tiểu Long Nữ. Nghe mấy lời nói khích này, Kim Luân đã biết ngay Triệu Chí Kính muốn nhờ tay mình đánh nàng nên chỉ cười bảo: - Ta đã tu luyện nhiều năm nên tính tình cũng đã đằm thắm được phần nào, ngươi khỏi cần tìm lời nói khích, vô ích.
Trước khi Châu Bá Thông xuất hiện, Kim Luân đã có ý định giết Tiểu Long Nữ rồi. Nhưng sau khi Châu Bá Thông trả lại cây soái kỳ và hẹn ngày cướp lại, thì ông nhận thấy rất cần sự hợp tác của hai người này.
Bây giờ nếu hạ sát Tiểu Long Nữ thì không còn thứ gì để kiềm chế được họ nữa. Vì vậy nên Kim Luân ung dung nói: - Nếu vậy ta xin đi trước để hai vị có thể tự giải quyết công việc riêng của mình và nàng rồi sau sẽ đến tìm ta tại Đại bản doanh cũng được.
Nói xong lão thúc chân vào hông ngựa đi ngay không chờ trả lời.
Triệu Chí Kính thấy Kim Luân bỏ đi không đoái hoài gì tới hai người thì thất kinh nghĩ bụng: - Trời ơi, chúng ta chỉ mong có lão cứu vãn được tình thế, nay lão bỏ đi thì hai anh em làm sao chống cự lại với Tiểu Long Nữ. Con người này quả là một tay lợi hại về võ công cũng như mưu lược, ta không nên xem thường mà qua mặt y.
Nghĩ xong Triệu Chí Kính vội giục ngựa đuổi theo gọi lớn:
- Đại sư hãy chậm bước, chúng tôi không biết rõ đường đi, xin được đại sưgiúp đỡ và chỉ bảo nguyện mang ơn đời đời.
Nghe bốn chứ "mang ơn đời đời", Kim Luân tức cười và thầm đoán:
- Như vậy có lẽ tên này đã gây sự cùng Tiểu Long Nữ, còn chú họ Doãn vô can, nên không cần tới ta giúp đỡ.
Ông lên tiếng đáp:
- Cũng hay, vì lão còn lắm việc muốn nhờ tới quý vị. Triệu Chí Kính chắp tay nói:
- Đại sư cần gì xin cứ dạy, chúng tôi xin sẵn lòng và nguyện cố gắng hết sức mình.
Kim Luân cho ngựa đi chầm chậm bên cạnh Triệu Chí Kính và luôn miệng hỏi thăm về tình hình phái Toàn Chân.
Triệu Chí Kính nhất nhất đều trả lời không hề giấu diếm điều gì.
Doãn Chí Bình tuy lững thững theo sau lưng mà trong lòng suy nghĩ mông lung chứ không để ý đến câu chuyện của hai người.
Kim Luân hỏi:
- Hình như Mã đạo trưởng tuổi đã khá cao nên không còn nhúng tay vào công chuyện trong giáo phái, và hiện nay đương kim giáo chủ Khưu đạo trưởng cũng cao niên rồi thì phải?
Triệu Chí Kính đáp:
- Thưa phải, hiện nay Khưu sư bá cũng đã ngoài bảy mươi rồi. Kim Luân hỏi tiếp:
- Nếu vậy thì có lẽ lệnh tôn sư Vương đạo trưởng sẽ tiếp nhận chức giáo chủ Toàn Chân phải không?
Triệu Chí Kính nghe tới đây chột dạ biến sắc, suy nghĩ một chập rồi nói: - Hiện nay gia sư cũng đã lớn tuổi không muốn đảm nhận công việc nặng nề nữa. Hơn nữa cả sáu vị trong Toàn Chân lục tử đang chuyên lo nghiên cứu về giáo thuyết, nên chức trưởng giáo truyền việc ngoài đời sẽ giao lại cho Doãn sư đệ đây.
Kim Luân để ý thấy Triệu Chí Kính trả lời nhưng trong đôi mắt hầm hầm sát khí thì hạ giọng: - Theo ta nhận xét về Doãn đạo huynh tuy cũng khá, nhưng kể về võ công và tài lanh lẹ tháo vát sao bằng đạo huynh. Vậy chức trưởng giáo đáng lẽ phaỉ giao cho đạo huynh mới phải lẽ.
Từ trước tới nay, Triệu Chí Kính cũng chỉ có bấy nhiêu đó nhưng không bao giờ tiết lộ. Hôm nay bỗng dưng được Kim Luân gợi ra, và gãi đúng chỗ ngứa nên sự giận dữ đã in trên nét mặt.
Toàn Chân lục tử đã giao phó cho Doãn Chí Bình cầm đầu lớp đệ tử đời thứ ba, đã gián tiếp định trước nhiệm vụ kế vị chức trưởng giáo Toàn Chân giáo phái này rồi.
Triệu Chí Kính đã bất phục trong lòng nhưng không dám nói ra, chỉ cố mọi cách tìm lỗi lầm hay chuyện xấu của Doãn Chí Bình để hạ bệ y, hòng chiếm đoạt ngôi vị trưởng giáo.
Hắn cũng biết, nếu tiết lộ cái tin Doãn Chí Bình phá trinh Tiểu Long Nữ thì nhất định Doãn Chí Bình không bảo đảm tính mạng, nhưng hắn cũng tự xét mình không được Toàn Chân lục tử tín nhiệm, và các sư huynh, sư đề thán phục, thì dù Doãn Chí Bình có bị giết, hắn cũng không làm trưởng giáo được. Vì vậy nên Triệu Chí Kính chỉ ôm ấp cái mộng ấy mà không dám hở môi. Kim Luân cứ nhìn qua sắc diện Triệu Chí Kính, cũng đoán được phần nào nội tâm của y nên thầm nghĩ: - Nếu giúp hắn tranh được chức trưởng giáo thì nhất định hắn sẽ bằng lòng làm tay sai đắc lực cho mình ngay. Hiện nay thế lực Toàn Chân giáo tại Trung nguyên rất mạnh, nếu được phái này ủng hộ thì có lợi cho Mông Cổ vô cùng, việc Nam chinh của chủ ta sẽ nhờ đó mà trở nên dễ dàng hơn nhiều.
Ta thực hiện được việc này thì công tạng còn nhiều hơn cả chuyện giết Quách Tỉnh.
Từ đó Kim Luân cứ lặng thinh suy nghĩ kế hoạch chứ không chuyện trò cùng Triệu Chí Kính nữa.
Vừa đúng trưa, bọn họ đã về đến Đại bản doanh của Hốt Tất Liệt. Trong khi ấy Hốt Tất Liệt đang ủ rũ trong trướng lo nghĩ việc mất soái kỳ.
Soái kỳ là tượng trưng của uy quyền, là linh hồn của binh ngũ, là mục đích chiến thắng. Trong khi xuất chinh, hàng vạn con người chỉ hướng theo sự điều động của soái kỳ mà tiến hay thối. Vì vậy nên bảo vật ấy bị mất thì không khác nào một trận đại bại.
Khi trông thấy Kim Luân Pháp Vương trở về có mang theo soái kỳ đã mất thì Hốt Tất Liệt mừng rỡ vô cùng vội đứng lên đón tiếp và ân cần hỏi han mọi việc.
Hốt Tất Liệt tuy còn nhỏ tuổi, nhưng mưu lược và can đảm không sút kém gì Thiết Mộc Chân Thành Cát Tư Hãn. Đáng lẽ phải vồn vã hỏi tham cướp soái kỳ trong trường hợp nào, Hốt tất Liệt chỉ lẳng lặng đứng nghe Kim Luân giới thiệu hai đệ tử Toán Chân giáo là Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình, và vui vẻ thu nhận ngay để chứng tỏ ta là con người coi trọng hiền tài.
Sau đó, Hốt Tất Liệt ra lệnh dọn tiệc khoản đãi.
Doãn Chí Bình chỉ lo nghĩ và mong tưởng đến Tiểu Long Nữ nên thần sắc ngẩn ngơ như kẻ mất hồn.
Triệu Chí Kính là tên tham danh phận, thấy vị chúa tể Mông Cổ niềm nở đón tiếp thì như mở cờ trong bụng lúc nào cũng cười cười nói nói rất hả hê thoải mái.
Con người học võ để đi tới chỗ "bần hàn không thay, uy võ không khuất" cũng còn dễ. Nhưng học võ để tiến tới chỗ "phú quý không ham" mới là khó. Kẻ nào làm được điều này mới thật là anh hùng chân chính.
Hốt Tất Liệt không hề nhắc tới việc mưu sát Quách Tỉnh thất bại mà luôn luôn đề cao Ni Ma Tinh vì trung thành với nhiệm vụ đến nỗi cụt mất cả hai chân.
Trong bữa tiệc y ân cần mời mọc Ni Ma Tinh ăn uống và đặt y ngồi chỗ cao nhất để tỏ ý trọng vọng.
Ni Ma Tinh rất cảm động vì tấm thịnh tình này, quên cả sự đau đớn tàn tật của bản thân, và nguyện xả thân đền đáp ân huệ ấy. Những người trong tiệc trông thấy cũng cảm phục Hốt Tất Liệt vô cùng. mãn tiệc, Kim Luân đưa Doãn, Triệu qua phòng bên an nghỉ. Suốt một ngày mệt mỏi về thể xác lẫn tinh thần, nên Doãn Chí Bình vừa đặt lưng xuống đã ngủ vùi ngay.
Kim Luân Pháp Vương rủ Triệu Chí Kính:
Đạo huynh, nhân lúc nhàn rỗi, chúng ta ra ngoài dạo mát hàn huyên cho vui.
Triệu Chí Kính vừa ra khỏi bản doanh, nhìn về phía trước bỗng thất kinh tái mặt. Đằng xa, dưới gốc cây đa, Tiểu Long Nữ đang ngồi đó từ hồi nào, con lừa cũng buộc đứng ăn cỏ gần bên.
Kim Luân cũng trông thấy, nhưng giả vờ không biết, cứ điềm nhiên hỏi thăm về tình hình Toàn Chân giáo phái.
Triệu Chí Kính xem Pháp Vương như người tri kỷ để tiến dẫn mình nên không hề giấu giếm một điều gì hết.
Nguyên xưa kia đạo giáo chỉ có một tổ chức thống nhất do Trương thiền sư ở Long hồ sơn sáng lập ra. Từ khi quân Kim xâm lăng, nhà Tống phải dời đô về Nam. Đạo giáo ở Hà Bắc mới chia ra làm ba phái là Toàn Chân, Đại Đạo và Thái ất. Trong ba phái này, Toàn Chân là hùng mạnh nhất.
Trong khi miền Bắc đã lọt vào tay giặc, nhân dân hết sức lầm than cơ cực, mà triều đình lại tỏ ra nhu nhược, không thể nào khôi phục lại nổi, cho nên toàn thể nhân dân chỉ trông cậy vào giáo phái Toàn Chân như là cứu cánh duy nhất cho tổ quốc chống xâm lăng.
Lúc bấy giờ thế lực của Toàn Chân và Cái Bang có nơi còn mạnh hơn cả Hoàng Đế, lấn át cả phủ quyền.
Hai người cứ lần lần bước đi và tâm sự. Khi tới một chỗ vắng, Kim Luân thở dài bảo: - Triệu đạo trưởng, quý phái sở dĩ tạo nên được một cơ sở vững vàng với thế lực quy mô như vậy không phải việc dễ làm. Nhưng ta cũng xin mạo muội phê bình các vị lãnh đạo trong quý phái như Khưu, Vương, Mã đạo trưởng, không hiểu tại sao lại giao quyền trưởng môn lại cho Doãn đạo trưởng? Xưa nay Triệu Chí Kính vẫn nuôi một kỳ vọng thầm kín, là chờ khi nào Toàn Chân lục tử qua đời sẽ dùng áp lực bức bách Doãn Chí Bình nhường quyền trưởng giáo lại cho mình.
Với bản chất nông nổi và nóng nẩy, y không biết kế hoạch này chừng nào mới thuận tiện và thành tựu được, nên mỗi lần nghĩ tới là lòng như lửa đốt. Nay y thất Kim Luân ngỏ ý như vậy thì không khác gì gặp bạn đồng minh, nên thở dài nhìn về phía Tiểu Long Nữ rồi lặng thinh luôn.
Pháp Vương nói:
- Chuyện Tiểu Long Nữ là chuyện nhỏ mọn, xin đừng lo lắng nữa, hễ ta ra tay một chút là giải quyết xong ngay. Chuyện quan hệ tới chức trưởng giáo Toàn Chân nên bàn cho kỹ.
Triệu Chí Kính nói:
- Nếu đại Pháp Vương sẵn lòng giúp đỡ đưa đường chỉ lối, thì tiểu đạo nguyện ngàn đời ghi khắc ơn này, và lúc nào cũng tuân theo mệnh lệnh của ngài.
Kim Luân đằng hắng một tiếng rồi nghiêm giọng bảo: - Quân tử đã nói xin giữ lấy lời đấy nhé.
Triệu Chí Kính chắp tay vái dài nói:
- Đó là điều dĩ nhiên rồi.
Với một giọng đầy tin tưởng, Kim Luân nói:
- Thôi được, chỉ trong vòng ba tháng tới ta sẽ giúp đạo huynh toại nguyện. Triệu Chí Kính nghe nói hết sức hân hoan, nhưng thấy đây là một chuyện hết sức khó khăn phức tạp nên trong lòng còn thắc mắc chưa dám tin tưởng hoàn toàn.
Kim Luân Pháp Vương hình như đoán ra cảm giác ấy nên hỏi lại: - Ngươi chưa tin lời ta sao?
Triệu Chí Kính vội trả lời:
- Việc tuy quá khó nhưng với tài biến hoá của đại Pháp Vương tôi xin đặt hoàn toàn tin tưởng.
Kim Luân Pháp Vương nói thêm:
- Toàn Chân giáo và ta không hề có chuyện chi xích mích, đáng lẽ không nên nhúng tay vào làm chi. Nhưng vì may mắn gặp được đạo huynh thành đôi bạn tâm đầu ý hợp, nên ta muốn giúp cho một tay.
Triệu Chí Kính nghe nói trong lòng hân hoan vô cùng, định tỏ lời cảm ơn thì Kim Luân Pháp Vương nói tiếp: - Công việc đầu tiên của ta là tạo cho người có một kẻ giúp đỡ thật đắc lực. Hiện nay kể về vai vế, trong phái Toàn Chân ai là người lớn nhất.
Triệu Chí Kính đáp:
- Là Châu Bá Thông, vị sư thúc tổ mà đại vương đã gặp giữa đường ban sáng đó.
-
Chương 63 - Nhện Độc Và Nọc Ong Trắng - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 63 - Nhện Độc Và Nọc Ong Trắng
Nhện Độc Và Nọc Ong Trắng
Kim Luân Pháp Vương nói:
- Hay lắm, nếu vị sư thúc tổ ấy thuận giúp thì Doãn Chí Bình đâu phải là đối thủ của người nữa.
Triệu chí Kính vỗ tay mừng rỡ nói:
- Hay quá. Mã sư bá và Khưu sư bá đều gọi vị này là sư thúc. Nên khi ông đã ra lệnh thì thế nào các sư bá cũng phải tuân theo. Nhưng
không biết đại sư có cách nào kỳ diệu để lôi kéo được ông ta?
Kim Luân không trả lời hỏi thêm:
- Ta hẹn ông ấy tối nay lại cướp soái kỳ. Người đoán thử ông có dám đến hay không?
Triệu chí Kính đáp:
- Chắc sẽ đến.
Kim Luân khẽ nói:
- Đêm nay là soái kỳ không treo trên cột cờ mà được giấu vào một chỗ vô cùng bí mật. Trong doanh trại này rộng rãi bao la. Dù Châu Bá
Thông có tài thánh đi nữa cũng không làm sao tìm ra được.
Ngoài miệng dạ dạ khen hay nhưng trong thâm tâm Triệu chí Kính nghĩ:
- Thắng như vậy thì có gì là giỏi đâu?
Kim Luân thừa hiểu ý hắn, nên nói ngay:
- Có lẽ người cho rằng thắng như vậy không tài giỏi gì hết phải không? Ta cũng biết vậy, nhưng vẫn làm vì có ý muốn gây uy tín
cho ngươi nhân dịp này.
Triệu chí Kính ngơ ngác chưa hiểu dụng ý của lão ra sao hết, thì Kim Luân mỉm cười nói tiếp:
- Ta cho ngươi biết trước chỗ giấu soái kỳ, để người chỉ lại cho Châu bá Thông biết. Như vậy là người lập được công to với ông ấy rồi
chứ gì?
Triệu chí Kính mừng rỡ gật gù nói:
-Hay quá, nếu vậy thì nhất định tôi sẽ được lòng Châu sư thúc tổ rồi. Hay quá, kế hay thật.
Vừa nói tới đó y lại nghĩ bụng: "Nhưng chẳng lẽ vì mình mà Pháp Vương
lại chịu thua hay sao? Để soái kỳ mất lại đâu phải là chuyện nhỏ?".
Kim Luân nói ngay để đả thông sự thắc mắc ấy:
- Trong giang hồ bè bạn giúp nhau được việc mới là quý, còn chuyện thắng bại là thường, nếu thua keo này ta bày keo khác chứ có khó
chi?
Triệu chí Kính cảm động quá run run nói:
- ơn đức của đại Pháp Vương thật muôn đời tôi không quên được.
Kim Luân nở một nụ cười kín đáo:
- Khi ngươi đã gây được sự tín nhiệm của Châu bá Thông rồi, ta sẽ tùy cơ giúp đỡ thêm vài việc nữa để mua lòng ông ta, chừng ấy
muốn chi lại không được chớ đừng nói tới cái chức trưởng giáo của phái Toàn Chân?
Rồi lão đưa tay chỉ về phía đồi đàng xa bảo:
- Chúng ta thử lại đàng kia xem xét địa thế.
Đi khỏi đại bản doanh độ một dặm đã tới một hòn núi nhỏ. Kim Luân ghé miệng vào tai Triệu chí Kính nói nhỏ:
- Ta sẽ giấu soái kỳ vào một trong những hang tại núi này.
Trên ngọn thứ nhất hình thế không có gì rắc rối. Nhưng khi qua hai núi sau thì thấy cây cối um tùm, có thật nhiều hang hóc rất phức
tạp.
Pháp Vương nói:
- Nơi đây địa thế tốt vô cùng.
Lão đưa tay chỉ vào khoảng giữa hai cây hoè thật lớn. Nơi đây có một miệng hang rất kín đáo, nếu vô ý không thể nào nhìn
thấy, rồi căn dặn:
- Người hãy nhớ kỹ hang này. Ta sẽ giấu lá soái kỳ trong đó.
Đêm nay ngươi dẫn Châu bá Thông tới đây chỉ cho lão lấy được, thế là thành công rồi đấy.
Triệu chí Kính mừng quá dạ dạ luôn miệng, mắt ngắm phía hai cây hòe thật kỹ để khỏi quên. Xong đâu đấy hai người lặng
thinh sánh vai nhau lững thững về doanh trại Mông Cổ.
Chiều hôm ấy, cơm nước xong, Triệu chí Kính cố tìm cách gợi chuyện với Doãn chí Bình, nhưng chàng cứ lơ láo như người thất chí,
chẳng nói câu nào ra hồn. Khi màn đêm bao trùm hết vạn vật, tiếng trống cầm canh đã bắt đầu điểm, Triệu chí Kính chạy ra
ngoài lên trên ngọn đồi quan sát lại địa thế. Xung quanh doanh trại hàng đoàn kỵ binh qua lại canh phòng nghiêm ngặt. Triệu chí
Kính nghĩ bụng:
- Với sự canh phòng nghiêm ngặt như thế này mà sư thúc tổ ta ra vào như không, quả thật ông ta có bản lãnh phi phàm tột đỉnh.
Càng lâu trời càng tối, trăng không có. Trên vòm cao chỉ lơ thơ vài chòm sao thưa lấp lánh. Nhìn sao, Triệu chí Kính nghĩ vẩn vơ:
"Nếu Kim Luân nói đúng thì chỉ ba tháng nữa ta sẽ là trưởng giáo Toàn Chân phái rồi! Chừng ấy ta sẽ được lừng danh võ lâm, hàng
chục ngàn đệ tử thảy đều tùng phục dưới mạng lệnh ta, và chỉ một hiệu lệnh ta cũng đã lấy được đầu Dương Qua như bỡn".
Càng nghĩ y càng thêm hứng chí, rồi vùng đứng dậy hiên ngang đảo mắt nhìn bốn phương trời hình như khắp đâu đâu cũng sẽ
thuộc quyền của hắn. Cặp mắt hắn đang dáo dác nhìn quanh bỗng trông thấy bóng áo trắng của Tiểu long Nữ đang ngồi im dưới
một góc cây to thì thấy dội lòng và suy nghĩ: "Tiểu long Nữ quả là một cô gái sắc nước khuynh thành ngay như ta mà cũng phải công
nhận là đẹp, thì tài nào Doãn sư đệ lại không mê mệt? Tuy nhiên là tay anh hùng, không nên để lụy vì sắc đẹp". Triệu chí
Kính đang suy nghĩ vẩn vơ, bỗng từ phía đằng xa có một bóng đen bay tới lanh như chớp, phi thân vào doanh trại không một tiếng
động và không bao lâu đã tới chân cột cờ rồi. Người ấy đầu râu bạc phơ, mặc áo bào rộng thênh thang, tà áo lẫn râu tóc bay phất
phơ trong gió, quả đúng là Châu bá Thông.
Bay tới cột cờ dừng lại nhìn lên trên không thấy lá soài kỳ treo đó thì ngạc nhiên vô cùng. Theo ông nghĩ thì đáng lẽ Kim Luân phải bố
trí thật nhiều cao thủ nơi đây để cùng nhau đánh một trận cho đã sức. Trên cột cờ này mà không có cờ, nhìn lại bên trong dinh trại
trùng trùng điệp điệp hết lớp này tới lớp khác, không đâu mà tìm nữa.
Triệu chí Kính dự định tiến lên gọi ông nhưng lại nghĩ bụng: "Ta không nên tới vội, vì như thế ông sẽ xem thường mình. Phai để
cho ông ta tìm kiếm đủ chỗ mà không có, đến phút cuối cùng ta mới chỉ, sẽ có giá trị hơn". Nghĩ xong hắn nép mình bên một cái
lều, lom lom đôi mắt nhìn theo xem thử Châu bá Thông hành động ra sao.
Chỉ thấy ông đứng suy nghĩ một chút rồi tung mình bám lên giữa thân cột cờ rồi leo vút lên lanh như con vượn, thoắt một cái đã ngồi
vắt vẻo trên cháng hai chỗ dùng để móc lá cờ. Đưa mắt nhìn quanh, không thấy là soái kỳ đâu hết. Châu bá Thông nổi nóng thét lớn:
- Lão Kim Luân hèn nhát, đã giấu soái kỳ đâu mất rồi?
Ông vận sức thét lên, nên tiếng nói vang dội như sấm động, đâu đâu cũng nghe thấy rõ ràng. Không thấy ai đáp lại, ông càng la lớn:
- Kim Luân, nếu bọn bay nín thinh, ta sẽ chửi mà xem.
Lắng tai hồi lâu vẫn không ai đáp, Châu bá Thông cất tiếng chửi thậm tệ.
Ngay lúc đó từ hướng Đông có tiếng người quát:
- Lão Ngoan Đồng, đừng la lối vô ích, lá soái kỳ ta cất nơi đây rồi, hãy lại mà kiếm.
Vừa nghe câu nói, Châu bá Thông đã rời khỏi ngọn cột cờ la lả bay xuống đất, miệng quát:
- Chỗ nào?
Nhưng người ấy bỗng nín bặt không nói nữa. Ông nhìn lại xung quanh thấy toàn là doanh trại, không thấy bóng một ai.
Còn đang ngơ ngác tìm kiếm bỗng từ hướng Tây có tiếng gọi lớn:
- Đây nàỵ, soái kỳ đây này.
Châu bá Thông bỗng vút đi như một vệt khói lao thẳng về nơi có tiếng nói. Nhưng khi mới được nửa đường đã im bặt, khiến ông phải
dừng lại nghe ngóng nữa.
Châu Bá Thông cười ha há nói lớn:
- Kim Luân, mi cố tình chơi trò trốn bắt cùng ta đấy hả. Ta thử cho một mồi lửa vào dãy trại này xem thử mày trốn nơi đâu nhé.
Triệu chí Kính giật mình lo lắng: "Nếu để ông ta phóng lửa đốt trại thì rắc rối vô cùng...
Hắn nhảy vọt ra khẽ nói với Châu bá Thông:
- Châu sư thúc tổ, không nên phóng lửa làm gì!
Châu bá Thông nhìn Triệu chí Kính ngạc nhiên hỏi:
- ủa tên tiểu đạo sĩ này tại sao lại ở đây và vì sao không nên phóng hỏa?
Triệu chí Kính kiếm lời chối quanh:
- Nếu sư thúc tổ phóng hỏa thì mắc kế bọn chúng vì quân Mông Cổ đã chôn địa lôi khắp nơi, nếu đốt lửa lên, địa lôi nổ, nguy
hiểm đến tánh mạng ngay.
Nghẹ nói Châu Bá Thông giật mình suy nghĩ:
- Bọn này dùng mưu kế quá ác, nếu không có thằng này cho hay trước thì nguy rồi còn chi.
Nhìn dáng điệu ông, Triệu Chí Kính biết lời nói của mình đã được tin rồi, nên nói thêm:
- Cháu đã biết trước mưu mô thâm độc của bọn này, sợ sư thúc tổ quá ngay thẳng và tin người nên chực từ đầu hôm tại nơi đây để
báo tin cho sư thúc tổ được rõ mà đề phòng.
Châu bá Thông nói:
- Qủa mi có lòng tốt, khá lắm, nếu không có mi chắc ta bị địa lôi nổ tan xác rồi.
Triệu chí Kính lại gần nói nhỏ:
- Sư thúc tổ! Cháu còn biết được chỗ dấu lá soái kỳ nữa, để cháu chỉ cho nhé.
Không ngờ châu Bá Thông lại lắc đầu bảo:
- Khỏi cần! Việc này phải do ta tự tìm ra mới tài. Nếu ta tìm không nổi thì cứ chịu thua chứ có hại chi đâu?
Thật ra đối với Châu Bá Thông, việc đánh cắp soái kỳ cũng chỉ là một trò đánh cá để giải trí chứ không quan trọng gì. Vì vậy
nên ông muốn tự mình xoay xở lấy, nếu nhờ kẻ khác xen vào điểm chỉ thì không còn hứng thú nữa. Câu trả lời này khiến Triệu
chí Kính chưng hửng và nghĩ bụng:
- Ông già này quả là con người gàn dở, không giống tánh ý người thường nhưng dù sao ta cũng phải làm cho ông ấy trúng kế mình mới
được.
Y nói liền:
- Sư thúc tổ, nếu vậy thì cháu cũng đi lấy cờ đây để xem thử trong hai chúng ta ai tìm ra trước nhé.
Nói vừa dứt lời hắn vọt phi thân lao về phía trước nhắm ba hòn núi nhỏ chạy tới. Chạy được vài chục trượng, hắn quay đầu lại nhìn
thử thì thấy Châu bá Thông cũng rảo bước chạy theo. Triệu chí Kính yên tâm chạy thẳng một mạch tới ngọn núi thứ ba. Khi tới, hắn
giả bộ nhìn quanh quất một chặp rồi nói lẩm bẩm khá lớn để cho Châu Bá Thông cũng nghe được:
- Chúng nó bảo dể trong hang sâu giữa hai cây hòe lớn, mà ta có thấy cây hòe nào đâu? Lạ quá!
Trong lúc hắn giả bộ lăng xăng tìm kiếm thêm thì Châu bá Thông đã cười lớn:
- Thôi, ta tìm ra được rồi.
Vừa nói xong ông đã phi thân chui luôn vào miệng hang ở khoảng giữa hai cây hòe. Triệu chí Kính đứng ngoài ngó theo trong lòng
mừng rỡ nghĩ: "Phen này nếu tìm ra soái kỳ, chắc ông thích mình lắm. Hồi nãy ông tin rằng ta báo trước chuyện chôn địa lôi để
khỏi bị chết, bây giờ thêm một công trạng này nữa thì ăn chắc rồi chứ gì. Thật quả là dịp may hiếm có". Hắn lững thững bước dần
vào hang. Nhưng vừa đi được mấy bước đã nghe Châu bá Thông thét lớn rợn ngnời rồi tru tréo:
- Rắn, rắn, ồ, rắn độc.
Triệu chí Kính hoảng hốt chạy vào hỏi:
- Sư thúc tổ, có rắn độc sao?
Châu bá Thông rên rỉ:
- Hình như không phải rắn.
Triệu chí Kính hoàn toàn bất ngờ vì sự kiện này. Hắn liền đánh lửa đốt củi khô cầm vào soi thử. Trong hang, Châu Bá Thông
đang nằm quằn quại trên mặt đất, tay trái nắm một lá cờ nhỏ quật lia lại phía bên phải hình như để xua đuổi một con vật gì.
Triệu chí Kính sợ toát mồ hôi vội hỏi:
- Sư thúc tổ bị con gì cắn vậy?
Châu bá Thông rên khừ khừ rồi đáp nhỏ:
- Ta bị một con gì rất độc cắn phải.
Triệu chí Kính cảm tháy ớn lạnh xương sống và nghĩ bụng:
- Một người võ nghệ cao cường, công lực hùng hậu như ông, thế mà chỉ trông nháy mắt đã rũ liệt như thế này, thì loại độc vật này
quả nhiên là đặc biệt ghê gớm.
Nhìn lại lá cờ trong tay ông thì chỉ là một loại cờ nhỏ trong quân ngũ chớ không phải soái kỳ. Triệu chí Kính đã cảm thấy lo âu và
tự nghĩ: "ra lão Kim Luân mượn tay ta để lừa Châu sư thúc tổ vào đây hãm hại". Thấy sự việc đã xoay chiều và có vẻ nguy hại lây
tới mình, nên Triệu chí Kính chẳng còn quan tâm gì đến bệnh tình của Châu bá Thông, ném cây đuốc ra ngoài hang rồi quay
lưng bỏ chạy. Nhưng khi cây đuốc vừa lao ra được nửa chừng bỗng nhiên dừng lại trên không, hình như có một bàn tay vô hình tiếp lấy.
Tiếp theo đó, một giọng nói lạnh lùng lảnh lót vang lên:
- Tôn trưởng của ngươi bị trọng thương nằm đây mà ngươi nỡ bỏ đi nơi khác hay sao?
Giọng nói nghe quen quen, vô cùng thanh tao lảnh lót, rồi một tà áo trắng hiện lên, rõ ràng là Tiểu Long Nữ đã đứng trước cửa hang, tay
cầm cây đuốc đang cháy nửa chừng. ánh lửa hồng bập bùng chiếu trên khuôn mặt nàng đoan trang va xinh như bức tranh vẽ khiến
cho Triệu chí Kính kinh hãi rụng rời, tay chân bủn rủa, muốn bỏ chạy trốn cho mau nhưng không thể nào cất chân nổi.
Từ đầu hôm đến giờ, Tiểu long Nữ tuy ngồi xa xa nhưng luôn luôn để ý theo dõi từng hành động cử chỉ của Triệu chí Kính. Khi
hắn dẫn Châu bá Thông lên núi tìm cờ, nàng lẹ chân bước theo nhưng hắn vô tình không biết. Châu bá Thông tuy biết rõ nhưng cứ
lo việc tìm kiếm chẳng thèm để ý tới chuyện nàng. Tiểu long Nữ vung cây đuốc cho cháy sáng rọi thêm vào mặt Châu bá Thông
xem thử. Dưới ánh đuốc lập lòe, da mặt của lão Ngoan Đồng đã xám xịt, hai mắt lờ mờ như bị trúng độc rất nặng. Nàng thò vào túi
rút ra một chiếc bao tay bằng tơ vàng ánh xỏ tay vào cúi xuống lật tay Châu bá Thông ra xem thì thấy có ba con nhện rằn to bằng cái
cốc uống rượu, đang ngậm chặt ba ngón tay của ông không nhả. Ba con nhện này có hình thù vô cùng quái dị, thân thể nhiều mầu
rằn ri sặc sỡ trông thật dễ sợ. Tiểu long Nữ thừa biết hễ giống vật nào có nhiều màu sắc rực rỡ bao nhiêu càng độc dữ bấy nhiêu.
Thứ nhện này xưa nay nàng chưa hề thấy, nhưng cứ theo màu sắc này cũng đủ biết là giống kịch độc. Mặc dù có mang bao tay
nhưng nàng cũng không dám đưa tay bắt chúng mà chỉ dùng cành cây khô để khều nhẹ. Nhưng khều luôn mấy cái ba con nhện
vẫn bám chặt không chịu thả. Tiểu long Nữ bèn vung tay mặt phóng luôn ba mũi Ngọc phong châm giết chết cả ba. Tài phóng
châm của Tiểu long Nữ thật là tuyệt diệu. Nàng giết chết ba con nhện độc nhưng không hề chạm tới da Châu bá Thông.
Giống nhện này tên "Sái tuyết chu" sanh sống trên đỉnh núi tuyết tận bên Tây tạng, được loại vào ba thứ độc nhất của xứ này, Kim
Luân cố mang vào Trung nguyên để thử sức độc với các môn khác trong thiên hạ miền Nam. Trong đêm lại hành thích Quách Tỉnh,
Kim Luân quên mang nhện này theo, nhưng sau đó chạm phải "băng phách phong châm" của Lý mạc Thu nên trong bụng oán hận vô
cùng. Vì vậy nên y về trại lấy chiếc hộp có chứa ba con nhện này luôn luôn mang theo bên mình, dự định nếu gặp lại Lý mạc Thu
sẽ cho nàng nếm thứ món độc của Tây tạng cho biết.
Sau khi đánh lừa Châu bá Thông và sắp đặt cùng Triệu chí Kính xong. Kim Luân lấy một lá cờ vải đem đặt trong hang đá, trên
lá cờ thả ba con nhện độc. Mỗi khi đánh hơi người các con nhện liền bò tới ngay để hút máu, mãi cho tới khi nào thật no bụng mới thôi.
Chất độc từ thân nhện tiết ra, xâm nhập vào máu người, không một môn thuốc nào cứu chữa nổi. Ngay Kim Luân Pháp Vương là
chủ nhện nhưng cũng không có phương thuốc nào để chữa độc của chúng được.
Việc tình cờ Tiểu long Nữ phóng ba ngọn Ngọc Phong Châm đã cứu được mạng lão Ngoan Đồng. Thật ra, trên ngọn châm này có tẩm
chất nọc độc của loài ong trắng trên núi Chung nam sơn. Chất độc này tuy không bằng "Sài tuyết chu" của xứ Tây tạng, nhưng khi
đầu châm ghim vào thân nhện khiến cho chúng nó tiết ra một thứ kháng độc chống đỡ trước khi chết. Chất kháng độc nầy cũng lan
vào máu của Châu bá Thông và nhờ đó đã chữa được một phần lớn chất độc của con nhện.
Châu bá Thông đang mê man bỗng tỉnh ngay dậy cựa mình hỏi nhỏ:
- Con gì đã cắn tạ mà đau nhức quá vậy?
Thấy Châu bá Thông đã tỉnh và nói được. Tiểu long Nữ mừng rỡ hỏi:
- Châu lão gia thấy trong người thế nào?
Châu bá Thông gượng cười đáp:
- Đang nửa sống nửa chết đây.
Nói xong, Châu bá Thông muốn há miệng cười to nhưng thân hình bị chất độc làm co rúm lại tiếng cười tắc ngang giữa chừng. Đột
nhiên từ phía ngoài núi có một giọng cười rộn ràng vọng theo mấy câu nói:
-Lão Châu, ngươi đã cướp lại Soái kỳ được chưa? và cuộc đánh cá ai thắng ai bại phen này?
Nghe tiếng nói quả là của Kim Luân Pháp Vương, Tiểu Long Nữ vội đưa tay bóp tắt ngọn đuốc. Nhờ có màng bao tay bằng loại tơ
đặc biệt nên nàng nắm ngay ngọn lửa đang cháy mà không hề chi hết. Châu bá Thông cố gượng đáp lớn:
- Lão Ngoan đồng đành chịu thua trận này, nhưng có lẽ cũng bỏ mạng mất. Chẳng hay loại nhện này tên chi mà độc quá vậy?
Ông trả lời tuy không được lớn lắm, nhưng nhờ khí lực thâm hậu nên tiếng cười ròn rang của đối phương cũng không lấn áp nổi. Pháp
Vương nghe nói giật mình suy nghĩ:
- Sài tuyết chu là loại độc nhất đời, cớ sao cắn y nãy giờ mà chưa biết, vẫn còn nói năng nghe ra rả thế này? Thật ta không thể hiểu
nổi. Lão chết rồi, ta may mắn thoát bớt một đại kình địch gớm ghê tại Trung nguyên.
Bỗng Châu bá Thông thét lớn:
- Bớ Triệu chí Kính! Người hành động như thế này, ta phải bảo Khưu xứ Cơ trừng phạt mi mới được.
Triệu chí Kính đứng ngoài núi nấp nghe, rùng mình suy nghĩ:
- Nguy quá, nếu việc này tới tai Khưu sư bá thì thế nào ta cũng lãnh một hình phạt gớm ghê.
Kim Luân cười ha hả nói lớn:
- Triệu đạo huynh là người rất tốt, ta định đề nghị lên Vương gia sắc phong đạo cho y làm Trưởng giáo Toàn Chân mới xứng đáng.
Chẳng hay ngươi có bằng lòng chăng?
Châu bá Thông "hứ" một tiếng không đáp lại. Mặc dù chất độc của "Sái tuyết chu" đã tiêu tan đi nhiều rồi, tuy nhiên dù còn lại chút
ít cũng có thể giết người như chơi. Vì vậy nên sau một hồi chịu đựng. Châu bá Thông trở lại hôn mê lần nữa. Tiểu long Nữ lớn tiếng
mắng:
- Kim Luân Pháp Vương, ngươi đường đường là trưởng giáo một phái võ lại hành động hèn hạ, dùng nhện gạt người để hãm hại, thật
không biết nhục. Hãy mau mau trao thuốc để giải cứu cho ông ấy.
Kim Luân thấy Châu bá Thông không nói nữa, tưởng ông đã chết rồi, trong lòng hớn hở. Tuy còn Tiểu long Nữ, nhưng nàng đâu
phải là đấu thủ của hắn? Hồi tưởng lại lời nói của Triệu Chí Kính bảo rằng mình đã bị thua dưới tay nàng nên trong bụng đã quyết
tâm ra tay bắt sống nàng phen này, chứng tỏ uy danh của mình với thiên hạ, bù lại sự tất bại trước kia. Lão vung chưởng mặt phóng tới,
miệng hét:
- Thuốc đây này, rán mà tiếp lấy.
Tiểu long Nữ thất sắc, vung luôn vuông lụa. Tức thì tiếng leng keng từ chiếc cầu vàng trên đầu giải lụa phất ra và nhắm ngay
huyết "kỳ môn" của lão điểm tới.
Kim Luân suy nghĩ:
- Ta cần tốc chiến thắng mới được. Nếu để hắn kéo dài được mươi hiệp thì Triệu chí Kính sẽ chê ta dở.
Nghĩ xong, lão tràn qua một bên né khỏi, thò tay vào túi luóc ra hai chiếc vòng múa tít. Chiếc cầu vàng không điểm trúng đích.
Tức thời giải lụa uyển chuyển đổi chiêu, nhắm ngay vào huyệt "đại thôi" của Kim Luân điểm nữa. Ông nhảy vọt lên cao mới thoát
khỏi, miệng khen:
- Khá lắm, võ công như mi cũng ít thấy trong hạng nữ lưu đương thời. Hai người cùng nhau quyết đấu không bao lâu đã trên mười
hiệp. Nếu Pháp Vương cố dùng sức mạnh đàn áp thì Tiểu long Nữ đâ bị thua rồi. Nhưng vì mấy hôm nay trúng phải Băng phách
ngân châm của Lý mạc Thu sắp bỏ mạng, sức khỏe bị giảm nhiều hơn nữa võ công của Tiểu long Nữ cũng hao hao như Lý mạc Thu
mà các thế biến hóa còn có phần kỳ diệu hơn nhiều. Tuy nôn nóng muốn hạ ngay đối phương, nhưng Kim Luân không dám mạo
hiểm đánh càn, cẩn thận tấn công và giữ miếng. Trong bầu không khí vắng lặng của trời đêm, những tiếng leng keng từ chiếc
cầu vàng của Tiểu long Nữ phát ra từng đợt nhịp nhàng nghe như một điệu nhạc.
Triệu chí Kính đứng ngoài, hồi hộp theo tiếng kêu của thứ nhạc khí kỳ lạ này và lo nghĩ:
- Tuy mình không cố ý giết người, nhưng nếu rủi sư thúc tổ mình bỏ mạng thì bản thân mình e cũng khó sống. Nếu Pháp Vương giết
được Tiểu long Nữ thì mọi việc có thể thu xếp ổn thỏa. Nhưng nếu nàng thắng Pháp Vương thì biết tính làm sao đây?
Hắn cứ đứng yên một chỗ, tay nắm chặt đốc gươm, tâm thần dao động, mồ hôi chảy ướt cả áo bào. Trận đấu kéo dài, đã qua sáu
chục hiệp vẫn chưa phân thắng bại.
Tiểu long Nữ thấy Châu bá Thông nằm yên không cử động, biết chất độc đang tàn phá cơ thể, nóng lòng muốn tìm cách cứu chữa
nhưng không thể rảnh tay. Mặc dù đánh nhau trong bóng tối, nhưng Tiểu long Nữ nhờ nhân quang điêu luyện hơn Kim Luân có
phần thắng thế. Nàng thấy Kim Luân lo thần công phía bên mặt, nên bên trái có hớ hênh nhiều, bất thần nàng hướng cho qủa cầu
vàng thọc mạnh vào vai trái đối phương, đồng thời tay trái vung lên hàng mười mũi Ngọc Phong châm nữa, lao vun vút vào ba đích
thượng, hạ, trung của lão cực kỳ lợi hại. Vì hai bên đứng cách nhau quá gần, hơn nữa Ngọc phong châm lướt đi không xé gió nên khi Pháp
Vương biết được thì đã muộn rồi. Nhờ võ nghệ tinh vi, khinh công điêu luyện nên mặc dù chỉ trong gang tấc, Pháp Vương đã quay
vòng quấn vào vải lụa xoắn luôn cả quả cầu vàng, rồi dụng sức phi thân lao vút lên không cao hơn một trượng, bao nhiêu ngọn Ngọc
phong châm vừa lướt qua dưới chân lão theo đá tung lên, cả hai tay lão cùng kéo theo, khiến chiếc cầu vàng cùng một khúc giải lụa cũng
rời khỏi tay Tiểu long Nữ xẹt lên trên không. Trong ánh sao đêm mờ mờ, một làn sáng bạc đã bay vút lên cao hơn hai chục trượng, đứng
xa trông như một chiếc cầu vồng thật đẹp.
Nhân lúc Pháp Vương chưa rơi xuống đất, Tiểu long Nữ phóng tiếp luôn một mớ ngân châm vì thân hình đang rơi xuống là là
không có điểm tựa Pháp Vương dù tài nghệ cao siêu đến đâu cũng khó bề tránh né. Trong lúc thập phần nguy biến, lão đã sáng ý
cầm vạt áo bào phía trước xoay mạnh một vòng, án ngữ trước ngực như tấm bình phong. Bao nhiêu ngân châm đều dính hết vào vạt
áo cả. Pháp vương thích chí cười lên ha hả, khi hai chân vừa chấm đất đã lẹ tay bắt hai chiếc vòng cũng từ trên cao vừa rơi theo.
Thế là nhờ tài tháo vát mà Kim Luân đã hai lần thoát chết đồng thời giật được vũ khí của đối phương. Lão thừa thế cất tiếng cười
lớn hỏi:
- Thế nào, Long cô Nương chịu đầu hàng chưa?
Tuy nhiên vì trong động chật hẹp, lại sợ Tiểu long Nữ có mưu kế gì nên lão vẫn do dự không tiến vào. Tiểu long Nư bị mất giải lụa
và quả cầu, hơn nữa phần lớn ngọc phong châm cũng phóng đi gần hết, nên không dám nhảy ra, chỉ nép bên vách đá nghe ngóng,
chờ cơ hội thuận tiện. Kim Luân chờ một chặp không thấy động tĩnh mới nghĩ ra một kế. Tay trái lão cầm vạt áo, tay phải nắm
hết hai chiếc vòng rồi tung luôn hai chiếc vòng lăn vào động, chiếc trước chiếc sau. Lão đứng người đứng trên chiếc vòng để khỏi đạp nhầm kim độc do Tiểu long Nữ cắm dưới đất để bẫy mình. Trong lúc lướt vào hang hai tay lão vung tít cái vạt áo để che chở
toàn thân chống ám khí. Kim Luân ỷ trên miếng vải có ghim nhiều kim độc, trở thành một món vũ khí phòng thân khá lợi hại nên nói
lớn:
- Cô nương hãy xem chừng món vũ khí lợi hại này nhé.
Lão nói vừa dứt lời bỗng cánh tay nặng chịch, miếng vải đã bị Tiểu long Nữ giật mất. Nguyên là Tiểu long Nữ có mang sẵn bao tay
bằng bạch kim, không sợ ngọc phong châm đâm phải nên mới dám vung ra đoạt miếng vải một cách bất ngờ như thế. Với bao tay này,
dù có vũ khí sắc bén tới đâu nàng cũng có thể đoạt lấy như thường. Pháp Vương thất kinh vội vận sức để giật lại nhưng đã muộn rồi.
Một mớ Ngọc phong châm đã từ tay Tiểu long Nữ bay vút vào người lão.
Pháp Vương than khẽ:
- Nguy tai!
Lập tức lão nắm lấy Châu bá Thông đưa một vòng để hứng những mũi kim độc rồi theo tư thế "đảo đạp thất tinh bộ" lùi dần ra cửa
hang. Trong đời lão đã gặp không biết bao nhiêu trận đấu gay go nhưng chưa lần nào hiểm ác bằng lúc này.
Tiểu long Nữ thất kinh nhìn thấy hơn hai chục Ngọc phong châm ghim hết vào người Châu bá Thông, bỗng ông cựa mình khẽ nói:
- Đau quá, lại con gì cắn ta nữa đây?
Tiểu long Nữ vừa sợ vừa mừng, vội hỏi:
- Sao, Châu bá Thông chưa chết sao còn nói được như thế?
Bản chất nàng chất phác thiệt tình, xưa nay ít đụng chạm với đời nên chẳng thạo lối xưng hô theo nghi lễ đối với các bậc tiền bối
trưởng lão, nên lúc mở miệng đã gọi ngay tên tộc của Châu bá Thông để hỏi thăm.
Châu bá Thông đáp:
- Lúc này hình như đã chết rồi. Nhưng không biết vì sao lại sống trở lại? Thật là rắc rối?
Tiểu long Nứ nói:
- Nếu ông chưa chết thì may quá, vì tôi không đủ sức cự lại với lão hòa thượng này.
Nàng lấy trong túi ra một cục đá Nam châm, cúi xuống cho hút hết những ngọn Ngọc phong châm đang ghim tua tủa trên người ông.
Châu Bá Thông mắng lớn:
- Cẩu tặc Kim Luân quả là ác độc. Ta đã ngất đi mả hắn còn dùng kim đâm vào người ta nữa.
Tiểu long Nữ cười xòa nói:
- Không phải đâu. Những mũi kim này chính do tay tôi phóng ra đấy. Hắn xách ông lên để hứng đấy chứ.
Nàng lần lượt kể lại mọi việc cho ông nghe rồi hỏi luôn:
- Châu Bá Thông, bây giờ ông nghe trong mình có đau đớn lắm không?
Nàng đinh ninh thế nào Châu bá Thông cũng lăn lộn rên siết vì chất nọc ong hành hạ, nhưng trái lại ông đáp:
- Bây giờ thấy dễ chịu hơn trước lắm. Vậy cô thử đâm thêm ít mũi nữa xem sao.
Tiểu long Nữ ngỡ ông ta nói đùa, bèn thò tay vào bọc lấy ra một cái bình thủy tinh đựng mật ong trắng và bảo nhỏ:
- Đây là loại mật ong dùng để trị chất độc của kin châm này. Ông hãy uống vào sẽ đỡ đau ngay.
Nhưng Châu bá Thông lắc đầu, khoát tay lia lịa đáp:
- Không cần, không cần, mấy mũi kim của cô đâm vào mình tôi đã giúp tôi bớt đau nhiều lắm, có lẽ nó là khắc tinh của nhện
độc cũng nên.
Tiểu long Nữ thấy ông nói cũng có lý không nài ép nữa, cất bình mật vào bọc và suy nghĩ: "Lão già quái dị này, dầu nội công cao
siêu tới đâu cũng không thể nào tự nhiên chịu nổi với loài nhện độc này. Trái lại nếu nhện độc mà không hại được y thì Ngọc phong
châm cũng không nghĩa lý gì hết".
Thật ra chất độc ong trắng tuy rất độc nhưng cũng có thể dùng để trị chữa một số bệnh, nhất là những trường hợp trúng độc.
Chính nhờ nọc ong thấm vào người mà làm giảm bớt rất nhiều những chất độc của loại nhện rằn.
Pháp Vương đứng trước cửa hang lắng tai nghe ngóng. Lão thấy nguyên khí của Châu Bá Thông vẫn còn dôi dào, giọng nói vẫn rõ
rằng không tý gì suy nhược nên hoảng sợ vội nghĩ: "Lão này có lẽ là thần tiên mới chịu đựng nổi với chất độc của ba con nhện này?
Chi bằng hãy lợi dụng lúc gã chưa hoàn toàn bình phục giết phứt đi để trừ hậu hoạ".
Trong cuộc tấn công bất thành vừa rồi, cả hai chiếc vòng đều lăn hết vào trong hang, y liền vung tít sợi dây lụa có buộc quả cầu
vàng tiếng kêu leng keng và nói lớn:
- Long cô nương, ta tạm mượn vũ khí của nàng thử nhé.
Nói xong lão vũ lộng giải lụa, tung mạnh chiếc cầu vào trong hang. Nhờ có công lực siều phàm và võ công tới trình độ cao diệu nên
bất cứ môn binh khí phái nào lão cũng sử dụng được hết. Sợi dây của Tiểu long Nữ tuy lạ lùng, nhưng lối sử dụng cũng gần giống như sợi
roi mềm, lợi hơn nhiều là có thể đứng xa mà đánh ít sợ trúng phải ám khí ném bất ngờ.
Tiểu long Nữ còn trẻ ưa đùa nghịch nên cầm lấy hai chiếc vòng của Kim Luân, chạm nhẹ vào nhau thành những tiếng leng keng dòn
dã và nói lớn:
- Hay lắm, ta và ngươi đổi vũ khí để đánh thử một trận xem sao.
Nói xong nàng đẩy mạnh chiếc vòng ra. Nhưng chiếc vòng vàng của Kim Luân tuy không to nhưng đặc ruột thành thử nặng ngót ba
cân nàng dùng không được thuận tiện. Vì vậy nên chỉ đẩy ra trong giây lát Tiểu long Nữ phải thu ngay về để án ngữ trước mặt.
Kim Luân thừa thế sấn ngay vào cố chiếm đoạt lại chiếc vòng. Tiểu long Nữ vội thối lui ra sau, tay trái tung chiếc vòng bạc ra. Nhưng
đó chỉ là một thế đánh hờ mà thôi. Đồng thời nàng vung luôn ra một nắm Ngọc phong châm vừa rút trong người của Châu bá Thông
ra. Những mũi châm này đã hết chất độc, nên ví dụ có đâm trúng người cũng không còn nguy hại mấy. Tuy nhiên Pháp Vương vẫn
cẩn thận đề phòng mà tung mình lên cao để né tránh, do đó không chộp được chiếc vòng trong tay của đối phương.
Châu bá Thông nằm dưới đất thấy vậy cười ha hả nói lớn:
- Hay lắm, nếu lão ấy nhảy vào, cô cứ dùng kim độc phóng vào đầu nó. Chờ lát nữa, công lực tôi trở lại, tôi sẽ trị hắn cho.
Tiểu long Nữ lo lắng nói:
- Ngọc phong châm đâu còn nữa hòng phóng ra để chống lại hắn?
Châu bá Thông lắc đầu nói:
- ừ nguy nhỉ?
Cả hai đều thành thật chất phác, thấy sao nói vậy không chút e dè vì sự có mặt của kẻ thù là Kim Luân. Trái lại có đầy đủ mưu
trí, khi nghe hai người bàn như thế lại cho là họ nói dối để lừa mình nhảy vào, nên bảo bụng:
- Chà bọn bay muốn phỉnh ta để thừa cơ hãm hại bất ngờ, chứ Ngọc Phong châm lẽ nào lại hết được. Thôi, đừng hòng đưa ta vào
bẫy đâu nhé.
Rõ ràng là kẻ lành thắng đứa có gian ý, những lời nói thành thật của hai người đã khiến cho Pháp Vương hoảng sợ không dám vào.
Thật ra, lúc nào Kim Luân cũng ghi nhớ cái đau đớn của mình và hình ảnh Ni ma Tinh bị chặt đứt hai chân trong khi mắc mưu
Dương Qua, đạp nhầm độc châm của Lý mạc Thu trong động đá độ trước. Lão đứng thập thò mãi trước cửa hang không dám nhìn
vào, trong lòng lo âu hồi hộp mãi. Đêm qua dần. Từ phương Đông ánh hồng đã bắt đầu chiếu rạng. Châu Bá Thông lặng lẽ ngồi xếp
bằng tròn trên mặt đất dùng công phu thượng thặng để trục những chất độc còn sót trong người ra ngoài. Nhưng chất độc của "Sài
tuyết chu" quả vô cùng lợi hại, mặc dù còn rớt lại trong người bao nhiêu, nhưng cứ mỗi lần Châu bá Thông vận công thì trong ngực cảm
thấy có một cái gì ớn ớn khó hiểu, muốn mửa ra mà mửa không được. Trái lại, nếu ngừng vận công thì thấy dễ chịu hơn. Thử đi thử
lại năm ba lần vẫn không kết quả Châu bá Thông than dài:
- Chịu thôi! Chất này không thể nào trục hết ra ngoài cho được.
Kim Luân Pháp Vương đứng ngoài chờ đợi, không biết đã sẩ ra những gì trong hang nên nghĩ bụng:
- Ngu quá, thằng già này đã vận công được rồi. Phải đối phó sao đây?
Bỗng lão nghĩ ra kế bèn thò tay vào túi móc ra một hộp vàng đựng đầy cả "Sài tuyết chu". Mở nắp ra thì có cả thẩy trên mười mấy
con nhện rằn bò lúc nhúc. ánh mặt trời vừa mọc rọi thẳng vào hộp, chiếu trên những lưng nhện, óng ánh nhiều màu sắc rực rỡ trông
vừa đẹp vừa ghê gớm. Kim Luân lấy ra một kẹp nhỏ bằng sừng chuốt, gắp mấy con nhện bỏ lên vách đá bên trái trước cửa hang. Dần
dần lão thả hết số nhện đựng trong chiếc hộp ra. Bao nhiêu nhện leo lên vách đá và đua nhau nhả tơ làm lưới che phủ khắp cửa động
biến thành một bức màn tơ độc giam hãm hai người bên trong.
Châu bá Thông và Tiểu long Nữ thấy các con nhện nhả tơ giăng lưới thì lấy làm thích thú, cứ điềm nhiên theo dõi, chứ không đánh
đuổi đi. Khi màn lưới đã bao kín miệng hang rồi, bao nhiêu nhện rằn lại ẩn núp một bên chờ có con vật nào đến chạm vào là phóng
tới đớp nay. Lúc bấy giờ Tiểu long Nữ và Châu bá Thông đã lâm vào cảnh nguy hiểm vô cùng.
Tiểu long Nữ chép miệng nói:
- Tiếc rằng ngọc phong châm không còn nữa để phóng cho mỗi con một chiếc để đỡ gai mắt.
Châu bá Thông lượm một que củi thông, định quậy cho thủng màn lưới nhện, bỗng từ nguài có một con bướm đã lăn ra chết ngay
không kịp giãy dụa.
Tiểu long Nữ thất kinh gọi lớn:
- ấy chết, đừng chạm vào lưới. Nguy hiểm lắm.
Nói xong nàng đoạt lấy que củi trên tay Châu bá Thông, vứt ra xa.
Thật ra Kim Luân pháp Vương để cho nhện giăng tơ không phải có ý giam hãm hai người mà chỉ để họ vô ý chạm phải lưới độc là
chết ngay. Giống "Sái huyết chu" không phải cắn mới độc mà ngay lưới tơ của chúng cũng độc vô cùng.
Châu bá Thông ngồi xếp bằng lại như cũ và nghĩ thầm:
- Ta chưa phục hồi lại công lực, nên dù phải ngồi thêm một thời gian nữa để vận khí cũng không sao.
Tiểu long Nữ lại nóng ruột nghĩ: "Không biết mình tình trạng này kéo dài đến bao giờ cho hết? Chất độc trong người của Châu bá
Thông đã trục được hết chưa?"
Nàng khẽ bảo:
- ông thử vận công thêm độ một ngày một đêm nữa xem có khỏi bệnh chăng.
Châu bá Thông thở dài than nho nhỏ:
- Dù một ngày cũng chưa chắc hết bệnh.
Tiểu long Nữ trợn mắt tròn xoe hỏi:
- Vậy thì phải tính sao đây?
Châu bá Thông cả cười đáp:
- Nếu lão hòa thượng chịu bỏ cơm vào đây, ta cũng ráng sống vài năm trong hang để chờ đợi được.
Tiểu long Nữ thở dài than:
- Phải chi có Dương Qua cùng sống trong hang này, dù ở mãi suốt đời cũng không chán.
Châu bá Thông nổi nóng nói:
- Người xem lão Ngoan đồng không bằng thằng Dương Qua hay sao? Nó đã có gì giỏi hơn ta chưa? Ta sống chung với ngươi trong hang
đá này có điều chi không tốt hãy nói ra nghe thử?
Một già một trẻ đều ngây thơ nói năng thật thà ngộ nghĩnh. Tiểu long Nữ mỉm cười đáp:
- Dương Qua biết pháp đánh kiếm của Toàn Chân phái, nếu hắn có mặt tại đây thì tôi cùng hắn dùng "song kiếm hợp bích" hạ
được lão hòa thượng này ngay.
Châu bá Thông cười lớn nói:
- Thằng Dương Qua mà lại thạo môn kiếm pháp Toàn Chân hơn Châu bá Thông này sao?
Tiểu long Nữ nói:
- Phép "song kiếm hợp bích" này còn gọi một tên nữa là "ngọc nữ tố tâm kiếm pháp" hai người sử dụng nó phải là một trai một gái
đang yêu nhau thắm thiết, mới có thế phát huy hết năng lực mà thắng được quân địch dễ ợt.
Châu bá Thông vừa nghe tới mấy chữ "trai gái yêu nhau thắm thiết" đã thất kinh hồn vía, khoát tay lia lịa nói rối rít:
- Thôi, thôi, đừng nhắc tới chuyện đó nữa. Ta có thể tự hào dù sống mãi trong hang đá này bao nhiêu năm cũng được. Ngày trước ta đã
từng một mình sống trong hang động đá trên Đào hoa Đảo hàng mười lăm năm chẵn rồi. Trong những năm ấy vì không có cách gì tiêu
khiển ta đã luyện
được một trò chơi cho đỡ buồn. Trò chơi đó gọi là "song thủ hổ bác" nghĩa là "chân tay đánh nhau". Ngày nay được có mi một bên
để nói chuyện thì đã vui vẻ lắm rồi, còn mong gì hơn nữa?
Tiểu long Nữ ngạc nhiên hỏi:
- Trò chơi "song thủ hổ bác" là thế nào?
Nghe nàng hỏi không khác chi gãi trúng chỗ ngứa, Châu bá Thông đắc chí đem ra giảng giải sơ qua về lối dùng hai tay đấu lẫn nhau
cho Tiểu long Nữ nghe.
Nghe ông kể xong, Tiểu long Nữ chợt nghĩ lại vui mừng nói lớn:
- ồ hay quá, nếu tôi học được môn này thì một tay sử dụng Toàn Chân môn kiếm pháp còn một tay sử dụng Ngọc nữ kiếm pháp. Như
chẳng khác nào hai người đang đánh nhau theo phép "song kiếm hổ bích" Nhưng môn này học có khó không, và phải cần bao lâu
mới thành thạo?
Châu bá Thông nói:
- Nói khó lắm, nhưng muốn dễ cũng dễ vô cùng, chỉ tùy theo bản chất của người muốn học nó mà thôi. Người học không được dù học
suốt, thì cũng không thông. Còn kẻ nào học được thì cần hai ba ngày cũng đủ rồi. Ngươi có biết vợ chồng Quách Tỉnh, Hoàng Dung
hay không?
Tiểu long Nữ đáp:
- Tôi biết lắm chứ. Quách phu nhân thông minh xuất chúng, học một điều hiểu mười. Cứ theo lời Dương Qua thì trên đời này chưa
chắc đã có kẻ nào lanh lợi thông minh bằng bà ta. Còn Quách đại hiệp thì tuy chất phác nhưng thiên tư chậm.
Châu bá Thông cười nói:
- Thế nào gọi là chậm? Có thể nói trắng ra rằng Quách Tỉnh là thằng ngốc và tối dạ nhất. Châu bá Thông này, mi xem ta thuộc hạng
nào, khôn hay ngu, lanh hay chậm?
Tiểu long Nữ nói:
- Tôi nhận xét ông tuy tuổi cao tác lớn, nhưng ăn nói bất thường, còn hành động thì không thể lường trước, hình như khùng khùng điên điên.
-
Chương 64 - Theo Dõi Mà Như Không Hành Động - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 64 - Theo Dõi Mà Như Không Hành Động
Châu Bá Thông vỗ tay cười khà khà nói:
- Phải rồi! Phải rồi! Mi nói đúng. Chính là phép "hai tay đánh nhau" do ta sáng tạo ra, nhưng chỉ trong mấy ngày học hết của ta. Sau đó đem dạy cho Hoàng Dung, mà con bé Hoàng Dung học đi học lại mãi, nhưng không lĩnh hội được nửa miếng. Ta thấy con Hoàng Dung thông minh lanh lợi, cứ ngờ là Quách Tỉnh không biết cách dạy, nên ta phải đích thân dạy cho Hoàng Dung, rốt cục nó cũng không lĩnh giáo được. Chỉ có bài thứ nhất: "tay trái vẽ hình vuông, tay mặt vẽ hình tròn" cùng trong một lúc, thế mà Hoàng Dung vẽ đi vẽ lại mãi mà vẽ không được. Hà! Hà! Vì vậy môn võ công này người thông minh chừng nào thì học khó chừng ấy.
Tiểu Long Nữ cười nói:
- Tôi không tin trên đời nầy có việc người thông minh lại học dở hơn người ngu.
Châu Bá Thông cười hề hề đáp:
- Ta xem ngươi tài trí, dung mạo và võ nghệ đều sít soát với Hoàng Dung. Nếu ngươi không tin thì dùng ngón tay trái vẽ hình vuông dưới đất, đồng thời dùng ngón tay trỏ bàn tay mặt vẽ hình tròn, hai hình đều phải đúng cách thức, và xong một lượt.
Tiểu long Nữ nghe theo lời đưa hai tay ra vẽ, nhưng buồn thay cái hình vuông các góc đều tròn, còn hình tròn lại méo có khía góc.
Bá Thông vỗ tay cười ha hả, nói:
- Đó thấy chưa? Chỉ mới có bài thứ nhất mà học không xong rồi đấy!
Tiểu long Nữ mỉm cười, giữ vẻ bình tĩnh. Đoạn thong thả, tay mặt vẽ hình tròn, tay trái vẽ hình vuông, chỉ trong nháy mắt đã thấy một hình tròn, một hình vuông rất giống và xong một lượt.
Châu Bá Thông xem thấy rất kinh ngạc, vội kêu lên:
- Mi... Mi đã từng học rồi à?
Tiểu Long Nữ thản nhiên đáp:
- Chưa. Nhưng có khó gì đâu?
Lão liền hỏi:
- Sao vẽ được vậy?
Long Nữ đáp:
- Chỉ cần trong lòng yên tĩnh, không bối rối thì vẽ được ngay.
Nói xong, nàng đưa hai tay ra, tay trái vẽ ba chữ "Lão Ngoan Đồng", tay mặt viết Tiểu Long Nữ. Sáu chứ nầy sắc sảo phi thường, nét bút như nhau.
Châu Bá Thông hớn hở vô cùng, bèn đem hết thuật pháp về môn "Hai tay đánh nhau" truyền lại cho Tiểu long Nữ.
Kỳ thật môn "Hai tay đánh nhau" nầy là then chốt ở chỗ biết phân tay ra đề dùng một lượt vào hai công việc. Nhưng những người thông minh như Tào Phi đi bảy bước đã làm xong một bài thơ, hay Gia Cát Võ Hầu lúc dụng binh chỉ cúi đầu suy nghĩ trong nháy mắt là ra trăm kế, đều không thể học được môn "Hai tay đánh nhau". Vì tâm tư của những người ấy quá phức tạp. Còn Tiểu Long Nữ nhờ tính tình chất phác nên học rất nhanh. Tiểu Long Nữ dùng hết tâm tư để học hỏi võ công kỳ quái này, để tay mặt sử dụng "Ngọc nữ kiếm pháp", tay trái sử dụng Toàn chân kiếm pháp để hợp thành "Song kiếm hợp bích". Chỉ trong vòng ba tiếng đồng hồ nàng đã hoàn toàn thuần thục. Nàng đi thử lại cho Châu Bá Thông xem, làm cho lão vô cùng kinh ngạc và mừng rỡ.
Kim Luân Pháp Vương và Triệu Chí Kính nấp bên ngoài, lắng tai nghe hai người trò chuyện bên trong rất vui vẻ chẳng tỏ ý gì kinh sợ. Hai người đứng ngoài thấy thế rất kinh ngạc. Tiểu Long Nữ thoáng thấy bọn Kim Luân Pháp Vương lấp ló ngoài cửa động, bèn nắm tay Châu Bá Thông nói:
- Tôi và ngài bước ra ngoài đi.
Châu Bá Thông ngơ ngác hỏi:
- Ra làm gì?
Nàng thẳng thắn đáp:
- Ra bắt thằng học trò lão, khảo lấy thuốc độc cho ngài uống.
Châu Bá Thông vuốt râu, cười:
- Bây giờ, mi chắc chắn sẽ hạ nó như trở bàn tay.
Lão nói chưa dứt lời, bỗng nghe tiếng vo vo bay tới trước cửa động, thì thấy một con ong mắc vào lưới nhện đang ra sức vùng vẫy, nhưng lạ thay con nhện ấy rất hùng hổ mà không dám xáp tới gần. Tiểu Long Nữ khi sống trong Cổ Mộ, rất sành nghề nuôi ong, nay thấy vậy, liền sanh ra một kế. Nàng thò tay vào túi, lấy một chai mật mở nút ra, đặt bàn tay lên miệng chai, ra sức dùng chưởng lực, bỗng nghe một mùi hương tỏa ra bát ngát cả ngoài động.
Lúc ấy vào giữa mùa hè, nên rất nhiều ong đang đi lấy mật, nghe thấy mùi thơm, tấp nập bay đến. Chúng đến cửa động, thấy một đồng bọn của chúng đang kẹt lưới, vội tủa vào tiếp cứu, đấu nhau kịch liệt với mấy con nhện độc. Trong chốc lát, bầy nhện độc dần dần bị yếu thế, nên bị nọc ong chích nhằm, đều té rơi xuống đất.
Triệu Chí Kinh thấy tình thế sắp nguy vội trốn vào bụi rậm, còn Kim Luân Pháp Vương thấy bầy nhện quí của lão sắp tiêu tan, trong lòng vô cùng đau xót.
Tiểu Long Nữ dùng ngón tay út thò vào bình ngọc vốc lên một ít mật rồi hướng về phía Pháp vương, tiếp theo ngón tay trỏ cũng búng vèo tới, miệng hô hai tiếng, tức thì muôn ngàn con ong bay vù vù ra động, xông thẳng vào người Pháp Vương.
Kim Luân Pháp Vương thấy đàn ong ồ ạt bay đến bao vây mình, vội hớt hải tung mình chạy đi. Vì thuật khinh công của lão đã đến mức cao siêu Tuy bầy ong bay rất nhanh, nhưng không thể đuổi kịp lão được. Trong chốc lát lão chạy hơn hai chục dặm, bầy ong bị cách ra đêu tản mát cả. Tiểu Long Nữ dậm chân kêu tiếc:
- Uổng quá! Uổng quá!
Châu Bá Thông vội hôi:
- Uổng cái gì?
Tiểu Long Nữ tỏ vẻ hơi buồn, nói:
- Hắn đã chạy thoát rồi, không lấy được thuốc giải độc.
Mưu kế của Tiểu long Nữ là điều khiển bầy ong, để bao vây Kim Luân Pháp Vương ép vào giữa vòng vây. Nhưng nàng không ngờ bầy ong "ô hợp", tuyệt nhiên chưa được thuần túy như bầy ong nuôi ở Cổ mộ, tuy có thể sai khiến chúng truy kích được, nhưng không biết bủa lưới bao vây.
Châu Bá Thông đứng nhìn thuật pháp của Tiểu Long Nữ, đi sai khiến bầy "dã phong" thành một lợi khí truy kích địch quá lợi hại, lòng lão hết sức thán phục, thầm nghĩ: "Trò chơi kỳ quái này còn lạ gấp mấy lần những trò chơi xưa nay lão thường thấy". Vì thế nên Châu Bá Thông say sưa nhìn bày "dã phong" truy kích địch, mà lão không buồn nghĩ đến các chất độc đang ngấm vào người lão có thể giải được hay không?
Tiểu Long Nữ thấy màn nhện trên cửa động đã bị trận kịch chiến vừa rồi phá tan hết, bèn lẹ làng chui ra, và ngoắt tay bảo Châu Bá Thông:
- Mau ra đây!
Châu Bá Thông nghe lời, liền nhún mình phóng ra, nhưng nhảy ra được nửa chừng, thân lão trên không rơi "bịch" xuống như một bao cát. Lão buột miệng than:
- Không được! Không được! Sức lực của ta không biết biến mất đi đâu hết rồi!
Bỗng nhiên người lão run lập cập, hàm răng va vào nhau "côm cốp". Đúng lúc nầy chất độc nhện đã hành hung làm tê liệt các huyệt, nên lâo nhãy ra mới nửa chừng đã bị rớt xuống đất. Châu Bá Thông lúc rơi xuống
cảm thấy như thân mình rơi vào hố tuyết, làm mặt mày lão trở nên tái mét.
Tiểu Long Nữ kinh hãi nói:
- Châu bá Thông, ông có sao không vậy?
Lão lập cập, nói:
- Cô?... Cô hãy mau dùng kim chích vào da tôi ít mũi!
Tiểu Long Nữ sửng sốt nói:
- Kim của tôi có độc mà!
Châu Bá Thông hổn hển, nói:
- Có độc... có độc càng tốt!
Tiểu long Nữ nhớ trận ác chiến giữa bầy ong và nhện độc vừa rồi. Nàng thầm nghĩ:
- Chẳng lẽ nọc ong lại là khắc tinh của nọc nhện hay sao?
Vừa nghĩ, nàng vừa ra tay nhặt lên một mũi "Ngọc phong châm" chích thử vào cánh tay của Châu bá Thông. Bá Thông mừng rỡ nói:
- Đỡ lắm! Hãy mau chích tiếp đi!
Nàng vội chích thêm mấy mũi, thì thấy chất độc trên kim mất dần, đoạn đổi mũi khác, liên tiếp đổi hết mười mấy mũi. Lúc nầy Châu Bá Thông không còn rên nữa, lão hít một hơi dài khoan khoái nói:
- Dùng độc khử độc, thật là một phương pháp huyền diệu!
Lão liền thử điều công vận khí, thì cảm thấy chất độc trên mình chưa tan, lão vỗ đùi kêu lên:
- Long cô nương, nọc ong trên kim cô cũng chưa mạnh lắm!
Tiểu Long Nữ hiểu ý cười hỏi:
- Thế thì để tôi đi gọi ong đến chích cho ngài vậy?
Lão vui vẻ nói:
- Cám ơn cô nương nhiều lắm, vậy cô thi hành liền đi.
Tiểu Long Nữ thấy chất độc trị nọc độc của nhện có hiệu quả nên vội mở nắp bình ngọc nhử đến một bầy "dã phong" cho chích vào mình lão Ngoan Đồng. Châu Bá Thông thích chí cười, rồi cởi ngay chiếc áo trên lưng ra, để cho bầy ong châm chích tha hồ. Mặt khác lão lại ám vận thần công, lúc đầu cho chất độc tụ vào đơn điền, rồi mới theo đường chân khí mà chạy khắp trong mười hai mạch của toàn thân, và kỳ kinh tán huyệt đại. Sau một hồi lâu, toàn thân lão đã đầy mụt chích của "dã phong". Khi nọc nhện gần hết, nọc ong chích vào nghe đau, lão la lớn lên:
- Đủ rồi! Đủ rồi! Nếu để chúng tiếp tục chích nữa thì ắt có án mạng xẩy ra.
Tiểu Long Nữ mỉm cười, vội đuổi bầy ong đi. Chợt thấy cây roi của nàng rơi ở một bên, tiện tay nhặt lên hỏi:
- Tôi đi về Chung nam Sơn, ông có muốn đi không?
Châu Bá Thông lắc đầu nói:
- Lão còn có một việc riêng cần kíp, không thể cùng cô đi được.
Tiểu Long Nữ nói:
- à! Đúng rồi. Chắc muốn đến Tương Dương giúp Quách đại hiệp chứ gì?
Nàng vừa nhắc đến ba chữ "Quách đại hiệp" thì trong lòng nàng đã thầm nghĩ:
- Thôi! Lúc này Quách Phù đang chung sống đầm ấm với Dương Qua rồi!
Nét mặt nàng bỗng tái mét, thở dài thảm thiết nói:
- Châu Bá Thông, nếu lão có gặp Dương Qua, xin đừng nói đã gặp tôi nhé.
Chỉ thấy miệng Châu bá Thông lầm bầm không biết nói chuyện gì, mà cũng không nghe rõ tiếng nào, nhưng trên mặt ông đầy vẻ tinh quái. Chưa biết lão sắp giở trò gì đây. Một hồi sau, bỗng nhiên lão ngẩng đầu lên hỏi:
- Cô nói gì đây?
Tiểu Long Nữ nói:
- Không nói gì, thôi xin chào ông nhé!
Châu Bá Thông chỉ làm lơ "ừ, ừ" mấy tiếng rồi đứng lặng yên.
Tiểu Long Nữ xoay mình đi một lúc. Bỗng nghe Châu Bá Thông quát tháo ầm ĩ, tựa như đang chỉ huy một bầy ong. Nàng quá ngạc nhiên, vội lên trở lại, đứng rình sau một thân cây lớn thì thấy Châu Bá Thông tay cầm chiếc bình ngọc, đang múa tay, múa chân ầm lên.
Tiểu Long Nữ đưa tay sờ lên lưng, thì thấy chiếc bình ngọc đã mất mới biết lão Ngoan Đồng đã đánh cắp lúc nào rồi. Nàng định thần nhìn kỹ, quả thật bình ngọc của nàng ở trên tay lão Ngoan Đồng, liền thấy bầy ong tấp nập bay tới, nhưng hoàn toàn chúng không chịu sự chỉ huy của lão, chỉ bay vo vo chung quanh bình ngọc. Tiểu Long Nữ không thể nhịn cười được, bèn lên tiếng:
- Lão ơi? Để tôi dạy cho!
Châu Bá Thông thấy trò chơi đã bị lộ tẩy, lại rõ cái tội móc túi bị Tiểu Long Nữ bắt quả tang, nên lão mắc cỡ đến đỏ mặt, lẹ làng chạy bay xuống núi. Trong nháy mắt lão đã mất dạng.
Tiểu long Nữ ha hả cười vang, cảm thấy lão Ngoan Đồng lại lỡ làng quá.
Đồi núi xa xa vọng lại những tiếng cười cô độc của nàng. Đột nhiên nàng thấy tâm thần quá cô đơn hiu quạnh, lòng không tự chủ được, hai hàng lệ bất giác rơi dài xuống má.
Mấy ngày nay, nàng đang theo đuổi Doãn chí Bình và Triệu chí Kính, thấy hai người thật đáng giết, dù băm nát thây họ cũng không hết được mối hận trong lòng. Lúc bấy giờ, nàng thấy cần ra tay hạ thủ là kết liễu mạng của hai người ấy thật dễ dàng. Nhưng lòng nàng tự hỏi:
- Dù có giết chết họ, thì ta được gì?
Nàng ngập ngừng đứng dưới gốc cây một hồi lâu, rồi lầm bầm:
- Ta cần phải đi kiếm họ mới được!
Quyết định xong, nàng thơ thẩn đi xuống núi, cưỡi lên lưng con lừa bông, vút chạy về hướng đông, phút chốc chạy hơn hai dặm đường. Nàng định đến thẳng về đại doanh của Mông Cổ, chợt thấy đàng trước bụi bay mịt trời, chiêng trống náo động, đại đoàn quân mã rầm rộ Nam tiến. Nàng nhận đúng là quân Mông Cổ đang kéo binh đi công phá thành Tương Dương. Tiễu Long Nư thầm nghĩ: "Thiên quân vạn mã như vậy, ta làm cách nào tìm được hai tên đạo sĩ được?".
Bỗng nhiên thấy dưới chân núi có ba con tuấn mã chạy qua, trên lưng ngựa là ba tên đạo sĩ áo vàng.
Tiểu Long Nữ lấy làm lạ:
- Sao lại có thêm một đạo sĩ nữa?
Xa xa nhìn tới, nàng thấy người sau chót chính là Doãn chí Bình, và Triệu chí Kính cùng gò ngựa song song với một đạo sĩ trẻ tuổi lạ mặt đi trước.
Tiểu long Nữ liền giục con lừa cấp tốc đuổi theo. Doãn chí Bình nghe có tiếng vó lừa đuổi theo, liền quay đầu nhìn lại, thấy Tiểu Long Nữ đã lẽo đẽo theo sau. Mặt mày hắn liền biến sắc.
Người đạo sĩ trẻ tuổi lại hỏi:
- Triệu sư bá, người con gái đó là ai vậy?
Triệu chí Kính sợ nói:
- Đó là cường địch với giáo phái ta đó, đừng có hỏi nữa!
Đạo sĩ trẻ giật mình vội hỏi:
- Có phải là Lý Mạc Thu không?
Triệu chí Kính lẩm bẩm:
- Không phải! Nó là sư muội Lý mạc Thu.
Người đạo sĩ trẻ tuổi tên là Kỳ chí Thành, tuy ngôi bậc sắp vào hàng chữ "chí", nhưng thật ra lại là đệ tử thuộc vào hàng thứ tư của Toàn Chân phái, vai thứ thấp hơn Doãn chí Bình và Triệu chí Kính một bực. Hắn biết Lý mạc Thu đã nhiều lần giao đấu với sư tổ của hắn mà Toàn Chân chư tử cũng nhiều phen chịu thua dưới tay Lý mạc Thu.
Triệu chí Kính vội ra roi quất ngựa chạy trước, Doãn chí Bình và Lý chí Thường cũng thất kinh giục ngựa chạy nhanh. Trong chốc lát bọn Triệu chí Kính đã bỏ rơi Tiểu long Nữ rất xa.
Nhưng sức con lừa bông của Tiểu Long Nữ lại rất dẻo dai, nên nước sải tuy không lẹ lắm, nhưng cứ đều đều tiến tới. Còn ba con ngựa của bọn Triệu chí Kính chỉ chạy được bốn, năm dặm là thấm mệt rồi, nên dần dần chậm lại, vì thế con lừa bông lại đuổi gần tới.
Triệu chí Kính đi được sáu, bảy dặm quay đầu lại liền ra roi quất dồn dập vào mình ngựa, nhưng dù đánh cách mấy, ngựa cũng chỉ chạy lẹ được hơn nửa dặm rồi đuối sức!
Kỳ chí Thành nói:
- Triệu sư bá! Nếu cứ mãi như thế này ắt ta thoát thân không thể được. Vậy sư bá cùng tôi đứng lại cản đường cô ấy, để cho Doãn sư bá được thoát thân.
Triệu chí Kính tái mặt nói:
- Làm như dễ dàng lắm vậy, mày muốn toi mạng rồi hả?
Kỳ chí Thành nói:
- Doãn sư bá thân mang trọng trách trưởng giáo, chúng ta thế nào cũng phải bảo vệ tánh mạng của Doãn sư bá cho được bình yên.
Triệu chí Kính "hử" một tiếng, không nói gì, nhưng lòng thầm nghĩ:
- Thật là đồ nghé con không biết cọp! Có ba miếng võ tầm thường mà đòi cản hậu!
Kỳ chí Thành thấy Chí Kính có vẻ giận không dám nói nữa nhưng chàng có tánh trung nghĩa, nên gò ngựa đợi Doãn chí Bình đi tới mới nói:
- Doãn sư bá là thân ngàn vàng, vậy xin sư bá hãy đi trước tiện hơn!
Doãn chí Bình điềm nhiên nói:
- Mặc cô ta.
Kỳ chí Thành thấy Chí Bình vẫn có vẻ bình tĩnh như thường, trong lòng kính phục vô cùng. Chàng thầm nghĩ: "Cho nên Khưu sư tổ truyền ngôi cho người, chỉ cái khí độ hiên ngang này thì trong số đệ tử đời thứ ba không có ai bì kịp rồi.
Triệu chí Kính thấy hai người vẫn đi thong thả, nên tự hỏi:
- Không lẽ mình lại hèn nhát bỏ chạy trước?
May lúc ấy Tiểu Long Nữ cũng không có ý ra tay. Nhưng ba người đi trước trong lòng vẫn phập phồng chẳng yên, cứ vừa cho ngựa chạy vừa quay đầu lại ngó chừng. Lúc này trên đường chỉ có bốn người, dẫn đầu là ba nam cưỡi ngựa, đi sau một nữ cưỡi lừa, lặng lẽ đi thẳng về phía Bắc.
Bấy giờ tiếng reo hò của quân Mông Cổ cũng dần dần biến mất, thỉnh thoảng chỉ nghe vọng lại vài tiếng hí vang rền của chiến mã. Dọc đường chỉ thấy bá tánh vì tránh nạn binh đao, không những nhà bỏ trống, mà cả
những con chó hoang cũng không dám hẻo lánh ở lại. Đêm đến bọn Doãn chí Bình lựa một căn nhà bỏ trống, không cửa, không màn mà vào nghỉ lưng. Triệu chí Kính rón rén nhìn ra ngoài, lại thấy Tiểu Long Nữ nằm ngửa trên một sợi dây buộc giữa hai thân cây lớn. Kỳ chí Thành ngóc đầu nhìn qua cửa sổ, thấy công phu của Tiểu long Nữ đã đến mức uyên thâm, thì trong lòng vô cùng khiếp sợ. Chỉ có một mình Doãn chí Bình vẫn thản nhiên nằm ngủ, không hề lưu ý đến Tiểu Long Nữ.
Suốt cả đêm, Triệu chí Kính không hề nhắm mắt một phút nào, chỉ chờ nghe ở bên ngoài có tiếng động gì, sẽ lẹ làng, quất ngựa truy phong. Sáng hôm sau, bốn người lại tiếp tục lên đường. Riêng có Triệu chí Kính ngồi trên lưng ngựa có vẻ bơ phờ, vì suốt đêm không hề chợp mắt được. Còn Kỳ chí Thành đi song song với Doãn chí Bình, nên bỏ rơi Chí Kính. hơn mười trượng. Bấy giờ Kỳ chí Thành nói với Doãn chí Bình:
- Doãn sư bá và Triệu sư bá mỗi năm đều có so tài nhau, nên vũ học của hai sư bá con đã thấy qua, có thể nói là ngang nhau, ai cũng có nghệ riêng, nhưng nói đến khí lượng trong lòng thì Triệu sư bá không thể bì kịp.
Doãn chí Bình gượng cười hỏi:
- Lần này các vị sư thúc và sư phụ ta được lệnh bế quan bao lâu thời gian, chú có biết chăng?
Kỳ chí Thành nói:
- Khưu sư tổ bảo: Nếu mau cũng là ba tháng, còn lâu thì phải một năm. Do đó sư tổ mới cấp tốc mời Doãn sư bá về kế vị.
Doãn chí Bình trầm ngâm một hồi, lẩm bẩm:
- Công lực của các vị sư trưởng đã đến mức khó lường rồi, sao còn phải bế quan làm chi nữa?
Kỳ chí Thành nói nho nhỏ:
- Con nghe nói năm vị sư tổ muốn tịnh tâm nghiên cứu với võ học đặc biệt, để phá võ công của phái Cổ Mộ.
Doãn chí Bình ừ một tiếng, bất giác quay đầu nhìn Tiểu Long Nữ ở phía sau. Cái ngày đại hội anh hùng tại Kinh tỉ bang, Tiểu Long Nữ hợp sức với Dương Qua đuổi cả thầy trò Kim Luân pháp Vương nên võ công của Tiểu Long Nữ đã làm chấn động cả võ lâm. Nhưng Dương Qua và Tiểu Long Nữ hai người đang yêu nhau khăng khít, không hề lưu ý đến việc thắng bại cho lắm. Lúc nầy trên giang hồ đồn vang, võ công cao nhất trong thiên hạ là người của phái Cổ Mộ, rồi sau lại nghe nói Tiểu Long Nữ cùng Dương Qua dùng "Song kiếm hợp bích" đánh đến Kim Luân Pháp Vương phải bỏ chạy tơi bời, cũng vì thế mà làm chấn động cả Toàn Chân Giáo. Sự thật Toàn chân giáo cùng với phái Cổ Mộ đời trước có thâm giao với nhau, nhưng từ khi Hách đại Thông lỡ tay giết chết Tôn Bà, nên Toàn Chân chư tử rất lo sự, vì nghĩ thế nào đi nữa, một ngày kia Lý mạc Thu, Tiểu long Nữ và Dương Qua sẽ tới Chung Nam Sơn để báo thù. Nhưng riêng một mình Lý mạc Thu đã đánh Toàn Chân giáo phái thảm bại mấy phen rồi, mà lại còn thêm Tiểu Long Nữ và Dương Qua nữa thì họ lo sợ đến mức nào? Nhưng còn việc hiềm khích giữa Lý mạc Thu và Tiểu long Nữ, thì họ không biết. Trong phái Toàn Chân chư tử, nay chỉ còn lại có năm người, nhưng tuổi đã cao, tinh lực đã suy nhược, còn đám đệ tử đời thứ ba và đời thứ tư đều không có một nhân tài nào xuất sắc. Nếu đến lúc phái Cổ Mộ tới trả thù, mà Toàn Chân chư tử còn sống thì còn có thể chống đỡ được. Nhưng Tiểu long Nữ đợi tới mười năm sau nữa mới đến, thì khi ấy một phái học chính tông như Toàn Chân ắt phải thảm bại. Bởi thế nên năm người lớn tuổi của phái Toàn Chân mới quyết định "bế quan" tu tỉnh, để nghiên cứu tìm hiểu một môn võ học tuyệt diệu nhất thiên hạ, phòng khi đối kháng với phải Cổ Mộ và cũng vì thế mới cấp tốc triệu Doãn chí Bình về núi để lên ngôi trường giáo.
Bọn Doãn chí Bình ngày đi đêm nghỉ, thẳng về phía Tây Bắc, Tiểu long Nữ cũng lẽo đẽo theo sau. Hôm nay vừa đi vào ranh giới tỉnh Thiểm Tây.
Kỳ chí Thành bèn hỏi:
- Doãn sư bá, khi chúng ta về Trùng dương Cung, có lẽ Long cô nương một mình không dám mạo hiểm theo nữa?
Doãn chí Bình chỉ "ừ" một tiếng cho qua chuyện, nhưng lòng vẫn đoán mãi không ra dụng ý của nàng. Doãn chí Bình phập phồng tự hỏi:
- Có phải nàng định tìm đến năm vị sư tổ để vạch trần tội ác của mình chăng? Hay là nàng mang kiếm đến phái Toàn Chân giáo, để hả lòng căm tức? Hoặc giả, nàng chỉ muốn trở về Cổ Mộ mà ngẫu nhiên cùng đi một đường với mình?
Nhưng không lẽ nàng thương hại mình, nên cứ lẽo đẽo theo mãi chăng. Suy nghĩ đến câu cuối cùng, bất giác hắn thở dài thườn thượt, nên tự biết đó là mộng ảo mà thôi! Không đời nào có việc nàng thương hại hắn được.
Đi thêm mấy hôm nữa đã tới chân núi Chung Nam. Lý chí Thành thò tay vào túi, lấy ra một mũi tên dùng sức vứt mạnh một cái, mũi tên bay thẳng lên không.
Một hồi sau, thì thấy có bốn tên đạo sĩ áo vàng từ trên núi chạy nhanh xuống, nghiêng mình chào Doãn chí Bình, và nói:
- Xin chào Thanh Hòa chân nhân đã về. ậ đây ai nấy đều có lòng mong đợi.
Doãn chí Bình đạo hiệu là "Thanh Hòa" nhưng chỉ có những đệ tử của chàng mới xưng hô như thế để tò vẻ tôn kính, còn những người khác đều gọi bằng tên. Bốn đạo sĩ này là đệ tử thứ ba của Toàn Chân giáo, xưa nay họ vẫn xưng hô với nhau bằng huynh đệ, nhưng đột nhiên bây giờ bốn người đổi cách xưng hô với Doãn chí Bình.
Doãn chí Bình cảm thấy hơi lạ, nhưng lập tức xuống ngựa trả lễ và hỏi:
- Xin đa tạ bốn sư huynh quá nhọc lòng, các sư huynh xưng hô như thế, tiểu đệ đâu có dám nhận?
Người đạo sĩ tuổi cao nhất, nói:
- Đó là pháp chỉ của Ngũ vị sư thúc bảo: Đợi lúc Thanh Hòa chân nhân về lập tức tôn lên ngôi chủ giáo, còn đại lễ bàn giao, phải đợi đến ngày sư thúc khai quan sẽ cử hành.
Doãn chí Bình hỏi:
- Năm vị sư trưởng đã bế quan rồi sao?
Đạo sĩ ấy tiếp:
- Đã hơn hai mươi hôm rồi.
Trong lúc hai người đang nói chuyện, thì nghe trên núi tiếng nhạc thổi vang lên. Mười sáu tên đạo sĩ thổi kèn đánh trống, đã sắp hàng ở bên lề đường nghinh đón. Lại có thêm mười sáu tên đạo sĩ khác tay cầm kiếm gỗ cũng đứng nghiêm chỉnh sắp hàng theo lề đường. Khi Doãn chí Bình đi tới, hai hàng đao sĩ đều nghiêng mình làm lễ, tiền hô hậu ủng đi thẳng lên núi.
Còn Triệu chí Kính thì bị lãnh đạm bỏ rơi một bên, nên hắn vừa giận dữ, vừa thẹn thùng thầm nhủ:
- Để khi ngôi trưởng giáo rơi vào tay ta, xem bộ mặt lũ bay ra thế nào?
Trời vừa xế bóng, đoàn ngnời đã về tới cửa Trùng dương Cung. Trong cung hơn năm trăm người, từ trên đại điện sắp hàng dài xuống tới sơn môn. Một hồi chuông đồng vang lên tiếng "Boong... Boong" hòa trong tiếng trống kêu "thì thùng", mấy trăm tên đạo sĩ chỉnh tề thi lễ một lượt. Trước quang cảnh trang nghiêm, long trọng nầy, lúc đầu Doãn Chí Bình qúa đỗi lúng túng, nhưng trong chốc lát tinh thần hắn tỉnh táo trước sự ủng hộ của mười sáu tên đại đệ tử. Doãn Chí Bình bước tới nhị điện khấu đầu cung bái di ảnh của Vương Trùng Dương sư tổ. Cung bái xong, Chí Bình sang tam điện quỳ lạy bảy chiếc ghế không, mà Toàn Chân thất tử thường ngôi, sau đó mới trở về chính điện.
Nhị đệ tử của Khưu xứ Cớ là Lý chí Thường đọc pháp chỉ của Trương giáo sư tổ, phú cho Doãn Chí Bình tiếp nhiệm trưởng giáo. Doãn Chí Bình quỳ xuống cung kính nghe huấn tử lòng mừng rỡ lẫn hổ thẹn. Thoáng mắt, nhìn thấy Triệu Chí Kính dâng một bên, với vẻ mặt khinh khỉnh, Chí Bình bất chợt giật nẩy người. Doãn Chí Bình nghe lời di chúc xong, toan đứng dậy đáp từ vài lời khiêm nhượng với anh em. Bỗng thấy đạo sĩ ngoài hối hả bước vào, lớn tiếng bảo:
- Bẩm trưởng giáo chân nhân, có khách tới.
Doãn Chí Bình giật mình đánh thót một cái, đinh ninh là Tiểu Long Nữ đã dám đương nhiên vào viếng, nhưng không biết làm cách nào từ khước được, đành phải bình tĩnh nói:
- Cứ mời vào.
Đạo sĩ đứng dậy cúi đầu trở ra. Trong chốc lát hắn đã dẫn hai người khách lạ trở vào. Các đạo hữu vừa thấy mặt đều lộ vẻ kinh ngạc. Doãn Chí Bình lại càng lo ngại hơn.
Té ra hai người mới vào ấy là một viên quan chức Mông Cổ và Tiêu tương Tử. Viên quí quan Mông Cổ lớn tiếng nói:
- Thánh chỉ của Hoàng đế tới, sắc phong cho chưởng giáo phái Toàn Chân.
Nói rồi, đường đột bước vào đứng giữa đại điện, thò tay vào túi lấy ra một cuộn lụa màu vàng tháo ra, dõng dạc nói:
- Từ phong trưởng giáo Toàn phần làm "Đặc thụ thần tiên dẫn đạo đại tôn sư. Huyền môn chưởng giáo, chương quản như lộ đạo giáo".
Đến đây tên quan Mông Cổ thấy không ai quỳ xuống nghe thánh chỉ, bèn lớn tiếng nói:
- Xin mời trưởng giáo chân nhân tiếp chỉ.
Doãn Chí Bình bước tới cúi đầu thi lễ nói:
- Trưởng giáo Khưu chân nhân đang tọa quan, nay do tiểu đạo tiếp nhiệm trưởng giáo, nên sắc phong của vua Mông Cổ, tiểu đạo không dám
nhận.
Viên quan Mông Cổ cười bảo:
- Hoàng đế đã phán rằng: Khưu chân nhân là người được thái tổ hằng sở mộ. Nhưng vẫn biết Khưu chân nhân tuổi đời đã cao, chẳng biết tồn tại thế không. Sắc phong này tuy ban cho Khưu chân nhân, nhưng nếu Khưu Chân nhân không tại thế, thì người tiếp nhiệm trưởng giáo Toàn Chân hiện tại nhận sắc phong nầy.
Doãn Chí Bình nói:
- Tiểu đạo vô đức vô tài, thật không dám nhận.
Quý quan ấy cười ha hả nói:
- Ngươi đừng có khách sáo nữa, mau lãnh chỉ đi.
Doãn Chí Bình lễ phép nói:
- Xin đại nhân sang hậu điện dùng trà, để tiểu đệ trình sư đệ sư huynh thương nghị một hồi đã.
Quý quan ấy có vẻ không vui, cuốn thánh chỉ lại đáp:
- Thôi cũng được? Ta không biết còn phải thương lượng cái gì nữa?
Bốn tên đạo sĩ nhận chức tiếp tân lẹ làng đưa viên quý quan và Tiêu tương Tử sang hậu điện dùng trà.
Doãn Chí Bình mời cả mười sáu vị đại đệ tử sang một viên khác. Khi mọi người an tọa hết rồi, mới ân cần nói:
- Ta nhận thấy việc này quá trọng đại, nên không đám tự quyền phải hội riêng để nhờ cao kiến của các sư huynh.
Triệu Chí Kính vội nói trước:
- Chúng ta đã được vua Mông Cổ mỹ ý như vậy lẽ là nên lãnh chĩ, như thế càng tỏ phái ta ngày một thịnh vượng, cho đến cả vua Mông Cổ còn không dám khinh khi.
Nói xong Chí Kính với vẻ hiu hiu tự đắc, cười giòn. Kỳ Chí Thành lắc đầu, nói:
- Không được! Không được! Quân Mông Cổ đã xâm nhập đất đai ta, tàn sát biết bao nhiêu dân lành của nước ta, thì nay ta đâu có nhận sắc phong đó?
Triệu chí Kính liền cãi:
- Năm xưa Khưu sư bá đã nhận được chiếu thư của Thái tổ Thành Cát Tư Hãn là lo lặn lội muôn dặm xa xôi tìm đến Tây Vực, chính Doãn chưởng giáo và Lý sư huynh đều có đi nên đã có lệnh ấy thì hay sao lại không nhận sắc phong của vua Mông Cổ?
Lý chí Thành nói:
- Lúc ấy quân Mông Cổ chỉ có đánh giặc Kim, chớ chưa xâm chiếm đến lãnh thổ nước ta. Còn hôm nay thì tình thế đã khác hản rồi, đâu có thể nói là "lệ" được?
Triệu chí Kính nói:
- Chung nam Sơn này là dưới sự cai quản của quân Mông Cổ, nếu ta cự tuyệt không nhận sắc phong, thì sợ cho Toàn Chân giáo ta khó tránh khỏi đại họa nhãn tiền?
Lý chí Thường nói:
- Triệu sư huynh nói như thế tôi thấy chưa đúng!
Triệu Chí Kính lớn tiếng hỏi lại:
- Sai ở chỗ nào? Xin mời Lý sư huynh chỉ dạy cho!
Lý chí Thường ôn tồn nói:
- Tôi không dám nghĩ đến hai tiếng "chỉ dạy" nhưng dám xin hỏi Triệu sư huynh thế này: sư tổ của chúng ta Trùng Dương chân nhân là người thế nào? Và các vị sư trưởng của chúng ta là người thế nào?
Triệu chí Kính hoảng sợ nói:
- Sư tổ và các vị sư trưởng chúng ta đều là bậc hồng đạo hộ pháp, là những cao thủ trong tam thanh giáo của thời trước đây.
Lý Chí Thường nói tiếp:
- Tiền bối chúng ta là những bậc đại trượng phu lấp bể vá trời, có lòng ái quốc thương dân. Mỗi người trong giáo phái chúng ta đều từng vào sinh ra tử, từng quyết chiến với bọn giặc Kim.
Triệu Chí Kính tái mặt, gật đầu nói:
- Đúng vậy? Trùng Dương chân nhân và Toàn Chân thất tử đã danh chấn giang hồ, tất cả giới võ lâm ai chả khâm phục và ngưỡng mộ hết lòng.
Lý Chí Thường nói:
- Nghĩ lại những bậc tiền bối của chúng ta, ai ai cũng không biết sợ cường quyền, chỉ lo lập chí cứu dân trong khi khổ nạn. Nghĩ như thế, dù ngày nay Toàn Chân giáo có phải lâm vào đại họa nhãn tiền, thì chúng ta cũng không có gì kinh sợ! Thà đầu có thể rơi còn hơn, chứ không chịu để nhục!
Những câu nói này đã được đưa ra bằng một giọng uy nghi lẫm liệt, làm cho Doãn Chí Bình cùng mười mấy vị đại đệ tử đều xúc động.
Triệu chí Kính cười nhạt nói:
- Chỉ có Lý sư huynh là người không sợ chết thôi, còn những người khác đều có ý ham sống thì sao? Còn như sư tổ chúng ta đã sáng nghiệp Giang Nam Toàn Chân giáo mới được quy mô to lớn như ngày nay, thì sư tổ và bảy vị sư trưởng đều phải tốn biết bao nhiêu tâm huyết? Nếu chúng ta xử trí không khéo thì Toàn Chân giáo nầy bị tiêu diệt, như thế chúng ta còn mặt mũi nào để thấy mặt sư tổ và sư trưởng ở thế giới bên kia? Rồi đến lúc năm vị sư trưởng khai quang hỏi đến, chúng ta còn đâu mà trả lời?
Những câu hỏi vừa nói rồi, lập tức có mấy tên đạo sĩ hùa nhau tán thành, Triệu Chí Kính được dịp nói tiếp:
- Hơn nữa, giặc Kim là tư thù của sư tổ chúng ta, mà Mông Cổ diệt Kim quốc, tức là đã trả thù hộ cho tổ quốc chúng ta. Và vì giặc Kim, nên sư tổ chúng ta phải tức tối mà chết trong cổ mộ thì hôm nay sư tổ ở dưới suối vàng, thấy giặc Kim này đã tiêu tan, không biết sẽ vui mừng đến mức nào!
Một tên đệ tử của Khưu xứ Cơ là Vương chí Thản, nghiêm chỉnh nói:
- Bởi vì, sau diệt Kim, Mông Cổ có lập bang giao với Đại Tống chúng ta, lẽ tất nhiên đôi bên phải tôn trọng theo lời bang giao. Nhưng ngày nay Mông Cổ đã cho đại quân sang chà đạp giang san Đại Tống mà chúng ta đều là thần dân của Đại Tống, thì ta đâu có được nhận sắc phong của nước địch?
Vương chí Thản quay lại nói với Doãn Chí Bình:
- Xin chưởng giáo sư huynh không nên nhận sắc phong của vua Mông Cổ nếu sư huynh nhận sắc phong của chúng thì sư huynh là kẻ Hán gian, đồng thời là một người tội phạm của bổn phái, có tội với lịch sử. Vương chí Thản này dù có nát thây trăm mảnh, cũng không để sư huynh yên đâu.
Triệu Chí Kính thản nhiên đứng dậy, đập bàn, quát to:
- Vương sư đệ toan dùng võ lực sao? Như thế là cả gan vô lễ với chưởng giáo như vậy?
Vương Chí Thản lớn tiếng cãi lại:
- Chúng ta chỉ cần bàn cãi để nhận ra lẽ phải, nhưng nếu muốn dùng võ thì tôi đâu sợ ai?
Đôi bên lời qua tiếng lại, đều không nhìn nhau, khí thế hung hãn gần như muốn ra tay. Liền đó có một vị đạo nhân râu tóc bạc phơ đứng lên can:
- Các vị sư đệ! Lúc có việc quan hệ cần phải bình tĩnh mà giãi bày, chứ sao lại gây gỗ nhau như vậy?
Đạo sĩ già ấy lại nói tiếp:
- Theo ý tôi, nhận thấy như ngươi xuất gia lấy lòng từ bi ở đời, nếu cứu được một mạng người, tức là trợ được đức hiếu sinh của trời. Nếu như thế chúng ta chịu nhận sắc phong của vua Mông Cổ, thì có thế tận lực khuyên can quân thần Mông Cổ đừng có giết hại dân lành nữa.
Như ngày xưa, Khưu sư thúc cũng đã nhờ vậy mà cứu được nhiều tánh mạng của muôn dân đó sao?
Lập tức có mấy tên đạo sĩ ủng hộ ý kiến đó:
- Đúng vậy! Đúng vậy!
Một vị đạo sĩ nhỏ người đứng lên lắc đầu, mạnh dạn nói:
- Tình thế ngày nay chúng ta không thể so với năm xưa được. Chính tiểu dệ đã theo thầy Tây du, đã tận mắt thấy cảnh giết chóc tàn bạo của quân Mông Cổ. Nếu nay chúng ta nhận sắc phong tức là đã giúp địch thêm phần tàn bạo, may ra có thể cứu được vài mươi mạng sống, nhưng trái lại gây sức mạnh cho quân Mông Cổ thì biết bao nhiêu dân lành cúa nước ta suốt đời phải chịu nát thây dưới gót của chúng!
Đạo sĩ nhỏ người nầy tên Thống đức Phương là một trong mười chín đệ từng theo Khưu xứ Cơ đi Tây du hồi năm xưa.
Triệu Chí Kính cười nhạt hỏi:
- Anh đã gặp Thành cát Tư Hãn thì thấy thế nào? Nhưng bây giờ tôi đã gặp Hoàng đế của vua Mông Cổ là Hốt tất Liệt rồi. Vì Hoàng gia này đã chiêu hiền đạo sĩ, khoáng độc đại lượng, đâu có chút gì là tàn bạo?
Vương Chí Thản la lớn:
- Hay quá! Té ra anh đã phụng mạng của Hốt tất Liệt, nên trở lại làm Hán gian hử?
Triệu chí Kính quá giận, hét lên:
- Anh nói cái gì?
Vương chí Thản nói tiếp:
- Ai nói tốt cho quân Mông Cổ tức là Hán gian!
Triệu chí Kính dứng phắt dậy "vụt" một chưởng tay phải giáng mạnh xuống đầu Vương Chí Thản. Nhưng đúng lúc ấy, bên hông trái Chí Thản có hai cánh tay đưa lên, gạt mạnh tay hắn ra. Triệu Chí Kính nổi trận lôi đình quát lớn:
- Hay lắm! Đệ tử của Khưu sư bá đã ỷ đông cậy thế hiếp cô phải không?
Trong cuộc họp liền trở nên một trận đấu ác liệt giữa Triệu chí Kính và Vương Chí Thản.
Doãn Chí Bình thấy thế, liền vỗ tay, kêu lên:
- Các vị sư huynh hãy yên tọa, để nghe tiểu đệ nói một lời.
Doãn Chí Bình nghiêm nghị nói:
- Chưởng giáo của Toàn Chân xưa nay có quyền oai lực, nên tôi yêu cầu các huynh phải ngồi yên.
Triệu Chí Kính liền nói tiếp:
- Phải rồi, chúng ta hãy nghe lời phán của chưởng giáo. Chưởng giáo nói thụ phong là thụ phong. Còn vua Mông Cổ có thụ phong là phong cho chưởng giáo, chớ đâu phải phong cho tôi với anh mà gây nhau làm gì?
Thâm tâm của Triệu Chí Kính cho là Doãn Chí Bình vì yếu thế nên phải sợ Vương Chí Thản, nên cố ý tìm cách mua lòng. Còn Lý chí Thường và Vương chí Thản, xưa nay đã biết Doãn Chí Bình tánh tình trung nghĩa, nên ngồi chờ lời giải quyết không dám tranh cãi nữa.
Mọi người đều chăm chú chờ lời phán quyết của chưởng giáo mới.
Doãn Chí Bình thong thả nói:
- Tiểu đệ vô đức vô tài lại nhận trọng trách chưởng môn, không ngờ mới ngày thứ nhất lại gặp phải việc lớn nan giải thế này.
Nói xong, hắn ngẩng đầu lên. ánh mắt sáng quắc của mười sáu vị đại đệ tử đều chiếu thẳng vào Doãn Chí Bình, trong bầu không khí im lặng bao trùm cả gian phòng họp. Một hồi lâu, Doãn Chí Bình mới nghiêm nghị nói:
- Toàn Chân giáo từ ngày được Vương sư sáng lập truyền đến đời Mã chân nhân, Khưu chân nhân đã bành trướng hùng cường, ngày nay tiểu đệ thừa kế ngôi giáo chủ, không thể phụ bạc lòng tin cậy của các vị tiền bối! Như vậy mà đại quân Mông Cổ Nam tiến công thành Tương Dương xâm chiếm đất đai, giết chóc dân lành chúng ta, ví dụ như các vị giáo chủ tiền bối còn sống ở đây, họ có chịu nhận sắc phong của Mông Cổ chúng?
-
Chương 65 - Độc Thân Làm Náo Cả Trùng Dương Cung - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 65 - Độc Thân Làm Náo Cả Trùng Dương Cung
Triệu Chí Kính thấy tình thế quá nguy, vội rút thanh trường kiếm ra phòng thủ, rồi cất bước định trốn đi. Tiểu Long Nữ liền lướt tới, song kiếm xông ra, chỉ nghe một tiếng "keng" Doãn Khắc Tây nói:
- Mi vô dụng, hãy lui ra.
Doãn Khắc Tây liền vung cây roi vàng gạt phăng cây kiếm của Tiểu Long Nữ. Nàng vừa liên tiếp đả thương mấy mươi tên, mãi cho đến bây giờ mới có một kẻ đỡ nổi song kiếm của nàng.
Tiểu Long Nữ nói:
- Hôm nay ta đến đây để trả thù bọn đạo sĩ Toàn Chân giáo không can hại gì đến ai, mi hãy dang ra.
Doãn Khắc Tây thấy kiếm pháp lợi hai của nàng khi nãy, tuy xưa nay vẫn có ánh ngạo nghễ, nhưng lúc nầy trong lòng nhiều phần lo sợ. Dù sao hắn vẫn là bọn cao thủ, không lẽ chỉ một lời của nàng mà tháo lui, nên vẫn cười hì hì lễ phép nói:
- Toàn Chân giáo phái trong ấy cũng có người tốt kẻ xấu, nhiều tên thật là đáng tội giết, nhưng không biết những kẻ khốn ấy làm gì đến cô nương?
Tiểu Long Nữ chỉ ừ một tiếng, rồi không ngó ngàng tới hắn nữa. Doãn Khắc Tây muốn làm thân với nàng trước, hòng sau khi đụng võ dù có thua, nàng cũng không đến nỗi hạ độc thủ. Nếu khi hắn thấy nguy có thể nhường nàng trước, người ngoài xem thấy sự quen biết khỏi chê hắn là kẻ nhát gan. Doãn Khắc Tây cười mơn trớn nói:
- Long cô nương, cách biệt lâu ngày cô cũng mạnh khoẻ chứ?
Tiểu Long Nữ lại cũng "ừ " một tiếng, nhưng đôi mắt vẫn đăm đăm nhìn Doãn chí Bình và Triệu chí Kính, như sợ bọn hắn trốn đi vậy.
Doãn Khắc Tây nói:
- Ăn thua chi với bọn đệ tử này cho bẩn tay? cô nương! Cô chỉ cần sai bảo một tiếng, thì chúng tôi sẽ trị giúp cô nương.
Tiểu Long Nữ gật đầu, trỏ tay vào Triệu Chí Kính nói:
- Tốt lắm! Vậy tôi nhờ ông giết tên nầy trước.
Doãn Khắc Tây ngạc nhiên nghĩ thầm:
- Người nầy đã được sắc phong của vua Mông Cổ, đâu có thể giết được?
Doãn Khắc Tây nhỏ nhẹ nói:
- Vị Triệu chân nhân này rất tốt, chắc cô nương đã hiểu lầm hắn. Thôi để tôi bảo hắn xin lỗi cô nương được rồi.
Tiểu Long Nữ cau đôi mày, không thèm nói gì nữa, nhưng lưỡi kiếm bên trái nàng bỗng nhiên vung ra lẹ như chớp, đâm thắng về phía Doãn Khắc Tây. Doãn Khắc Tây thất kinh vội vung roi ra gạt phăng. Chỉ nghe "ôi" một tiếng, người đứng sau lưng hắn là Triệu Chí Kính trên vai đã bị trúng mũi kiếm tay mặt nàng. Dù tài cao như bọn Tiêu Tương Tử, cũng không thể thấy rõ đường kiếm của Tiểu Long Nữ đã đâm ra bằng cách nào mà huyền diệu tới mức tuyệt luân như vậy, chỉ đoán được thế ấy. Thực ra đâm bằng tay mặt, vòng qua mình Doãn Khắc Tây rồi đâm trúng sau lưng kẻ địch sau Khắc Tây. Doãn Khắc Tây thất kinh, dù nhát kiếm nầy không đâm trúng vào mình hắn, nhưng hắn không đủ tài hộ vệ cho Triệu Chí Kính cũng đủ mất mặt rồi. Chỉ vì đối phương ra tay quá lẹ, hắn không thể thấy rõ mũi kiếm đi như thế nào, nên hắn thầm lo:
- Nếu ta đương đầu đối địch với nàng thì chắc thua nàng rồi.
Nghĩ đến đây lòng hắn kinh sợ, vội vung con roi "Kim Long" ra, thét lên:
- Long cô nương hãy nới tay!
Tiểu Long Nữ làm thinh, vì đối với người nầy nàng cũng không có ác ý gì. Nàng liền bước nhẹ sang phía trái hai bước. Doãn Khắc Tây cũng xoay mình theo, cố bảo vệ cho Triệu Chí Kính. Bỗng sau lưng "ái" một tiếng, hắn vội quay đầu ra thì thấy trên vai Triệu Chí Kính bị lát ra một mảnh thịt, máu tươi lai láng thấm cả áo bào. Nhát kiểm này, Tiểu Long Nữ làm cách nào chém ra, người ngoài đều không thấy rõ. Chỉ biết kiếm pháp tinh vi thần tốc biến hóa vô hình. Triệu Chí Kính liên tiếp bị chém hai nhát, cho rằng Doãn Khắc Tây võ công tầm thường, không thể che chở cho hắn được, liền thừa thế lui ra, nhẩy tới sau lưng Tiêu Tương Tử. Tiểu Long Nữ giả lơ làm như không thấy gì cả lặng lẽ xoay mình qua nhìn Doãn Chí Bình, nhưng tay trái nàng lại đtâm một nhát vào Doãn Khắc Tây, tay mặt một kiếm đâm thẳng vào ngực Ni Ma Tinh. Ni Ma Tinh tay trái chống gậy, tay mặt vung thiết xà ra đỡ, nhưng lại nghe Triệu Chí Kính thét lên một tiếng, kế theo nghe keng một tiếng chát chúa, thanh trường kiếm của hắn đã rơi xuống đất, thì ra cánh tay của hắn cũng bị thêm một nhát nữa! Thế này thật là kỳ lạ. Rõ ràng Tiểu Long Nữ đứng cách hắn rất xa, mà trong lúc tấn công hai cao thủ, lại còn có thì giờ nào để chém hắn? Tiêu Tương Tử "hừ" một tiếng liền nói:
- Long cô nương kiếm pháp thật tài tình, tôi xin cô chỉ giáo vài đường mới được.
Tay trái Tiêu Tương Tử liền vung mạnh cây côn trượng ra. Triệu Chí Kính lại cảm thấy một luồng khí mãnh liệt đập vào ngực, bị ngã xỉu xuống đất. Hắn thất kinh cố vận hết nội công lom khom đứng dậy. Tiêu Tương Tử bị sức cản của thanh kiếm Tiểu Long Nữ quá mạnh, vội thu côn trượng lại thủ thế. Mã Quang Tổ vốn đã quen thân với Dương Qua và Tiểu Long Nữ, thấy tình cảnh quá gai mắt, liền lớn tiếng kêu lên:
- Ê! Thật hổ ngươi quá huynh ơi! Ba vị võ lâm đại tôn sư, ai lại vây đánh một cô bé?
Bọn Tiêu Tương Tử nghe lời châm biếm, bất giác vẻ mặt đều đỏ bửng lên, đối với nhân nghĩa đạo đức xưa nay họ không cần biết đến, nhưng họ đều là những kẻ tự phụ, lại trọng danh dự cá nhân. Nếu ở vào lúc thường, đừng nói đến ba người phải hiệp tay, dù là đơn độc chiến đấu, họ cũng không muốn đấu với một cô gái bé bỏng như vậy. Nhưng bây giờ họ thừa biết rõ võ công của một người không thể thắng được thế kiếm bí truyền của Tiểu Long Nữ, do đó, lời nhạo báng của Mã Quang Tổ họ đều làm ngơ như không nghe, nhưng trong lòng đều thầm trách:
- Thằng Mã khổng lồ này, chúng ta đã cùng đi làm việc chung mà mi lại muốn giúp cứu địch, để khi trở về mi sẽ biết.
Họ còn e hẹn, thì trước mặt ánh thép đã loáng qua, Tiểu Long Nữ liền chém ra ba thế. Ba người vẫn chưa nhận định được đường kiếm của nàng, lập tức nhẩy lui ra hơn một trượng, ai nấy đều múa động binh khí, canh giữ những yếu huyệt trên mình.
Lũ võ sĩ Mông Cổ lo lôi bọn Doãn Chí Bình đến một góc đại diện, rồi kinh ngạc đứng nhìn trận đấu này. Tất cả đều lè lưỡi lắc đầu.
Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh, Doãn Khắc Tây đều biết trận đấu hôm nay không thể thử nội công, cũng không phải đua nghệ thuật, mà chỉ làm sao chống đỡ được đường kiếm thần diệu của Tiểu Long Nữ mà thôi. Trong lòng ba người đều mong Tiểu Long Nữ ra tay đánh người khác để cầu chút sơ hở, hòng thừa dịp thủ thắng. Lúc nầy ba người đều dùng những tuyệt kỹ bình sinh của họ để bảo vệ khắp châu thân, vì họ không thể thấy được đường kiếm ác liệt của nàng.
Nếu lấy địa vị của ba người cao thủ mà nói, họ vừa ra tay giao đấu là phải lo giữ liền thế thủ, thật là một việc mới có trong đời họ. Nhưng nhờ đó chúng ta mới thấy rõ võ nghệ của Tiểu Long Nữ đã đến một mức cao siêu nào!
Trên đại điện, Tiểu Long Nữ dùng song kiếm chống đất, đứng giữa trung tâm, còn bọn Tiêu TươngTử đều chia đứng ba hướng, trước mặt mọi người chỉ thấy những ánh sáng lập lòe. Roi "Kim Long" của Doãn Khắc Tây múa thành một bức vách vàng, thiết xà của Ni Ma Tinh biến thành một đoàn rắn đen lòm khòm trên đầu không ngớt lượn quanh, còn thiết côn của Tiêu Tương Tử thì dệt thành một tấm màu xám tro che kín trước mặt.
Lũ võ sĩ Mông Cổ và đạo sĩ Toàn Chân, chưa bao giờ thấy trận ác chiến nào như vậy, ai nấy đều kinh sợ đến không dám thở mạnh, nhưng họ vẫn thầm thán phục:
- Nơi nào phát sinh ra một người con gái nhỏ đẹp như thế, mà lại có một tài nghệ thâm hậu như vậy? Chỉ một thân mình liễu yếu, với lớp tuổi chừng hai mươi lại dám đường đột chống lại hàng trăm binh sĩ, cùng hàng chục tay võ lâm cao thủ, nhưng vẫn thắng!
Tiểu Long Nữ nhìn ba người một chặp, thầm nghĩ:
- Ba người nầy không có thù oán gì với mình, nếu đấu với họ thì thật uổng công quá.
Mắt nàng thoáng thấy Triệu chí Kính lén rút lui đến sau tượng Tam Thanh, nàng lập tức phất tay áo bước tới. Ni Ma Tinh, Tiêu Tương Tử đứng hai bên liền lướt tới, vung thiết xà, thiết côn cản trước mặt nàng. Hai người cố sức hiệp tay để bảo vệ Triệu chí Kính. Tiểu Long Nữ liền chạy tới sau viện, vung song kiếm bước tới hai bước nữa, nhưng gặp binh
khí của Ni Ma Tinh và Tiêu Tương Tử múa ra vun vút, không thể vượt qua được. Tiểu Long Nữ hỏi:
- Các người có dang ra không?
Tiêu Tương Tử tự nghĩ:
- Bây giờ mình chưa gây hận thù thì nàng đâu có ra độc thủ. Còn Toàn Chân giáo này đâu có ích lợi gì cho mình, mà phải nhọc lòng bảo vệ để lại gây thù hận với nàng?
Tiêu Tương Tử lưỡng lự chưa đáp lời thì Ma Ni Tinh đã lớn tiếng:
- Chúng tôi không dang ra, yêu nữ có tài gì cứ giở hết ra đi!
Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây đều liếc mắt nhìn hắn, thầm nghĩ:
- Dù không những nàng, thì cũng không nên bất ý như vậy. Không lẽ một mình, mi đã có thể chống cự nổi với cô ta? Thật là dốt...
Họ đâu có biết Ni Ma Tinh đã mất đôi chân là do Dương Qua và Lý Mạc Thu. Hắn biết Dương Qua là người yêu của Tiểu Long Nữ, nên tất cả nỗi căm hờn trong lòng đều muốn trút sạch cho nàng. Do đó, bây giờ đấu nhau tâm trạng hắn khác hẳn với hai người kia, là hắn chỉ một lòng liều sinh tử vì Tiểu Long Nữ để báo thâm thù.
Tiểu Long Nữ vẫn bình tĩnh, chứ không tỏ vẻ giận hắn, nghĩ thầm:
- Mình muốn giết được Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình trong lúc này là cần phải đánh bại cao thủ này trước đã.
Nghĩ như thế nàng điềm đạm nói:
- Nếu các ngươi không dang ra, thì đừng có trách ta vô lễ.
Vừa dứt lời thì mấy trăm ngàn ánh thép loáng qua. Bỗng nghe một âm điệu du dương bất tuyệt. Tiếng vang chưa dứt, Tiểu Long Nữ đã nhảy lùi lại hơn một trượng đứng giữ trung tâm đại điện. Còn Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh trên nét mặt đều kinh hoàng thất sắc. Doãn Khắc Tây tuy không dự vào cuộc ác chiến lạ thường này, nhưng cũng cố sức đề phòng đường kiếm bất ngờ của nàng đánh Đông mà trúng Tây. Nhưng thực ra hồi vang dài vừa rồi, là do bốn mươi mấy vị bị sức cản liên tục tạo nên, vì hai lưỡi kiếm của Tiểu Long Nữ vừa chém gạt, đâm tất cả dùng đến bốn mươi mấy phép trong nháy mắt, nên Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh phải cố thủ thế, nước tạt vào cũng không lọt được, thành thử mỗi thế của nàng đều va chạm vào binh khí của đối phương. Thế công của nàng quá mau lẹ, nên bọn Tiêu Tương Tử đều khiếp sợ và có thể đỡ gạt được hai thế kiếm ấy là nhờ có hai người hiệp sức, mới múa động binh khí thành một bức tường đồng, vách sắt trước, chứ mà đợi đến lúc nàng ra tay mới đưa binh khí ra đỡ thì trên mình bọn Tiêu Tương Tử chắc bị thọ thương rồi.
Tiểu Long Nữ không hạ được đối phương thì cũng thầm khen tài nghệ của họ. Nàng ngập ngừng một lúc, rồi bước nhẹ chân lùi lại phía sau. Mặt nàng hướng về phía Tiêu Tương Tử, song kiếm đột nhiên chém ngược lên, liền nghe vang lên hai tiếng "leng keng" rất gấp. Cây roi "Kim Long" của Doãn Khắc Tây, phải luôn luôn múa tít không ngừng, mới đỡ được mười hai đường kiếm lạ thường ấy.
Sau hai lần công thủ như vậy trong lòng bốn người đã đoán biết được thực lực nhau. Tiểu Long Nữ yếu ở chỗ là nội lực không được thâm hậu, nên thế kiếm lợi hại mà không thể làm dội binh khí của đối phương được. Nếu nội lực của nàng tương đương với ba người nầy, thì họ thảm bại lâu rồi. Tiểu Long Nữ thấy địch thủ xuất thế quá cẩn thận, nên trở lại đại điện, tìm thế công phá. Nàng thấy đối thủ múa binh khí càng lúc càng nhanh, không tìm được một điểm sơ hở nào, thầm nghĩ:
- Múa nhanh như vậy, ắt bao nhiêu nội lực, họ sẽ không chịu lâu được. Mình cứ bình tĩnh để ứng biến, thời gian lâu, thế nào cũng tìm được chỗ sơ hở.
Nghĩ như vậy, nàng đưa song kiếm lên múa, nửa công nừa thủ, hai tay chỉ tựu khí lập thế, nhưng đường ánh sáng đôi gươm liên tục, làm cho đối phương không thể suy nghĩ được, phải luôn luôn lo lắng đề phòng. Nhưng không ngờ bọn Tiêu Tương Tử đều là những tay nội lực thâm hậu, dù múa động binh khí mãi như vậy, trong hai ba tiếng đồng hồ cũng không mệt mỏi. Tiểu Long Nữ thấy không có cơ hội, bèn đứng lặng im lại, tâm thần rất thản nhiên. Tính nàng vốn không nóng nảy, nên đuổi theo Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính gần một tháng trời, nhưng vẫn không vội ra tay, thì bây giờ đâu có bôn ba gì trong một ngày nửa buổi này?
Ni Ma Tinh thấy nàng chống kiếm đứng rất tự nhiên, như coi bọn hắn không ra gì, thì cơn giận nổi lên như điên thét lên một tiếng, thiết xà vung ra đâm thẳng vào mình Tiểu Long Nữ. Hắn vừa ra tay tấn công như vậy, bên tay trái đã để một chỗ hở. Tiểu Long Nữ thừa cơ vung ra một kiếm, tức thì cây xà côn của Ni Ma Tinh đã chúc mũi xuống đất. Hắn đưa mắt nhìn sang, thì thấy bên vai trái đã bị lủng năm lỗ, máu tươi đang tua tủa vọt ra. Lạ hơn nữa, là năm lỗ nầy sắp thành thế "mai hoa". Nếu Tiểu Long Nữ không bận đề phòng thiết côn của Tiêu Tương Tử và cây roi "Kim Long" của Doãn Khắc Tây, thì cánh tay của Ni Ma Tinh đã rời khỏi vai rồi. Chỉ một tiếng phản công, đã không được gì mà phải gánh lấy vết thương như vậy, lòng hắn tức giận vô cùng, nhưng không dám tấn công nữa. Lúc này, chỉ thấy ba người đứng vây ba mặt không ngớt múa động binh khí. Tiểu Long Nữ thì đứng ở giữa rất thản nhiên như không lưu ý gì đến đối phương, nên sự thắng bại chưa rõ, nhưng cứ kéo dài như thế mãi thì biết đời nào kết thúc được. Doãn Khắc Tây nãy giờ mải tìm kế thủ thắng. Hắn nghĩ ra bà i "Hoàng Sa Vạn Lý" đã từng thủ thắng đến bốn lần rồi, bất chợt trong lòng nghĩ được kế, liền kêu lớn:
- Ni Ma huynh? Tiêu Tương Huynh, chúng ta hãy đồng bước tới thêm nửa bước!
Hai người không hiểu dụng ý của Doãn Khắc Tây, nhưng nghĩ vì hắn là một đại thương gia miền Tây vực, kiến thức bao la, người lại thông minh. Ba người theo nhịp bước tới nửa bước. Doãn Khắc Tây thấy thế tiến có hiệu lực bèn hô lên:
- Thêm nửa bước nữa!
Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh nghe lời tiến tới. Doãn Khắc Tây hô tiếp:
- Phòng thủ cẩn thận, bước tiến chậm lại.
Ba người đứng phòng thủ một hồi lại bước tới nửa bước nữa. Bây giờ ai cũng thấy rõ, cả ba tiến bước thành vòng vây, dần dần thắt chặt lại. Còn Tiểu Long Nữ lại bị dồn vào giữa. Ba người chưa dám ra tay tấn công nhưng mỗi người đều múa động binh khí, tạo thành một bức tường đồng vách sắt, ba thế này họp thành một thế công mạnh hơn vũ bão.
Tiểu Long Nữ thấy thế tiến của dối phương mỗi lúc một gần lại mà thế tiến của họ không có chút sơ hở. Nàng thầm tính:
- Nếu để họ tiến mãi như thế, mình ắt phải bị một sức ép của ba đường thế phản công một lúc.
Nàng lập tức đưa song kiếm ra, chém dồn. Chỉ nghe những tiếng "leng keng" khi nhặt khi khoan. Nàng tấn công đối phương liên tiếp quá mạnh, nên kiếm bị dội trở về, mà ba người lại tiến thêm ba bước nữa. Tiểu Long Nữ thấy nguy vội lùi lại, nhưng bị trợt chân suýt té nên để nhiều sơ hở. Nếu bọn Tiêu Tương Tử không lo thủ thế thì nàng đã phải gặp nạn lớn rồi. Tiểu Long Nữ vừa vấp phải thanh trường kiếm của Toàn Chân đạo sĩ đã bị nàng đánh rơi đầy đất lúc nãy. Nhờ cái vấp đó mà nàng liền nghĩ ra một kế:
- Người khác hai tay có thể sử dụng được hai kiếm, nhưng mình đã học thuật "Phân tâm nhị dụng". Đôi tay có thể dùng bốn kiếm đánh một lượt tuy không tỏ được oai lực trong bốn kiếm, nhưng cũng có thể làm cho đối phương bối rối, mình sẽ thừa cơ thoát khỏi vòng vây.
Nghĩ như thế, nàng liền trao trường kiếm tay trái sang tay mặt lùi lẹ làng cúi nhặt thêm hai thanh nữa. Hai tay Tiểu Long Nữ vung bốn thanh kiếm lên múa một lượt. Bọn Tiêu Tương Tử quá sức ngạc nhiên, trong lòng thầm lo:
- Thế đánh của con nhỏ này sao càng lúc càng lạ thường, ai lại bốn kiếm vung đánh một lượt kỳ đời như vậy, thật chưa thấy bao giờ!
Nhưng ba người nầy đã quyết định đánh "bất biến ứng vạn biến" mặc cho nàng, dù có dùng thuật kỳ quái thì họ vẫn chỉ thủ không công, từng bước một tiến tới. Thật ra Tiểu Long Nữ múa bốn kiếm một lượt chỉ làm cho người ta kinh sợ, chứ còn uy lực lại kém hơn hai kiếm, vì xưa nay nàng chỉ dùng song kiếm, tay trái "Toàn Chân kiếm pháp" tay phải "Ngọc nữ kiếm pháp" phối hợp lại đã đến mức sao siêu, giờ đây một tay hai kiếm sử dụng võ công mất đi một phần. Bốn kiếm nàng chém lia lịa đều chạm mạnh vào thanh kiếm cua hạ cao thủ hết cả.
Lúc đầu bọn Tiêu Tương Tử đều lo sợ phép thuật kỳ lạ, nhưng khi giao đấu một lúc, họ biết công lực của đối phương không có gì mạnh lắm. Khi bọn Tiêu Tương Tử đón mấy nhát kiếm sau chỉ thấy đường kiếm nàng đã chậm hơn lúc trước nhiều. Ni Ma Tinh thấy thế liền múa thiết xà tấn công vào.
Doãn Khắc Tây vừa la lên:
- Không thể được, đó là kế dụ địch của nó!
Ni Ma Tinh giật nảy người, lui lại thủ thế, trong lòng thầm nhủ may không nhờ thằng con buôn đa mưu này, thì mình đã lãnh thẹo với con ranh nầy rồi. Thật con này xảo quyệt quá!
Sự thật Tiểu long Nữ không có ý dụ địch, nhưng khi nghe Doãn Khắc Tây nói như vậy, nàng nghĩ:
- á! Cái lão lùn này nóng tính lắm mình phải tìm kế phá địch nơi hắn. Thằng kia nói mình dụ địch, vậy mình dụ chúng một mách chơi.
Bỗng nhiễn, tay mặt nàng vung lên, một thanh trường kiếm bay thẳng vào, cùng một lúc tay trái lại có một lưỡi khác bay ra. Bọn Tiêu Tương Tử kinh hãi, không hiểu nàng đánh thuật gì khác nữa, nhìn thấy đôi kiếm trên không chưa rơi xuống, mà đôi kiếm còn trên tay nàng cũng ném ra luôn, như thế trong người không còn vũ khí nữa.
Doãn Khắc Tây lại kêu lên:
- Mọi người phải tự vệ lấy vị trí của mình, đừng có tấn công.
Hắn tìm chưa ra dụng ý của Tiểu Long Nữ, nhưng nhận thấy phòng thủ nghiêm mật, để tiến tới từng bước mới thủ chắc phần thắng hơn. Cho nên, thấy địch thủ đột nhiên bỏ kiếm, nhưng vẫn ra lệnh không được tấn công.
Tiểu Long Nữ được dịp may, vội cúi xuống, hai tay không ngớt nhặt những thanh kiếm từ dưới đất lên, rồi lần lượt tung tất cả lên khoảng không, đồng thời chớp lấy những thanh kiếm đã rơi xuống, rồi cũng ném trở lên. Mấy chục thanh kiếm thi nhau lên xuống, ánh thép loang loáng sáng cả đại điện, thật là một cảnh vô cùng ngoạn mục.
Võ công của phái Cổ Mộ vốn sở trường không phải về môn nội lực, mà chỉ nhờ cái nhanh nhẹn mới thủ thắng, nên biểu diễn võ công như thế, đối với nàng thật dễ dàng như thò tay vào túi lấy tiền, làm cho họn Tiêu Tương Tử nhìn thấy hoa cả mắt, cho rằng nàng đang làm trò ảo thuật chứ đâu có phải võ thuật như vậy. Bỗng tay trái nàng vung lên, đẩy mạnh vào cán một thanh kiếm từ cao đang rơi xuống, thanh kiếm này bay tạt ra, đâm thẳng vào mình Doãn Khắc Tây. Mũi kiếm đụng vào bức màn "Kim
Long", rồi lập tức dội lại bay thẳng vào mình Ni Ma Tinh, lại gặp chiếc xà côn đang múa đến nước gấp nên thanh kiếm lại thối lui về phía Tiểu Long Nữ. Lúc ấy từ trên không vừa rơi xuống hai thanh kiếm nữa, đôi tay của Tiểu Long Nữ vung mạnh ra dùng thế "Chưởng phong" đẩy mạnh ba thanh kiếm phóng mạnh ra hướng ba người của Tiêu Tương Tử. Tiếp theo đó nàng liền đổi thế đánh làm cho mấy mươi thanh kiếm không bay
cao nữa, mà lại dội qua dội lại ba bước màn binh khí của đối phương đang bao vây. Trên tay Tiểu Long Nữ có mang đôi bao tay bằng tơ vàng, nên đánh trúng vào chỗ bén lưỡi kiếm cũng không chút tổn thương. Trận ác chiến nầy còn kinh thiên động địa hơn lúc nãy, vì nàng từ nhỏ đã luyện thuần môn khinh thân của phái Cổ Mộ, nên tay lanh mắt lẹ, càng đánh càng gấp. Lúc đầu, trên tay nàng chỉ có hai thanh kiếm, mà bọn Tiêu Tương Tử đã khó chống đỡ rồi, đến bây giờ nàng lại điều động đến mấy chục lưỡi kiếm tả xung hữu đột, thỉnh thoảng lại bất thần kèm thêm mấy miếng chém đâm rất thành tất nên họ phải nhọc sức rất nhiều, vì lo sợ những trường kiếm bay dội lại rất quái gở, không thể điều khiển kìm hãm lại. Chỉ sơ suất một chút là có thể gây đả thương cho đồng bọn.
Tiểu Long Nữ ném kiếm lên không, đó là môn làm cho địch hoa mắt mà thôi, nhưng gặp tình thế biến hóa rất có lợi, đưa lại cho nàng nắm chắc phần thắng trong tay, nên trong tiếng binh khí chạm nhau, nàng nghe được hơi thở nhọc nhằn của Doãn Khắc Tây và Ni Ma Tinh, còn thiết côn của Tiêu Tương Tử tuy múa còn nhanh, nhưng đã thấy rối loạn không còn vẻ mạch lạc tự nhiên như trước nữa. Doãn Khắc Tây bất thình lình đã thấy cánh tay mặt bị trầm xuống, hoảng hốt la lên:
- Không xong rồi.
Trong tức khắc ba thanh trường kiếm đẩy qua, vừa quyện lấy cây Kim Long của Doãn Khắc Tây, tuy phòng thủ kín đáo, nhưng bất thần ba thanh kiếm từ phía Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh dội qua. Doãn Khắc Tây đưa cao cây nhu tiến lên, dùng sức rung mạnh cho ba thanh kiếm rơi xuống, nhưng trong lúc hắn giơ roi lên, thì trường kiếm trong tay Tiểu long Nữ đã đâm vèo tới, cánh tay của Doãn Khắc Tây bỗng cảm thấy tê buốt di, năm ngón tay rã rời không thể nắm chặt được, chỉ nghe "keng" một tiếng, kim long rơi xuống đất. Tay trái của Tiểu Long Nữ tung mười mấy thanh trường kiếm bay vọt ra, chia nhau đâm vào các yếu huyệt của ba người. Nàng vội đưa tay đoạt lại song kiếm, rồi lướt tới trước mặt Doãn Khắc Tây mà thoát ra đi.
Cánh tay của Doãn Khắc Tây vì bị thụ thương, binh khí rơi xuống đất, bức tường bao vây lập tức bị thủng, mắt nhìn song kiếm của nàng như hai luồng điện chớp động bay vù tới, nên vội tháo lui về phía sau.
Tiểu Long Nữ khinh công đã cao hơn bọn Tiêu Tương Tử nên tung mình lướt thẳng về phía hậu điện để đuổi bắt Triệu Chí Kính. Lúc bấy giờ, Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh chưa có thể dừng tay lại được, vì còn phải lo chống đỡ mười mấy thanh kiếm đang rơi xuống, phải dẹp xong mới thủ thế lại được.
Doãn Khắc Tây quá e thẹn nói với hai người:
- Tiểu đệ bất tài, để con nhỏ này chạy mất rồi! Xin nhị huynh tha lỗi cho.
Ba người tuy cùng làm việc dưới trướng Hốt Tất Liệt nên ai nấy đều muốn tìm kế hạ đối phương để gây uy tín với chủ tướng, nhưng sau một trận ác chiến kinh thiên động địa vừa rồi, ba người đều có cái cảm giác như từ trong cái chết mới thoát ra, nên đều trút hết cái ý nghĩ thù địch thủ. Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh nói:
- Cái đó không thể tránh được Doãn huynh...
Lời nói chưa dứt, bỗng nghe từ hậu sơn vọng lại những tiếng binh khí lanh lảnh chạm vào nhau.
Trận chiến trên đại điện này đã làm cho bọn Tiêu Tương Tử đã ớn cả người, nhưng nghe tiếng binh khí chạm nhau, lại kèm theo những tiếng vù vù năm chiếc vòng kim khí của Kim Luân Pháp Vương phát ra, hiển nhiên là Tiểu Long Nữ đang giao đấu với Pháp Vương. Trong lòng ba người đều thầm nghĩ:
- Thế này có một người võ công cứng rắn như vậy làm chủ lực chúng ta bất thần đánh ép vào hai bên hông, theo thế gọng kìm chắc có thể thủ thắng được.
Doãn khắc Tây tay trái nhặt cây roi, miệng nói:
- Chúng ta mau đuổi theo!
Hắn nói xong vội cất bước chạy trước, Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh hướng dẫn đoàn võ sĩ Mông Cổ rầm rộ đuổi theo. Trong lòng mỗi người lúc này đều cho Tiểu Long Nữ là đối thủ duy nhất, nên bỏ rơi bọn đạo sĩ Toàn Chân giáo.
Bọn Doãn Chí Bình, Lý chí Thường thấy quân sĩ Mông Cổ vừa chạy đi, lập tức mở trói cho nhau, rồi nhặt kiếm lũ lượt kéo theo. Bọn Doãn Khắc Tây vừa tới trước động Ngọc Hư ở sau Trùng dương cung, chỉ thấy bóng vòng xe của Kim Luân Pháp Vương liên tiếp vây vòng, kim khí tung hoành ngang dọc. Tiếng gầm thét của Kim Luân Pháp Vương như sấm sét, trước tà áo trắng của Tiểu long Nữ nhẹ nhàng tung bay phất phới, hai người chỉ cách nhau chừng một trượng. Tuy đứng còn cách xa mà trận đánh đã ác liệt. Năm chiếc vòng thi nhau cuồn cuộn tiến về phía Tiểu long Nữ, vang ra những tiếng vù vù làm cho người nghe điếc nhức tai, nhưng Tiểu Long Nữ vẫn điềm nhiên đưa đôi tay múa song kiếm rất nhẹ nhàng. Doãn Chí Bình, Lý Chí Thường vừa chạy đến thấy cửa động Ngọc Hư đã bị lấp đá kín rồi! Ai nấy đều kinh ngạc lo nghĩ:
- Như thế này không biết năm vị sư trưởng chết sống ra sao?
Nên đồng kéo đến cửa động, nhưng Đạt Nhĩ Ba tay xách kim chùy, Hoắc Đô múa cây trượng thép, xông ra ngăn cản chỉ trong nháy mắt, các đạo sĩ đánh lui ra cả, Vương Chí Thản lớn tiếng kêu:
- Sư phụ! Sư phụ có sao không?
Vì chàng quá sốt ruột, nên tiếng kêu như khóc. Lý Chí Thường nghĩ lại:
- Năm vị sư trưởng đã có huyền công, đâu có dễ gì bị chúng nhốt trong động? Hay là luyện công đã đến lúc sắp thành, không thể phân tâm để chống ngoại địch, nên còn ở trong đó? Nếu để Vương sư đệ kêu ca như vậy, ở trong động nghe được chắc là rối loạn tâm thần của năm vị sư trưởng.
Nghĩ như thế, Lý Chí Thường bèn bảo:
- Vương sư đệ đừng có kêu nữa, sẽ làm náo động tinh thần của năm vị sư trưởng.
Vương Chí Thản lập tức tỉnh ngộ bèn đỡ Tống Đức Phương bị ngã dưới đất lên, thấy Đức Phương bị thương rất nặng, liền tìm cách cấp cứu.
Bọn Tiêu Tương Tử đứng một bên xem Kim Luân Pháp Vương đang đánh với Tiểu Long Nữ, thấy lão tuy công ít thủ nhiều, nhưng khi thủ được hai ba thế thì đánh trả được một đòn, năm chiếc vòng oai lực rất mạnh mẽ, làm cho Tiểu Long Nữ hết đường tiến tới. Ba người đứng coi rất khâm phục, nhưng lại ghen tức, đều thầm nghĩ:
- Lão trọc này được phong làm Mông Cổ độc nhất quốc sư, thật cũng xứng đáng, nhưng công ta đánh từ lúc đầu bây giờ lão dễ thắng.
Xét sự thật thì Kim Luân Pháp Vương bên ngoài tuy có vẻ dũng mãnh, nhưng trong lòng không ngớt lo sợ, vì thế công trên song kiếm của Tiểu Long Nữ phối hợp những đường kiếm đến mức tuyệt luân. Kiếm bên trái công trước, kiếm bên phải liền tiếp theo, làm cho Kim luân pháp Vương tiến thoái lưỡng nan, cứ mỗi đường kiếm lại tấn công một lượt vào mấy yếu điểm, nên lão giữ chỗ này thì lại bị hở chỗ kia, nhưng nhờ nội công, ngoại công đều luyện đến mức siêu quần, mắt lanh tay lẹ, chứ không thì trong khoảnh khắc đã bị mấy chục nhát kiếm của nàng rồi. Cũng may là lão đã đau đớn vì kiếm pháp "Ngọc nữ tố tâm kiếm" sau lần thất bại mấy năm trước, bèn cố công, tận tâm tập luyện đề tìm thế phá. Kim Luân Pháp Vương vốn là một bậc kỳ tài trong võ lâm, sức học đã rộng, người lại thông minh, nên từ khi chiến bại với Dương Qua và Tiểu Long Nữ lão không một ngày nào không để thì giờ nghiên cứu một môn võ công để phá "Ngọc nữ tố tâm kiếm Pháp", chỉ vì kiếm pháp ấy quá thần diệu nên không thể phá được, nhưng cố sức đánh nhau thì chịu đựng chừng trăm hiệp. Hôm nay, Kim Luân Pháp Vương ở trước Ngọc Hư động, thấy Tiểu Long Nữ đi tới, nhưng không có Dương Qua đi theo, trong lòng lão không sợ mà lại rất mừng là đươc dịp trả lại mối thù đã nén chịu trong lòng bao nhiêu năm âm thầm lo lắng. Nhưng không ngờ vừa giao đấu, nàng đã dùng thuật "Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp" ra, đã đánh qúa nhanh mà lại mạnh hơn cả lúc Dương Qua hiệp sức. Hai bên đấu nhau đến sáu mươi hiệp, là Kim Luân Pháp Vương đã bị Tiểu Long Nữ vây chặt vào vòng nguy hiểm . Lão liền thu kim luân về hộ thân, không dám ném ra công địch nữa, ngân luân cũng theo về rồi kế đến ngũ luân đều lần lượt thu về cả, biến thành nước chỉ thủ, không còn một thế nào để công địch được nữa. Năm chiếc vòng hình dáng và màu sắc đều khác nhau, đều có gai nhọn, hoặc hình trái ấu, quay qua quay lại tạo nên những đường hào quang bao bọc cả thân hình lão. Bỗng nghe Tiểu Long Nữ thét lên một tiếng:
- Trúng!
Kế đó là một tiếng ngân nho nhỏ của Kim Luân Pháp Vương cùng hòa lẫn trong mấy tiếng "loảng choảng" nghe rợn người. Lúc này hai người đánh xoắn xít sát nhau, chỉ còn thấy những ánh sáng đủ màu loang loáng
thành một khối, nhưng đứng ngoài nhìn không thấy Pháp Vương và Tiểu Long Nữ đâu nữa. Cho đến cả những tay cao thủ như bọn Tiêu Tương Tử xem mà cũng không thể biết tiếng gầm vừa rồi, là biến chuyển gì của bên nào cả. Bất thần, mắt của Ni Ma Tinh cảm thấy hơi đau, tựa như một ám khí gì đánh trúng vậy, liền đưa tay rờ thử nhưng trên mặt không có dấu gì đánh trúng vậy mà bàn tay lại dính một chấm máu tươi. Hắn trầm ngâm đứng nhìn một lúc, lại thấy một giọt máu tươi ở vòng chiến địa bắn vào mình Doãn Khắc Tây, bây giờ họ mới biết trong hai người đang giao đấu đã có một người bị thương. Không bao lâu, trên tà áo trắng của Tiểu Long Nữ đã dính lấm tấm những giọt máu hồng, Ni Ma Tinh mừng rỡ kêu lên:
- Hà hà! Tiểu yêu nữ đã thụ thương rồi. Kế đó song kiếm của Tiểu long Nữ công chiến quá mạnh, Pháp Vương lại gầm nhỏ lên một tiếng nữa. Tiêu Tương Tử lạnh lùng nói:
- Không! Đó là đại hòa thượng bị thương!
Mọi người đều hiểu rõ được những giọt máu của vết thương Pháp Vương đã bắn ra dính áo Tiểu Long Nữ, trên mặt Ni Ma Tinh và Doãn Khắc Tây. Tiêu Tương Tử thầm nghĩ:
- Nếu lão Pháp Vương chết về tay hắn thì bọn mình cũng không tránh khỏi được.
Nghĩ như vậy liền hô:
- Ni huynh chúng ta cùng tiến vào tất nào?
Hô xong, hắn múa động thiết côn, tiến vào sau lưng Tiểu Long Nữ. Còn Doãn Khắc Tây và Ni Ma Tinh cũng múa binh khí xông vào bên tả bên hữu. Cũng vì thế mà trận ác chiến liền đổi khác, dù võ công của Tiểu Long Nữ có cao siêu cách mấy, cũng không thể chống lại đến bốn cao thủ họp sức đánh một lượt.
Trên mình Kim Luân Pháp Vương đã bị trúng đến ba nhát kiếm của Tiểu Long Nữ, nhưng không nhắm vào nhược điểm, trong lúc nguy cấp, được người trên giúp sức, trong lòng nhẹ nhõm lên. Bọn Tiêu Tương Tử đều lo giữ thế thủ chưa dám ra tay tấn công, cứ chậm chậm từ bốn mặt vây tới. Trong lúc đầu, Tiểu Long Nữ tuy chưa bị bốn mặt tiến gần, nhưng thời gian lâu nàng chắc không thể tránh được thế vây của bốn cao thủ này. Trước Ngọc Hư động lúc nầy, thì thấy bốn vị võ lâm quái khách đang vây một thiếu nữ, thật là một trận ác chiến không tiền khoág hậu. Lũ võ sĩ Mông Cổ và bọn đạo sĩ Toàn Chân không ngớt thấy những cảnh kinh thiên động địa mỗi lúc một kỳ lạ hơn, làm cho tâm hồn của họ lúc nay ở trong giấc mơ mộng ảo huyền!
Mấy trăm đôi mắt đang mải theo dõi trận chiến của năm người. Bỗng nhiên, một tiếng nổ như núi vỡ, phi sa tẩu thạch bụi bay mịt trời, mấy mươi tảng đá to trước Ngọc Hư động đều vẹt sang một bên. Năm vị đạo sĩ áo vàng từ trong động chầm chậm bước ra, đó chính là bọn Toàn Chân
ngũ tử Khưu Xứ Cơ, Lưu Xứ Huyền...
Doãn Chí Bình, Lý Chí Thường mừng quá đồng reo lên:
- Sư phụ ! Sư phụ!
Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô đều thất kinh, nhìn cửa động thấy bao nhiêu tảng đá to đều bị vẹt ra hết, nên lòng tự hỏi:
- Làm thế nào mà có thể xô ngã một bức tường đá quá kiên cố như vậy?
Hai người vội xách đao xông tới. Bọn Khưu Xứ Cơ lách sang một bên rồi mười cánh tay đều vung ra một lượt, túm lấy hai người vật nhẹ ra phía sau. Cả hai người đều lọt vào trong Ngọc Hư động!
Thật ra võ công của Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô đều ngang hàng với Hách Đại Thông, tuy không tinh nhuệ như Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất thế mà chưa kịp giao đấu đã bị rơi vào động rồi!
Số Toàn Chân ngũ tử "bế quan" tĩnh tu trong Ngọc Hư động để nghiên cứu phép phá "Ngọc nữ tâm kinh", năm người đêm ngày khổ luyện, nhưng vẫn thấy võ công của Dương Qua và Tiểu Long Nữ biểu diễn ra đều là khắc tinh với võ học của phái Toàn Chân, nên cố tìm thế thủ thắng mà không thể tìm được. Về sau, Khưu Xứ Cơ tìm thấy một cương tính trong "Thiên cang bắc đẩu trận pháp", bèn nói:
- Chúng ta khó thủ thắng nhưng có thể hiệp sức năm người lại, lấy sức mạnh hùng hậu để lấn áp đối phương.
Từ đó, năm người tập luyện bài thất nhất về môn "Hiệp sức công địch", mỗi một đường đánh ra đều quy tụ sức mạnh của năm người vào một điểm. Trong một tháng nay, họ đã sáng chế một cái "Bách xuyên hội hải".
Lúc Kim Luân Pháp Vương dẫn võ sĩ Mông Cổ tới lấp động, chính là lúc họ luyện bài "Bách xuyên hội hải" gần đến mức tột cùng, không thể phân tâm được, nên đợi mãi đến lúc năm người hồi tâm lại, mới hợp sức phá động mà ra. Trong thời gian hơi gấp rút nên bài này chỉ luyện mới có tám phần. Tuy như thế, nhưng họ phá cửa động một cách dễ dàng. Còn Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô tiến đến chống cự là họ chỉ ra tay một cái thì bọn Đạt Nhĩ Ba đã b ị vứt vào trong động, ngất xỉu luôn.
Khưu Xứ Cơ quay lại chỉ thấy bọn Pháp Vương bốn người vây đấnh Tiểu Long Nữ đang đến lúc kịch liệt. Năm người đứnh xem một hồi, rồi nhìn nhau với vẻ thảm não, trong lòng đều nghĩ:
- Thôi rồi! Té ra võ công của phái Cổ Mộ lại tinh nhuệ cao siêu như vậy, muốn thắng nàng thật là tuyệt vô hi vọng rồi!
Võ công của bọn Pháp Vương đều cao hơn Toàn Chân ngũ tử. Trong Toàn chân giáo muốn có một người võ công như họ đâu có dễ gì?
Bọn Khưu Xứ Cơ đều thầm nghĩ:
- Nếu là sư phụ ta còn sống, có lẽ cũng hơn họ chút ít, chứ còn Châu sư tổ không chừng không hơn họ được, nhưng nếu gặp đến bốn người cao thủ nầy vây đánh một lúc, không thể nào chống nổi được.
Năm vị đạo sĩ già đều lo nghĩ buồn chán, thấy quá hổ thẹn, vì suốt đời trong võ nghệ mà còn kém sút nhiều không thể thừa kế được sản nghiệp oai hùng của tiền nhân. Khi thấy đại địch trước mặt, Toàn Chân giáo thật đã đến đường cùng rồi. Năm người quá đau khổ lo nghĩ nên không hề hỏi đến bọn đồ đệ biến cố này do đâu mà xảy ra?
Bây giờ trận đấu của năm người đã dần dần thay đổi tình thế. Song kiếm của Tiểu Long Nữ tấn công dữ dội: bọn Pháp Vương cố thủ nhiều, để giữ
Chặt vòng vây rồi tiên tới từng bước một. Càng lâu Tiểu Long Nữ càng bất lợi. Nhiều lần nàng toan vượt ra vòng vây, nhưng Pháp Vương bốn người phòng thủ rất cẩn mật, nên mỗi lần thoát ra đều bị đối phương ép trở vào. Từ lúc Tiểu Long Nữ vào đại điện giao đấu với bọn Trịnh Quan đến bây giờ, nàng chiến đấu với Kim Luân Pháp Vương đã hơn ba giờ đồng hồ, nên đã muốn kiệt sức, mà cường địch càng lúc càng gần lại. Lại thấy Khứu Xứ Cư năm người đứng gườm trước động, tự biết năm người ấy cũng là những tay không vừa gì. Lúc nầy, bốn mặt đều là địch thủ, mà nàng chỉ đơn độc có một mình, chắc hôm nay phải vùi thây nơi Trùng Dương cung nầy!
Tiểu Long Nữ đứng trước cảnh cô đơn nên thầm nghĩ:
- Mình chết đi cũng không gì đáng tiếc? Chỉ khổ vì... khổ nỗi. Trong lúc mình lâm chung, không được gặp Dương Qua lần cuối cùng! Chàng bây giờ đang ở đâu? Chắc đang chuyện trò tình tứ với Quách cô nương, hay là họ đã thành thân với nhau rồi, trong cảnh hạnh phúc chàng đâu có nghĩ chi đến một cô gái bạc mệnh đang bị người tứ phía phủ vây? Không! Không lý ! Dương Qua, không phải là hạng người như thế, dù có kết hôn với Quách cô nương, trong lòng chàng cũng không bao giờ quên mình đâu. Mình phải sống để gặp chàng lần cuối cùng...
Lúc nàng rời Tương Dương về phương Bắc là quyết lòng không gặp mặt Dương Qua nữa, nhưng trong giờ phút sinh tử này thì trong lòng lại cắt đứt không đành. Khi nàng nghĩ đến Dương Qua, nên đánh thuật "Phân tâm nhị dụng" bỗng biến thành "Nhất tâm chuyên chú" nữa. Bọn pháp Vương thấy kiếm pháp của nàng đột nhiên biến đổi, ban đầu cứ nghĩ là nàng có ý dụ địch, nhưng một hồi lâu nhìn kỹ thấy không phải. Kim Luân Pháp Vương liền bước tới, tay trái giữ ngân luân hộ thân, tay mặt đánh vút Kim Luân vào lưỡi kiếm của Tiểu Long Nữ.
-
Chương 66 - Kiếm Ma Độc Cô - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 66 - Kiếm Ma Độc Cô
Chỉ nghe "toang" một tiếng nhẹ, trường kiếm trên tay Tiểu long Nữ đã bị tuột khỏi tay, rồi tiếp theo nghe một tiếng "rắc" ở trên không, thanh kiếm bị gặt mạnh, gãy làm đôi.
Pháp Vương phấn khởi vô cùng thấy vòng Kim Luân đạt được kết quả. Kế đó, lão thừa thắng vung luôn vòng Kim luân, Tiểu Long Nữ hết hồn, vội giữ vững tâm thần, chém trả lại ba nhát, nhưng bây giờ chỉ còn có một thanh kiếm, nên võ công kém hẳn bọn Pháp Vương. Bốn người trong bọn Pháp Vương được dịp thắng, liền múa tung bốn thứ binh khí tấn công mạnh như vũ bão. Tiểu Long Nữ vẫn mỉm cười. Bây giờ không muốn cố sức vùng vẫy nữa, thoáng mắt nhìn thấy ngoài xa chừng ba trượng có một khóm hoa hường nép mình ẩn bên cây tòng, cành hoa mềm mại xinh tươi. Bất giác, khiến nàng nhớ lại việc đã từng luyện "Ngọc nữ tâm kinh" cùng với Dương Qua ở bên khóm hoa ấy, lòng nàng tự nhủ:
- Mình đã không thể gặp Dương Qua, vậy thì trước giờ chết lòng mình nghĩ đến chàng cũng mãn nguyện rồi!
Sắc mặt nàng trở nên dịu hòa, đắm chìm trong cõi mơ.
Bọn Kim Luân Pháp Vương đang bủa vây tứ phía, vốn có thể đánh bại nàng ngay, nhưng bỗng nhiên thấy đáng điệu của nàng quá lạ đời, mơ màng tựa hồ như quên mình đang chiến đấu, làm cho ai nấy đều kinh ngạc, thầm lo sợ nàng giở trò thuật gì đó, nên bốn thứ binh khí giơ lên nửa chừng đều dừng lại không dám giáng xuống. Bốn người đứng tần ngần một hồi rồi thiết xà của Ni ma Tinh bỗng đánh vụt ra trước. Bất thình lình thoáng qua sau lưng Tiểu long Nữ một bóng người vung kiếm chém tới. Ní ma Tinh vội kéo thiết xà về đỡ, nhưng gạt hụt, thì rõ bóng người đó là Doãn chí Bình vượt tới trước mặt Tiểu long Nữ, rồi trao vào tay trái nàng một thanh trường kiếm. Trong lúc Tiểu Long Nữ đang điềm nhiên gác hẳn trận chiến đấu ra ngoài lý trí nên chỉ thờ ơ cầm thêm một thanh kiếm nữa rồi đứng ngẩn người.
Bọn Pháp Vương đứng ngoài bỗng thấy Doãn chí Bình xen vào trận chiến để giúp cho Tiểu Long Nữ, không khác nào lùa dê vào hang cọp Ni ma Tinh vội kêu lên:
- Thằng nầy buồn chuyện gì mà vào đây tự vẫn hả?
Kim Luân Pháp Vương nhìn thân pháp đã biết võ công của Doãn chí Bình chỉ ở hạng tầm thường thôi, nên không nỡ giết hại chàng, chỉ dùng tay trái đẩy nhẹ vào vai một cái, cho gã tránh một bên, để đánh mạnh chiếc vòng bên tay mặt về phía Tiểu Long Nữ. Doãn chí Bình thấy thế nguy như vậy, mà nàng vẫn thẫn thờ như mất cả hồn, trong lòng hết sức lo sợ nàng bị chiếc vòng đánh chết nên chàng không màng nguy hiểm, vội lao mình tới, dùng lưng chận ngay chiếc vòng lợi hại của Pháp Vương, còn miệng thì hô lớn:
- Long cô nương! Phải coi chừng!
Sức mạnh của chiếc vòng vút tới như vũ bão, đánh mạnh vào lưng Doãn chí Bình nghe một tiếng "bùng" lập tức chàng ngã chúi xuống mặt đất phía trước mặt Tiễu Long Nữ. Tiểu Long Nữ vừa nhận thấy thanh kiếm của Doãn chí Bình mà vẫn đứng yên như kẻ mất hồn, cơ thể của Doãn chí Bình vừa ngã tới đụng vào mũi kiếm nàng, ngực chàng lập tức bị đâm
lủng.
Tiểu Long Nữ bấy giờ mới giật mình tỉnh ngộ, biết ra Doãn chí Bình liều mạng với mình, thấy lưng chàng bị vòng Kim luân đập vào đồng thời trước ngực bị trường kiếm đâm thủng, đều là những vết thương nguy hại. Trong một phút, lòng oán hận của nàng tiêu tan, mà hóa thành thương hại, nên dịu dàng nói:
- Sao ông lại khổ tâm như vậy?
Trong lúc gần chết bỗng nghe được lời dịu dàng thương xót, Doãn chí Bình cảm thấy lòng mãn nguyện vô cùng, nên trăng trối:
- Long cô nương! Tôi có lỗi với cô, tôi thật đáng chết, bây giờ cô đã tha thứ cho tôi chứ?
Tiểu Long Nữ giật mình liền nhớ lại những lời hắn nói với Triệu chí Kính, ý niệm ấy bỗng thoáng qua đầu óc nàng.
- Thâm tình của Dương Qua như bể cả, quyết không phụ mình. Sở dĩ chàng kết hôn với Quách cô nương là để xa lánh mình, chắc chàng đã biết mình bị tên khốn kiếp nầy làm ô nhục.
Tâm địa nàng vốn rất đơn thuần, thơ ngây nên đuổi mãi theo Doãn chí Bình và Triệu chí Kính nhưng không hề nghĩ tới việc nầy, bây giờ bỗng được Chí Bình nhắc lại, làm sự thương hại liền đổi sang oán hận. Cơn tức tối lại còn tăng gấp bội khi trước. Nàng cắn chặt răng, lập tức đưa tay đâm thẳng nhát kiếm vào ngực Doãn chí Bình.
Nhưng vì xưa nay nàng chưa giết người, tuy oán hận tràn hông, mà mũi kiếm vừa tới ngực hắn thì ngừng lại không còn can đảm đâm xuống luôn.
Khưu xứ Cơ đứng ở một bên thấy học trò yêu quí của lão sắp mất mạng, lòng đau như cắt, khổ vì việc xảy ra quá đột ngột, không kịp tiếp cứu. Nhát kiếm thứ nhất của Tiểu long Nữ đâm đã trúng, hắn còn có thể cho là Kim luân Pháp Vương gây nên, nhưng nhát thứ hai chứng tỏ là nàng cố ý. Nhưng lão không hề biết sự bí ẩn giữa hai người nên hơn nửa năm nay trong lòng nghĩ kế để phá võ thuật của Tiểu long Nữ, nhất là trong một tháng nay lại còn chuyên tâm lo về việc trả thù nàng. Khi lão đã cho Tiểu Long Nữ là cường địch của Toàn Chân giáo, thì lại không ngờ Doãn chí Bình đã xả thân cứu nàng, mà nàng lại còn vung kiếm toan đâm người đã cứu mạng mình. Lão liền tung mình nhảy tới, tay trái chộp thạnh kiếm của Tiểu long Nữ, tay phải thì tống vào mặt nàng. Võ công Khưu xứ Cơ đứng nhất trong Toàn Chân thất tử, lại trên mấy mươi năm rèn luyện nên càng tinh nhuệ. Bây giờ trong lúc cấp bách, chưởng lực ông ta tống ra, lại thêm hùng hậu hơn. Khưu xứ Cơ vừa chộp lấy thanh kiếm, thì Tiểu long Nữ đã quá lẹ làng phóng kiếm sang một bên, và né tránh khỏi quả đấm trên mặt. Nàng vội chộp lại thanh kiếm và chích thẳng vào ngực Khưu xứ Cơ cũng trong lúc ấy, Doãn chí Bình thét to lên một, tiếng rồi lăn dưới đất, máu tươi trong vết thương vọt ra lai láng. Tay trái Tiểu long Nữ chỉ vào bụng Khưu xứ Cơ dùng thuật "Song kiếm hợp bích" oai lực tăng lên. Võ công Khưu xứ Cơ tuy tỉnh, nhưng chỉ trong vài hiệp, tay chân đã bối rối, không thể chống đỡ nồi. Bọn Vương xứ Nhất thấy tình thế quá nguy, bèn hè nhau tới tiếp viện, vô tình làm cho Kim Luân Pháp Vương rơi ra ngoài vòng chiến địa.
Bọn Pháp Vương thấy Tiểu long Nữ lại đánh với Toàn Chân ngũ tử, lấy làm kinh ngạc, thầm nghĩ:
- Như thế này là có ích cho mình! Cho họ tàn sát lẫn nhau, chờ đến lúc Toàn Chân ngũ tử thắng được Tiểu long Nữ, rồi rảnh hãy bước vào đoạt thành quả chiến cuộc.
Cao thủ thí võ, mỗi một thế đều thập phần nguy hiểm, nhưng khi đã lỡ ra tay rồi, không lẽ chịu nhịn cừu địch trước mặt mọi người?
Toàn Chân ngũ tử đều tay trắng nhập trận gặp phải đôi kiếm thần diệu của Tiểu long Nữ nên bài "Bách xuyên hội hải" đã rèn luyện cả tháng nay cũng vô phương đem ra thi thố. Trong khoảnh khắc, trên mình Hách đại Thông và Lưu xứ Huyền đều thọ thương, nhưng hai người mải lo đến an nguy của đồng bọn, nên không chịu lui ra. Bọn đồ đệ Toàn Chân thấy các sư phụ đang ở trong thế nguy, đều thất thanh la lên. Lý chí Thường gọi:
- Hãy mau đem binh khí tới!
Bọn đệ tử mang binh khí đến nhưng không dám bén mảng tới gần, chỉ đứng ngoài ném từng thanh kiếm vào trận, thì lại bị Tiểu long Nữ dùng song kiếm đánh bật ra cả. Trước sau chúng ném vào đến mấy mươi thanh kiếm, mà năm vị đạo sĩ Toàn Chân không thể vớ được một thanh nào.
Bỗng nghe "keng" một viếng, thanh kiếm tay trái Tiểu long Nữ chặt một thanh kiếm vừa bay tới. Vụt mạnh ra sau, Vương xứ Nhất không kịp đề phòng, nên tay trái bị mũi kiếm văng trúng. Bấy giờ trong bốn ngũ tử đã có bốn người bị thương, sự thắng bại đã rõ.
Kim Luân Pháp Vương cười hà hả nói:
- Chư vị đạo huynh hãy lui ra! để bần tăng trị con bé aày cho!
Vừa dứt lời, Pháp Vương khoát tay một cái, bước lên hai bước. Tiêu tương Tử, Ni Ma Tinh, Doãn khắc Tây đều múa binh khí tiến đến hợp sức. Bấy giờ cuộc ác chiến trở thành các cao thủ bao vây một mình Tiểu Long Nữ.
Bọn Pháp Vương vừa tiến vào, thì Toàn Chân ngũ tử liền thoát khỏi vòng song kiếm của Tiểu long Nữ. Năm người hô lớn một tiếng, đứng sắp thành một hàng thẳng vung mạnh mười cánh tay ra, năm luồng sức mạnh hợp lại thành thuật "Bách xuyên nội hải" đánh một lượt vào bọn Kim Luân Pháp Vương. Đại lực của thế này quả nhiên kinh người.
Tiểu long Nữ thoáng thấy liền nghiêng mình nhảy tới sau lưng Ni ma Tinh. Nghe "ầm" một tiếng, bụi bay mịt trời và thấy Ni ma Tinh lộn nhào trên mặt đất. Té ra đôi chân lão lùn đã mất, chỉ đi bằng một chiếc gậy, nên phần dưới không vững mà gặp phải luồng chưởng lực quá mạnh té xuống, chứ không phải trúng trọng thương. Lão lùn té xuống nhưng lập tức xoay mình nhảy lên chửi rủa ầm ầm, rồi tung thiết xà trượng đánh vào đầu Lưu xứ Huyền một cái.
Bây giờ Doãn khắc Tây và Tiêu tương Tử cũng giúp sức Ni ma Tinh đánh Toàn Chân ngũ tử làm vang dội trời đất. Tiểu long Nữ thấy bọn Tiêu tương Tử đánh với phái Toàn Chân, nên thừa cơ toan thoát ra vòng vây. Kim Luân Pháp Vương xông tới cản lại, miệng kêu lên:
- Ni huynh, Tiêu huynh chúng ta phải đối phó với con này trước đã!
Bọn Ni ma Tinh đang lúc đánh hăng, nên không hề để ý đến lời của Pháp Vương, chỉ thấy thiết xà, thiết côn, kim long, đều vun vút tấn công vào bọn Toàn Chân ngũ tử.
Cũng nhờ sự rối loạn ấy mà song kiếm vội tấn công Pháp Vương mấy thế. Pháp Vường bị đơn độc không địch nổi, vội thối lui lại mấy bước. Bỗng nhiên, Tiểu long Nữ la một tiếng thất thanh, nét mặt xanh như chàm, liền nghe "leng keng" hai tiếng, song kiếm trên tay đều rơi xuống, đôi mắt nàng chỉ đăm đăm nhìn về khóm hoa hường bên cạnh thanh tòng, và luôn miệng kêu:
- Dương Qua, có phải chàng đến không?
Cũng trong lúc ấy, chiếc ngũ luân của Pháp Vương đánh vút vào mặt nàng, còn thế "Bạch xuyên hội hải" của Toàn Chân ngũ tử thì từ sau công tới như xô núi đẩy thành.
Nguyên vì Toàn Chân đã chế ngự bọn Ni ma Tinh, nhưng bọn nầy quá mau lẹ, nhảy vọt về bên tả nên sức mạnh chưởng lực ép vào lưng Tiểu long Nữ. Nào ngờ nàng như người mất hồn, đờ người ra, không hề tránh đỡ, sau lưng bị chưởng lực ép tới trước ngực bị ngũ luân ép lui. Một tấm thân yểu điệu diễm kiều đã bị hai luồng kình công ép lại mà ánh mắt nàng vẫn đắm đuối nhìn về khóm hoa hường.
Trong giờ phút nầy, tâm tư nàng như đã gởi hết về cho Dương Qua rồi. Mọi người đều bị ánh mắt nàng thu hút, bất giác tất cả đều quay đầu nhìn về phía khóm hoa hường coi có gì lạ chăng? Vừa nhìn qua, thì thấy một bóng người bên cành tùng bay vút ra. Người này phóng mình bay vào giữa trận địa, vứt thanh trường kiếm trên tay xuống đất, cúi xuống bồng Tiểu long Nữ lên. Chỉ trong nháy mắt người đó đã nhảy ra khỏi vòng vây, bước lại dưới bóng thanh tùng ngồi trên khóm hoa hường, ôm chặt Tiểu long Nữ. Người này chính là Dương Qua!
Tiểu long Nữ miệng vẫn nở những nụ cười như hoa, nhưng đôi khóe mắt ngấn lệ, và thỏ thẻ:
- Anh Qua! Có phải chăng đây là mộng?
Dương Qua cúi đầu xuống đặt một cái hôn nồng nàn vào đôi má nàng, dịu dàng bảo:
- Cô đã bị thọ thương! Có nặng không?
Tiểu long Nữ bị hai đòn độc của chín cao thủ ép đánh, nhưng thấy Dương Qua lòng mừng rỡ nên không biết dau. Đến bây giờ, nàng cảm thấy đau rũ hết cả thân mình. Nàng quơ hai tay, bá chặt vào cổ Dương Qua, miệng thì thào:
- Tôi... Tôi!
Nhưng cơn đau và lòng xúc động làm cho nàng như nghẹn thở không nói được. Dương Qua thấy tình cảnh như vậy, chỉ mong được chịu đau thế cho nàng mới yên lòng, nên nhỏ nhẹ nói:
- Cô! Cô! Tại tôi đã đến chậm một bước?
Tiểu long Nữ lắc đầu:
- Không, chàng đến thật đúng lúc! Tôi ngỡ kiếp này đã hết, hai ta không còn gặp nhau nữa.
Bỗng nhiên toàn thân nàng phát run lên cầm cập và hồn nàng như sắp lìa khỏi xác. Đôi tay nàng víu lấy cổ Dương Qua cũng buông thõng xuống, nàng như trăn trối:
- Dương Qua! Hãy ôm chặt lấy em!
Nàng cảm thấy cánh tay trái của Dương Qua từ từ ôm chặt nàng vào lòng. Trong đầu nàng thoáng qua muôn ngàn ý nghĩ, hai hàng lệ từ từ lăn xuống, rơi trên đôi gò má trắng bệch. Tiểu long Nữ lại nói:
- Em muốn chàng ôm chặt lấy em cả hai tay!
Nhưng nàng thoáng nhìn, thấy tay áo phía tay mặt của chàng bị trống rỗng. Nàng lấy làm lạ gọi thất thanh:
- Qua ca, cánh tay mặt của chàng đâu rồi?
Dương Qua chỉ lắc đầu, nở một nụ cười chua chát nói nhỏ:
- Bây giờ cô cứ an tâm đừng lo cho tôi, hãy nhắm mắt dưỡng thần trí để tôi vận khí trợ lực vết thương cho.
Tiểu long Nữ liền nói:
- Không! Cánh tay mặt của chàng đâu rồi?
Nàng tuy lâm nguy, nhưng không hề lo sợ cho thân nàng tý nào, nhất định hỏi chàng tại sao mất tay. Chỉ vì trong tâm não nàng, đối với người thiếu niên tuấn tú này quan trọng hơn mạng sống của nàng. Nàng cảm thấy cần phải dốc lòng săn sóc, lo lắng cho chàng, để khi nàng có chết di mới mãn nguyện! Tuy từ khi chung sống với nhau trong Cổ Mộ, sự yêu thương nhau đã phát lộ nhưng nàng lúc đó cũng chưa biết rõ là tình yêu, hai người săn sóc cho nhau và cứ cho đó là tình nghĩa giữa thầy trò, nhưng sự thật thì đôi nam nữ thiếu niên nầy, đã thương mến mê say nhau, mà không hay. Mãi đến khi xa nhau họ mới thấy tình yêu quá nắng nề. Hai người đều có ý định nếu không được sống để yêu nhau thì cùng nhau đồng chết.
Tiểu long Nữ cảm thấy cánh tay của Dương Qua quý hơn mạng sống của nàng, nên nàng nằng nặc muốn hỏi cho biết. Nàng đưa tay rờ nhẹ tay áo chàng thấy quả thật trống rỗng không cổ tay. Nàng quên hẳn đau đớn. Cảm xúc đầy tràn, nàng khẽ âu yếm hỏi:
- Thật đáng thương hại cho anh! Anh đã mất cánh tay tự bao giờ? Bây giờ còn đau không?
Dương Qua lắc đầu nói:
- Đã hết đau lâu rồi? Tôi chỉ cần cô luôn luôn ở bên mình, còn cánh tay có mất đi cũng chẳng quan hệ gì. Chỉ một cánh tay trái tôi cũng đủ để bế cô kia mà!
Tiểu long Nữ mỉm cười, cho chàng n6i rất đúng! Được nằm êm ấm trong lòng chàng là nàng đã thấy mãn nguyện rồi. Nàng vốn chỉ muốn gặp chàng một lần trước khi nhắm mắt, nhưng bây giờ lại được chàng bồng trên tay thì sung sướng yêu đời vô cùng. Lúc này nàng rất sợ tử thần đưa nàng sang bên kia thế giới. Nàng lo sợ phải chia tay với Dương Qua yêu quý của nàng.
Kim Luân Pháp Vương, Tiêu tương Tử, Ni ma Tinh, Doãn khắc Tây, Toàn Chân ngũ tử và đám đồ đệ, cùng lũ võ sĩ Mông Cồ, ai nấy đều sửng sốt không mở miệng nói một lời nào, chỉ đứng tần ngần ném mắt nhìn cặp nhân tình, đang âu yếm trước chiến địa.
Trong khoảng thời gian đó, ai cũng không muốn động tới họ, mà họ cũng không hề để ý đến ai cả.
Thường lệ, tình nhân, hay vợ chồng, trong những lúc chuyện trò thân mật với nhau là tìm những nơi vắng người, nhưng trái lại, ở đây Dương Qua và Tiểu long Nữ lại chìm đắm trong bể tình giữa những ánh mắt nảy lửa của mọi người. Họ xem mọi người như cây cỏ xung quanh họ. Đây thật là đôi nhân tình chưa từng thấy trên đời. Trước tình cảnh nầy mới thấy rõ tình yêu họ đã đến mức điên cuồng, không những công hầu khanh tướng, phú quí vinh hoa không màng tới mà cả đến sự chết chóc cũng xem nhẹ tơ lông hồng. Dương Qua và Tiểu long Nữ một khi đã không nghĩ tới cái chết, cái sống là gì, thì đừng nói chi đến chín vị cao thủ. Dẫu có anh hùng khắp thiên hạ đến tấn công một lượt, thì họ cũng chỉ thế thôi. Vì họ đã không biết sợ cái chết nữa kia mà.
Lẽ cố nhiên, bọn Kim Luân Pháp Vương đâu có sợ hai người họ, mà chỉ vì trong lòng đang kinh ngạc đến cực độ. Mắt họ đã trông thấy Tiểu long
Nữ bị trọng thương, Dương Qua chỉ còn có một cánh tay, thì còn sức chiến đấu là bao nhiêu. Nhưng trong lúc hai người khăng khít, ôm nhau, tỏ vẻ tự nhiên với một khí thế can đảm, làm cho người ngoài có ý thẹn thùng không dám đến gần.
Tiểu long Nữ chưa biết được sự thật, nên hỏi tiếp:
- Cánh tay chàng tại sao mất đi như vậy? Mau nói cho tôi nghe đi!
Dương Qua se sẽ cười gượng, nói:
- Bị người ta chặt mất rồi!
Tiểu long Nữ nhìn chàng với đôi mắt thảm thương quên hỏi đến người đã gây tai hại cho chàng. Nàng chỉ thấy sự bất hạnh thì ai là hung thủ cũng thế thôi. Lúc bấy giờ vết thương trong lưng và trước ngực nàng lại đau nhói lên kịch liệt, nên nàng cảm thấy không còn sống bao lâu nữa, vội thỏ thẻ:
- Dương Qua, em có một việc yêu cầu chàng.
Dương Qua đáp:
- Không lẽ cô quên lúc còn ở trong Cổ mộ, tôi đã hứa với cô rằng cô muốn làm việc gì tôi cũng phải làm cho vừa lòng cô kia mà.
Tiểu long Nữ thở dài não ruột nói:
- Đó là một lời hứa đã lâu rồi.
Dương Qua quả quyết nói:
- Nhưng bao giờ tôi cũng nhớ một lời hứa đó thôi.
Tiểu long Nữ héo hắt cười, nói nho nhỏ:
- Tôi còn sống không bao lâu nữa. Tôi muốn chàng ở bên tôi cho đến lúc thở hơi cuối cùng. Chứ chàng đừng đi đến gần Quách Phù nhé!
Dương Qua vừa đau lòng vừa căm hận, nói:
- Lẽ dĩ nhiên tôi luôn luôn ở bên cô. Còn Quách cô nương đâu có liên hệ gì dến tôi?
Nét mặt Dương Qua xám lại, nghiến răng kèn kẹt nói:
- Cánh tay này chính đã bị con nhỏ chặt mất.
Nằm gọn trong lòng Dương Qua, Tiểu long Nữ giật mình kêu lên:
- Thế sao? Nó là hung thủ hả? Sao nó lại nhẫn tâm đến thế?
Nàng im lặng một hồi rồi nói tiếp:
- Không lẽ... Hay là tự chàng không thương yêu đến Quách cô nương?
Dương Qua nói:
- Chúng mình đối đãi với nhau như thế này, sao cô cứ có ý nghi ngờ tôi? Ngoài cô ra xưa nay tôi chưa hề thương yêu một người nào khác! Hử! Cô còn nghi tôi với Quách cô nương...
Tiểu long Nữ nghe chàng nói chưa hết câu đã ngất xỉu trong lòng chàng. Cánh tay của Dương Qua sự thật là bị Quách Phù chặt mất...
Một đêm kia hai người ở trong Quách phủ, có những lời qua tiếng lại gây gổ nhau. Đến khi Dương Qua bị chất độc Tình hoa hành hung, nên nằm mê trên giường, Quách Phù trong cơn nóng giận không thể nén lòng được, bèn chộp lấy thanh kiếm Dương Qua để trên đầu giường giáng xuống đầu chàng. Dương Qua thấy thanh kiếm báu chém tới, mà trên giường không còn phương tránh né, nên vội giựt phăng thanh thục nữ kiếm bên hông của Quách Phù đưa lên đỡ. Nhưng thanh kiếm trong tay Quách Phù là vũ khí của "Kiếm ma độc cô cầu bại" năm xưa dùng để tung hoành trên chốn giang hồ nên chém sắt như bùn, bén không thể tưởng tượng được. Còn Thục nứ kiếm tuy cũng là bảo kiếm, nhưng vẫn bị kiếm nầy chém gãy. Trong lúc giận nóng Quách Phù đã dùng sức quá mạnh và cũng không ngờ thanh kiếm nầy lợi hại như vậy, nên thu thế không kịp, thanh kiếm chém đứt thanh Thục nữ rồi cắt đứt luôn cánh tay mặt Dương Qua. Nhát kiếm trong cơn nóng giận đã xảy ra một việc tày trời như vậy, Dương Qua phẫn nộ vô cùng. Quách Phù thấy thế thất phách hồn kinh, vì nàng tự biết đã gây họa lớn không thể cứu vãn được. Chỉ thấy trên vai Dương Qua máu tuôn lai láng, đến ngất lịm đi không còn động đậy nổi, một hồi lâu, Quách Phù bỗng òa lên khóc, rồi ôm mặt đẩy cửa chạy ra. Sau trận kinh hãi, Dương Qua dần dần lấy lại bình tĩnh, đưa tay trái điểm vào huyệt "Kim thinh" bên tay mặt của chàng, rồi xé một mảnh chăn quấn chặt vào vai cho cầm máu, rồi rắc thuốc kim thượng vào vết thương, lòng thầm nghĩ: "Nơi này mình không thể ở lại được nữa, phải lập tức ra khỏi thành nầy, để tìm chỗ dung thân". Nghĩ như vậy, liền gượng ngồi dậy, vịn theo vách tường lần đi mấy bước. Vì người còn ít máu nên mặt mày chàng xây xẩm muốn ngất đi. Cũng lúc ấy nghe Quách Tỉnh hối hả nói:
- Mau, mau! Sao vậy? Máu đã cầm chưa?
Tiếng nói chứa đầy lo lắng. Dương Qua biết, ông đến thăm chàng, trong lòng thầm nghĩ: "Mình đừng để Quách bá phụ gặp mặt thì tốt hơn". Nghĩ rồi hít một hơi dài dưỡng khí để lấy sức rồi chạy thẳng ra ngoài.
Lúc ấy Quách Tỉnh bị thụ thương, trong cơn mê man bỗng thấy con gái ông khóc lóc chạy vào phòng, kể lại nàng đã chặt tay Dương Qua, Quách
Tỉnh nghe qua sợ hãi với lấy then cửa dùng làm gậy chống, cố nén sự đau đớn, vội nhúc nhắc chạy đến phòng Dương Qua. Chạy chưa đến cửa, thì đã thoáng thấy Dương Qua mình mẩy đẫm máu, chạy ra cửa. Dương Qua từ trong phòng xông ra, nhận thấy Quách Tinh đang hối hả bước đến. Chàng hít thêm hơi dài nữa, cắn răng chạy thẳng tới cửa phủ tìm một con ngựa cưỡi, cho ngựa tiến về phía cửa thành. Những tướng sĩ thủ thành đã thấy tài nghệ của Dương Qua giúp Quách Tỉnh thoát nạn ở đầu thành hôm trước, nên không dám cản trở. Chỉ lo mở cửa thành cho chàng ra. Bấy giờ quân Mông Cổ đã thối lui hơn mấy mươi dặm, nhưng chàng vẫn dề phòng không dám đi đường lớn, cứ lựa ngõ hẻm lánh đi. Trong lòng chàng thầm nghĩ:
- Trên thân mình đã trúng nọc độc Tình hoa nhưng quá hạn không chết, chừng thế nầy có lẽ y lời thần tăng thiên trúc đã nói, lúc đã hút chất độc trên Băng phách ngân trâm của Lý mạc Thu, tức là lấy độc công độc, thì có thể kéo dài mạng sống. Nhưng đến lúc tái phát khó mà biết trước được vậy bây giờ bị trọng thương, nếu mình đến Chung nam Sơn để tìm Tiểu long Nữ thì chắc không đủ sức chịu thấu! Chẳng lẽ định mệnh khắt khe bắt mình phải vùi thân nơi đất khách nầy?
Cuộc đời của Dương Qua luôn luôn sống trong cảnh cô độc khổ đau, ngoài những ngày nương nhau sống chung với Tiểu long Nữ trong Cổ mộ, thì cuộc sống đầm ấm sung sướng ấy rất ít. Đến bây giờ mạng chàng đến lúc nguy nan, người thân yêu duy nhất trong đời cũng bỏ ra đi, chỉ còn thân hình tàn tật lưu lạc trên đất khách quê người vô định. Lòng Dương Qua lúc này không biết nghĩ gì nữa bất giác lệ trào uớt đẫm trên má.
Chàng phủ phục trên lưng ngựa, thần trí mê man chỉ cầu xin đừng để Quách Tỉnh tìm thấy, đừng gặp đại quân Mông Cổ, thì dù có lưu lạc đến phương trời nào cũng được, tình cờ con ngựa lẫm dẫm đưa chàng đến hoang cốc mà hôm trước chàng đấu võ với anh em họ Võ. Trong màn đêm, mắt nhìn tứ phía đều là cỏ hoang cao tới gối, tất cả đều chìm đắm trong im lặng tịch mịch, chàng đoán biết nơi nầy không có người tới, bèn ngã lưng xuống đám cỏ mà ngủ...
Bây giờ chàng cố gạt bỏ không suy nghĩ đến việc sinh tử gì nữa, nên đối với thú dữ, rắn độc đều coi như không có. Suốt đêm ấy vết thương đau đớn vô cùng, chàng bị mê ngất, lúc nào không hay...
Sáng hôm sau trở mình thức giấc, chợt thấy cách chỗ chàng nằm không đầy một thước, có hai con rít dài hơn hai thước nằm cứng đơ dưới đất, toàn thân lấm chấm đầy vết bầm, nhìn thấy rất kinh khủng, trên miệng còn dính đầy vết máu đen. Dương Qua giật nẩy mình, đứng dậy, chỉ thấy xung quanh hai cơn rít lớn, lại có một dòng máu khô, lòng thầm nghĩ:
- Như thế nầy vết thương mình ra máu qúá nhiều, nhưng trong máu có chất độc Tình hoa, nên vô tình đã giết chết hai con rít quá lớn nầy. Nếu không có máu vết thương ra nhiều, thì mình cũng chết bởi nọc độc hai con rít nầy nữa.
Chàng gượng cười nói:
- Thật không ngờ giống máu độc của thằng Dương Qua nầy lại giết chết hai con rít.
Miệng nói, nhưng trong lòng chàng chan chứa đau khổ bi thương, nên ngửa mặt lên trời thở một hơi dài. Bỗng nghe trên không "oắc, oắc, oắc" vang lên hai tiếng, Dương Qua nhướng mắt nhìn thì thấy con thần điêu ngẩng cổ ưỡn ngực đứng trên đỉnh núi, vóc hình cao hơn một thước rưỡi, trên bộ lông tuy xấu xí, nhưng lại thấy một vẻ uy dũng phi thường, Dương Qua mừng rỡ, tựa như gặp một người thân, liền kêu lớn:
- Điêu huynh, chúng ta lại gặp nhau nữa rồi.
Thần điêu kêu một tiếng lớn, rồi từ trên núi bay thẳng xuống. Vì thân thể quá nặng nề, đôi cánh quá ngắn nên không bay được, nhưng chạy rất nhanh nhẹn, trong nháy mắt nó đã tới bên mình Dương Qua. Chim điêu thấy chàng mất một cánh tay nên đôi mắt đăm đăm nhìn chàng như dò hỏi.
Dượng Qua gượng cười hỏi:
- Điêu huynh, ta đang thọ thương nên đến đây để nương tựa.
Chim điêu nghe chàng nói, nó se sẽ gật đầu rồi xoay mình đi trước, Dương Qua dẫn ngựa theo sau. Đi không được mấy bước, thần điêu bỗng
Nhiên quay đầu lại, bất thần xòe ra một cánh, đập "bốp" một cái lên lưng ngựa. Cái đập cánh sức mạnh như vũ bão, con ngựa thất kinh hí lên một tiếng, ngã lăn xuống đất chết tươi. Dương Qua gật đầu nói:
- Phải rồi, ta đã đến với điêu huynh, đâu còn phải đi nữa, thì cần chi đến con ngựa nầy?
Lòng chàng nhận thấy con điêu nầy như có linh tính, nên cố bước theo sau, nhưng chỉ trong nháy mắt thần điêu đi xa hơn mười trượng, chàng bèn giở khinh công đuổi theo. Chưa đầy một giờ, thì tới thạch động chỗ ngôi mộ của "Kiếm ma độc cô cầu bại". Dương Qua nhìn thấy cái thạch phần, năm xưa đã tung hoành trên giang hồ chưa hề gặp một người xứng đáng làm địch thủ thì võ công thần diệu vô cùng, chỉ xem những hành động của người như vậy thì đủ biết sự tài ba ngạo mạn, khó làm bạn với mọi người nên chung quy cuộc sống phải tới hoang cốc tịch mịch này mà gởi nắm xương tàn, rồi rốt cuộc trong sử sách, cũng như truyền thuyết trên giang hồ đều không hề nghe nhắc đến lai lịch và tiếng tăm của người. Mà sao cũng không để lại một cuốn sách võ hay một đệ tử nào để truyền nối võ công tuyệt thế ấy? Thân thế của ông nầy thật đáng sợ đáng mến. Nhưng tiếc thay thần điêu tuy linh tính, mà không biết nói chuyện thì mình đâu có thể hiểu được sự việc và thân thế của vị tiền bối "Kiếm mà độc cô cầu bại".
Chàng đứng tần ngần trước thạch động một hồi thì thần điêu đã ngậm hai con thỏ đem về. Dương Qua nướng ăn một bữa no nê.
Thời gian thấm thoát trôi qua nhiều ngày, vết thương dần dần cũng đã lành, thân thể từ từ bình phục lại. Mỗi khi nghĩ đến Tiểu long Nữ lòng chàng cảm thấy nhớ nhung khôn tả, từ điệu đi tướng đứng cho đến tiếng nói giọng cười dường như phảng phất gần đâu đây. Chàng vốn có tính náo động mà cả ngày làm bạn với thần điêu ở trong hoang cốc nên thấy rất cô đơn tịch mịch vô cùng.
-
Chương 67 - Ma Kiếm Trong Vách Núi - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 67 - Ma Kiếm Trong Vách Núi
Khi bệnh tình của Dương qua đã bình phục, thấy phía sau động có cỏ cây thanh lịch, phong cảnh hữu tình, bèn rảo bước dạo chơi, đi trong chốc lát tới một vách núi đứng sừng sững, như một bức bình phong cực lớn cao đến chọc trời. ở giứa vách núi cách mặt đất sáu mươi trượng, nhô ra một tấm đá lớn độ bốn năm trượng vuông, thành một sân dài bằng phẳng, trông thấp thoáng như có một dấu chữ khắc trên đó. Dướng Qua chướng mắt nhìn thật kỹ thấy hai chữ "kiếm mộ". Chàng lấy làm lạ, tự hỏi:
- Tại sao kiếm cũng có mộ? Không lẽ Độc cô tiền bối bị gãy thanh kiếm quý rồi chôn ở nơi đây?
Chàng bước lần tới vách núi, thì thấy vách đá láng trơn không mọc cỏ cây, cũng không có một dấu vết để bám tay được nên tự hỏi:
- Vách đá thẳng trơn như thế nầy, mà người cưa làm sao lên để làm "mộ kiếm"? Nhưng họ cũng là người như mình, sao lại leo được chỗ cao khó khăn như vậy được, chắc có một bí ẩn gì mình chưa tìm thấy. Nếu thật chỉ nhờ võ công mà leo lên được, thì thật là khó tưởng tượng.
Chàng cố hết sức suy tưởng, và chăm chú nhìn thật kỹ, bỗng thấy từ trên vách đá, một khoảng cách xa chừng một thì có mọc ra một chòm rêu. Tất cả có chừng năm chục chòm sắp một hàng thẳng từ dưới thấp lên trên cao. Dương Qua liền tung mình nhảy vút lên, đưa tay nắm lấy chòm rêu ở chỗ thấp nhất nhất thì vớ ra một nắm đất đen, quả nhiên sau lớp đất mọc rêu ấy, để lộ ra một cái lỗ nhỏ. Xem như vậy, chàng biết được xưa kia Độc cô dùng vật bén xoi những lỗ nhỏ trên vách đá đã trải qua nhiều năm tháng, lòng lỗ bụi tấp lâu ngày gặp nhiều sương gió mới sinh ra rêu. Dương Qua nhân lúc đang rảnh rang, nên muốn thừa dịp lên xem những gì trên ấy, nhưng khổ thân chỉ còn có một tay, leo trèo thật khó khăn. Chàng tự nhủ:
- Nếu không nổi thì thôi, có ai cười chê gì mà sợ?
Nghĩ xong bèn buộc chặt thắt lưng, rồi nhún mình nhảy cao hơn một trượng, chân trái đạp nấc thứ nhất, tiếp đến chân mặt đạp vào chòm rêu trên, làm cho đất dẻo bắn ra, lên cao hơn sáu trượng có một nấc rất lớn để nghỉ chân. Lần thứ nhất chàng leo chừng bốn chục trượng, thì bị kiệt sức, bèn nhè nhẹ tụt trở xuống, trong lòng thầm nghĩ:
- Mình leo đã hơn bốn mươi mấy nấc rồi, lần nầy phải cố sức thì leo được hết.
Nghĩ như vậy, chàng bèn ngồi xuống đất điều khí dưỡng thần một hồi, đoạn phóng mình lên, leo tuốt một mạch lên trên thạch đài. Dương Qua thấy tay bị mất, mà khinh công không hề suy giảm, nên trong lòng cảm thấy an ủi phần nào, nhìn vào tảng đá to, thì thấy hai bên chữ "mộ kiếm" thật lớn, lại có khắc thêm hai hàng chữ nhỏ: "Kiếm ma độc cô cầu bại" là vô địch trong thiên hạ được chôn kiếm nơi đây. Than ôi ta đi khắp giang hồ tứ hải mà chưa gặp người xứng tay đối thủ với trường kiếm ta, nên sắc bén cũng thành vô dụng.
Dương Qua thấy vừa kinh ngạc vừa ngưỡng mộ, nên hiết được vị tiền bối này rất khinh thế ngạo vật. Chàng cảm thấy tánh tình của vị này rất thích ý, nhưng còn nói đến việc đi khắp cả thiên hạ mà không gặp địch thủ, thì danh vọng này càng khó hơn nữa. Chàng đăm chiêu đứng nhìn hai hàng chữ một hồi lâu, quay đầu nhìn sang phía nam, thì thấy rất nhiều tảng đá chất thành ngôi mộ lớn, ngôi mộ này xây dựng về phía sơn cốc, phía trước nhìn thẳng về một dãy không gian vô tận. Dương Qua thầm nghĩ:
- Ta không biết vị tiền bối kiếm ma anh hùng thế nào, nhưng chỉ trông ngôi mộ nầy thì cũng biệt được văn võ song toàn, hoài bão phi thường của người rồi, nhưng trong sách và truyền thuyết thì lại không ai nhắc đến tên họ và sự tích. Thật là một việc khó hiểu. Dương Qua đứng bên mộ kiếm ngửa cổ ngâm một tiếng dài, bốn bề vọng vang lên không dứt.
Tâm trí chàng muốn xem thử trong mộ có những binh khí như thế nào nhưng lòng ngưỡng mộ vẫn không dám mạo phạm tiên nhân bèn ngồi ôm gối bên mộ, từng làn gió thoảng qua làm cho tâm thần sảng khoái vô cùng, cảm thấy lâng lâng như thoát tục.
Bỗng nhiên dưới vách núi vọng lên "gù, gù, gù" ba tiếng. Chàng ló đầu nhìn xuống, thấy thần điêu đang tung tăng nhảy theo các nấc lỗ vách leo lên. Thân hình nó nặng nề nhưng mỗi chân nó đều có sức mạnh ngàn cân, nên tung mình lên mỗi cái đều ba trượng, trong chốc lát thì đã leo lên tới bên Dương Qua.
Thần điêu nhìn qua nhìn lại một hồi rồi khẽ gật đầu, kêu lên mấy tiếng, âm thanh thật kỳ dị.
Dương Qua cười bảo:
- Điêu huynh chỉ tiếc vì tôi không biết nghe tiếng của loài chim, không hiểu được lời nói của huynh nên không thể biết được việc sinh tiền của Độc cô tiền bối mà huynh đã biết.
Thần điêu lại khẽ kêu lên mấy tiếng, rồi đưa đôi chân cứng rắn ra, bươi mạnh những táng đá trên mộ. Dương Qua chợt thoáng qua một ý niệm:
- à! Võ công của Độc cô tiền bối đã thâm hậu tuyệt chúng đến thế, không lẽ không để lại một pho kiếm kinh hay quyền phổ gì sao?
Đôi chân của thần điêu bươi không ngừng, chẳng bao lâu những tảng đá trên mộ đều lật qua một bên, để lộ ra ba thanh kiếm sắp một hàng, ở khoảng giữa thanh kiếm thứ nhất và thứ nhì, lại có một mảnh đá mặt phẳng và có diện tích chừng hai tấc vuông, dày không đầy một phân. Ba thanh kiếm và mảnh đá mỏng ấy đều sắp trên một tảng đá xanh. Dương Qua lấy thanh kiếm thứ nhất ở bên tả lên thì thấy trên tảng đá ở dưới thanh kiếm có khắc một hàng chữ "thanh gươm nầy rất cứng rắn, lúc thiếu thời dùng để tranh hùng với quần hùng". Dương Qua thấy thanh kiếm trong tay dài chừng bốn thước, ánh thép xanh lóng lánh, thật là một lợi khí chưa từng thấy. Chàng nghiêng mình nhìn mảnh đá mỏng nằm trên thanh kiếm thì thấy khắc hai hàng chữ nhỏ: "Tử vi nhu kiếm, bước ba mươi tuổi dùng nó, đã lỡ tay chém trọng thương một người nghị sĩ, thật là điều bất tường nên ném nó trong hang cốc". Đọc đến đây, toàn thân Dượng Qua bất giác rung động, lòng thầm nghĩ:
- Cánh tay của mình bị Quách Phù dùng thanh kiếm nầy chặt đứt, vì Độc cô tiền bối đã vứt nó trong hoang cốc rồi rắn độc nuốt vô trong bụng, nhưng thần sai quỷ khiến, lại để cho mình lấy được. Thật trên đời nầy khó mà có lợi khí như vật nầy tuy lúc mình đang bị bịnh nhưng đâu có dễ gì Quách Phù chém đứt được cánh tay nếu không có thanh kiếm ấy?
Chàng đứng tần ngần một hồi lại thò tay lấy thanh kiếm thứ hai, nào ngờ mới xách lên thì nghe "keng" một tiếng, trường kiếm rơi xuống đá, bật lửa tung tóe ra, làm chàng giật mình lách sang một bên. Nhưng té ra thanh kiếm ấy bụi bám đầy không có vẻ gì khác thường nào ngờ đâu lại có một sức nặng lạ thường. Bề dài chừng hơn ba thước mà nặng hơn sáu chục cân, nên khi xách lên chàng tưởng như những thanh kiếm khác, thành bị sút tay. Do đó, chàng đặt thanh kiếm trên tay xuống đá rồi cố sức nắm thanh kiếm thứ hai lên. Kiếm nầy tuy nặng, nhưng đối với công lực của chàng, thì sáu, bảy chục cân còn nhẹ nhàng và sử dụng dễ dàng, xem lại kỹ lưỡng thấy hai bên mép đều lụt cả còn mũi kiếm thì tròn tròn như hình bán nguyệt.
Chàng tự nghĩ:
- Kiếm nầy nặng nề như vậy thì làm sao sử dụng cho tiện lợi được? Hơn nữa, hai bên mép và mũi đều không sắc bén, thì thật là kỳ đời.
Chàng cúi xuống nhìn hai hàng chữ nhỏ khắc trên đá: "Kiếm nầy nặng nề mà không bén. Trước bốn mươi tuổi nhờ nó mà tung hoành khắp giang hồ". Dương Qua lẩm bẩm đọc đi đọc lại mấy lượt, trong lòng như có sở ngộ, nhưng nghĩ lại kiếm thuật trong thế gian, bất cứ một môn phái nào, biến hóa nghệ thuật khác nhau, nhưng vẫn lấy cái lanh lẹ làm chính, mà thanh kiếm nầy nặng như vậy không biết sử dụng bằng cách nào được? Một hồi, chàng để trọng kiếm xuống, đưa tay lấy thanh kiếm thứ ba, lần này chàng bị mắc mưu một lần nữa. Cứ tưởng là thanh kiếm thứ ba chắc nặng hơn thứ nhất vừa rồi, chàng vận nội công vào tay để nâng kiếm lên. Nào ngờ đâu lại nhẹ quá nên giơ bổng lên cao. Chàng chăm chú nhìn lại, thì thấy là thanh kiếm bằng gỗ, qua nhiều năm tháng, kiếm đã hư mục hết cả, nhưng thấy mặt đá dưới kiếm có mấy hàng chữ nhỏ: "Sau bốn mươi tuổi, thảo mộc túc thạch đều làm kiếm được, từ đấy tĩnh tâm tu luyện, dần dần tiến đến mức không dùng kiếm mà thắng được người có kiếm". Dương Qua cung kính để thanh kiếm gỗ xuống về chỗ cũ, thở một hơi dài nói:
- Thần kỳ của tiền bối thật khiến cho người đời khó tưởng tượng được.
Chàng có ý định ở dưới phiến đã chắc có tài liệu sách vở gì chăng bèn đưa tay giở lấy mảnh đá lên xem, thì thấy đó chỉ là lớp nham thạch của vách núi, không có vật gì khác, nên ngồi đăm chiêu tìm hiểu.
Bỗng nhiên thần điêu "gù" một tiếng, rồi ngậm thanh kiếm nặng lên, trao vào tay Dương Qua, kế đó lại "gù" một tiếng nữa, chiếc cánh trái xòe ra, đập mạnh xuống đầu Dương Qua. Chàng cứ ngồi tần ngần ở đó, cánh của thần điêu đập xuống cách đầu chàng chừng một thước thì ngừng lại, mỏ lại "gù, gù" lên tiếng. Dương Qua nói:
- Điêu huynh lại muốn thử sức tôi sao? Rảnh rang cũng buồn, thôi để tôi thử với huynh vài đường nhé!
Nhưng chàng thấy thanh kiếm trong tay nặng quá, không thể múa lanh lẹ được, bèn để trọng kiếm xuống, lấy thanh kiếm thứ nhất lên. Thần điêu đột nhiên xếp cánh lại, quay phắt mình đi không ngó ngàng gì tới Dương Qua nữa, như có vẻ bất bình muốn bỏ Dương Qua đi.
Dương Qua hiểu ý, vội vã cười nói chiều ý chim điêu:
- Huynh muốn tôi dùng trọng kiếm hả? Nhưng tôi võ công quá tầm thường, nếu ở đây thử sức, thì không phải là địch thủ với nhau, vậy mong huynh nới tay chút nhé!
Nói xong, chàng liền đổi lấy thanh kiếm nặng hơn sáu chục cân ấy rồi khí vận vào đơn điền, sức chuyển vào tay trái chầm chậm chém một nhát. Thần điêu vẫn điềm nhiên không xoay mình lại, chỉ vươn thẳng chiếc cánh ra phía sau, đụng vào thanh kiếm. Dương Qua thấy có một luồng sức mạnh từ mũi kiếm thâu lui về, làm cho chàng thở không ra hơi, lập tức vận sức chống lại, nghe "ự" một tiếng. Dương Qua cảm thấy xây xẩm mặt mày, rồi ngất lịm luôn. Chẳng bao lâu Dương Qua mới tỉnh lại, thì ngửi có mùi thơm ngát ở miệng chàng tỏa ra và đầu lưỡi còn thơm vị ngọt ngào, tựa như trong cơn mê có ăn một món gì lạ lùng lắm vậy. Chàng mở bừng mắt ra, thì thấy thần điêu miệng ngậm một quả chín đỏ tươi sắp đút vào miệng chàng. Dương Qua nhai mấy miếng, cảm thấy mùi vị nó thơm ngon ngào ngạt, như mùi vị đã cảm thấy ăn trong khi hôn mê vậy. Dương Qua hít vào một hơi dài, thì nghe lồng ngực hô hấp dễ dàng, liền đứng lên múa động tay chân thấy sức mạnh lại có một phần tăng lên và tinh thần lại sảng khoái vô cùng chàng lấy làm lạ:
- Theo lẽ thường thí võ, nếu gặp đối phương mạnh sức đánh mình ngã nghẹt thở, xỉu đi, dù không bị trọng thương, ít ra toàn thân cũng bị đau nhức, chứ không lẽ mấy quả chín đỏ tươi nầy lại là thuốc thần để trị những vết thương sao?
Chàng khom lưng nhặt thanh trọng kiếm lên, thì nghe như nhẹ đi một, phần. Cũng trong lúc ấy, thần điêu "gừ" lên mấy tiếng rồi xòe cánh đập mạnh xuống đầu Dương Qua một cái. Chàng không dám đỡ nữa vội xoay mình lách đi, thần điêu liền bước tới một bước, tung đôi cánh đánh mạnh một lượt, sức mạnh cực kỳ mãnh liệt. Dương Qưa biết nó không có ác ý, nhưng nghĩ lại thần điêu tuy có linh dị mà vẫn là con vật, thân nó có thần lực, khi dùng đôi cánh công kích, thì khó điều khiển sức mạnh để nhân tình được. Nếu nó quét trúng một cái là từ đây rơi xuống, thì còn gì là tính mạng?
Mắt nhìn đôi cánh quét tới, chàng vội bước lui hai bước, chân trái đá động vào mé đá rồi! Thần điêu cũng không chút dung tình, cái đầu to tướng vươn tới, chiếc mỏ cong mổ xuống đầu chàng. Dương Qua hết đường lui tránh, nên sợ hãi đưa kiếm lên đỡ, nghe "phập" một tiếng, chiếc mỏ chim điêu trúng thanh kiếm. Dương Qua cảm thấy chấn động cả cánh tay, trọng kiếm như muốn tuột khỏi tay, nhưng thấy thần điêu lại quét mạnh cách mặt thẳng vào đôi chân chàng. Dương Qua tung mình nhảy cao hơn một trượng, vượt qua đầu thần điêu, lướt vào giữa thạch đài, nhưng sợ nó tấn công, liền tung ra một kiếm, cũng nghe "phập" một tiếng lại cũng chạm phải cái mỏ ngàn cân đấy nữa. Dương Qua vừa thoát qua mấy đòn ác liệt, nên mồ hôi toát lạnh cả người, vội kêu lên:
- Điêu huynh! Đừng có xem tôi như Độc cô đại hiệp mà tấn công dữ như vậy.
Thần điêu kêu gừ gừ hai tiếng, không áp đảo nữa. Dương Qua tình cờ nói lên câu "xem tôi như là Độc cô đại hiệp" nên thầm nghĩ:
- Thần điêu chắc ở bên Độc cô tiền bối đã lâu, nên bước đi tiến thoái như một tay võ nghệ cao cường vậy. Có lẽ là Độc cô tiền bối một mình buồn tẻ, phải tập nó để làm đối thủ thí võ cùng nhau. Nhưng ngày nay Độc cô tiền bối chết đã lâu, xương đã tan, võ học tuyệt thế cũng theo người mà mất đi, thì may ra trên mình thần điêu không chừng mình có thể tìm lại được một chút dị phong của vị tiền bối đại sư này.
Chàng nghĩ đến đây, trong lòng đầy hy vọng, nên nói với thần điêu:
- Điêu huynh, cẩn thận nhé, thế kiếm của tôi tới nữa đây.
Vừa dứt lời, chàng vung kiếm chém thẳng vào ngực thần điêu. Thần điêu cánh trái xòe nhanh ra đỡ, cánh phải đập tới tấn công. Suốt ngày hôm ấy, Dương Qua lo tập luyện tỷ thí với thần điêu trên sân đá. Nhưng vì sức lực của thần điêu quá mạnh, cứ một cánh quét qua, sức gió như vũ bão, như một chưởng phong mấy chục vị cao thủ hợp lại, rồi đánh ra một lượt nên những môn "Tinh chân kiếm pháp", "Ngọc nữ kiếm pháp" là sở trường bình sinh của Dương Qua, mà bây giờ không dùng được một thế nào, chỉ có lấy sự lanh lẹ để đánh nó mà thôi.
Đến tối, người và điêu cùng trở xuống sơn động, Dương Qua lao nhọc suốt ngày nhưng lạ thay không cảm thấy chút mệt mỏi, mà tinh thần lại sảng khoái hơn ngày thường. Chàng mới biết rõ công lao chăm sóc của thần điêu đã cho ăn những trái cây quý báu, nên thân thể mới thêm sức lạ thường thế này.
Sáng hôm sau chàng thức dậy, thì thấy chim điêu đã ngậm sáu quả chín để bên mình chàng. Dương Qua ăn xong, ngồi yên điều khí, có những mạch huyệt trước kia không chuyển công được bây giờ bỗng nhiên lưu thông trở lại. Dương Qua sung sướng vô cùng, lớn tiếng nói:
- Điêu huynh! Nay mình cùng lên thạch đài thí võ nữa chứ?
Chim điêu khe khẽ gật đầu.
Chàng tung mình nhảy phắt dậy, xách trọng kiếm cùng thần điêu ra đi. Ngày hôm qua, chàng đi mình không mà lên sân đã thấy khó khăn, nhưng ngày hôm nay trên tay xách theo trọng kiếm nặng hơn sáu chục cân, lại leo lên một cách nhẹ nhàng vô cùng. Dương Qua tự biết sau một ngày rèn luyện, công lực đã tiến lên rất nhiều nên khi giao đấu với thần điêu, bớt được một mối lo sợ phập phồng. Tuy vẫn còn tránh né, nhưng dưới đôi cánh lợi hại vô cùng của thần điêu, thỉnh thoảng chàng có thể trả được nhiều đòn hiểm độc.
Cứ như thế tập luyện được mấy ngày, Dương Qua sử dụng trọng kiếm trở nên lẹ làng, mỗi đường gươm, mỗi nhát chém đều thấy đúng theo ý muốn. Chàng vốn thông minh, nên mấy tháng trước đã ra công suy nghĩ nhiều ngày dựa theo võ công Toàn Chân phái và Cổ mộ phái, để tự khai thác ra một đường lối mới, lập được một phái võ học khác biệt cũng không thua sút gì các phái võ lâm khác. Nhưng hiện giờ sức lực chẳng đặng tăng, mỗi ngày tay dùng trọng kiếm đấu với thần điêu, càng ngày càng thấy rõ kiếm thuật lúc trước nay đã biến hóa vô cùng, nên vừa đánh với thần điêu vừa suy nghĩ những đường đi, nước bước của kiếm thuật. Những thế rất dễ dàng đơn giản thì đối phương nhiều lúc bối rối. Lúc này Dương Qua chỉ còn có một tay, nhưng ngày nào cũng được ăn những quả chín đỏ tươi không biết thần điêu ở đâu hái về, tự nhiên sức mạnh tăng lên mãi, đến ngày sau, lại có thể chống đối lại thần lực của thần điêu, nên nhát kiếm tung ra tiếng gió vù vù, trong lòng tự thấy an ủi vô cùng. Nhưng thật ra chàng nhờ có những căn bản học lúc trước, chứ hôm nay mới kỳ ngộ, đâu có thể đạt đến mức nầy. Vì thần điêu là một con vật không biết nói, vả lại nó cũng không rành bao nhiêu võ công. Chỉ nhờ có một sức mạnh và theo Độc cô cầu bại đã lâu ngày, thường giao đấu với ông nên mới biết được ít phép thuật tấn thoái mà thôi.
Sáng hôm nay thức dậy, thấy bầu trời mây đen, mưa đổ như vỡ đê. Dương Qua hỏi thần điêu:
- Điêu huynh! Hôm nay trời mưa to như thế, chúng ta còn luyện võ nữa không?
Thần điêu đưa mỏ, ngoạm áo chàng kéo đi thẳng về phía Đông Bắc được mấy bước, rồi thả áo ra, nó cất bước đi trước. Chàng tự nghĩ:
- Chắc ở hướng nầy còn vật gì kỳ lạ nữa chăng?
Nên cầm trọng kiếm dầm mưa đuổi theo, đi được mấy dặm, bỗng nghe "ầm ầm" những tiếng không ngớt vang lên. Càng đi tới tiếng vang càng náo động, hiển nhiên là tiếng nước đổ? Dương Qua thầm lo:
- Cơn mưa như thế nầy, nước mưa trên núi tuôn xuống mạnh, mình cần phải cẩn thận.
Qua khe núi hẹp, tiếng nước đổ nghe bùng tai, thấy giữa hai ngọn núi cao một thác nước như con bạch long đang cuồn cuộn đổ xuống trút vào một khe núi lở ầm ầm như sấm sét. Trong dòng nước chảy xiết, lại mang theo những tàn cây đá lớn từ trên núi cuốn nhào xuống. Bây giờ mưa lại càng lớn, quần áo Dương Qua ướt hết, bốn bề hơi nước mit mù, tạo thành một cảnh tượng rùng rợn, chỉ thấy thác nước chảy quá mạnh, trong lòng đầy lo sợ.
Thần điêu đưa mỏ kéo áo Dương Qua đi tới bên thác nước, như muốn đẩy chàng xuống. Dương Qua kinh hãi hỏi:
- Xuống dưới làm gì? Nước chảy xiết như thế này, bước xuống là trôi đi mất còn gì?
Thần điêu buông chiếc áo Dương Qua, ngửa cổ gáy dài, rồi nhảy vụt xuống nước, đôi chân đứng trên một tảng đá to giữa dòng. Đoạn nó dùng cánh trái quạt tảng đá một cái, làm cho tảng đá tung ngược lên thượng lưu. Nước chảy mạnh đưa tảng đá đổ xuống. Thần điêu chờ cho tảng đá trôi xuống thì lại quạt thêm một cái đánh trở lên. Cứ như thế thần điêu đánh mãi tảng đá đến sáu bảy hiệp mà tảng đá vẫn chưa thể trôi qua khỏi mình chim điêu được. Đợi đến lần thứ tám, tảng nham thạch vừa cuộn xuống, thần điêu vẫy cánh đập mạnh qua một cái, nham thạch lìa khỏi mặt nước bay bổng lên bờ bên phải. Thần điêu cũng tiếp nhảy lên đứng bên Dương Qua.
Dương Qua thầm đoán:
- Thuở xưa mỗi lúc mưa to, "Kiếm ma độc cô cầu bại" đến chỗ nầy để luyện kiếm, còn mình thì đâu có sức mạnh phi thường ấy mà dám thử liều?
Lòng thành đang phân vân thì thần điêu bỗng tung cánh nghe "soạt" một tiếng, phất trúng dưới lưng Dương Qua. Dương Qua trong lúc sơ ý nên rơi thẳng xuống khe, chàng phải cắn răng vận hết sức xử thế "Thiên cầu tục" đứng thẳng trên tảng đá to. Đôi chân chàng vừa chấm vào nước đã bị loạng choạng, thầm nghĩ:
- Độc cô tiền bối là người, mình cũng là người, mà trước kia tiền bối đã đứng được, sao nay mình lại không đứng được?
Nghĩ như thế, chàng bèn tụ khí ngưng thở, lo sức chống lại với sức mạnh của thác lũ. Nhưng việc đưa kiếm đỡ những tảng đá trôi theo nước cuốn dội xuống thật là việc khó vô cùng. Đứng đó chừng hơn một tiếng đồng hồ, sức lực của Dương Qua đã dần dần kiệt quệ, chàng bèn chống kiếm xuống tảng đá, nhảy vọt lên bờ. Chàng đứng trên bờ chưa kịp thở mấy hơi, đã bị thần điêu đưa cánh đập xuống. Lần này Dương Qua đã đề phòng, nên không bị nó quét trúng, mà chỉ tự động nhảy xuống khe. Chàng thầm nhủ:
- Chim điêu thật là một ông thầy tốt, một người bạn quý, nên ép mình luyện công không chút bê trễ . Nó đã có mỹ ý vậy, thì mình chẳng lẽ không cầu tiến hay sao? Chàng cố sức trầm trí đứng thật vững, một hồi lâu, dần dần tìm được môn ngưng khí để dung sức nước mỗi lúc một lớn thêm ngập lên tới ngực chàng. Chàng lại thấy chống chọi còn dễ hơn trước. Một lúc lâu nước cuộn chảy lên tới ngực lần lần lên tới miệng, Dương Qua thầm lo:
- Tuy mình đứng đã vững, nhưng nước đang lớn mạnh, đứng mãi ngập nước chết sao?
Chàng vội nhún mình nhảy phắt lên bờ, nào ngờ thần điêu đứng trên bờ thấy chàng vừa nhảy lên, không để cho chân chàng chấm đất, đã quạt cánh, Dương Qua vội đưa kiếm gạt mạnh, lại bị sức mạnh của đôi cánh quét qua nghe "tũm" một tiếng thì chàng bị trầm mình xuống giữa dòng nước rồi.
Đôi chân chàng vừa đạp tới nham thạch dưới lòng khe nước thì nước đã ngập quá đầu, một luồng nước vọt thẳng vào miệng. Nếu chàng vận khí đưa ngọn nước ra khỏi miệng, thì nội lực tăng lên, ắt chân bị bổng lên. Chàng liền ngưng khí thủ trung, nín thở một hồi lâu, nhún chân một cái, nhảy lên mặt nước miệng bắn ra một làn nước rồi trầm nữa xuống lòng khe, nhướng cho nước lũ vượt qua đầu. Thân chàng như một cây gậy chống ở giữa dòng, đứng vững trong nước chảy mạnh mà không hề lay động. Lòng chàng trở lại yên tĩnh, thầm nghĩ:
- Chim điêu muốn mình đứng vững trong nước lũ, mà bây giờ mình đứng đã vững rồi, thì thử dùng kiếm để phá như nó khi nãy coi! Chớ để nó khinh mình sao?
Dương Qua vốn xưa nay có tính háo thắng, nên trước mặt một con vật cũng vẫn tự ái. Vừa lúc sơn thạch và cành cây theo nước trôi xuống, chàng bèn đưa kiếm chặt ngang và phất ngược lên, làm cho nham thạch tung ngược lên thượng lưu còn cành cây vút bổng lên bờ. Hai nhát kiếm đầu chàng thấy có hiệu lực, trong lòng đầy niềm hy vọng, vì thế tay chân chàng trở nên linh hoạt vô cùng. Chàng không ngớt tay vừa chém vừa đâm, luyện mãi cho đến khi gân cốt sức lực đều kiệt quệ, chân bước xiêu vẹo, mới tung mình nhảy lên bờ.
Chàng sợ thần điêu lại đuổi chàng xuống nữa mà bây giờ đôi chân đã mất sức nếu không nghỉ ngơi một chút thì khó chống lại với áp lực của thác lũ. Quả nhiên thần điêu vừa thấy chàng từ dưới nước tung lên lập tức giương đôi cánh đánh ra. Dương Qua vội la lên:
- Điêu huynh! Muốn tôi chết sao?
Chàng bèn đứng dưới khe một hồi nữa nhưng chàng kiệt sức không thể đứng vững. Chàng vội nhảy lên bờ, thần điêu cũng giơ cánh quạt tới đỡ. Dương Qua không biết nói sao hơn nên hồi trọng kiếm chém trả mấy nhát, chỉ đánh ba đòn thần điêu đã phải lùi một bước. Chàng vội nói:
- Xin lỗi điêu huynh!
Rồi chém một nhát nữa nghe "soạt soạt" mấy tiếng, khí thế trở nên khác thường. Thần điêu thấy mũi kiếm đến quá mạnh không dám đón lại vội tránh lui. Dương Qua thấy sự luyện kiếm chỉ hơn nửa ngày trong nước lũ mà sức mạnh tăng lên rất nhiều, lòng phấn chấn vô cùng tự nhủ:
- Sức tăng thêm như thế này dẫu có luyện trong mười ngày nửa tháng chưa chắc đã được nay chỉ có luyện nửa ngày trong nước lũ mà được như thế này là nhờ những quả chín đỏ tươi thần điêu cho mình ăn hàng ngày có nhiều chất bổ gân cốt.
Dương Qua ngồi nghỉ trên mé bờ một hồi thấy trong người khoan khoái. Lần này thần điêu chưa thúc giục chàng đã tự động nhảy xuống khe tiếp tục luyện kiếm. Tập mãi hơn ba tiếng đồng hồ chàng mới cảm thấy mệt. Lần này chàng nhảy lên thì không thấy thần điêu ở đó nữa, chẳng biết nó đã đi đâu rồi. Mắt nhìn cơn mưa dần dần nhẹ hột, lòng chàng nao nao nghĩ:
- Nếu để ngày mai trở lại thì sức nước yếu mất, bây giờ mình cũng chưa mệt gì mấy, nên tập luôn một hồi nữa đã.
Nghĩ xong, chàng vội tung chân nhảy xuống khe, tung kiếm đánh tảng đá to đang tuôn mạnh xuống thác. Nháy mắt tảng đá đã vụt lên trên thác rồi. Cứ như thế chàng tập mãi và lúc này các vật to lớn đến đâu cuốn trôi theo nước cũng bị chàng đón đỡ được dễ dàng.
Khi Dương Qua nhảy lên thì thấy trên bờ đã để sẵn bảy quả chín. Chàng cảm kích ơn huệ của thần điêu vô cùng. Chàng ăn một hơi hết bảy quả chín rồi lại lo nhảy xuống khe luyện kiếm nữa. Tập mãi đến trời tối, chàng cảm thấy càng luyện, sức lực càng tiến, không còn biết mệt nữa, và tinh thần lại sảng khoái vô cùng. Suốt đêm ấy chàng không ngủ. Tâm thần minh mẫn, chàng tìm được rất nhiều kiếm lý trong dòng nước, nào là chém xuôi, đâm ngang, gọt dọc v.v...
Đêm đã khuya, mưa lớn vừa dứt hột, nền trời bao la, ánh trăng vằng vặc. Dương Qua nghĩ:
- Tâm trí đã thông kỳ lý, tay tinh kỳ thuật thế này là kiếm pháp của trọng kiếm đã lĩnh hội được hết, không cần luyện nữa, mình cứ theo lời của Độc cô tiền bối viết trong một kiếm, thì mai sau nội lực tăng lên, vả thanh kiếm trên tay sẽ thấy nhẹ dần di, tới sau cùng mình dùng kiếm gỗ cũng như dùng kiếm nặng. Thật lúc nầy mình mới thấy lời của Độc cô tiền bối là thâm thúy. Đúng là từ chỗ nông cạn đến chỗ cao thâm, do sự tu luyện của mình! Vậy kiếm thuật tập đến đây như đã hết. Dương Qua yên lặng rảo bước theo bờ suối, ngước mặt nhìn trăng thanh, lòng tưởng niệm đến Độc cô tiền bối đã để lại thanh trọng kiếm nầy. Nhưng nếu không nhờ Thần điêu ở một bên giúp sức chỉ dẫn, và không nhờ ăn những quả chín đỏ tươi ấy, thì nội lực đâu có tăng lên, để có thể tìm thấy kiếm thuật nầy ở trên thế gian? Độc cô cầu bại tự ý tìm được những bước
thần tiên trong kiếm thuật, thật là thông minh, tài trí lạ thường!
Chàng đứng yên lặng bên dòng nước để hoài niệm tiền nhân, lòng vừa mến phục, vừa biết ơn, vừa thương tiếc. Chàng thoáng ra một ý nghĩ:
- Mình tuy đã tìm ra được bí quyết của kiếm thuật, nhưng mãi ở chốn hoang vu nầy, thì có ích gì? Nếu chất độc của "Tình hoa" bộc phát, rồi ngày mai mình chết đi thì kiếm thuật tinh vi nầy lại phải tiêu tan như làn khói?
Dương Qua nghĩ đến đây, hùng tâm bốc lên: nên dùng thanh kiếm này đánh cho quần hùng trong thiên hạ đến tơi bời thúc thủ rồi mới chết cho thoải mái. Chàng đưa tay trái rờ vào bên phải lại nhớ đến cảnh rùng rợn khi cánh tay mặt chàng bị rớt trên giường nơi Quách Phù máu nóng liền sôi lên chàng thầm nghĩ:
- Con nhỏ này ỷ cha nó là đại hiệp đương thời, mẹ nó là bang chủ Cái Bang nên xem mình không được nửa con mắt. Còn mình lúc nhỏ phải ở nhà nó chịu biết bao nhiêu điều miệt thị của mẹ con nó. Mình nói dối để gạt anh em họ Võ sự thật cũng là muốn tốt. Nếu anh em họ Võ có một người vì nàng mà chết đi như thế không phải là tội của nàng sao? Hừ thế mà nó lại thừa lúc mình bệnh, chặt mất cánh tay, thù này mình không trả thì nó sẽ khinh rẻ suốt đời.
Dương Qua xưa nay vốn trọng ơn ghét oán, bụng dạ không rộng rãi mấy, bây giờ vết thương đã lành, võ công lại tiến rất nhiều nên tâm tư đều để hết vào việc trả thù. Lòng quyết định chàng vội bước trở về sơn động nói với thần điêu:
- Điêu huynh! ơn đức của điêu huynh suốt đời tiểu đệ không dám quên. Nhưng hiện nay tiểu đệ còn bao nhiêu việc ân oán trên giang hồ chưa trả xong. Ngày sau chúng ta cùng chung sống. Còn cây trọng kiếm của Độc Cô tiền bối xin cho tiểu đệ tạm dùng trong những ngày xa cách điêu huynh.
Nói rồi chàng đến lạy mộ đá của Độc cô cầu bại, đoạn quay đầu bước ra thung lũng. Thần điêu đưa Dương Qua ra ngoài cửa. Một người, một chim cúi đầu tạm biệt. Thanh kiếm nặng nề vô cùng, nếu giắt vào mình thì dây buộc lưng không chịu nổi. Dương Qua tìm được ba sợi dây mây già ở bên núi quấn nhập thành một, buộc chặt trọng kiếm vào lưng, rồi giở khinh công, chạy thẳng về thành Tương Dương.
Khi đến ngoài thành mặt trời gần lặn, chàng thầm nghĩ:
- Ban ngày hành sự không tiện, vả lại một đêm mình không ngủ thì sức khỏe bị sút đi. Quách phu nhân và Quách bá bá đều là tay cao thủ mà hôm nay chắc cơ thể đã bình phục, nếu gặp mình sẽ có một trận ác chiến.
Nghĩ như thế, chàng liền vào bãi tha ma ở ngoài thành ngủ một giấc, đoạn điều khí vận công, rồi hái một mớ trái rừng ăn cho đỡ bụng, đợi hết canh một mới chạy thẳng tới thành Tương Dương.
Thành Tương Dương hùng vĩ vô cùng! Ngày trước Kim Luân Pháp Vương cùng Lý mạc Thu từ trên đầu tường nhảy xuống, còn phải dùng người lót chân mới dám lướt qua. Bây giờ từ chân tường leo lên thật là một việc rất khó. Khi nằm ngoài bãi tha ma, Dương Qua đã nghĩ được kế leo thành theo thuật của Độc cô tiền bối dùng để leo lên vách núi nên lòng thấy khoan khoái vô cùng. Chàng đi tới cửa thành tìm một nơi vắng vẻ, chờ những tên quân canh trên thành đi cách xa, mới tung mình nhảy lên, rồi dùng trọng kiếm chém một nhát vào thành. Trọng kiếm tuy không bén nhọn, nhưng thế kiếm quá mạnh, tường xây bằng đá hoa cương thật dày chỉ nghe một tiếng vang lên tường thành đã vỡ ra một lỗ bằng nắm tay. Dương Qua không ngờ một nhát kiếm đã thành quả như vậy, lòng vừa lo vừa mừng, chàng nhảy lên bám chân trái vào chỗ vỡ, đưa tay chém thêm một nhát kiếm nữa. Lần nầy chàng ra tay nhẹ hơn để khỏi gây ra tiếng động làm cho binh tuần hay được. Cứ như vậy, chàng leo lên từng bước, khi còn cách đầu thành ba bước chàng liền giở thuật "Bích hổ du tường" leo lên núp vào chỗ bóng tối. Tường thành có nấc thang để xuống. Dương Qua đợi khi quân canh đi qua rồi, lẹ làng nhảy xuống thành, chạy thẳng vào Quách phủ.
Sau khi ăn qua những quả hồng nội lực chàng đã tăng nhiều, làm cho cơ thể nhẹ nhàng, khinh công thâm hậu hơn xưa. Tuy nhiên chàng biết võ công của Quách Tỉnh thật phi thường, chỉ một môn "Giáng long thập bát chưởng" thì đã vô địch trong thiên hạ rồi, cộng thêm "Đả cẩu côn pháp" biến hóa huyền ảo của Hoàng Dung nữa. Chàng vị tất đã thắng nổi, vì thế chàng không dám sơ ý, cẩn thận leo lên tường bước nhẹ vào. Dương Qua đã sống lâu ngày trong Quách phủ, nên đường đi lối vào rất quen thuộc. Bước vòng qua vườn hoa, chàng thấy phòng ngủ của chàng khi trước, chàng bèn đi tới áp tai vào cửa sổ nghe ngóng và biết trong ấy không có người nên nhẹ tay xô cửa bước vào. Trong đêm tối mắt chàng nhìn rõ như ban ngày! Chỉ thấy giường màn, bàn ghế, vẫn y như cũ có khác là mền gối trên giường đã cất hết. Chàng đặt mình ngòi xuống giường, nhớ lại cánh tay đã rơi, lòng vừa căm tức, vừa bùi ngùi!
Tướng mạo Dương Qua vốn tuấn tú, tính tình lại có chút phong lưu, mặc dầu chàng đối với Tiểu long Nữ vẫn một lòng chung thủy nhưng lại có rất nhiều thiếu nữ trẻ đẹp thấy chàng thầm mơ trộm ước như Trình Anh, Lục Vô Song, Hoàng nhan Bình, Công Tôn Lục Ngạc. Bấy giờ chàng sờ tay lên thành giường thấy lúc này đã trở thành người tàn phế, nếu gặp lại những thiếu nữ đa tình ấy nét mặt họ sẽ có những nét thương hại, hay khinh bỉ?
Chàng thấy mình võ công tuy tinh nhuệ nhưng cũng chỉ như một con quái vật mà thôi. Trong bóng tói, tâm tư chàng rào rạo, nghĩ đến những việc vừa qua, bất giác thở dài lẩm bẩm:
- Chỉ có mình Tiểu long Nữ là chung thủy. Đừng nói chi mất chỉ một cánh tay, dù là tứ chi đều mất nàng vẫn một lòng thương yêu mình, không hề đổi dạ.
Chàng vừa nghĩ đến đây, bỗng nghe phía Đông có tiếng cãi lẫy. Chàng nghe rõ tiếng nói đó chính là Quách Tỉnh và Hoàng Dung. Chàng tò mò, muốn nghe thử họ cãi việc gì, bèn lẻn đến phòng ngủ của vợ chồng Quách Tỉnh. Bỗng nghe Hoàng Dung lớn tiếng nói:
- Rõ ràng hai nguời ấy ẵm Tường nhi đến tình cốc, đổi thuốc giải độc, thế mà anh cứ bảo thằng Dương Qua là người tốt. Con bé mình mới sinh ra chưa được một giờ đồng hồ thì đã rơi vào tay họ, làm sao toàn mạng được?
Nói tới đây, lời nghẹn ngào, rồi nức nở khóc. Quách Tỉnh nói:
- Qua nhi không phải hạng người đó. Vả lại, nó đã nhiều lần cứu anh và em. Nếu chúng ta dùng tánh mạng của Tường nhi đổi lấy tánh mạng Qua nhi cũng không đáng tiếc.
Hoàng Dung nghẹn ngào nói:
- Anh dứt tình chứ em thì không!
Trong phòng bỗng nổi lên tiếng khóc của trẻ con, tiếng khóc át cả lời cãi vã giữa hai người. Dương Qua lấy làm lạ tự nhủ:
- Đứa con gái ấy đã được mình giật lại tại tay Lý mạc Thu đem về đưa cho Quách bá mẫu rồi, sao Quách bá mẫu lại nói không toàn mạng?
Dương Qua đưa mắt nhìn vào khe cửa, thấy Hoàng Dung đang bồng một đứa trẻ, đứa trẻ nầy mặt vuông tai lớn, làn da đen thui. Dương Qua đã bồng bé Quách Tường trong thời gian rất lâu, nên thấy đứa bé nầy không giống bé Quách Tường. Hoàng Dung xoay lưng qua phía cửa sổ, sẽ ru đửa trẻ rồi nói với Quách Tỉnh:
- Mình sinh song thai, nhưng bây giờ chỉ còn có một đứa con trai, đứa con gái thì bị họ bắt mà anh vẫn điềm nhiên!
Thật ra Hoàng Dung có một bào thai hai đứa, đứa thứ nhứt là đứa con gái tên Quách Tường đứa thứ hai là trai tức là Quách phá Lỗ. Đứa con gái bị Tiểu long Nữ ẵm đi mất rồi, chỉ còn một mình đứa con trai.
Quách Tỉnh dạo gót trong phòng nói:
- Em Dung! Lúc thường em vẫn có tính dễ dãi, tại sao lúc nhắc đến việc con gái là em lại khó tính như vậy? Bây giờ quanh vụ khẩn cấp, anh đâu có thể vì đứa con mà bỏ thành Tương Dương được?
Hoàng Dung nói:
- Em đích thân tìm con một mình, anh lại không cho. Không lẽ để đứa con mình phải chết oan uổng như vậy sao?
Quách Tỉnh nói:
- Cơ thể của em còn yếu đuối, làm sao đi được?
Hoàng Dung tức tối nói:
- Cha nó thì không thương con, mẹ nó thì đang đau như vậy thì có cách gì bây giờ?
Dương Qua đã chung sống với vợ chồng Quách Tỉnh nhiều năm trên đảo Đào hoa, thấy hai người thương yêu nhau rất mực, chưa hề có một tiếng hờn trách nhau. Bây giờ họ lại nghiến răng cau mày, lời nói không chút nhường nhịn nhau, cũng chỉ vì bé Quách Tường bị kẻ nào ẵm trộm mất.
Hoàng Dung vừa khóc vừa kể, Quách Tỉnh lại nghiêm sắc mặt, không ngớt đi qua đi lại đếm bước trong phòng. Một hồi sau, Quách Tỉnh nói:
- Đứa con gái nầy dầu có tìm được em cũng chiều chuộng nó như Phù nhi, để rồi dung túng nó hại người, thì thật chẳng ích gì.
Hoàng Dung lớn tiếng nói:
- Phù nhi lỡ phạm tội như vậy vì nó quá thương em nó, nên mới lỡ tay như vậy. Việc đó cũng lẽ thường. Nếu gặp tôi... Dương Qua không trả bé Tường cho tôi thì cả cánh tay trái của nó tôi cũng chặt luôn.
Quách Tỉnh gắng giọng hỏi:
- Em Dung! Em nói cái gì?
Rồi chàng giơ tay đập xuống bàn nghe "bành" một tiếng, cây ván tung bay, chân bàn to tướng đã bị bể mất một nửa. Đứa trẻ trên tay Hoàng Dung đang khóc, bỗng nghe tiếng đập bàn ấy, nó giống người nín mất.
Sau tiếng đập bàn của Quách Tỉnh, Dương Qua chợt thấy bên cửa sổ phía tây thoáng qua bóng đen, có một bóng người xuống rón rén lui ra.
Dương Qua thầm nghĩ:
- Thế nầy, ngoài mình ra, lại có người khác cũng rình nghe nữa. Họ là ai vậy?
Chàng bèn giờ khinh công nhón gót đuổi theo người ấy, thì thấy thân người ấy ẻo lả duyên dáng đúng là Quách Phù. Dương Qua cơn hận nổi lên, lẩm bẩm:
- Tốt lắm! Ta đang đi tìm mi đây!
Bỗng nghe tiếng Hoàng Dung nói:
- Anh ra ngoài đi, đừng la lối con nó giật mình!
Rồi ánh đèn trong phòng Hoàng Dung cũng tắt rụi. Mọi người đều chìm lặng trong bóng tối.
Dương Qua biết Quách Tỉnh sắp đi ra, vội tung mình nhảy ra sau giả sơn, vòng bước tới phòng Quách Phù, rồi nhảy vọt lên cành cây ẩn mình trong lá. Một hồi lâu, quả nhiên thấy Quách Phù trở về phòng. Con thị tỳ săn sóc cho Quách Phù thấy nét mặt nàng khác thường, nhưng không dám hỏi gì nhiều, chỉ nhỏ nhẹ nói:
- Đêm đã khuya rồi, mời cô nương lên giường yên nghỉ!
Đoạn thị tỳ lui ra ngoài khép cửa lại.
-
Chương 68 - Tái Ngộ Trong Kỳ Lạ - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 68 - Tái Ngộ Trong Kỳ Lạ
Dương Qua núp trên cây nghe Quách Phù thở dài não ruột. Chàng thầm trách:
- Mi mà buồn bực gì nữa? Mi đã chặt mất của ta một cánh tay, thì ta có quyền chặt lại cánh tay của mi, nhưng vì ta là nam tử không đi đánh với gái hư. Nếu bây giờ ta xuống đánh mi thật dễ như trở bàn tay, nhưng không đúng hành vi của một kẻ đại trượng phu.
Chàng ngồi trầm ngâm một lúc, nẩy ra một ý:
- Hay! Để mình la to lên, cho Quách bá phụ nghe tiếng mà thôi. Ông ta là một vị Thái sơn Bắc đẩu trong võ lâm, mình hạ ông ta trước, rồi hãy trị con nhỏ này. Làm việc kinh khủng như vậy thì ai dám chê mình?
ý niệm này vừa thoáng qua, thì chàng đổi ý:
- Nhưng võ công của Quách bá phụ đến mức tinh vi trác tuyệt, mình dễ gì thắng nổi ông ta? Nhưng chẳng lẽ mình bỏ qua mối thù nầy sao?
Chàng sờ vào cánh tay bị cụt, máu nóng sôi sùng sục, vừa toan nhảy xuống báo hận cừu, bỗng nghe có tiếng chân người đi thình thịch. Tiếng chân bước tới thật vững vàng, chính là Quách Tỉnh. Ông đi tới phòng con gái của ông, đưa ngón tay búng nhè nhẹ vào cửa, rồi nói:
- Phù nhi, con đã ngủ chưa?
Quách Phù ở trong phòng, giọng run run nói:
- Dạ, cha... Cha đến tìm con?
Dương Qua giật mình, thầm lo:
- Không lẽ Quách bá phụ đã biết mình đến đây mà tới che chở cho nàng?
Quách Tỉnh "ừ" một tiếng, Quách Phù mở cửa phòng, đưa mắt nhìn cha nàng một cái, rồi vội cúi đầu xuống. Quách Tỉnh khép kín cửa lại ngồi trên ghế nghiêm nghị nhìn vẻ mặt khác lạ của Quách Phù, rồi điềm nhiên hỏi:
- Phù nhi! mấy hôm nay con đi đâu?
Quách Phù e ngại trả lời:
- Thưa cha!... Con... Con đả thương Dương đại ca, sợ cha quở phạt, nên con...
Quách Tỉnh nói:
- Nên con đi ra ngoài để lánh mặt cha ít ngày phải không?
Quách Phù đứng khoanh tay, đôi môi mím chặt khe khẽ gật đầu. Quách Tỉnh nói tiếp:
- Con định cơn giận của cha đã nguôi rồi mới trở về đây hả?
Quách Phù gật đầu, bỗng nhiên chồm vào lòng ông van lơn:
- Cha ơi! cha còn giận con không?
Quách Tỉnh đưa tay vuốt tóc con gái, thấp giọng nói:
- Cha không giận con. Mà từ nay cũng không bao giờ giận con. Nhưng cha chỉ đau lòng vì con mà thôi.
Quách Phù gào lên một tiếng "cha" rồi dụi đầu vào lòng Quách Tỉnh, khóc òa lên! Quách Tỉnh đưa mắt nhìn trần nhà, chờ đến lúc tiếng khóc của con gái ông dịu đi, mới nói:
- Tổ phụ Dương Qua là ông Dương thiết Tâm, cùng với ông nội con xem nhau như tình cốt nhục, còn cha nó với cha con, cũng là anh em kết nghĩa thâm giao, những việc này con đều biết chứ?
Quách Phù "Dạ" một tiếng. Quách Tỉnh nói tiếp:
- Thằng Dương Qua tuy có tánh hơi ương ngạnh, nhưng lại cô một tấm lòng nghĩa hiệp, bao nhiêu lần xả thân cứu mạng của cha, mẹ con. Dương Qua tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đã liều thân vì nước, vì dân nên lập những công lao to tát. Việc này con cũng đã biết chứ?
Quách Phù nghe giọng nói của cha nàng quá nghiêm khắc, nên không dám nói một lời nào. Quách Tỉnh đứng dậy, nói:
- Còn việc này con chưa biết, nên cha phải nói để con rõ: Dương Khang là thân phụ của Dương Qua, ông ta là nghĩa huynh của cha. Nhưng khi xưa đức hạnh ông ta không tốt mà cha khuyên giải mãi không được, nên chung quy đưa đến hậu quả là ông ta phải chết thê thảm ở miếu Vương thiết Thương tại Gia Hưng. Trong cái chết của Dương Khang tuy không phải mẹ con ám hại, nhưng cũng tại mẹ con. Như thế họ Quách nhà mình đã phụ nhà họ Dương quá nhiều rồi.
Dương Qua nghe mấy tiếng "chết thê thảm ở miếu Vương thiết Thương" thì rùng mình. Đây là lần thứ nhất chàng mới biết được nơi bỏ mạng của thân phụ, cừu hận ấy đang vùi sâu trong cõi lòng, bây giờ bất giác lại bốc cháy. Lại nghe Quách Tỉnh nói tiếp:
- Nên từ lâu cha đã có ý định gả con cho thằng Dương Qua để bù đắp lại lỗi lầm của gia đình mình, nhưng không ngờ con... ôi thôi!
Quách Phù tìm lời biện bạch:
- Cha ơi! Nhưng tại Dương Qua đã đoạt em gái con rồi dùng những lời nói ngạo mạn phỉ báng con. Tuy giữa họ nhà mình với nhà họ Dương có nhiều mối liên quan mật thiết, nhưng không lẽ vì thế mà con phải chịu sự hiếp đáp của nó, lại không có chút quyền phản kháng?
Quách Tỉnh đứng phắt dậy, quát lớn:
- Rõ ràng mày đã chặt mất cánh tay của nó, mà sao lại nói nó hiếp đáp? Thanh kiếm ấy đâu?
Quách Phù không dám nói nữa, đưa tay vào dưới gối rút thanh Tử vi kiếm ra đưa cho Quách Tỉnh. Ông vặt nhẹ một cái, thanh kiếm liền phát ra những tiếng vo vo, điềm nhiên nói:
- Phù nhi, ngươi sống trong trời đất, làm việc gì đừng để thẹn với lòng! Ta tuy nghiêm khắc, nhưng lòng thương con cũng không kém gì mẹ con.
Nói đến những tiếng sau cùng, giọng ông lại ôn tồn vô cùng. Quách Phù khe khẽ nói:
- Con biết cha nghiêm khắc để răn dạy con, chứ nào con có dám hờn trách?
Quách Tỉnh đanh thép nói:
- Tốt lắm! Con đưa cánh tay mặt ra đây. Con đã chặt mất một cánh tay của nó thì cha phải chặt một cánh tay của con. Cha của con xưa nay cương trực, không thể che chở con để cho anh hùng trong thiên hạ chê cười.
Quách Phù đoán biết lần nầy không thể tránh khỏi sự quở phạt của cha nàng, nhưng không ngờ phải bị hình phạt chặt tay, nên mặt mày biến sắc gào lớn:
- Cha ơi! Cha!
Mặt Quách Tỉnh đầy vẻ cương quyết, đôi mắt nhìn thẳng vào mặt con gái:
Dương Qua không thể ngờ được Quách Tỉnh lại trọng nghĩa đến mức nầy. Chàng nhìn sự cương trực ấy, trong lòng thầm phục vô cùng.
Chỉ thấy ông ta vung kiếm lên, rồi chém mạnh xuống cánh tay Quách Phù. Bất thình lình nghe "vù" một tiếng, một người từ cửa sổ bay vào, thân pháp lanh lẹ lạ thường. Người chưa tới mà gậy đã lao tới trước, rồi nhanh như chớp phong tỏa ngay nhát kiếm của Quách Tỉnh.
Người nầy không ai khác hơn là Hoàng Dung. Bà không hề mở miệng nói một lời nào, chỉ nghe "soạt soạt soạt" ba tiếng liên tiếp. Đó là ba đòn tuyệt tác trong "Côn pháp đánh chó". Quách Tỉnh vì không hề để ý, hơn nữa côn pháp của Hoàng Dung quá tinh vi nên bị ép lui lại hai bước. Hoàng Dung nóng lòng la lên hối hả:
- Phù nhi, hãy mau trốn đi!
Quách Phù như kẻ mất hồn, đột ngột được gặp mẹ nàng che chở bảo đi ra ngoài, mà nàng vẫn đứng tần ngần ở đó. Hoàng Dung tay trái bồng Quách phá Lỗ, tay mặt vung gậy tới cuốn vào áo con gái rồi kéo thẳng nàng ra ngoài cửa, miệng bảo:
- Con hãy mau trở về Đào Hoa đảo, mời Kha công công đến đây để khuyên giải cha con mới được.
Kế đó, Hoàng Dung nhanh như cắt xoay gậy lại dùng "Đả cẩu bổng pháp", cản không cho Quách Tỉnh bước ra cửa, miệng vẫn quát:
- Đi mau mau đi! Tiểu hồng mã đã sẵn sàng ngoài cửa.
Việc nầy Hoàng Dung đoán được tính chồng bà quá cương trực, rất trọng nghĩa có thể hy sinh tình máu mủ. Bà biết con gái lần nầy không thể tránh được hình phạt, bèn sai gia nhân sửa soạn hành lý, và dắt tiểu hồng mã chờ sẵn ngoài cửa. Hễ bà cầu xin chồng may ra được là phúc lớn, bằng không sẽ đưa con gái trốn thoát lẹ làng.
Trong cơn giận dữ của chồng bà đành cho con gái thân yêu của bà xa vắng một thời gian, để đến khi nào tìm được cách khuyên giải Quách Tỉnh, bà sẽ đem con gái về đoàn tụ. Hoàng Dung cãi lớn với Quách Tỉnh trong phòng ngủ một hồi, thấy sắc mặt của chồng hầm hầm đi về phòng con gái, lòng bà đoán biết dữ nhiều lành ít, nên tiếp thoo chân. Đến vừa đúng lúc chồng bà đang vung gươm chặt tay con gái, để tra tội đã chặt tay của Dương Qua. Hoàng Dung kịp thời tung gậy ra đỡ được nhát kiếm, cứu con gái thoát nạn.
Sự thật nếu so võ công thì Hoàng Dung không thể cản được Quách Tỉnh. nhưng xưa nay Quách Tỉnh có tính nhịn vợ, lại thấy trên tay bà bồng con nhỏ, nên không nỡ ra tay, cũng nhờ một giây chần chờ ấy mà Quách Phù đã chạy đến vườn hoa.
Dương Qua vẫn ngồi yên trên cây mộc tất hoa, theo dõi tình cảnh lạ thường. Đến lúc Quách Phù bị Hoàng Dung đẩy ra cửa. Nếu chàng cố ý đưa kiếm chém xuống thì nàng làm sao tránh khỏi. Nhưng chàng nghĩ lại
thấy gia đình họ Quách cãi nhau đến náo động trong Quách phủ cũng vì công việc của chàng, như vậy chàng không muốn thừa lúc người ta lâm nguy, mà ra tay một cách quá hèn hạ.
Quách Tỉnh bấy giờ đứng dựa vào thành, hết đường tiến lui nữa rồi. Hoàng Dung bỗng bảo lớn:
- Anh bồng nó đây!
Bà ném ngay Quách phá Lỗ về phía chồng. Quách Tỉnh vội đưa tay trái hớt lấy con. Hoàng Dung buông thẳng gậy tre xuống đất, bước tới trước mặt chồng, nhỏ nhẹ nói:
- Anh Tỉnh! anh tha tội cho Phù nhi một lần nhé!
Quách Tỉnh lắc đầu nói:
- Em Dung, lòng anh đâu phải không thương con? Nhưng nó đã gây nên việc tàn nhẫn như vậy nếu không trừng trị, thì mình làm sao yên lòng được? Còn thằng Dương Qua mất một cánh tay, chẳng ai coi sóc gì cả không biết giờ này sống chết thế nào?
Dương Qua nghe lời nói chân thành như vậy, biết rõ Quách bá phụ vẫn hằng thương nhớ đến chàng, nên bất giác động lòng cảm mến, lệ trào khóe mắt.
Hoàng Dung nói:
- Chúng ta cũng đã tìm kiếm khắp nơi, mà vẫn chưa thấy tông tích nó. Nếu có xảy ra điều gì bất trắc mình đã nghe thấy thiên hạ đồn đại rồi. Nhưng võ công của Qua nhi đâu có kém gì của chúng mình. Dẫu có bị trọng thương như vậy, chắc cũng không thể thiệt mạng đâu.
Quách Tỉnh nói:
- Hay lắm! Để anh đi gọi Phù nhi trở về.
Hoàng Dung cười nhạt nói:
- Nó đã cưỡi tiểu hồng mã đi cách xa rồi, làm cách nào kêu lại được?
Quách Tỉnh nói:
- Trong lúc đêm khuya, không có lệnh tiễn của Lữ đại nhân hay của anh, ai dám mở cửa thành cho nó đi?
Hoàng Dung thở dài nói:
- Thôi được, tùy anh định liệu.
Quách Tỉnh liền giao đứa bé cho Hoàng Dung, rồi nhỏ nhẹ nói:
- Em Dung, nếu con mình có mất một cánh tay, tuy phải chịu tàn tật nhưng đó là một phước lớn cho nó, nếu ăn năn hối...
Hoàng Dung không để cho chồng nói hết câu, đã gật đầu nói:
- Anh nói rất phải!
Bà đưa tay ẵm đứa bé trên tay chồng. Nhưng bàn tay mặt của Hoàng Dung đã lẹ làng đưa thẳng vào nách Quách Tỉnh, sử dụng ngón tuyệt kỹ gia truyền "Lưu hoa phất huyệt" đồng thời phết vào huyệt "uyển dịch" bên tả và huyệt "kinh môn" bên hữu, hai huyệt nầy đều nằm hai bên nách, nếu Hoàng Dung không dụng kế, thì đâu có thể thành công?
Quách Tỉnh trong lúc vô tình đã bị vợ điểm huyệt đạo bí quyết, nên thúc thủ vô phương, toàn thân mềm nhũn, ngã lăn xuống giường, không cử động được. Sự thực kế nầy Hoàng Dung đã định ý trước khi giao đứa nhỏ cho Quách Tỉnh, nên bà hành động rất thần diệu.
Hoàng Dung bồng con lên, rồi lấy gối chêm đầu cho chồng nằm một cách thoải mái. Đoạn nàng thò tay vào túi chồng lấy ra một lệnh tiễn.
Quách Tỉnh đôi mắt mở thao láo nhìn mọi cử chỉ của vợ, nhưng không còn phương thế nào kháng cự được.
Hoàng Dung đặt con nằm trên mình chồng, kéo chăn đắp lại cho hai cha con Quách phá Lỗ, miệng khẽ nói:
- Anh Tỉnh, hôm nay em xin chịu đắc tội một lần, để em đưa Phù nhi ra khỏi thành rồi trở về làm ít món ăn ngon, dâng ba ly để tạ tội, có được không?
Quách Tỉnh nghe qua, thấy vợ mình đã là mẹ ba đứa con, mà vẫn còn vẻ đùa cợt như mọi năm xưa. Hoàng Dung đôi môi mỉm cười, chân bước nhanh ra cửa, trong lúc đó lòng Quách Tỉnh lỡ khóc lỡ cười.
Hoàng Dung vốn tánh cưng con, nên nhận thấy Quách Phù một mình trở về đảo Đào Hoa, với sắc đẹp hiếm có ấy, sợ đi đường khó tránh khỏi lũ háo sắc. Bà vội trở về phòng ngủ lấy chiếc "Giáp nhũ trụ" dùng lụa gói lại, kẹp vào nách, rồi lẹ làng tiến nhanh ra cửa thành.
Hoàng Dung tuy mới sanh chưa đầy một tháng, nhưng vì từ nhỏ đã luyện nội công, nên sức khỏe sớm bình phục. Bà giở môn khinh công lao mình vun vút. Trong nháy mắt bà đã đến cửa Nam thành, thấy Quách Phù đang ngồi trên lưng tiểu hồng mã, lớn tiếng gây gổ với viên tướng thủ thành.
Tướng thủ thành lễ độ nói:
- Xin cô nương ở lại, không được đi, vì trong đêm tối, không có lệnh tiễn mà mở cửa thành, sẽ bị tội bêu đầu.
Hoàng Dung cầm lệnh tiễn bước tới nói:
- Đây lệnh tiễn của Lữ đại nhân, ông hãy nghiệm coi đúng không.
Viên tướng thủ thành thấy Quách phu nhân đích thân đến, lại thấy lệnh tiễn là thật, bèn đi mở cửa thành, và dẫn tới một con ngựa, hỏi:
- Xin Quách phu nhân nếu thấy cần, thì dùng ngựa của tiểu tướng để đỡ bước.
Hoàng Dung nói:
- Hay lắm, vậy xin ông cho tôi tạm mượn.
Quách Phù thấy mẹ nàng tới, mừng rỡ vô cùng. Hai mẹ con cưỡi ngựa song song ra thành. Hai người kề vai cho ngựa phi về hướng Nam. Hoàng Dung không nỡ rời xa con gái, nên đưa đi đã xa mà vẫn đi mãi. Phía Nam thành Tương Dương nhờ có trọng trấn , Bình chương, chưa bị quân Mông Cổ dày xéo nên dân được an cư như cũ. Mẹ con Hoàng Dung đi được hai mươi dặm, trời đã hửng sáng, tới một thị trấn nhỏ, các cửa hàng mở cửa buôn bán. Hoàng Dung nói:
- Phù nhi! Mình vào tiệm ăn cho đỡ lòng, rồi mẹ phải trở về!
Quách Phù ứa lệ gật đầu, lòng hối hận vô cùng:
- Thật ra vì cơn nóng giận điên cuồng, mình đã chặt tay Dương Qua, cho đến ngày nay phải cốt nhục chia lìa. Rồi đây mình phải trở về đảo Đào Hoa, sống chung với ông lão đui mù, trong những ngày buồn tẻ sắp tới, không biết làm sao sống cho được?
Hai người bước vào tiệm ăn, gọi một tô thịt bò cùng bánh mì, nhưng trong giờ phút chia ly kề gần, ai cũng không lòng dạ nào nuốt cho trôi.
Hoàng Dung đưa bộ "giáp nhũ trụ" cho con gái bảo:
- Phù nhi! Con tới khách điếm mặc áo nầy vào mình, để đề phòng việc bất trắc dọc đường.
Mắt nhìn con gái đang cúi đầu vâng lời, lòng bà đau như cắt, đôi mắt đỏ hoe, cái vẻ liếng thoắng ngây thơ khi xưa đều mất cả.
Chợt thấy đầu đường phía Tây có một gian hàng bán trái cây, có những trái bôm đỏ tươi, bà thầm nghĩ:
- à! Mình mua vài trái cho Phù nhi dọc đường ăn đỡ sức.
Nghĩ xong, bà quay qua nói với Quách Phù:
- Phù nhi, con hãy ráng ăn thêm vài miếng cho đỡ lòng. Trong tình thế loạn lạc nầy, dọc đường khó mua món ăn. Thôi con ngồi đây, để mẹ đi mua thêm ít trái cây.
Bà vội bước tới gian hàng bán trái cây cách xa tiệm ăn hơn mười căn phố. Hoàng Dung lựa hơn mười quả bôm, trong lúc trả tiền, bỗng có giọng lanh lảnh của một người thiếu phụ nói:
- Bà hàng, để cho tôi hai chục cân gạo, một cân muối và dồn tất cả vào cái túi nầy.
Hoàng Dung khẽ liếc mắt nhìn qua, thấy đó là một đạo cô áo vàng, tay mặt đang cầm tiền trả, tay trái bồng một đứa bé. Đứa bé mặc bộ đồ lụa đỏ, trước ngực có thêu một con ngựa nhỏ, đúng là bộ áo của Hoàng Dung đã tự tay may cho Quách Tường. Thấy thế, Hoàng Dung bỗng nhiên rung động cả lòng, những quả bôm trên tay đều rơi trở lại trong giỏ hàng, linh tính báo cho bà biết, đứa bé nầy không ai khác hơn là Quách Tường. Còn đạo cô kia chính là Xích luyện tiên tử Lý mạc Thu. Hoàng Dung chưa gặp mặt, hay giao đấu với nữ ma đầu này nhưng thấy trên lưng hắn có giắt phất trần, mắt bị mù một con. Tướng mạo và lối trang phục này bà đoán đích là Lý Mạc Thu. Hoàng Dung vừa mừng vừa sợ bất giác ứa lệ. Còn gã bán trái cây thấy Hoàng Dung đưa tiền mà không lấy trái cây lòng kinh ngạc trân trối nhìn.
Lý mạc Thu trả tiền xong, đón lấy túi gạo, lẹ làng bước đi ra trấn. Hoàng Dung toan xoay mình đuổi theo, mà gã bán bàng cứ lựa những quả bôm chín đỏ tươi đưa lên. Hoàng Dung thuận tay luồn vào túi áo vài trái, miệng bảo:
- Thôi đủ rồi!
Bà liền cất bước đuổi theo Lý mạc Thu. Vì thời cơ cấp bách nên bà không kịp trở lại cho Quách Phù hay. Bà chỉ thầm nghĩ:
- Tường nhi đã lọt vào tay một người hiểm độc như vậy, nếu mình cường đoạt, chắc nguy đến tánh mạng của con.
Bà nhìn thấy Lý mạc Thu đi thẳng về hướng Tây, bèn lặng lẽ theo sau, lòng lại nghĩ:
- Hắn là sư bá của Qua nhi. Tuy nghe nói họ không ưa nhau, nhưng Phù nhi đã chặt mất cánh tay của Qua nhi, thì Quách gia nầy nay lại thêm một mối thâm thù với phái Cổ mộ. Nếu Qua nhi cùng Long cô nương đều đợi ở đằng trước, mình một mà địch họ ba chắc khó thắng, phải sớm ra tay mới đạt được kết quả.
Thấy Lý Mạc Thu đã rẽ về hướng Nam, đi vào một khu rừng bà bèn giở khinh công phi thân lướt nhanh như chiếc tên lìa ná, bay vòng qua đám rừng, chận đầu Lý Mạc Thu. Lý Mạc Thu bỗng thấy trước mặt hiện ra một thiếu phụ đẹp đẽ liền dừng bước lại. Hoàng Dung tươi cười nói:
- Xin chào đạo cô, nếu tôi đoán không lầm thì đạo cô chắc là Xích Luyện tiên tử Lý Mạc Thu, nếu quả vầy thì thật hân hạnh.
Lý Mạc Thu thấy thân pháp đối phương hiện ra trong những bước thật vững vàng, biết không phải hạng tầm thường, lại thấy bên hông giắt chiếc gậy tre xanh biếc, thầm hiểu bèn lễ phép thi lễ:
- Tiểu muội hằng ngưỡng mộ đại danh của Quách phu nhân, hôm nay mới được thấy phu nhân thật là vạn hạnh.
Trong làng võ hiệp này, kẻ nào cao thủ của phái nứ thì chỉ có danh tiếng Hoàng Dung và Lý Mạc Thu vang dậy nhất, còn Tôn bất Nhị tuy thành danh sớm nhưng võ công đâu có bằng hai người này, còn Tiểu long Nữ thì tuổi còn nhỏ nên chưa có oai danh gì.
Hoàng Dung là con ruột "Đông tà" Hoàng dược sư, làm vợ của đại hiệp Quách Tỉnh, còn đích thân lại đương kim bang chủ Cái Bang. Lý Mạc Thu chỉ có ba môn tuyệt kỹ vang danh trong thiên hạ là cây "phất trần", "Ngân châm", "Ngũ độc thần chưởng". Bây giờ hai bên gặp nhau đều kinh lạ.
Hoàng Dung cười nói:
- Lý đạo cô là bậc thành danh, sao lại nói những lời khách sáo như thế?
Lý Mạc Thu khiêm nhượng nói:
- Quách phu nhân là bang chủ của Cái Bang, tiểu muội xưa nay ngưỡng mộ vô cùng.
Hai người khách sáo nhau một hồi, Hoàng Dung nói:
- Đứa bé trong lòng Lý đạo cô dễ thương quá, nhưng chẳng biết con cái nhà ai vậy?
Lý Mạc Thu nói:
- Nói ra thêm hổ ngươi, xin Quách phu nhân đừng cười.
Hoàng Dung nhỏ nhẹ tiếp:
- Xin đạo cô cho biết, chứ tôi đâu dám vô lễ thế.
Miệng nói nhưng lòng bà thầm nghĩ:
- Mình đã nói đến chính đề, nếu không xong thì phải trở mặt rồi mới động thủ sau.
Đang suy nghĩ thì đã nghe Lý Mạc Thu nói:
- Đây là một bất hạnh của phái Cổ Mộ chúng tôi vì tiểu muội vô đức, không biết dạy sư muội, nên chính đứa bé này là con của Long sư muội.
Hoàng Dung lấy làm lạ tự hỏi:
- Long cô nương coi có vẻ đoan trang trinh thục, mà cũng không thấy có thai, sao lại có con? Đứa con gái này rõ là đứa con gái mình, chắc hắn nói dối như vậy có dụng ý gì đây.
Hoàng Dung nghĩ xong bèn nói:
- Long cô nương là người đoan trang, té ra lại có việc này thật là khó hiểu. Nhưng không biết cha đứa bé là ai vậy?
Lý Mạc Thu nói:
- Cha của nó à? Nói ra lại càng thêm giận, vì chính là Dương Qua đồ đệ của sư muội mới buồn chứ!
Hoàng Dung tuy tánh tình lanh lợi, muốn mặc nhiên để điều tra nhưng bây gìơ nghe nói đôi má cũng đỏ bừng, lòng giận dữ thầm trách:
- Mầy lỡ nói con gái ta là con hoang của Tiểu long Nữ còn có thể kháng bây giờ nói cha nó là Dương Qua, thật là nhục trước mặt ta rồi.
Sắc giận dữ vừa thoáng qua, Hoàng Dung liền lấy lại bình tĩnh hỏi:
- Trời! Thằng Dương Qua như thế thật là hết nói nổi nữa rồi! Nhưng đứa bé này lại thật kháu khỉnh khiến người ta dễ mến, Lý đạo cô đưa tôi bồng nó một tí coi.
Nói rồi thò tay vào túi, lấy ra một ít trái cây đưa trước đứa bé, miệng thì đánh lưỡi "chụt chụt" để gọi dọn...
Từ khi đoạt được Quách Tường, mấy ngày liền Lý Mạc Thu ẩn trong thâm sơn, hằng ngày chỉ lấy sữa beo cho đứa bé bú. Hắn tuy rất độc, nhưng không phải thiên phú như thế, chỉ vì bị thất bại trên tình đời, sanh buồn chán, thù ghét thế nhân, rồi mới đi đến cái tánh hung dữ để cho thỏa mãn lòng căm giận. Vì vậy trước vẻ mặt xinh xinh, kháu khỉnh của bé Quách Tường đã làm cho Lý Mạc Thu hết lòng thương mến. Tình thương của Lý Mạc Thu đối với bé Quách Tường cũng như tình mẹ thương con, nên có nhiều đêm, Lý Mạc Thu nằm dài nựng bé Quách Tường, nói:
- Dù cho Tiểu long Nữ có mang "Ngọc nữ tâm kinh" đến đổi, thì ta cũng không thể đổi cháu cưng nhất đời ta được!
Bây giờ thấy Hoàng Dung muốn bồng đứa bé nầy, thì tựa như người mẹ nghe người ta khen con mình vậy, lòng Lý Mạc Thu sung sướng vô cùng, mỉm cười trao đứa bé cho Hoàng Dung.
Hoàng Dung vừa đưa tay sờ đến con mình đã nhoẻn nụ cười âu yếm. Phải chăng lòng mẹ thương con không trời bể nào bằng? Hơn nữa đối với đứa bé gái này, bà đã ngày đêm mơ tưởng, đau khổ vì sợ nó có mệnh hệ gì mà bây giờ được ẵm nó vào lòng, bảo sao không mừng như điên như dại?
Lý Mạc Thu cũng là người thông minh tuyệt đỉnh, đột nhiên thấy nét mặt khác thường của Hoàng Dung, lòng hoài nghi tự hỏi:
- Nếu hắn chỉ thích trẻ con thì bồng cho vui, sao lại lộ vẻ xúc động như vậy? Chắc có ẩn ý gì?
Nghĩ xong, liền giật đứa bé lại, ẵm chặt vào lòng, đôi chân điểm đất, nhảy vọt ra phía sau hơn hai trượng. Chân vừa chấm đất, Lý Mạc Thu toan quát hỏi, thì Hoàng Dung đã vụt mình tới. Lý Mạc Thu tung chiếc túi trên vai đánh thẳng vào mặt đối phương. Hoàng Dung thấy thế quá mạnh! Hàng triệu hạt muối bay vào dưới chân. Lý Mạc Thu thừa cơ ấy, nhảy lùi ra mấy trượng nữa, vội đưa cánh tay rút phất trần ra, cười khe khẽ nói:
- Quách phu nhân lại muốn giúp Dương Qua để giật con bé nầy sao?
Chỉ trong giây phút, Hoàng Dung đã nhận rõ thế cuộc, biết đối phương đã nghi ngờ, thì hết phương dùng trí thủ thắng được nên muốn dùng sức để đoạt bèn bình tĩnh nói:
- Tôi thấy đứa bé nầy dễ thương, muốn nựng nịu một chút mà thôi! Lý đạo cô lại có ý nghĩ như vậy, thì thật là khinh người thái quá!
Lý Mạc Thu nói:
- Quách phu nhân danh vang dội khắp giang hồ, tiểu muội hằng khâm phục hôm nay được thấy tận mắt, quả thật như lời đồn. Nhưng bây giờ tiểu muội có việc riêng, xin cáo biệt.
Sự thật Lý Mạc Thu sợ Quách Tỉnh ở gần đây ra tiếp sức thì không thoát khỏi tai nạn, nên hắn nói xong, bèn xoay mình đi nhanh.
Hoàng Dung tung mình nhảy theo, thân còn ở trên không, mà tay đã rút cây gậy tre, xử quyết chữ "vấn" điểm tới sau lưng Lý Mạc Thu. Lý Mạc Thu vội vung phất trần ra sau gạt ngang chiếc gậy trả lại một đòn. Côn pháp của Hoàng Dung mau lẹ tuyệt luân. Đánh nhau đến sáu hiệp, Lý Mạc Thu phải thủ thế rồi. Sức lực của Mạc Thu không bằng Hoàng Dung, vả lại trong tay ẵm một đứa trẻ, nên càng thất thế hơn. Hoàng Dung xoay động thân mình lướt qua, lướt lại lanh như chớp, múa gậy trúc không tài nào thấy được. Chỉ trong nháy mắt, Lý Mạc Thu đã lâm vào thế bại rõ rệt. Đang lúc yếu thế, Lý Mạc Thu thấy cây gậy trúc của đối phương cố tình tránh xa đứa bé, biết có thể đỡ thân, thầm nghĩ:
- Lúc đang đấu mình ẵm đưa bé này rất có lợi cho tánh mạng.
Lý Mạc Thu cười nhạt nói:
- Quách phu nhân muốn khảo sát công lực của tiểu muội, thì núi cao sông dài, ngày gặp nhau còn nhiều, cần gì phải đấu nhau bây giờ? Nếu lỡ
tay đả thương đến đứa bé đáng yêu nầy thì sao?
Hoàng Dung thấy đối phương có ý nhờ con bà yểm hộ, thầm nghĩ: "Không lẽ thật hắn không biết con bé này là con gái mình hay là hắn xảo trá? Mình phải thử hắn coi".
- Cũng vì đứa bé này, tôi đã nhường Lý đạo cô mười mấy thế rồi đấy. Nếu đạo cô không để đứa bé xuống, thì tôi không đảm bảo sự an toàn của nó nữa!
Vừa dứt lời liền đưa gậy điểm vào chân của đối phương. Lý Mạc Thu vội đưa phất trần ra đỡ. Gậy tre của Hoàng Dung không hề chạm vào phất trần, mà đã vụt lên ngực trái của Lý Mạc Thu. Thế này vừa lẹ vừa mạnh, đà côn lại nhằm thẳng vào thân của đứa bé mà điểm tới. Nếu đòn ấy mà đánh trúng, chẳng những Lý Mạc Thu phải bị trọng thương và Quách Tường ắt cũng mất mạng. Cây gậy nầy Hoàng Dung điều khiển lẹ làng theo ý muốn. Đầu gậy đã tới sát mình bé Quách Tường. Thấy đòn này rất nguy hiểm, nhưng Hoàng Dung ra tay nặng nhẹ, gần xa, không chút sai chạy Lý Mạc Thu đâu hiểu nổi, chỉ thấy thế quá nguy, vội tránh sang bên hữu thì nghe "soạt" một tiếng là xương trái của hắn đã bị đầu gậy quạt trúng một cái, lảo đảo qua một bên, phải bước tréo qua hai bước, mới đứng vững. Lý Mạc Thu lại vung phất trần che thân đứa bé, rồi quát to:
- Quách phu nhân! Thật là uổng với hai tiếng nghĩa hiệp của danh dự bà. Bà quyết ra tay sát hại một đứa trẻ thế này, thử hỏi có đê tiện hay không?
Hoàng Dung thấy Lý Mạc Thu giận dữ, nghĩ thầm:
- Hắn cố sức để bảo vệ cho con mình, thì hay lắm!
Hoàng Dung mỉm cười giả cách nói:
- Đứa bé này không phải giống tốt, vậy để nó sống làm gì?
Vừa dứt lời đã tung mình nhảy tới, múa gậy tấn công liên tiếp. Quách Tường lại lâm vào cảnh nguy. Hoàng Dung lòng đau như cắt, thầm nhủ:
- Con yêu dấu chớ sợ! Mẹ muốn cứu con nên phải ra tay thế này!
Trong lòng tuy thương xót, nhưng bên ngoài dùng thế đánh quá ác độc. Nếu Lý Mạc Thu không cố sức kháng cự, xem ra đòn nào cũng đánh vào bé Quách Tường. Lý Mạc Thu tâm thần không yên đưa phất trần đỡ gạt, miệng quát hỏi:
- Quách phu nhân! Bà muốn gì?
Hoàng Dung cười nhạt nói:
- Kể về nữ anh kiệt trên giang hồ, đời trước chỉ có Ngọc nữ thần kiếm Lâm triều Anh, sau đó là Mai siêu Phong và Tôn bất Nhị. Còn trong đời nay hiện có Lý đạo cô và tôi mà thôi. Hôm nay chúng ta có dịp gặp nhau sao không so tài coi ai cao thấp?
Mấy đòn hiểm độc của Hoàng Dung cứ nhằm đánh thẳng vào đứa trẻ, làm cho Lý Mạc Thu tức giận quá. Bây giờ nghe bà ta nói thế, Lý Mạc Thu thầm nghĩ:
- Chồng bà có tới thì thì ta hơi sợ một chút, chứ bà cũng là một phụ nữ quần thao không lẽ ta lại sợ hay sao?
Nghĩ thế, nàng "hừ" một tiếng nói:
- Quách phu nhân đã có ý chỉ dạy, thì thật là hân hạnh cho tôi.
Hoàng Dung điềm nhiên nói:
- Lý đạo cô tay bồng con, dù cho ai thắng cũng không công bình, vậy hãy ném nó sang một bên, rồi ta hãy cùng nhau so tài.
Lý Mạc Thu cũng thấy tay bồng trẻ mà đấu thì khó thắng, còn có thể nguy đến tánh mạng của nó, nên thầm nghĩ:
- Trên giang hồ đều khen vợ chồng Quách Tỉnh nhân nghĩa hơn người. Nhưng mình xem thủ đoạn của bà ta không phải thế. Đã ra tay, thì bà không còn chút dung tình mà còn muốn sát hại đứa bé này nữa mới tàn nhẫn chứ! Được rồi, ta phải cho bà nếm mùi kim độc cho bỏ tính tàn ác!
Nghĩ như thế, bèn đưa mắt nhìn chung quanh, thấy dưới gốc cây to ở phía đông có một đám cỏ xanh, Lý Mạc Thu đem đứa bé tới để yên trên cỏ, rồi xoay mình lại nói:
- Vậy xin mời Quách phu nhân ra tay trước.
Hoàng Dung thầm nghĩ:
- Võ công của hắn không kém mình bao nhiêu. Nếu bây giờ nhảy qua bồng con, hắn nhảy vào đánh thì mình sẽ nguy mà không khéo sẽ thiệt mạng con nữa. Chi bằng mình đánh ngã nó trước rồi đến ẵm con về là tiện nhất.
Lý Mạc Thu xưa nay có tính độc ác, nên tự suy lòng hắn mà đoán cử chỉ kẻ khác. Mạc Thu thấy Hoàng Dung cứ liếc mắt nhìn qua phía đứa trẻ, nên thầm nghĩ:
- Bà ta chắc ý sợ đánh không lại mình, thì sẽ hạ độc thủ giết đứa bé để làm rối tinh thần mình.
Đoán thế, nên Lý Mạc Thu đứng gần Quách Tường không cho đối phương tiến tới được. Cũng trong lúc ấy Hoàng Dung đánh nhiều đòn ác độc mà không dám đánh tận lực sợ nguy hại đến bé Quách Tường. Hoàng Dung nhận thấy thế, thầm tính:
- Xem cử chỉ của nữ ma dầu này, quả thật là quí mến Tường nhi của mình. Nếu để hắn ở gần con mình thì không thể nào đánh bại hắn được.
ý niệm vừa thoáng qua, Hoàng Dung bèn nói:
- Lý đạo cô! võ công của chúng ta không phải tầm thường, nên trong thời gian ngắn khó phân thắng bại. Nhưng trong lúc giao đấu hăng say, nếu có loài cọp beo ra ăn mất đứa trẻ, thì chúng ta làm sao? Vậy chúng ta cho nó nhắm mắt trước, rồi mới yên lòng mà giao đấu.
Vừa nói xong, bèn đưa tay xuống đất, nhặt lên một cục sỏi, để trên hai ngón tay búng phắt ra. Nghe "vù" một tiếng cục sỏi bay thẳng vào mình Quách Tường. Cách búng này là "Đàn chỉ thần công", môn gia truyền tuyệt kỹ của Hoàng Dung. Lý Mạc Thu đã có dịp thấy Hoàng Dược sư dùng qua, nên biết sức mạnh nó phi thường, vội dùng phất trần gạt mạnh, rồi quát hỏi:
- Đứa nhỏ này có làm gì tới bà đâu? Sao bà cứ nằng nặc giết hại nó?
Hoàng Dung thầm cười vì sự thật là hòn sỏi này lúc búng ra dùng sức mạnh, nhưng Hoàng Dung đã dùng hồi lực trên hai đầu ngón tay, dù cho Lý Mạc Thu không kịp ra tay, đón lại thì hòn sỏi ấy đến bên Quách Tường sẽ lập tức bay hồi trở lại, tuyệt đối không thể hại đến tính mạng của đứa bé.
Hoàng Dung cười mỉa mai nói:
- Lý đạo cô mãi lo cho đứa bé này, thì người ngoài cứ... cứ tưởng... là... Hà hà...
Lý Mạc Thu căm giận nói:
- Không lẽ cứ tưởng là con...
Khi nói đến tiếng "con", bỗng nhiên nàng nín bặt, đôi má nóng bừng lên, bèn hỏi:
- Cứ tưởng là gì
Hoàng Dung cười nhạt nói:
- Đạo cô là một người tu hành, lẽ tất nhiên không có con nên người ngoài cứ tưởng là em gái của Lý Đạo cô.
Lý Mạc Thu "hừ" một tiếng, rồi cũng không chấp nhứt gì được. Nhưng nàng đâu có biết Hoàng Dung rất điêu ngoa, không bao giờ chịu thiệt thòi trên đầu môi chót lưỡi nên thâm ý bảo Tường nhi là em của Lý Mạc Thu, tức là nói Quách Tỉnh và bà là bực cha mẹ của nàng để trả thù lúc nãy Lý Mạc Thu bảo cha của Quách Tường là Dương Qua. Lý Mạc Thu tức bực giục:
- Quách phu nhân, hãy ra tay tiếp.
Hoàng Dung nói:
- Đạo cô bận lo cho đứa bé, khi ra tay chắc không đủ tinh thần mấy, tôi dù có thắng cũng vô vị, vậy để tôi cắt một mớ gai mây rào nó lại để thú dữ không thể vào được, rồi ta mới có thì giờ so tài cao thấp thực sự.
Nói xong, bèn thò tay vào túi, lấy ra một con dao nhỏ, cắt mấy cây gai mây. Con dao nhỏ này cán bằng vàng, vốn xưa kia Thành Cát Tư Hãn ban cho Quách Tỉnh, có đế hiệu "Kim đao phò mã". Về sau Quách Tỉnh kết hôn với Hoàng Dung sợ vợ để lòng ghen tuông nên phải tặng lại con dao "Kim đao phò mã" ấy cho nàng, không ngờ lúc này lại có dịp phải dùng đến.
Lúc đầu Lý Mạc Thu phải phòng giữ cẩn thận, vì sợ Hoàng Dung dùng kế hại đứa bé. Nhưng sau thấy đối phương kéo gai đứng cách đứa trẻ và rào ngoài những thân cây xung quanh bãi cỏ chỗ Quách Tường nằm, nàng mới yên lòng. Lý Mạc Thu thấy lối rào của Hoàng Dung tinh thuật, lòng thầm khen.
- Trên giang hồ ai cũng khen bà ta rất túc trí đa mưu, thật nay mình mới thấy tận mắt.
Chỉ thấy Hoàng Dung rào một lớp gai mây, rồi bao phủ thêm một lớp gai táo trùng trùng điệp điệp, rào càng nhiều lòng bà càng sung sướng, nên trên nét mặt tỏ vẻ vui tươi.
Lý Mạc Thu thấy như có một âm mưu gì, trong lòng hơi lo sợ nói:
- Thôi, đủ rồi Quách phu nhân!
Hoàng Dung nói:
- Hay lắm, tôi cũng mệt lắm rồi, nhưng phải gắng làm cho vừa lòng Lý đạo cô, bây giờ đạo cô nói đủ rồi thì thôi!
Hoàng Dung đứng vận lại sức, rồi bình tĩnh hỏi:
- Lý đạo cô, tôi nghe trước kia đạo cô đã gặp cha tôi phải không?
- Đúng vậy, có gặp một lần.
Hoành Dung hỏi tiếp:
- Tôi nghe Dương Qua có kể lại, đạo cô có viết bốn câu thơ để nhạo báng cha tôi. Câu thơ ấy như vầy:
Đào Hoa chúa đảo
Rất đông học trò.
Năm người đánh một.
Thiên hạ cười cho
Lý Mạc Thu lạnh lùng đáp:
- Vì hôm ấy đến năm người vây đánh một mình tôi, lời thơ đó là một sự thật.
Hoàng Dung cười nhạt bảo:
- Được rồi, thì hôm nay một đánh một, để xem ai bị thiên hạ cười cho nhé!
Lý Mạc Thu nổi giận, quát lớn:
- Bà chớ ỷ tài mà kiêu căng, võ công của Đào Hoa đảo tôi đã thấy chán rồi, cũng chưa có gì đặc sắc lắm mà!
Hoàng Dung điềm nhiên nói:
- Khỏi nói tới võ công của Đào Hoa, dù không phải võ công đi nữa, người đối phó cũng chưa lại. Nếu còn bản lĩnh, xin đạo cô vào bồng đứa bé ra xem thế nào?
Lý Mạc Thu kinh hãi thầm nghĩ:
- Không lẽ bà ta đã hại mạng nó sao?
Nghĩ đến đó, nàng vội tung mình vượt qua một lớp gai táo, rẽ sang góc bên tả, thấy bị mất lối, bèn quẹo qua bên hữu, nghe có trẻ khóc oa oa, hơi yên lòng, nhưng vừa rẽ vào trong được mấy bước, không biết thế nào lại đi ra vòng ngoài. Lý Mạc Thu lấy làm lạ, cố bình tĩnh suy đoán:
- Đúng là mình đi vào vòng trong, tại sao bỗng nhiên lại đứng vòng ngoài thế này?
Nàng đang bối rối, vội điểm đôi chân một cái, nhảy vọt vào trong vòng, chỉ thấy gai góc chất nhiều đống lớn thành năm cửa tám lối, nằm ngổn ngang. Lý Mạc Thu vừa lọt vào lối giữa, đã trở qua cửa phía Đông, nghe "tẹt" một tiếng, chéc áo phía trái của nàng bị rách một lỗ. Lúc này Lý Mạc Thu bị kẹt vào nhiều vòng gai, không còn lối bước, nên đưa mắt nhìn tứ phía, chợt thấy Hoàng Dung đã đứng trong ấy, khom lưng bồng đứa bé. Lý Mạc Thu kinh hãi lớn tiếng quát:
- Hãy để yên nó xuống.
Rồi nàng vội tung mình nhảy lên, vượt qua gai góc, tiến thẳng về phía Hoàng Dung, nhưng chu vi của hai lớp gai rào không đầy sáu trượng, chỉ nhìn thấy mà xông đến không được. Nàng tung hoành chạy, nhảy, cứ tưởng bên tả thì sự thực là bên hữu, tưởng ở đằng trước mà thật ra là phía sau, rồi quẹo qua quẹo lại, rốt cuộc cũng trở ra ngoài vòng.
Lý Mạc Thu đã có kinh nghiệm qua nhiều trận đấu nhưng chưa gặp sự lạ lùng như thế này, bèn định thần nghĩ:
- Không lẽ bà ta có phép tà thuật? Như thế này biết phá cách nào bây giờ?
Đang suy nghĩ, lại thấy Hoàng Dung để đứa trẻ nằm xuống đấy rồi bước trở ra quẹo bên Đông, rẽ sang Tây. Trong nháy mắt bà đã vượt ra khỏi hai vòng rào gai.
Lý Mạc Thu đột nhiên nhớ lại:
- Đêm nọ mình có đấu với bọn Dương Qua, Trình Anh và Lục vô Song. Họ chỉ đắp những mô đất ngoài lều tranh mà mình không thể tiến vào được, bây giờ Hoàng Dung dùng gai rào như vậy, chắc cũng theo lối "Cửu cung bát quái" của Đào Hoa đảo đây. Nàng đứng trầm ngâm hồi tưởng lại và quyết định. Chỉ còn cách mình phải đánh ngã địch thủ trước rồi sẽ tìm cách phá rào sau. Chứ bây giờ nếu xông liều vào thì địch sẽ chiếm ưu thế tấn công, mình thua phần chắc.
Định ý xong, Lý Mạc Thu liền xách phất trần lướt ra xa ba trượng để đợi địch thủ, tựa như không còn bận tâm đến việc tiến vào vòng gai nữa.
Hoàng Dung ban đầu thấy đối phương bối rối trong trùng gai, lòng mừng khấp khởi nhưng sau đó lại thấy Lý Mạc Thu nhảy lui trở ra bà ta thầm khâm phục lo nghĩ:
- Thôi bây giờ mình đã lo cho Tường nhi nằm êm ái là tốt rồi, phải hạ thủ hắn cho xong để cấp tốc bồng con về!
Thầm tính xong, Hoàng Dung nhẹ nhàng lướt rào xông thẳng đến chỗ Lý Mạc Thu. Vừa đến nơi bà đã vung gậy tre lên, đánh thuật "Để chó cúi đầu", ép thẳng sau ót đối phương. Lý Mạc Thu vội tung phất trần quyện tréo lên đầu gậy, chỉ nghe "soạt" một tiếng dây tơ của phất trần đánh trở vào mặt Hoàng Dung. Hai người đều đánh đỡ lẹ như chớp. Cả hai đều dùng những thuật sở trường của mình, chỉ trong khoảnh khắc họ đã đấu hơn mười mấy hiệp. Lý Mạc Thu tuổi tác đã lớn nên công lực đã uyên thâm. Nhưng đối với côn pháp đánh chó của Hoàng Dung lại tinh xảo vô cùng cứ một thế tầm thường Hoàng Dung đánh tới, thì phương hướng và vị trí của Mạc Thu bị lệch ra. Lý Mạc Thu tự biết nếu tiếp tục đấu chừng mười hiệp nữa thì chắc đối phương sẽ toàn thắng. Lý Mạc Thu cố sức đánh thêm hơn ba hiệp nữa, thì trên trán mồ hôi rơi lã chã, phất trần bị rũ xuống mấy lần, công lực bị giảm nhiều. Nàng vội nhảy lui hơn ba bước nói:
- Côn pháp của Quách Phu nhân tinh diệu vô cùng, tiểu muội xin phục tài đó. Nhưng có một điều tôi lấy làm thắc mắc, xin phu nhân chỉ dạy cho.
Hoàng Dung khiêm tốn nói:
- Lý đạo cô khen quá lời, tôi nào dám?
Lý Mạc Thu nói:
- Vì côn pháp này là tuyệt kỹ của "Cửu chỉ thần cái" mà, chứ võ công của Đào Hoa đảo nếu thật oai vũ thì sao Quách phu nhân lại không sử dụng võ công Đào Hoa đảo phái mà phải mượn chỉ tài của người ngoài?
Hoàng Dung nghe nói thế thầm nghĩ:
- Miệng lưỡi của hắn thật đáng sợ. Hắn dùng sức nhắm không thắng được mình, bây giờ muốn dùng đến trí để cảm hóa chứ!
Nghĩ thế, Hoàng Dung cười nhạt hỏi:
- Lý đạo cô biết pháp này là của Cửu chỉ thần cái, vậy cũng biết tên côn pháp này là gì chứ?
Lý Mạc Thu nhướng đôi mắt nhìn qua, miệng "hừ" một tiếng mà không trả lời. Hoàng Dung cười nhạt nói:
- Côn hiệu "Đánh chó", thấy chó thì đánh. Nếu đã gặp như thế cần gì phải đổi món khác?
Lý Mạc Thu thấy không thể làm cho đối phương đổi ý được. Nếu cứ đấu khẩu mãi, sẽ bị thêm nhiều lời nhục, vì đối phương quá miệng lưỡi. Nàng giắt phất trần vào lưng, cười nhạt nói:
- Những tên ăn xin trong thiên hạ đều thuộc bài "Hoa sen rơi", quả nhiên Bang Chủ cũng là người môi miếng, thật đáng khâm phục.
Vừa dứt lời, Lý Mạc Thu đành chiu thua bỏ đi bèn tiến về phía Tây ngồi trên một gốc cây. Hoàng Dung thấy địch thủ đầu hàng ra đi, lòng mừng vô cùng, nhưng thấy hắn chỉ đến gốc cây rồi ngồi tại đấy, không đi nữa, bà lại thầm lo:
- Nếu hắn ngồi đấy, không đi thì chắc có một dụng ý gì ? Chắc hắn còn cố giữ Tường Nhi không nỡ đi, hắn chờ mình bồng bé Quách Tường thì hắn nhào ra giao đấu, thế này mình chịu hết thiệt thòi sao? Nếu mình không đánh ngã hắn thì không thể nào bồng con về nhà bình yên được.
Nghĩ thế, nàng bước sang phía tả ba bước, rẽ hữu bốn bước rồi bước tới trước mặt Lý Mạc Thu. Mấy bước nhảy của nàng xem nhẹ phớt nhưng bên trong chứa thuật Bát quái biến hoá phi thường, dù Lý mạc Thu nhảy sang cương vị nào cũng khó tránh khỏi sự cản trở của bà ta. Nhanh như chớp Hoàng Dung đưa thẳng tay mặt có nắm cây tre điểm thẳng vào khuỷu tay đối phương.
Lý Mạc Thu đưa tay khoá trái, miệng nói lớn:
- à! Sau khi Mai Siêu Phong và Trần Huyền Phong đã chết Hoàng Dược Sư không có người truyền võ công nên Quách phu nhân chỉ biết dùng "Côn pháp đánh chó" của Cái Bang mà thôi.
Lời nói ấy Lý Mạc Thu có ý chế nhạo Hoàng Dung và cả Hoàng dược sư, cha nàng không biết lựa đồ đệ truyền võ công "ngọc tiêu kiếm pháp".
Sự thật thì Hoàng Dung cũng đã luyện đến mức cao thâm, tại vì trong tay nàng không có kiếm nên phải lấy côn tre dùng thế kiếm. Hoàng Dung nói:
- Cha tôi không biết chọn người đồ đệ cho nên mấy tên đồ đệ không nên thân, đâu có bằng Lý đạo cô với Long cô nương chị em hú hý, đồng khí tương cầu được?
Lý mạc Thu nổi giận bừng bừng, đôi má đỏ lên vội tung mạnh tay phải ra một cái liền bắn xẹt ra mũi "Băng phách ngân châm" đâm thẳng vào bụng Hoàng Dung.
Phải biết Lý Mạc Thu là một tay giết người không nháy mắt, thủ đoạn sâu độc không lường được nhưng lại là một cô gái giữ mình trinh tiết. Nàng cứ cho Tiểu long Nữ là lả lơi trắc nết nên khi nghe Hoàng Dung so sánh nàng giống như Tiểu long Nữ, lòng nổi giận vô cùng thành thử mới ra tay đã dùng tới ám khí hiểm độc nhất, để giết địch thủ trong tức khắc, cho hả giận.
Bây giờ Hoàng Dung đứng gần địch thủ nên không kịp né hai mũi ám khí ác độc, vội vã dùng côn tre quay tít mà gạt ra cả. Nếu Hoàng Dung không nhờ côn pháp đánh chó đã luyện đến mức thượng thừa thì may lắm mới gạt được mũi thứ nhất, chứ đâu có thể tránh được mũi thứ hai? Khi hai mũi kim bạc bay cách thân bà hai tấc thì bà cảm thấy một mùi thuốc xông lên. Hoàng Dung thầm nhớ lại:
- Mấy năm trước đây, chân của đôi chim điêu mình cũng bị loại Băng phách ngân châm này làm trầy, phải chữa trị hơn sáu, bảy tháng trời chất độc mới hết, thế này mình phải cẩn thận chứ trúng phải độc nầy là nguy.
Tay Hoàng Dung chưa ngớt múa động côn tre, thì đã thấy hai mũi tên bay tới nữa. Bà vội bước tréo qua bên tả ba bước, liền nghe có sức gió mạnh phớt qua mang tai rợn người. Hoàng Dung thầm lo:
- Chỗ này cách Tường nhi quá gần, mà các mũi kim này có chất độc lạ thường, nếu rủi phớt qua làn da của Tường nhi là không toàn mạng.
Nghĩ như thế, bà vội cất bước chạy về hướng Đông, chui qua đám rừng. Lý Mạc Thu tưởng đối phương kinh sợ bỏ chạy bèn đuổi theo, cho là Hoàng Dung chỉ có côn pháp đánh chó chứ còn ngoài ra những môn võ công khác không thể bì kịp nàng.
Lý Mạc Thu vừa thấy Hoàng Dung chui ra rừng bèn quát hỏi:
- Thắng bại còn chưa phân, sao lại bỏ chạy đi như vậy Quách phu nhân?
Hoàng Dung quay đầu lại chỉ mỉm cười không nói gì. Lý Mạc Thu hỏi tiếp:
- Khi đỡ ngân châm của tôi, Quách phu nhân cũng phải nhờ đến cây gậy tre ấy sao?
Thấy Lý Mạc Thu đang tiến tới, Hoàng Dung thầm nghĩ:
- Bây giờ nếu mình không cất gậy tre, dù có thắng đối phương cũng không khâm phục mình.
Hoàng Dung nghĩ thế, bèn giắt côn tre vào lưng rồi cười nói:
- Lâu nay hằng nghe Ngũ độc thần chưởng của Lý đạo cô vô song, bây giờ xin cho tôi thưởng thức vài đường coi nào.
Lý Mạc Thu hơi ngạc nhiên:
- Bà ta đã biết sự lợi hại "Ngũ độc thần chưởng" của mình mà lại muốn thử thách, chắc có âm mưu gì đây? Nhưng dù cho chưởng pháp của bà ta có thần diệu đến mức nào, cũng không thể bì kịp thần chưởng của mình được. Nếu bà ta không dùng côn tre thì trong nháy mắt mình hạ thủ liền.
Nghĩ xong, nàng đưa thẳng đôi tay ra nói:
- Tuyệt kỹ của Đào hoa đảo đã nguyện thì xin lãnh giáo "lạc anh chưởng" đây.
Đôi mắt Hoàng Dung trông thoáng qua bèn vung đôi tay đánh ra một chưởng, lẹ như chớp, tay trái đỡ đòn "Ngũ độc thần chưởng", tay phải đấm thẳng vào vai đối phương. Lý Mạc Thu dùng hai đòn này vốn lẹ làng mạnh mẽ mà tay trái lại ném ra hai mũi ngân châm đâm thẳng vào bụng Hoàng Dung. Đòn độc này là do nàng sau ngày rời sư môn đã tự sáng chế ra, nên lúc giao đấu với mọi người chỉ biết đề phòng độc chưởng chứ không ngờ đứng gần nhau, lại có thể ném ám khí kèm theo độc chưởng được. Do đó nhiều nhà võ học tay trái về gạt cánh tay mặt địch, phá được đòn độc chưởng ác liệt, tay mặt thò vào túi áo, tựa như muốn lấy ám khí để trả đỏn. Nhưng đã chậm mất một giây, chỉ thấy trong tay bà vừa đưa ra là ngân châm đâm tới cách bụng không đầy ba tấc. Đã tới nước nầy, dù có bản lãnh siêu phàm cũng khó tránh khỏi!
Lý Mạc Thu lòng mừng vô kể, vì thấy ngân châm ghim thẳng vào mình đối phương, đến lút mất. Bỗng nghe Hoàng Dung kêu lên "ái" một tiếng, đôi tay ôm bụng, cong lưng xuống. Lý Mạc Thu thừa thắng áp tới thì bị tay trái Hoàng Dung đánh thẳng vào ngực một đòn quá mạnh. Nàng kêu khẽ một tiếng "hay" rồi ngửa người ra sau, đôi tay tống thẳng tới một lượt, đánh trả vào ngực Hoàng Dung. Lúc này nàng thấy rõ đối phương đã trúng phải hai mũi ngân châm, chỉ trong chốc lát là bị chất độc hoành hành khắp châu thân, nên thầm nghĩ:
- Thế này tay bà chỉ còn khẽ động đậy, chứ thân thể chắc đã tê liệt rồi. Bây giờ mình chỉ cần đẩy đối phương ngã sang một bên là trong khoảnh khắc sẽ phát độc mà chết.
Đôi bàn tay Lý Mạc Thu vừa chạm vào vai áo trước ngực đối phương, bỗng nhiên hai lòng bàn tay nổi đau nhói lên như bị vật gì nhọn đâm vào. Nàng kinh hãi vội nhảy lùi lại, đưa hai bàn tay lên xem, thì thấy mỗi lòng bàn tay đều đâm thủng một lỗ nhỏ, chung quanh lỗ ấy có vòng máu bầm đen đúng là bị Băng phách ngân châm của nàng tự đâm trúng, lòng kinh sợ nghĩ thầm:
- Tại sao hai kim độc của mình lại đâm ngược lại mình được?
Nàng chỉ thấy Hoàng Dung từ trong túi móc ra hai qủa bôm giơ cao lên, trên mỗi quả bôm đều có ghim một mũi kim châm. Lý Mạc Thu bây giờ mới thấy thuật đỡ lạ thường của Hoàng Dung.
Khi ám khí của Mạc Thu bắn tới, Hoàng Dung chỉ luồn tay vào bụng để di động hai quả bôm, đón thẳng đường tiến của hai mũi ngân châm. Rồi nhử đối phương đánh vào hai quả bôm, nên trúng phải mũi ngân châm một cách dễ dàng. Lý Mạc Thu cũng là người thông minh tuyệt đỉnh, nhưng hôm nay gặp phải tay địch thủ ngụy trá như vậy, nên lòng khâm phục vô cùng. Nàng thò tay vào túi lấy thuốc giải độc, nhưng chưa kịp lấy thuốc đã nghe làn gió cuồn
cuộn tới, là đôi tay của Hoàng Dung đã đấm thẳng tới trước mặt rồi. Lý Mạc Thu vội đưa tay trái khóa lên, bỗng thấy năm ngón tay đối phương xòe ra, phất vào huyệt "tiểu hải" bên khuỷu tay mặt nàng. Năm ngón tay quá lẹ làng uyển chuyển, trông đẹp như đóa hoa lan, Mạc Thu thầm kinh sợ tự hỏi:
- Không lẽ đây là bài "Lan Hoa phất nguyệt thủ". Mình đã nghe bà ta làm chấn động giang hồ?
Tay mặt nàng không kịp lấy thuốc giải độc, vội trở bàn tay chụp lấy bàn tay của đối phương. Tay mặt của Hoàng Dung lẹ làng rút về, còn tay trái cũng dùng ngón phất vào huyệt "khuyết hồn" ở giữa cổ và vai. Lý Mạc Thu thấy đối phương dùng cả "Lạc anh chưởng" lẫn với "Lan hoa phất huyệt thủ" cùng một lúc, các chiêu thế không thể nào trông kịp và mạnh mẽ, lợi hại lạ thường, nét mặt nàng bỗng xám lại, lòng thầm nghĩ:
- Hôm nay mình mới thấy thần kỳ của Đào Hoa đảo, quả thật là không tầm thường. Dù cho tay mình không bị trúng độc, cũng không thể đối địch với bà ta nổi.
Lý Mạc Thu cố tìm cách thoát thân, để kịp thời lấy thuốc giải độc, nhưng Hoàng Dung vẫn tiến sát, không hở một thế nào. Vì còn lo sợ đối phương giở trò thuật gì ác độc khác, nên bà thầm nghĩ:
- Nếu mình không có hai quả bôm trong túi thì có lẽ đã phải bị hai mũi ngân châm lợi hại làm ngất xỉu rồi. Nhưng cũng nhờ hai mũi độc ấy mà mình làm cho hắn mắc mưu. Bây giờ phải áp đảo đừng để hắn rảnh tay giải độc.
Hoàng Dung thấy nét mặt đối phương đã tái mét, tay chân đánh đỡ mỗi lúc một yếu. Bà cho rằng tâm địa của Lý Mạc Thu quá hiểm độc, dù có chết đi nữa cũng phải, nên bà ta ra tay không chút nới tình.
Lý Mạc Thu bị kim độc, cảm thấy hai tay tê liệt rồi dần dần nhức buốt cả cánh tay, bây giờ đôi cánh tay cứng đờ, không thể cử động được nữa, nàng vội kêu lên:
- Hãy khoan?
Kêu chưa dứt lời, nàng đã nhảy tránh qua một bên, luôn miệng nói:
- Quách phu nhân, xưa nay tôi đã từng giết người không nháy mắt, nên tôi đã từng ngang dọc trên thiên hạ cho đến ngày nay. Nhưng hôm nay đấu trí, đấu sức tôi đều thua bà, nếu giờ đây tôi có chết cũng cam chịu mà chi xin Quách phu nhân một việc này, có được không?
Hoàng Dung hỏi:
- Việc gì vậy?
Đôi mắt của Hoàng Dung vẫn nhìn chằm chằm vào đối phương, phòng sợ nàng giả kế đánh bất thần. Đôi tay của Lý Mạc Thu đã cứng đờ, không thể thò tay vào túi lấy thuốc được nên tỏ lời cầu khẩn:
- Xưa nay tôi hằng nghịch với sư muội, nhưng đứa con của nó quá xinh đẹp đáng thương, xin Quách phu nhân nhủ lòng từ bi săn sóc cho đứa bé vô tội ấy, đừng có làm hại nó tội nghiệp!
Hoàng Dung nghe qua những lời thành khẩn ấy trong lòng cảm xúc vô cùng: - Ma đầu này tính ác như núi, nhưng lúc gần chết lại có lòng thương người cũng lạ.
Nghĩ như thế, Hoàng Dung nói thử:
- Cha mẹ đứa bé này không phải hạng tầm thường, nếu để nó phải chịu cực nhọc mà nuôi kẻ thù sao?
Lý Mạc Thu quá đau lòng, cầu khẩn:
- Xin bà nhủ lòng thương, chứ đứa bé ấy chưa biết gì tội lỗi!
Hoàng Dung muốn thử ý đối phương nữa, liền bước tới gần, đưa ngón tay phất huyệt trước rồi thò tay vào túi áo Lý Mạc Thu lấy ra một bình thuốc liền hỏi:
- Cái nầy có phải là thuốc giải độc ngân châm của đạo cô không?
Lý Mạc Thu vội đáp:
- Đúng rồi!
Hoàng Dung nói:
- Trong một ngày tôi không thể giết hai mạng người được. Nếu đạo cô muốn tôi cứu thì để tôi giết đứa bé. Bằng ngược lại đạo cô chịu chết thì tôi sẽ không giết nó.
Lý Mạc Thu chưa bao giờ bị tình cảm bối rối như thế này. Nhưng lúc này nàng không thể nào nói được tiếng giết đứa trẻ nên suy nghĩ:
- Nếu mình chết thì cũng được nhưng đứa bé này sợ không được bà ta thương mến. Bằng mình không chịu chết thì nó bị giết! Không được! Nó phải sống! Nó đáng thương lắm.
Chỉ thấy Hoàng Dung cầm bình thuốc lắc qua lắc lại, như chờ Lý Mạc Thu trả lời. Lý Mạc Thu cắn răng nói:
- Để tôi... tôi!...
Hắn suy nghĩ lâu như vậy cũng thấy rõ lòng thương của hắn đối với Tường nhi quá nặng rồi. Bây giờ hắn đành chịu chết, đã chứng tỏ lòng thiện cảm, thật đáng cho mình tha mạng. Dù cho hắn có nợ máu đầy mình thì ngày sau ắt có người tìm hắn mà thanh toán, ta không cần giết hắn làm chi.
Nghĩ xong Hoàng Dung cười nói:
- Xin cảm ơn Lý đạo cô đã hết lòng chăm lo cho Tường Nhi của tôi.
Lý Mạc Thu ngạc nhiên hỏi:
- Bà nói cái gì vậy?
Hoàng Dung thuật lại:
- Đứa bé gái này họ Quách tên Tường là con gái của tôi và Quách Tỉnh, vừa sinh ra không bao lâu thì lọt vào tay Long cô nương. Không hiểu thế nào Lý đạo cô có sự hiểu lầm này! Như vậy nhờ đạo cô dưỡng nuôi nhiều ngày, tôi xin đội ơn khôn cùng.
Nói xong, bà nép mình thi lễ, rồi đưa cho Lý Mạc Thu một viên thuốc giải độc, và hỏi:
- Một viên đủ giải độc cho đạo cô chưa?
Lý Mạc Thu bần thần nói:
- Tôi trúng độc nhiều, phải cần đến ba viên.
Hoàng Dung bèn trao thêm cho Lý Mạc Thu hai viên nữa, nhưng lòng thầm nghĩ:
- Thuốc còn trong bình này mình cất để phòng mai sau cần đến, không nên trả cho hắn.
Hoàng Dung định ý xong nói:
- Chừng ba tiếng đồng hồ nữa, các huyệt đạo của Lý đạo cô sẽ tự mở, không có gì đáng lo.
Hoàng Dung liền trở bước đi vào rừng, nghĩ thầm:
- Mình đi lâu thế nầy, không biết Phù nhi đã đi chưa? Nếu nó còn ở đó đợi mình thì chị em nó gặp nhau vui biết mấy!
Bà bước qua vòng rào dây gai, định bế Quách Tường. Nhưng vừa thoáng qua, toàn thân bà như rơi vào bể tuyết. Vì thấy vòng rào không có chút dời đổi, mà bóng Quách Tường đã mất! Ngực bà hồi hộp, đôi mắt hoa lên. Thật một người túc kế đa mưu như Hoàng Dung, lúc này cũng phải bối rối chịu trận. Một hồi lâu bà mới định thần được, cố suy nghĩ:
- Mình cùng Lý Mạc Thu ra ngoài kia giao đấu cũng chưa bao lâu, Tường nhi bị ai ẵm mất, chắc đi cũng chưa bao xa.
Hoàng Dung vội leo lên một ngọn cây cao nhất, đảo mắt nhìn tứ phía. Địa thế chung quanh thành Tương Dương thật bằng phẳng, có thể nhìn xa hơn mười trượng nhưng không có một sự gì khả nghi cả. Lúc này đại binh Mông Cổ triệt thoái, mà trên đường không một bóng người qua lại nếu có gì di động, dù cách xa cũng trông thấy.
Hoàng Dung nghĩ lại:
- Chắc người này chưa có thể đi xa được, mình phải tìm ở gần đây.
Bà liền rảo bước đi xung quanh rào nhưng không tìm được một dấu di động, biết không thể có một thú dữ nào vào bắt Quách Tường được. Lòng trầm tĩnh suy nghĩ:
- Rào dây gai này mình dùng phép "Cửu cung bát quái" trên đời này ngoài đệ tử của Đào Hoa đảo, thì không ai hiểu được. Dù cho hùng tài trí như Kim Luân Pháp Vương cũng không vào được. Nhưng đệ tử Đào Hoa đảo đâu còn ai? Hay cha mình đã tới đây? Không thể có được? à! phải rồi, mấy tháng trước đây mình đánh với Kim Luân Pháp Vương. Lúc nguy cấp mình đã dùng mô thạch bố trận để chống lại. Khi Dương Qua tới cứu, mình đã kể sơ lược của trận pháp cho hắn nghe. Nhưng nó là một người thông minh tuyệt đỉnh, nên có thể am hiểu môn này được.
Khi nghĩ đến Dương Qua bà quyết đoán:
- Phù nhi chặt mất một cánh tay của nó, là lúc này đã kết thành một mối thâm thù với nó. Như thế này Tường nhi lọt về tay hắn, thì tánh mạng của con mình thật là đau khổ.
Bà nghĩ đến đứa con gái mới ra đời chưa được mấy ngày mà vận mệnh đã trớ trêu như thế bất giác rơi lệ. Nhưng Hoàng Dung đã trải qua nhiều cuộc biến cố, tài trí tuyệt luân, đâu có phải hạng gái bi quan tầm thường nên chỉ trầm ngâm một hồi liền lau khô nước mắt để truy tầm lối đi của Dương Qua. Nhưng tìm mãi không hề thấy một dấu chân nào của người vào ẵm Quách Tường, Hoàng Dung lấy làm lạ:
- Dù khinh công của nó có luyện đến mức tuyệt đỉnh thì trên mặt đất xốp này cũng có một vài dấu chân lờ mờ chứ. Không lẽ nó lại bay trên không mà xuống?
Hoàng Dung ước đoán như vậy quả nhiên không sai. Quách Tường thật đã bị Dương Qua ẵm mất, mà lối đi vào rào gai cũng là từ trên gai bay xuống.
-
Chương 69 - Còn Một Tay Trái Đại Chiến Quần Hùng - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 69 - Còn Một Tay Trái Đại Chiến Quần Hùng
Đêm vừa rồi Dương Qua ở ngoài cửa sổ thấy Hoàng Dung điểm huyệt Quách Tỉnh, giải thoát cho Quách Phù tẩu thoát. Dương Qua lần bước trở ra ngoài thành, lần theo hai mẹ con Hoàng Dung. Vì lúc này Hoàng Dung đang tiến bước cho con gái về Đào Hoa Đảo nên lòng quá bùi ngùi, không lưu ý tới sau lưng họ có người theo dõi. Đến lúc Hoàng Dung giao đấu với Lý Mạc Thu ở trong rừng thì Dương Qua tới núp ở một bên xem tường tận. Đợi đến lúc hai người đi cách xa chỗ Quách Tường nằm, Dương Qua đã có một kế. Chỉ thấy chàng tung mình lên ngọn cây, tết ba sợi mây dài, buộc một đầu trên cây, đầu kia thòng xuống chỗ bé Quách Tường. Vì Dương Qua sợ hai người giao đấu không bao lâu trở vào thì bại lộ là khó lòng cho việc mạo hiểm.
Trong chốc lát Dương Qua đã thòng mình xuống đất. Đôi chân chàng kẹp lấy mình của Quách Tường, tay trái dùng sức kéo một cái, thân hình vút lên cành cây. Dương Qua nhìn ra mé rừng thấy Hoàng Dung và Lý Mạc Thu đang đòn qua ngón lại rất kịch liệt, lòng thầm mừng:
- Họ còn bận đánh nhau như thế là mình đủ thời gian bồng đứa bé này đi xa rồi. Rồi đây họ sẽ trở lại mà tìm kiếm đứa bé mới hồi hộp cho.
Dương Qua nghĩ xong, liền mở sợi dây cuộn tròn ném vào một bụi rậm, rồi từ trên cành cây tung mình nhảy ra rừng, xuống đất chạy như gió hút, tiến về phía thị trấn. Bây giờ khinh công của Dương Qua trên đời khó có ai bì kịp. Chỉ trong nháy mắt chàng đã thấy Quách Phù đứng bên đường tay dắt con tiểu hồng mã đang ngơ ngác nhìn quanh như trông ngóng chờ một việc gì. Dương Qua tung mình một cái từ ngoài xa hơn hai trượng, nhảy vọt lên lưng con tiểu hồng mã. Quách Phù giật mình nhìn lại thấy người đoạt ngựa lại là Dương Qua, bất giác kêu lên:
- Trời ơi!
Nhưng chỉ thấy Dương Qua cười nhạt, nàng kinh hãi vội đưa tay rút phăng thanh kiếm trên lưng ra. Thanh tử vi kiếm bị Quách Tỉnh giữ lại nên thanh kiếm trên tay nàng chỉ là loại kiếm thường. Bây giờ Dương Qua muốn trả thù Quách Phù dễ như trở bàn tay. Nhưng thấy mặt nàng không còn một chút máu, chàng chỉ "hừ" một tiếng rồi phất chiếc tay áo bên mặt ra, quần vào thanh kiếm Quách Phù, tay trái ra cương ngựa. Tiểu hồng mã cất vó dấn thân vào gió bụi. Quách Phù ngã quỵ xuống, hồn vía bay mất hết. Một hồi lâu tỉnh lại nàng thấy thanh kiếm cong như một chiếc vòng sắt lóng lánh. Lối đánh này của Dương Qua chỉ có ý thị oai cho Quách Phù thấy tuy tay mặt chàng đã mất nhưng một tay áo không cũng đủ làm cho nàng thảm bại rồi.
Dương Qua bồng Quách Tường cho ngựa lướt gió băng đường về hướng Bắc. Con tiểu hồng mã này chạy một ngày hơn một ngàn dặm nên chỉ trong khoảnh khắc đã đưa chàng qua khỏi thành Tương Dương do đó Hoàng Dung có leo lên cây cao nhìn cũng không tài nào còn thấy được nữa. Lúc này lòng Dương Qua như nổi cơn sóng gió, vì đã bao nhiêu lần toan chặt tay Quách Phù để báo thù nhưng lâm vào thực tế như chạy lùi về phía sau, chàng cúi đầu nhìn con bé trong lòng, thấy nó đang ngon giấc chàng thầm nghĩ:
- Mình không trao trả đứa bé đáng thương này cho nhà họ Quách, cũng như mình trả mối thù mất một cánh tay rồi! Gia đình họ còn phải đau khổ chán chường gấp bội phần mình nữa.
Dương Qua học văn luyện võ đều thông minh hơn người nhưng tâm trí thường chế ngự không nổi tánh quá khích, nên ý nghĩ luôn luôn thay đổi. Khi nãy chàng căm thù vợ chồng Quách Tỉnh đã định giết đến mấy lần. Nhưng lúc chàng tới trả thù thì thấy họ lâm nguy, lại xả thân để cứu. Đến lúc nàng Quách Phù đã ra tay làm cho chàng tàn tật như vậy chàng quyết tới trả thù nhưng thấy nàng quá sợ sệt chàng liền đổi ý không nỡ giết. Chưa được nửa ngày trời Dương Qua đã cách xa Tương Dương hơn trăm dặm. Chợt thấy một thôn trang, chàng dừng lại, vào làng xin ít sữa bò cho đứa bé bú. Bây giờ chàng có con ngựa hay liền quyết định trở về Cổ Mộ tìm Tiểu Long Nữ. Con tiểu hồng mã cất vó lướt đi như tên, chưa đầy hai ngày đã đưa Dương Qua tới chân núi Chung Nam. Lòng chàng hồi tưởng việc xưa, nghe cảm khoái vô cùng liền giục lên núi, tới trước Cổ Mộ. Bia đá vẫn đứng sừng sững, không khác gì năm xưa, nhưng cửa Cổ Mộ thì đóng lại vì lý Lý Mạc Thu tới tấn công. Bây giờ nếu muốn vào trong, chỉ còn cách chui qua Thủy Khê, xuống cùng dưới đất, theo đường bí mật vào. Nhưng nội công của Dương Qua đã tinh vi vượt qua cảnh này đâu có khó mấy, chỉ có Quách Tường yếu sức quá khi chui vào các khe nước, chắc không toàn mạng.
Dương Qua đứng trước Cổ Mộ lòng đinh ninh Tiểu Long Nữ ở trong mộ. Chàng không dần dà gì nữa, đưa tay vào túi lấy sữa bò cho đứa bé uống, rồi đặt bé Quách Tường nằm yên trong sơn động bên Cổ Mộ. Đoạn chàng cắt một mớ gai rào ngoài cửa động thật cẩn thận, rồi nhỏ nhẹ nói:
- Em bé nằm yên đây, để anh đi vào tìm cô Tiểu Long Nữ, có gặp hay không anh cũng trở ra bồng em theo.
Công việc lo lắng, chàng vòng qua Cổ Mộ đi ra phía sau, chỉ đi được mười mấy bước, một cơn gió thoảng qua, từ xa vọng lại những tiếng rang rảng của binh khí chạm nhau. Dương Qua nhìn về hướng ấy, thì chính là cửa động Trùng dương Cung. Chàng đứng chăm chú nhìn, bỗng nghe "vù vù" một tiếng, thấy chiếc ngân luân bay bổng lên không, biết rõ là binh khí của Kim Luân Pháp Vương. Gợi tánh tò mò Dương Qua liền giở khinh công hướng theo tiếng vo vo chạy tới. Trong nháy mắt chàng đã đến trước Ngọc Hư động ở sau Trùng dương Cung. Cũng đúng lúc Dương Qua chạy gần tới trận chiến, thì cơ thể của Tiểu Long Nữ đang bị hại "Bách xuyên hội hải" phái Toàn Chân và đòn đánh dồn của bọn Kim Luân Pháp Vương. Trước một thân hình liễu yếu như Tiểu Long Nữ, mà phải chiến đấu hơn ba trận ác liệt liên tiếp, với hàng trăm đạo sĩ của năm sáu cao thủ. Rồi đến bây giờ chín tay cao thủ, của hai phái võ lừng danh hợp lại đánh hai đòn ác độc vào nàng thì còn gì tính mạng! Nếu Dương Qua tới sớm một tý là có thể cứu được cái nguy này. Nhưng thiên di bất trắc, thế sự éo le, nên mọi việc đâu có thể được như ý muốn của con người? Mọi sự bi quan, ly tán, họa phước, vinh nhục ở dời, cũng chỉ vì một tý sai lạc, chậm trễ gây nên.
Tiểu long Nữ nghe đến chuyện Quách Phù chặt tay chàng, cơn ghen tức thù hận nổi lên làm nàng nghẹn thở, quên mất nàng đang bị trọng thương, mạng sống trong hấp hối. Máu nóng đang sôi lên, Dương Qua nói:
Cô! sau khi tôi mất một cánh tay chắc cô phải thương yêu tôi hơn xưa vì cánh tay này mà cô hết nghi ngờ tôi yêu Quách Phù chứ?
Tất cả tình thương yêu trìu mến đều bộc lộ ra trong đôi mắt ngấn lệ của Tiểu Long Nữ. Với nụ cười bẽn lẽn không trả lời nàng đã chứng tỏ lòng cầu mong trước khi nàng nhắm mắt được thấy Dương Qua một lần cuối. Bây giờ đã toại nguyện nên nàng không mong muốn gì hơn nữa. Lúc này chỉ thấy bốn mắt hai người nhìn nhau, đôi tim hoà nhịp. Tuy cường địch đang chực chờ xung quanh nhưng Dương Qua và Tiểu Long Nữ đều không hề lưu ý tới.
Toàn Chân ngũ tử thấy Dương Qua bỗng nhiên xuất hiện biết việc này thêm phần nan giải. Khưu Xứ Cơ quá gai mắt liền lớn tiếng:
- Trùng Dương cung là nơi tĩnh tu của chúng tôi, hôm nay các vị tới đây nhiễu loạn để làm gì?
Vương Xứ Nhất cũng quá giận dữ liền nói tiếp:
- Long cô nương! Cổ mộ phái cùng Toàn Chân giáo có xích mích nhau thì đôi bên tự giải quyết được rồi sao cô lại rủ bao nhiêu người Hồ cùng lũ tà ma ngoại đạo tới đây giết hại bao nhiêu đồ đệ của chúng tôi?
Tiểu Long Nữ lúc này đâu màng nghe những lời quở trách nhưng dù có nghe nàng cũng không còn sức để đôi co với họ nữa.
Bọn đệ tử Toàn Chân thấy Tiểu Long Nữ cố ý hạ sát Doãn Chí Bình nên xem nàng như thù địch nhưng lúc hỗn loạn này ai đâu có biết được sự thực mỉa mai cay đắng giữa nàng và Doãn Chí Bình.
Dương Qua vẫn điềm nhiên nhỏ nhẹ hỏi nàng:
- Cô! mình trở về Cổ mộ nhé! Mặc cho họ muốn nói gì kệ họ.
Tiểu long Nữ khe khẽ hỏi:
- Cánh tay anh còn đau không?
Dương Qua mỉm cười nói:
- Đã lành hẳn rồi!
Tiểu Long Nữ lại hỏi:
- Chất độc tình hoa trên mình anh còn tái phát nữa không?
Dương Qua hơi lo sợ đáp:
- Thỉnh thoảng cũng tái phát vài lần nhưng không đau đớn mấy.
Triệu Chí Kính lúc bị Tiểu Long Nữ đâm trọng thương mãi núp phía sau động nhưng chưa dám ló mặt ra. Vì tiếp đó hắn thấy năm vị đạo trưởng Toàn Chân đã khai quan nên thầm lo:
- Nếu mình ra mặt các vị đạo trưởng xét hỏi thì chức trưởng giáo sẽ mất mà thân còn phải chịu nghiêm hình. Nhưng thế cuộc đã đến nước này mình không thể để yên được chỉ còn cách gây thêm xáo trộn thị phi để năm vị đạo trưởng khó phân phải trái thì mình có dịp thủ thắng. Nếu có thể mình mượn tay bọn Kim Luân Pháp Vương trừ luôn Toàn Chân ngũ tử cũng được. Chỉ cực nhọc một lần mà mình sung sướng suốt đời. Hay hơn nữa thằng Dương Qua bây giờ chỉ còn một cánh tay, mà nó còn lo cho Tiểu long Nữ, thế này lúc khốn đốn lắm là mình gặp dịp may rồi.
Triệu Chí Kính thầm tính xong, vội bước tới mặt Dương Qua lớn tiếng:
- Tên phản nghịch Dương Qua! Hai vị tổ sư đang hỏi mi, sao không quỳ xuống tạ lỗi, mà còn ngạo mạn như vậy?
Dương Qua nhìn lại, ánh mắt của hắn chứa đầy vẻ căm giận, lòng thầm nghĩ:
- Lũ đạo sĩ bây đã đánh cô ta trọng thương, hôm nay tạm gác lại, có dịp khác sẽ tính sau.
Chàng không thèm trả lời, chỉ đỡ Tiểu long Nữ đứng dậy, cất bước đi. Triệu Chí Kính nhìn Trịnh Quan, hô lớn:
- áp vô! Đừng để nó thoát!
Triệu Chí Kính và Trịnh Quan cùng nhau tung kiếm ra một lượt đâm thẳng vào vai mặt Dương Qua. Triệu Chí Kính là một cao thủ có hạng trong hàng đệ tử đời thứ ba của Toàn Chân giáo. Thân thể hắn tuy bị ba nhát kiếm của Tiểu long Nữ đâm nhưng thương thế không đau mấy. Lúc này Triệu Chí Kính thấy Dương Qua không thể đánh đòn trả được, hắn có ý hạ thủ Dương Qua trong tức khắc, nên đánh đòn ác độc vô cùng. Đòn này chính là kiếm pháp của Vương trùng Dương, người đã được tôn là võ công đệ nhất trong thiên hạ khi xưa truyền lại. Khưu xứ Cơ tuy giận Dương Qua về tánh kiêu căng, nhưng nhớ lại năm xưa Quách Tỉnh đã có lời ký thác. Hơn nữa Dương Khang là đệ tử của lão, nên vội quát lớn:
- Triệu Chí Kính, hãy nới tay!
Xa xa có tiếng Mã quang Tổ quát lên:
- Ê! Triệu Chí Kính không hổ ngươi sao? Mi lại đâm cánh tay cụt của người ta?
Vì Mã Quang Tổ đã quen với Dương Qua và Tiểu long Nữ, nên lúc thấy hai người đang lâm nguy mà bọn đồ đệ Toàn Chân muốn ám hại nên gã muốn ra tay cứu, mà khốn nỗi chưa tới kịp.
Bỗng thấy một luồng xám tro thoáng qua, toàn thân mập phệ của Trịnh Quan bay bổng, miệng rú lên một tiếng như heo bị thọc huyết. Nghe ầm một tiếng hắn rớt thẳng xuống trên đầu Ni ma Tinh. Ni ma Tinh không để ý, nên gặp phải thân hình mập phệ ấy giáng xuống làm hỏng cây gậy thay chân nên lăn nhào xuống đất. Vai lão vừa chạm xuống đất, lập tức xoay mình lại, đưa gậy đập vào lưng Trịnh Quan. Trịnh Quan bị tiếp mấy đòn ngất xỉu luôn. Còn Dương Qua chỉ dùng một chân mặt đạp lên thanh kiếm của Triệu Chí Kính, mà Triệu Chí Kính dùng hết sức lực nép thanh kiếm lại nhưng vẫn không chút nhúc nhích được. Biến cố này xảy ra trong chớp nhoáng. Hạng võ công tầm thường không thể biết Dương Qua dùng cách nào đỡ đòn lợi hại của bọn Chí Kính quá dễ dàng như vậy. Chỉ có Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây và Toàn Chân ngũ tử mới thấy được.
Lúc đôi kiếm bọn Chí Kính đâm tới tay áo bên mặt Dương Qua thoáng phất lên một luồng sức mạnh tống ra, cái thân nặng hơn hai trăm cân của Trịnh Quan bị vứt bổng lên còn Triệu chí Kính thấy thế quá nguy, liền xử thế "Thiên cân truỵ" nên liểng xiểng. Cũng vì thế trường kiếm của hắn bị hạ xuống. Dương qua liền đưa chân đạp mạnh trường kiếm ấy dưới đất.
Lúc Dương Qua luyện kiếm giữa thác lũ, sức nước mạnh như thế chưa đẩy chàng ngã thì đủ thấy rõ công lực của đôi chân chàng vững đến mức nào rồi. Bây giờ một chân đạp lên thanh kiếm, thì Triệu Chí Kính dẫu vận hết sức cũng không thể nào kéo nổi!
Dương Qua lạnh lùng nói:
- Triệu đạo trưởng! Ngày xưa lúc gặp Quách đại hiệp ông đã bảo tôi không phải là học trò của ông, sao hôm nay lại nhắc việc ấy nữa? Thôi tôi nể vì ngày xưa đã gọi mấy tiếng sư phụ, nên tha cho ông đi đó!
Chàng vừa nói xong bàn chân không chút cử động nhưng nội công đã thu lại không đè mạnh thanh kiếm nữa. Triệu chí Kính cảm thấy thanh kiếm nhẹ đi vội giật mạnh một cái. Nghe "bịch", một tiếng, cán kiếm thôi mạnh vào ngực Triệu Chí Kính. Hắn ngã ngửa xuống đất, lồng ngực đau nhói lên, hộc ra mấy bụm máu tươi rồi ngất xỉu. Thương tích này do Triệu Chí Kính quá tức giận mà gây nên. Vương Xứ Nhất, Lưu Xứ Huyền đều tuốt kiếm ra khỏi vỏ, tả hữu tấn công Dương Qua. Bỗng nhiên có một bóng người phía Tây xông vào. Chỉ nghe keng một tiếng, hai thanh kiếm tung lên không. Người xông vào thình lình chính là Ni ma Tinh đã bị Trịnh Quan đụng té nhào lúc nãy, nên lão giận đánh Trịnh Quan ngất xỉu mà chưa hả dạ. Bây giờ lão tìm ra căn nguyên tại Dương Qua gây nên, liền chống gậy nhảy tới. Lão đánh thẳng thiết xà trượng xuống đầu Dương Qua. Dương Qua phật mạnh tay áo lên, luồng sức mạnh làm thiết xà trượng Ni Ma Tinh tung ngược lại, đụng vào hai thanh kiếm của Vương Xứ Nhất và Lưu Xứ Huyền bay phắt ra. Bây giờ toàn thân Tiểu Long Nữ liểng xiểng dựa vào mình Dương Qua vì nàng bị vết thương công phạt, sức lực yếu hẳn.
Dương Qua thấy võ công Ni ma Tinh hơn hẳn bọn Triệu Chí Kính nên không dám dùng cánh tay áo chống cự với thiết trượng của lão. Dương Qua thu tay áo về, quấn vào bụng của Tiểu Long Nữ, để nàng dựa vào hông. Chàng vội rút phăng thanh "huyền thiết trọng kiếm" đeo bên hông trái, thuận tay vung ra. Nghe phập một tiếng, bàn tay của Ni Ma Tinh bị tét ra, liền thấy một bóng đen bay vút lên không. Lúc cấp bách, Dương Qua vội dùng thử trọng kiếm Độc cô Cầu bại. Chàng không ngờ một tay, dùng trọng kiếm lại có một sức mạnh đánh bay được thiết trượng nặng hơn bốn mươi cân của đối phương, bay cao hơn ba mươi trượng, nên chàng vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Ni ma Tinh tê liệt nửa thân người, cánh tay mặt bị chấn động đến mết cả cảm giác. Nhưng cơn giận lão như lửa đốt, lão gầm lên một tiếng, tay trái tung cây gậy sắt cao hơn một trượng, giáng xuống đầu Dương Qua. Dương Qua đưa kiếm lên đỡ, thầm nghĩ:
- Cường lực trên kiếm mình đã thử rồi, vậy lần nầy thử nhu lực xem.
Định ý xong, chàng thúc nhẹ trọng kiếm tới, tức thì gậy sắt dính chặt vào mũi trọng kiếm. Bấy giờ Dương Qua chỉ vận nội lực tung ra, Ni ma Tinh ắt phải ném xa hơn mười trượng, và nếu lọt qua vách núi, lão chắc nát thịt tan xương. Lúc nầy Dương Qua thấy Tiểu Long Nữ bị trọng thương như vậy, lòng chứa đầy oán hận, thấy mọi người trước mắt đều là kẻ thù cả, nên ra tay không chút dung tình. Dương Qua khinh công hạ thủ, nhưng thoáng thấy thân hình Ni ma tinh dính bổng theo gậy sắt, mà không có đôi chân, bất giác nhớ đến cánh tay cụt của chàng, lòng cảm xúc thương người đồng cảnh ngộ, tự nhiên tay không bỗng giật mạnh xuống đất. Cây gậy sắt bị gằn mạnh cắm thắng xuống đất, kéo Ni ma Tinh xuống, bụi bay tung lên. Ni ma Tinh nắm chặt gậy sắt, toan dùng sức nhổ lên, nhưng tay mặt không còn cử động được, cơn đau nhức nhối khắp mình. Dương Qua nói:
- Hôm nay tôi tha mạng cho ông, thì ông còn mặt mũi nào ở lại dất Trung Nguyên này nữa?
Mặt Ni ma Tinh xám ngắt như đám tro tàn, miệng không nói được lời. Tiêu tương Tử, Doãn khắc Tây thấy việc bất ngờ như vậy, đều thấy rõ công lực của Dương Qua đã tiến quá nhiều. Nhưng họ còn cho Dương Qua dù sức lực mạnh cũng chi còn một tay, mà thắng được Ni ma Tinh đã cụt mất hai chân thì cũng chưa có gì kinh sợ. Doãn Khắc Tây bước tới, đưa tay nhổ gậy sắt cho Ni ma Tinh. Ni ma Tinh được dịp vội chộp lấy gậy chống đi nhưng nữa thân mình bị tê liệt, vừa nhảy đi một bước lại ngã quy xuống. Tiêu tương Tử là người có tánh ganh tị chỉ cầu cho kẻ khác bị rủi ro, bất kể bạn hay thù, nên hắn thấy Ni ma Tinh bị thất bại, đã thầm nghĩ:
- Võ công của thằng già Thiên Trúc vốn tương đương với mình, xưa nay không phục ai, bây giờ lão ta phải tiêu đời rồi. Bây giờ trước mặt các cao thủ, mình thắng được Dương Qua trước, thật một cơ hội lập danh oai.
Nghĩ như thế, Tiêu Tương Tử nhảy tới trước mặt Dương Qua, quát lớn:
- Tiểu tử Dương Qua, mi đã bao lần phá hoại đại sự của Vương gia. Hãy mau theo ta để nạp mình!
Dương Qua thầm lo:
- Cô ta bị trọng thương, cần phải chữa trị sớm nhưng khổ nỗi trước mặt cường địch quá nhiều, nếu ta không đánh lui họ hết thì làm sao có thể cứu chữa được? Sợ còn phải thiệt mạng nữa.
Chàng khẽ hỏi Tiểu Long Nữ:
- Cô! cô thấy đau lắm không?
Tiểu Long Nữ cảm động đáp:
- Hơi đau thôi! Không hề gì, anh đừng ngại.
Dương Qua quắc mắt nhìn Tiêu Tương Tử, nói:
- Xin người ra tay trước!
Tiêu Tương Tử ngạo nghễ cười nói:
- Mi chỉ còn một tay, nếu ta dùng hai tay đánh hạ mi, thì thật bất công quá.
Tương Tử đút tay trái vào dây lưng, tay phải múa côn "khốc tăng" nói:
- Ta chỉ cần một tay đánh mi có chết cũng không oán hờn gì nữa nhé!
Lúc này Dương Qua chỉ cần đánh gấp để chấm dứt chiến trận, nên không muốn nói dài dòng nữa. Dương Qua thấy Tiêu tương Tử khinh thường, liền đâm thẳng Huyền thiết kiếm vào bụng Tiêu Tương Tử. Mũi kiếm còn cách xa lão chừng hai thước. Tiêu tương Tử thấy thanh kiếm kịch cỡm, đen thui, như một thanh gỗ mun, nên khinh khỉnh nói:
- Thanh gỗ cháy này mi nhặt ở đâu vậy?
-
Chương 70 - Thừa Kế Huyết Bảo Kiếm - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 70 - Thừa Kế Huyết Bảo Kiếm
Vừa dứt lời Tiêu Tương Tử đập mạnh côn khốc táng xuống trọng kiếm. Dương Qua vận nội lực vào kiếm. Nghe "phập" một tiếng khô khan, chỉ thấy côn khốc táng gãy thành bảy, tám khúc bay tung toé ra.
Tiêu Tương Tử kêu lên một tiếng:
- Thôi! Nguy rồi!
Lão lẹ làng tháo lui. Nhưng Huyết thiết kiếm của Dương Qua đã lướt như bay, chém bên hữu một cái, chặt bên tả một nhát. Hai cánh tay của Tiêu Tương Tử lìa ra khỏi thân mình tức khắc.
Doãn Khắc Tây liền tung "Kim long tiên bảo" ra trước mặt che chở cho Tiêu Tương Tử lui ra.
Dương Qua đánh thắng liên tiếp Trịnh Quan, Triệu Chí Kính, Ni ma Tinh làm mọi người đứng ngoài đều thất sắc. Lần này chàng đánh Tiêu Tương Tử bị thảm bại một cách đau đớn, ai nấy đều trố mắt nhìn, kinh hãi, thầm nghĩ:
- Võ công người nầy thật là kỳ dị quá!
Doãn Khắc Tây là một lái buôn miền Tây Vực, đôi mắt rất tinh đời, nên vừa thấy thanh trọng kiếm của Dương Qua đánh bật gậy sắt Ni Ma Tinh, lòng đã thầm đoán:
- Kiếm này có oai lực lạ thường, chắc có chất quý. Sao ánh thép trong màu đen có tỏa ra màu hồng, không lẽ dùng huyền thiết chế thành?
Huyền thiết là vật quí nhất trong thiên hạ, dù một lượng cũng khó kiếm. Hắn làm gì tìm được huyền thiết như vậy? Vả lại nếu kiếm này bằng Huyền thiết thì ít nhất cũng nặng đến sáu mươi cân, làm gì hắn sử dụng nổi?
Sự thật kiếm nầy nặng đến bẩy mươi bốn cân, nếu không nhờ sức nặng lạ đời như vậy, thì dù cho nội lực Dương Qua mạnh đến đâu, cũng không thể phát ra thần oai như thế. Doãn Khắc Tây tuy tinh đời, nhưng không thể đoán thấu triệt được. Đến lúc thấy côn "khốc táng" của Tiêu Tương Tử gãy thành bảy, tám khúc, Doãn Khắc Tây tin chắc kiếm đó là thần vật. Doãn Khắc Tây vốn không có tánh a dua mấy, nhưng lúc trước đã theo nghề buôn châu báu, thấy vật quí lạ, lòng cũng muốn toan tìm cách mua đổi, hoặc lừa gạt cướp giật mới thỏa lòng. Hắn liền tung mạnh roi "Kim long tiên" ra cuốn phắt vào trọng kiếm của Dương Qua. ở Tuyệt Tình cốc, Dương Qua và Doãn Khắc Tây đã có giao tình thân mật vui vẻ nên Dương Qua chưa có lòng???? (*mất mấy dòng*)
Dương Qua thấy "Kim long tiên" của Doãn Khắc Tây quấn vào trọng kiếm, bình tĩnh hỏi:
- Doãn huynh, chúng mình chưa có gì xích mích nhau, xin huynh hãy rút roi về, để tránh điều không hay. Trên nhu tiên có nhiều vật quý, nếu làm hư hao thật đáng tiếc!
Doãn Khắc Tây cười nhạt, nói:
- Vậy à ?
Gã liền chuyển sức giật mạnh một cái. Dương Qua chỉ đứng yên như pho tượng đá, không thể nào làm lay chuyển được thanh kiếm!
Bây giờ Doãn Khắc Tây đứng sát bên thanh trọng kiếm, thấy rõ ràng thanh kiếm của Dương Qua do Huyền thiết đúc thành. Lòng gã thầm so sánh:
- Hột xoàn, kim cương là vật cứng nhất trong đời, bất cứ mình cọ trên vật cứng nào, đều có thể làm trầy vật đó, mà bây giờ những hột xoàn nạm trên roi kim long, mình đã gạch mạnh một đường dài trên thanh kiếm, nhưng thanh kiếm này không có tý hề hấn gì.
Doãn Khắc Tây lòng nóng như lửa, nhưng thấy võ công đối phương quá lợi hại, mà chưa tìm được cách đoạt thanh bảo kiếm, cười mơn trớn nói: - Dương huynh võ công lúc này tiến bộ quá nhiều, thật đáng mừng! Tiểu đệ khâm phục vô cùng.
Nói chưa dứt lời khách sáo, nhưng tay nh phóng ra một con dao găm, đâm thẳng vào ngực Tiểu Long Nữ. Nhát dao này Doãn Khắc Tây vốn không phải có ý đả thương Tiểu Long Nữ. Nhưng gã dùng lối dương Đông kích Tây, để cho Dương Qua buông kiếm cứu mạng Tiểu Long Nữ, thì gã có dịp đoạt được kiếm báu. Dương Qua vội nhảy qua bên tả hai bước, cho Tiểu Long Nữ tránh khỏi nhát dao. Doãn Khắc Tây quát lớn:
- Hãy buông kiếm.
Dương Qua thấy đường dao quá lợi hại, sợ Tiểu Long Nữ bị thọ thương, nên vội nghe lời buông mạnh trọng kiếm vào mình đối phương, kịp thời đưa tay trái về đỡ Tiểu Long Nữ né ra sau lưng tránh khỏi đường dao nguy cấp.
Doãn Khắc Tây lòng mừng khấp khởi, vận hết sức kéo roi để đoạt kiếm. Nghe "ầm" một tiếng. Doãn Khắc Tây nhào ngửa xuống đất, cả roi lẫn huyền thiết kiếm đánh mạnh vào ngực. Gã nằm quằn quại. Những ngụm máu tươi tuôn trào ra cửa miệng!
Dương Qua tuy không có ý hại Doãn Khắc Tây nhưng vì muốn cứu mạng Tiểu long Nữ, chàng chuyển mình qua, nên tay trái trước khi buông kiếm bị một sức đẩy tới quá mạnh. Doãn Khắc Tây đã thừa biết "Huyền thiết kiếm" có một sức nặng lạ thường, nên phải dùng hết sức mạnh mới đoạt được bảo kiếm. Không ngờ sức đẩy kiếm của Dương Qua đã mạnh lại cộng thêm toàn lực Doãn Khắc Tây kéo đoạt thanh kiếm tạo thành cường lực như sông dời núi lở, đè vào ngực Doãn Khắc Tây. Dương Qua vội bước tới ba bước, đưa tay đón lấy trọng kiếm, trả nhẹ một cái, ai nấy đều chói mắt, vì các báu vật trên "Kim Long Tiên" lóng lánh rơi lã chã trên mặt đất. Té ra trong lúc hai người đang dùng nội lực chọi nhau thì sợi Kim Long Tiên, nạm đầy châu báu, bị chấn động đến rã ra từng mảnh một.
So với Ni ma Tinh và Tiêu Tương Tử, thì lương tâm của Doãn Khắc Tây lương thiện hơn nhiều, chỉ vì một phút tham lam, nên bị thọ thượng nặng hơn hai người trước. Dương Qua tuy không thù oán Khắc Tây nhưng thấy gã đã cố ý dùng dao ám hại Tiểu Long Nữ, nên mặc dù thấy gã bị trọng thương chàng không lưu ý tới. Dương Qua nhìn sang Kim Luân Pháp Vương nói:
- Ngài Pháp Vương! Món nợ của tôi thanh toán bây giờ, hay để ngày sau?
Kim Luân Pháp Vương xảo quyệt lạ thường, thấy Dương Qua đánh thắng liên tiếp ba cao thủ, chỉ dùng có một thế quá đơn sơ mà võ học cao siêu đến mức khó lường dược, nếu lão có ra tay, tuy không bị như ba người vừa rồi, cũng khó mà thắng được. Lòng can đảm lão tự hỏi:
- Hôm nay anh hùng các nơi tựu đông thế này nếu mình sợ mà bỏ cuộc thì còn mặt mũi nào? Nhưng hắn lúc này chỉ còn một tay lợi hại thì bên tay cụt bị sơ hở, mình cứ tấn công bên đó, để kéo dài thời gian. Hắn phải bận tâm lo cho Tiểu Long Nữ, đến lúc tinh thần hắn bối rối, mình sẽ thừa cơ thủ thắng.
Hai tay cầm năm chiếc vòng kim khí lão chầm chậm bước tới, giữ vẻ mặt thản nhiên cười nói:
- Dương tráng sĩ! Chúc mừng tráng sĩ kỳ ngộ được thanh thần kiếm oai vũ tuyệt luân này!
Tiểu Long Nữ đang đứng dựa vào lòng Dương Qua, chợt thấy Kim Luân Pháp Vương tiến lên, sợ Dương Qua một mình không chống nổi địch thủ, liền nhỏ nhẹ nói:
- Anh Qua! Anh chọn cho em một thanh kiếm, mình dùng bài "Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp" để trừ lão.
Dương Qua cảm động, khẽ nói:
- Cô! Cô cứ yên lòng, để một mình tôi đối phó cũng có thừa rồi.
Chàng quắc mắt nhìn Kim Luân Pháp Vương, lớn tiếng nói:
- Xin lão chớ điêu ngoa nói nhiều.
Dương Qua liền đâm thẳng Huyềt thiết kiếm vào người Kim Luân Pháp Vương. Lão nhảy lùi lại vung tới một vòng Kim Ngân vang ra những tiếng "vu vu" nghe rợn người. Chiếc vòng xám ngắt bay vèo tới, Dương Qua đưa kiếm lên róc một nhát. Chiếc vòng ấy liền quay đổi hướng, bay vòng qua đầu chàng, trở về tay Pháp Vương nên nhát kiếm đánh lên không trúng được. Lúc này chỉ nghe những tiếng veo veo, vù vù, vo vo không ngớt vang dậy. Ai nấy đều lóa mắt trước các tia sáng đủ màu, lập lòe. Năm chiếc vòng kim khí bay vèo vèo thành nhiều đường, tấn công khắp mình Dương Qua và Tiểu Long Nữ như một cơn vũ bão. Lần này Dương Qua đứng yên cố thủ, vì thấy trước năm đường kim khí ác liệt, chàng tính không thể tung kiếm đỡ hết được, nên cứ để kiếm che thân cho Tiểu Long Nữ. Nhưng không ngờ, năm chiếc vòng của Kim Luân Pháp Vương tung ra để thử sự hư thật mà thôi, nên các ám khí chỉ bay một vòng qua mình hai người, rồi bay lùi trở lại đôi tay Pháp Vương. Kim Luân Pháp Vương thấy Dương Qua không dám đưa kiếm truy kích, nên thầm mừng:
- à! Mi không dám rời vị trí, sợ vết thương của Tiểu Long Nữ thêm phần trầm trọng, như vậy hai đứa bay đã nạp mạng cho ta rồi! Nếu cơ hội này ta không hại chúng bay thì sau này phải thêm một mối lo âu suốt đời.
Lão liền tung mình nhảy tới, chiếm phần ưu thế trong chiến trận. Dương Qua đã mất một cánh tay, mà còn bảo vệ một người bị thương. Theo lẽ người có thân phận như Pháp Vương, một kẻ có danh vọng, thì không bao giờ đánh với Dương Qua trong lúc này. Nhưng đối với Pháp Vương cho cảnh ngộ hôm nay là cơ hội quý báu vô cùng. Nếu không đánh hôm nay lão sợ mai sau Tiểu Long Nữ bình phục, hai người họp sức thì không tài nào đấu nổi. Lão không cần nghĩ đến việc công bằng hay không. Sự kiện ấy, bao nhiêu người ngoài vòng chiến đấu thấy rõ. Dương Qua và Tiểu Long Nữ không thể nào toàn mạng được trước bàn tay ác độc của Kim Luân Pháp Vương. Mã Quang Tổ hối hả chạy đến quát lớn:
- Đại hòa thượng! Lão có phải là anh hùng hảo hớn hay không?
Pháp Vương làm thinh như không nghe, cứ lo luân chuyển năm chiếc vòng bay vút tới đối phương theo nhiều đường khác biệt, vang ra những âm thanh trầm bổng, hòa thành một âm điệu lạ thường, làm cho người nghe dễ rối trí.
Bỗng nhiên nghe Mã Quang Tổ "chao ôi" một tiếng, thì ra chiếc vòng bên tay trái của Pháp Vương bay xẹt qua, cạo mất một lớp da đầu của hắn, máu chảy lai láng. Chiếc vòng vừa lớn vừa nặng! Kim Luân Pháp Vương đã khéo léo đuổi Mã Quang Tổ bằng cánh uy hiếp tinh thần, để khỏi can thiệp vào.
Dương Qua thấy Tiểu Long Nữ đang đuối sức nên cứ cố thủ để cho nàng hồi tỉnh mới dám ra tay ác chiến. Kim Luân Pháp Vương lớn tiếng:
- Hãy cẩn thận này!
Bất thần năm chiếc vòng nhập lại, tiến vụt tới bên mình Dương Qua và Tiểu Long Nữ. Đây là thế "Ngũ hổ xông trận". Dương Qua vận nội lực tung trọng kiếm, đánh phắt qua một cái, nghe "leng keng" vang lên ba tiếng, tức khắc ba chiếc vòng vàng, đồng, sắt bay sang một bên. Chàng thuận tay chém luôn một lúc các vòng kim khí đều rơi xuống đất. Mắt mọi người đều hoa lên, chỉ thấy đất bụi cuốn tròn, bao phủ những tia sáng loang loáng của kim khí. Pháp Vương hét lên những tiếng vang trời,
dậy đất, nhảy vút tới tung ra hai chiếc Kim Luân và Ngũ Luân. Lão nhặt tiếp vòng vàng, sắt, tung mạnh vào đầu Dương Qua. Dương Qua không đỡ nữa, chỉ nghiêng mình đâm thẳng huyền thiết kiếm vào ngực Pháp Vương. Lão vội tháo lui cách xa mũi kiếm hơn ba thước. Mũi kiếm tung thủ lanh như chớp nhưng không thể nào đánh trúng lão được. Thế mà năm chiếc vòng không ngớt tấn công.
Trận chiến lúc này đôi bên đều vận công mãnh liệt, không có một chút sơ hở. Cứ mỗi nhát kiếm có thể hạ địch trong nháy mắt, và một đường ám khí bay vút tới trong tức khắc làm thiệt mạng người như không. Mọi người say sưa theo dõi trận đấu, bất giác buột miệng khen ầm lên:
- Hay quá! Chưa từng thấy bao giờ!
Huyền thiết kiếm vừa đâm vút tới, liền thu lại đã thấy Dương Qua tung kiếm lên nghe "keng" một tiếng, chiếc vòng đồng đã đứt ra thành hai mảnh. Chàng không để cho hai mảnh vòng rơi xuống đất, liền quét lưỡi kiếm qua, hai mảnh vòng biến thành bốn.
Huyền thiết kiếm tuy không bén, nhưng Dương Qua đã dùng nội lực theo lối "vô kiếm bất thôi" nên không có một vật cứng nào có thể chịu nổi. Mọi người từ trước đến nay đã kinh hãi sức lợi hại, cứng rắn năm vòng tròn của Pháp Vương, đến bây giờ lại thấy oai lực lạ thường trên thần kiếm của Dương Qua, nên đều kinh sợ tưởng như trên lưỡi kiếm có một thần phép nào vậy.
Trong khoảnh khắc, năm chiêc vòng của Pháp Vương đã bị tiêu huyết hết ba. Nhưng lão vẫn còn khỏe sức như thường, múa động vòng vàng và sắt, chia ra tấn công Dương Qua và Tiểu Long Nữ. Tuy Pháp vương chỉ còn hai chiếc ám khí, nhưng Dương Qua chém những nhát kiếm ác liệt mà vẫn không thể hạ được đối thủ vì thân pháp lão quá nhanh, còn Dương Qua không dám truy thủ mãnh liệt, sợ cử động quá mạnh làm tổn thương đến Tiểu Long Nữ.
Kim Luân Pháp vương thấy địch thủ không thể tấn công ác liệt nên lão dùng đôi vòng đánh tả công hữu kích, thật thần dũng tuyệt luân. Còn huyền thiết kiếm của Dương Qua chỉ dùng những đường chậm chạp, cứ bình tĩnh để cho Pháp Vương biến thủ đủ cách. Cứ như thế đấu đến năm mươi hiệp, đôi vòng của Pháp Vương dập tréo lại, bay vút vào ngực Tiểu Long Nữ, Huyền thiết kiếm của Dương Qua liền đâm thẳng ra, nghe "phập" một tiếng, mũi thiết kiếm dính chặt vào hai chiếc ám khí. Đôi bên đều có sức hút nội công quá mạnh nên hai người kèm nhau không nhúc nhích. Dương Qua cảm thấy nội lực của đối phương càng lúc càng tăng, lòng thầm lo:
- Mình tuy đã cùng đấu với lão nhiều lần nhưng không ngờ lão có nội lực thâm hậu như thế này.
Bây giờ Dương Qua và Kim Luân Pháp Vương dùng nội lực chọi nhau, nhưng oai thế của Huyền thiết kiếm không thể lay chuyển được đôi vòng kim khí. Vì Pháp Vương luyện công đã lâu năm, nội lực đã thâm hậu hơn Dương Qua. Nếu hai bên dùng nội lực đấu nhau, trong thời gian lâu ắt Dương Qua không thể chịu nổi. Dương Qua vừa giao đấu, vừa suy nghĩ:
- Mình dùng nội lực chống với lão là phí sức, mà không thể thắng được. Mình nhử lão tiến gần tay áo, rồi bất thần phất vào mặt lão để có dịp hạ thủ.
Tay trái Dương Qua từ từ thâu trọng kiếm về lần lần, hai người cách xa từ năm thước, đến bốn thước rồi lại gần thêm.
Hai tên đại đệ tử của Kim Luân Pháp Vương là Đạt nhĩ Ma và Hoắc Đô mải đứng kèm ở bên lão bây giờ chúng thấy sư phụ chúng đẩy lui địch thủ, lòng mừng vô cùng, vội tiến sát tới gần Dương Qua. Đạt Nhĩ Ma tâm địa chất phác, chỉ lo cho thầy lúc an nguy, nên sấn bước tới. Nhưng Hoắc
Đô lòng lại nham hiểm, thừa thế thắng của thầy hắn, tiến bước theo để ám hại Dương Qua. Hắn giả vờ phe phẩy cây quạt đề hầu Pháp Vương nhưng sự thật hắn đã dùng ám khí trong cây quạt bắn ra. Hoắc Đô thầm tính:
- Mình trừ được Dương Qua rồi, thì chỉ còn ba thầy trò mình võ nghệ nhất định. Mọi người, dù họ có thấy sự ám hại kín đáo của mình, cũng không ai dám phát giác ra gian kế. Nhưng họ có nói ra đi nữa thì lại làm gì nổi ba thầy trò mình.
Hoắc Đô đưa quạt phe phẩy, đôi mắt đăm đăm nhìn Dương Qua. Thân hắn chầm chậm bước tới.
Khưu xứ Cơ và Vương Xứ Nhất, đã nhiều kinh nghiệm, nên đoán biết Hoắc Hô muốn giúp thầy hắn. Hai người nhìn nhau một cái, lòng đều thầm nghĩ:
- Dương Qua tuy là thù địch của Toàn Chân giáo, nhưng tánh đại trượng phu làm việc gì cũng quang minh. Dù thắng hay bại, đều có bản lĩnh cương trực. Chung nam sơn đâu có dung túng bọn gian ngoa như thầy trò Kim Luân Pháp Vương vậy được?
Hai vị đạo già liền xách trường kiếm, tiến tới gần trận địa, bốn mắt chiếu thẳng vào mặt Hoắc Đô. Trong tức khắc song kiếm của hai vị đạo sĩ Toàn Chân đưa thẳng trước mặt Hoắc Đô. Hắn thất kinh chạy lui, không dám làm liều nữa. Bây giờ Dương Qua thâu trọng kiếm về, Pháp Vương chỉ còn cách chàng chừng ba thước, chàng thầm tính:
- Để lão tiến thêm chừng nửa bước nữa, mình có thể phất tay áo ra được, tuy không làm lão thiệt mạng cũng có thể làm cho lão choáng váng ngay.
Pháp Vương thấy vai mặt Dương Qua hơi nhúc nhích, có ý khả nghi. Lão là con người thông minh tuyệt đỉnh có thể biết được dụng ý cả đối phương, nên thầm tính:
- Mình phải dùng tương kế tựu kế! Hắn phất tay áo một cái, tất sức lực tay trái hắn phải dồn qua vai mặt. Lúc ấy nội lực ở trong thanh kiếm sút đi mình tấn công thật gấp, thì hắn phải trọng thương ngay.
Tiểu Long Nữ dựa vào mình Dương Qua từ lúc mới giao đấu tới giờ ở trong cơn hôn mê không hay biết gì cả. Nhưng thỉnh thoảng Dương Qua tìm vận nội lực cho nàng, các huyết quản lưu thông điều hòa lại, cơ thể mỗi lúc một nóng dần. Tiểu long Nữ cảm thấy người chàng toát ra hơi nóng liền mở mắt nhìn thấy ngực chàng ướt đẫm mồ hôi. Nàng liền lấy vạt áo nhè nhẹ lau cho chàng. Thấy chàng không để ý nàng đưa mắt nhìn theo ánh mắt chàng, bất giác nàng kinh hãi. Té ra đôi mắt của Pháp Vương như hai cái chuông đồng đang trao tráo nhìn, cách nàng không đầy bốn bước. Tiểu Long nữ sợ hãi vội nhắm nghiền mắt lại cố hồi tâm thầm nghĩ:
- à! Mình đang nương tựa bên chàng mà đôi mắt dữ tợn của lão như có ý gì đây?
Nàng mở mắt lại thấy Pháp Vương tiến tới gần thêm. Tiểu long Nữ không nghĩ tới lúc này Pháp Vương đang giao đấu với Dương Qua, chỉ biết lão hòa thượng là cừu địch với nàng, nên không để lão đến phá giờ phút hạnh phúc của nàng và Dương Qua. Tiểu Long Nữ liền thò tay vào túi, lấy ra một mũi "Ngọc Phong kim châm" chầm chậm phóng vào mắt trái của Pháp Vương.
Đừng nói đến kim châm có chất độc, dù một mũi kim tầm thường, đâm vào nhãn cầu, thì mắt cũng đui mất. May là Tiểu Long Nữ không để ý đến việc giao đấu giữa Pháp Vương và Dương Qua, đồng thời sức nàng còn yếu, nên phóng kim châm hơi chậm.
Pháp Vương đang cùng Dương Qua chọi nhau đến lúc khẩn cấp, mặc dù thấy kim châm của Tiểu Long Nữ từ từ đâm tới, nhưng lão vô phương chống đỡ. Mắt lão thấy kim châm càng lúc càng gần. Bỗng nghe lão quát lên một tiếng, đôi vòng tống mạnh tới, người lão lộn ngược về phía sau. Lão gượng dậy, chưa đứng vững, lại ngã nhào xuống đất. Đại nhĩ Ma và Hoắc Đô thất thanh kêu:
- Sư phụ! Sư phụ!
Hai người lướt tới toan đỡ thầy. Dương Qua đã chém tung hai nhát, hai chiếc vòng vàng sắt của Pháp Vương bị vỡ làm bốn mảnh. Chàng liền tiến tới ba bước, vung kiếm chặt xuống mình Pháp Vương. Pháp Vương chưa bình phục, nên ngồi bẹp dưới đất, không còn một tý sức nào để tránh né.
Đạt Nhĩ Ma vội đưa cây Hoàng kim chùy lên, Hoắc Đô tung cây quạt thép lên, cùng gạt vào thanh Huyền thiết kiếm của Dương Qua. Nhưng nhát kiếm chém xuống quá mạnh, hai gã đệ tử Pháp Vương chịu không nổi, đồng thời hai người quỵ chân xuống. Họ cố che chở cho thầy nên tung binh khí lên, ưỡn ngực ra đỡ liều. Sức lực trên thanh kiếm của Dương Qua quá mạnh. Đạt nhĩ Ma và Hoắc Đô đều cảm thấy như các đốt xương trong người đều rã ra hết. Hoắc Đô nói:
- Sư huynh? Anh cố chống đỡ một mình để tôi cứu sư phụ ra trước, rồi sẽ tiến vào tiếp sức với anh.
Hai người hiệp sức còn chưa chống nổi, nếu một mình Đạt Nhĩ Ma, thì làm sao đỡ được sức mạnh của Huyền thiết kiếm? Nhưng Đạt nhĩ Ma nghĩ đến thâm ơn của thầy, nên thấy lúc nguy muốn xả thân để cứu thầy.
Đạt nhĩ Ma lưỡng lự đáp:
- Được!
Hắn cố sức giữ vững cây Hoàng kim chùy đỡ thanh trọng kiếm. Họ chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tây tạng nên Dương Qua không hiểu được ý của họ. Chàng cảm thấy sức đỡ của đối phương thình lình giảm bớt, mà Hoắc Đô đã tung mình nhảy ra ngoài. Tên Hoắc Đô thật là xảo trá. Hắn đã dùng mưu để thoát cơn nguy, chứ đâu có ý cứu thầy?
Hắn vừa nhảy ra được, liền nói với Đạt Nhĩ Ma:
- Sư huynh, để tiểu đệ về Tạng Biên rèn luyện thêm võ công mười năm nữa đệ sẽ trở lại tìm họ Dương trả thù cho sư phụ và sư huynh!
Dứt lời hắn đã tung mình đi mất. Đạt Nhĩ Ma bị Hoắc Đô xí gạt, nên cơn giận xông lên! Nhưng đang ở dưới oai lực mãnh liệt của thanh trọng kiếm, Đạt Nhĩ Ma không biết làm sao để trừ đứa phản thầy, lừa bạn cho hả giận, bèn nhìn Dương Qua nói:
- Đại sư huynh! Huynh tha cho tiểu đệ một lần, để cứu sư phụ tiểu đệ về, và tìm tên sư đệ lòng lang dạ thú ấy băm thây ra muôn mảnh, rồi tiểu đệ sẽ trở lại cho đại sư huynh định đoạt. Lúc ấy dù có xương tan thịt nát tiểu đệ cũng cam tâm.
Dương Qua thấy Đạt Nhĩ Ma là con người trung nghĩa, nên thương tâm không nỡ xuống tay. Chàng cúi nhìn đôi mắt dịu hiền của Tiểu Long Nữ đang thổn thức nhìn chàng. Trong nháy mắt, tất cả những ý niệm báo thù, báo oán đều tiêu tan hết. Chàng nâng thanh huyết thiết kiếm, lên bảo:
- Tha mạng cho ngươi, hãy lui đi!
Đạt Nhĩ Ma liền đứng dậy cúi đầu thi lễ cảm ơn Dương Qua đã tha mạng. Bây giờ Kim Luân Pháp Vương vẫn ngồi bẹp dưới đất, không cử động được. Đạt Nhĩ Ma lo cõng thầy lên lưng không kịp nhặt hoàng kim chùy, vội cất bước chạy tuốt xuống núi.
Dương Qua chỉ còn có một tay, đã sử dụng trọng kiếm, đánh sáu vị cao thủ của Mông Cổ đều đại bại. Bọn vũ sĩ thấy sáu người đều bị trọng thương cả đâu còn dám hó hé gì, chỉ lo xúm khiêng bọn Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây đi mất. Mã Quang Tổ bước tới trước mặt Dương Qua nói:
- Tiểu huynh nay thật tài tình.
Dương Qua nói:
- Mã đại ca, đồng bọn của anh đều bất lương hết, nếu anh cứ chung sống với họ, ắt phải chịu thiệt vậy anh hãy từ biệt hoàng tử Hốt Tất Liệt, trở về quê cũ sống cho yên.
Mã Quang Tổ gật đầu nói:
- Tiểu huynh nói rất phải!
Gã đưa mắt nhìn qua Tiểu Long Nữ, hỏi:
- Bao giờ tiểu huynh thành thân với tân nương để tôi ở lại uống ly rượu mừng, có được không?
Mã Quang Tổ tính tình khờ khạo, nhưng chân thật. Lần đầu tiên ở Tuyệt tình cốc đã quen gọi Tiểu long Nữ là cô dâu mới nên cứ mãi cho nàng là tân nương. Dương Qua gượng cười, đưa mắt nhìn qua mấy trăm đạo sĩ ở chung quanh.
Mã Quang Tổ nói:
- ô! Còn bao nhiêu đạo sĩ này chưa cút đi. Vậy để tôi giúp bạn cho.
Dương Qua thầm nghĩ:
- Nếu cứ một chọi một, thì bọn đạo sĩ này không thể chống lại mình. Nhưng họ cùng hợp sức đánh một lượt, tình thế chắc nguy hiểm vô cùng, dại gì mình để người bỏ mạng vô lối.
Dương Qua lớn tiếng nói:
- Anh hãy mau trở về đi, một mình tôi đối phó đủ rồi.
Mã Quang Tổ hơi kinh ngạc, nhưng liền sực tỉnh vỗ tay reo:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Như cả một bọn hòa thượng còn chưa đánh lại bạn, thì bọn đao sĩ này có đáng gì? Thôi xin chào tiểu đệ và tân nương, Mã quang Tồ này lui về!
Mã Quang Tổ cười ha hả, rồi kéo lê cây đồng côn vào núi. Chỉ nghe tiếng đồng côn va chạm vào đá vang lên, rồi từ từ chìm đắm vào trong hoang vắng lặng xa xôi. Dương Qua chống trọng kiếm xuống đất, lạnh lùng nhìn bọn đạo sĩ.
Khưu Xứ Cơ lớn tiếng bảo:
- Dương Qua! võ công của my đã luyện đến mức này, thật đã vượt quá nhiều, bọn ta khó bì kịp. Nhưng Toàn Chân giáo có mấy trăm đệ tử ở đây, my thấy có thể phá vòng vây nổi chăng?
Dương Qua đưa mắt nhìn, thấy tứ bề kiếm quang loang loáng. Cứ bảy đạo sĩ hợp thành một đội, trùng trùng điệp điệp, vây kín chàng và Tiểu Long Nữ ở giữa. Chính trong lúc chàng đang kịch chiến với Pháp Vương thì đạo sĩ Toàn Chân giáo đã bày bố thành chiến trận rồi. Sắp theo lối: bảy tên đạo sĩ tầm thường thì liên kiếm hợp sức để có thể chống được một cao thủ thượng thừa. Lại còn năm vị cao thủ Toàn Chân đã vang tiếng trên giang hồ nữa. Bây giờ các đạo sĩ đã tung kiếm sắp tấn công. Dương Qua "hừ" một tiếng, dắt Tiểu Long Nữ tiến về hướng Đông. Hai người đi chưa được năm bước, lập tức có bảy tên đạo sĩ tung kiếm cản lại. Dương Qua quá tức, đưa trọng kiếm chém tới một nhát nghe những tiếng "leng keng" vang lên, tức khắc bảy thanh kiếm đều gãy hết. Trong tay bảy người chỉ còn cầm cán không nên họ vội tháo lui đi hết. Bọn Khưu Xứ Cơ đã từng gặp nhiều cường định lạ thường nhưng chưa lúc nào thấy có kiếm uy hùng như Dương Qua vậy.
Vương Xứ Nhất liền hô to, hạ lệnh:
- Toàn cơ diện quang hậu bích!
Dương Qua vẫn tự nhiên dắt Tiểu Long Nữ bước tới nữa thì cũng gặp bảy tên đạo sĩ khác. Nhưng bảy tên này không tung kiếm quét ngang một lượt, giao nhau thay đổi vị trí một cách lẹ làng, hợp thành những song kiếm tả xung hữu đột. Tuy cũng lanh lẹ mà chỉ trong giây lát, liền nghe "ôi ối" mấy tiếng, đã có hai tên bị trọng thương, người cụt chân, người bị gãy lưng, còn những người còn lại cũng liên tiếp ngã gục xuống hết.
Cũng lúc ấy mười bốn thanh trường kiếm khác đã chỉ thẳng vào lưng Dương Qua và Tiểu Long Nữ rồi. Nếu chàng hồi kiếm chém lại cũng có thể bay một phần trong mười bốn kiếm, nhưng sợ còn sót mấy mũi họ đâm liền tới thì còn gì mạng Tiểu Long Nữ?
Dương Qua đang do dự lại có bảy thanh kiếm nữa chỉ thêm vào hông phải của Tiểu Long Nữ. Đến cảnh này, Dương Qua có liều mạng sống của chàng, cũng hết phương giải cứu cho Tiểu Long Nữ!
Khưu Xứ Cơ đưa tay, quát lớn:
- Hãy dừng tay!
Hơn hai chục thanh kiếm loang loáng ánh thép, đều lui ra cách xa Dương Qua và Tiểu Long Nữ chừng ba tấc rồi dừng hẳn lại. Khưu Xứ Cơ nói:
- Long cô nương, Dương Qua! Tôn sư của chúng ta đều có tình cảm sâu đậm với nhau. Nhưng Toàn Chân giáo hôm nay ỷ đông thủ thắng, thì có vinh dự gì? Hơn nữa Long cô nương đang bị trọng thương. Bởi thế người xưa bảo: "Oan gia nên giải, không nên buộc", vậy hai người hãy về đi còn những điều hiểu lầm lâu nay, mặc cho ai phải quấy. Bây giờ chúng ta xóa bỏ tất cả! Hai người nghĩ thế nào?
Dương Qua cùng Toàn Chân giáo vốn không có thâm thù đại oán gì. Chàng lên Chung Nam Sơn hôm nay chỉ vì đi tìm Tiểu Long Nữ, chứ đâu
có ý phá hoại Toàn Chân giáo? Nghe Khưu Xứ Cơ nói chàng thầm nghĩ:
- Mình chỉ cứu mạng cho Tiểu Long Nữ cần hơn, chứ đấu chi với bọn người nầy! Thắng bại đâu đáng kể?
Chàng định đáp lời Khưu Xứ Cơ, lại nghe Tiểu Long Nữ bất giác hỏi:
- Doãn Chí Bình đâu rồi?
Lưng Doãn Chí Bình bị vòng Kim khí Pháp Vương nghiến nát, trước đó lại bị một nhát kiếm Tiểu Long Nữ? hai vết thương chí tử, nhưng chưa chết, được bọn sư đệ cứu cấp chàng. Bây giờ chàng nghe giọng nói của Tiểu Long Nữ tuy êm dịu nhưng đối với chàng chẳng khác nào một tiếng sét. Không biết một luồng sức mạnh từ đâu sinh ra, đột nhiên chàng nhảy dựng lên xông vào rừng gươm, nói:
- Long cô nương! Tôi ở đây này?
Tiểu Long Nữ nhìn Doãn Chí Bình một hồi, thấy đạo bào dính đầy những vết máu, nét mặt tái ngắt. Nàng run run giọng nói:
- Anh Qua! Cái trong sạch của em đã bị người nầy làm ô nhục, nếu em lành bệnh cũng không thể chung sống với chàng được. Nhưng hắn... hắn đã xả thân cứu em, vậy anh cũng không nên giết hại hắn làm gì. Chẳng qua phận số em bạc mệnh!
Lòng nàng trong sạch ngây thơ, tuy ở trước mặt người yêu và mấy trăm đạo sĩ, mà vẫn nói thẳng việc này ra mới lạ hơn lòng thành thật của nhiều người trên đời.
Tiểu Long Nữ đứng yên một lúc, cười toại mãn, rồi khẽ nói với Dương Qua:
- Anh Qua! Bây giờ em được chết bên anh, lòng em... em thấy cũng sung sướng rồi!
Nàng nói đến đây như có điều gì ngạc nhiên khẽ hỏi tiếp:
- à! Con gái của Quách đại hiệp chặt mất cánh tay anh, gây ra sự giận hờn giữa nàng và anh, rồi sau này ai săn sóc cho anh?
Dương Qua dịu dàng bảo:
- Cô! Cô phải sống! Chúng mình luôn luôn sống bên nhau.
Doãn Chí Bình nghe đến câu: "Hắn đã xả thân cứu em, vậy anh cũng đừng nên giết hắn, chẳng qua phận số em bạc mệnh!", lòng chàng đau như cắt thầm tự trách:
- Chỉ vì một phút ngông cuồng của mình, hại đời nàng chung thân bất hạnh, thật mình cũng chưa đền được tội!
Doãn Chí Bình lớn tiếng nói:
- Xin sư phụ cùng bốn vị sư thúc, đừng làm khó Long Cô nương cùng Dương tiểu hiệp nữa, đồ đệ tội rất nặng.
Doãn Chí Bình tung mình nhảy lên, lao vào chín mũi kiếm đang dí gần lưng Dương Qua và Tiểu Long Nữ. Trong nháy mắt các mũi kiếm đâm lủng cả mình Doãn Chí Bình! Biến cố này xảy ra quá đột ngột, ai nấy đều kinh hãi la lên nhưng không tài nào cứu được. Bọn đạo sĩ nghe Tiểu Long Nữ nói, rồi lại thấy Doãn Chí Bình nhận tội như vậy, đều biết rõ đệ tử của họ đã dùng thủ đoạn gì làm ô nhục đến Tiểu Long Nữ. Còn Toàn Chân ngũ tử đều là những đạo sĩ theo luật nghiêm cẩn, nên lòng xấu hổ trước tội lỗi đã rõ của người trong môn phái họ. Họ muốn nói vài lời xin lỗi, nhưng thật quá ngượng lời. Khưu Xứ Cơ nhìn kiếm trận đang bao vây
Dương Qua và Tiểu Long Nữ, quát lớn:
- Kiếm trận hãy lui đi!
Chỉ nghe vang lên nhưng tiếng "leng keng" không ngớt, mọi người đều tra kiếm vào vỏ và nhường ra một lối đi. Tay áo của Dương Qua vẫn quấn băng ngang lưng Tiểu Long Nữ, bảo vệ tấm thân kiều diễm của nàng. Bất giác chàng nhớ lại:
- Có một bữa vào năm ấy, cô và mình cùng ở trên Chung Nam Sơn. Cô có hỏi mình: "Có muốn lấy cô làm vợ không?". Lúc ấy quá đột ngột mình không trả lời. Nhưng cũng vì đó mà khơi mầm cho bao nhiêu sự khổ đau sau này. Bây giờ thời gian không bao lâu, mình phải làm cho cô được mãn nguyện. Dương Qua định ý xong, liền nói:
- Cô, đừng nghĩ đến danh phận thầy trò nữa, cũng không nên nói đến tiết sạch giá trong. Chỉ cần chúng mình yêu nhau đủ rồi! Đã yêu thì đâu còn cái gì đau khổ trên đời và bạc mệnh nữa? Còn người ngoài muốn nghĩ thế nào, hay nói cách gì cũng mặc cho họ.
Tiểu Long Nữ nỗi mừng khôn kể, đôi mắt dịu dàng nhìn chàng, khẽ hỏi:
- Anh Qua! Anh nói thật hả! hay anh vì muốn cho em mừng, mà cố nói những lời vừa rồi?
- Không! Tôi nói thật đấy! Vì tôi mất cánh tay có lẽ nàng thương tôi gấp bội! Còn nàng là người yêu của tôi từ xưa nay, tôi đã hằng mơ ước, giờ đây mới được nói thật.
Tiểu Long Nữ thỏ thẻ:
- Đúng vậy, trên đời này ngoài anh với em ra, không còn ai biết thương xót mình nữa.
Mấy trăm đạo sĩ trong Trùng Dương cung đều là những người tu hành, nghe qua những lời ân ái của hai người, đều sửng sốt nhìn nhau. Có người mặt lại đỏ bừng. Tôn Bất Nhị liền quát:
- Hai ngươi hãy cút mau đi cho rảnh mắt chúng ta! Trùng Dương là nơi thanh tịnh, không được ở nơi đây nói nhưng lời phi lễ như vậy.
Dương Qua nói:
- Năm xưa Trùng Dương tiên sinh cùng Lâm tiên sinh của phái Cổ Mộ vừa là đôi trai tài gái sắc, không biết vì những điều cổ quái nào, làm cho hai vị tiên sinh phải di hận. Hôm nay chúng tôi sẽ đứng trước bàn thờ Trùng Dương sư tổ để lạy làm lễ thành thân cho linh hồn của Lâm sư tổ chúng tôi được hả dạ.
Tiểu Long Nữ mỉm cười nói:
- Anh Qua! Anh tính hay quá!
Năm xưa Vương Trùng Dương cùng Lâm Triều Anh đều có thâm tình với nhau, việc này Toàn chân ngũ tử đều biết rõ. Vương Trùng Dương thì tuyệt tình xuất gia, còn Lâm triều Anh đã ngao ngán sống trong Cổ Mộ hoang liêu, người đời sau nhắc đến việc này đều khen Vương Trùng Dương dứt được tơ tình, thật đúng tay anh hùng hảo hán. Nhưng nghĩ đến một tuyệt thế giai nhân võ công danh trấn giang hồ như Lâm Triều Anh lại khóa tuổi xuân xanh trong ngôi Cổ mộ ai nấy cũng phải hết lòng thán phục. Lúc Dương Qua nhắc đến việc nầy, bọn đạo sĩ tuổi trẻ đều ngơ ngác không hiểu gì cả, còn những người già, đều rung động trong lòng. Tôn Bất Nhị quát:
- Tiên sư lấy đại trí tuệ, đại định lực xuất gia sáng giáo, tâm huyết của tiên sư đâu có dễ gì để bọn hậu sanh như mi đoán ẩu vậy? Nếu mi còn dám to gan nói xàm, thì đừng có trách kiếm ta vô tình.
Ngày xưa giữa "Anh hùng đại yến" Dương Qua đã cự tuyệt Tôn Bất Nhị Bà đã khiếp sợ những nhát kiếm ác độc của chàng rồi. Nhưng hôm nay bà ta ỷ thế của bọn Khưu Xứ Cơ, nên dùng lời quở trách bọn hậu sanh. Hơn nữa bà ta là người tu muốn giữ vẻ tôn nghiêm cho Trùng Dương cung. Lúc nghe Dương Qua tính chuyện làm lễ kết hôn với Tiểu Long Nữ ở trước bàn thờ tổ, một nơi mà ai nấy đều ngưỡng mộ sùng bái, bất khả xâm phạm thì ai cũng phải chau mày.
Nhưng Dương Qua và Tiểu Long Nữ như không nghe nói gì. Bỗng nhiên nghe "soạt" một tiếng, gươm của Tôn Bất Nhị đã tuốt ra khỏi vỏ. Dương Qua quắc mắt lạnh nhạt nhìn bà ta một cái rồi ngơ đi, lòng thầm nghĩ:
- Mình phải lập tức thành thân với nàng ngay bây giờ, nếu không cử hành hôn lễ tại đây, để ra ngoài Trùng Dương cung thì vạn nhất vết thương của nàng bất trị mà chết, nàng sẽ mang hận dưới tuyền đài.
-
Chương 71 - Lễ Thành Thân Ly Kỳ - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 71 - Lễ Thành Thân Ly Kỳ
Dù gặp nhiều cản trở chàng vẫn quyết làm cho được nên Tôn Bất Nhị mắng chàng "to gan" thật không quá đáng. Dương Qua quyết làm lễ trước tượng của Trùng Dương sư tổ liền đảo mắt nhìn quanh, thấy tất cả đạo sĩ đã lăm le cầm kiếm sẵn sàng trên tay. Chàng quay lại nhìn Tôn Bất Nhị nói:
- Tôn đạo trưởng! Đạo trưởng buộc chúng tôi đi khỏi Trùng Dương cung này phải không?
Tôn Bất Nhị quá giận quát:
- Cút đi cho mau! Từ nay sắp tới Toàn Chân với Cổ Mộ kể như cắt đứt giao tình đừng có lui tới nữa là tốt hơn!
Dương Qua đang nhìn vào Trùng Dương cung, nghe bà ta nói quyết liệt như vậy, thở một hơi dài, xoay mình về hướng đường mòn về phía Cổ mộ, thong thả bước đi. Đồng thời lúc ấy chàng cũng giắt trọng kiếm vào lưng, tay áo quyện tròn vào mình Tiểu Long Nữ. Bỗng nhiên chàng ngẩng đầu lên trời cười một hơi dài. Chuỗi cười này chàng chuyền hết nội lực phát ra âm thanh cao vút. Tất cả đạo sĩ đều kinh hãi, tưởng như một biến chuyển gì của vũ trụ. Không ai ngờ tiếng cười lại lạ thường đến thế! Tiếng cười chưa dứt, bất thần chàng buông Tiểu Long Nữ ra, nhảy lui lại hơn hai trượng. Trong nháy mắt, cánh tay mặt của Tôn Bất Nhị đã bị chàng điểm vào hai huyệt "Hội tông" và "Chi câu". Thình lình Tiểu Long Nữ cảm thấy mất chỗ tựa, thân hình hơi liểng xiểng, thì chàng đã kéo Tôn Bất Nhị về tới lưng nàng rồi. Cái lui và cái tới của Dương Qua thật nhanh như chớp, nên các đạo sĩ chưa kịp nháy mắt thì Tôn bất Nhị đã lọt vào tay chàng không còn nhúc nhích được.
Sự thật bọn Khưu Xứ Cơ và Tôn bất Nhị đã từng trải nhiều nên đề phòng sợ chàng sẽ bất thần ra tay bắt một người trong bọn làm con tin. Thấy chàng đã thu binh khí lại, đi ra lối đường mòn về Cổ mộ, còn tay áo lại bận đỡ Tiểu Long Nữ, ngỡ rằng chàng không thối lui lại được, nào ngờ chàng cười dài làm cho mọi người rối trí, mà việc tra kiếm vào lưng và việc dìu Tiểu Long Nữ chỉ là việc để đánh lừa mọi người. Rồi trong tức khắc chàng bắt Tôn bất Nhị dễ như thò tay vào túi áo Các dạo sĩ lớn tiếng hò reo? Ai nấy đều xách trường kiếm xông tới. Nhưng "ném chuột sợ bể đồ" không ai dám tấn công vào. Dương Qua hạ giọng nói:
- Tôn đạo trưởng cảm phiền một tý nữa, tôi sẽ xin lỗi đạo trưởng.
Chàng kéo tay bà cùng Tiểu Long Nữ chầm chậm tiến về đại điện Trùng Dương cung. Các đạo sĩ dồn dập theo sau lưng, vừa giận vừa sợ, nhưng đêu không có kế gì đối phó cả. Vào cửa hữu, vòng qua cửa chính, Dương Qua, Tiểu Long Nữ kèm Tôn Bất Nhị đi tới trên đại điện. Chàng quay đầu lại, nói to với bọn đạo sĩ theo sau:
- Các vị hãy đứng yên ở ngoài điện, ai cũng không được phép tiến tới một bước. Chúng tôi chỉ có hai người còn phải bảo vệ cho Tôn đạo trưởng nếu các người muốn ra tay, thì Tôn đạo trưởng và chúng tôi sẽ cùng nhau sang cõi chết.
Vương Xứ Nhất nói nhỏ:
- Khưu sư huynh, chúng mình phải làm sao bây giờ?
Khưu Xứ Cơ nhìn vào đại điện, nói:
- Chờ cho có cơ hội mới hành sự được. Nhưng ta nhận thấy hắn cũng không dám hại Tôn sư muội đâu.
Những người này suốt đời đã tung hoành trên giang hồ, oai danh đã vang dậy, nhưng đến lúc tuổi già, võ nghệ siêu phàm lại bị một thiếu niên bắt nạt, nên lòng họ vừa giận vừa buồn cười. Dương Qua kéo ra một chiếc bồ đoàn, để cho Tôn Bất Nhị ngồi yên. Chàng điểm thêm hai huyệt "Đại trùng" "Thần đường" trên lưng, làm cho bà ta không cử động được. Dương Qua đỡ Tiểu Long Nữ đứng nghiêm chỉnh kề vai với chàng trước di ảnh của Vương Trùng Dương. Chàng đưa mắt nhìn tượng ảnh thì trông thấy đạo nhân trong ảnh, tay cầm trường kiếm, phong thái hào hùng, lúc chưa đầy ba mươi tuổi, trên ảnh có đề ba chữ "Hoạt tử nhân" (Người sống mà chết).
Di ảnh chỉ đơn sơ vài nét, nhưng người trong ảnh linh động tuyệt luân, đủ hiểu nét vẽ đó của một danh họa đương thời. Lúc nhỏ Dương Qua có học võ công trong Trùng Dương cung, đã biết rõ di ảnh của sư tổ. Bây giờ chàng sực nhớ lại trong Cổ mộ cũng có một bức ảnh của Vương Trùng Dương nhưng bức ảnh này vẽ theo mặt chính, còn bức ảnh trong Cổ Mộ vẽ bóng sau lưng, mà bút pháp không khác nhau. Dương Qua liền hỏi:
- Em, bức họa này có phải Lâm sư tổ vẽ không?
Tiểu Long Nữ khe khẽ gật đầu cười duyên dáng nói:
- Anh Qua! Chúng mình thành thân trước tượng Trùng Dương sư tổ, mà ảnh này lại do Lâm sư tổ vẽ thật là không gì hay bằng.
Dương Qua dùng chân móc lấy hai chiếc bồ đoàn sắp trước tượng, nghiêm chỉnh nói:
- Đệ tử Dương Qua cùng Tiểu Long Nữ, hôm nay thành thân trước mặt Trùng Dương sư tổ, với sự hiện diện mấy chục đạo trưởng và mấy trăm vị đạo sĩ của Toàn Chân giáo chứng kiến.
Dứt lời chàng quỳ xuống chiếc bồ đoàn bên phải, thấy Tiểu Long Nữ chưa kịp quỳ, liền nói:
- Chúng mình làm lễ thành hôn, thì em cũng quỳ xuống luôn đi!
Tiểu Long Nữ đứng lặng im không nói, đôi mắt đỏ hoe.
Dương Qua dịu lời:
- Em muốn nói gì hả? ở đây không được sao?
Nàng run giọng nói:
- Không, không phải!
Nàng ngập ngừng rồi nói tiếp:
- Anh Qua, thân em không còn trong trắng nữa, lại là người sắp chết! Anh phải nhọc lòng... đối đãi với em tốt quá thế này.
Nàng nói đến đây hai dòng lệ tuôn trào ra khóe mắt, rơi lã chã xuống đôi gò má mịn màng.
Dương Qua đứng lên, đưa tay áo lau nước mắt cho nàng, cười bảo:
- Không lẽ em chưa hiểu lòng anh sao?
Tiểu Long Nữ dựa vào chàng, nghe chàng thì thầm bên tai:
- Anh chỉ nguyện hai đứa mình được sống lâu trăm tuổi, để anh săn sóc cho em, để báo đáp lại ân tình em đã nhiều lần nguyền chết sống bên anh.
(thiếu)
Nét mặt khổ não từ từ hiện ra vẻ vui sướng, nước mắt chưa khô, thần sắc đã hân hoan vô hạn. Tiếp đó hai người cùng quỳ xuống niệm mắt nhìn lên tượng ảnh, thầm nghĩ:
- Chúng mình tuy long đong cơ khổ suốt đời nhưng lại được ngày hôm nay, thật là trời xanh có mắt. Những điều cơ cực chán chường của bao nhiêu ngày tháng qua, mạng sống giây phút của ngày sắp tới, hai người đều quên phắt cả.
Dương Qua khe khẽ cúi đầu, cầu nguyện:
- Xin bái nguyện sư tổ, đệ tử Dương Qua cùng Long thị thật lòng yêu nhau, thủy chung một mực, nguyện đời đời kiếp kiếp kết làm phu phụ.
Tiểu Long Nữ cũng van vái:
- Xin sư tổ phù hộ cho hai con kết làm vợ chồng, được ăn ở với nhau đời đời kiếp kiếp.
Tôn Bất Nhị ngồi trên nệm, cơ thể tuy không cử động được, nhưng lời nói và thần sắc của hai người, bà đều nghe thấy rõ hết cả. Lòng bà cảm thấy hai đứa này tuy làm việc hoang đường nhưng có tấm lòng quang minh trong sạch, tình si cũng không khác gì mình lúc còn thiếu thời thành hôn với Mã Nhọc trong bao nhiêu ngày đầy ...
(thiếu)
- Bây giờ mình đã thành phu thê với nàng rồi, dù có chết ngay lúc này đi nữa cũng sung sướng.
Nỗi lo sợ bọn đạo sĩ xông vào ngăn cản lúc ban đầu bây giờ đều tiêu tan hết, chàng cười nói:
- Anh là tên đệ tử phản nghịch của phái Toàn Chân, trong phái võ lâm ai ai cũng đều biết, bây giờ em cũng là một tên học trò phản thầy rồi.
Tiểu long Nữ nói:
- Đúng thế! Sư phụ cấm em không được thu nam đệ tử, lại không cho lấy chồng, mà em chẳng giữ một điều nào cả. Chúng mình đã làm thật là đáng tội lắm.
Dương Qua nói lớn:
- Đã làm trái thì trái đến cùng, chứ Vương sư tổ cùng Lâm sư tổ đều bực anh hùng hào kiệt, hơn hẳn chúng mình gấp trăm lần nhưng họ không dám thành thân. Như vậy, hai vị tổ sư ở dưới tuyền đài có hay điều này, chưa hẳn họ bảo mình quấy đâu?
Đúng vào lúc ấy, nghe "ầm" một tiếng như sấm nổ, gạch ngói trên nóc nhà bay tung veo véo, chiếc kèo to tướng cũng gãy lìa ra, một chiếc chuông khổng lồ nặng hơn sáu bảy trăm cân úp thẳng xuống đầu Tôn Bất Nhị.
Dương Qua bất thần bay vút tới, tay tung thẳng Huyền thiết kiếm ra. Té ra lúc chàng và Tiểu Long Nữ đang ở trên đại điện làm lễ, mọi người trong phái Toàn Chân đều phẫn nộ vô cùng. Lưu Xứ Huyền tìm ra một kế, liền kề miệng vào tai Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, Hách đại Thông ba người đều gật đầu đồng ý, rồi dặn dò bọn đại đệ tử mấy câu. Họ thừa lúc Dương Qua và Tiểu Long Nữ đang quay mặt vào di ảnh, bọn Lưu Xứ Huyền liền lẻn vào đại điện, khiêng một chiếc chuông đồng nặng gần một ngàn cân. Chỉ thấy tám người vác nó bay vút lên nóc điện, dùng nội công chọc thủng trần điện một lỗ lớn, nhắm úp xuống mình Tôn Bất Nhị. Võ công tám người đều là bậc siêu phàm, nên chiếc chuông tuy nặng mà lúc rơi không hề sai một tý nào. Họ chỉ cần chụp kín Tôn Bất Nhị vào trong chuông, thì Dương Qua không ám hại bà được nữa, tức khắc họ sẽ ùa vào bắt hai người hạ thủ ngay.
Kế này rất thần diệu, nhưng bọn Lưu xứ Huyền không ngờ kiếm thuật và nội lực của Dương Qua lại đến mức cao siêu không tưởng được. Huyền thiết kiếm chém ra một nhát. Thế quyền như phong lôi, chỉ nghe "toang" một tiếng ù ù vang lên không ngớt, mũi kiếm đã đâm suốt qua chuông đồng. Chiếc chuông đồng tuy nặng ngàn cân nhưng sức mạnh của nhát kiếm lại thần diệu hơn. Chiếc chuông bay véo qua, nghiêng ra phía trước chừng ba thước, nếu rơi xuống như vậy, thì đè lên thân hình Tôn Bất Nhị ắt không toàn
mạng. Tám người trên đại điện kinh hãi la thất thanh, họ quá kinh khủng, không ngờ thiếu niên này lại có thần lực như vậy. Lưu Xứ Huyền chỉ nhắm mắt lại không đủ can đảm nhìn. Bỗng nghe Khưu Xứ Cơ reo lên:
- Cảm ơn! Cảm ơn đã nới tay!
Lưu Xứ Huyền liền mở bừng mắt ra, thấy lạ lùng vô cùng! Té ra chuông đồng lại úp trọn toàn thân Tôn Bất Nhị vào trong, chung quanh chuông lại có vết máu bắn ra, mà vạt áo đạo bào của bà ta cũng ló ra ngoài một ít. Dương Qua thấy nhát kiếm chàng di động chiếc chuông, lại sợ Tôn Bất Nhị phải nát thây,
liền thầm nghĩ:
- Hôm nay là ngày vui của vợ chồng mình, không nên hại nhân mạng. Vả lại, bà chỉ có tánh hơi quái gở mà thôi, cũng chưa có gì ác độc. Lương tâm xúc động, tay áo chàng liền phất tung ra, di động chiếc nệm Tôn Bất Nhị đang ngồi, để bà ta ngồi thẳng miệng chuông úp xuống không sai một li tý. Bọn Khưu Xứ Cơ ở trên nóc điện vừa kinh hãi, vừa mừng rỡ, nên quên hết cả sự đối địch với Dương Qua. Nhưng bọn đệ tử của mỗi người đều đã được lịnh, đợi chiếc chuông đồng úp xuống, thì lập tức mà tấn công. Bọn đạo sĩ ở ngoài đại điện không hiểu sự đổi thay của cuộc diện, họ chỉ nghe một tiếng vang lên như sấm, ngói gạch tung bay tứ phía, ai nấy đều reo hò tở mở, dồn dập tung kiếm tấn công vào đại điện.
Dương Qua thấy tình thế nguy cấp, liền giắt trọng kiếm vào lưng, bồng Tiểu Long Nữ nhảy lui sau hậu điện. Khưu Xứ Cơ quát lớn:
- Hỡi các đồ đệ, không được làm tổn thương hai người này!
Lệnh truyền của lão giọng sang sảng, tuy lẫn trong những tiếng reo hò của mấy trăm đạo sĩ nhưng ai nấy đều nghe rõ. Cũng lúc ấy bọn đệ tử chỉ huy, đuổi tới hậu điện, đều lớn tiếng la hét:
- Bắt ngay tên phản tặc, phản giáo! Hắn đã làm nhơ thành trùng của sư tổ! Đừng để nó tẩu thoát! Mau lên, các bạn hãy tiến tới phía đông nhìn lại!
Khi nãy, Lưu Xứ Huyền đã điều động ba mươi cao thủ bố trí phía sau vườn. Dương Qua vừa rẽ qua cửa đông, thì đã thấy ánh thép loang loáng. Chàng biết có người ngăn chặn cửa sau lòng thầm tính:
- Vậy bây giờ mình lên lỗ đại điện chui ra. Trên nóc tuy có tám vị cao thủ, nhưng tám người nầy không đến nỗi hạ độc thủ để hại mình.
Chàng liền bồng Tiểu Long Nữ nhảy trờ về đại điện. Đôi tay Tiểu Long Nữ vòng qua cổ chàng, miệng thỏ thẻ:
- Anh Qua! Chúng mình đã kết làm phu thê rồi tâm nguyện trên đời được thỏa nguyện. Nếu thoát ra được càng tốt, bằng không cũng thỏa nguyện rồi.
Dương Qua gật đầu nói:
- Em nói đúng lắm!
Chưa dứt lời, chân mặt chàng đã phóng lên, chân trái tiếp theo một thế "uyên ương liên hoàn cước". Chỉ nghe "ầm ầm" hai tiếng vang ra, tức thì hai tên đạo sĩ bị đá bay ra ngoài điện. Đại điện quá chật hẹp, mà mọi người chen chúc chật ních, nên "Bắc đẩu trận pháp" không giở ra được. Còn Dương Qua tay mắc bồng Tiểu long Nữ, chỉ còn cách phi cước mới ngự địch được nên vô phương phá trùng vây. Lòng chàng hận thầm:
- Bọn này có ý lập trận mà không được, nếu mình lành lặn hai tay, thì đâu có nông nỗi nầy?
Tiếp "ầm" một tiếng, lại có tên đạo sĩ bị chàng đá văng, đụng ngã thêm hai người đứng phía sau vườn nữa. Đang lúc hỗn loạn, bỗng nhiên có một lão già râu tóc bạc phơ, từ ngoài điện chạy vào, sau lưng lại có một bầy ong rào rào đuổi theo đích thị Lão ngoan đồng Châu Bá Thông. Trong đại điện đang hỗn loạn, lại có thêm Châu Bá Thông chạy vào, lũ đồ đệ vẫn không để ý tới Nhưng bầy ong liền bay tấp nập vào đại điện, gặp người thì đâm chích lung tung. Bầy ong này không phải loài tầm thường, mà là "Ngọc Phong" của Tiểu Long Nữ nuôi thuần trong Cổ mộ. Các đạo sĩ Toàn Chân, người nào bị chúng chích phải đều đau nhói lên, có người chịu không nổi đến nhào lăn xuống đất, la thét ầm ĩ? Thế đã hỗn loạn lại càng thêm hỗn loạn.
Khi ở ngoài thành Tương Dương, Châu bá Thông thấy Tiểu Long Nữ sai khiến bầy ong rất lợi lòng ngưỡng mộ, nên thừa lúc nàng sơ ý, lão đánh cắp được lọ Ngọc Phong của nàng. Nhưng đến lúc lão tập nhử ong, Tiểu Long Nữ bắt gặp, Châu Bá Thông bỏ chạy mất. Lúc lánh xa Tiểu Long Nữ, lão định đến thành Tương Dương để giúp Quách Tỉnh, nhưng lại sợ Tiểu long Nữ có trong thành. Lão liền trở lên Chung Nam sơn, để thăm bọn sư điệt đã mấy mươi năm xa cách không gặp nhau, và luôn tiện tìm tên Triệu Chí Kính đã gạ gẫm lão. Đi dọc đường Châu Bá Thông cứ tò mò mở nắp Ngọc phong để tìm cách thức mở ong. Nào ngờ đến Chung Nam Sơn lão vừa mở nắp hũ mật ra, rước họa vào thân, làm cả phái toàn Chân bị một phen đau đớn.
Bầy Ngọc phong ở Cổ Mộ vốn loài ong đặc biệt, thân hình đã to lại có kim nọc độc phi thường, nên lúc Châu Bá Thông vừa tới Trùng Dương cung chúng đánh hơi mùi mật thơm, liền lũ lượt tìm tới. Bầy Ngọc phong nầy đã quen lối ra dấu và lời sai khiến của Tiểu Long Nữ, nên Châu Bá Thông không điều khiển chúng được. Lão đuổi chúng không đi mà còn muốn bao vây cắn lão. Châu Bá Thông vô phương chống đỡ, chỉ còn cách dong lên Trùng Dương cung tìm nơi kín đáo mà lánh thân, thì vừa đúng lúc Trùng Dương cung đang hỗn loạn đến mức trời long núi lở. Lão thoáng thấy Tiểu Long Nữ và Dương Qua đều ở trên đại điện, vừa sợ vừa mừng, vội ném bình Ngọc phong cho Tiểu Long Nữ miệng nài nỉ:
- Không xong rồi! Lão không dám sai khiến bầy ong nầy nữa! Cô nương hãy mau tới cứu mạng cho ta, nguy rồi!
Tay áo Dương Qua phất ra một cái, cuộn lấy bình mật, Tiểu Long nữ mỉm cười, đưa tay đón lấy. Bây giờ trên cung điện bầy ong bay lượn vù vù bọn Khưu Xứ Cơ từ trên nóc điện vội nhảy xuống làm lễ vấn an sư thúc. Hách Đại Thông thét to:
- Hãy mau đem thuốc tới! Cứu cấp nhanh lên!
Lũ môn hạ lớp dùng tay áo che mặt, lớp múa kiếm đuổi ong, phần chạy đi lấy thuốc giải độc. Châu Bá Thông lính quýnh chạy tìm nơi ẩn núp, nên không hề lưu ý đến bọn Khưu Xứ Cơ. Trên trán lão ngoan đồng đã bị Ngọc phong chích hai dấu, nồi u lên như hai cái trứng gà. Lão thoáng thấy trên bồ đoàn có chiếc chuông đồng, vội nhảy tót lên liền, vận sức đưa đôi tay nhấc chuông đứng lên, lại thấy có một người ngồi núp trong ấy, lão cũng không nhìn được là ai nên nói:
- Xin lỗi, xin lỗi, nhường cho tôi ngồi một chút.
Chưa dứt lời lão đã hất Tôn Bất Nhị ra rồi chui mình trong lòng chuông, buông tay xuống "ầm" một tiếng chiếc chuông úp kín lại, lão đắc ý lắm, nói:
- Dù chúng bay có đến mấy ngàn, mấy muôn triệu, cũng không châm chích được Châu Bá Thông nầy nữa đâu!
Dương Qua bảo khẽ Tiểu Long Nữ:
- Em chỉ huy đàn ong giúp anh một tay, chúng mình kịp thời xông ra ngoài.
Xưa nay chỉ có Tiểu Long Nữ ra lệnh cho Dương Qua, hôm nay nàng đã thành vợ chàng. Lần đầu tiên được Dương Qua nói như có ý sai bảo, lòng nàng cảm thấy sung sướng vô cùng, thầm nghĩ:
- Hay lắm! Chàng đã không xem mình như sư phụ nữa, thì đã thật tình nhận mình là vợ của chàng rồi!
Nàng khẽ gật đầu, nói:
- Em xin nghe lời anh.
Tay đưa bình mật lên, múa mấy vòng, miệng thì hô vài tiếng. Ngọc phong gặp chủ, liền họp lại đàn, một đàn bay tới trước mở đường, một đàn bay phía sau hậu, chúng hộ vệ cho Dương Qua và Tiểu Long Nữ tiến thẳng về phía cửa đông. Châu Bá Thông vừa tới làm náo động thêm, còn bọn Khưu Xứ Cơ vừa sợ vừa mừng, lại cũng buồn cười. Nhưng họ thoáng thấy Dương Qua và Tiểu Long Nữ đã tiến về tới hậu điện, liền quát nạt bọn đệ tử đừng đuổi theo nữa. Vương Xứ Nhất đưa tay giải huyệt cho Tôn Bất Nhị, Khưu Xứ Cơ thì bước tới nhấc chuông. Nào ngờ Châu Bá Thông núp ở trong chuông, không biết tình thế bên ngoài, thình lình thấy cái chuông bị nhấc động như muốn giở lên, lão la lên:
- Không xong!
Đôi tay lão thò ra, từ vành chuông xuống, hô:
- úp xuống!
Nội lực của Khưu Xứ Cơ không bằng lão, nên chỉ nghe vang ra một tiếng như sấm sét, rồi cái chuông đậy trở xuống.
Khưu Xứ Cơ cười nói:
- Châu sư thúc lại đùa nữa? Chúng ta cùng ra tay một lượt nào!
Khưu Xứ Cơ, Hách đại Thông, Lưu Xứ Huyền và Vương Xứ Nhất đồng vận sức tám cánh tay bám chặt cái chuông, cùng hô to:
- Lên!
Chuông nhấc bổng, ném ra xa hơn năm thước, nhưng bốn người đều thất sắc kêu lên:
- ủa! Sao thế này?
Chỉ thấy cái bồ đoàn, mà không thấy bóng người đâu cả, Châu Bá Thông đã biến đi đâu mất. Bốn người đang đứng tần ngần, lại có một bóng người lướt qua, thì ra Châu Bá Thông đã cười ha hả, đứng bên cạnh bọn Khưu Xứ Cơ. Té ra tay chân lão bám trong lòng chuông, nên lúc ném chuông qua một bên không còn thấy lão đâu nữa, làm bốn người đều ngơ ngác nhìn bồ đoàn thì lão lẻn tới đứng bên bọn họ rồi. Khưu Xứ Cơ vội bước tới thi lễ Châu Bá Thông khoát tay lia lịa, miệng nói:
- Được rồi được rồi! Ta miễn lễ các con!
Lúc nầy bọn Khưu Xứ Cơ tóc râu đã bạc phơ rồi, mà Châu Bá Thông vẫn kêu họ là "các con". Ai nấy đều mừng rỡ bước tới thi lễ, Châu Bá Thông chợt thấy Triệu Chí Kính lén lút toan trốn đi lão quát một tiếng, tung mình nhảy tới túm gọi hắn lại, mắng rằng:
- Thằng lỗ mũi trâu, mày toàn trốn hả?
Tay trái nhấc cái chuông, tay mặt ném Triệu Chí Kính vào lòng chuông, úp lại. Trong nháy mắt Triệu Chí Kính đã bị nhốt trong chuông. Miệng lão không ngớt mắng:
- Thằng mũi trâu phản nghịch.
Vương Xứ Nhất hỏi:
- Sư thúc, Triệu Chí Kính đã làm gì đắc tội?
Xin sư thúc cho dệ tử biết để nghiêm phạt nó.
Châu Bá Thông giận dữ nói:
- Hử, hử, cái thằng mũi trâu này đã dẫn lão tới sơn động để đánh cắp cờ, để cho nhền nhện khổng lồ xanh xanh, đỏ đỏ, may không có con nhỏ ấy. ủa! Con nhỏ ấy đâu rồi? Mà bầy ong đâu mất rồi?
Lão nói chuyện không đầu, không đuôi gì cả. Vương Xứ Nhất tài nào hiểu nổi? Chỉ thấy lão đảo mắt nhìn trên đại điện để tìm Tiểu Long Nữ. Cũng trong lúc ấy, có một môn đệ tới báo:
- Dương Qua và Tiểu Long Nữ đã lui tới "Tàng kinh các" sau núi, nhưng không ai dám dùng lửa đốt ong, vì sợ cháy hại đến kinh sách.
Bọn Khưu Xứ Cơ đều kinh ngạc. Té ra "Tàng kinh các" ấy là trọng địa của Toàn Chân giáo, vì đó là nơi lưu giữ những trứ tác của Vương Trùng Dương. Tất cả văn kiện cơ mật của Toàn Chân thất tử đều để cả trên ấy, nếu rơi xuất ắt phải họa to.
Khưu Xứ Cơ nói:
- Chúng ta phải tới đó xem sao? Chứ Dương Qua có ý lưu tình, không làm tổn thương sư muội. Vậy chúng ta tới đó hóa địch thành bạn.
Tôn Bất Nhị tán thành:
- Đúng vậy!
Ai nấy đều tiến tới, "Tàng kinh các", còn vương Xứ Nhất thấy Triệu Chí Kính bị nhốt kín trong chuông, sợ hắn ngộp thở, liền vận sức giở chuông lên mấy tấc kê vào một viên đá, cho được thông hơi, rồi mới phi thân đuổi theo.
Bọn Khưu xứ Cơ chạy tới "tàng kinh các", chỉ thấy mấy trăm đệ tử đứng dưới đất nhìn lên hò hét, mà không một ai dám leo lên từng gác. Khưu Xứ Cơ lớn tiếng:
- Long cô nương và Dương Qua, hai người hãy gạt bỏ những chuyện cũ đi, từ nay trở về sau chúng ta là bạn với nhau, hai người thấy thế nào?
Đợi một hồi lâu, vẫn thấy trên lầu không có ai trả lời. Khưu Xứ Cơ lại nói:
- Trên mình Long cô nương đã bị thương, xin mời xuống đây để tìm phương chữa trị. Chúng tôi quyết bảo vệ tánh mạng cho hai người, không có thù địch nữa đâu. Họ Khưu này đã qua lại trên giang hồ mấy mươi năm, không hề có thất hứa với ai cả.
Nhưng vẫn thấy im bặt. Lưu Xứ Huyền nói:
- Khưu sư đệ, họ đã đi mất rồi!
Khưu Xứ Cơ ngạc nhiên:
- Sao lẹ vậy!
Lão đảo mắt nhìn quanh quẩn, nói tiếp:
- à! Thế nên bầy ong đã bay tản vào các khóm hoa kia kìa.
Vừa dứt lời Khưu Xứ Cơ lấy một cây đuốc của môn đồ leo lên gác. Bọn Lưu Xứ Nhất và Châu Bá Thông cũng nối gót theo lên. Mọi ngươi lên tới "Tàng kinh các" quả nhiên không thấy một bóng người, mà trên bàn đọc sách lại để yên chiếc bình mật. Châu Bá Thông như bắt được vàng, liền giật bỏ vào túi. Còn bọn Khưu xứ Cơ lo đi xem xét khắp "Tàng kinh các", chỉ thấy một đống sách để trên sàn mà không mất mát, nhưng cái thùng gỗ đựng sách lại biến đâu mất.
Hách Đại Thông quát to:
- Họ đi ngõ này?
Mọi người chạy và tới cửa sổ phía sau, chỉ thấy trên thành cửa buộc một sợi dây, còn đầu kia thì móc trên cành cây ở vách núi đối diện. ở giữa "Tàng kinh các" và vách núi cách nhau bằng một hố sâu hơn mười trượng vốn không có đường thông qua. Không ngờ Dương Qua lại giở khinh công tuyệt đỉnh, chỉ nhờ có một sợi dây nhỏ mà vượt qua được. Dương Qua cùng Tiểu Long Nữ làm lễ thành hôn trên đại điện Trùng Dương cung. Mọi người trong Toàn Chân giáo đều mất cả oai phong của di ảnh sư tổ. Nhưng bây giờ hai người đã yên thân ra đi, nên mọi người đều nhìn nhau cười gượng, lòng cảm thấy đã nhẹ bớt phần lo âu. Toàn chân ngũ tử cùng Châu Bá Thông trở về đại điện, hỏi đến chiếu chỉ sắc phong của vua Mông Cổ, mà Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính đã tranh nhau về chức trưởng giáo, cùng việc tấn công cả Tiểu Long Nữ. Lý Chí Thường và Tống Đức Phương đều bẩm lại sự thật. Khưu Xứ Cơ lòng quá cảm động trước những hành vi trung trực của Doãn Chí Bình, nên bất giác rơi lệ, nói:
- Chí Bình tuy lầm lẫn thời, nhưng nó đã phát huy được sự trung nghĩa của phái ta, dù chết cũng không hàng Mông Cổ, đó cũng là một công to vậy.
Vương Xứ Nhất nói:
- Chí Bình là người đại nghĩa, vậy chúng ta vẫn công nhận là trưởng giáo.
Mọi người đều gật đầu tán thành. Nhưng bọn Khưu Xứ Cơ vẫn còn lo hỏi thêm những việc xảy ra chưa rõ được, và tiếp lo việc mai táng những người đã chết. Còn Châu Bá Thông thì không chú ý gì đến công việc của Toàn Chân cả. Lão chỉ lo nâng niu chiếc hũ "mật" như nâng niu một đóa hoa. Lúc bây giờ còn một số người bị nọc ong hành phạt, đang nằm tê liệt. Hách đại Thông nhớ đến năm xưa Tôn Bà có tặng một bình mật giải độc, nên khi nhìn thấy Châu Bá Thông đang cầm hũ mật liền đến bên lão, thưa:
- Nơi đây vừa có một bình mật Ngọc phong, xin sư thúc có giữ, cho lại để chia cho họ uống.
Châu Bá Thông đưa tay ra chỉ thấy đôi bàn tay không. Lão nói:
- Lão đâu có giấu giếm chi, lũ bay đừng có nghi ngờ lão!
Té ra lão Ngoan Đồng ham chơi, không nghĩ đến việc đau đớn của ai cả. Vả lại lòng lão còn căm tức Triệu Chí Kính, nên nghĩ mấy tên mũi trâu có bị ong chích mấy cái cũng không nguy đến tính mạng. Còn lọ mật này là vật chi báu của lão đâu dễ gì đưa cho ai.
Hách Đại Thông lấy làm lạ:
- Rõ ràng khi nãy mình thấy lão đang cầm trên tay, sao bỗng nhiên mất đi?
Nhưng sự thật lúc Hách Đại Thông vừa hỏi, lão đã múa tay nhét chiếc bình mật vào trong áo, theo ngực lọt xuống bụng, da bụng hóp lại, chiếc bình từ từ theo ống quần tụt xuống chân. Vương Xứ Nhất thầm nghĩ:
- Sư thúc không chịu giao, mình đợi khi ai nấy đi hết, ắt ông đem ra chơi, lúc ấy mình mới nói. Bây giờ phải lo xử trí tên phản đồ Triệu Chí Kính trước. Nếu không nhờ Doãn Chí Bình thì thanh danh của Toàn Chân giáo chắc phải tiêu tan hết cả.
Xứ Nhất liền nói:
- Hách sư đệ, việc trị thương hãy gác lại. Bây giờ chúng ta lo xử quyết tên phản đồ Triệu Chí Kính trước.
Ai nấy nghe nói đều nghĩ:
- Phải lắm, tên phản đồ này đã "mãi giáo cầu vinh" quyết hại đồng môn, không thể tha thứ được.
Bỗng nhiên nghe dưới đáy chuông vọng ra một giọng yếu ớt:
- Châu tổ thúc, hãy cứu mạng đệ tử. Đệ tử sẽ trả lại bình mật quý cho, bằng không đệ tử ăn hết, bất quá cũng có cái chết mà thôi!
Châu Bá Thông ngạc nhiên, vội coi lại trong mình, thì quả nhiên lọ mật đã mất tích. Té ra lão đứng ở gần bên chuông nên chiếc lọ vừa rơi xuống gần kẽ hở. Triệu Chí Kính liền thò tay ra đoạt mất. Hắn toan dùng hũ mật làm vật uy hiếp mưu đồ thoát nạn.
Châu Bá Thông nghe hắn nói như vậy, quả nhiên sốt ruột, liền kêu lên:
- Ê! ê! Mày đừng nói giỡn mày đừng có ăn hết mật! Còn việc ấy để thương lượng với nhau mà.
Triệu Chí Kính nói:
- Vậy ông hãy cứu mạng tôi trước đã.
Bọn Khưu Xứ Cơ nghe nói đều cả kinh, vì sợ Châu Bá Thông hứa liền vội nói:
- Sư thúc, tội nó ác tày trời, không thể nào tha nó được.
Châu Bá Thòng ngả sát đầu xuống đất, nói vọng vào trong chuông:
- Ê! Ê! Đừng có ăn hết hết hũ mật nhé.
Lưu Xứ Huyền nói:
- Sư thúc để mặc nó! Nếu sư thúc thấy cần mật cũng không khó gì. Để chút nữa tới Cổ Mộ, xin Long cô nương cho bình mật khác!
Châu Bá Thông lắc đầu:
- Chưa chắc? Chưa chắc được đâu.
Chỉ nghe chừng tiếng vo vo của năm Ngọc phong từ hậu viện điện bay tới, vì cửa điện đóng kín, nên chúng tông tột ngoài cửa sổ mà chưa tìm đường ra được.
Châu Bá Thông liền nói:
- ê! Triệu Chí Kính! Hũ mật mi lấy chưa chắc là hũ mật thiệt đâu!
Triệu Chí Kính nói:
- Sao lại không phải mật thiệt?
Châu Bá Thông nói:
- à? Vậy mi mở nắp ra cho ta ngửi một cái coi có phải thật không!
Triệu Chí Kính vội mở nắp bình, nói:
- Đây ông ngửi xem, không lẽ là giả?
Châu Bá Thông cúi xuống hít một hơi dài, nói:
- ờ! ờ! Tựa như không phải thứ thật vậy! Để ta ngửi lại thử đã!
Mật ong tỏa ra một mùi thơm vô tận, trong chốc lát đã tỏa ra khắp cung.
Châu Bá Thông hắt hơi một cái, cười:
- Ta còn sổ mũi, chưa biết rõ được!
Lão vừa nói vừa nháy mắt ra hiệu cho bọn Khưu Xứ Cơ.
Triệu Chí Kính cũng đoán biết lão ta muốn dùng kế gì rồi, liền nói:
- Nếu ông không giở chuông cứu tôi thì tôi ăn hết hũ mật ngay.
Bây giờ bầy ong tìm được ngõ vào liền theo mùi mật bay ùa tới bên chuông. Lão Ngoan Đồng bèn phất tay áo, quát:
- Vào trong chích nó!
Bầy ong không chắc nghe hiệu lịnh lão, nhưng nhờ chúng ngửi được hương vị của mật ở trong chuông, nên bay ùa theo kẽ hở đáy chuông chui vào.
Chỉ nghe Triệu Chí Kính kêu lên một tiếng đau đớn, tiếp đến nghe "choang" một tiếng, mùi hương ngạt ngào lại tăng lên. Hiển nhiên hắn bị ong chích, cơn đau làm cho tê tay sút hũ mật. Châu Bá Thông giận dữ quát:
- Thằng khốn chỉ có một chiếc lọ mà cầm cũng để rớt?
Lão vừa toan giơ chuông lên, nhưng những con ong ngoài hậu điện cũng đang lũ lượt về kéo vào. Châu Bá Thông vội thụt lùi không dám lại gần.
Ngọc phong càng lúc càng đông, mà trong chuông đâu còn chỗ né tránh được? Triệu Chí Kính lúc này đau buốt cả châu thân, nên nằm quằn quại, mình thì dính dầy mật. Trên mình hắn bị nọc ong không còn sót, một chỗ mà Ngọc phong vẫn tiếp tục bay vào chuông. Ban đầu còn nghe tiếng kêu thảm thiết của Triệu Chí Kính nhưng một hồi lại từ từ lặng im đi. Hiển nhiên mình hắn trúng độc quá nhiều đã chết đờ rồi.
Châu Bá Thông túm áo Lưu xứ Huyền bảo:
- Xứ Huyền! hãy nói tới Long cô nương xin một hũ mật đem về đây.
Lưu xứ Huyền nhăn mày cảm thấy khó xử quá, nhưng đã bị Châu Bá Thông túm ngực, chỉ còn nước gượng cười nói:
- Sư thúc buông tay ra, Xứ Huyền đi xin liền!
Xứ Huyền được Châu Bá Thông buông tay, bèn ra sau núi đi về phía Cổ Mộ. Bọn Khưu Xứ Cơ đều lo nghĩ:
- Lưu Xứ Huyền đi lần nầy ắt sẽ gặp nhiều điều nguy hiểm. Nếu gặp Tiểu Long Nữ được bình yên vô sự thì không có gì trở ngại. Bằng nàng trọng thương bất trị thì không biết bao nhiêu đệ tử Toàn Chân phải chết trong tay của Dương Qua.
Khưu Xứ Cơ liền nói lớn:
- Chúng ta cùng đi với Lưu sư huynh.
Khu rừng ở ngoài Cổ Mộ, từ đời Vương Trùng Dương đến nay không cho phép đệ tử Toàn chân giáo léo hánh tới một bước, nên ai nấy đều tôn trọng lời di huấn của tiên sư, lui tới mé rừng thì dừng chân lại.
Khưu Xứ Cơ vận khí "đơn điền" cả tiếng gọi:
- Dương tiểu hiệp, thương thế của Long cô nương có sao không? ở đây có chín mật gấu để trị thương, xin tới đây nhận.
Châu Bá Thông thấp giọng tán thành:
- Phải vậy! Phải vậy! Mình muốn lấy mật của người ta, cũng có vật để đổi chứ!
Một hồi lâu, vẫn không thấy ai trả lời. Khưu Xứ Cơ lại cất tiếng gọi thêm một lần nữa, nhưng hoàn toàn im lặng.
Mọi người chỉ đưa mắt nhìn rừng cây âm u mịt mù, những cành cây giao nhánh chằng chịt, thân cây gai góc mọc đầy.
-
Chương 72 - Tình Chàng Nghĩa Hiệp Thành Duyên - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 72 - Tình Chàng Nghĩa Hiệp Thành Duyên
Lưu Xứ Huyền và Hách Đại Thông đi qua mé rừng một vòng thì thấy không có vết tích nào tỏ ra có người đi vào Cổ Mộ. Lưu Xứ Huyền xem ra Dương Qua và Tiểu Long Nữ không về Cổ Mộ mà lại đi xuống chân Chung Nam sơn. Mọi người nghe Dương Qua đi xa Cổ Mộ, lòng vừa mừng vừa buồn. Họ mừng là mừng cho Dương Qua đã đi xa, còn buồn vì lo sợ Tiểu Long Nữ khó lành bệnh. Nếu nàng chết đi, thì Toàn Chân giáo sẽ chịu một hậu họa lớn sau này. Toàn Chân ngũ tử tuy cư ngụ trên Chung nam sơn mấy mươi năm trường, nhưng lại nghĩ không ra Dương Qua và Tiểu Long Nữ đi về hướng nào.
Thật ra lúc Ngọc phong vào tình thế đối phương hỗn loạn, Tiểu Long Nữ liền chỉ huy Ngọc phong mở đường rút lui, đi ra cửa hậu, gặp một tòa lầu nhỏ xây tựa theo thế núi. Dương Qua biết lầu "Tàng kinh các", một trọng địa của Trùng Dương cung, liền bồng Tiểu Long Nữ lần theo cầu thang leo lên. Hai người vừa lên tới giá sách, thở một hơi dài, như trút được một gánh nặng, thì nghe dưới lầu tiếng người hò hét rầm rầm. Liền lúc đó có mấy mươi tên đạo sĩ tiến lên gào lớn, nhưng vì cầu thang chật hẹp, không thể thi thố "Thiên cang bắc đẩu trận" nên không một ai dám lên trước. Dương Qua để Tiểu Long Nữ ngồi trên ghế, xem xét tình thế chung quanh. Chàng thấy phía sau "Tàng kinh các" là một khe nước sâu thăm thẳm. Khe ấy tuy sâu nhưng không rộng mấy, bên mình chàng luôn luôn có một sợi dây dài để ban đêm buộc treo cây làm võng ngủ. Dương Qua liền lấy sợi dây ấy buộc một đầu vào thành cửa sổ, rồi nắm lấy dây tung mình nhảy sang bờ bên kia, kéo thẳng sợi dây cột chặt vào thân cầu bên vách núi. Đoạn chàng giở khinh công, đi trên sợi dây trở lại "Tàng kinh các". Chàng đứng bên Tiểu Long Nữ nhỏ nhẹ nói:
- Bây giờ chúng mình về đâu?
Tiểu Long Nữ nói:
- Anh muốn đâu, thì em cũng theo vậy.
Dương Qua cười nói:
- Cái đó là lý trưởng "lấy chồng thì phải theo chồng" có phải thế không em?
Chàng ngừng lại một giây liền hỏi tiếp:
- Nhưng lòng em thích anh đi đâu?
Tiểu Long Nữ thở nhẹ một cái, lộ vẻ mặt thẹn thùng. Lẽ tất nhiên Dương Qua cũng thừa hiểu nàng muốn về cố cư nơi Cổ Mộ, nhưng làm cách nào về Cổ Mộ được, lại thêm một việc khó vô cùng. Dương Qua nghe dưới lầu những tiếng hò hét càng tăng thêm, thấy không thể chần chờ được, mà cũng chưa biết phải đi về đâu? Tiểu Long Nữ thấy chàng có ý lo nghĩ nhiều, nên dịu dàng nói:
- Em cũng không nhất thiết phải về Cồ Mộ, miễn đi về đâu mà anh khỏi nhọc công lo lắng.
Nàng cười âu yếm:
- Anh Qua! Em được ở bên anh, thì có về phương trời nào cũng vui!
Dương Qua thầm nghĩ:
- Đây là cái nguyện vọng duy nhất của nàng sau lễ cưới mà không chừng cũng là cái nguyện vọng sau cùng của đời nàng, nếu mình không đủ năng lực làm cho nàng toại nguyện, thì đâu có xứng đáng làm chồng nàng?
Đôi mắt chàng đảo nhìn tứ phía, nhưng những tiếng la hét dưới lầu nghe đến chát tai. Lòng đang bối rối lại hỗn loạn thêm. Chàng chợt thấy sau giá sách phía Tây chất đầy những rương gỗ liền nảy ra một ý nghĩ giải thoát. Chàng vội bước tới giá sách, thì thấy những chiếc rương gỗ đều khóa lại. Chàng liền đưa tay giật một cái, chiếc khóa đứt ra, tức khắc mở nắp rương, thấy trong chứa đầy sách vở. Chàng xách rương lên chúc ngược xuống, đổ tất cả sách vở ra, thấy chiết rương làm bằng gỗ liền rất kiên cố. Chàng liền tung mình lên đưa tay lấy tấm da cừu che trên giá sách. Đó là tấm da phòng khi mưa khỏi ướt sách quý. Chàng kéo tấm da lót vào rương, rồi lần theo sợi dây vác chiếc rương qua bên kia, đoạn trở lại bồng Tiểu Long Nữ. Chàng cười nói:
- Thế này, chúng mình về cố cư được rồi!
Tiểu Long Nữ mừng rỡ nói:
- Anh có sáng kiến hay quá! Em phục anh!
Dương Qua còn sợ nàng lo lắng, liền an ủi:
- Em! Thanh kiếm này sắc bén vô cùng, khi anh lặn trong đường ngầm nếu có gì làm cản trở chiếc rương, chỉ một nhát kiếm chém ra thì nới rộng tất cả. Anh sẽ đi rất nhanh, em khỏi sợ ngộp hơi khi ngồi trong rương.
Tiểu Long Nữ cười nũng nịu nói:
- Nhưng có một điều em không thích.
Dương Qua ngạc nhiên hỏi:
- Điều gì hả em?
Nàng cười nói:
- Bởi vì đi theo phương pháp đó, thì em với anh phải cách biệt một lúc khá lâu
Đang trò chuyện đã tới vách núi bên kia, Dương Qua sực nhớ bé Quách Tường còn để nằm trong sơn động, liền nói:
- à! Anh còn mang theo con gái của Quách đại hiệp tới nữa, em nghĩ phải làm thế nào?
Tiểu Long Nữ giật mình, run giọng:
- Thật vậy? Chàng.... chàng mang theo con... con gái của Quách đại hiệp tới?
Dương Qua thấy thần sắc nàng biến đổi, với giọng nói đau khồ, biết ngay nàng hiểu lầm là chàng mang Quách Phù tới. Chàng quá thương xót, cúi xuống hôn nhẹ lên gò má nàng, rồi nhỏ nhẹ giải thích:
- Em Long! Anh mang đứa con gái mới sinh ra được một tháng chứ không phải con nhỏ biết xách kiếm chặt tay anh đâu?
Tiểu Long Nữ thẹn thùng quá, gương mặt bỗng nhiên trở lại ửng hồng, dụi đầu vào lòng chàng không dám ngước mặt lên. Một hồi lâu, Tiểu Long Nữ mới thỏ thẻ:
- Anh Qua! Vậy mình mang luôn đứa bé về Cổ Mộ luôn, chứ để nó nằm trong rừng hoang, núi thẳm này tội nghiệp nó!
Dương Qua thấy thời gian để đứa bé nằm một mình quá lâu, nên không biết tánh mạng Quách Tường ra sao. Lòng chàng không yên liền bước nhanh tới sơn động. Dương Qua tới chỗ bé Quách Tường nằm, nhưng không nghe tiếng khóc la gì, lòng thêm lo vội kéo nhanh vật chướng ngại ra, thấy Quách Tường đang nằm im thiêm thiếp trong ấy. Chàng cảm thấy nhẹ nhõm dịu dàng bồng nó đi trở ra. Tiểu Long Nữ thấy đứa bé lòng mừng rỡ đưa tay ra nói:
- Anh đưa em bồng nó cho.
Dương Qua ngại nàng bị thương còn yếu sức nên nói:
- Để nó trong rương kéo đi được rồi!
Chàng dùng dây lưng buộc vào quai xách của chiếc rương, rồi đặt Quách Tường nằm vào. Chàng vừa đỡ Tiểu Long Nữ vừa kéo chiếc rương từ từ tiến đi.
Lúc bấy giờ, tất cả đạo sĩ Chung nam sơn đều tụ về Trùng dương cung, nên đi dọc đường không có một bóng người lai vãng. Hai người đi qua một đám dưa bí của Toàn Chân giáo, Dương Qua hái bảy, tám trái bị vỡ để vào rương, cười nói:
- Bấy nhiêu cũng đủ cho hai đứa mình ăn bảy tám ngày rồi.
Hơn một giờ đồng hồ, đã tới bên khe nước, Dương Qua bồng nàng để vào trong rương rồi để Quách Tường nằm vào lòng nàng, hai người nhìn nhau cười. Dương Qua nhè nhẹ đậy nắp rương lại, dùng tấm da cừu bọc kín lại rồi buông chiếc rương xuống dòng nước. Chàng hít lấy một hơi dài dưỡng khí, đoạn kéo chiếc rương lặn xuống nước kéo đi.
Từ ngày trong hoang cốc lo luyện khí công trong thác lũ, nên chàng lặn trong khe nước nho nhỏ nầy thấy không có gì nhọc nhằn cả, mặt đất trong khe nước có chỗ cao, chỗ thấp, Dương Qua cứ xuôi theo dòng nước mà đi, gặp những cột đá cản trở. Chàng sợ lâu Tiểu Long Nữ nghẹt thở, nên dùng kiếm chặt bạt đá ra, đi rất nhanh, chỉ trong nháy mắt ra một đường hầm, đi tiếp đường hầm về Cổ Mộ. Dương Qua mở nắp rương ra cho nàng thở một lúc rồi lại tiếp tục kéo đi dưới đường hầm rẽ về Cổ Mộ. Đến Cổ Mộ chàng mở nắp rương ra thấy Tiểu Long Nữ có phần đuối sức, nhưng nàng vẫn mỉm cười nói:
- Chúng mình về tới nhà rồi!
Cửa ngõ, bàn ghế, giường mùng chiếu chăn, không khác lúc xưa, Dương Qua mải nhìn những căn phòng đá, những món đồ từ nhỏ chàng đã dùng qua. Lòng chàng bỗng cảm thấy một niềm cảm xúc khó tả, ngơ ngẩn như kẻ mất hồn. Một hồi lâu chàng cảm thấy có một giọt nước nóng trên cánh tay chàng, liền quay đầu nhìn lại thì thấy Tiểu Long Nữ đang đứng dựa bên ghế, nước mắt chảy đầm đìa, đôi mi lim dim. Hôm nay hai người được thành duyên giai
ngẫu, lòng tưởng bấy lâu đã toại, lại được trở về tới Cổ Mộ. Từ nay không còn vương vấn những sầu thương, thảm não.
Nhưng trong lòng hai người lúc này lại cảm thấy đau khổ vô ngần. Trong thâm tâm hai người biết Tiểu Long Nữ đã bị trọng thương, như vậy tấm thân bồ liễu của nàng làm sao chịu nổi? Tuy hai người đã nghĩ qua muôn ngàn lần, chỉ cần được tâm nguyện, sống chung bên nhau, dù có chết liền tức khắc, cũng thấy sung sướng. Nhưng đến bây giờ, hai người được lấy nhau rồi, sống chung bên nhau, thì thấy không nỡ chết đi. Hai người tuổi còn trẻ, nhưng đã trải qua nhiều ngày long đong cơ khổ, chưa hề hưởng hạnh phúc trên đời, bỗng nhiên được đạt thành ý nguyện duy nhất trên đời họ, mà cũng bỗng nhiên muốn chia lìa đôi ngả! Dương Qua tần ngần một hồi lâu, bước tới giở chiếc giường trong phòng Tôn Bà, đưa sang bên giường Hàn Ngọc, lót chăn nệm cẩn thận rồi đỡ Tiểu Long Nữ lên giường nằm nghỉ. Các món ăn tích trữ trong Cổ Mộ đều hư thối cả, chỉ còn những hũ mật ong to tướng không có hề hấn gì, Dương Qua chắt lấy nửa chén mật, khuấy đều với nước rồi bưng cho Tiểu Long Nữ và Quách Tường uống no nê. Chàng mới yên tâm uống một chén, lòng đã nghĩ:
- Mình phải phấn khởi tinh thần để cho nàng mừng, may có xoa dịu bớt cơn đau, lòng mình có lo buồn cũng không nên thổ lộ cho nàng biết.
Chàng lục ra được cặp đèn cây thật to, dùng vải đỏ bao lại, đốt cắm lên bàn, cười nói:
- Đây là đôi đèn "hoa chúc" động phòng của chúng ta!
Đôi nến được đốt lên, tỏa ra một niềm vui tươi trong căn phòng. Tiểu Long Nữ gượng ngồi dậy, thấy áo trong mình nàng đính đầy những vết máu và bùn đất, mỉm cười nói:
- Em ăn mặc thế này, đâu có giống nàng dâu mới?
Nàng như sực nhớ vật gì, vội nói tiếp:
- Anh Qua? Em nhờ anh một chút nhé!
Dương Qua nhỏ nhẹ nói:
- Em cầu nguyện gì cứ nói, anh luôn luôn chiều ý em.
Tiểu Long Nữ nói:
- ở trong phòng Lâm sư tổ có một chiếc rương xi vàng, bây giờ mình đem ra đây xem thử, được không anh?
Dương Qua cười:
- Em nhớ hay quá! Để vào xách ra đây hai đứa mình xem.
Trong nháy mắt Dương Qua đã vào phòng Lâm Triều Anh, xách ra một chiếc rương cũng không nặng mấy, ở ngoài có xi vàng và chạm trổ rất tinh vi, nhưng không có khóa.
Tiểu Long Nữ nói:
- Em nghe trước kia Tôn bà bảo, trong rương này là đồ cưới của Lâm sư tổ. Sau vì duyên nợ không thành, nên những vật nầy không dùng tới.
Dương Qua "ừ" một tiếng, đôi mắt thẫn thờ nhìn chiếc rương, chỉ thấy niềm vui lẫn vào một nét thê lương ảm đạm. Chàng đặt rương lên giường Hàn Ngọc, giở nắp ra, trong ấy để một chiếc mũ phượng nạm trân châu, áo choàng bằng kim tuyến, hai chiếc áo lót bằng lụa đỏ. Những đồ này đều làm bằng nguyên liệu tốt nhất, nên đã mấy mươi năm mà bây giờ vẫn còn sáng sủa mới tinh.
Tiểu Long Nữ hỏi:
- Anh Qua! Bây giờ mình soạn hết từng món ra xem, được không anh?
Dương Qua bần thần gật đầu nói:
- Được!
Nàng liền lấy ra từng món, dưới lớp áo là một chiếc hộp đồ trang nữ, cùng hộp đựng đồ trang điểm nạm trân châu, son phấn trong hộp đều đã khô, dầu thơm chỉ còn có nửa.
Lúc mở nắp hộp đồ trang nữ, mắt hai người đều chóa lên trong ánh sáng các món quý, nào xuyến châu, nào trâm bảo thạch, nào vòng ngọc...
Dương Qua và Tiểu Long Nữ xưa nay có ít thấy những vật châu báu, nên không hiểu được vật nào quý trọng đến đâu. Tiểu Long Nữ mỉm cười nói:
- Anh Qua! Để em trang điểm thành một cô dâu mới nhé?
Dương Qua nói:
- Hôm nay em đã mệt nhọc lắm rồi, hãy đi nghỉ ngơi một đêm đã, ngày mai sẽ trang điểm.
Tiểu Long Nữ lắc dầu nói:
- Không được! Hôm nay là ngày vui sướng nhất của đôi ta, em thích thành tân nương ngay giờ nầy. Anh không nhớ ngày ở trong tuyệt tình cốc lão Công Tôn Chỉ muốn làm lễ thành thân với em, mà em cũng không muốn trang điểm cơ!
Dương Qua cười nói:
- Đó đâu có phải lễ thành thân? Chỉ là ảo tưởng của Công Tôn Chỉ mà thôi!
Tiểu Long Nữ liền lấy phấn ra pha son, pha thêm ít nước hoa, nàng soi gương rồi cẩn thận điểm trang. Đây là lần đầu tiên nàng mới biết đánh phấn thoa son, da mặt nàng vốn đã trắng như phấn nhưng vì sau khi bị trọng thương mặt tái mét, nên phớt nhẹ thêm một lớp phấn hồng trên gò má, quả nhiên tăng thêm vẻ tươi thắm hơn. Nàng ngưng tay một hồi, lấy lược chải tóc, miệng than:
- Làm dâu phải bới tóc, nhưng em không biết, anh Qua bới giùm em được không?
Dương Qua cười nói:
- Anh cũng không biết! Nhưng tóc em không bới trông càng đẹp hơn.
Tiểu Long Nữ cười duyên dáng:
- Vậy à!
Nàng tiếp tục cài trâm lên đầu, đeo vòng, mang xuyến, dưới ánh nến, quả là một tuyệt sắc giai nhân. Nàng hớn hở xoay mình lại muốn cho Dương Qua khen thưởng. Nhưng Tiêu Long Nữ vừa xoay lại thấy đôi mắt Dương Qua ngấn lệ dầm dề. Nàng cố cắn răng giả vờ như không, mỉm cười hỏi:
- Anh Qua! Anh nhìn xem em thử thế nào?
Dương Qua bất thần đáp:
- Đẹp vô cùng! Để anh đội mũ phượng lên cho em!
Chàng liền cầm mũ phượng đội lên cho nàng. Tiểu Long Nữ liếc mắt vào gương, thấy chàng đưa tay lau nước mắt, nhưng làm ra vẻ hân hoan cười nói:
- Em muốn anh từ nay gọi em bằng nương tử hay gọi là "cô" như xưa?
Tiểu Long Nữ nghe đến "cô" lòng quá đau đớn, thầm nghĩ:
- Không lẽ mình cõn phải chịu cảnh đơn độc nữa sao?
Nhưng nàng vẫn cố làm ra vẻ vui mừng mỉm cười.
Dương Qua nói:
- Nếu anh còn gọi bằng "cô" thì không hợp. Còn những tiếng nương tử, phu nhân thì quá khách sáo đi! Vậy nhũ danh cửa em gọi là gì? Giờ phút này có thể nói cho anh biết rồi chứ?
Tiểu Long Nữ nói:
- Em không có tên gì khác, sư phụ chỉ gọi em là Long nhi!
Dương Qua nói:
- Vậy sau này em anh là anh Qua, còn anh gọi em bằng Long nhi cũng được rồi. Nhưng đến khi có con cái rồi thì gọi khác đi nhé! Khi lũ trẻ lớn lên, mình cỏ dâu, có rể... thì...
Tiểu Long Nữ nghe chàng thuyết trình đến tương lai, chỉ cắn răng mỉm cười. Nhưng sau cùng nàng không nhịn được nỗi đau đớn "òa" lên một tiếng, úp mặt lên rương, khóc sướt mướt.
Dương Qua bước tới một bước, ôm chầm lấy nàng vào lòng, dịu lời khuyên nhủ:
- Long nhi! Em nhọc lòng nghĩ đến ngày mai? Hôm nay em không chết đâu! Còn anh sẽ ở bên em luôn luôn. Hơn nữa, giờ nầy đôi ta hãy vui cười lên để hưởng hạnh phúc. Hôm nay mình không được lo buồn nữa.
Tiểu Long Nữ ngẩng mặt lên, mỉm cười khe khẽ gật đầu. Dương Qua nói:
- Em nhìn dôi phượng hoàng trên chiếc áo nầy có đẹp không? Để anh mặc cho em nhé!
Chàng liền mặc chiếc áo lụa hồng cho nàng. Tiểu Long nữ lau nước mắt ngồi bên chàng nói:
- Em đã trang điểm xong rồi, nhưng tiếc không có áo mũ của tân lang!
Dương Qua nói:
- Được rồi để anh thử trong rương có đồ trang sức nào cho anh không?
Vừa nói, chàng vừa lấy mọi vật trong rương ra. Tiểu Long Nữ thấy đóa hoa, liền lấy cài lên mái tóc chàng. Dương Qua cười nói:
- Hay lắm! Như vậy cũng mới lắm rồi!
Giờ tới đáy rương, thì thấy có một chồng thư, buộc bằng một dây tơ đỏ, bì thư đã đổi thành màu thâm. Dương Qua giơ lên nói:
- Đây có một lô thư.
Tiểu Long Nữ nói:
- Anh xem thử thư gì vậy?
Dương Qua tháo dây tơ ra, thấy trên bì thư đề những chữ:
- Mến gửi: Nữ sĩ Lâm Triều Anh Tuyết.
Hai mươi mấy phong thư đều đề như thế. Dương Qua đoán biết trước khi xuất gia, tên của Vương Trùng Dương gọi là "Vương Triết". Chàng liền hỏi ý của Tiểu Long Nữ:
- Đây là những thư tình của Trùng Dương sư tổ viết cho Lâm sư tổ, mình xem được không?
Từ thuở nhỏ Tiểu long Nữ đã thờ kính Lâm Triều Anh như vị thần linh, nên cảm thấy lo sợ. Nàng vội can:
- Không! Không thể xem được.
Dương Qua y lời không xem, dừng trở lại nói:
- Toàn Chân giáo chỉ có Tôn Bất Nhị là quá khe khắt và lỗi thời, thấy hai đứa mình thành hôn trước di ảnh của Trùng Dương sư tổ, họ đều cho mình là đại nghịch, làm nhơ đấng thiêng liêng. Nhưng anh không tin Trùng Dương sư tổ mà không có tình ý với Lâm sư tổ. Nếu đem bó thư này cho mấy đạo sĩ già phái Toàn chân xem không biết bộ mặt họ sẽ méo mó đến thế nào nữa?
Chàng vừa nói vừa nhìn Tiểu Long Nữ, bất giác ngậm ngùi xót thương cho Lâm Triều Anh thầm nghĩ:
- Lâm sư tổ phải chịu cảnh cô đơn quạnh quẽ để ở mãi trong Cổ Mộ này, chắc sư tổ đã có nhiều lần mặc thử chiếc áo cưới này. Như vậy vợ chồng chúng ta còn hạnh phúc may mắn hơn hai vị tiền bối quá cố rất nhiều.
Tiểu long Nữ như hiểu rõ tâm trí chàng:
- Đúng thế, đôi ta hạnh phúc và may mắn hơn Lâm sư tổ nhiều. Biết thế sao anh lại không vui?
Dương Qua vội nói:
- Phải, phải chúng mình phải vui!
Chàng liền cười hỏi:
- Long nương! Anh không nói, sao em đoán đúng tâm tư anh?
Tiểu Long Nữ bĩu môi, cười nói:
- Nếu em không hiểu được tâm tư anh, thì em đâu có xứng đáng làm vợ anh được?
Dương Qua bước lại ngồi bên nàng, đưa tay ôm nàng vào lòng. Lòng hai người đều cảm thấy hân hoan, những mong giờ phút nầy cứ dừng mãi nơi đây...
Hai người kề vai ngồi rất lâu, lặng lẽ trong giấc say mê, nói không ra tiếng. Mãi một hồi sau, hai người đều liếc mắt nhìn thư một cái rồi cười. Trong ánh mắt đêu lộ vẻ tinh nghịch. Phải biết hai người đều rất trẻ, tánh trẻ con vẫn còn, dù thừa hiểu không nên lén xem thư từ của người khác, nhưng khó bó nổi tánh tò mò. Dương Qua âu yếm nói:
- Chúng mình chỉ xem một phong thôi được không? Nhất định không xem nhiều.
Tiểu Long Nữ khe khẽ đáp:
- Được chúng mình chỉ xem một phong thôi.
Dương Qua mừng rỡ, đưa tay giở chồng thư. Tiểu Long Nữ liền nói:
- Nhưng nếu lời thư quá thống thiết, thì anh đừng đọc cho em nghe nhé!
Dương Qua suy nghĩ một tí rồi nói:
- Được rồi!
Nhưng chàng nhớ lại mối tình cũ Vương Trùng Dương và Lâm Triều Anh không được thiện quá, trong thư đầy cả những lời âu sầu đau đớn, thà không xem còn hơn. Nhưng Tiểu Long Nữ đã giục:
- Chớ lo lắng, biết đâu chẳng chứa toàn những lời tình tự tha thiết...
Dương Qua cầm phong thư thứ nhất, hơi do dự một chút rồi rút thư ra đọc: "Em Anh yêu mến! Hôm trước quân ta giao chiến với bọn giặc Kim tại ác ba Cương, vì trúng nhằm ổ phục kích của địch, nên quân ta bại trận, hao tổn hơn bốn trăm binh sĩ và chiếc mũ...".
Dương Qua đọc đến cuối thư, thì té ra khác hẳn ý nghĩ của Tiểu Long Nữ, trong thư chỉ thuật lại trận giao phong ác liệt vừa qua tại ác ba Cương và tình hình chiến sự vô cùng trầm trọng của nghĩa quân, sau cùng báo Lâm Triều Anh hãy bán bớt châu báu để mua lương thực cho nghĩa quân. Dương Qua tiếp tục đọc hết cái thư nữa cũng chỉ thấy nói về chiến sự thôi, không thấy Vương Trùng Dương nhắc một tí gì về thường tình nhi nữ. Chàng thở ra một cái rồi nói:
- Dương sư tổ quả là một đấng nam nhi nặng nợ núi sông, hết lòng vì nước, nhưng tình cảm người quá ít ỏi, như thế tránh sao cõi lòng Lâm sư tổ khỏi bị lạnh lẽo.
Tiểu Long Nữ nói:
- Không đâu, em biết chắc khi xem những phong thư này Lâm sư tổ không những không buồn lòng mà còn mừng rỡ nữa cơ!
Dương Qua ngạc nhiên:
- Sao em biết được?
Thì em cũng suy luận thôi.
Dương Qua càng ngạc nhiên:
- Suy luận ư? Mà suy luận thế nào?
Tiểu Long Nữ chậm rãi:
- Này nhé, anh xem quân tình trong thư, mỗi một cánh thư đều tỏ bày vô cùng nguy ngập, thế mà trong lúc nguy nan Trùng Dương sư tổ vẫn biên thư về cho Lâm sư tổ, vậy anh có thấy lòng ông không bao giờ quên được bà không?
Dương Qua gật đầu lia lịa:
- à à đúng rồi, quả đúng vậy!
Chàng bèn bốc vội một phong thư nữa xem thấy quân tình trong thư này nguy cấp nhất, nghĩa quân của Vương Trùng Dương thất bại liên tiếp vì quá ít ỏi, cuối thư có mấy lời ngắn ngủi hỏi thăm bịnh tình của Lâm Triều Anh, nhưng chứa chan đầy tình thương yêu đằm thắm, Dương Qua nói:
- ừ năm xưa Lâm sư tổ cũng bị thương, sau thời gian tự nhiên lành bệnh, vậy em cố gắng tĩnh dưỡng, chẳng chóng thì chầy vết thương em cũng lành hẳn vậy.
Tiểu Long Nữ thừa hiểu vết thương của mình không phải nhẹ, và dù biết Dương Qua chỉ an ủi thôi, nhưng vì đã hứa trước đêm nay không được nói chuyện buồn làm mất hứng, nên nàng mỉm cười điềm đạm cho là thật đi để Dương Qua an lòng rồi nàng nói:
- Những thư này cũng không nói gì đến việc tư vậy anh đọc hết nghe nào!
Dương Qua y lời, đọc thêm một bức, trong thư lời lẽ vô cùng phẫn uất thương tâm, nghĩa quân bị vây, đại bại, tan rã, các thuộc hạ bị giết sạch duy chỉ có một mình Vương Trùng Dương nhờ có võ công tuyệt đỉnh nên thoát được trùng vây. Cuối thư Vương sư tổ bảo sẽ chiêu binh mãi mã, cố cứu lấy mảnh giang san nghiêng ngửa này. Nhưng những thư sau chỉ thấy nói toàn việc thất bại, thế lực quân Kim ở Hà Bắc mỗi ngày một hùng mạnh như thác lũ, Vương trùng Dương biết thế nước mất rồi, trong thư lời lẽ thất vọng chán chường. Dương Qua vừa xem thư vừa nói:
- Đọc những thư này, khiến người ta buồn bã thêm, thôi chúng ta nói đến việc khác đi... vả ?
Dương Qua tay cầm bức thư run run, miệng lẩm bẩm:
- Nghe đồn miền băng giá cực Bắc, có thứ đá tên gọi "Hàn Thạch", trị tuyệt trọng thương, nên anh phải đi tìm cho em...". Long em, đây... đây chính là giường Hàn Ngọc rồi!
Tiểu long Nữ thấy Dương Qua bỗng lộ vẻ mừng rỡ, khiến nàng hồi hộp hỏi:
- Anh... anh... có phải anh muốn nói Hàn Ngọc có thể trị lành thương tích của em không?
Dương Qua ngần ngại:
- Anh không rõ lắm, nhưng Dương sư tổ đã nói như vậy, không lẽ... Rồi chàng lẩm nhẩm một mình:
- ừ! Lâm sư tổ đã làm thành giường nằm chăng?
Vết thương của bà cũng đã lành mạnh hẳn sao? Mà chữa bằng cách nào đấy?
Sực nhớ, chàng vội vã tìm tất cả mọi phong thư, thử coi có nói đến cách chữa trị chăng, nhưng chàng đã thất vọng, ngoài phong thư ấy ra không có cái nào nói về "Hàn ngọc" cả. Dương Qua buồn bã lấy sợi dây tơ, buộc chồng thư bỏ vào rương, chàng ngơ ngẩn nghĩ:
- Giường Hàn ngọc công dụng như thế nhưng biết làm sao đây khi mình không biết cách điều trị. Giá mình biết cách trị lành cho Long Nhi được thì dẫu có chết cũng cam.
Tiểu long Nữ cười nói:
- Trông anh như kẻ mất hồn, đang nghĩ gì đó?
Dương Qua ngẩng đầu nhìn Tiểu long Nữ hai tay buông xuôi:
- Anh đang nghĩ dùng giường Hàn ngọc để trị thương, cho em, chẳng hiểu nên dùng nó nghiền nát uống, hay còn phải pha trộn nhiều thứ thuốc khác nữa.
Tiểu long Nữ bứt rứt, ngậm ngùi nói:
- Anh còn nhớ Tôn bà không? Bà đã theo sư phụ nhiều năm, nhưng khi bị tên đạo sĩ họ Hách đả thương rồi, nếu dùng giường Hàn ngọc trị thương được thì sao bà chẳng dùng?
Dương Qua nghe như bị hắt nước vào mặt, những mối hy vọng của chàng tan biết như mây khói. Chàng thở dài chán nản.
Tiểu long Nữ vuốt tóc Dương Qua, dịu dàng nói:
- Anh Qua! Anh đừng nghĩ đến vết thương của em nữa. Chúng ta hãy nói chuyện khác đi. à, để em kể chuyện sư phụ em cho anh nghe nhé!
Dương Qua tuy sống trong Cổ Mộ nhiều năm, nhưng ít được nghe Tiểu long Nữ nhắc tới việc sư phụ ra sao, nên đáp:
- ừ! hay lắm, em kể đi!
Tiểu long Nữ nhìn thẳng đôi mắt của Dương Qua hỏi:
- Anh biết tại sao sư phụ em chết không?
Dương Qua lắc đầu. Tiểu long Nữ tiếp:
- Sư phụ em vốn là tỳ nữ của Lâm sư tổ, tính tình của bà rất thuần hậu, tâm địa nhân từ. Chẳng bao giờ lộ vẻ tức giận, thế mà anh có ngờ đâu bà lại chế loại ám khí cực độc, như Băng phách ngân châm không?
Dương Qua "ừ" một tiếng. Chàng lấy làm lạ vô cùng. Tiểu long Nữ lại tiếp:
- Sư phụ em thăm cứ trong Cổ Mộ, chẳng mấy khi ra ngoài. Nhưng một năm kia, Lâm sư phụ sai bà ra ngoài làm một việc, chẳng may bị cạm bẫy kẻ ác. Không ngờ kẻ ác ấy thấy chẳng ai cản trở lại càng làm tới, đoạt luôn cả sư tỷ đi. Võ công của sư phụ vốn vượt hẳn hắn nhưng về môn ám khí có thua sút, bà bèn sáng chế ra hai môn ám khí là Ngọc phong Kim châm và Băng phách ngân châm để đối phó lại hắn, cứu sư tỷ về. Nhưng trong trận giao phong ác liệt này sư phụ cũng bị trọng thương, tuy cố gắng cứu chữa mấy năm liền vẫn vô phương! Còn về Ngũ độc thần chưởng của sư tỷ là do người ấy truyền lại. Cũng vì chị ấy sống chung với nó khá lâu, nên bị ảnh hưởng, tiêm nhiễm con người của hắn, tính tình chị ấy thay đổi rất nhiều, cũng vì việc này, mà mãi đến lúc chết sư phụ vẫn phẫn uất không yên tâm...
Tâm trí của Dương Qua trở nên rối loạn. Tuy nghe Long Nữ kể chuyện, nhưng đầu óc chàng lại quay cuồng với bao ý nghĩ: "Trùng Dương sư tổ nói gường Hàn Ngọc có thể trị lành trọng thương kia mà. ô! Không, sư tổ mình cùng Tôn bà, đều thụ thương mà mất, nếu giường Hàn ngọc nầy có thể trị thương được sao họ chẳng biết dùng? Thôi thế là hết? ôi! Chi bằng ta đừng nghĩ tới thì tốt hơn, tìm chuyện vui để nàng quên lãng, như thế cũng đỡ buồn thảm". Nghĩ xong chàng nói:
- Kim châm tuy nhỏ, nhưng lúc lâm trận lại lợi hại hơn cả Ngân châm, như thế đủ biết sư tổ thương học trò nhỏ hơn, truyền kim châm cho em, mà truyền cho Lý sư tỷ lại là Ngân châm.
Tiểu long Nữ cười se sẽ nói:
- Sư phụ rất thương yêu em, vừa là một vị minh sư của em, vừa là một vị từ mẫu. Nếu bà được còn sống đến ngày nay thấy em có một người chồng tốt như anh, không biết bà phải mừng tới đâu nữa.
Dương Qua nói:
- Chưa chắc đâu em! Vì bà đã cấm không được yêu ai hoặc lấy chồng mà.
Tiểu long Nữ buồn buồn:
- Sư phụ là người rất hiền từ, dù bà không cho, nhưng khi thấy em năn nỉ hết lòng, ắt bà để em được toại ý ngay.
Ngừng một hồi, nàng nói:
- Sư tỷ thật có lỗi với sư phụ.
- Sao vậy ?
- Khi sư phụ đấu với kẻ ác ấy, bà đã điểm huyệt là hắn không cử động được, nào ngờ sư tỷ nghĩ tình hắn đã truyền Ngũ độc thần chưởng nên len lén giải huyệt cho hắn. Kẻ ác ấy bỗng ra tay bất thần, sư phụ không kịp phòng bị trước nên mới bị độc thủ của hắn.
Dương Qua hỏi:
- Kẻ ác ấy tên chi. Hắn có thế đấu ngang ngửa với sư tổ, ắt hắn cũng là một cao thủ đương thời?
Tiểu long Nữ lắc đầu:
- Sư phụ em không cho biết. Bà nói khi biết tên thì khó quên, và như thế sự trả thù của em sẽ gây ra, mà bà không muốn thế. Bà bảo trong người chớ nên có ý niệm: ái, nộ, hỷ, ố.
Dương Qua than:
- Sư tổ thật là người quá nhân từ!
Tiểu long Nữ lại tiếp:
- Sư phụ liền dọn ra cư thất sau lúc bị thương, để luyện nội công cho phái Cổ Mộ mình, vì vậy sư phụ đã dùng giường Hàn ngọc để khắc tên đối thủ. Tuy nhiên giường Hàn ngọc luyện công thì tuyệt, mà lúc bị thương phải lánh xa, vì không được gần khí lạnh.
Dương Qua "ờ" một tiếng, thấy đôi mắt của Tiểu long Nữ lờ đờ có vẻ mệt mỏi, chàng nói:
- Thôi em ngủ đi! Anh ngồi đây với em.
Tiểu long Nữ vội mở to mắt, nói:
- Không, em chả ngủ đâu. Đêm nay chúng mình thức suốt sáng kia!
Thực ra, nàng lo sợ mình bị trọng thương, rủi trong lúc đang ngủ mà chết luôn thì không bao giờ gặp được Dương Qua nữa. Nàng nói:
- Anh ngồi nói chuyện với em nhé! ờ, anh có mệt không?
Dương Qua mỉm cười lắc đầu:
- Em không muốn ngủ thì thức vậy, nhưng phải nhắm mắt lại dưỡng thần. Hãy nằm nhé!
Tiểu long Nữ ngoan ngoãn nhắm mắt lại, miệng nói se sẽ:
- Sư phụ bảo có một việc thắc mắc mãi đến khi chết vẫn chưa hiểu được. Anh có thông minh, thử tìm hiểu xem.
- Việc gì vậy?
- Sư phụ em đã dùng thủ pháp độc đáo của Lâm sư tổ sáng chế ra điểm huyệt kẻ ác ấy, mà Lâm sư tổ chỉ truyền dạy cho mình em và sư phụ cũng không truyền cho sư tỷ, thế mà không biết làm cách nào chị ấy giải được huyệt cho hắn?
Dương Qua nói:
- Có lẽ sư tỷ đã học lén được thủ pháp ấy khi Lâm sư tổ tập luyện?
Tiểu long Nữ lắc đầu:
- Không, chẳng phải thế đâu.
Dương Qua nghĩ lại thủ pháp điển huyệt của bản phái thực là quái dị và biến ảo phức tạp, với một thiên tư thông minh như chàng lại được chính Tiểu long Nữ tận tâm chỉ dạy, thế mà phải mất hai tháng ròng mới nên, như vậy làm sao lén học cho được. Chàng định nói, nhưng Tiểu Long Nữ đã dựa bên mình. Hơi thở cửa nàng đều đều. Thấy nàng đã chìm vào trong giấc ngủ, nên chàng lại thôi. Dương Qua ái ngại nhìn vào gương mặt nàng, tâm trí vô cùng chán nản. Một lúc sau, ánh sáng của cây nến cháy đến tận cùng, lóe lên rồi tắt hẳn. Dương Qua bỗng nhớ lại đôi liễu trên đảo Đào Hoa:
"Xuân tân đáo tử, tư phương tận,
Lạp cự thànhphỉ lụy thủy can"
Dịch:
"Kiếp tằm đến chết tơ chưa dứt,
ánh nến tắt rồi lệ chưa khô"
Để truy niệm vong thế, Hoàng Dược Sư bèn viết hai câu Đường thi ấy treo tại chỗ vợ chồng ông đang ngồi đọc sách thêu thùa. Khi xưa Dương Qua thoáng đọc qua chẳng mấy để ý đến, nay rõ đúng hoàn cảnh mình, bất giác chàng thở dài ảo não. Bóng tối bao trùm, cây nến thứ hai đã tắt lịm luôn. Dương Qua bỗng nảy ý so sánh hai cây nến cũng như chàng và Long Nữ, nếu Long Nữ có mệnh hệ nào thì chàng cũng chẳng cần sống nữa.
Chàng đang suy nghĩ mông lung thì nghe Tiểu Long Nữ thở dài não ruột. - Không, em không muốn chết, anh Qua... em không muốn chết! chúng ta phải sống thật nhiều, thật nhiều để hưởng hạnh phúc bên nhau, anh... anh...
Dương Qua vội đáp:
- Vâng, em không chết được đâu, nghỉ ngơi một hồi sẽ bớt ngay, ngực em còn thấy đau không?
Dương Qua thấy Tiểu Long Nữ đang nói lại nín thinh, chàng cứ nhìn thì ra nàng nói trong cơn mê. Chàng đặt tay lên trán nàng thấy nóng ran, nên vừa đau buồn vừa lo âu. Từ khi bé thơ đến giờ, chàng chẳng bao giờ kiêng sợ trời đất, thế mà đến giờ phút này chàng hoảng sợ hoang mang. Dương Qua se sẽ lén rời thân mình Tiểu Long Nữ, rồi quì gối xuống đất, miệng lâm râm khấn vái:
- Xin trời cao thương nàng, hãy cứu sống Long Nữ, phận con dầu có... dầu có...
Chàng còn đang ngập ngừng, bỗng Tiểu Long Nữ cựa mình lảm nhảm:
- Chính là âu Dương Phong, Tôn bà bảo thế! Nhất định là âu Dương Phong! Anh Qua! Anh đâu rồi?
Tiểu Long Nữ bỗng nhiên ngồi dậy, đôi tay chới với như bị mất một cái gì. Dương Qua vội ngồi lên thành giường nắm chặt tay nàng, nói:
- Anh đây này, em làm sao thế?
Tiểu Long Nữ ngả đầu vào lòng Dương Qua, đôi mắt lim dim:
- Em cứ mơ thấy anh đi đâu mất, bỏ một mình em lại bơ vơ, em không chịu đâu?
Dương Qua vuốt tóc Tiểu long Nữ, nói:
- Em nằm yên lòng, suốt đời anh sẽ ở mãi mãi bên em, dù sau này phải xa nơi đây anh cũng không rời em một bước.
Tiểu Long Nữ nói:
- Cảnh vật bên ngoài đẹp thật, không lạnh lẽo như ngôi Cổ mộ này, nhưng khồ vì ra bên ngoài em cảm thấy như sợ sệt...
Dương Qua an ủi:
- Từ nay chúng ta khỏi sợ gì cả. Vài tháng nữa khi em đã bình phục rồi, đôi ta cùng về phương Nam xây tổ ấm. Nghe nói khí hậu ở đó quanh năm ấm áp, cây lá xanh tươi, hoa khoe sắc thắm, chúng mình vứt bỏ đao kiếm, cùng nhau cày cấy một thửa ruộng, chăn nuôi một đàn gia súc thế là đủ sống một đời thanh bình an lạc rồi. Em thấy thế nào?
Tiểu Long Nữ khe khẽ nói:
- Không dùng đến võ công nữa thì hay biết mấy! Cấy một thửa ruộng, nuôi một đàn gà vịt, ôi! Thật là thanh nhàn! song nếu em không sống đến đó thì...
Hai người cùng im lặng khá lâu, tuy thân xác họ ở trong Cổ Mộ âm u này, nhưng đôi tâm hồn họ đang hưởng cảnh phương trời nam với ánh nắng chiều tà vàng nhạt, với những cơn gió ngào ngạt, hương hoa tỏa nhẹ lướt qua ngàn cây nội cỏ, tiếng chim chóc ca hát líu lo như cùng nhau tấu một bản xuân ca bất tận...
Tiểu long Nữ mơ màng ngủ thiếp đi, nhưng rồi lại mở mắt, nói:
- Em không muốn ngủ. Lạ quá, sao cứ buồn ngủ hoài. Anh nói chuyện nữa đi! Nói đi!
Dương Qua lúc bé đã được âu Dương Phong nhận làm nghĩa tử, khi còn ở Trùng Dương cung có nghe những bực sư thúc nhắc đến âu Dương Phong là một nhân vật võ lâm cao thủ hiệu xưng "Tây độc". Đàm Xứ Đoan trong Toàn Chân thất tử cũng bị tử nạn về tay ông ta. Vì sau này Dương Qua nhập môn phái Cổ mộ, trong lòng thấy kiêng dè, nên cũng không hề nhắc đến việc âu Dương Phong. Nhưng bây giờ chàng và Tiểu Long Nữ đã thành vợ chồng rồi, việc gì chả nói được. Nhưng khi nghe Tiểu Long Nữ nằm mơ nhắc đến tên của "Tây độc" chàng lấy làm lạ. Dương Qua nói:
- Lúc nãy trong cơn mơ, em có nhắc tới tên âu Dương Phong là chuyện gì thế?
Tiểu Long Nữ nói:
- ủa, em đã nhắc tới âu Dương Phong à? âu Dương Phong là ai vậy?
Dương Qua nói:
- Em còn nói: "Tôn bà bảo nhất định là âu Dương Phong".
Được nhắc thế, Tiểu Long Nữ bỗng nhớ lại:
- ôi! Phải rồi, Tôn bà bảo kẻ đả thương sư phụ nhất định là Tây độc âu Dương Phong. Bà còn bảo trên đời chỉ có một vài kẻ cầm cự lại với sư phụ, hơn nữa kẻ biết sử dụng Ngũ độc thần chưởng trừ Tây độc ra, không còn một cao thủ võ lâm nào biết nữa.
Tiểu Long Nữ ngừng một lát rồi tiếp:
- Thầy em đến lúc sắp trút hơi thở cuối cùng vẫn không chịu nói tên kẻ ấy ra. Lúc đó Tôn Bà có hỏi: "Có phải Âu Dương Phong không?". Nhưng sư phụ chỉ mỉm cười lắc đầu rồi từ biệt hẳn cõi đời.
Dương Qua nói:
- Âu Dương Phong là nghĩa phụ của anh đó!
Chàng bèn thuật sơ lược chuyện năm xưa cho Tiểu Long nữ nghe. Chàng bị trúng Băng phách ngân châm của Lý Mạc Thu may nhờ Âu Dương Phong tận tình cứu chữa do đó chàng mới nhận lão làm nghĩa phụ.
Tiểu Long nữ lấy làm lạ:
- Thế mà lâu nay em đâu có biết?
Dương Qua nói:
- Bây giờ cha nuôi anh đã chết rồi. Sư tổ, Tôn bà và Trùng Dương tổ sư cũng không còn. ân oán hận thù đã chấm dứt. Tài nhất là sư tổ, đến chết cũng không nghe nhắc đến nghĩa phụ anh... ừ! Té ra là thế.
Tiểu Long nữ thấy chàng hình như nghĩ ra điều gì bí mật vội hỏi:
- Anh nghĩ gì thế?
Dương Qua đáp:
- Nghĩa phụ anh tự giải lấy huyệt đạo cho mình, chứ không phải do Lý sư tỷ giải cho đâu.
Tiểu Long nữ kinh ngạc:
- Tự mình giải? làm sao có chuyện đó được?
Dương Qua giải thích:
- Nghĩa phụ anh có một môn võ vô cùng kỳ diệu, không một kẻ thứ hai nào biết. Mọi mạch máu trong người đều có thể chạy ngược được cả. Khi mạch chạy ngược như thế mọi huyệt đạo đều đổi vị trí, dù có bị điểm trúng cũng có thể tự mình
đả thông được.
Trên đời lại có chuyện lạ lùng thế à? Thật khó mà tưởng tượng nổi.
Đây để anh thử cho em thấy. Nói xong Dương Qua bèn đứng lên chống đầu xuống đất, trỏ cẳng lên trời, quay cuồng mấy vòng bỗng nhiên nhảy dựng lên, đưa trán cụng mạnh vào góc nhọn của chiếc bàn đá đúng vào trọng huyệt trong thân người.
Tiểu Long Nữ thất thanh la lên:
- ấy chết! Cẩn thận!
Nhưng nào ngờ Dương Qua đụng đánh "bốp" mà không hề hấn gì, trở mình đứng lên, cười nói:
- Em có thấy khi kinh mạch đổi chiều thì trầm huyệt cũng đổi chỗ luôn chưa?
Tiểu Long Nữ lạ lùng nói:
- Thật là quái lạ. Ôi! Lão nghĩ ra được thật là giỏi.
Dương Qua đụng một cái mạnh như vậy, tuy chàng chưa bị tổn thương nhưng đầu óc cũng cảm thấy choáng váng. Trong lúc mơ hồ chàng bỗng nghĩ ra một việc rất quan trọng. Chàng định nói ra, nhưng còn do dự.
Thấy vậy Tiểu Long Nữ bèn cười rằng:
- Khờ ơi là khờ! Thử nhè nhẹ một cái thôi, can chi phải húc quá trâu vậy? Có đau lắm không?
Dương Qua không đáp khoát tay bảo nàng đừng nói chuyện tập trung cả tinh thần để nghĩ ngợi. Trong óc chàng hiện ra một tia sáng rồi lại vụt tắt mất, một hình bóng lờ mờ nhảy múa trong trí, nhưng chàng chẳng biết là cái gì...
Dương Qua suy tư một hồi lâu, chẳng tìm được gì, chàng bực tức vò đầu, rứt tóc trông rất ảo não, miệng lảm nhảm:
- Em! Anh đang nghĩ một việc... vô cùng quan trọng... nhưng không biết việc gì, em có biết không?
Thật là vô lý! Những ý nghĩ xáo trộn như tơ vò. Chính chàng không tìm ra manh mối, lại hỏi Tiểu Long Nữ! Nhưng nhờ hai kẻ đã sống chung với nhau lâu ngày nên cũng thường thường đoán trúng tâm tư của nhau! Tiểu Long Nữ nói:
- Việc này rất hệ trọng à?
Dương Qua gật đầu:
- Đúng vậy!
Chắc là việc liên quan đến thương thế em chứ gì?
Dương Qua như bắt được của quí, mừng rỡ nói:
- à ! Đúng thế, đúng thế! ừ mà anh nghĩ đến việc gì nhỉ?
Tiểu Long Nữ mỉm cười nói:
- Lúc nãy anh có nói đến phép "Kinh mạch nghịch hành" của nghĩa phụ anh, như thế còn liên hệ gì đến vết thương của em không?
Dương Qua bật dậy như lò xo, mừng rỡ reo lên:
- Phải rồi! Phải rồi!
Dương Qua nắm chặt lấy cánh tay mặt của Tiểu Long Nữ, mừng lỡ nói:
- Em có thể lành mạnh rồi? Em được cứu rồi!
Chàng chỉ thốt có thế rồi nghẹn ngào, mừng đến ứa nước mắt. Tiểu Long Nữ thấy vậy cũng vui lây. Một hồi Dương Qua nói:
- Anh có thể trị thương cho em bằng phép "kinh mạch nghịch hành" mà giường Hàn ngọc lại là một vật hỗ trợ tuyệt nhất.
Như thấy được chân lý, Tiểu Long Nữ lẩm bẩm:
- Giường Hàn ngọc... Kinh mạch nghịch hành...
Dương Qua tươi cười:
- Thật là thiên mệnh, em chỉ cần lộn ngược "Ngọc nữ Tâm kinh" thì đủ rồi! Vừa sẵn giường Hàn Ngọc đây!
Tiểu Long Nữ chẳng hiều gì cả, nàng hỏi:
- Anh nói sao?
Dương Qua vội đáp:
- Ngọc nữ tâm kinh khi chạy xuôi thì là chí âm, còn đảo ngược lại là thuần dương. Khi nói đến phép "Kinh mạch nghịch hành" của nghĩa phụ thì anh đã linh cảm rằng vết thương của em có thể trị lành, nhưng mãi đến khi em nhắc anh mới tìm ra cách chữa. Đúng rồi, phải có "hàn ngọc"
mới chữa trị được.
Tiểu Long Nữ phân vân:
- Không lẽ lúc Lâm sư tổ dùng Hàn ngọc trị thương cũng dùng phép "Kinh mạch nghịch hành" ư?
Điều đó cũng không chắc được, có lẽ bà không biết phương pháp này. Nhưng theo anh đoán thì bà bị "âm nhu nội lực đả thương" còn em thì trái lại bị nội lực "dương cương" đả thương.
Tiểu Long Nữ gật đầu tin tưởng. Nàng không ngờ thần chết sắp rước đi, bỗng vớ được vị cứu tinh. Long Nữ mừng rỡ vô hạn:
- Hay quá anh nhỉ! Thế là chúng ta có thể...
Dương Qua cướp lời:
- Việc khẩn cấp không thể chậm trễ được, anh phải thực hành ngay.
Nói xong, chàng bèn vào nhà bếp ôm củi khô ra, đặt vào góc phòng châm lửa đốt lên. Xong truyền phép sơ khởi của "Kinh mạch nghịch hành" cho Tiểu Long Nữ. Dương Qua đỡ nàng ngồi trên giường Hàn ngọc. Chàng thì ngồi bên đống lửa bập bùng, đưa bàn tay trái, tỳ lên bàn tay mặt của Tiểu Long Nữ. Dương Qua nói:
- Anh giúp em dẫn sức nóng chạy khắp các huyệt đạo trên châu thân. Em cố gắng cho máu chạy ngược chiều, mở được huyệt nào thì hay huyệt đó. Chờ đến khi giường Hàn ngọc có hơi nóng thì thương thế của em tất sẽ thuyên giảm được một nửa ngày.
Tiểu Long Nữ cười hỏi:
- Em có phải trút ngược người xuống như anh khi nãy không?
Dương Qua lắc đầu:
- Bây giờ thì chưa phải làm thế. Song đến lúc đẩy được đến chín trọng huyệt cuối cùng, lúc đó mới trút ngược mình giúp mạch máu chạy ngược chiều được dễ dàng hơn.
Tiểu Long Nữ khẽ nắm lấy tay trái của Dương Qua, mỉm cười nói:
- May Quách cô nương không ác độc mấy, chẳng chặt hết hai tay của anh.
Cả hai cùng trải qua một trận ác chiến nguy hiểm tính mạng như chỉ mành treo chuông. Vì thế việc mất một cánh tay chẳng ăn thua gì, nên Tiểu Long Nữ mới đem việc này ra nói đùa. Dương Qua cũng cười:
- Nếu mất cả hai tay thì rắc rối em nhỉ? Chẳng lẽ chữa bệnh bằng chân sao? Như thế chả đẹp tí nào.
Tiểu Long Nữ cười khúc khích mấy tiếng rồi im hẳn, miệng lẩm nhẩm học bài "kinh mạch nghịch hành". Nàng nói:
- Đã thuộc rồi.
Thấy đống lửa đã cháy cao, Dương Qua liền chuyển nội lực. Toan hành công, bỗng nhiên kêu lên:
- Trời! Suýt tí nữa thì nguy mất!
Tiểu long Nữ ngơ ngác:
- Việc gì thế?
Dương Qua trỏ cô bé Quách Tường nằm cạnh gầm giường, nói:
- Khi mình đang hành công đến lúc khẩn yếu nếu con bé bỗng thình lình la khóc lên, há không toi mạng cả hai hay sao?
Tiểu Long Nữ xuýt xoa:
- ồ! Nguy hiểm thật!
Điều rất kỵ cho kẻ đang luyện nội công là để ngoại cảnh chi phổi tinh thần. Năm xưa Tiểu Long Nữ và Dương Qua đang luyện Ngọc nữ tâm kinh, bị Doãn Chí Bình với Triệu Chí Kính vô ý làm rối loạn. Tiểu Long Nữ tâm huyết bị xáo trộn, suýt bị hộc máu tiêu đời. Hồi đó thân thể nàng khỏe mạnh mà đã thế, huống chi hôm nay đang bị trọng thương thì lại càng nguy hiểm đến mức nào!
Dương Qua pha nửa chén mật, bồng Quách Tường cho nó bú no. Xong chàng đặt nó trong căn phòng đá ở chỗ xa nhất, khép chặt hai cánh cửa lại như thế dù nó có khóc thét lên cũng khỏi sợ hại đến Tiểu Long Nữ.
Chàng quay trở lại giường Hàn ngọc, nói:
- Em hãy mở ba mươi sáu đại huyệt trên người đi! Theo anh nghĩ cuộc điều trị này có nhanh thì một tuần, nếu chậm phải mất nửa tháng. Trong thời gian ấy theo lẽ thì không được để ngoại cảnh phân tâm. Ngôi Cổ Mộ này thật là một nơi kín đáo nhất rồi, hơn nữa thâm sơn cùng cực. Vì thâm sơn còn có chim chóc gió trăng, hay mùi thơm của hoa lá, còn chốn này thì rõ là một ngôi mộ chôn người sống, tuyệt tích hồng trần.
Tiểu Long Nữ tủm tỉm cười nói:
- Vết thương này do đạo sĩ Toàn chân "ban cho". Nhưng sư tổ đã xây sẵn mộ đất và làm giường Hàn ngọc cho mình nghỉ ngơi, chóng bình phục. Công đó cũng đủ bù tội này rồi!
Dương Qua không mấy hài lòng:
- Còn Kim Luân Pháp Vương thì sao? Chúng ta không thể tha thứ lão được.
Tiểu Long Nữ thở dài nói:
- Em vẫn còn sống mà anh thấy chưa đủ sao?
Dương Qua cầm lấy chiếc tay nõn nà, mềm dịu của nàng, rồi se sẽ nói:
- ừ! Em nói rất phải. Khi lành bệnh rồi, đôi ta chẳng bao giờ tranh đấu với ai nữa, về phương Nam tận hưởng hạnh phúc. Thật trời đã chiều lòng chúng ta!
Tiểu Long Nữ thì thầm:
- Vâng! Em chỉ mong có thế!
Nàng đang xây đắp tổ uyên ương trong tưởng tượng. Bỗng Long Nữ cảm thấy một luồng hơi nóng từ người Dương Qua truyền sang, bèn y lời dạy của chàng vận hành kinh mạch chạy ngược chiều. Phương pháp trị thương bằng "Kinh mạch nghịch hành" cùng với giường Hàn ngọc hỗ trợ
lẫn nhau. Quả nhiên rất hiệu nghiệm!
Phải biết rằng khi xưa Nhất Đăng đại sư đả thông mọi huyệt đạo trên mình Hoàng Dung phải dùng Nhất dương chỉ mới trị khỏi trọng thương, tuy đường lối như nhau, nhưng dùng Nhất dương chỉ rất hao tốn nội lực cho nên kết quả mau chóng hơn, còn Dương Qua dùng phương pháp nghịch đời này thì phải mất nhiều thì giờ hơn. Công việc vô cùng cực nhọc! Không phải một hai ngày là kiến hiệu. Mỗi ngày ngoài việc nấu nướng và cho bé Quách Tường ăn, Dương Qua không khi nào rời Tiểu Long Nữ nửa bước, nhắm chừng lúc xung phá đại huyệt, bàn tay của hai người phải bám chặt với nhau suốt cả bốn năm tiếng đồng hồ, không thể nào rời ra được...
-
Chương 73 - Tình Duyên Mới Của Tuổi Trẻ - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 73 - Tình Duyên Mới Của Tuổi Trẻ
Nhắc lại, sau khi dùng "lan hoa phất huyệt thủ" hạ được Lý Mạc Thu ở bên mé rừng rồi, Hoàng Dùng tìm kiếm khắp cả chẳng thấy Quách Tường đâu, nàng lo lắng vô cùng. Hoàng Dung trở ra ngoài rừng, quát hỏi Lý Mạc Thu:
- Nhà ngươi muốn gì, đã giấu con ta ở đâu?
Lý Mạc Thu lấy làm lạ:
- ủa! Tiểu cô nương không có trong rào gai sao?
Hoàng Dung đau xót đến sa nước mắt, lắc đầu nói:
- Mất rồi!
Lý Mạc Thu đã nuôi nấng bồng ẵm Quách Tường nhiều ngày, dầu nàng là một kẻ thích giết người, cũng rất yêu mến nó. Bỗng nghe nói nó mất tích cảm thấy xót xa trong dạ, nàng buột miệng nói:
- Tội nghiệp quá! Giờ biết đâu mà tìm nó đây?
Lý Mạc Thu suy nghĩ một lát, rồi bỗng mừng rỡ:
- Thôi đúng rồi! Dương Qua đã ẵm nó đấy! Đúng rồi !
Hoàng Dung chưa kịp nói gì, nàng đã tiếp:
- Nếu lọt vào tay Dương Qua thì không ngại gì chỉ sợ lâu thầy chùa Pháp Vương cướp đi thôi.
Hoàng Dung nói:
- Thế nghĩa là sao?
Lý Mạc Thu kể lại cho Hoàng Dung nghe, chỉ vì nàng cùng Dương Qua đều yêu mến đứa bé, nên họ đã giành nhau nuôi nấng. Hoàng Dung sực thấy cảm động, bèn thò tay giải huyệt cho Lý Mạc Thu. Nhưng nàng lại điểm vào huyệt "Toàn cơ" trên ngực của y. Như thế dù đi đứng cử động như thường, nhưng trong thời gian mười hai tiếng đồng hồ, Lý Mạc Thu không thể nào dụng võ được. Bà ta gượng cười đứng lên, dùng phất trần phủi sạch cát bụi trên mình, nói:
- Dương Qua rất trìu mến con bé này, chắc chắn y không nỡ hại nó đâu, cũng vì thế mà tôi cứ ngờ là con gái của hắn.
Nhưng trong trí Hoàng Dung lại nghĩ đến một việc khác. Nàng tưởng tượng lúc ấy Dương Qua đang bất chấp nguy hiểm liều thân ác chiến với Lý Mạc Thu và Kim Luân Pháp Vương dối lòng bảo vệ cho Quách Tường. Nàng hối hận nghĩ lại mình, và Quách Phù hiểu lầm, đến nỗi Quách Phù chặt một cánh tay của nó. Nàng thấy mình có lỗi nhiều quá, tự oán trách:
- ôi! Nghĩ thật trớ trêu! Dương Qua đã cứu anh Tỉnh, cứu mình, cứu con Phù, bây giờ lại cứu con Tường, thế là cả nhà mình được người ta cứu hết cả... Nhưng mình lại hẹp hòi, đoán lầm lòng bao la của người. Cứ bị mặc cảm cha nào con nấy, lâu nay cả gia đình mình cứ ngờ nó...
Lý Mạc Thu thấy Hoàng Dung khóc, nước mắt rơi lả tả, cứ ngỡ là vì lo lắng cho sự an nguy của con gái, nên buông lời khuyên giải:
- Quách phu nhân! Lệnh ái chỉ mới sanh được có một tháng mà đã chịu biết bao nhiêu dông tố phũ phàng. Nhưng bà chớ lo, nó không bị mất một sợi tóc đâu. Nhờ trời phù cho nó được một hình hài khả ái, dầu kẻ giết người không chớp mắt như tôi, cũng thấy thương yêu nó vô cùng. Như thế đủ biết nó có một phước mạng gặp dữ hóa lành. Vậy bà cứ yên lòng, chúng ta lên đường đi tìm nó.
Hoàng Dung thấy Lý Mạc Thu nói rất phải, đưa tay áo lau ngấn lệ. Nàng tự nguyện thầm:
- Lấy thành tín làm đầu mới là phải lý. Mình quyết dẫu sau này người có phụ mình, mình cũng không bao giờ ngược đãi lại.
Nghĩ đoạn, Hoàng Dung đưa tay giải huyệt "Toàn cơ" cho Lý Mạc Thu. Nàng nói:
- Đạo cô chịu cùng đi với tôi tìm Tiểu Long Nữ thật là may mắn biết bao! Song nếu đạo cô có bận việc khác thì thôi vậy. Xin chào bà, chúng ta chia tay.
Lý Mạc Thu vội nói:
- Không! Chẳng có việc chi cả! Nếu có cũng không bằng việc đi tìm con bé. Bà hãy đứng đợi tôi một chút!
Nói rồi Mạc Thu cất bước chui vào một bóng cây to, mở trói con beo, vỗ nhẹ trên mình nó một cái rồi nói:
- Trả tự do lại cho mầy đó!
Con beo gầm lên một tiếng, phóng vọt vào rừng cây mất dạng. Hoàng Dung lấy làm ngạc nhiên hỏi:
- Con beo này dùng làm gì thế?
Lý Mạc Thu cười nói:
- Nó là chị vú của lệnh ái đó!
Hoàng Dung gượng cười nói mông lung:
- Tội nghiệp thật?
Hai người trở vẻ thị trấn, chẳng thấy chi lạ cả. Quách Phù đứng bồn chồn ở đầu làng đang trông ngóng. Nàng thấy mẹ về tới, chạy lại đón:
- Mẹ! Em con bị...
Nói đến đó, Quách Phù mới nhìn rõ người đi theo sau mẹ mình lại chính là Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Thu, thì giật mình cả kinh. Nàng đã thường nghe anh em họ Võ nhắc tới mối thù giết mẹ và nàng cũng có đấu qua với Lý Mạc Thu rồi. Nên nàng cứ đinh ninh bà ta là một người độc ác nhất đời.
Hoàng Dung hiểu được tâm trạng con, liền nói:
- Lý đạo trưởng giúp mẹ đi tìm em con đó. Con nói em con bị gì hở?
Quách Phù nhìn Lý Mạc Thu một cái rồi nói:
- Em con bị Dương Qua ẵm đi mất rồi, hắn còn cướp mất con Tiểu hồng mã của con nữa. Má xem thanh kiếm này!
Nói rồi nàng giơ thanh kiếm cong lên, tiếp:
- Hắn đã dùng tay áo bên cánh tay mặt phất một cái, thì thanh kiếm của con cong queo như vậy!
Lý Mạc Thu và Hoàng Dung đều kinh ngạc:
- Dùng tay áo?
Quách Phù gật đầu:
- Vâng! Con không ngờ hắn lại biết yêu pháp tà ma.
Hoàng Dung và Lý Mạc Thu nhìn nhau một cái. Cả hai đều hãi kinh:
- Vì Quánh Phù còn ít tuổi, lại ít giao dịch giang hồ, nên tưởng rằng Dương Qua biết yêu phép, còn đối với những tay từng trải lịch lãm như Hoàng Dung và Lý Mạc Thu làm sao nghĩ quấy thế được, dĩ nhiên họ dư biết một kẻ khi luyện nội công đến mức thượng thừa thì có thể dùng một giải lụa làm gậy, hay chỉ dùng một cánh tay áo cũng đủ lợi hại và thủ thắng. Nhưng điều làm cho họ ngạc nhiên là bởi dẫu gặp quái nhân võ nghệ tuyệt trần, và với một thiên tư đĩnh đạc, ít nhất cũng phải tập luyện suốt ba, bốn năm ròng rã mới thành công được. Thế mà Dương Qua tuổi hãy còn trẻ, làm sao đạt đến mức ấy được?
Hoàng Dung nghe con nói Quách Tường bị ẵm đi, tuy có lo, nhưng cũng hơi yên lòng. Còn Lý Mạc Thu thầm nghĩ:
- Công phu của hắn đạt được mức ấy, ắt là nhờ có Ngọc Nữ tâm kinh của sư phụ mình. Bây giờ có Quách phu nhân cùng tiếp sức, mình giúp bà đoạt con gái về, ắt bà phải giúp mình đoạt lấy "Tâm kinh". Sư muội mình tuy đươc sư phụ cưng yêu nhưng nó đã phạm qui luật của môn phái
nhiều lần, hơn nữa phép "Ngọc Nữ tâm kinh" đâu có thể lọt vào tay của con trai được?
Nghĩ đến đây, Lý Mạc Thu thấy mình đủ lý lẽ lấy về. Hoàng Dung hỏi rõ Quách Phù, Dương Qua đi về hướng nào, rồi nói:
- Phù nhi, con không cần trở về đảo Đào Hoa nữa. Hãy cùng mẹ đi tìm Dương đại ca.
Quách Phù reo lên:
- Vâng! Vâng!
Hoàng Dung nghiêm nghị nói:
- Khi gặp Dương Qua, con phải thành khẩn tạ tội nhé ! Dầu Dương đại ca có làm sao cũng không được cãi lại đó!
Quách phù không phục, nói:
- Thưa mẹ như thế để làm gì? Y đã cướp em gái của con đi mà.
Hoàng Dung kể sơ những lời Lý Mạc Thu đã nói khi nãy, rồi bảo:
- Nếu y có lòng tà thì em con đâu có thể sống đến ngày nay. Vả lại lúc đấu với con, nếu y không nương, phất tay áo vào kiếm mà quật vào ót con thì thử hỏi giờ này con có còn đứng đây kêu má được không?
Quách Phù nghe mẹ nói vậy, rùng mình nghĩ:
- Chẳng lẽ y đã nới tay thật ư?
Nhưng bản tính đã được mẹ chiều chuộng từ lúc bé quen, nên nàng vẫn cứng cổ:
- Y bồng em con về phương Bắc, chắc là đi Tuyệt tình cốc rồi!
Hoàng Dung lắc đầu, nói:
- Không đâu, có lẽ y đi Chung nam sơn.
Quách Phù khẽ nhún vai, nói:
- Mẹ cứ bênh y mãi! Nếu y có ý giúp đỡ tại sao lại ẵm em con đi Chung nam sơn làm gì?
Hoàng Dung buồn buồn:
- Con đã sống chung với Dương đại ca từ khi nhỏ sao chẳng hiểu tí gì tính nết của nó! Vốn nó sẵn tính kiêu ngạo, chẳng biết phục một ai. Bỗng
nhiên bị con chặt mất một cánh tay, trở về trả thù thì chẳng nỡ, mà bỏ qua thì bực tức. Do đó mới bồng em con đi để mình lo lắng hãi sợ cho hả
giận, lúc nào nguội ắt nó sẽ mang trả. Con đã hiểu chưa? Chỉ tại con mà nó đánh cắp em con, nó thực hành cho con xem đó!
Hoàng Dung thật là một người thông minh, mới nghe qua những lời của Lý Mạc Thu, đã doán đúng tâm trạng của Dương Qua không sai một ý nào. Quách Phù nghe mẹ nói chỉ biết câm miệng không biết trả lời sao.
Hoàng Dung trở lại tiệm cơm khi nẫy, mượn giấy bút, thảo một bức thư ngắn, trao hai lạng bạc nhờ một tên phổ kỵ trong tiệm mang tới thành Tương Dương cho Quách Tỉnh. Xong bà mua ba con ngưa, cùng nhau tiến về hướng Chung nam Sơn.
Quách Phù chẳng ưa Lý Mạc Thu, dọc đường rất ít nói chuyện với bà ta. Cực chẳng đã lắm mới nói ít tiếng, thần sắc nàng vẫn không thay đổi. Ba người cứ ngày đi đêm nghỉ, suốt khoảng đường dài chắng cỏ việc gì xảy ra. Chiều hôm ấy là ba người đang ruổi ngựa, bỗng nhiên thấy trước mặt có một người cỡi ngựa như bay chạy đến. Quách Phù reo lớn:
- Tiểu hồng mã! Tiểu hông mã của tôi.
Tiếng reo chưa dứt, con Tiểu hồng mã đã đến trước mặt mọi người. Hồng mã nhận ra chủ, liền dừng lại, cuốn vó xuống mặt đường, cất đầu lên hí vang mừng rỡ. Quách Phù nhìn người ngồi trên mình ngựa, té ra là Hoàng Nhan Bình, thiếu nữ sắc phục đen, người khi xưa đã cùng nàng chiến đấu với Lý Mạc Thu. Nhìn thấy Hoàng Nhan Bình tóc tai rối bù, sắc mặt nhợt nhạt bơ phờ, Quách Phù hỏi:
- Chị Hoàng Nhan! Chị làm sao thế?
Hoàng Nhan Bình trỏ vội về phía sau, nói:
- Mau... hãy mau...
Nói chưa dứt, bỗng nhiên nàng ngã chúi xuống ngựa. Quách Phù kinh hãi vội đưa tay đỡ lên, thì nàng đã ngất lịm. Lại thấy vai nàng máu tươi tuôn đầm đìa. Một vết thương rách tét khá sâu. Quách Phù vội lấy thuốc Kim Hương rịt cho nàng, xong xé vạt áo băng bó lại, rồi nói:
- Mẹ à! Đây là chị Hoàng Nhan Bình.
Nói xong đưa mắt nhìn Lý Mạc Thu một cái. Hoàng Dung hướng về phía trước, nói:
- Nàng cưỡi Hãn huyết bảo mã chạy, dám chắc không có ngựa nào theo kịp như thế nàng chỉ phía sau chắc là có việc gì, chúng ta phải đi nhanh lên xem.
Hoàng Dung bèn bảo Quách Phù bồng Hoàng Nhan Bình ngồi lên mình ngựa, rồi căn dặn:
- Ngựa này chạy quá nhanh, con không được qua mặt mẹ, hãy ghi nhớ lấy?
Quách Phù hỏi:
- Sao thế?
Hoàng Dung đáp:
- Phía trước có việc nguy hiểm! Sao con chẳng hiểu gì cả?
Nói rồi quay về phía Lý Mạc Thu ngoắt một cái hai người nhảy tót xuống ngựa, giở khinh công chạy về hướng Bắc. Chạy một lúc mới mấy dặm, hai người nghe tiếng binh khí va chạm nhau chan chát từ bên sườn núi vọng lại. Hoàng Dung và Lý Mạc Thu gia tăng tốc lực vượt qua mấy sườn núi. Thấy phía trước trên khoảng đất trống có năm người đang giao chiến kịch liệt với nhau. Trong số đó có hai anh em họ Võ cùng một trai một gái, tuổi hãy còn nhỏ. Hoàng Dung chẳng biết là ai. Cả bốn người hợp sức chống đối với người đàn ông trung niên. Tuy bốn người đánh một, nhưng phải nói họ chống trả để che chở lấy thân thì đúng hơn. Anh em họ Võ đều đã bị thương, chỉ còn một mình thiếu niên tung hoành thanh kiếm như vũ bão chống đỡ hết một nửa đòn đánh của đối phương. Bên khoảng đất trống có một người râu ria lồm xồm im lìm, máu me be bét chính là Võ Tam Thông.
Hoàng Dung thấy vị trung niên, hai tay sử dụng hai khí giới khác nhau cùng một lúc tả xông hữu đột thì cả kinh. Một tay chàng múa loang loáng thanh đại đao vàng ánh, còn tay kia cầm thanh kiếm đen ngòm đâm chém vun vút. Thanh kiếm vừa dài vừa nhỏ, những chiêu thế xuất ra
đều biến ảo khôn lường, thật hiếm thấy trên đời. Hoàng Dung nghĩ nếu mình không giúp, ắt hai anh em họ Võ khó toàn mạng, bèn nói với Lý Mạc Thu:
- Hai thiếu niên kia là đồ đệ của tôi.
Lý Mạc Thu mỉm cười chua chát, nghĩ thầm:
- Mẹ của chúng bị ta giết, sao ta lại không biết...
Bà ta thấy kẻ ấy võ công quá cao siêu, song chưa hề nghe trong giang hồ ai nhắc tới, lòng kinh dị, mỉm cười nói:
- Nào! Chúng ta vào cùng một lúc!
Lý Mạc Thu rút phất trần ra, nhảy vút đến tung cây phất trần vun vút kiềm tỏa hắc kiếm. Trong lúc đó Hoàng Dung cũng lẹ làng rút cây côn đánh chó, múa vù vù như vũ bão tấn công tay cầm đao của người trung niên. Kẻ tả người hữu cùng tấn công quyết liệt, hợp sức cùng bốn người vây quanh công phá liên hồi.
Người trung niên ấy chính là Công Tôn Chỉ, chủ nhân của Tuyệt tình cốc, ông ta đang hỗn đấu với bọn họ Võ, bỗng thấy có thêm hai thiếu phụ đẹp mê hồn tấn công, lòng hơi rung động, chỉ nghe Lý Mạc Thu kêu lên:
- Một!
Phất trần vung ra một thế, lại kêu:
- Hai!
Lý Mạc Thu ngấm ngầm đo sức mình với Hoàng Dung xem ai đánh rơi khí giới của địch trước. Nhưng bà không ngờ, đã đếm đến tiếng thứ mười mà Công Tôn Chỉ, chủ nhân Tuyệt tình cốc vẫn ung dung công thủ, không hề tỏ ra lúng túng gì cả. Thiếu niên cầm kiếm thấy có kẻ trợ lực bỗng trở nên hăng hái, lách mình ra, nhắm sau lưng Công Tôn Chỉ xuất liên tiếp ba thế kiếm ác liệt trầm hùng.
Công Tôn Chỉ không còn rảnh tay để đỡ, vội tung mình lên cao, nhảy về phía trước, tay đao tay kiếm vẫn loang loáng bao bọc lấy thân, ông ta tự biết đấu cách này thì không lợi cho mình, bèn nhảy xa hơn trượng, quắc mắt nhìn Hoàng Dung và Lý Mạc Thu, toan tung mình tới tấn công.
Hoàng Dung và Lý Mạc Thu đều gớm tài đối phương, không ai giám khinh địch. Thoáng thấy Công Tôn chỉ toan tấn công, cả hai đều đưa binh khí lên thủ thế, nào ngờ bất thình lình Công Tôn Chỉ nhảy ngược về phía sau, chạy bay biến lên sườn đồi. Hoàng Dung và Lý Mạc Thu nhìn nhau mỉm cười lòng đều nghĩ:
- Võ công của hắn rất lợi hại, nếu đơn độc đấu với hắn e nguy, vì mình chẳng phải địch thủ của hắn.
Hai anh em họ Võ ôm vết thương đẫm máu, tiến đến ra mắt sư mẫu. Vừa đứng lên, đã trợn mắt nhìn chòng chọc Lý Mạc Thu.
Thấy thế Hoàng Dung nói:
- Bây giờ tạm gác qua việc cũ. Vết thương của hai con có nặng không? Còn hai vị này là ai? ấy chết! Nguy rồi! Lý đạo trưởng hãy theo tôi!
Nói xong, bèn chạy trở về đường cũ. Lý Mạc Thu lạ lùng chẳng biết bà có việc gì cũng vội đuổi theo, nói:
- Việc chi thế?
Hoàng Dung phi vun vút nói:
- Phù nhi, Phù nhi sẽ đụng đầu với người ấy!
Hai người đề khí đuổi theo ráo riết, nhưng Công tôn Chỉ chạy quá nhanh, chỉ trong khoảnh khắc đã xa hơn một dặm. Hoàng Dung và Lý Mạc Thu vượt đến đỉnh đồi thì công Tôn Chỉ đã đến chân đồi. Hoàng Dung thấy Quách Phù đang đỡ Hoàng Nhan Bình ngồi trên mình ngựa. Tiểu hồng mã từ từ tiến lên đồi. Nàng lo âu, vội la lớn:
- Phù nhi? Hãy cẩn thận!
Tiếng kêu chưa dứt, Công Tôn Chỉ đã lẹ làng phóc lên mình ngựa mới đưa tay ra đã kiềm chế được Quách Phù, kế đó hắn kéo dây cương, toan gò Tiểu hồng mã quay đầu lại. Hoàng Dung quýnh lên, vội vã chu môi huýt dài một tiếng bảo Hồng mã chạy trở lên. Hồng mã quả là thần vật, nghe tiếng huýt của chủ liền cất vó phi vội lên đồi. Công Tôn Chỉ giật mình, hãi kinh nghĩ:
- Quái! Sao hôm nay xui xẻo thế! Cả con vật cũng không sai khiến nổi ư?
Ông bực tức, dùng sức gò mạnh dây cương, hồng mã mất trớn dựng đứng hí vang. Công Tôn Chỉ buộc hồng mã quay đầu chạy về phía Nam, nhưng nó đá chân trở vô lùi từng bước lên đồi.
Hoàng Dung mừng rỡ, chạy tới. Công Tôn Chỉ thấy Hoàng Dung và Lý Mạc Thu sắp đến, mà Hồng mã vẫn cứ quật cường, bèn tra binh khí vào vỏ, một tay kẹp Quách Phù, một tay kẹp Hoàng Nhan Bình nhảy vèo xuống ngựa mà chạy. Khinh công của Tôn Chỉ rất cao, mỗi tay phải kẹp một người mà vẫn chạy như bay, không hề thấy trở ngại. Nhưng khinh công của Hoàng Dung và Lý Mạc Thu cũng rất cao diệu, không bao lâu đã đuổi kịp, chỉ còn cách chừng mười bước. Công Tôn Chỉ dừng chân, quay mình lại cười nói:
- Tôi chỉ khẽ ra sức một chút, hai cô bé đẹp như mộng này có thể sống được nữa chăng?
Hoành Dung dừng chân, hỏi:
- Ngài là ai? Chúng ta chẳng quen biết, chẳng thù oán cớ sao bắt con gái tôi?
Công Tôn Chỉ đắc chí nói:
- Đây là con gái bà? Té ra bà là Hoàng Nhan phu nhân sao?
Hoàng Dung trỏ Quách Phù nói:
- Đứa này mới con của tôi!
Công Tôn Chỉ liếc Quách Phù, rồi nhìn Hoàng Dung một cái, cười hề hề:
- Cả mẹ cả con đều tuyệt đẹp cả! đẹp! đẹp thật!
Hoàng Dung giận run lên, muốn đập Công Tôn Chỉ một gậy cho rồi đời. Song phải mím môi nén giận, vừa định nói. Bỗng "vèo, vèo" hai tiếng phát lên từ phía sau, hai mũi tên từ bên trái bay xớt qua găm thẳng vào mặt Công Tôn Chỉ. Sức mạnh cũa hai mũi tên thật là kinh khủng, tiếng xé gió vun vút. Hoàng Dung mừng rỡ suýt la lên, tưởng Quách Tỉnh đã đến, vì với công lực bắn tên ấy, ngoài chồng bà là Quách Tỉnh ra, bà chưa hề thấy một người thứ hai bao giờ.
Công Tôn Chỉ đâu phải kẻ tầm thường, vừa thấy tên bay tới, miệng đã há ra, cắn chặt lấy đầu mũi tên thứ nhất, kế đó nghiêng đầu qua, dùng cán tên đang ngậm đánh bật mũi tên thứ hai.
Hoàng Dung cùng Lý Mạc Thu thấy thế cũng khiếp thầm võ công của Công Tôn Chỉ. Hai người không thể ngờ hắn có thể ung dung cắn né một cách quá dễ dàng. Hoàng Dung nghĩ thầm:
- Nếu tên đó do anh Quách Tỉnh bắn ra, hắn há miệng cắn như thế là nguy to rồi.
Kế đó chỉ nghe những tiếng "vèo vèo" không ngớt vang lên, liên tiếp tám mũi tên, mũi nào cũng nhắm ngay mặt Công Tôn Chỉ bắn tới. Công Tôn Chỉ rối loạn, vội buông hai người xuống, rút kiếm ra gạt tên. Hoàng Dung và Lý Mạc Thu chồm tới toan cứu hai cô gái. Bỗng thấy một chiếc bóng xám lăn tới ôm lấy Quách Phù rồi lăn về lề đường, toan trở mình đứng dậy. Công Tôn Chỉ chưa kịp rút đao ra, liền giáng một chưởng xuống đầu người ấy. Người áo xám đang nằm dưới đất trở bàn tay lên đỡ, một tiếng "ầm" vang dội, bụi đất bay mù mịt. Công Tôn Chỉ kêu lên:
- Hay! Khá lắm!
Kế đỏ ông ta bèn vận sức đẩy mạnh một chưởng thứ hai vô cùng ác liệt. Người áo xám đang lâm nguy, chưa kịp trở tay thì lẹ như chớp, cây côn đánh chó của Hoàng Dung vút đến đón đỡ ngón đòn ác nghiệt kia. Công Tôn Chỉ thấy bốn bề đều bị địch vây đánh, tự biết khó thắng được, ha hả cười dài, lùi lại mấy bước, quay mình tháo chạy. Người ẵm Quách Phù đứng phắt dậy? Vội buông nàng ra. Hoàng Dung thấy lưng y đeo một cánh cung lớn, thân cao vai rộng, chính là người thiếu niên sử kiếm lúc nẫy. Mười một mũi tên cũng do y bắn ra.
Quách Phù tuy bị Công Tôn Chỉ kiềm chế, nhưng không bị thương, nàng nói:
- Tưởng ai, té ra lại là Gia luật đại ca, cảm ơn anh đã cứu mạng em.
Nói rồi nét mặt đỏ bừng, bẽn lẽn. Bây giờ Võ Tu Văn mới cùng một thiếu nữ khác đuổi tới, chỉ còn Võ Đôn Nho ở lại săn sóc cho cha. Đúng ra Võ Tu Văn phải đứng ra giới thiệu hai bên. Nhưng lòng đầy oán hận, chàng long đôi mắt giận dữ nhìn Lý mạc Thu, quên cả mọi việc bên mình. Hoàng Dung gọi liền hai tiếng mà chàng đứng đó như không hay biết gì cả.
Quách Phù trỏ người thiếu niên cứu nàng khi nãy, nói với Hoàng Dung:
- Thưa má, đây là Gia Luật Tề đại ca.
Rồi nàng chỉ cô gái mới đến:
- Còn đây là chị Gia Luật Yên, em của Tề đại ca.
Hoàng Dung buột miệng khen:
- Công phu hai cháu giỏi quá!
Anh em Gia Luật bước vội đến làm lễ:
- Dạ, không dám!
Lý Mạc Thu thì đứng ngoài xa, đưa mắt thong thả ngắm nhìn phong cảnh núi rừng, chẳng cần để ý đến việc của ai.
Hoàng Dung nói:
- Xem võ công cả hai cháu đều thuộc phái Toàn Chân, nhưng chẳng biết hai cháu là học trò của ai trong Toàn Chân thất tử?
Hoàng Dung thấy võ công của Gia Luật Tề khá xuất sắc, trong lớp thiếu niên như Tề, ngoài Dương Qua ra, có thể không còn ai nữa. Như vậy Gia Luật Tề chắc không phải thuộc hạng đệ tử đời thứ tư của phái Toàn Chân.
Gia Luật Yên nói:
- Cháu được anh cháu chỉ lại.
Hoàng Dung khẽ gật đầu, đưa mắt nhìn Gia Luật Tề như dò hỏi. Chàng ngập ngừng, nói:
- Trưởng bối có lòng hỏi đến, cháu chẳng dám chối từ, nhưng.. ngặt vì sư phụ cháu đã dạy là không được tiết lộ tên người cho ai biết, nên cháu xin Quách phu nhân miễn trách!
Hoàng Dung lấy làm ngạc nhiên nghĩ:
- Toàn chân thất tử thật rắc rối. Bày vẽ ra cái luật cổ quái này làm gì? Trông Gia Luật Tề khôi ngô tuấn tú, tài nghệ rất khá, sao lại không cho nói ra?
Hoàng Dung suy nghĩ một chút. Bỗng nghĩ đến một cái gì quá khôi hài, nín cười không được, bà cất tiếng ha hả cười ròn rã...
Quách Phù thấy mẹ như thế, lấy làm lạ lùng:
- Mẹ! Việc gì mà cười quá vậy?
Hoàng Dung vẫn cười, không nói. Gia Luật Tề cũng cười nói:
- Té ra trưởng bối đã nghĩ ra rồi?
Quách Phù cảm thấy mơ hồ, quay lại nhìn Gia Luật Yên, thấy nàng cũng đang ngơ ngẩn, chẳng biết hai người đang cười nói gì. Bây giờ Võ Tu Văn bước đến bên đường đỡ Hoàng Nhan Bình lên, băng lại vết thương cho nàng vì đã bị Công Tôn Chi bắt lấy, nên vết thương lại tuột trở xuống. Hoàng Dung nói:
- Tu Văn vết thương của ba con ra sao?
Võ Tu Văn chưa kịp trả lời. Gia Luật Yên đã kêu lên một tiếng "ớ" rồi cất bước chạy về chỗ Võ Tam Thông đang nằm. Võ Tu Văn nói:
- Ba con bị sa bẫy của Công Tôn Chỉ, bị thương bên đùi.
Hoàng Dung khẽ gật đầu. Bà thấy Võ Tu Văn chẳng buồn nói chuyện với Quách Phù, mà chỉ chú ý lo chăm sóc từng ly từng tí cho Hoàng Nhan Bình thì bà chẳng hiểu gì cả. Hoàng Dung nghĩ:
- Không biết hắn cố ý làm thế để cho con Quách Phù tức khí, hay đã có tình ý với cô bé này rồi. Chuyện yêu đương của bọn trẻ thật là rắc rối!
Võ Tam Thông đang ngồi dưới đất thấy Hoàng Dung bước đến gần, vội kêu lên:
- Quách phu nhân!
Rồi chàng toan đứng lên, nhưng vết thương trên đùi khá nặng làm chàng chệnh choạng suýt ngã. Gia Luật Yên và Võ Đôn Nho liền ra tay đỡ lấy, bàn tay hai người vô tình chạm nhau. Cả hai đều nhìn nhau mỉm cười.
Hoàng Dung thấy vậy cũng cười thầm trong bụng. May quá, lại thêm một cặp nữa! Mấy hôm trước, cả hai anh em vì Phù nhi đã thí mạng nhau, chẳng nghĩ đến tình anh em gì cả. Bây giờ gặp cô gái khác, lại quên hẳn việc trước rồi? Tuổi trẻ thật là bồng bột. Hoàng Dung liền nghĩ đến Quách Tỉnh, bà cảm thấy tự hào sung sướng. Hạng thiếu niên bây giờ chẳng có ai có mức chung tình như chồng bà. Kế đó, lại liên tưởng đến Dương Qua, tuy tình của chàng đối với Tiểu Long Nữ chẳng phải chỗ, song trước sau một lòng chung thủy, cũng thật đáng cho người đời kính phục.
Anh em họ Võ đã sống cùng Quách Phù từ thuở bé trên đảo Đào hoa. Vì ba trẻ cùng nhau vui đùa tung tăng nhảy nhót những lúc chiều về, hoặc cùng nhau học tập, cho nên tình quyến luyến Quách Phù tự nhiên đã nẩy mầm trong lòng Võ Đôn Nho và Võ Tu Văn. Lớn lên hai chàng càng yêu mến Quách phù. Về sau bỗng nhiên nghe Quách Phù yêu thương kẻ khác, không tình ý gì với mình, cả hai cứ ngỡ đời từ đây không còn gì đáng quyến luyến nữa. Nhưng trong lúc thất vọng, không ngờ chẳng bao lâu Nho, Văn lại gặp được hai nàng con gái diễm kiều chẳng thua sút Quách Phù đó là Gia Luật Yên và Hoàng Nhan Bình. Đứng trước người yêu, Võ Tu Văn và Võ Đôn Nho lại gặp mặt Quách phù. Hai chàng nẩy ý so sánh người yêu của mình với nàng. Võ Tu Văn nghĩ:
- Hoàng Nhan cô nương yểu điệu đáng thương, lại thùy mị dịu dàng, có đâu giống cô ấy, chuyên bắt nạt mình.
Còn Võ Đôn Nho cũng nghĩ:
- Gia Luật cô nương tính tình hòa nhã, đâu có giống cô ấy chuyên vòi vĩnh và chỉ biết hờn dỗi.
Võ Đôn Nho và Võ Tu Văn đã thề quyết không gặp Quách Phù nữa. Nhưng bây giờ cả hai cùng giáp mặt nàng, thấy khó tránh mặt nhau, họ tự bào chữa, nghĩ rằng:
- Hôm nay không phải mình có ý gặp nàng, như vậy đâu phải chúng ta đã phá lời thề.
Về phần Quách Phù thì đang hồi tưởng lại những cử chỉ hào hiệp lúc nãy của Gia Luật Tề. Nàng liếc mắt trộm nhìn, thấy chàng rất đẹp trai, tự lấy làm lạ:
- Không ngờ năm ngoái cùng chàng sơ ngộ, rồi mình liền quên ngay, chẳng dè ngày nay võ công lại xuất sắc thế.
Quách Phù thấy Hoàng Dung nhìn mình cười thì không biết bà cười gì, nàng chẳng dám nhìn vào mắt mẹ nữa.
Sau khi làm lễ chào nhau. Hoàng Dung thấy Võ Tam Thông chỉ bị ngoại thương thôi, tuy ra máu nhưng không có gì đáng ngại, ai nấy đều phủi cát ngồi trên mấy tảng đá to, chuyện trò thân mật. Sau một lúc hàn huyên, té ra bây giờ mọi người mới biết: Ngày ấy Chủ Tử Liễu theo sư thúc là Thiên Trúc thần tăng tới Tuyệt tình cốc cầu xin Linh đơn. Võ Tam Thông nghĩ ơn Dương Qua đã xả thân cứu lấy cha con mình. Bây giờ chàng bị nạn, mình phải làm gì để báo đáp mới được. Tuy chính mình còn ngộ độc chưa khỏi song cũng chả nghĩ tới, bèn lén đuổi theo Chu Tử Liễu. Võ Tam Thông vừa ra khỏi thành Tương Dương, lại thấy hai con mình là Võ Tu Văn và Võ Đôn Nho cũng cùng nhau ra thành. ông sợ chúng lại rủ nhau quyết đấu, nhưng sau khi hỏi rõ, té ra vì hai chàng đã thề với Dương Qua là không bao giờ gặp mặt Quách Phù nữa do đó không muốn ở lại trong thành chần chừ vô ích. Ba cha con rủ nhau đi Tuyệt tình cốc.
Tuyệt tình cốc quả đáng là một "Thế ngoại đào nguyên". Tuy đã được Dương Qua chi dẫn rành rẽ từng chút rồi nhưng ba người phải loanh quanh tìm kiếm mãi, nhọc nhằn vất vả lắm mới đến được khẩu cốc. Ngờ đâu Thiên Trúc thần tăng cùng Chu Tử Liễu đều bị Cừu Thiên Xích bắt mất. Ba cha con bao phen cứu viện chẳng được bèn rời khỏi cốc, tức tốc chạy về thành Tương Dương cứu viện, song đến nửa đường lại gặp Công Tôn Chỉ chủ nhân Tuyệt tình cốc chận đánh, bảo sao họ dám tự tiện xông vào cốc của y. Hai bên mới giáp chiến được vài hiệp thì Võ Tam Thông đã bị thương bên đùi. Công Tôn Chỉ cũng không muốn hại tính mạng họ, chỉ cốt cảnh cáo thôi, liền hối thúc họ đi khỏi cho mau, không bao giờ được trở lại nữa. Cũng trong lúc ấy, anh em họ Gia và Hoàng Nhan Bình cưỡi ngựa đi tới. Ba người này đều đã gặp anh em họ Võ một lần bèn xuống ngựa chào hỏi nhau. Công Tôn Chỉ đứng một bên nhìn họ nói chuyện. Sau khi thành thân với Tiểu Long Nữ không được, lại bị vợ đuổi đi, trong lòng buồn nản, giờ bỗng thấy cô gái mỹ miều là Hoàng Nhan Bình y lại nổi tà dâm, liền ra tay bắt lấy Hoàng Nhan Bình. Cả ba cha con họ Võ và anh em Gia Luật thấy vậy liền ùa đến tấn công tới tấp. Công Tôn Chỉ võ công cao cường. Giá Võ Tam Thông không bị thương thì sáu người mới đấu lại y. Tuy sáu người nhưng chỉ có một mình Gia Luật Tề có công lực khá thôi. Dần dần Hoàng Nhan Bình và anh em họ Võ cũng bị thương. Trong lúc ấy Hãn Huyết bảo mã từ Chung nam sơn tự mình chạy về. Võ Tu Văn đón đầu ngựa lại để Hoàng Nhan Bình cưỡi đào tẩu, chàng nghĩ Công Tôn Chỉ mất mục đích của mình sẽ bỏ cuộc mà đi. Nhưng không ngờ lúc ấy Hoàng Dung cùng Lý Mạc Thu cũng vừa đến.
Hoàng Dung nghe xong, bèn thuật lại việc Dương Qua bị mất cánh tay và đoạt con gái của mình đi cho Võ Tam Thông nghe, khiến lão cả kinh bèn giải thích tại sao ngày ấy Dương Qua lại tự xưng đã đính hôn với Quách Phù, và nói:
- Dương đệ một lòng vị tha, là bởi lòng tốt muốn cứu lấy hai thằng súc sinh của tôi, cốt tránh cho hai anh em nó phải cảnh tương tàn cốt nhục, chẳng ngờ lại sinh ra thảm họa này!
Võ Tam Thông vốn tính tình ngay thẳng, nghĩ đến Dương Qua sở dĩ phải mất một cánh tay là hoàn toàn đều do hai đứa con mình: ông càng nghĩ càng giận, bỗng nổi nóng lên, trỏ vào mặt Võ Tu Văn và Võ Đôn Nho chửi ầm lên.
Phần anh em họ Võ đứng ở một bên, đang cùng anh em Gia Luật Tề và Hoàng Nhan Bình chuyện trò vui vẻ. Một lát sau Quách Phù cũng tham gia vào. Sáu người tuổi tác cùng lứa hăng say bàn tán đến trận ác chiến vừa qua, ai nấy cũng phải công nhận sức lực kinh hồn của Công Tôn Chỉ. Nói đến lúc y kinh hoảng chuồn mất, mọi người hứng chí cười khúc khích. Bỗng bất thình lình nghe Võ Tam Thông gầm lên:
- Tu Văn, Đôn Nho, hai thằng súc sinh, anh Dương Qua đối đãi nhân nghĩa với bay như vậy mà bây còn hại người ta cụt mất một cánh tay thật đồ đáng chết!
Lão càng chửi càng giận, nếu không bị thương ở đùi thì ắt lão sẽ chồm đến đập cho chúng một trận đòn nên thân. Võ Tu Văn và Võ Đôn Nho ngần ngừ không biết tại sao cha mình bỗng nổi nóng la rầm lên thế. Hai chàng len lén nhìn Gia Luật Yên và Hoàng Nhan Bình một cái, chết điếng trong lòng. Trước mặt mỹ nhân mà cha mình cứ mắng "súc sinh, súc sinh" hoài thật là chột dạ, chẳng những thế nếu ông chưa đã giận mà nhắc lại việc hai anh em tranh Quách Phù thì nguy quá. Võ Đôn Nho và Võ Tu Văn nhìn nhau ngơ ngẩn tâm thần chẳng biết nói sao.
Hoàng Dung thấy cuộc diện trở nên căng thẳng nặng nề vội khuyên:
- Võ huynh bớt cơn nóng giận. Dương Qua mất một cánh tay, hoàn toàn do gia giáo của tiểu muội không nghiêm, để con gái hư hỏng. Bây giờ cha nó cũng rất giận, muốn chặt nó một cánh tay để bù lại.
Võ Tam Thông lớn tiếng nói:
- Vâng! cũng thế?
Quách Phù nhìn xéo ông một cái, lòng nghĩ:
- Chẳng cần ông nói!
Nàng định xỏ lại ông một câu, nhưng có mẹ đứng đó nên phải nín thinh.
Hoàng Dung nói:
- Võ huynh, bây giờ mọi việc đã rồi, trắng đen đã rõ, thật tôi vô cùng hối hận đã nghi oan cho thằng Dương Qua. Bây giờ chúng ta phải giải quyết gấp hai điều: Một là chúng ta phải tìm cho được Dương Qua để xin lỗi nó. Hai là trở lại Tuyệt tình cốc cứu giúp lịnh sư thúc và Châu đại ca, đồng thời xin thuốc giải độc cho Dương Qua. Nhưng giờ chẳng biết Châu đại ca bị giam ở đâu? Tánh mạng có sao không?
Võ Tam Thông nói:
- Sư thúc và sư đệ của tôi đều bị "trận lưới cá" của chúng bắt mất. Nhốt trong thạch thất, bà lão ăn mày đó cũng không có ý hại họ đâu.
Hoàng Dung gật đầu nói:
- Vâng, nếu thế thì chúng ta hãy đi tìm Dương Qua trước, như thế nhất cử nhất lưỡng tiện, nó có võ công cao cường, chúng ta cùng rủ nhau đến Tuyệt tình cốc đánh giải vây cho lệnh sư thúc và Châu đại ca, sau đó xin thuốc giải độc cho Dương Qua uống liền tại chỗ, khỏi lôi thôi nguy đến tính mạng nó.
Võ Tam Thông vỗ tay tán đồng ý kiến:
- Bà nói rất phải, nhưng không biết hiện giờ Dương Qua ở đâu?
Hoàng Dung trỏ Hãn Huyết bảo mã nói:
- Ngay này Dương Qua mới cưỡi đi không bao lâu vậy để cho nó dẫn đường ắt sẽ tìm được.
Võ Tam Thông mừng rỡ:
- Phải rồi! Phải rồi Quách phu nhân sáng trí quá! Giá không có bà thì lão Võ này chẳng làm nên trò trống gì.
Hoàng Dung se sẽ mỉm cười, bà chưa nhắc tới việc đi tìm Quách Tường mà đã thu phục được Võ Tam Thông, bà nghĩ:
- Cha con họ Võ đi, thì dĩ nhiên bọn trẻ cũng tháp tùng được thêm mấy tay giúp đỡ, há chẳng vô ích sao?
Hoàng Dung quay về phía Gia Luật Tề nói:
- Cậu Gia Luật nếu chẳng có việc gì gấp cùng đi với chúng tôi một thể, có được không?
Gia Luật Tề chưa kịp đáp, Gia Luật Yên đã hí hửng nói:
- Vâng! Anh! Hai chúng ta cùng đi nào!
Gia Luật Tề liếc nhìn Quách Phù, thấy nàng có ý khuyến khích, bèn khẽ cúi người:
- Xin vâng lời dạy của Quách phu nhân và Võ tiền bối!
Hoàng Dung hướng về Võ Tam Thông:
- Chúng ta tuy không bao nhiêu người nhưng ít ra cũng phải có người đứng đầu pháp lệnh. Võ huynh, chúng tôi tuân lệnh anh.
Võ Tam Thông vội khoát tay lia lịa:
- Không dám! Không dám! Xin Quách phu nhân điều khiển, lão bất tài, kém trí lắm!
Hoàng Dung cười nói:
- Thật không?
Võ Tam Thông nói:
- Đúng.
Hoàng Dung nhìn mọi người:
- Lũ trẻ này thì không sao, nhưng chỉ sợ lão chẳng chịu tuân lệnh thôi.
Võ Tam Thông nói to lên:
- Xin cam đoan bà bảo gì tôi cũng thi hành tức khắc, không chậm trễ một bước, dầu nhảy vào vạc dầu sôi cũng không từ nan.
Hoàng Dung nói:
- Hay lắm! Nghĩa khí đó!
Rồi bà tiếp:
- Lần này chúng ta cùng đi tìm Dương Qua, xin thuốc, cứu người vậy phải chung lưng đấu cật, mọi ân oán tạm gác qua một bên. Võ huynh, cha con anh không được thanh toán nợ máu với Lý Mạc Thu khi mà công việc của chúng ta chưa xong. Lúc mọi việc xong xuôi thì có thể tính nợ cũng vừa.
Võ Tam Thông ngẩn ngơ, lão không ngờ Hoàng Dung lại cao tay đến thế. Té ra khi nẫy bà nói thách mà mình không biết dụng ý. Lý Mạc Thu là kẻ giết vợ mình dễ gì lão bỏ qua, trong lúc còn đang tần ngần thì nghe Hoàng Dung nói nhỏ:
- Võ huynh, bây giờ đùi anh bị thương, việc báo thù đâu phải nhất thời, hãy thận trọng chứ!
Võ Tam Thông lại phục Hoàng Dung lần nữa nói:
- Vâng! Bà dạy rất phải! Tôi sẽ y lời làm theo.
Hoàng Dung bèn cất tiếng thật to gọi Lý Mạc Thu:
- Chị Lý ơi! Chúng ta cùng đi nào!
Bà để con Hãn Huyết đi trước dẫn đường, quả nhiên nó đi về hướng Chung nam sơn, mọi người cất bước theo sau. Vì Võ Tam Thông và Hoàng Nhan Bình bị thương nên mỗi ngày chỉ đi được hơn mười dặm thì phải dừng lại nghỉ ngơi.
-
Chương 74 - Năm Cỗ Quan Tài - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 74 - Năm Cỗ Quan Tài
Đoàn người cứ ngày đi đêm nghỉ. Một ngày kia đã tới Chung nam sơn, Hoàng Dung, Võ Tam Thông hướng dẫn mọi người vào Trùng Dương cung, viếng thăm mấy trưởng phái cùng tất cả đồ đệ của Toàn Chân. Lý Mạc Thu đứng ngoài xa nói:
- Tôi đứng đây được rồi.
Hoàng Dung biết bà ta có thù với Toàn Chân giáo, nên cũng chẳng ép buộc. Bọn Khưu Xứ Cơ được báo, vội ra ngoài cung nghinh đón, rước vào
nội điện. Mọi người vừa chuyện trò được mấy câu, thì nghe có tiếng quát tháo ở sau điện. Hoàng Dung lắng tai nghe kỹ, mừng rỡ nói:
- Lão Ngoan Đồng, có biết ai đến đây không?
Mấy ngày nay, Châu Bá Thông mải bận nghiên cứu cách sai khiến Ngọc Phong, lão vốn thông minh và kiên trì, dù thất bại cũng chẳng nản lòng, nên đã thu được chút ít kết quả, hôm nay đang đùa với bầy ong đến mức hứng thú. Bỗng nghe có tiếng gọi mình, nghe ra lại là giọng của Hoàng Dung. Lão cười ha hả bước vào:
- A ha? Tưởng ai, té ra bà vợ quý báu của thằng em trai tôi già lắm!
Gia Luật Tề bước tới làm lễ, nói:
- Sư phụ, đệ tử khấu đầu, kính chúc sư phụ "vạn phúc kim lan".
Châu Bá Thông vui vẻ:
- Miễn lễ bình thân! Tao cũng chúc "tiểu Tề" được "kim ơn vạn phúc".
Ai nấy nghe thấy đều lấy làm lạ, không ngờ Gia Luật Tề lại là học trò của Châu Bá Thông. Bọn Khưu Xứ Cơ thấy sư thúc đã có người nối dõi tông môn, đều cao hứng, lần lượt lại chúc mừng lão. Quách Phù bấy giờ mới tỉnh ngộ, té ra ngày ấy mẹ mình cùng Gia Luật Tê cứ nhìn nhau cười
dài chính vì bà đã đoán biết sư phụ của y là Lão Ngoan Đồng. Quang cảnh nội điện đang lúc ồn ào náo nhiệt bỗng nhiên dưới núi có tiếng còi "te, te" vang lên, đệ tử vào phi báo có địch quân rầm rộ kéo đến tấn công. Khưu Xứ Cơ biến sắc, biết là vì Toàn Chân giáo đã cự tuyệt sắc phong của vua Mông Cổ, lại còn giết mất nhiều người, nên quân Mông Cổ tức giận mang đại đội quân mã đến trả thù.
Ngày ấy, sau khi bọn Kim Luân Pháp Vương đi mọi người biết việc này còn nhiều rắc rối. Tuy Toàn Chân giáo ai cũng là kẻ võ dũng, song không đối địch với đại quân Mông Cổ, nên đã sắp sẵn kế hoạch rút lui về phía Tây. Khưu Xứ Cơ quay qua Hoàng Dung nói:
- Quách phu nhân tha lỗi! Vì hoàn cảnh bất tiện, khiến bần đạo không thể nào làm tròn bổn phận...
Hoàng Dung cười, ngắt ngang:
- ồ! Không sao, xin lão đừng bận tâm.
Tiếng ngựa hí, tiếng quân reo từ dưới núi vọng lên càng lúc càng to, tiếng trống trận "thùng, thùng" vang rền như tiếng sét. Té ra bọn Hoàng Dung từ phía Nam lên núi, còn quân Mông Cổ thì từ phía Bắc xông vào, nên chỉ trước sau có nửa giờ.
Châu Bá Thông cười khoái trá:
- Quân địch tới rồi! ấy thật sướng vô cùng. Nào! Chúng ta xuống núi quét bọn chúng một mẻ cho đỡ ngứa tay.
Rồi lão vỗ vai Gia Luật Tề cười hà hà:
- Tề nhi! Con hãy trổ mớ tài nghệ của thầy dạy cho mấy thằng sư huynh lác mắt chơi.
Khưu Xứ Cơ vội ngăn:
- Sư thúc, môn phái mình đã hao tốn mười mấy năm mới gây dựng nên. Tâm huyết của tiên sư không thể vì một phút hứng thú mà vứt đi được. Thôi hôm nay chúng ta tạm rút lui một cách êm thấm, như thế thì thượng sách hơn.
Nói xong bèn truyền lệnh:
- Ai nấy mang theo vật dụng, theo thứ tự lần lượt theo đường lối đã định sẵn rút dần xuống núi.
Chúng đệ tử "vâng" một tiếng, lo mang bao bị, chia thành từng đội ngũ lũ lượt kéo nhau xuống núi.
Mấy hôm trước, khi Châu Bá Thông còn ngồi bên chiếc chuông đùa với bầy Ngọc Phong thì Toàn Chân ngũ tử đã xếp đặt xong xuôi mọi việc, người nào cản hậu, kẻ nào xung phong, tụ họp tại đâu, liên lạc ra sao, đều đã tập dượt mấy lần. Do đó đến khi có biến ai nấy lo việc mình, thứ tự qui củ không hỗn loạn chút nào.
Hoàng Dung nói:
- Khưu đạo trưởng, quý phái an bài rất qui củ đủ thấy ngài ngoài có đại tài, bây giờ có chút trở ngại chẳng lấy gì làm lo lắm. Ngày sau mưu đồ việc lớn ắt sẽ hưng vượng hơn. Bây giờ chúng tôi có việc tìm gặp Dương Qua, xin tạm biệt vậy.
Khưu Xứ Cơ hơi tần ngần nói:
- Dương Qua? Biết y còn ở trong vùng này không?
Hoàng Dung mỉm cười:
- Có một người cùng đi, biết chỗ ở của y.
Đến đây tiếng hò reo của quân địch dưới núi vọng tới càng lúc càng gần.
Hoàng Dung tự nghĩ:
- Mục đích của mình lên đây để tìm Dương Qua, đón con gái, vậy đừng để lỡ việc.
Bà bèn bảo những người cùng đi, hãy nhanh chân chạy tới chỗ kín đáo hẻo lánh ở sau cùng Trùng Dương cung ẩn nấp, rồi quay sang Lý Mạc Thu:
- Chị Lý, xin phiền chị dẫn vào mộ.
Lý Mạc Thu hỏi:
- Có chắc Dương Qua ở trong Cổ Mộ không?
Hoàng Dung mỉm cười nói:
- Nếu không có Dương Qua trong mộ, thì có Ngọc nữ tâm kinh mà.
Lý Mạc Thu trong lòng khiêp phục, nghĩ thầm:
- Quách phu nhân là nhân vật lợi hại, sao bà ta lại có thể soi thấu tâm can mình?
Lý Mạc Thu theo mọi người từ Tương Dương thẳng đến Chung nam, ngoài Hoàng Dung ra chẳng ai ngó ngàng hay hỏi bà lấy một câu. Đã thế cha con họ Võ cứ hậm hực những muốn động thủ để tiêu diệt kẻ thù trước mắt, như thế dù có thương yêu Tường nhi đến mức nào, bà cũng không dại gì mạo hiểm. Hoàng Dung suy đi nghĩ lại một hồi lâu, liền nhớ lại việc Dương Qua và Tiểu Long Nữ đã có lần sử dụng kiếm pháp trong "Ngọc nữ tâm kinh" đánh bại Kim Luân Pháp Vương. Còn khi bà giao chiến với Lý Mạc Thu đến lúc nguy khốn mà chẳng thấy họ Lý sử dụng kiếm pháp đó. Cộng cả hai điều suy nghĩ thì Hoàng Dung đã đoán được lòng dạ Lý Mạc Thu.
Lý Mạc Thu nghĩ bà ta đã biết ẩn ý của mình rồi, chẳng cần phải giấu giếm nữa, bèn nói:
- Tôi giúp bà đoạt con gái về, thì bà phải giúp tôi lấy lại "Ngọc nữ tâm kinh" đó là việc thường. Bà là bang chủ Cái bang, danh vang lừng lẫy một lời đã nói ra thì không được nuốt lại nhé!
Hoàng Dung nói:
- Dương Qua là người bạn năm xưa của chúng tôi, vì có sự hiểu lầm với con gái tôi, thấy mặt sẽ hòa lại ngay. Nếu Tường nhi có trong tay y thì y sẽ giao trả lại, chuyện chi phải "đoạt".
Lý Mạc Thu trầm ngâm nói:
- Nếu vậy chúng ta ai đi đường nấy!
Nói rồi quay lưng toan đi. Hoàng Dung nháy mắt ra hiệu cho Võ Tu Văn, chỉ nghe một tiếng "soạt", Võ Tu Văn đã rút phăng trường kiếm ra, quát to:
- Lý Mạc Thu, mi đừng hòng toàn mạng mà thoát khỏi chỗ này.
Lý Mạc Thu dừng lại suy nghĩ:
- Chỉ một mình Hoàng Dung, mình đã đánh không lại. Nay cộng thêm ba cha con họ Võ và anh em Gia Luật, thì đâu còn hy vọng gì chạy thoát.
Lý Mạc Thu vốn là một kẻ lắm gian mưu, nhưng gặp phải Hoàng Dung một kẻ quá tinh khôn nên đành thúc thủ chịu trận, những xảo trá chẳng kịp giở ra. Bà không rút phất trần ra, chỉ điềm đạm đáp:
- Quách phu nhân đã biết Dương Qua ở trong khu núi này, thì còn ngại gì tìm chả được, cần tôi làm gì?
Hoàng Dung biết Lý Mạc Thu tìm cách làm cao, nên nói:
- Lối vào Cổ Mộ thì tôi chả rõ mấy. Nhưng theo tôi nghĩ Dương Qua và Tiểu Long Nữ tuy ẩn cư trong mộ, song ít ra cũng phải ra ngoài mua kiếm củi. Chúng tôi bảy tám người chia ra chờ đợi ắt có ngày sẽ gặp thấy y.
Những lời của Hoàng Dung có ý muốn nói, nếu Lý Mạc Thu không chịu dẫn đường thì họ sẽ giết bà ngay, bất quá họ chỉ trễ vài ngày thôi, cũng không sao cả. Lý Mạc Thu nhận thấy tình hình rất nguy, trên đất này một mình làm sao chống cự lại một bọn cao thủ khá đông, thôi! chi bằng dẫn họ vào Thạch thất, tiện đường sá hẹp, họ không thể cùng lúc tấn công, hơn nữa mình được lợi địa thế, thông thuộc đường lối. Như vậy thanh toán từng người một có dễ hơn.
Nghĩ xong liền nói:
- Hôm nay các người ỷ chúng hiếp cô, tôi không biết nói gì hơn. Tôi cũng cần gặp Dương Qua nói vài lời, vậy các người hãy theo tôi!
Lý Mạc Thu nói rồi bèn rẽ rừng vạch cỏ tiến bước, bọn Hoàng Dung liền theo sát gót e bà ta nửa đường tẩu thoát. Lý Mạc Thu quanh qua quẹo lại trong sơn thạch, cây rậm, nhiều nơi vốn không có đường, nhưng bà quẹo qua, lách lại thì có lối đi. Rảo bước một hồi lâu, mọi người đi đến bên một khe nước, bà ta dừng lại nói:
- Cửa chính Cổ Mộ đã đóng rồi, nếu muốn mở ra phải tốn rất nhiều thì giờ và công phu. Còn cửa sau thì lặn vào khe suối này, ai sẽ cùng đi với tôi?
Quách Phù và anh em họ Võ từ nhỏ đã sống và lớn lên trên đảo Đào Hoa. Mỗi mùa hè đến, ngày nào cũng nô đùa trong lớp sóng bạc đầu của biển cả, do đó họ đều bơi lội như rái. Ba người đồng thanh nói:
- Tôi đi!
Võ Tam Thông cũng biết lội, tuy không được giỏi song cũng chẳng ngán gì dòng khe nhỏ này. Lão nói:
- Tôi cũng đi!
Hoàng Dung thầm nghĩ:
- Lý Mạc Thu là người hiểm độc, nếu ở trong Cổ Mộ có thêm những tên độc thủ nữa, thì bọn Võ Tam Thông không chống lại nổi nếu mình không theo bước để giúp sức. Nhưng mình vừa sinh dậy mới đầy tháng, mà lặn nước trong khe nầy sợ hại đến cơ thể.
Hoàng Dung đang lưỡng lự, Gia Luật Tề nói:
- Xin Quách bá mẫu đứng ở đây canh chừng, để cháu cùng Võ bá phụ đi được rồi.
Hoàng Dung hỏi:
- Cậu có biết bơi không?
Gia Luật Tề nói:
- Dạ bơi không thạo mấy, nhưng đi dưới nước thì miễn cưỡng được.
Hoàng Dung e ngại hỏi:
- Có phải cậu đã từng luyện công dưới tầng băng tuyết không?
Gia Luật Tề đáp:
- Dạ phải.
Bà hỏi tiếp:
- Luyện ở nơi nào?
- Dạ lúc nhỏ cháu theo cha cháu, sống bên vùng giá tuyết Cán Nam được mấy năm.
Hoàng Dung hỏi:
- Vậy cậu xưng hô với Gia Luật Sở Tài tiên sinh bằng gì?
- Dạ người ấy là gia phụ của cháu.
Hoàng Dung thấy mấy người toan lội xuống nước nên không hỏi thêm nữa, liền bước tới bên Võ Tam Thông dặn dò:
- Lòng người rất sâu hiểm, khó dò, phải cẩn thận nhé!
Đối với con gái, bà không căn dặn gì, vì biết con gái bà tính nông nổi, có dặn dò cũng vô ích nên để cho nàng gặp thêm vài lần cay đắng nữa, cho biết ăn năn.
Hai cô gái Gia Luật Yên và Hoàng Nhan Bình không biết lội, nên ở lại trên bờ với Hoàng Dung.
Lý Mạc Thu đi trước dẫn đường, cứ lặn vào khe nước tiến tới, Gia Luật Tề tung mình một cái, nhẹ nhàng như một con cá lội sát theo Lý Mạc Thu. Té ra xứ Mông Cổ là nơi giá buốt, như ở sông Cán Nam trong một năm đã có hai trăm ngày bị băng tuyết phong tỏa. Thành thử võ sĩ Mông Cổ đều có thể phách mạch mẽ hơn người xứ khác.
Hoàng Dung thấy tài bắn tên của Gia Luật Tề rất xuất sắc, lại nghe hắn lặn hay hơn bơi lội, nên đoán biết chắc có liên can với người Mông Cổ Lòng bà thầm nhớ lại:
- à! Gia Luật Sở Tài là thừa tướng của Mông Cổ năm xưa Thành Cát Tư Hãn rất tin cậy lão. Nhưng trong chiến dịch chinh Tây mình có gặp Gia Luật Sở Tài mấy lần, quả thật lão rất nhiều mưu lược về chiến trận. Còn lúc này Mông Cổ nam tiến xâm chiếm đất Tống. Thế này Mông Cổ và người Tống đã thành kẻ thù nhau rồi? Nhưng sao Gia Luật Tề lại giúp Cho người Tống?
Bọn Gia Luật Tề theo Lý Mạc Thu lặn trong lòng khe, ai nấy đều cẩn thận tiến tới. Cuối cùng họ tới lối vào Cổ Mộ. Lý Mạc Thu gỡ nham thạch ra, chui mình vào, ai nấy đều tiến sát theo. Bấy giờ lối đi tuy không có nước, nhưng vẫn tối tăm, nên ai nấy tay nắm tay để khỏi lạc nhau. Cùng nhau quanh quanh, quẹo quẹo mà tiến đi nhưng không nhận được phương hướng. Đi được một hồi lâu địa thế cao dần, đất dưới chân cũng thấy dần dần khô ráo. Bỗng nghe "soàn soạt" mấy tiếng vang lên, Lý Mạc Thu đẩy cánh cửa đá ra. Mọi người bén gót theo vào. Chỉ nghe Lý Mạc Thu nói:
- Đây là trung tâm của Cổ Mộ, chúng ta nghỉ sức chốc lát rồi đi tìm Dương Qua.
Vào Cổ Mộ, Võ Tam Thông và Gia Luật Tề không dám rời Lý Mạc Thu nửa bước. Vì họ sợ bà ta gài bẫy, song trong Cổ Mộ chỉ một màu đen như mực, phải dùng tai thay mắt, nên họ phải giữ im lặng để nghe ngóng. Quách Phù và anh em họ Võ xưa nay vẫn tự phụ là gan dạ, nhưng bây giờ trong lòng đất, thì mắt họ như người mù, nên bất giác ớn sợ. Trong màn đen tối thâm u, ai nấy đều không dám thở mạnh. Bỗng nhiên Lý Mạc Thu nói:
- Trong đôi tay ta đều có một nắm "Băng phách ngân châm", ba thằng họ Võ đâu? Hãy ra đây để nếm thử mùi vị nào!
Võ Tam Thông và mấy người đều giật mình kinh hãi tuy sớm biết bà ta điêu ngoa, nhưng không ngờ quanh cảnh quái lạ thế nầy. Cha con họ Võ đều nếm qua mùi "độc châm" của bà ta, nên không dám sơ ý nữa, ai nấy cũng giơ cao binh khí, đợi có tiếng xé gió của "ngân châm" sẽ tránh đỡ ngay. Gia Luật Tề thấy tình thế quá nguy, liền tính kế:
Nếu mình đứng yên để bà ta ném ám khí, thì trong số năm người mình ắt có tử thương, chỉ còn cách phải mạo hiểm tiến sát đánh xáp lá cà, làm cho bà ta hết đường ném ám khí, như vậy may ra có thể bảo đảm tính mạng.
Nào ngờ Quách Phù lúc ấy cũng nghĩ trùng kế với Gia Luật Tề. Gia Luật Tề và Quách Phù không hẹn nhau mà cùng nhảy chồm tới chỗ tiếng nói của Lý Mạc Thu. Sự thật câu nói vừa dứt, mọi người đều lo phòng bị, thì Lý Mạc Thu đã thừa dịp ấy, âm thầm lui vào bên ngạch cửa trong. Trong tức khắc, Gia Luật Tề và Quách Phù đã tung mình nhảy tới, đều dùng thủ pháp cận thân "Tiểu cầm nã", móc cườm tay, thộp vào cổ, để Lý Mạc Thu không phương ném được ám khí. Không ngờ bốn tay của hai người vừa giao nhau, thì Quách Phù liền kêu lên:
- "ý"! Võ công của Gia Luật Tề hơn hẳn tôi.
Đôi tay của Gia Luật Tề vừa kéo qua trở lại, đã chớp được hai cườm tay Quách Phù bất giác cảm thấy một làn da mịn màng. Kế đó tỏa lên mũi chàng mùi thơm dịu dàng. Bỗng nghe tiếng Quách Phù chàng giựt mình sực tỉnh. Liền nghe "sầm" một tiếng, cánh cửa đã bị đóng lại. Gia Luật Tề và bọn Võ Tam Thông đều kêu lên:
- Nguy rồi!
Gia Luật Tề vội nhảy tới bên cửa nghe tiếng gió "vèo vèo", hai mũi "ngân châm" bay vút tới. Chàng liền nghiêng mình né qua, đưa tay đẩy cánh cửa, thì đã đóng chặt rồi. Lấy tay rờ mãi thấy cánh cửa không có khoan, mà cũng chẳng có nơi kéo, chàng liền mò theo tường đi quanh phòng một vòng, đoán căn thạch thất này rộng chừng hai trượng vuông, bốn bên đều xây bằng những tảng đá to dày. Gia Luật Tề rút trường kiếm ra, dùng cán gõ vào cửa đá mấy cái thì thấy quá kiên cố. Quách Phù bối rối nói:
- Làm thế nào bây giờ? Chẳng lẽ chúng ta phải chịu chết ngộp trong này sao?
Gia Luật Tề nghe giọng nói nàng như muốn khóc, liền an ủi:
- Có Quách phu nhân ở ngoài tiếp ứng, bà rất túc kế đa mưu, chắc có phương cứu viện.
Chàng vừa nói, vừa rờ tứ phía để tìm lối ra. Lý Mạc Thu nhốt được bọn Tam Thông vào phòng đá rồi, lòng mừng rỡ thầm nghĩ:
- Giờ đây đã bớt mấy tay cường địch, mình lén vào đột kích thình lình, chỉ cần hạ sát Long sư muội là được, chứ còn Dương Qua đã mất một cánh tay thì khỏi sợ gì nữa.
Bà ta không biết Dương Qua tuy lúc nầy mất cánh tay, mà võ công lại hơn hẳn khi xưa. Đôi tay Lý Mạc Thu đều thủ một lố "Băng phách ngân châm", cố ý lẻn vào phòng Dương Qua và Tiểu Long Nữ, cố không gây một tiếng động nào, để dành bất thần mới hạ được Tiểu Long. Vì bà ta không dám giao đấu đường đột với Tiểu Long Nữ.
Mấy ngày nay, Tiểu Long Nữ chỉ ngồi trên giường Hàn ngọc theo phép "Nghịch thông kinh mạch" của Dương Qua đã dạy đánh từng cái một, cho thông hết ba mươi sáu huyệt lớn trên mình. Bây giờ hai người đang vận công lực trên toàn thân, dùng khí để xông huyệt "Đản trung" trên "Nhâm mạch" cua Tiểu Long Nữ. Đây là một huyệt lớn, trọng yếu vô cùng, hai người để cả tâm thần vào việc tập luyện ấy, không dám lơ đễnh một tí nào. Tiểu Long Nữ hiểu rõ, chỉ cần một luồng khí chạy qua huyệt "Đản trung", thì "Nhâm mạch" không bị trở ngại, trọng thương trên mình nàng mười phần sẽ bớt được tám phần. Nhưng vì thời gian chưa tới, dù muốn mau cũng không được. Tiểu Long Nữ vốn có tính kiên nhẫn, lại thấy ngày tháng trong Cổ Mộ còn dài, hôm nay chưa thông thì đợi mai, mốt... đâu có hại gì. Thế nên nàng vận lực đưa ra liên miên, không có vẻ lo lắng gấp rút.
Dương Qua lại là người nóng tính, nên chỉ mong Tiểu Long Nữ được sớm bình phục, mới yên lòng. Nhưng chàng vẫn biết làm việc này, nếu nóng lòng thì khó đạt được. Hơn nữa đây là phương pháp "Nghịch thông mạch" lại càng khó hơn nữa.
Trong cảnh im lặng ấy, bỗng nhiên nghe "tạch" một tiếng nho nhỏ từ xa vang lại. Qua một hồi sau lại nghe tiếp một tiếng "tạch" nữa, bây giờ tiếng động lại gần hơn. Dương Qua biết có việc xảy ra, vì trong Cổ Mộ này ngoài hơi của hai người và bé Quách Tường ra, nếu có tiếng động gì khác phát ra, thì phải có việc gì lạ xâm nhập đến. Nhưng chàng cứ giả vờ như không hay biết gì cả, để khỏi hại đến tâm thần của Tiểu Long Nữ. Không bao lâu, lại vang tiếp "tạch" một tiếng, cách xa chàng năm thước. Bấy giờ Dương Qua định chắc có người lạ xâm nhập vào Cổ Mộ. Lại "tạch" một tiếng nữa, người ấy tiến thêm một bước. Dương Qua lúc nầy khó giữ vững tinh thần, cảm thấy lòng bàn tay rung động, một luồng hơi nóng dội trở lại. Té ra Tiểu Long Nữ cũng nghe được tiếng động đó. Dương Qua vội đề khí đẩy luồng hơi nóng ấy trở về huyệt đạo Tiểu Long Nữ, và thầm thì vào tai nàng:
- Long Nhi! Em phải giữ tâm thần cho bình thản đến mức không nghe không thấy việc bên ngoài mới được.
Tiểu Long Nữ nghe chàng căn dặn cố giữ cho tâm thần yên ổn trở lại. Nhưng Dương Qua thì phân tán tinh thần, vừa lo cho vết thương nàng vừa đề phòng địch tấn công. Lúc ấy ngoài Cổ Mộ trời vừa đúng ngọ. Tuy vào mùa đông, mà ánh nắng vẫn gay gắt, nhưng trong Cổ Mộ lại tối mịt mù. Dương Qua nghe tiếng chân địch bước gần dần, lòng thầm nghĩ:
- Lối vào Cổ Mộ đã bít đi, nhưng trên đời này chỉ có Lý Mạc Thu và Hồng Lăng Ba mới biết lối sau từ dưới nước mà vào thôi. Như vậy người vào đây không ai ngoài thầy trò Lý Mạc Thu. Nhưng giờ đây mình vô phương chống đỡ rồi!
Kể về võ công của Dương Qua, dù cho hai thầy trò Lý Mạc Thu tới một lượt, cũng không thể đánh được chàng. Nhưng khổ thay họ đến đúng vào lúc Dương Qua và Tiểu long Nữ đang tĩnh tâm để chữa bệnh. Nếu gặp đến việc xáo động ắt phải nguy hại đến tánh mạng.
Kẻ địch càng chầm chậm tiến tới gần, thì Dương Qua càng thấy sốt ruột, bối rối cả tâm thần. Trán chàng đẫm mồ hôi, chàng thầm nghĩ:
- Hôm ấy Quách Phù chặt mất tay mình, dù đau đớn ê chề, nhưng lại không bằng sự đe dọa của kẻ thù xông đến lúc này!
Qua một hồi sau, Tiểu Long Nữ cũng nghe thấy tiếng chân bước của địch nhân. Nàng nhận định rõ không phải cảnh hư ảo tự trong lòng, mà chắc chắn đại nạn sắp đến. Nàng cố thêm sức để xông khí qua huyệt "Đản trung" . Nhưng trong lúc tâm thần hai người đều bấn loạn, hơi chạy
Hỗn loạn lúc xuôi lúc ngược, suýt làm cho thần kinh thác loạn...
Cũng trong lúc ấy, tiếng chân người đã tiến tới ngạch cửa phòng. Nghe "vèo vèo" mấy tiếng, bốn mũi "Băng phách ngân châm" bay thẳng tới giường Hàn ngọc! Lúc này Dương Qua và Tiểu Long Nữ đều khác gì người không biết võ. Nhưng may cho hai người đã có đề phòng trước, nên vừa thấy "ngân châm" bay tới liền nằm phục xuống thì bốn mũi độc châm đều bay xẹt qua mang tai. Nhãn lực của Lý Mạc Thu nhìn vật trong bóng tối không bì kịp với Dương Qua và Tiểu Long Nữ. Bà chỉ mơ hồ nhìn thấy hai người kề vai ngồi trên giường Hàn ngọc, liền cho một đòn mà không trúng đích, lại thấy đối phương không đứng dậy trả đòn lại càng kinh sợ hơn nữa. Bà cứ ngờ Tiểu Long Nữ dùng kế, liền bước tréo ra bên cửa, tay cầm phất trần, lạnh lùng nói:
- Hai ngươi vẫn mạnh chứ?
Dương Qua hỏi:
- Bà muốn gì?
Lý Mạc Thu nói:
- Ta muốn gì? Không lẽ ngươi chưa biết?
Dương Qua đáp:
- Bà muốn lấy "Ngọc nữ tâm kinh"? Thôi được, chúng tôi chỉ ẩn cư trong Cổ Mộ này, không còn tranh đua với ai ngoài đời, bà cứ lấy đi.
Lý Mạc Thu bán tín bán nghi:
- Đem ra đây!
Nhưng quyển "Ngọc nữ tâm kinh" để trong chiếc túi của Tiểu Long Nữ, mà lúc nầy không thể bỏ tay ra được. Dương Qua nói:
- Trong chiếc túi để dưới bàn đó, bà cứ tự tiện vào lấy!
Lý Mạc Thu lại càng nghi ngờ thêm:
- Sao hai đứa nầy hôm nay trở nên hiền hòa vậy? Chắc chiếc túi ấy chúng nó đã gài bẫy gì? Bà ta tự biết không thể địch nổi với Tiểu Long Nữ ở trong Cổ Mộ. Nhưng thấy Tiểu Long Nữ vẫn nhắm mắt như nhập định, mà không nói một lời nào, Lý Mạc Thu thầm nghĩ:
- Không lẽ con nhỏ này muốn dụ mình tới gần, rồi thình lình chận lối thoát?
Bà cố mở to đôi mắt, quan sát rất tỉ mỉ, thấy nét mặt của Tiểu Long Nữ hơi xanh, một tay đưa ra, đặt khít lên bàn tay của Dương Qua. Bà ta sực tỉnh ngộ:
- ồ! Dương Qua bị trọng thương một cánh tay rồi, còn con tiện tỳ này dùng nội lực bản thân để giúp cho Dương Qua mau bình phục. Bây giờ nội lực của con nầy đã đến mức khẩn yếu rồi, mình hạ phứt chúng cho xong, chứ ngày sau đâu có thể tìm được cơ hội ngàn vàng?
Bà ta nghĩ đến đây, liền tung mình nhảy tới, giơ phất trần lên giáng mạnh xuống đầu Tiểu Long Nữ.
Nếu Tiểu Long Nữ đưa tay lên gạt, thì làm chấn động cả nội tạng, sẽ bị ói máu ra chết! Còn nằm yên để phất trần giáng xuống thì xương đầu cũng nát bấy ra...
-
Chương 75 - Năm Chiếc Quan Tài Đá Trong Cổ Mộ Đài - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 75 - Năm Chiếc Quan Tài Đá Trong Cổ Mộ Đài
Tiểu long Nữ thấy ngọn kình phong ào tới, vụt qua đầu làm tung tóe mái tóc, nguy hiểm càng nhiều. Bỗng nàng nhìn lại thấy ngọn kình phong thứ hai từ ngọn phất trần đẩy tới mạnh như núi lở, giá băng, sắp đập vào trán.
Tiểu Long Nữ sợ toát mồ hôi, chỉ còn nước nhắm mắt chờ chết. Bên nầy Dương Qua hé miệng tuôn ra một luồng dịch khí nóng buốt, cản lại ngọn kình phong của Lý Mạc Thu và chàng tung ra một luồng chưởng thứ hai về phía Tiểu Long Nữ để giải huyệt. Hai luồng dịch khí vừa qua là do nội gia thâm truyền đi khi chàng dám đem ra sử dụng. Chẳng qua chàng thấy Tiểu long Nữ sắp táng mạng dưới ngọn kình phong nên mới mang ra cứu giúp.
Về phần Lý Mạc Thu nàng đã rõ Dương Qua là con người ngụy kế đa mưu, bỗng ngọn hỏa phong sắp tạt vào mặt nên Lý Mạc Thu vội lùi ra sau nửa trượng để tránh làn hỏa phong quái ác. Nàng muốn tung ra một độc chưởng trả lại nhưng kịp nghĩ lại tài sức mình có thể thảm bại, vì kẻ thủ hạ của Hoàng Dung, một hiệp nữ đâu đâu đều kính nể. Bởi vậy nàng chuyển từ thế công qua thế thủ rất kỳ dị và hét to:
- Ngươi muốn chết hay sao?
Dương Qua mỉm cười đáp:
- Lý nương tử, độ nọ nàng có mượn tôi chiếc áo hôm nay hãy trả lại cho tôi dùng.
Lời nói nầy làm Lý Mạc Thu rung lòng sực nghĩ đến việc đã qua: Một hôm vì tính ngạo mạn mà giao đấu với Phùng Mạc Phong tại Hắc Phong, xiêm y bị lửa hồng đốt cháy, và cây đại thiết chùy cũng nám đen. May nhờ Dương Qua cởi áo choàng cho mượn, dù nàng có dã tâm độc ác thế nào cũng khó xử sự. Cuối cùng câu chuyện đơn bằng tặng áo phải được báo đáp. Nếu hôm nay lỡ tổn thương đến tính mạng hai người thì ngày sau sẽ lãnh một đại họa khôn lường. Nàng bèn hoành thân, thâu lại các chưởng lực và dang ra xa. Về phần Dương Qua giữa lúc nguy cấp, tính gấp làm liều nào ngờ Lý Mạc Thu nhượng bộ, hai người ôn lại việc vừa qua trò chuyện, vui cười. Dương Qua nói:
- May mà đôi vai tôi không gãy, là nhờ trảo chủ của tôi mới cứu được cô nương! Tôi có nghe Lý Mạc Thu có môn "Ngũ độc thần chưởng" là một môn pháp vô cùng lợi hại.
Đoạn Dương Qua đứng dậy, dùng đôi chân hất lên theo lối song chưởng, làm cho đôi giầy chàng mang rớt ra chân. Chàng hét lên:
- Long Nhi! Trảo chủ của tôi đây.
Tay trái vung lên kêu một tiếng "bốp" cũng như lúc giao đấu với Lý mạc Thu vậy, chàng liền vận dụng dịch khí cường lực truyền qua cơ thể Tiểu long Nữ rất nhiều nội lực. Lý mạc Thu bèn đến làm thân và nói chuyện đủ điều. Dương Qua không trả lời gì cả.
Đồng thời, tại đây Tiểu long Nữ được truyền phép trảo chủ của Dương Qua, mọi căn cơ học thuật đều ghi chú vào quyển tâm kinh. Lý mạc Thu tuy học ở âu Dương Phong môn pháp "Ngũ độc thần chưởng" và làm nghịch, lén luyện Cửu âm chân kinh theo phương pháp nầy vẫn không đạt được kết quả như ý. Bỗng thấy Dương Qua thi triển các môn nội lực ngoại chưởng kỳ lạ thì lấy làm kinh dị kêu lên ấy là "Thôi động chưởng", nếu Dương Qua dùng thế này ắt chết mất. Tuy nàng đã thí nghiệm tại Lục gia trang dùng "Ngũ độc thần chưởng " để sát hại cả gia súc trâu, bò heo, chó của trang nầy chết sạch. Nhưng chưởng này chưa thần diệu cho lắm. Nàng khổ luyện thêm hai năm nữa đến bây giờ là một chưởng độc, vô cùng hung ác. Sở dĩ Dương Qua luyện được Dịch nhiệt khí, môn này do tâm ý điều động mà phát ra, mỗi ý niệm phát xuất ra môn Dịch nhiệt khí. Tất cả sở trường về môn này Dương Qua truyền dạy hết cho Tiểu long Nữ.
Lúc bấy giờ cơn biến chuyển đã qua, Lý mạc Thu giúp Dương Qua đả thông các chỗ yếu của Tiểu long Nữ, nàng thì sở trường về chiêu số, lại kém Dương Qua về nội lực vì hai người này công lực rất thâm hậu. Tiểu long Nữ cơ thể suy nhược từ lúc giao đấu nay bỗng nhiên được tăng trợ thêm cường lực và được học qua môn Đại dịch khí. Lúc được Dương, Lý khai thông các huyệt, bắt đầu từ đản trung huyệt, đến huyệt đan điền làm tinh thần nàng phấn khởi trở lại. Tiểu long Nữ thốt lời:
- Cảm ơn sư tỷ đã giúp tiểu muội được lành.
Và nàng bước xuống Hàn ngọc sàng đi tới đi lui.
Sỡ dĩ Lý mạc Thu giúp Dương Qua trị thương cho Tiểu long Nữ chẳng qua là nàng muốn biết qua một môn đại dịch khí Dương Qua vô tình chỉ hết thế chưởng này cho địch.
Dương Qua thấy Tiểu long Nữ bình phục lấy làm hả hê, cười nói:
- Lý cô nương đã giúp đỡ, giải huyệt đản trung cho sư muội, nếu để tôi thì chẳng biết thế nào?
Lý mạc Thu yên lặng không đáp. Bỗng nhiên nghe Tiểu long Nữ kêu:
- ối gia...
Rồi nàng lảo đảo sắp quỵ. Dương Qua chạy đến đỡ nàng nằm xuống và hỏi:
- Tiểu muội có sao không?
Tiểu long Nữ giận đáp:
- Trong bàn tay Lý sư tỷ có chất độc.
Nói xong, nàng oằn oại trông rất đau lòng. Dương Qua bước tới bước lui buồn thảm, trở lại điên đảo về cái việc xảy ra cho Tiểu long Nữ.
Nguyên do Lý Mạc Thu đã sử dụng Ngũ độc. Trong chưởng nầy có chất cực độc. Trong lúc Dương Qua cùng nàng giao đấu, không ngờ chất độc này xâm nhập vào cơ thể, cho đến khi truyền chưởng khí cho Tiểu long Nữ, bao nhiêu độc khí đều truyền vào cơ thể nàng. Dương Qua khi nghe Tiểu long Nữ nói chàng đã hiểu phần nào, bèn rút cây thiết trùng kiếm thét lớn:
- Hãy ngay mang thuốc giải độc đến.
Rồi lưỡi kiếm nhắm ngay đầu Lý mạc Thu bổ xuống. Lý mạc Thu mỉm cười thâm độc giơ cao cây phất trần lên đỡ. Hai vật chạm nhau kêu lên một tiếng "cong" chất thép cương sơn chặt đứt lìa cây phất trần làm hai đoạn. Hổ khẩu tay Lý Mạc Thu tét ra máu, chảy dầm dề. Bấy lâu với ngọn phất trần mềm dẻo nàng hạ không biết bao nhiêu anh hùng hảo kiệt, nay đã mất rồi thời không thể nấn ná đây được nữa! Lý mạc Thu vụt quay người chạy ra khỏi nơi đây. Dương Qua vác kiếm đuổi theo nhanh như sao xẹt. Khi vừa thấy mặt nàng, Dương Qua dùng hết sức, bửa xuống đầu nàng một nhát cực kỳ ác liệt.
Thâm độc thay cho Lý mạc Thu, nàng đã mất khí giới rồi lấy gì đỡ nổi làn kiếm ác liệt này? nàng nghĩ nhanh một thế, tung ra một nắm độc phấn tỏa tựa sao sa giáng ngay mặt Dương Qua làm chàng tối tắm mày mặt, và buông rơi kiếm xuống đất. Tuy vậy Lý mạc Thu vẫn gờm anh chàng nầy nên chạy ra xa vài trượng rồi đứng yên đó. Lúc này chất phấn độc đã thâm nhập vào cơ thể, tay chân Dương Qua run rẩy, đầu óc choáng váng chực ngã. Chàng bèn cúi xuống lượm thanh kiếm, một tay chống thanh kiếm một tay vịn vào vách đá, lần lần đứng dậy, đoạn chàng dựa lưng vào vách đá tĩnh thần. Lý mạc Thu thấy vậy nhủ thầm:
- Tiểu tử tuy võ công kỳ ảo hay thâm diệu đến đâu, khi ma độc phấn ngấm vào, ắt thân thể bị hủy diệt, cho rồi đời kẻ kiêu căng tự phụ.
Dương Qua cổ họng khô khan, đầu đau quặn nứt. Chàng cố vận sức chịu đựng, chỉ chờ Lý mạc Thu đến gần là chàng cử ra một chưởng quật chết hay ít ra Lý mạc Thu cũng bị thương nặng. Nhưng Lý mạc Thu bước ra xa dần. Chừng ấy Dương Qua kêu lên một tiếng "A", ngước mặt lên trời hớp một ngụm không khí, vận vào cơ thể để trị thương.
Lý mạc Thu bấy giờ như chim sợ ná không dám tham công mà giết chàng, sợ e bị thảm bại như vừa rồi, nên nàng tìm chỗ khuất để xem hành động của Dương Qua.
Bấy giờ Dương Qua đã khỏe trở lại, thì lòng rối rắm càng tăng, chàng thầm tính:
- Lúc bây giờ cả hai đều bị nội thương hành hạ nên kẻ địch gây chiến thì biết liệu làm sao?
Bèn suy tính:
- Chỉ có con đường chạy trốn là yên.
Thế là chàng một tay cắp kiếm, một tay ôm choàng ngang lưng Tiểu long Nữ, nhắm ngay chỗ Lý mạc Thu đứng và hét to:
- Tránh đường.
Chàng tung thân nhảy qua đầu Lý mạc Thu chạy mất. Lý mạc Thu thấy chàng vẫn mạnh như thần, nên không dám rượt gấp. Chỉ để mắt theo dõi. Dương Qua chạy vào một ngôi nhà Cổ Mộ. Lý mạc Thu lần theo đến cửa mà không dám vào, y thị tưởng rằng chất độc "Ngũ chưởng" sẽ thấm vào, độ hai giờ sau là cặp Dương, Long phải chết.
Lúc nhỏ Dương Qua đã bị Lý mạc Thu phóng "Độc ngân châm" chạy chữa tuy lành nhưng võ công kém sút hơn trước. Huống chi lúc nầy Lý mạc Thu đã được âu Dương Phong điểm hóa môn Ngũ độc, thì chất này kịch độc hơn nhiều. Chuyện trước mắt là chàng và Tiểu long Nữ phải lâm nạn ngay. Dương Qua từ lúc về, đôi vai thấm độc, nhức nhối vô cùng, chàng căm tức Lý mạc Thu cực độ, nếu có nàng ở đây Dương Qua sẽ quật chết tức khắc, bèn một tay ôm Tiểu long Nữ, một tay chống xuống sàn để chịu lại sức công phạt của độc dược.
Còn Lý mạc Thu đứng bên ngoài, đợi lúc Dương Qua mê man là vào lấy cuốn trảo thủ, sách nầy chỉ về thế chưởng "Dịch nhiệt khí". Tuy ẩn núp nhưng Lý mạc Thu không rời hai người quá năm bước.
Dương Qua cũng rõ trước sau gì Lý mạc Thu cũng đến tìm nên chàng bế xốc Tiểu long Nữ vào một gian phòng để nằm trên mặt đất phẳng. Chàng đằng hắng mấy tiếng vì biết rõ Lý mạc Thu theo vào.
Tuy vậy, Lý mạc Thu chẳng dám xuất đầu lộ diện, vì gian nhà nầy lúc nhỏ Lý mạc Thu ở đây học tập với âu Dương Phong. Tuy nhiên về sự tích Cổ Mộ, hang ngách, hay đồ vật Lý mạc Thu không rành rẽ bằng Dương Qua và Tiểu long Nữ. Lý mạc Thu lúc theo thầy, mỗi lần hỏi về ngôi Cổ Mộ thì bị thầy mắng át, nên nàng chỉ biết có năm cỗ quan tài bằng đá mà thôi, không hiểu cỗ quan tài nầy nằm ở đây là của ai! Bởi sự thụ giáo của âu Dương Phong nên lúc nào nàng cũng nghĩ phải làm những chuyện
giết người, lại thêm tánh nàng ngỗ ác, lúc nào giết được người, hay hại được ai thì nàng lấy làm thích lắm. Do đó sự tích cỗ quan tài và xác chết ra sao nàng đều không rõ. Bởi vậy, thấy xác người, nàng đã giết xong cũng chẳng mảy may xúc động. Nay thấy rõ Dương Qua và Tiểu long Nữ bị thấm độc rất nặng, nàng cười vọng vào phòng và nói lớn:
- Tiểu Tử nhà người khéo chọn đấy chứ! Đất nầy rất tốt, nếu ngươi chết tại đây, thật không nơi nào bằng được.
Rồi nàng lại cười lên hô hố, bước ra ngoài phòng, đảo qua đảo lại rất nhanh để xem chừng Dương Qua và Tiểu Long Nữ sắp chết chưa.
Dương Qua ngó ra bên ngoài thấy lờ mờ, lại nghe tiếng nói mà không rõ nói gì, bèn trầm tĩnh nhìn khắp mọi nơi. Nguyên ngôi nhà mồ này hay có tiếng vọng, vì mấy cỗ quan tài có chiếc trống, mà Tiểu long Nữ ngồi trên nắp một cỗ quan tài. Dương Qua buồn rầu nghĩ rằng:
- Đây có lẽ là chỗ chôn Lý mạc Thu và Tiểu Long Nữ, dầu cho lực kiệt trí tàn, mà việc làm này có mờ ám đi nữa cũng bởi hóa công sắp đặt vậy!
Mạc Thu cũng chết tại đây cho vừa lòng Tiểu long Nữ.
Tiểu long Nữ vì chịu đựng quá nhiều, hơi thở yếu, mà nàng cũng cho là ẩn ý trời đất sắp đặt nàng bèn lần đến cỗ quan thầy tưởng niệm, thì trong lòng trở nên yên tĩnh lạ thường. Nàng hít một hơi dài nghe cơ thể trở nên khoan khoái, vui vẻ nghĩ đến lúc ra đi muôn dặm, khi trở về nằm được nơi đất tổ quê cha. Trong nhà mồ yên lặng, ba người có ba ý tưởng, ba hành động.
Lý mạc Thu đợi Dương Qua và Tiểu long Nữ chết đi để đoạt Cửu âm chân kinh, nên nàng núp mãi nhà sau. Tiểu long Nữ chỉ còn chờ cái chết mà thôi. Dương Qua ngẫm nghĩ: "Tiểu long Nữ ắt bỏ mạng nơi đây. Còn ta cũng khó sống được! Nhưng không bao giờ để chân kinh vào tay con ma đầu kich độc này! Nó mà chiếm được sách, thì sẽ là người cùng hưng, cực ác nhất thế gian, và làm điêu linh thiên hạ. Một người ngồi, một người núp, một người đi tới đi lui. Trong gian nhà đá này, gió vọng vi vu không dứt. Mỗi một suy tư, thành ra âm khí càng nặng nề thêm. Đột nhiên Dương Qua nghĩ ra một kế tuyệt diệu: "Về năm cỗ quan tài có hai cỗ quan tài trống trơn, còn ba cỗ kia một cỗ thì đã liệm xác Lâm triều Anh, một cỗ liệm xác Tôn bà. Điều này Lý mạc Thu không rõ. Với hai cỗ áo quan này, nắp áo quan còn để nguyên bên ngoài chừa độ một thước trống. Dương Qua tìm được kế, bèn giơ gươm một vòng phản chiếu ánh thép ra ngoài, và ôm cái gói nhảy vào trong quan tài hô to lên:
- Ma đầu tốt phước! Tâm kinh không thể giao cho ngươi. ôi da! ôi da...
Chàng kêu lên đau đớn, hướng về chỗ Lý mạc Thu đứng.
Lý mạc Thu nửa mừng nửa sợ, sợ là sợ kẻ thù dùng kế "dụ địch". Qua một khắc sau, thấy Dương Qua chẳng cử động gì nữa mà nghe tiếng rên rỉ ư ử kéo dài. Nàng độ chừng Dương Qua và Tiểu long Nữ hai người sắp chết, bèn cất tiếng cười đắc ý bảo vọng vào:
- Tiểu tử đẹp! Tại ngươi điêu trá, nên mới xảy ra như ngày nay.
Nàng bèn nhảy phăng vào, đưa tay ra toan thâu đoạt quyển tâm kinh. Dương Qua đợi nàng vào đến bên trong, chàng bèn ôm gói kinh liệng vào áo quan. Lý mạc Thu vì chiếc phất trần bị chặt cụt, nên thò cây phất trần vào áo quan lấy cuốn sách ra không được, nàng thò tay vào cũng chẳng đụng đáy quan tài. Trước sau gì cũng chẳng được sách, quá bực tức, nàng nhảy vào trong áo quan để lấy sách "Trảo chủ tâm kinh".
Thấy địch nhân đã trúng kế, Dương Qua vô cùng mừng rỡ chàng bèn tống mạnh một cái, chiếc nắp kê đúng chỗ, đậy kín cỗ áo quan.
Lý mạc Thu bị nhốt hẳn trong này, nhưng nàng chưa rõ. Chỉ tìm thấy gói sách nàng quờ quạng trở ra, trán nàng đụng phải phiến đá, lạnh như băng, mò mẫm bốn phía đều kín mít. Nàng hoảng kinh la lên:
- Mở ra...
Bên ngoài chiếc quan tài, Dương Qua ngồi dằn nắp hòm xuống, sức nặng đến ngàn cân nên Lý mạc Thu không làm sao đẩy lên được. Hơn nữa nàng không có nội công và nội lực thì làm sao mà đẩy nổi nắp quan tài để thoát ra ngoài.
Dương Qua từ lúc thấm chất độc càng ngày càng nặng, đầu đau muốn bể. Chàng sực nhớ đến Tiểu long Nữ đang bị vết thương hành hạ, mỗi phút mỗi tăng và ngại Lý mạc Thu trốn mất, nếu chàng bỏ đi trị thương nên Dương Qua khuân một tảng đá to dần ép nắp hòm, rồi đi lần về phía Tiểu long Nữ. Thấy nàng đang vận nội khí để chống lại cơn đau hành hạ, Dương Qua nhớ lại:
- Có dạo nọ chàng gặp âu Dương Phong và được ông ấy chỉ dặn về cách đề khí xua chất độc ra khỏi cơ thể. Chàng liền áp dụng ngay để trị thương cho Tiểu long Nữ. Theo cách thức thì tay phải chàng áp vào bàn tay Tiểu long Nữ và tay trái của Tiểu long Nữ úp vào bàn tay của chàng lấy khí thiên cương và nội lực chuyển vào hai lòng bàn tay để xua tan chất độc ra ngoài cơ thể.
Nói về bọn Gia luật Tề, anh em họ Võ và Quách Phù đang bị khốn trong hang của ngôi nhà mộ.
Những người này vào đây do lối khe suối, mình mẩy ướt đẫm, ngoài ra họ chẳng có hành lý gì cả. Trong hang tối mờ mịt, mò mẫm không tìm thấy lối ra, họ vô kế khả thi, bèn lần vào trong kiếm chỗ bằng phẳng để ngồi. Võ tam Thông càng tức giận càng nghĩ đến càng sôi máu căm thù Lý mạc Thu, nên Võ Tam Thông lải nhải nguyền rủa Lý Mạc Thu là phường độc ác. Quách Phù thì muôn mối rầu lo, ruột rối như tơ vò mà tai bắt buộc nghe Võ tam Thông lải nhải, nàng phát cáu nói rằng:
- Võ bá bá! Lý mạc Thu độc ác có tiếng nên mới xảy ra cớ sự ngày nay. Bây giờ chúng ta hãy phòng bị, lỡ ra con ma đầu theo dõi thì biết đối phó làm sao?
Võ tam Thông yên lặng, không trả lời nữa. Anh em họ Võ và Quách Phù mỗi người đeo đuổi một ý nghĩ và lo lắng vô cùng. Riêng Gia luật Tề và em gái vẫn thản nhiên trò chuyện, không dám dự vào cuộc luận bàn của phe người kia.
Võ tu Văn nghe anh em Gia luật Tề bàn việc gia đình từ đời xưa mà vui cười hả dạ làm chàng gắt gỏng:
- Mấy người nói vừa vừa vậy chứ, tôi thấy từ lúc vào đây ai cũng sốt suột, mà anh chị lại vui vẻ. Chắc anh chị muốn ở đây sao?
Võ đôn Nho mắng ắt em:
- Văn đệ, vừa vừa chứ!
Võ tu Văn im lặng không nói nữa. Cả bọn năm ngươi họp nhau bàn tán, kẻ thuận người không, kẻ im lặng người nói om sòm, rốt cuộc chẳng kết quả gì cả.
Quách Phù thấy vậy thở ra một hơi nghe não ruột, ai cũng nghĩ lối thoát thân, song chẳng tìm được tia hy vọng, nhớ đến nhiều cách chết, hoặc gặp kẻ thù hoặc đói, mà chẳng trông thấy cha mẹ, làm nàng chưa xót ứa lệ. Quách Phù đứng dậy, hai tay đập vào vách đá nghe cum cum, đi lần ra chỗ suối khi nãy, thấy nước ngập đầy, bất giác nghĩ đến cái chết nàng khóc rống lên vang dậy.
Võ tam Thông nghe lòng nao núng bèn an ủi:
- Quách tiểu điệt có khóc đến đâu đi nữa cũng chẳng tìm được cách chi, vô ích mà thôi.
Quách Phù nghe nói bạo dạn đáp:
- Cháu chỉ biết chết sống có mạng, khóc chẳng ích gì, nhưng cũng vơi chút sầu muộn.
Nàng bèn lầm lũi đi ngang gian hầm nghĩ lại phận mình thêm tức, nàng vung hai tay đập lên vách đá thui thụi, còn không đã giận nàng đập mạnh vào vách lần thứ hai, hình như chỗ đá nầy lún vào và tiếng kêu nghe hơi khác. Họ đổ xô lại nghe Quách Phù la lên:
- Có lối ra... vừa đủ một người đi.
Quách Phù cả kinh ngồi xuống quan sát. Cha con Võ tam Thông cũng bỏ cuộc nói chuyện lại bên nàng. Chỉ có Gia luật Tề trước sau vẫn yên lặng, chẳng nói chẳng rằng.
Riêng Quách Phù có chút hy vọng thoát hiểm bèn ấm ớ bảo:
- Tôi ư... tôi... .
Gia luật Tề bỗng nói:
- Tôi có nghe... hình như âm thanh lạ lắm!
Cả bốn người đều đứng dậy lắng tai nghe mà chẳng rõ tiếng gì?
Gia luật Tề lắng nghe và bảo:
- "Oa, oa, oa". Đúng là tiếng trẻ con khóc, lại là đứa bé gái, chắc chắn như vậy. Tiếng dội vào vách đá, lúc nhỏ lúc to, tựa hồ như tiếng tơ đồng, hay xe lụa, rối lại, lỗ tai người nào cũng nhận định chẳng ra gì cả và ai nấy đều không dám chui qua lỗ hổng vào phát giác. Gia luật Tề bước tới vài bước, lách mình qua lỗ hổng, vào đây tiếng khóc nghe rõ hơn, đúng là tiếng trẻ con, nhưng không biết phát xuất từ hướng nào. Chàng bước đến góc Đông, lùi lại góc Tây, sang qua góc phòng hướng Đông nam. Bỗng nghe tiếng khóc rõ mồn một, chàng hơi nao núng sợ quỷ quái hiện hình, bèn rút cây trường kiếm ra khỏi vỏ, gõ vào vách đá nghe "coong coong " tiếng phát ra rất lạ. Chàng bèn tra kiếm vào vỏ, giơ tay lên vung ra một chưởng bủa vào vách đá, kêu "binh" lên một tiếng, đá đổ ào ào, rớt ra ba mảnh to bằng tấm bảng, sức dội kinh hồn, lộ ra một con đường
dài thẳm. Mọi người đổ xô vào hang, Gia luật Tề vô cùng hoan hỉ, Quách Phù nửa mừng nửa lo, hai người cùng đổ xô vào hang, riêng Quách Phù đi lùng kiếm tiếng khóc kỳ lạ. Nàng đi lần theo vách đá nghe ngóng, tiếng khóc lúc nãy vụt im bặt. Gia luật Tề lần dò theo nàng cũng mong tìm ra tiếng khóc. Khi đến một gian phòng tối om, bỗng nhiên tiếng khóc oa oa trỗi lên. Lập tức nàng bước vào trong ẵm ra. Đứa bé này là Quách Tường, lúc Dương Qua cứu Tiểu Long Nữ, lại cùng Lý mạc Thu đối địch, mới đem đứa nhỏ bỏ vào căn phòng này, đã hai ngày qua chưa ăn uống gì cả, nên nó đói và khóc dữ dội. Quách Phù gắng sức bồng nó ra khỏi gian phòng, bé Quách Tường quá đói nên nó càng khóc dữ dội hơn. Quách Phù hết sức dỗ em, nhưng càng lúc càng khóc to. Quách Phù hết sức bực bội và nổi cáu nên bế lại giao cho Võ tam Thông, nói:
- Võ bá bá, tôi không biết dỗ dành nó bằng cách nào nữa!
Phần Gia luật Tề không hợp ý đồng bọn, chàng đi lùng kiếm một ít vỏ cây mục trong hang đá bó thành hai bó đuốc dài dùng dao đánh vào đá để lấy lửa, những tia lửa nhỏ xíu không đủ sức bắt cháy được. Cả bọn người rầu rĩ vô cùng vì không ai tìm được lối ra. Riêng Võ Tam Thông thì khổ não hơn ai hết vì phải đeo thêm đứa bé với tiếng khóc tỉ tê ông bế tới bế lui. Bỗng nhiên mắt ông sáng rực, vì trông thấy hai cái hũ dựng sát góc phòng, ông bèn trút ra nếm thử nghe chất ngọt còn một hũ nghe chất dầu chai, ông hô to lên. Mọi người reo mừng rỡ, lấy mật cho bé Quách Tường, quả nhiên bé nín ngay. Gia luật Tề nói:
- Nếu không có Quách Tường đòi ăn thì chúng ta chết ở đây cả lũ.
Võ tam Thông nói:
- Mọi việc cũng tại con ma đầu Lý mạc Thu mà ra.
Gia Luật Tề lấy dầu chế vào đuốc, cà đá thành lửa, phút chốc đã được hai cây đuốc sáng rực. Gia luật Tề dẫn bộ lần lần ra ngoài, mỗi lần qua một khúc quanh thì Võ đôn Nho lấy kiếm làm dấu lên vách để kỷ niệm ngày ra khỏi ao tù khốn nạn. Năm người lần vào trong, lục soát cả gian hàng của nhà Cổ Mộ hầu tìm kiếm Lý mạc Thu. Họ giơ các ngọn đuốc cao lên lục lọi. Tòa nhà này do Vương Trùng Dương tạo thành vào thời kỳ kháng Kim phục Thanh. ông đứng ra phất cờ khởi nghĩa. Kế bị thất bại, ông bèn rút lui về Chung nam sơn, cùng đám bộ hạ thân tín đứng ra xây ngôi Cô Mộ này, để giấu kín giới giáp binh, chờ cơ hội ngày sau khởi nghĩa. Do đó, ngôi Cổ Mộ nầy chia ra năm gian, bảy lớp, bí mật vô cùng. Vương trùng Dương khởi binh lần thứ hai cũng bị hư hao nặng, tướng hàng quân chết, khí thế tiêu ma vì vậy ông rút đám bộ hạ thân tín về đây ẩn dật, dạy học trò được nổi tiếng, người đời gọi ông là Vương chân nhân.
Gia luật Tề thấy tòa Cổ Mồ rất đồ sộ âm u, hồi tưởng lại mà khâm phục thần nhân, đã kiến tạo được công trình quy mô vĩ đại, nào là mật thất, lại thêm địa đạo do một dòng suối chảy luân lưu vào mật thất, thật là một kỳ công tuyệt xảo vậy. Chàng tiến lần lại gian phòng của Tiểu long Nữ và Dương Qua. Bỗng gặp cây phất trần nằm dưới đất, cạnh bên là hai mũi trâm độc hại. Quách Phù cũng đi đến đấy, nàng cúi xuống nhặt lên xem và cười nhủ rằng:
- Chờ gặp con ma đầu Lý mạc Thu, mũi trâm nầy ta sẽ cho vào đầu ngươi.
Nói qua, đoạn Dương Qua đang trợ lực và trị thương cho Tiểu long Nữ khử trừ chất độc ra ngoài. Thỉnh thoảng thấy trên đầu móng tay nàng rịn ra từng giọt như hạt mồ hôi, màu đen sậm và hôi hám vô cùng, ấy là chất độc ngân trâm của Lý mạc Thu. Trong người Tiểu long Nữ ấm dần, hơi thở điều hòa trở lại. Bỗng nhiên ánh lửa chập chờn, có năm người khí thế rất hung hăng ùa vào gian thạch thất, làm nàng hoảng hốt, tưởng đâu kẻ địch đến tìm. Trong lúc tinh thần vừa vững, chất độc tiêu tan, nội lực của nàng đã sung mãn dần dần, sự mừng rỡ chưa kịp vui, đã thoắt thấy năm người xuất hiện. Nàng cả kinh ôm choàng lấy Dương Qua.
Phần Dương Qua lại muốn cùng Tiểu long Nữ chạy trốn, tay phải ôm choàng Tiểu long Nữ chạy trốn vào trong cỗ quan tài, không vận dụng chưởng đề phòng bọn người xông vào đây.
Năm người bọn kia giơ cao ngọn đuốc trông rõ năm chiếc quan tài sững sờ trước mặt, làm bọn họ sửng sốt, lo nghĩ như nhau:
- Chắc là trời báo cho họ cái điềm đại họa sắp tới.
Riêng Quách Phù sợ quá rên:
- Y hi! Chắc chết, bọn ta năm người, gặp một lần năm cỗ quan tài, thật là một điềm đại họa bất tường.
Cả bọn thở ồ ra một hơi không khí nặng nề bất tận. Chỉ có Gia luật Tề lặng nghe và xem xét cục diện. Bỗng nghe có tiếng thở rì rào trong quan tài, liên tưởng đến Lý mạc Thu đang ẩn ở đấy, chàng bèn nẩy ra một kế lần lui ra phía sau mọi người đứng thủ thế xong cả, chàng hô to:
- Tránh ra! Có người núp trong chiếc áo quan!
Cả bọn hoảng hốt lùi lại, ai cũng lo thủ thế cả Quách phù tuy lùi lại mấy bước, nhưng vẫn còn sát bên năm cỗ quan tài. Chợt nàng thấy có một cỗ áo quan, nắp hòm giở ra trên năm tấc thì đoán chắc là Lý mạc Thu ẩn núp, bèn quay đến chiếc áo quan nầy cười to bảo vọng vào trong:
- Đi đường của ngươi đắp, có ngày bị gãy xương, đừng than vãn gì nữa.
Khi nói xong, Quách Phù tung ra hai mũi tên độc, thầm tính sát hại Lý mạc Thu.
Dương Qua trong quan tài, tay ôm choàng Tiểu Long Nữ, tay thủ chưởng phòng kẻ địch xông vào, lúc nầy sự chết sống qua làn tơ kẽ tóc. Phần Tiểu long Nữ chất độc thấm còn nặng, nên nàng xê dịch rất khó khăn. Dương Qua nghe năm người bên ngoài nói chuyện lao xao, trong đó có tiếng Quách Phù, thì cũng yên trí đôi phần, chàng tưởng rằng những người cùng đi với Quách Phù không phải là kẻ địch. Vì thương hại cho Tiểu long Nữ nên uất khí tràn lên, làm cho chàng nghẹn ngào chưa thốt ra được lời nào.
Quách Phù có ngờ đâu người nằm trong áo quan lại là Dương Qua và Tiểu long Nữ. Vì ngộ nhận là Lý mạc Thu, nên mới phóng hai mũi trâm độc vào để trả đũa Lý mạc Thu.
Trong chiếc quan tài chật hẹp Dương Qua và Tiểu long Nữ không còn né tránh đâu được nữa. Thoáng thấy ánh áng của ngân trâm bay vào là hai người đã kịp la lên ái da một tiếng, thì mũi ngân trâm đã ghim vào vế của Dương Qua và mũi thứ hai ghim vào vai Tiểu long Nữ. Quách Phù vung hai mũi độc xong lấy làm đắc ý lắm. Bỗng thấy trong hai thiếc áo quan đứng lên hai người một nam một nữ, làm nàng mất cả bình tĩnh. Dương Qua dìu Tiểu long Nữ bước ra khỏi áo quan. Mấy ngọn đuốc chiếu sáng về phía hai người thấy thần sắc ủ ê lắm. Bọn năm người ồ lên kinh hãi tưởng ai, lại hóa ra Dương Qua và Tiểu long Nữ.
Riêng Quách Phù thấy hối hận vô cùng, vì đã lỡ tay trót gây đại họa. Nàng cũng không ngờ làm tê liệt đôi vai của Dương Qua bèn nói lời hối lỗi:
- Dương đại ca, Long tỷ tỷ. Tiểu muội đâu ngờ hai vị, nên phóng trâm độc gây thương tích. Nhưng thân mẫu em có phương thuốc thần chữa được. Năm rồi cặp chim điêu bị Lý mạc Thu phóng ngân trâm mà mẫu thân em còn trị được. Còn đại ca làm cái trò gì mà lục đục trong áo quan? Chỉ có trời biết đại ca ở trong, chứ tiểu muội cũng như mọi người làm sao biết được?
Nàng nhắc lại từ lúc chia tay, Dương Qua bị thương ở bả vai vì múa kiếm, rồi biệt nhau mỗi người một ngả. Phụ mẫu nàng đã trách mắng qua vì lỗi tự ý tự thị, lòng nàng nhủ rằng:
- Ta không quỷ quái bằng ngươi, kết quả của ngươi đó.
Nàng là một hạng từ nhỏ sống trong nhung gấm, người ta vì kính trọng cha nàng, nên đâu đâu cũng yêu quí nàng, vì thế tạo cho nàng một cái tính tự ý, vì không ai dám động đến mình. Nên sau này, khi gặp Dương Qua và Tiểu long Nữ trong chiếc áo quan, lòng nàng như gai đâm muối xát. Nàng cũng biết Tiểu long Nữ trúng độc ngân trâm, và chất độc nầy đang chạy khắp các huyết quản. Ngũ độc thần chưởng tuy độc địa nhưng chỉ gây cho người nào đến chết, khi nó lưu hành khắp đại huyệt, bấy giờ chỉ có "Linh chi đơn" là phương pháp cứu nguy thần diệu. Lý mạc Thu có ngọn ngân trâm tuy độc, nhưng chẳng qua gây chứng ngoại thương mà thôi, tuy vậy chất độc nầy cũng hại lắm, nếu không kịp thời dùng thuốc chữa, ắt xâm nhập vào gan ruột lâu ngày cũng thối ruột mà chết.
Tiểu long Nữ lúc này đau khổ vô cùng, muốn mở lời lại nghẹn, bụng nóng như sôi, muốn tìm nơi đi cho khuất mắt. Nàng hít vào một hơi rất dài, mắt liếc về phía Dương Qua, thấy đôi mắt chàng vô cùng buồn bã, đầy vẻ đau thương, nàng rất buồn vì mạng sống của mình mà Dương Qua phải chịu nhục, vì quá xui nên bọn nầy gặp trong trường hợp đáng nghi. Tiểu long Nữ lòng đau như cắt. Thấy Dương Qua khổ sở, bèn nói nhẹ lên rằng:
- Dương huynh! Số mạng phải như vậy, dừng nên oán người ta, dù sao sự cũng đã rồi!
Nàng bèn cúi xuống về Dương Qua nhổ cây ngân trâm độc rồi mới nhổ cây trâm trên vai mình sau.
Loại trâm này vốn là của thầy nàng truyền ra có tên là "Băng phách ngân trâm" cũng như âu Dương Phong có môn ngũ độc thần chưởng vậy. Chất độc của chưởng khác xa với ngân trâm, vì của sư môn chân truyền, nên lúc nào nàng cũng có mang theo thuốc giải độc ngân trâm. Tiểu long Nữ lấy đưa cho Dương Qua một hoàn thuốc. Thuốc vừa vào miệng, Dương Qua đã phì lên một tiếng viên thuốc rơi xuống đất.
Quách Phù giận bảo:
- ôi chao! Tốt phước quá còn gì? Đừng bảo ta có lòng hại người, ta đã hướng vào người xin lỗi rồi, phần ta đã xong, chẳng biết ai làm cho ngươi bực tức mà nặng hơi vậy.
Võ tam Thông thấy thương tâm Dương Qua quá đỗi, sắc mặt chàng lúc buồn lúc giận, lại thấy Dương Qua tay cầm độc kiếm rất chặt, lưng khom khom mặt ngó xuống đất, ông thầm nghĩ:
- Tình thế này không khéo sẽ xảy ra chuyện khó khăn.
Bèn lại bên Dương Qua khuyên rằng:
- Dương đệ hãy dằn cơn giận xuống. Bọn tôi năm người bị con ma đầu Lý mạc Thu mà khốn ở gian nhà này, nay Quách cô nương nếu có lỡ tay, lỡ lời chút ít...
Quách Phù xua tay cướp lời:
- Tôi nói cái gì mà lỡ lời, hay lỡ tay, chẳng qua là tôi tưởng Lý mạc Thu trong áo quan, tại ai ở đấy mà không lên tiếng.
Võ Tam Thông hết ngó Quách Phù đến ngó Dương Qua, ông không biết lấy lời lẽ gì khuyên giải cả hai cho được.
Tiểu long Nữ lấy ra thêm một viên giải độc nữa, trao cho Dương Qua mà bảo rằng:
- Dương ca ca ! Hãy vì tôi mà uống viên thuốc này, ai có nói gì thì nói tôi, nếu nói với ca ca thì đừng nghe là xong.
Dương Qua nghe theo nuốt trửng viên thuốc giải độc.
Tiểu long Nữ là gái trinh nguyên, nhu hòa hiền hậu, nói được vài câu như thế là nhiều. Dương Qua hồi tưởng lại lúc hai người suýt chết, nhiều nỗi đắng cay, bây giờ trở nên tuyệt vọng như áng mây chiều, chàng không đủ chịu đựng được với không khí gay gắt này, bèn quỳ xuống đất, trước quan tài đá, cất tiếng khóc òa.
Võ tam Thông quen thuộc nhiều người, tánh ý ai ông đều rõ, ông cũng tưởng Dương Qua chuyện gì cũng phân minh, cương quyết dù một tơ hào, hay quá nhỏ, Dương Qua cũng không chịu nhục. Bất ngờ nay vì một mũi ngân trâm nhỏ mọn, mà Dương Qua cất tiếng khóc ồ ồ.
Bấy giờ Tiểu long Nữ thấy Dương Qua khóc dữ dội bèn cất giọng bảo:
- Dương ca! Có đi cùng tôi không? Tôi không còn vui gì mà ở đây nữa.
Dương Qua nín lặng. Tiểu long Nữ nói tiếp:
- Tôi không vui vẻ gì ở đây một chút nào nữa.
Thế là Tiểu long Nữ bước ra ngoài đi mất. Dương Qua ở lại từ từ tiến về phía Quách Phù, cặp mắt chàng đăm đăm nghĩ ngợi. Tuy chàng cực giận, xét lại hôm nay vì vô ý, mà Quách Phù bắn ngọn ngân trâm, đâu phải lỗi ở nàng, chỉ giận nàng lớn tiếng nhiều lời vào địa vị ai cũng nói vậy. Nếu như chàng có cầm kiếm trong tay cũng giết chết người, vì cần bảo vệ sanh mạng cho Tiểu long Nữ. Lúc bây giờ Dương Qua sầu lo lẫn lộn, chàng rút nhanh thanh kiếm khỏi vỏ, mắt đỏ hào quang, vung kiếm lên chém mạnh xuống một nhát, làm chiếc nắp hộp đá nứt hai, văng ra mỗi nơi một mảnh.
Mọi người đều kinh hoảng cho sức mạnh phi thường của chàng. Nguyên năm quan tài do đá hoa cương và kim thạch hung đúc lâu ngày, nó cứng hơn thép, nếu dùng búa to, dao lớn, cả ngày chặt đẽo bất quá chỉ rạn nứt đôi phần mà thôi. Tại sao nhát kiếm của Dương Qua hùng mạnh như vậy? Gia luật Tề và Quách Phù rất kinh ngạc và ái ngại cho chàng, họ biết Dương Qua dùng công lực thâm hậu truyền vào lưỡi kiếm, nên nó cứng rắn quái dị như vậy. Dù cho thanh gươm cự khuyết cũng không chặt nổi làm hai đoạn. Cả bọn năm người đổ xô về phía Dương Qua, ai ai cũng tỏ vẻ sững sờ kinh ngạc.
Dương Qua đang hồi cáu giận gắt lên:
- Các người nhận ai? Và muốn giống gì nào?
Võ tam Thông lại tưởng Dương Qua bị độc dược hành hạ bảo:
- Dương đệ ! Hãy đi cùng tôi, đến cầu Quách phu nhân chữa thương tích.
Dương Qua nổi khùng đáp:
- Quách phu nhân! Tôi đã bắt con của bà ấy! Nó là trẻ thơ vô tội nhưng chị nó là người lớn mà nỡ giết người yêu của tôi.
Võ tam Thông hỏi:
- Ai chết! Ai? Kìa Long cô nương...
Tiểu long Nữ đến tự thuở nào không ai biết. Nàng mặc quần áo nghiêm chỉnh. Nàng bảo vọng vào:
- Dương Ca? Độc ngân trâm sẽ lưu khắp châu thân, hãy cậy Quách Phu nhân giúp đỡ. Bà ấy hiện ở bên ngoài.
Dương Qua xẵng giọng đáp:
- Không cần! Và chẳng ai hiểu gì cả? Khi chất độc vào đại huyệt thì chết, ai mà cứu được?
Quách phu nhân hô hào cải tử hoàn sanh mà cứu sống ai chưa? Mà bà ấy biết cái gì cơ chứ?
Võ tam Thông vì thọ ơn Dương Qua đã cứu sống con mình nên đối với chàng, ông rất cung kính. Tuy nghe Dương Qua nói xỏ xiên Hoàng Dung mà chẳng biết nói cách nào cho tiện nên lững lờ nói:
- Chất độc đã chạy vào đại huyệt! Giờ thì làm sao cứu chữa được...
Quách Phù vô cùng bực tức, nàng nghe Dương Qua nói lời lẽ đối với mẹ nàng rất bất kính, làm nàng giận run hét to rằng:
- Mẹ của tôi đã một lòng với ngươi mà ngươi xử tệ vậy? Lúc nhỏ ngươi bơ vơ không cửa không nhà ai mang ngươi về nuôi dưỡng? Ai dạy dỗ ngươi? Giờ này nỡ nào vong ân bội nghĩa, chẳng kể đến người mà mắng tôi, còn cất giấu em gái tôi?
Sự thật là nàng chưa biết vì sao Dương Qua giữ em gái nàng, nếu biết thì đâu cỏ lời qua tiếng lại và làm phật ý Dương Qua nhiều lần. Nàng kịp nghĩ và im lặng để sau này sẽ hỏi Dương Qua. Nàng cự nự vừa xong với Dương Qua bèn tỏ vẻ hối hận.
Dương Qua nói:
- Đừng nói vậy, hôm nay đúng như lời cô nương bảo, tôi chịu tiếng bất nghĩa, vô ơn. Còn cô bé Quách Tường tôi sẽ cất giấu vĩnh viễn, thì Quách cô nương nói làm sao đây?
Quách Phù nghe thế hết hồn, hai tay ôm chặt Quách Tường vào lòng mang lại đứng gần đồng bọn. Võ tam Thông hỏi gấp:
- Dương đệ ! Em đã trúng độc, dù có việc gì cũng phải về cho phu nhân cứu chữa?
Dương Qua buồn buồn đáp:
- Võ huynh! Chẳng cần thiết lắm...
Bỗng nhiên nghe tiếng rít dài từ ngoài đưa vọng vào trong. Quách Phù và anh em họ Võ nghe một luồng gió thổi qua, tựa hồ như chất thép mùa đông, làm tắt ngấm năm ngọn đuốc, trước mặt một màu đen kịt. Quách Phù bỗng kêu lên:
- Chết rồi!
Cả bọn đều kinh hãi. Gia luật Tề sợ Dương Qua làm hại nàng nên nhảy tung lại phía Quách Phù. Nghe tiếng "oa oa" đích thị là Quách Tường bị chàng bắt mất. Tiếng khóc lần lần ra cửa xa dần, đến khi không còn nghe nữa! Mọi người đều sửng sốt như thể chuyện yêu ma. Quách Phù hoảng hốt la lên:
- Em tôi đâu? Ai bắt em tôi rồi?
Võ tam Thông kêu lên:
- Bớ Dương đệ! Bớ Tiểu Long cô nương! Dương đệ! Tiểu Long... !
Không có ai lên tiếng cả, ba bên bốn bề lửa tắt tối om, một bức màn đen dày đặc, không rõ tình thế ra sao. Gia luật Tề bảo:
- Dương Qua mang đi rồi! Còn đâu mà kêu.
Võ tam Thông giận đáp:
- Dương Qua là người đại nhân, đại nghĩa, đâu có bậy như vậy!
Quách Phù nói:
- Chính là y chạy mất, mang theo bé Quách Tường chứ ai nữa!
Bỗng nhiên nghe trong áo quan có tiếng "lạch cạch" nổi lên hai phía, rồi tiếng nắp hòm xê dịch nghe rõ ràng:
- Quách Phù la lên:
- Có quỷ hiện...
Gia luật Tề đứng bên vai Quách Phù vỗ nhẹ ra dấu bảo im. Võ tam Thông lắng nghe chính là tiếng động trong hòm, ông bảo:
- Chắc là một xác chết sắp sửa chạy ra ngoài.
Trong phòng tối đen như mực, làm mọi người sợ mọc ốc. Gia luật Tề hướng về phía Võ tam Thông bảo nhỏ:
- Võ thúc thúc! tôi ở bên này, thúc thúc ở bên kia, nếu xác chết có đi ra khỏi hòm, thì họp bốn chưởng đập nó gãy xương.
Quách Phù bình sinh rất sợ chuyện ma quỷ. Nàng nắm tay Gia luật Tề, và nấp sau mình chàng. ở trong dãy quan tài nghe một tràng "bình" lớn nắp hòm rời ra, trong hòm nhảy ra một vật. Gia luật Tề và Võ tam Thông sẵn song chưởng, khi nghe gió lạ họ bèn tung ra một lượt "Tin tin". Gia luật Tề kêu lên:
- Nguy rồi!
Vì hai người đánh trúng cái gối bằng đá, con vật chạy mất, cái gối đá bể tan tành. Võ tam Thông nói:
- Chính là Lý mạc Thu.
Quách phù sợ quá cãi lại:
- Xác chết chạy ra! Chứ Lý mạc Thu làm gì nằm trong quan tài?
Gia luật Tề kêu lên:
- ồ! Ta đã nghĩ ra rồi. Trên đời nầy làm gì có chuyện ma quỷ, cái bóng vừa xuất hiện là Lý mạc Thu, nàng đã vào đây trong lúc sáng, cũng như Dương Qua với Tiểu long Nữ ở tại đây nhiều ngày. Đúng là Lý mạc Thu nằm trong quan tài như Dương Qua.
Võ tam Thông nói:
- Lý mạc Thu nó bắt cóc em bé làm gì chứ?
Gia luật Tề nói:
- Giờ ở đây trông chừng, chờ đợi co ích gì? chúng ta kiếm đường thoát đi thôi!
Quách Phù nói:
- Em tôi sống chết ra sao? ôi trời ơi! Nàng kêu lên thảm thiết!
Võ tam Thông nói:
- Lệnh đường túc trí đa mưu, chắc có kế hoạch đối phó, con gái của một đại gia đình ra đi, chắc có phân phát người đi tìm rồi!
Bọn năm ngươi mò mẫm đường mà ra, họ đi theo lối khe suối, rồi lên khỏi mặt nước. Trước mặt họ một cảnh thê lương đau đớn. Nhìn về bên tả cây cối ngổn ngang, trông sang bên hữu lửa còn cháy nghi ngút, khói và hơi nóng tạt vào mặt. Quách Phù hồn bay phách tán kêu to:
- Cha mẹ ơi! Cha tôi đâu? Mẹ tôi đâu?
Không nghe một tiếng trả lời nào cả. Trước mặt nàng một thân cây to sắp đổ, lửa cháy bao trọn khắp thân cây. Gia luật Tề hoảng hốt, kéo nàng chạy ra xa lánh nạn. Thật là khổ sở, long đong dồn dập mãi! Cây cỏ tiêu điều, rừng xanh phút chốc thành biển lửa. Năm người tuy đứng duới dòng suối, nước ngập mênh mông mà hơi nóng hất vào rất khó chịu.
Võ tam Thông buồn bã nói:
- Có lẽ quân Mông Cổ vào Trùng Dương cung bị thất bại, lúc về nó nổi giận mà đốt cháy dãy rừng núi Chung Nam.
Quách Phù kêu lên:
- Cha ơi! Mẹ ơi! Con ở đây!...
Bỗng thấy từ xa có một thiếu phụ chạy tránh ngọn lửa tàn bạo, bước bừa trên cây cỏ, bất kể nguy hiểm. Quách Phù cả mừng kêu lên:
- Mẹ ơi! Mẹ!
Nàng chạy lên bờ suối đuổi theo thiếu phụ nọ.
Võ tam Thông kêu hoảng:
- Quách Nhi! Hãy coi chừng gai góc!
Cây đại thọ cháy ban nãy ngã rầm. Che tầm mắt của bốn người thành thử muốn theo Quách Phù cũng không được! Quách Phù ẩn vào lửa, như bị ướp loang. Nàng cố đuổi theo thiếu phụ nọ. Nàng đã thoát khỏi nguy cơ Cổ Mộ, và may mắn thoát ra, tưởng được nhìn sang cảnh sáng sủa, nào ngờ gặp toàn chuyện khốn khổ, đau lòng. Ban nãy thấy thiếu phụ giống hệt thân mẫu, nên cố gắng đuổi theo còn cách độ mười bước, Quách Phù gọi to:
- Mẹ! Mẹ! Dừng lại...!
Thiếu phụ nghe gọi quay mặt lại, thì hỡi ơi! Chính là con ma đầu Lý mạc Thu. Nguyên lúc Lý mạc Thu bị Dương Qua nhốt vào quan tài đá, mười phần kể chết, nàng nghiến răng, chậc lưỡi, oán đất trời và tự nguyện rằng:
- Sau khi chết nàng sẽ biến thành ác quỷ, bắt Dương Qua, hại Tiểu long Nữ, Võ tam Thông và Hoàng Dung nữ hiệp.
Bất luận người nào y cũng tính giết hết. May cho nàng là lúc Gia luật Tề và Võ Tam Thông bủa chưởng trừ yêu quái, đánh rơi nắp quan tài, thế là có dịp nàng xông ra ngoài biến mất dạng.
Quách Phù chạm phải Lý mạc Thu, nàng run sợ rồi! Bây giờ Lý mạc Thu lại tỏ vẻ đạo đức hiền hòa bước lại gần Quách Phù, và bảo rằng:
- Có phải Quách cô nương đây chăng? Ngọn lửa còn ghê gớm, vậy cô nương hãy cẩn thận đề phòng.
Quách Phù đâu hiểu được tâm địa cùng hung cực ác của nàng, nên hỏi:
- Lý cô nương! Lý cô nương có thấy thân mẫu của tôi chạy lối nào không?
Lý mạc Thu lại gần thêm ít bước nữa và giơ tay về phía trước bảo:
- Hoàng nữ hiệp chắc ở bên kia...
Quách Phù nhìn theo ngón tay của Lý mạc Thu, bỗng nàng xích lại gần, giơ tay điểm vào đạo huyệt sau lưng của Quách Phù làm cho nàng té bệt xuống đất. Lý mạc Thu bảo to:
- Ta có chuyện đi gấp, ngươi hãy ngồi đó đợi mẹ ngươi, ha ha.
Lý mạc Thu cười dòn, tung mình chạy ra xa. Quách Phù bị điểm trúng huyệt đạo phải ngồi chịu chết. Nàng thấy bốn phương tám hướng lửa cháy dậy trời thì đôi mắt nàng lệ tràn lai láng.
Lý mạc Thu điểm huyệt được Quách Phù thì hả hê lắm. Nàng chạy ra khỏi xa ánh lửa, cất tiếng thét lên đại ý nhủ: "Hỡi người dưới thế gian, tình chỉ là đoạn trường! Sanh tử đôi đường ai chắc được đâu?"
-
Chương 76 - Trong Túp Nhà Hoang Dương Qua Gặp Lại Vị Hòa Thượng - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 76 - Trong Túp Nhà Hoang Dương Qua Gặp Lại Vị Hòa Thượng
Tiếng ca xa dần dần, vừa chấm dứt bỗng có một chuỗi cười cuồng dại ngât lên.
Khói bay nồng nặc, theo gió cuộn đưa đến cảm thương cho số phận Quách Phù. Hiện giờ cơ thể của Quách Phù tay chân có duỗi chẳng được, cổ họng khô khan, kêu lên chẳng nổi.
Nói về anh em Gia Luật Tề và Võ tam Thông đang núp tại khe suối, đầu cổ, mặt mày đầy tro lẫn bụi.
Quách Phù ngồi một khoảng cách xa bờ suối. Bọn bốn người này nhìn qua hướng Quách Phù thấy lửa cao lên ba trượng, trông thật là nguy hiểm. Họ muốn chạy qua cứu Quách Phù thì lại sợ chưa qua khỏi đây đã chết nên tính không ra mưu cứu Quách Phù.
Quách Phù bị khói lửa bao bọc, gió thổi từ xa đưa lại. Bỗng từ hướng đông có tiếng vang dội, nàng quay đầu nhìn lại, thấy một làn gió cuộn lửa dậy tứ bên, xung quanh nổ lách tách, nóng bức vô cùng, vây nàng vào giữa. Quách Phù định thần nhìn kỹ, thì hoá ra Dương Qua in bóng trên lửa chập chờn, mặc áo choàng dài phủ từ đầu xuống gối, tay cầm thanh trường kiếm múa lộng như vũ bão xông vào lửa. Quách Phù đang lúc chờ chết, bỗng nhiên có người vào cứu làm nàng vô cùng hoan hỉ. Chừng nhận ra là Dương Qua, thân mình bỗng nóng như lửa. Nhưng Quách Phù nghĩ rằng sớm muộn gì cũng chết, thà rằng để chết còn hơn chịu nhục với người. Nàng là con quý của Quách Tỉnh, con yêu của Hoàng Dung, còn Dương Qua là kẻ kiêu hùng, ngạo mạn, sự chết chàng sánh tựa mày lông.
Dương Qua múa tít thanh kiếm xông vào, bên nàng, một tay phất nhẹ vào lưng để giải huyệt, một tay bế xốc nàng, múa kiếm vù vù như vũ bão và dặn Quách Phù:
- Hãy cẩn thận!
Đoạn chàng vừa múa gươm tránh lửa, vừa chạy thoát ra ngoài trận hỏa phong.
Quách Phù bị Dương Qua kẹp cứng, nhảy qua lại, bay lên xuống như thể đằng vân giá vũ, bên ngoài lửa dập ngập trời rất kinh khiếp.
Dương Qua chạy thoát ra ngoài vòng lửa, bế nàng đến thẳng gốc cây to bên bờ suối đặt nàng nằm xuống đấy.
Gia Luật Tề đang ở giữa suối tránh lửa, thấy bóng Dương Qua đặt Quách Phù nằm vội vã nhảy lên bờ giúp sức với Dương Qua.
Quách Phù mắt mờ lệ, đầu tóc rối bù, nàng cất tiếng khóc thảm thiết không thôi.
Lúc Dương Qua cùng Tiểu long Nữ đem bé Quách Tường ra khỏi ngôi nhà mồ, đúng vào lúc quân Mông Cổ đang đốt cháy khu rừng trước mặt. Dương Qua và Tiểu long Nữ ngày trước cư trú nơi đây, thì cây cỏ sum sê, bá tông thạch mậu, nay ngọn lửa dậy bốc cháy tiêu đi, bảo sao lòng không chua xót. Khí thế quân Mông Cổ mạnh như thác lũ, không có một sức mạnh nào cự đương được. Dương Qua đến giờ này, cũng không rõ chất độc của Trâm chưởng chạy vào đại huyệt, và tràn khắp gan ruột châu thân cho nên để lâu mà không chữa trị. Ngôi thạch động bỗng chốc trở nên trơ trọi, xung quanh cây cối tiêu điều, họ đang nhìn qua ngọn lửa mà bồi hồi xúc động. Nhìn về phía xa xa thấy Quách Phù ngồi trong lửa đỏ Dương Qua nghĩ là Quách Phù đã hãm hại Tiểu long Nữ nhưng không khỏi bùi ngùi nói:
- Long muội! Quách cô nương đang tâm hại tiểu muội, giờ đang ngồi trong lửa đỏ, đấy là sự báo ứng của trời!
Tiểu long Nữ tấm lòng rộng rãi, tỏ vẻ tha thứ bèn bảo Dương Qua:
- Dương huynh! Nên cứu Quách Phù, tôi không nói bậy đâu!
Dương Qua cừu hận trong lòng đáp:
- Nó đã đang tâm hại cô, tiếc là tôi không giết được nó nhưng sẽ đối địch với cha mẹ nó một lần.
Tiểu long Nữ thì thầm rằng:
- Số tôi đã bất hạnh thì đừng nên làm khổ cho người khác. Hãy cố tạo cho họ vui vẻ, đừng nên chứa chấp sự cừu hận làm chi?
Dương Qua tuy ngoài miệng nói vậy nhưng trong lòng lại nghĩ khác, ngoái mặt trông về chỗ Quách Phù, thấy lửa sắp phủ lên mình nàng, càng lúc càng gần trong lòng rất lấy làm bất nhẫn giả bộ nói:
- Tốt lắm! Tiểu muội khoan dung, ta nỡ lòng nào? Bèn chạy gấp đến cứu Quách Phù đem về tại khe suối giao cho Gia luật Tề trông giữ. Còn Tiểu long Nữ, tay bế Quách Tường, lui tới chỗ cây cỏ vừa cháy xong...
Bấy giờ thân mình Tiểu long Nữ tóc tai rũ rượi, quần áo cháy sém trông rất thảm hại, Dương Qua trở lại giúp nàng phủi sạch dơ bẩn trên áo, vén lại tóc tai gọn ghẽ. Tiểu long Nữ trong lòng xúc động và thầm ước sau này người chồng như thế mãi. Vì phong độ Dương Qua có vẻ anh hùng, hào kiệt, Tiểu long Nữ nhìn Dương Qua không chớp, trên nét mặt nàng hiện ra vẻ hoan lạc vô cùng.
Tâm trạng Dương Qua lúc này cũng không kém gì Tiểu long Nữ. Chàng nhìn nàng trân trối và nhận thấy sự nóng bức càng làm tăng vẻ đẹp hồng hào diễm lệ của Tiểu long Nữ. Tay chàng duỗi ra choàng ngang lưng Tiểu long Nữ, hai người nhìn nhau chẳng biết nói gì, chỉ cùng mang một tâm trạng sầu đau tuyệt vọng. Hai người dìu nhau ra ngoài nhìn ngọn lửa cháy bập bùng. Bởi họ đứng trên cao trông xuống nên bọn Võ tam Thông, Quách Phù, Gia luật Tề năm người, ở dưới khe suối trông lên thấy đôi nam nữ đứng sát nhau âu yếm, gió đưa tà áo phiêu diêu, thật là một cảnh trí đoan nghiêm trang nhã, trông tựa thần tiên vậy. Riêng Quách Phù nhìn lên không vừa ý lắm và tỏ vẻ trầm ngâm.
Dương Qua và Tiểu long Nữ đứng đấy rất lâu, thấy lửa dậy đỏ trời, thiêu huỷ không biết bao nhiêu cây cỏ, nàng cất tiếng than:
- Sau trận hỏa cuồng đất này sẽ trở nên khô khan, cằn cỗi, cỏ cây hoa lá biết bao giờ trở lại tươi tốt? âu là ách nước tại trời.
Dương Qua đang vui vẻ, không cần nghĩ đến cảnh vật bên ngoài, nên bảo nàng:
- Có hai lần đám cưới quân Mông Cổ đến phóng lửa đốt rừng để chúc ta, tiểu muội thấy chăng? Muôn ngàn ánh đuốc chập chờn như lễ hoa đăng đấy sao?
Tiểu long Nữ cười. Dương Qua lại nói:
- Chúng ta trở về động xem con bé ra sao? Tiểu muội đồng ý chứ?
Tiểu long Nữ hoan hỉ đáp:
- Tốt lắm!
Hai người dìu nhau xuống núi, khi đi ngang qua bọn Gia Luật Tề, Võ tam Thông thấy họ sắp rời núi này nên gọi lớn:
- Dương đệ! Dương đệ! Sư thúc tôi và Châu sư đệ còn khốn trong hang Tuyệt Tình, tiểu đệ có đi cứu cùng không?
Dương Qua dừng lại ra dáng suy nghĩ đáp:
- Để tôi về dinh rồi lo liệu sau chứ tôi chẳng dám hứa nhiều.
Chàng liền quay đầu đi. Họ đi sát nhau, khi qua khỏi đám cháy, cây đá ngổn ngang không cản trở nữa, Dương Qua trổ thuật thần hành đi thật lẹ. Tiểu long Nữ đã ngộ độc thấm sâu vào đại huyệt, tuy nhiên bấy giờ chất độc chưa công phạt, nên khí huyết nàng được điều hoà và võ công cũng dần dần khôi phục. Tay nàng ôm bé Quách Tường hướng về phía trước đi tới, vài giờ sau họ đã rời khỏi Trùng Dương cung rất xa, nhìn lại thấy ngọn lửa yếu dần, nhưng cuộc hỏa hoạn này đã thiêu hủy nửa thành đô. Bấy giờ gió bấc thổi lành lạnh, mỗi lúc cơn gió càng mạnh hơn. Tiểu long Nữ cảm thấy lạnh nên Sợ Quách Tường trúng cảm, nàng nói với Dương Qua:
- Tôi trông chừng còn xa lắm, mà cháu nhỏ càng lạnh càng đói, chúng ta hãy tìm chỗ tạm trú ít giờ.
Dương Qua đáp:
- Tôi thật là dại, mang đứa trẻ về để làm phiền lụy như vậy!
Tiểu long Nữ lắc đầu và cúi xuống hôn Quách Tường, tỏ vẻ âu yếm lắm, nàng nói:
- Em bé này rất đáng yêu, tại sao Dương huynh buồn nó nhỉ?
Dương Qua đáp:
- Người nhà nó vô phương tìm ra, trừ khi họ sinh thêm một đứa nữa!
Tiểu long Nữ thấy lòng vui vui. Dương Qua nói mấy câu làm chạnh lòng Tiểu long Nữ. Nàng thầm rằng:
- Nếu trời run rủi cho ta với chàng sinh được mụn con thế này thật là có phước lắm!
Dương Qua sợ Tiểu long Nữ buồn mình nên không nhìn nàng và không nói về đứa bé nữa, chàng ngước mắt trông lên trời, thấy hướng Tây Bắc hơi đất xông lên khói bốc cuồn cuộn thành từng đám mây bay vần vũ xuống rất thấp. Chàng liền bảo Tiểu long Nữ:
- Khí trời hơi lạnh, nên mây thấp thế này, chút nữa có tuyết rơi nhiều, vậy tiểu muội với tôi mau tìm nhà trú đi.
Nơi đây dân chúng đều đi xa tránh hỏa hoạn, lối này đường quan lộ đã hết, chỉ có những đường mòn đi dọc theo triền núi đá lởm chởm gai góc. Dương Qua đi dần lên cao ngó xuống quan sát bốn phương đều không có khói, hay nhà cửa của ai cả, trên mười dặm hoang vu là cây xanh vòi vọi, núi đỏ ngất trời. Dương Qua chép miệng than thầm:
- Chết rồi! Tuyết sắp rơi đây, chắc là không ít, chừng ấy núi non băng giá, lấy gì ăn ở? Khổ thay! Thực là mới ra biển khổ lại vào hang mê! Vậy ta hãy xuống chân núi tìm nơi lánh nạn.
Tiểu long Nữ đâu rõ sự tình nên hỏi:
- Võ tam Thông và Quách cô nương không biết có gặp ai và tránh khỏi quân Mông Cổ không? Còn mấy ông đạo sĩ của phái Toàn Chân chắc họ trốn cả rồi chứ?
Những lời chân thật của nàng thốt ra toàn là có hảo ý lo về đất nước. Dương Qua nói:
- Tiểu muội có lương tâm hảo ý lo cho họ, chứ họ có bao giờ nghĩ đến ai? Đây cũng là lòng nhân đáng khen, bởi vậy lúc trước Tổ sư biết rõ tiểu muội có một lương tâm cực tốt, sau này sẽ khổ sở vô cùng, nên sư tổ có nói: Nếu tiểu muội tu nạp là bỏ được ý tình chi phối và đừng nghe, hay hỏi đến gì, hai mươi năm sau tu luyện sẽ đắc quả, vững vàng, chừng ấy mới lo bao hàm thiên hạ sự được.
Tiểu long Nữ mỉm cười duyên dáng nói:
- Thật như vậy sao? Tiểu muội đã có lỗi với Dương huynh, hết đắng cay đến ngọt bùi. Chỉ sợ Dương huynh không giúp muội được hoàn thành.
Dương Qua nói:
- Chẳng phải vậy, có khổ nạn, có sung sướng, nếu ta không khổ sở thì tìm đâu ra hạnh phúc. Phần tôi thì hay si, hay giận, lòng còn sôi động, chưa yên, chưa tĩnh. Chẳng qua được thường tình của kẻ tục tử phàm phu.
Tiểu long Nữ mỉm cười nói:
- Dương huynh! Tiểu muội chẳng có nói sao, chúng ta đến phương Nam giàu có, ruộng màu muôn mẫu, mặc sức cấy lúa nuôi gà, như thế chẳng tu tĩnh hay sao?
Dương Qua than rằng:
- Tôi chỉ thích ruổi dong đây đó, ai mà bó gối tĩnh tu cho được?
Lúc bấy giờ, nơi đây gió bấc thổi, màn trời ảm đảm, từng hạt tuyết rơi như lông ngỗng trắng xóa đầy đường. Hai người nội công rất thâm hậu cho nên sức lạnh của giá băng chưa thấm vào cơ thể họ được, tuy nhiên gió bấc thổi già tuyết càng rơi dữ dội. Hai người không thể trì hoãn nữa, họ dùng sức khinh công đi như bay biến.
Tiểu long Nữ nói:
- Dương huynh bảo sư tỷ của tôi hiện giờ ở nơi đâu?
Dương Qua hỏi lại:
- Tại sao tiểu muội quan tâm đến nó làm chi? Nội cuốn Ngọc Nữ tâm kinh cũng đủ cho nàng ấy làm cứu cánh rồi, đấy là do ý nguyện tốt mà được, sau này thành công nàng ấy có một công lực siêu phàm sẽ gây họa không nhỏ.
Tiểu long Nữ nói:
- Kỳ thật tôi không muốn gần chị ấy!
Dương Qua nói:
- Nàng ấy thực quá lắm vì tánh tự kỷ mà một đứa nhỏ cũng không muốn gần. Nàng tưởng thiên hạ ai cũng như mình, đều gây ra chuyện thương tâm lầm lỗi.
Vào khoảng thời gian này, màn trời xám càng tăng, khí lạnh thấu xương. Hai người đi trên lưng chừng núi bỗng thấy có hai cây tùng cực lớn, che khuất hai gian nhà cây nho nhỏ. Trên nóc, tuyết đóng dày hơn một tấc, trắng xóa lung linh. Dương Qua mừng rỡ nói:
- Tốt thay! Có một nơi tiện nghi, trú đỡ hôm nay rồi!
Nói rồi chàng bèn chạy vào trong quan sát, thấy một cánh cửa bể nửa phần, ván mục đã lâu ngày, bên ngoài không thấy dấu chân người, chứng tỏ là nơi hoang vu đã lấu. Dương Qua nói vọng vào:
- Qua đường gặp mùa tuyết, xin trú nhờ đêm nay.
Trong nhà không nghe trả lời hay nói gì cả. Dương Qua xô cửa bước vào nhà. Bên trong vắng lặng như tờ, không một bóng người. Giữa nhà nhiều khúc củi cháy dang dở, tro tàn nguội lạnh, chứng tỏ không ai ở tại đây. Chàng bèn gọi Tiểu long Nữ bước vào trong. Tìm thấy bên trên cánh cửa có viên đá lửa và đóm bùi nhùi, chàng đánh đóm lấy lửa để nhúm lên một bếp ấm cúng. Trên vách ván có treo một bó cung tên và ở góc nhà có một bẫy để bắt thỏ. Chàng đã hiểu đây là một cái trạm của thợ săn. Dương Qua bèn mang cung tên ra ngoài, tìm săn một con thú để ăn thịt. Một chốc chàng bắt được một con hươu nhỏ, mang về trạm. Chàng lột da thú, lấy tuyết rửa sạch thịt, đem nướng cùng với Tiểu long Nữ dùng bữa.
Bên ngoài tuyết đổ mỗi lúc mỗi to. Giữa nhà một bếp lửa cháy phừng phừng, tiếng củi nổ lách tách ấm áp như mùa xuân.
Tiểu long Nữ nhai thịt hươu để đút cho Quách Tường ăn. Dương Qua đang nướng thịt hươu trên ngọn than hồng hừng hực, cười và ngân nga vài câu thơ cổ.
Bây giờ chỉ có hai người bên đống lửa hồng, ăn thịt hươu nướng, chuyện trò rất tương đắc. Thịt hươu thơm phức tỏa khắp gian nhà, thực là cảnh biệt lập với nhân gian.
Trong khoảng thời gian yên lặng, bỗng có tiếng chân người dồn dập từ hướng Đông đi lại, theo ngọn gió ù ù đưa đến, chứng tỏ có người vào đây, và người đó có một nghệ thuật khinh công vào bậc thượng thặng.
Dương Qua đi lại bên cửa sổ phía Đông mở hé, nhìn ra ngoài. Từ xa đi lại hai lão già, một ốm, một phì, áo quần lam lũ. Lão ốm sau lưng mang một chiếc bầu đỏ. Dương Qua động tâm nhớ lại câu chuyện cũ: à! đây quả là đại hồ lô của Hồng Thất Công. Vào một năm nọ Hồng thất Công với âu Dương Phong đấu võ trên đỉnh Hoa Sơn, hai người sức kiệt đều chết tại đấy.
Dương Qua đứng ra lo việc chôn cất tử tế. Quả bầu đỏ chàng đem chôn chung với thể xác Hồng thất Công. Cho đến ngày sau có cuộc họp mặt anh hùng, chàng thấy có một lão ăn mày mang quả đại hồng hồ lô này làm hiệu lệnh của Hồng Thất Công. Thuở Hồng Thất Công còn sinh tiền, tạo lập ra một bang ăn mày, lấy việc trung nghĩa báo quốc làm mục đích. Dương Qua lúc bấy giờ rất thắc mắc những thế vật đổi thay. Về sau chàng không còn có cơ hội gặp mặt Khất Cái nữa, nên chẳng làm ra sao? Hôm nay cơ duyên hội ngộ xui chàng gặp hai người. Trông hai người quần áo lôi thôi, mặt mày nhem nhuốc, đích thị là bang Khất Cái. Dương Qua nhớ lại chuyện cũ, trong lòng phấn khởi hoan lạc, bèn kêu Tiểu long Nữ bảo rằng:
- Bên ngoài có hai người đi đến, nàng lên giường mà ngủ, kẻo mệt mỏi sinh bệnh.
Tiểu long Nữ ẵm Quách Tường vào trong và để đứa bé nằm trên giường, nàng nằm kế một bên. Tấm khảm mềm của nàng gọi là Thất khổng bác xuyên, chính là da chó sói thuộc mà nàng thường đắp lên mình. Tiểu long Nữ đi rồi, Dương Qua ôm một bó củi đưa vào lò, ngồi một bên sưởi cho ấm. Chàng lấy khăn vấn lại mớ tóc. Đoạn chàng tuốt cây thiết huyền kiếm ra khỏi vỏ, chống trên mặt đất. Bây giờ hai lão già đã đến bên cửa. Dương Qua nghe họ đến bèn giấu kỹ cây kiếm, lấy mỡ trong bụng con hươu, bôi khắp quần áo, giả làm một chú thợ săn lành nghề. Xong xuôi chàng mới ra mở cửa.
Lão già mập phệ cười hề hề nói:
- Rủi quá. Trong núi đầy ngập tuyết, già lấy làm khổ não, xin ngài vui lòng cho ngồi tạm một đêm!
Dương Qua đáp:
- Tôi là phường săn thú. Lão trượng qúi tánh cao danh là chi? Nếu lão trượng không chê nơi thảo dã thì tôi sẵn sàng hầu đáp một đêm có ngại gì?
Lão phệ chắp tay bái tạ rối rít.
Dương Qua nhìn sang lão ốm thì rõ ràng là lão ăn mày gặp ở đại hội năm qua, cũng chiếc đại hồng hồ lô treo lủng lẳng trên vai mà truyền hiệu lệnh Hồng thất Công.
Chàng nghĩ rằng lúc đại hội anh hùng, chàng vắng mặt sớm nhất có lẽ lão ốm chẳng nhận ra mình nên đem con hươu còn lại ra thết đãi và nói:
- Nhờ ơn bão tuyết giá lạnh nên sáng nay tôi có bắn được một con chồn nhưng vô ý để nó xổng mất. Nếu quí vị nán lại giây lát tôi sẽ đi bẫy con khác về hầu rượu cùng quí vị?
Lão ăn mày ốm bảo:
- Xin quan nhân cứ đi! Cứ tự tiện!
Chàng quay vội vào trong, lần lại chỗ Tiểu long Nữ thì thầm:
- Tiểu muội! Hãy chú ý lắng tai nghe hành động của hai lão này.
Tiểu long Nữ lo lắng đáp:
- Nên coi chừng sự dối trá của họ! Sao lòng tôi lo quá?
Nói xong nàng ho lên một tràng dài, tay trái duỗi ra ôm lấy Quách Tường vào lòng, làm đứa bé khóc lên một tiếng, cảnh tượng ấy đúng là gia đình ấm cúng của gã thợ săn, gồm có ba người trong căn nhà.
Dương Qua bước vào trong lấy đá giằng cứng cửa lại, rồi leo lên giường nằm cạnh Tiểu long Nữ và suy nghĩ: "Lão ăn mày mập này, mặt mày sáng suốt, tia mắt hiền từ hình như quen thuộc, không biết ta đã gặp lão tại đâu?".
Độ một giờ sau chàng để ý lắng tai nghe hai người nói chuyện với nhau.
Câu chuyện của hai lão ăn mày không ngoài việc nhận xét của Dương Qua. Họ cho rằng Dương Qua là gã thợ săn cùng khốn mới đem cả vợ con vào nơi hoang sơn cùng cốc nầy. Họ mang thịt nướng ra ăn và nói chuyện rất vui vẻ. Lão ăn mày ốm nói:
- Cả vùng rừng núi Chung Nam Sơn lửa cháy rực trời, không rõ sẽ về tay ai bây giờ.
Lão mập phệ đáp:
- Quân Mông Cổ đi đến đâu các nước đều cắt đất dâng hàng đến đó. Còn ai chống cự sẽ bị nhà tan cửa đổ. Giận thay cho môn phái Toàn Chân, một môn phái nhỏ li ti, với bọn đạo sĩ gàn bướng mà lại ra mặt yêu nước thì có thấm vào đâu?
Lão ăn mày ốm nói:
- Chỉ đợi ngày nào đó Kim Luân Pháp Vương sẽ đem bọn sài lang đến đây nhưng chẳng ăn thua gì.
Lão ăn mày mập phệ cười mũi nói:
- Như vậy rất tốt chứ sao! Vua và điện hạ muốn tốt đẹp hãy nhường cho kẻ khác, bằng khư khư cố giữ dãy giang sơn cầm tù này thì sau ăn năn đâu kịp? Nếu được giao cho người Trung Quốc thân Mông Cổ, thì toàn quân Mông Cổ họp cùng võ sĩ Tây Tạng kéo về đây, lo gì đại sự không thành?
Dương Qua bấy giờ còn thao thức, sực nghe họ nói chuyện mà rởn óc kinh hồn. Chàng nhớ lại chàng đã thấy lão ăn mày mập phệ này một lần tại Bình Tử Quan vào ngày đại hội anh hùng. Lão ăn mày mặc theo sắc phục Mông Cổ, hàng giờ ngồi bên Kim luân Pháp Vương, nghe ngóng và luận bàn kế sách.
Dương Qua nghĩ rằng:
- Theo lời hai người này mà suy luận thì chính họ là kẻ mãi quốc cầu vinh. Hôm nay ta trót lỡ chứa chấp họ nếu về sau gặp ta sẽ không tha thứ cho.
Lão ăn mày mập phệ chính là Trưởng lão của nhóm ăn mày, cai quản một bang to nhất trong nước, tên là Bành Trưởng lão. Lão chuyên làm những chuyện tà bậy và liên lạc thường xuyên với quân Mông Cổ.
Dương Qua lắng tai nghe hai lão tiếp tục nói chuyện.
Lão ăn mày ốm nói:
- Bành trưởng lão! Từ lúc ông thành lập được bang Khất Cái, thì Hoàng Đế Mông Cổ nhớ đến ơn ông, hay phong chức gì cho ông không?
Bành trưởng lão dương dương tự đắc cười to nói:
- Hoàng đế Mông Cổ có phong cho ta chức "Trấn nam đại tướng quân", tuy đã làm quan song chưa vui gì cho lắm . ăn mày ba năm được Hoàng Đế triệu mời, đó là vinh hạnh cho bọn ăn mày chúng ta. Đi ăn mày đâu có thể sung sướng như làm quan.
Tiếp đó hai người nói nho nhỏ, Dương Qua nghe không rõ. Tuy cách bức vách, Dương Qua cũng biết gương mặt của hai lão vui vẻ lắm.
Lão ăn mày ốm lại nói tiếp:
- Thiên lão kính mừng "Đại tướng quân" trưởng lão Khất Cái Bang Nam phái.
Bành Trưởng lão cười to và bảo:
- Trong mấy năm qua công lao của ngươi chẳng nhỏ, sau nầy làm nên đại cuộc, ta chẳng quên ngươi, ta sẽ lo liệu tâu với Hoàng Đế Mông Cổ gia phong chức tước cho ngươi.
Lão ăn mày ốm tỏ vẻ tự phụ, khoe khoang nói tiếp:
- Nếu sau nầy tôi làm quan thì cơ mưu sách lược không thiếu chỉ còn đợi trưởng lão ban bố cho tôi được học qua phép "Nhiếp hồn đại pháp". Được học qua "Nhiếp hồn đại pháp", nhưng bao giờ học được nhỉ?
Bành trưởng lão nói:
- Ngươi hãy chờ đợi ngày công bố Nam phái chính thức. Vả lại ta là đương kim Trưởng lão bang chủ Nam Phái, thì ta có giờ nào rỗi rãi được? Khi nào rỗi rãi ta sẽ chỉ giáo cho ngươi.
Lão ăn mày ốm nói:
- Bây giờ Trưởng lão được vang danh Bang chủ Khất cái Nam phái, lại được làm quan "Trấn nam đại tướng quân" chỉ có ngồi không ra lệnh, chứ có việc gì mà không nhàn rỗi?
Bành Trưởng lão tươi cười nói:
- Lão đệ! Không thể nói được chuyện của ta. Lão đệ không tin tưởng ca ca thì thôi!
Lão ăn mày ốm chẳng dám nói nữa chỉ "khì" một tiếng tỏ ra không tin lời Bành Trưởng lão.
Dương Qua nằm bên trong suy nghĩ: "Từ xưa trong thiên hạ chỉ có một bang Khất Cái mà thôi, đâu có phân biệt Nam Tông, hay Bắc phái? A! bọn nầy muốn lập quân ăn mày để hỗ trợ cho quân Mông Cổ sang chiếm đất Trung Hoa".
Lại nghe Bành Trưởng lão nói tiếp:
- Bây giờ lão đệ hãy đến nhị Hộ tam Trương, mà truyền ra hiệu lệnh của Hồng lão quỷ rằng: Trong bang Khất Cái đã chia ra làm hai Nam, Bắc thì bọn ăn mày không kết đoàn nữa. Chừng ấy ta thành lập hai phái dễ dàng hơn.
Lão ăn mày ốm làm lạnh trả lời:
- Nam bộ Khất Cái sẽ do quyền của tôi thống suất cai quản nhỉ.
Bành trưởng lão nói:
- Không phải vậy đâu. Từ xưa đến nay, bang chúng hành khất đều phục tùng một bang trưởng mà thôi. Đã mấy trăm năm nay, từ hàng đệ tử đến môn hạ, và dân chúng đều theo nghi thức ấy cả, lúc đó ta dùng "Nhiếp hồn đại pháp" chế ra môn võ đặc biệt của Cái bang, luôn dịp truyền hết cho lão đệ, đến khi hành sự mới không lo thất bại chứ.
Lão ăn mày ốm nói tiếp:
- Lúc Hồng lão bang chủ sinh tiền thì người cai quản hết Cái Bang, đến khi người tạ thế, tôi tạm thay bang chủ truyền hiệu lệnh, vì Bang chủ mới mất, chúng ta triệu tập gấp họ sẽ nghi ngờ kéo về đông đảo thì chúng ta biết làm thế nào? Trong tay tiểu đệ chỉ có chiếc hồ lô làm lệnh, chưa hẳn họ nghe. Và hứa hẹn gì trước đám đông cũng khó. Nếu như Tương Dương giải vây được, Hoàng bang chủ hay tự sự như vậy, ắt truy tầm thì tôi biết ăn nói làm sao với Bang chủ. Chừng đó tính mạng của tôi cũng khó toàn vẹn được.
Dương Qua nghe đến đó cũng hiểu phần nào sự thật, trong đám hành khất, theo chỗ hiểu biết của Dương Qua thì quả đại hồng hồ lô lúc Hồng Thất Công tạ thế không ai đứng ra chứng kiến, tại sao bây giờ lại có người cầm giữ chiếc đại hồng hồ lô? Theo hiệu lệnh của chiếc hồ lô này thì phải noi dấu con đường chỉ vẽ của Hồng Bang chủ là lấy Trung, Nghĩa, Nhân để hành động và hào hiệp với tất cả mọi người, vì nước, vì dân, làm chuyện tốt đẹp, lấy nghề hành khất làm phương tiện, để hiểu thấu chuyện lương dân. Đó là phương tiện hành khất của Hồng Thất Công cho nên mọi giới xin ăn đều một lòng tuân theo. Về phần Bành Trưởng lão, ông đối với bang chúng hành khất rất được tín nhiệm, ông lấy tài riêng ra biến một cái bang chia ra nhiều chi. Vì vậy lúc bấy giờ ông được bang chúng tôn thờ là Trưởng lão, quản lý bốn phần năm ăn mày trong Cái Bang.
Dương Qua lúc trước đã ở với Hồng Thất Công trong nhiều ngày, ông ta có một nghĩa cử cao đẹp, tính tình hào hiệp, không bao giờ vì sự đắc ý mà đảo khuynh ý chí. Dương Qua lại thầm tưởng: "Hồng thất Công là một bậc tiền bối hào kiệt, đã dám hy sinh coi danh dự là trọng, thân mình là khinh, quyết chẳng dung tha hay nhường nhịn thử bối (bọn chuột) làm bại hoại gia phong nòi giống". Chàng sực nhớ lại, đại quân Mông Cổ đã đốt nhà cướp của, tàn sát lương dân, thiêu trụi thành đô hết nửa, lửa giận bốc lên ngùn ngụt, chàng muốn nhảy ra giết chết hai đứa gian đồ.
Lại nghe lão ăn mày ốm nói:
- Bành trưởng lão. Tôi sẽ hưởng ứng theo ngài đi thuyết phục khắp nơi trong bang chúng. Chỉ sợ ngài không đủ sức làm theo lời hứa. Vì lời nói không phải là việc làm.
Bành trưởng lão mặt đỏ phừng phừng:
- Tại sao ngươi nói thế?
Lão ăn mày ốm nói:
- Tôi cảm tưởng như vậy. Vì tôi gan nhỏ mật lưng, không dám màng hiệu lệnh của Hồng thất Công đem truyền cho bọn ăn mày.
Dương Qua nghe đến đây biết hết hồn lo giùm cho lão ốm. Nào ngờ không phải vậy. Vì Bành trưởng lão lòng nuôi chí lớn, nhẫn nhục vô cùng, cho nên có nhiều thủ hạ trung thành, lúc đầu rất cứng cổ khó thâu phục, ông cũng không hồ đồ.
Lại nghe tiếng Bành trưởng lão cười hềnh hệch:
- Có gì đâu? có gì đâu? Nếu lão đệ còn thắc mắc thì chúng ta hãy bàn kỹ công việc, lão đệ đừng ngại.
Lão ăn mày ốm trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Cái đùi hươu nhỏ xíu ăn chẳng no, để tôi bắt thêm ít con mang về ăn trước đã rồi bàn sau.
Lão ăn mày ốm nói xong với tay lên, xách bó cung tiễn mang đi ra ngoài.
Dương Qua lén dòm qua kẽ vách, thấy lão ăn mày ốm đi một mình ra cửa. Bành trưởng lão đứng dậy, nhìn ra ngoài, rút đoản đao cậy cánh cửa sau xem động tĩnh thế nào. Khi nghe tiếng chân lão ốm đi thật xa, lão mập mới mở cửa theo sau.
Dương Qua ghé sát tai Tiểu Long Nữ, bảo nhỏ:
- Hai kẻ gian tà lập kế hại lẫn nhau. Ta chờ đợi còn lại một tên sẽ giết không muộn. Theo tôi thấy, lão phệ thật là hèn hạ quá mà lại là tay siêu việt, e lão ốm khó mà đương với lão được.
Tiểu Long Nữ nói:
- Chắc chắn là hai lão nầy không trở lại vì họ tưởng là nhà hoang này cũng có người.
Dương Qua kêu lên:
- ấy đấy!
Bỗng nhiên có tiếng từ bên ngoài vọng vào hỏi:
- Ngươi có nghe tiếng chân ta không?
Không nghe tiếng trả lời. Người ấy đi từ trước ra đến cửa sau. Dương Qua mỉm cười bảo nhỏ:
- Lão ăn mày ốm trở về đấy!
Chàng tung nhẹ thân mình qua cửa sổ, nhảy ra ngoài, đứng trên mặt tuyết, không một tiếng động. Quả nhiên lúc đó lão ăn mày ốm đang nghiêng mình nhìn qua vách. Không tìm thấy bóng Bành trưởng lão đâu, hắn nhón gót bước vào cho rằng không ai chú ý đến. Dương Qua nhè nhẹ đến sau lưng "Hì hì" một tiếng nhỏ. Lão ăn mày ốm hoảng hồn quay lại, tưởng Bành trưởng lão ghẹo mình, nhưng khi thấy Dương Qua, hắn biến sắc.
Dương Qua cười nói:
- Đừng sợ! Đừng sợ!
Một tay chàng bụm miệng, một tay búng vào bụng khóa tất cả huyệt đạo của lão, rồi dắt về phía cửa. Bấy giờ Dương Qua mới phóng mắt nhìn lại thấy lão ăn mày ốm toàn thây tuyết phủ trắng xóa, bèn nghĩ đến chuyện vui. Chàng gọi to:
- Long nhi! Long nhi, hãy ra xem, tôi mời người tuyết về đây!
Tay chàng đặt vào một thân hình người trắng xoá. Khi giũ sạch mớ tuyết dính trên người thì Tiểu long Nữ mới nhận ra lão ăn mày ốm lúc nãy. Nguyên lão ăn mày ốm lúc nãy ra đi săn, sau lưng quả đại hồng hồ lô cũng bị tuyết phủ trắng xóa.
Dương Qua nói:
- Lão này chỉ ra ngoài trong phút chốc đã mập lại trắng, trông xinh làm sao!
Tiểu long Nữ cũng vui đùa, nói:
- Lão trượng biết biến hóa thay hình đổi dạng đó mà!
Rồi hai người cười ồ. Dương Qua bỗng nghe tiếng chân người từ xa vọng lại, chàng quay sang lão ăn mằy ốm bảo:
- ông bạn mập của lão về đấy, chúng ta lánh mặt xem lão nói gì?
Dương Qua liền đẩy lão ăn mày ốm vào kẹt cửa ngang và bảo lão yên lặng, vì Dương Qua đã điểm vào đại huyệt của lão lúc nãy nên nửa thân mình lão tê liệt.
Tiểu long Nữ và Dương Qua bước vào trong làm động đậy, bé Quách Tường giật mình ré khóc lên. Tiểu long Nữ ru dỗ như người mẹ, cảm thấy Dương Qua ngồi kế bên như một hoan hỉ đối với chàng.
Bành trưởng lão đã về. Lão nhìn qua một lượt các dấu chân còn in rõ ràng trên mặt tuyết biết lăo ăn mày ốm đã trở về, và lẩn trốn đâu đây. Thấy dấu chân lần về cửa sau, lão bèn quay trở ra phía sau, đến cửa sổ, lão khúm núm nhìn xuyên vào trong nhà.
Dương Qua với Tiểu long Nữ đưa mắt nhìn sang kẽ vách xem lão mập giở trò trống gì, thì thấy bóng lão đang khom khom hướng vào nhà quan sát, tay phải lão lăm lăm cây đoản đao, cặp mắt sáng trông rất hung hăng
như đang chuẩn bị giết lão ăn mày ốm vậy.
Lão ăn mày ốm tuy bị điểm huyệt, song thần trí vẫn minh mẫn. Lão thấy rõ Bành trưởng lão có một tà ý muốn giết lão, nhưng khổ nỗi ba yếu huyệt trong mình bị Dương Qua điểm, toàn thân di động chẳng được.
Bành trưởng lão nhìn kỹ không thấy ai trong nhà, bụng hồ nghi, bèn xô cửa bước vào, quan sát cũng không thấy lão ốm ở đâu. Đang ngạc nhiên bỗng nghe từ xa có tiếng chân người đến. Lão cảm thấy như các thớ thịt của lão rung động vì sợ. Lão vội núp sau cánh cửa, đinh ninh là lão ốm trở về.
Dương Qua và Tiểu long Nữ lấy làm lạ, vì lão ăn mày ốm còn sờ sờ đấy, ai lại đến nữa? Chàng bèn trầm ngâm một lúc, rồi lẻn ra ngoài.
Bành trưởng lão khi trở lòng đầy ác tâm, muốn lập kế giết chết lão ăn mày ốm. Bỗng tiếng chân người bên ngoài đã đến, làm Bành trưởng lão ngồi trân ra đó.
Tiếng người từ ngoài cửa vọng vào:
- A di đà phật, Bần tăng vào núi gặp tuyết giá, xin thí chủ cho nghỉ nhờ giây lát.
Bành trưởng lão chuyển mình ngó ra ngoài thấy tuyết đóng dày mịt, có hai vị tăng già nua, một vị mày dài quá mắt, trắng tựa tuyết, đôi mắt hiền từ đạo hạnh, còn một vị thì với bộ râu dài quai nón, mặc áo bào đen, tuy vào lúc mùa đông tháng lạnh mà hai vị lão tăng mặc toàn đồ mỏng nhẹ nhàng. Bành trưởng lão đứng lùi vào góc nhà.
Dương Qua bước đến thi lễ, nói:
- Đại lão hòa thượng! Mời ngài vào nghỉ ngơi, hiềm vì nhà tiểu dân quá nhỏ.
Hai vị hòa thượng đồng vào.
Bấy giờ Bành trưởng lão bắt gặp lão ăn mày ốm thần sắc, đã đượi, khí mạo nhợt nhạt lấy làm quái dị vô cùng, bèn liếc nhìn Dương Qua thì thấy chàng thần sắc vẫn huy huy như thường làm cho Bành trưởng lão chẳng hiểu ra sao cả.
Dương Qua nghinh tiếp hai lão hòa thượng vào trong, nghĩ thầm:
- Hai người này chẳng phải tầm thường, cũng đứng vào hàng tiền bối chi đây!
Thấy lão hòa thượng áo đen, mặt mày dữ tợn, tia mắt rợn người, chỉ sợ lão này cùng một bọn với Bành trưởng lão nên chàng hỏi:
- Đại lão hòa thượng, xin phiền ngài tạm đỡ nơi đây! ở đây là thảo sơn hoang dã, chỉ có một ít đồ khô, mời nhị vị dùng đặng chăng?
Lão hòa thượng mày trắng, nói:
- Tội nghiệp! Tội nghiệp! Rất cảm ơn! Chúng tôi có mang lương khô để dùng, chẳng dám làm nhọc lòng thí chủ.
Dương Qua đáp:
- Thực tốt lắm vậy!
Chàng giã từ hai lão hòa thượng vào trong an nghỉ. Chàng nói với Tiểu long Nữ:
- Hai vị hòa thượng nầy, chính thật là hai võ lâm tiền bối. Chúng ta chờ xem có lẽ hai người này sẽ đánh hai người kia.
Tiểu long Nữ nhíu mày, đáp nhỏ:
- Trên đời thiếu gì người chân kẻ ác? Hiện tại ở nơi cao sâu của rừng núi, nếu giết người sẽ mất đi sự thanh tịnh.
Dương Qua nhìn qua khe cửa, trông chừng hành động của hai lão hòa thượng. Chàng thấy Bạch Mi tăng lão hòa thượng lấy ra bốn viên mì khô đưa cho Hắc y tăng hai viên, còn mình hai viên, bỏ vào miệng nhai rất ngon lành. Dương Qua suy tưởng rằng:
- Bạch Mi hòa thượng có vẻ mặt phi phàm, nghi biểu hiền lành đạo mạo, có lẽ là vị cao tăng ẩn sĩ nào đây. ở đời cũng có ngưòi mặt mũi hiền lành mà trong lòng ác độc không ngờ được.
Lại thấy Bành trưởng lão ngó Hắc y tăng cười. Dung mạo xấu xí của hòa thượng này có vẻ như người sát nhân trọng tội, làm chàng phân vân không ít. Bỗng nghe có tiếng lách cách vang lên. Kế đó Hắc y tăng vung tay ra thì thấy có hai miếng sắt bằng đồng hồ đeo ở cổ tay.
Bành trưởng lão đang ngồi cuối phòng, đột nhiên rút cây đoản đạo, chạy ra ngoài. Hắc y tăng nhìn Bành trưởng lão, mắt không nháy. Bỗng "cạch cạch" hai tiếng nữa nổi lên. ấy là hai đồng thiếc khác đeo ở cổ chân Hắc y tăng, khi lão rùng mình thì đồng thiếc reo lên, cũng như tiếng kêu trước kia là do hai miếng thiếc đeo ở cổ tay Hắc y tăng vậy. Ngoài ra, khi Hắc y hòa thượng chuyển mình, thì trong người lại phát ra tiếng răng rắc làm cho Bành trưởng lão cũng như Dương Qua không hiểu sao cả. Bành trưởng lão hồi hộp nhìn sang Hắc y tăng có ý đề phòng.
Bây giờ Bạch Mi tăng đôi mắt thẫn thờ nhìn Hắc y tăng bảo:
- Ngày hôm nay thế nào?
Hắc y tăng đáp:
- Đệ tử chạy trên một con đường mà không rõ sẽ về đâu.
Hắc y tăng nói xong lại quỳ gối xuống, chắp tay lên ngực:
- Cầu Phật tổ từ bi.
Dương Qua và Bành trưởng lão sửng sốt, không hiểu hai vị sư tăng này làm cái gì mà nói năng rất kỳ dị. Tuy nhiên cả hai thấy vui vui nên im lặng nhìn xem.
Hắc y tăng nói xong câu này, bèn ngước mặt lên, nhưng vẫn quỳ ngay chỗ cũ, thân hình vững chắc như một trụ cột, trong khoảng khắc thân hình lão chuyển động và lão bắt đầu hít hơi vào nghe vo vo. Ban đầu nghe nho nhỏ, dần dần lớn như tiếng trâu rống to làm gian nhà cây rung động, vách cửa rung rinh như muốn sập đổ. Tuyết phủ chung quanh gian nhà cũng bắn ra tung tóe.
Bành trưởng lão thấy vậy, run lên từng chập, mồ hôi đổ ra nhễ nhại. Dương Qua và Tiểu long Nữ cũng khiếp sợ trước nội lực uyên thâm đó, không hiểu hòa thượng thở bằng cách nào mà như trâu rống, cọp gầm, thâu mình lại bất động, sắc mặt vẫn tự nhiên. Dương Qua nghĩ thầm: "Chẳng lẽ hắc y hòa thượng mắc chứng quái bệnh, và tại sao Bạch Mi hòa thượng ngồi trơ ra chẳng mảy may chú ý? Không lẽ Bạch Mi chẳng nghe tiếng thở sao? Thật quái dị!
Trong khoảnh khắc, Hắc y tăng rống lên một tiếng to như voi gầm vang dội, thân thể của lão bốc hơi, từ đầu dần dần đến chân. Lúc ấy Bạch Mi tăng mới bảo:
- Chẳng bảo làm mà làm, chuyện bảo mà chẳng làm, đầu óc bị nung đốt vì hối hận, chuyện làm ác truyền đến đời sau.
Bạch Mi tăng nói trầm ngâm lời Phật dạy, Hắc y tăng "rống" lên một tiếng rồi ngồi im lặng. Vẻ mặt trở nên vui tươi.
Dương Qua thấy vậy chép miệng than:
- Vị hắc lão hoà thượng này, nội công thâm hậu vô cùng, đời này chắc chưa ai sánh kịp. Bạch Mi lão tăng chưa chắc đã địch lại.
Lại nghe Bạch Mi tăng giảng tiếp bài kệ di đà:
- Phỏng nếu ngươi có tội đã biết ăn năn thì đừng phiền não. Được vậy trong tâm mới an tĩnh, chẳng hề tưởng quấy. Không nên vì sự ăn năn buồn khổ. Hễ buồn khổ thì điều ác dấy lên, hãy theo lệnh Di Đà, đừng làm điều xằng bậy.
Bạch mi hòa thượng đọc xong lời kệ trên, Hắc y tăng tiếp tục nhẩm đọc, vẻ sùng kính hiện rõ ở gương mặt lão. Lão lẩm bẩm:
- Nếu người có tội biết ăn năn, đã ăn năn thì đừng phiền não...
Bỗng lão ngưng đọc và hỏi:
- Sư phụ, thuở xưa đệ tử tạo lắm lỗi lầm, sợ mang tội nghiệt, phiền não không yên. Cũng vì ích kỷ nên quá lỗi lầm. Từ ngày theo thầy đến nay hằng cải ác, nghe lời thầy dạy nhưng mà trong lòng vẫn không an, trước sau chẳng được vui tính. Như thế là sao vậy?
Bạch Mi tăng đáp:
- Người gây ra tội, biết ăn năn chừa bỏ rất ít có. Ngươi chẳng phải là thánh hiền, tránh sao khỏi lỗi. Vì vậy cổ nhân có câu:
- "Tri quá tất cải thiện mạc đại yên" nghĩa là "Biết lỗi mà chừa chẳng làm sao".
Dương Qua nghe đến đây lòng sôi động và nghĩ rằng:
- Tôi tên là Quá, một chữ Quá là lỗi lầm. Mẹ tôi thường bảo tôi biểu hiệu là sửa đổi hay "cải chi" chắc là do câu: "Tri quá tất cải thiện mạc đại yên" ý nghĩa tên độc tôi là như vậy. Hòa thượng này là một vị thánh tăng có lẽ hôm nay trời xui khiến đến điềm hóa cho tôi chăng?
Dương Qua nghe xong những lời cao diệu, thậm thâm của Bạch Mi hòa thượng, lòng nảy sinh kính phục vô ngần.
Bấy giờ Hắc y tăng nói tiếp:
- Đệ tử ác cảm quá nặng! Mười năm về trước, đệ tử theo thầy học đạo chẳng bao lâu lại ra tay giết chết ba người. Ngày nay, trong mình máu huyết cuộn sôi, khó điều động được. Chỉ sợ tội ác lâu ngày khó giải. Cầu thầy từ bi cứu vớt đệ tử khỏi nạn.
Bạch mi đáp:
- Lành thay! Ta sẽ giúp ngươi đoạn tuyệt, dẫu ác niệm chứa chấp trong nội tâm, ngươi mau chừa bỏ dần dần là được. Nếu ác thiện chưa tiêu ví như chân tay đã gẫy, thì còn dùng làm gì được?
Hắc y tăng tay chân rung động, xương cốt chuyển nghe răng rắc. Đột nhiên ông ta khóc rống và nói:
- Sư phụ đã vì đời khai sáng đạo, chỉ tủi thân đệ tử đức bạc, chút ác niệm mà chẳng trừ được!
Bạch Mi tăng chua xót thở dài, than:
- Vì ngươi tiên căn chưa can, tuy đã biết hối hận ăn năn nhưng ngươi chưa hiểu thấu ngọn nguồn. Là người phải có một tấm lòng nhân ái, chỉ có lòng nhân ái mới trừ dứt, ác niệm được. Ta đã thuyết về kinh Lộc Mẫu của Phật cho ngươi nghe rồi, đại ý là như vậy để ta nhắc lại cho ngươi nhớ.
Hắc y tăng nói:
- Đệ tử xin lãnh ý!
Lúc ấy hai vị lão tăng ngồi xếp bằng tròn trên đất. Dương Qua với Tiểu long Nữ bèn xuống giường, ngồi sát vách để nghe tiếp câu chuyện.
Bạch Mi tăng bắt đầu, nhắc lại một đoạn trong kinh Lộc Mẫu có thuyết để cảm hóa Hắc y tăng. Lão nói:
- Ngày xưa đã lâu lắm, lúc Phật vân du thuyết đạo: Có một con nai mẹ sanh ra hai con nai con. Nai mẹ vì vô ý, bị người thợ săn bắn phải, mà người thợ săn cũng không cố ý giết con nai. Nai mẹ kêu lên một tiếng thảm thiết hướng mặt vào người thợ như nói rằng: - Tôi có sinh hai con nhỏ dại, chẳng biết tìm đâu ra nước cỏ mà ăn uống. Xin khẩn cầu người mở lòng rộng rãi nuôi nấng giùm chúng nó, dẫu chết tôi cũng không oán người. Nước mắt nai chảy ràn dụa. Người thợ săn chẳng nói gì. Nai mẹ lúc lắc đầu tỏ ra thảm khổ vô cùng, người thợ săn động lòng, gật đầu đi theo con nai mẹ. Nai mẹ đi trước dẫn đường. Khi gặp được hai con, nai mẹ duỗi thẳng hai chân ra đằng trước tỏ vẻ âu yếm, day qua người thợ săn, bảo hai con rằng: Mọi việc ở trên đời do tình thương và nhân nghĩa mà hội ngộ, do nhân duyên mà họp mặt, bởi vậy người ta gọi là "hội họp", khi đã họp ắt có biệt ly, bao giờ trường cửu được? Nay ta là mẹ các ngươi, sợ mà không giúp được, giữ mà chẳng trọn. Sống, chết, lo, sợ đều là con đường phải đi, không tránh nổi! Hai con nai nhỏ vì quá ấu thơ, nào hiểu được ý nghĩ của bà mẹ? Lúc ấy nai mẹ dìu hai con đến bãi cỏ chỉ loại cỏ ngon, lại dắt ra dòng nước ngọt, đôi mắt nai mẹ lệ nhỏ tuôn trào và nai mẹ nói tiếp: Bởi ta đi lạc đường, gặp phải thợ săn giỏi nên gã bắn phải nhầm ta, cốt mang về ăn thịt, ta sợ không tròn bổn phận người mẹ nên cầu khẩn gã thợ săn gởi gắm các con. Tuy gã đã giết mẹ vì miếng ăn nhưng gã phải nuôi các con vì lòng nhân đạo. Hôm nay mẹ phải chết vì yếu sức lắm rồi... thương các con côi cút. Các con hãy tự lực cánh sinh! Nai mẹ hướng vào gã thợ săn nhìn lần cuối cùng và nằm lăn ra đất, thoi thóp thở...
Tiểu long Nữ nghe đến đây vô cùng chua xót nghĩ rằng mạng sống mình chẳng bao lâu và sống, chết, sợ đều là con đường của mọi người, như buổi sáng đầy sương mù. Nàng lại nhớ đến câu "Thương các con côi cút, hãy tự lực cánh sinh". Tiểu long Nữ đau xót cả tấm lòng, bất giác đôi mắt nàng mờ lệ, khóc như mưa.
Dương Qua biết rõ lời thuyết Lộc mẫu là câu chuyện ngụ ngôn và câu chuyện này Bạch Mi hòa thượng đã nêu ra tình mẫu tử cốt nhục, đồng bào, là tình sâu như biển rộng. Nghe xong Dương Qua càng cảm động, tuy biết đấy là lời răn của Bạch Mi đối với Hắc Y hòa thượng.
Lại nghe Bạch Mi tăng nói:
- Câu chuyện "lộc mẫu" chưa hết, sau khi nai mẹ nằm xuống đất, hai con kêu la, khóc lóc rất thảm thương không muốn rời mẹ. Nai mẹ thấy vậy nói: Hai con! Không nên chạy nhảy viễn du, rủi gặp người thợ săn khác đấy, thì cũng như trường hợp của mẹ. Hôm nay mẹ chết đã cam lòng, nhưng chỉ lo cho con còn yếu dại, chuyện đời lắm nỗi bất ngờ có thể xảy ra trong khoảnh khắc. Phần ta cam đành bạc mạng, nếu các con nghe lời dạy dỗ thì ta rất vui lòng mà chết vậy. Nai mẹ dạy dỗ và trối xong còn đợi người thợ săn kết liễu tính mạng, vì nai mẹ chỉ trúng một mũi tên vào đùi. Hai con nai con đến trước trước mặt người thợ săn chạy giỡn, tỏ vẻ không sợ sệt. Người thợ săn bùi ngùi ngồi xuống, rút mũi tên cho nai mẹ và rịt thuốc cầm máu. Nai mẹ nhờ đó mà sống sót được. Khi ba mẹ con nai vui vẻ quây quần, người thợ săn bùi ngùi tự nghĩ: "Nai mẹ đã chịu chết vì tín nghĩa, dám xả thân để cứu vớt con, thực là chí tiết đơn thành, người ta chắc ít người bì kịp. Chàng thợ săn bèn bỏ đi không tính giết nai nữa. Ba con nai được tha chết hướng vào chàng kêu "Hưu hưu" tỏ vẻ cảm ơn, báo đức. Về sau người thợ săn đem chuyện này tâu cho quốc vương nghe cả nước đều cảm phục. Từ đó ít người sống về nghề săn thú nữa.
Hắc y hòa thượng nghe xong câu chuyện, nước mắt chảy đầy mặt và nói:
- Loài nai còn biết trọng ơn giữ nghĩa, mẹ hiền con hiếu, mà đệ tử chẳng sánh kịp trong muôn một.
Bạch Mi tăng nói:
- Lòng nhân từ phát khởi mọi nghiệp ác tiêu tan.
Bành trưởng lão nghe câu chuyện này tưởng đâu Bạch Mi tăng châm biếm mình nên ngó ông bằng một con mắt và tỏ vẻ bực bội về câu chuyện vừa kể.
Hắc y tăng thấy vậy xì lên một tiếng to. Bạch Mi tăng nói tiếp:
- Sửa lỗi chẳng bằng làm lành. Với việc hối lỗi chẳng làm tiêu nghiệp chướng còn làm lành được quả tốt về sau.
ông nói nhỏ lại và vui vẻ:
- Như tôi đây, trọn đời chẳng tạo chuyện gì thất thố vô nhân!
Nói xong đôi mắt ông từ từ nhắm lại đầu hơi cúi xuống để trầm tư nhập định.
Hăc y tăng đã giác ngộ được phần nào, dù cho lòng phiền toái cũng biết cố gắng chế ngự. ông liền quay đầu lại thấy Bành trưởng lão cười ngạo nghễ ngó về hướng mình, đôi mắt của lão này phát ra những tia sáng cực mạnh và rực rỡ. Hắc y tăng thầm nghĩ: "Không biết đã gặp lão đạo nầy tại đâu, trông quen quen, và tại sao lúc nầy hắn ngó mình có một con mắt?". Hắc y tăng bèn nheo mắt ngó lại.
Bành trưởng lão cười hỏi:
- Ngươi hạ nổi một khối tuyết chăng?
Hắc y tăng đáp:
- Được! Đưọc! Tưởng gì chứ khối tuyết có nhằm gì?
Bành trưởng lão bảo:
- Lại đây! Ngươi sẽ thấy rơi lác đác như bông.
Nói xong lão đẩy cửa, và bước vọt ra ngoài.
Hắc y tăng nói:
- Tốt lắm! Ngươi chỉ ta coi tuyết rơi lác đác như bông!
Hắc y tăng cũng vọt mình đến sánh vai Bành trưởng lão ngay ngưỡng cửa. Cả hai đứng trông về phía trước.
Dương Qua tuy nằm cách vách nhưng lắng nghe không sót một việc bên ngoài, lại thấy đôi mắt Bành trưởng lão phát ra hai tia sáng kỳ dị, biết có ẩn ý chẳng lành. Chàng cảm thấy như vậy.
Bành trưởng lão cười nói:
- Sư phụ ngươi thật là người rất tốt, từ bi chí thiện muôn lần gìn giữ chẳng biết người. Nhưng với kình lực của người mà chịu phục tùng người ấy chẳng uổng công tập luyện lắm ư? Trên đời có ai là người không lỗi? Phải không?
Hắc y tăng nghe nói, mơ hồ đáp:
- Phải chứ! Phải chứ!
Bành trưởng lão nói:
- Ngươi có song chưởng phóng thẳng vào người tuyết, vậy đánh thử chơi! Ta nhắm chẳng có tội lỗi gì.
Hắc y tăng nhìn xem tứ hướng tìm người tuyết ở đâu để chạy theo giết chết mà xem mặt.
Thời gian hai vị hòa thượng vào đây đến giờ đã lâu lắm. Lão ăn mày ốm lăn ra ngoài trố đôi mắt nhìn về phía ngôi nhà của Dương Qua, bất ngờ Bành trưởng lão ngó thấy, nên lập kế gạt Hắc hoà thượng để giết lão ốm. Vì trong lúc này mình mẩy lão ốm dính đầy tuyết.
Bành trưởng lão nói:
- Ngươi có thể dùng song chưởng phát ra, đánh người tuyết. Vậy dám đánh chăng?
Lời nói có vẻ nhu hòa nhưng thâm tâm Bành trưởng lão cố khuyến dụ Hắc y hoà thượng sát nhân. Hắc y tăng vận kình lực vào đôi tay giơ lên nói:
- Đánh chứ! Đánh chứ!
Bạch Mi tăng quay đầu nhìn ra, giơ tay lẩm bẩm:
- Giết! Khi ta muốn giết, nghiệp chướng ắt sanh.
Bỗng một tiếng ầm vang dội. Hắc y tăng vừa phóng ra song chưởng. Tuyết vỡ tung ra, lão ăn mày ốm ở trong ngọn chưởng của Hăc y tăng nhào tung, vỡ cả huyệt đạo, kêu lên một tiếng ối rồi lăn nhào. Kình lực của song chưởng rít lên vang dội khắp núi rừng, rung chuyển cả căn nhà cỏ.
Tiểu long Nữ và Dương Qua đều phải thủ thế để chống lại luồng kình phong của Hắc y tăng đang ép mạnh trong không khí.
Hắc y tăng hét lên một tiếng kinh hoàng:
- Trời ơi! Trong tuyết có người!
Bạch Mi tăng đang ngồi tĩnh tọa, nghe tiếng hét vội vã phóng ra ngoài nhìn thấy sự thể rất đau lòng. Lão ăn mày ốm bị Hắc y tăng dùng thiết chưởng thần công quật chết.
Hắc y tăng hồn vía lên mây. Vì đã lỡ quật người có tội nên ngồi bệt xuống đất, cạnh xác lão ăn mày ốm mà khóc.
Bành trưởng lão giả bộ kinh hãi nói:
- Người đâu quái lạ, khi không nấp sau tảng tuyết làm gì? Ôi chưởng lực gì mạnh bạo như thể múa gươm, xác chết bị cắt mất.
Tuy bên ngoài Bành trưởng lão muốn làm mặt từ tâm để che mắt mọi người nhưng trong lòng lấy làm đắc ý, khi thấy lão ăn mày ốm đã chết. Bành trưởng lão giả bộ bi thiết nói:
- Khi không mà xảy ra cơ sự! Tại sao lão này phải ẩn núp như thế? Dầu cho ai thấy cũng chẳng làm sao biết trước được rủi ro này. Tội nghiệp thay!
Hắc y tăng khổ sợ kêu lên:
- Sư phụ !
Và mặt ông ta cúi xuống đất!
Bạch Mi tăng hoà thượng bảo:
- Oan nghiệt! Oan nghiệp! Người này không phải ngươi giết nhưng lại chết về tay ngươi!
Hắc y tăng quỳ xuống mặt tuyết nói:
- Đệ tử vì bất cẩn đã gây nên tội!
Bạch Mi tăng bảo:
- Tại ngươi nghe nói một người tuyết mà nổi tính háo kỳ như vậy. Sự thật là ngươi không cố tâm giết người? Nhưng mà ngươi có biết chăng? Thiết chưởng của ngươi thần khiếp, quỉ bạt, khi tự tay ngươi tung ra thì ngươi không thể biện luận sự sát nhân của người đâu?
Hắc y tăng khổ sở nói:
- Đệ tử không cố ý giết người!
-
Chương 77 - Rừng Hoang Tuyết Lạnh, Ngạo Chiến Xảy Ra - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 77 - Rừng Hoang Tuyết Lạnh, Ngạo Chiến Xảy Ra
Bạch mi tăng nhìn ngay Bành trưởng lão, đôi mắt chẳng chuyển tròng, phát ra những tia sáng quắc, uy nghi như ngầm bảo lão ta đang tâm sát hại đồng bọn. Vì Bạch mi hòa thượng hiểu rõ Bành lão đã dùng "Nhiếp hồn đại pháp" trợ lực với Hắc y tăng để giết chết lão ăn mày ốm.
Bành trưởng lão rất khó chịu với tia nhìn xoi mói nầy. ông quay sang hắc y tăng, bỗng nhiên kêu to một tiếng và hỏi Hắc y tăng:
- Lão hòa thượng! Lão hòa thuợng có phải là Bang chủ Thiết Chưởng chăng? Tôi đoán không nhầm.
Lão lại hi hở cười to, trên mặt hiện ra những nét sát nhân hắc đạo. Cười xong lão ta tỏ vẻ cảm động như kẻ xa nhà gặp bạn thân, nước mắt ươn ướt và nói:
- ông chính là Bang chủ Thiết chưởng bang: Cừu lão tiền bối đây mà! Vì cớ sao Bang chủ ra làm hòa thượng vậy?
Đúng vậy, chính Hắc y tăng là Cừu thiên Nhận, Bang chủ của Thiết chưởng bang. Nguyên lúc trước Cừu thiên Nhận đã lên tỷ võ trên đỉnh Hoa Sơn, vì tính đốn ngộ của lão ta, Nhất Đăng đại sư điểm hóa trở nên sáng suốt đôi phần. Về sau lão bỏ nhà cửa đi theo Nhất đăng đại sư, làm tăng lữ. Bạch Mi tăng là một nhân vật kiệt liệt giang hồ, đã ngang hàng với Vương Trùng Dương, Hoàng dược Sư, Âu dương Phong và và Hồng Thất Công, hiệu của ông là Nhất Đăng đại sư, tức là Bạch mi tăng. Cừu thiên Nhận từ lúc quy y Phật pháp, lấy pháp danh là: Từ Ân, dũng mãnh tinh tấn, chăm việc tu hành, chỉ vì thuở trước ông làm những việc oan nghiệt quá nhiều, trong lòng rất hung dữ, chỉ chế ngự bản năng được phần nào thôi, tính rất ngông cuồng. Nếu ông ta ra ngoài rất dễ bị cám dỗ, sinh ra chuyện cường bạo. Nơi bàn tay của ông cũng đủ đánh người chết dập xương, do đó Nhất Đăng đại sư mới cho ông đeo các mảnh tiền điếu, hễ tay chân ngứa ngáy muốn làm điều xằng bậy thì các mảnh thì các mảnh tiền chạm vào nhau kêu lên để làm cho ông tỉnh ngộ. Một ngày kia, thầy trò Nhất Đăng đang ẩn tu tại Nam lộ, xứ Hồ Quảng, bỗng được tin cầu cứu của người đệ tử là Châu Tử Liễu đang thọ khổ tại tuyệt tình cốc. Thầy trò mới sửa soạn lên đường đến hang Tuyệt Tình. Đang đi giữa rừng sâu núi cốc, vì cơn tuyết đổ mới ghé qua nhà Dương Qua rồi gặp bọn Bành trưởng lão và Cừu thiên Nhận đã vô cớ giết oan một mạng người. Kể từ lúc xuất gia tu hành, Từ Ân tức Cừu thiên Nhận đã giữ trọn giới luật trong mười năm qua, tuyệt không vi phạm một lỗi lầm nhỏ mọn nào, bây giờ lỡ tay giết chết một người là lần thứ nhất trong mười năm công quả của ông. Do đó ông đau khổ vô ngần, sự hối hận ăn năn đã làm ông mê man và thiếp đi một lúc thật lâu.
Từ Ân đại sư thầm nghĩ: "Mọi việc xảy ra là do ý của Bành trưởng lão gài bẫy cho ông mắc tròng". ông cất đầu nhìn về phía Bành trưởng lão như muốn nuốt sống ông này bằng đôi mắt đỏ rực như lửa cháy.
Nhất Đăng đại sư biết rõ tình trạng nguy ngập, nếu không kịp thời khuyên nhủ Từ Ân nên ông gấp đến dìu Từ ân đứng dậy. Ông hiểu rõ tâm địa của Từ ân từ giờ phút này ác niệm đã sống dậy, càng chứa chấp càng sôi động, có một ngày nào đó sẽ xảy bạo động ra khó lòng mà can thiệp kịp nữa. Nhất Đăng đại sư để tâm đề phòng Từ Ân, vì chứa hiền sẽ xảy ra lành, chứa ác sẽ đức sẽ gặp điều thảm họa và sự tu hành phải tùy thời, nên ông dang tay áo rộng, cúi xuống đỡ người đệ tử đứng lên. Từ Ân được dìu đứng dậy. Nhất Đăng nhìn vào mặt Từ Ân, trầm giọng niệm:
- A di đà Phật, A di đà Phật!
Và ông niệm đến bảy trăm tám mươi tiếng a dì đà.
Từ Ân đại sư đôi mắt dần dần chuyển về hướng Nhất Đăng đại sư mà không nhìn Bành trưởng lão nữa. Ông ngồi xụp xuống đất, xếp bằng tròn thở ra và niệm Phật hiệu theo ý thầy.
Phần Bành trưởng lão hiểu rõ Cừu thiên Nhận võ công quán thế tại sao lại nhẫn nại tùng phục lão Nhất Đăng hòa thượng? Theo Bành trưởng lão thì Nhất Đăng hòa thượng chỉ là người đầu bạc râu dài, bất quá là vị hoà thượng già suy yếu không làm được trò trống gì. Nghĩ như thế Bành trưởng lão muốn dùng "Nhiếp hồn đại pháp" sát hại Cừu thiên Nhận cho rồi nhưng nhưng ông nghĩ lại chẳng nên giết vội. Nào ngờ Nhất Đăng đại sư đứng cạnh người đệ tử, đôi mắt theo dõi biến chuyển nội tâm của Bành trưởng lão, cho nên lão nầy lúng túng chưa thể xuất chưởng sát hại thầy trò ông. Môn "Nhiếp hồn đại pháp chưởng" gốc là thuật thôi miên, dùng tinh thần cảm ứng phát ra chưởng lực để vào mắt đối phương cho tâm loạn mới xử dụng được. Nhưng đối phương của Bành trưởng lão đôi mắt sáng như sao, nội lực mạnh như hổ, cho nên Bành trưởng Lão tung chưởng ra không được. Thật ra Bành trưởng lão không biết rõ Nhất Đăng đại sư là Đoàn Nam Đế. Nhất Đăng đại sư đã tu luyện nhiều năm, đôi mắt như thần, tâm linh sáng suốt, thì Bành trưởng lão làm sao chế ngự được? Bấy giờ Bành trưởng lão nhận thấy hoàn cảnh ông rất nguy ngập, sợ Cừu thiên Nhận nghe lời Nhất Đăng dùng "Thiết chưởng" mà quật lão chết. Lão muốn đi trốn nhưng lại ngán nỗi tuyết giá ngập trùng. Vào buổi trước, Cừu thiên Nhận có một ngoại hiệu là "Thiết chưởng thủy thượng phiêu" vang danh thiên hạ về môn khinh công, đi trên tuyết không dấu chân, đi dưới sông như trên bộ. Bành trưởng lão biết rằng trốn cũng không thoát tay Cừu thiên Nhận nên đành phải im lìm với Nhất Đăng đại sư và Từ ân hòa thượng, tạm nghỉ ngơi qua đêm lạnh. Bành trưởng lão nằm thao thức, lòng dạ rối bời, mà đôi mắt chẳng rời Cừu thiên Nhận.
Trong lúc đó, Dương Qua sau khi nghe Nhất Đăng đại sư quay về Lộc Mẫu kinh, chạnh nghĩ rằng: "Khi người quá vui vẻ về cuộc sống thì sự chết chóc cũng không biết sẽ xảy đến lúc nào. Như lão ăn mày ốm đi theo đường lối gian tà, ác độc, chết cũng đáng lắm rồi. Tuy nhiên cái chết quá chớp nhoáng của lão ăn mày ốm làm chàng nhớ lại lúc Từ ân hòa thượng tung song chưởng ra, chưởng pháp kỳ dị, tương tự như Giáng long thập bát chưởng của Hồng thất Công thuở trước hoặc như Hàm mô công của âu Dương Phong, hoặc na ná như chưởng lực "Trịnh giá tề khu" của Kim luân Pháp Vương vậy. Chàng ngẫm lại trong vùng thảo trạch vô sổ kẻ anh hùng hào kiệt mà chàng đã biết qua, duy có lão hoà thượng mới đáng kể. Nhưng lão là ai mà võ công cao cường đến thế?".
Lại nghe Từ Ân hòa thượng ngồi phía bên ngoài hơi thở đều đều, khi lên, khi xuống, có âm điệu rất hay. Bỗng Từ Ân hòa thượng vùng nói lớn:
- Sư phụ! Sư phụ! Tôi ngẫm lại, tôi đã gây điều ác nghiệt quá nhiều, nên trời không dùng cho người chết, tôi thiệt không xứng đáng làm hoà thượng.
Nhất Đăng đại sư nói:
- Tội lỗi! Tội lỗi thay! Để ta thuyết cho ngươi nghe một đoạn kinh phật!
Từ Ân đáp to:
- Sư phụ! Sư phụ! Đừng nói uổng công, tôi theo hầu thầy mười năm có dư, nào có thay đổi được gì? Chỉ làm thầy mệt nhọc mà thôi! Đừng nói là một đoạn kinh, dầu cho một pho kinh dày của Thích ca Mầu ni cũng không cảm hóa nổi.
Đột nhiên nghe có tiếng "lách cách" của hai thứ đồng thiết tiền va chạm do tay chân Từ Ân cử động, Từ Ân buồn rầu nghĩ ngợi.
Nhất Đăng đại sư nhẹ nhàng bảo:
- Từ ân! Chuyện đã xảy ra không lấy lại được! Ngươi còn phiền não làm gì?
Từ ân nghe nhức nhối, khó chịu, lắc đầu quầy quậy rồi nhảy ra ngoài hô to hai tiếng:
- Tức quá! Tức quá!
Rồi lại vung chưởng phát ra tiếng "Bùng, bùng" dữ dội.
Bành trưởng lão đang ngồi dựa vách, nghe như có sấm động, sét vang, lật đật nhảy ra ngoài. Sẵn cơn nóng giận buồn phiền, Từ ân thấy Bành trưởng lão, liền vung ra một chưởng khủng khiếp. Bành trưởng lão kêu lên, thân thể lão văng ra làm sáu mảnh. Từ ân hết sức phiền muội, và Bành trưởng lão chưa kịp thi hành kế hoạch thì bị nát thây. Luật trời báo ứng, nhân quả chuyển hồi.
Nghe tiếng la, Dương Qua và Tiểu long Nữ vội vàng chạy ra ngoài xem cơ sự, thấy Từ ân mắt đỏ như hồng táo, chân tay run bần bật. Thấy Dương Qua và Tiểu long Nữ đến, lão hét to:
- Dừng lại! Ta bảo các ngươi hãy dừng lại. Ngày nay là ngày khai sát giới!
Nói xong, lão tung ra song chưởng về phía Dương Qua và Tiểu Long Nữ. Hai người cả kinh thái lui lại mấy bước.
Nhất Đăng đại sư từ từ nói:
- Mê đồ vị viễn, do khả tri hoàn (nghĩa là Đường mê chưa trôi bước xa, hãy bừng tỉnh mộng mà về nẻo chính).
Tiếp đó Nhất Đăng đại sư nói lớn:
- Từ ân! Từ ân! Hãy nghĩ lại con đường chân chính đằng xa, kẻo sau này chịu muôn kiếp trầm luân đoạ lạc!
Sắc mặt Từ ân khi nhợt nhạt lúc đỏ hồng. Trong lòng ông lúc bấy giờ nổi cơn hỗn loạn. Điều dữ, điều lành đua nhau dày xéo nội tâm ông rất mãnh liệt.
Mới hôm nào hai thầy trò ruổi rong trên đất tuyết, tâm trí an lành, mà bây giờ chỉ vì Bành trưởng lão khiêu khích, khiến cho Từ ân quên hết lòng nhân, tâm loạn cuồng. Ông ta thấy mình lầm lỗi càng tức, mà càng tức lại càng lầm lỗi. Chỉ trong chốc lát, Từ ân đã giết đến hai mạng người. Các dĩ vãng hiện lên đập mạnh vào nội tâm của ông, thì ông không thể nào kiềm chế được nữa. Từ ân bỗng ngó thẳng vào mặt Nhất Đăng đại sư và nhớ lại có lần Nhất Đăng đại sư đã cứu trợ ông nên được ông tôn kính là "ân sư". Tuy nhiên, Từ ân cảm thấy Nhất Đăng đại sư ràng buộc mình, không để được tự do. Trong khoảnh khắc, ác niệm lại nổi dậy như lửa cháy, sóng triều dâng, Từ ân hét to một tiếng vung song chưởng. Nhất Đăng không chống trả. Từ ân vội thâu song chưởng lại và quát lớn:
- Ông tính hòa với tôi à? Sao không trả lại?
Và Từ ân vung lên chưởng thứ hai. Nhất Đăng đại sư cũng không cử động đỡ lại. Từ ân cả giận mắng rằng:
- ông đã tỉnh hay mê? sao chẳng nói năng gì cả. Phải đánh trả chứ sợ gì? ông đã nổi danh trong hàng ngũ bá, nào là Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông thì có sợ ai chứ? Huống hồ cái thằng Cừu thiên Nhận bang chủ bang lắm hơi, nó chỉ có một thế chưởng "Thiết chưởng thủy thượng phiêu". Nếu ông không chống trả, ắt phải thiệt thân, đừng có trách lão Cừu không báo trước.
Nếu đem thiết chưởng của Cừu thiên Nhận mà chống với Nhất dương chỉ của Nhất Đăng đại sư thì hai chưởng lực tương đương. Tuy công dụng có khác biệt, nhưng hai môn võ này đều danh tiếng nhất võ lâm.
Nhất Đăng đại sư thiên về Phật học, tu tịnh rất lâu, tuy ông là thầy của Cừu thiên Nhận (Từ ân) nhưng về nội lực thì không hơn, không kém. Nếu hai người đồng ý đánh nhau thì thế nào cũng đi đến chỗ một mất mạng, một trọng thương. Nhất Đăng đại sư luôn luôn hy sinh để giúp người với tất cả nguyện vọng, nên dẫu chịu chết dưới Thiết phong chưởng của Cừu thiên Nhận đi nữa ông nhất quyết không bao giờ đánh trả lại. Vả lại, ông tin tưởng Cừu thiên Nhận (Từ ân) sẽ hối ngộ ăn năn. Việc nầy không phải luận về võ công khí chưởng để tỉ thí, mà nói về thiện niệm với ác niệm xung đột.
Dương Qua và Tiểu long Nữ nhìn thấy Từ ân tung ra một thiết chưởng mạnh như quả núi, hướng vào Nhất Đăng đại sư và vận thêm mười bốn chiêu nội lực.
Nhất Đăng đại sư kêu to:
- ái da!
Tức thì ông ta phun ra một búng máu tươi.
Từ ân nói:
- Tôi nhất định không nương tay, ông hãy chống đỡ đi!
Nhất Đăng đại sư nhìn Từ ân bằng đôi mắt hiền từ nói:
- Từ ân, ngươi bảo không nương tay là sao? Ngươi có thắng ta cũng không ích lợi gì. Ta chỉ muốn thắng chính mình, khắc phục lấy bản thân mà thôi.
Từ ân đôi mắt đăm chiêu, lẩm bẩm:
- Chỉ muốn thắng chính mình, khắc phục lấy bản thân.
Nhất Đăng đại sư nói mấy câu, như sấm động ba đào, chuyền vào tâm tư của Dương Qua, làm chàng suy nghĩ:
- Chỉ muốn thắng mình trước, ấy là tính, khắc phục lấy bản thân, ấy là nhân niệm. Một hai đã thắng kẻ cường địch sẽ xảy ra nhiều chuyện nữa, thật là lời chân chính và chí lý của vị cao tăng.
Dương Qua nhìn về phía Từ ân thấy lão vận chưởng vung bủa vào Nhất Đăng đại sư, sợ đại sư chạy thoát. Nhất Đăng thối lui mấy bước, máu tươi từ trong miệng tuôn ra ướt đẫm cả bộ râu trắng, như nhuộm mầu hồng. Dương Qua lại thấy Từ ân tiếp chưởng sắp sửa tung ra một chưởng lực nữa thì chàng đã rõ lão Hắc y tăng võ công sâu rộng phi thường. Chàng nghĩ nếu để lão sử dụng vài chưởng nữa thì sắt đá cũng vỡ tung và tiêu ra tro bụi. Còn Nhất Đăng đại sư thì trước sau gì cũng như vậy, quyết lòng bỏ xác để cảm hóa được ác đồ. Chàng nhất định chẳng dung tha lão hòa thượng ngông nghênh ác độc nầy, dẫu phải bỏ mạng dưới thiết chưởng của lão. Thế là chàng rút thanh thiết huyền kiếm nhảy ra đứng trước Nhất Đăng đại sư. Đương lúc Từ ân xua chưởng đẩy ra phía đại sư chàng vung cây thiết huyền kiếm ra đỡ. Nguyên cây thiết huyền kiếm khi được tiếp khí công thì phát ra một luồng dịch khí phong ghê gớm lắm.
Chưởng phong của Từ ân bị sức chống trả của luồng dịch khí kình phong dội trả lại. Hai người nhìn nhau và lùi lại. Từ ân "xì" một tiếng tỏ ra phật ý. Không ngờ một chàng trai thợ săn, ở tận chỗ non cao rừng rậm này lại có một võ thuật tuyệt quán như thế?
Nhất Đăng nhìn chàng càng nghĩ càng lạ lùng.
Từ ân quát dậy lên:
- Ông bạn là ai? ý muốn làm gì?
Dương Qua nói:
- Tôn sư dùng lời khuyên bảo mà đại sư cố chấp không nhận, chẳng chịu nghe lời vàng ngọc hiền lành, mà còn lấy oán đền ơn, nhẫn tâm hạ thầy bằng những độc chưởng! Như vậy làm người sao được? Sánh với loài cầm thú có khác gì?
Từ ân cả giận hét lớn:
- Phải! Phải ngươi là người của Khất Cái bang chăng? Tại sao dám dùng lời khinh bạc đối với trưởng lão?
Dương Qua cười ngất đáp:
- Hai người Khất Cái mà đại sư vừa giết mới chính là cái bang hại loại, chứ tôi có phải Khất Cái bao giờ đâu? Họ hung dữ đại sư giết thế là đúng? Giết kẻ ác tức làm điều lành, có gì phải ăn năn chứ?
Từ ân ra chiều suy nghĩ và tính thầm: "Diệt ác tức là làm lành! Diệt kẻ ác tức là điều lành".
Dương Qua biết được ý lão là nhờ lão với Nhất Đăng đại sư đối đáp. Chàng biết lão quá hối hận, việc thiện ác đang xung đột ở nội tâm, vì thế Dương Qua tiếp lời:
- Hai lão này chính là Khất Cái đã phản bội. Chúng đã toan dắt cọp về nhà, đã đem cả dãy non sông gấm vóc nầy bán đứt cho ngoại bang. Đại nhân đã ra công giết chúng thật là công đức lớn nhất trên đời. Nếu chúng sống sót ở đời, thì không biết bao nhiêu trai, gái, trẻ, già vì tay chúng nước mất nhà tan, đạo Phật tuy từ bi chí thiện nhưng lũ tà ma ngoại đạo đến quấy phá, đức Phật cũng hiển lộng thần thông mà tru diệt chúng vậy.
Dương Qua hiểu về Phật học chút ít, là vì vừa rồi được nghe Nhất Đăng đại sư giảng đạo cho Từ ân phối hợp với sự học thuở nhỏ của chàng mà suy luận ra.
Từ ân nghe chàng nói lấy làm kỳ dị, tay hạ song chưởng, lòng nghĩ lại chuyện đã qua. "Thuở nọ ông sắp được Kim phong quan và bảo làm nội ứng để chiếm đoạt Tống triều thiên hạ". Vô tình Dương Qua nhắc lại chuyện bán nước buôn dân của hai lão hành khất làm cho Từ ân xúc động mãnh liệt. Ông tưởng Dương Qua đặt điều châm biếm nên hét lên dữ dội:
- Loài súc sanh! Ngươi dám ngụy biện về bát đạo để mắng ta à?
Vừa nói lão vừa vung ra một chưởng khốc liệt hướng vào Dương Qua. Còn Dương Qua cố nói những sự thật chứ đâu biết gì về hành động của lão. Đột nhiên thấy lão vung chưởng ù ù, chàng chẳng kịp vận kình phong kháng cự, lập tức chàng lùi về phía sau. Hai tiếng "bình bình" nổi lên, vách nhà vỡ tung ra một khoảng to. Dương Qua hoảng sợ chạy ra khỏi nhà. Nhất Đăng đại sư cả kinh nghĩ rằng: Chắc thiếu niên nầy sẽ chết về tay Cừu thiên Nhận. Võ công của gã làm sao chống lại với võ công lão Cừu?
Vách ván bị vỡ tung một lỗ khá to, lửa củi trong nhà xông lên mù mịt. Dương Qua nương theo làn gió thổi về nhà mà tiện vào cầm chặt đốc kiếm huớng về phía Từ ân bủa xuống một nhát cực mạnh và hét:
- Tốt lắm! Cũng bởi người hẹp lượng, đừng trách ta vô lễ.
Nguyên lúc Từ ân vung chưởng giết chàng, thì chàng chạy lùi ra sau, vì vậy tấm vách cây bị thiết chưởng của Từ ân dập nát. Chàng liền rút cây thiết kiếm hướng vào Từ ân bủa xuống, kình phong dồn cả vào lưỡi kiếm, khí thế rất mạnh.
Từ ân tưởng rằng với chưởng lực mạnh như sấm sét vừa rồi đã làm cho thân thể Dương Qua tan ra từng mảnh, nào ngờ Dương Qua thình lình xuất hiện, chỉ mũi kiếm vào ngực, với một thế kiếm "Độc cô cầu bại" bí truyền. Lão hốt hoảng né sang bên hữu, tránh khỏi. Hai người, kẻ kiếm phong, người thiết chưởng giao đấu. Một già một trẻ vừa thử sức mấy chiêu đã không dám khinh thường nhau nữa. Họ để tâm vào sự giao đấu đang diễn biến.
Nhất Đăng đại sư đứng trước bậc thềm, trông hai người giao đấu với nhau lấy làm kinh dị. Dương Qua là một thiếu niên trạc tuổi hai mươi, dám cả gan giao đấu với một người oai chiến thiên hạ nhưng kình lực của hai người bằng nhau, chứng tỏ chàng thanh niên nầy võ công phi phàm. Nhất Đăng đại sư xét mấy thế võ của Dương Qua không biết xuất xứ từ đâu với ngọn kiếm thường mà chống được kình phong của thiết chưởng, thật là quái dị chưa từng thấy. Suy nghĩ trong khoảnh khắc, đại sư quay đầu vào nhà bắt gặp Tiểu long Nữ tại cửa, rõ là một thiếu nữ nhan sắc kiều diễm, thần sắc tươi nhuận, đang nhìn trận đấu một cách bình thản, không lo sợ. Đại sư thầm nghĩ: "Thật là một thiếu nữ không phải tầm thường". Ông lại thấy giữa đôi mi và nhân dung có vài dấu chấm hiện lên đen đen, làm cho ông hết hồn kêu lên:
- Khổ thay, khổ thay!
Tiểu Long Nữ nhìn ông cười nói:
- Thầy cũng ra ngoài này à?
Dương Qua với Từ ân càng đánh càng hăng, Dương Qua có phần thủ thắng là vì nhờ trong tay có kiếm. Còn Từ ân với đôi tay không nhưng cũng chống trả mãnh liệt. Chưởng phong kêu lên "bừng bừng" tứ phía, cây ván của gian nhà đua nhau bay tán loạn.
Tiểu Long Nữ hoảng hốt bế Quách Tường vọt ra cửa sổ, tung thân ra ngoài thì hàng loạt chưởng phong bủa tới tấp, làm gãy hết những hàng cột trong nhà và gian nhà sụp đổ, một bên hạ xuống đất. Ngoài trời gió bấc thổi ù ù, tuyết rơi càng dữ dội. Cả hai thấy nhà đổ đều ra ngoài trời giao chiến. Từ ân đã hơn mười năm chưa hề giao đấu với ai, nay được dịp múa may ông lấy làm cao hứng, bủa ra hàng loạt thiết chưởng, hô hấp liên miên, chưa chi ông bủa ra trăm chiêu chưởng lực. Còn Dương Qua cứ tránh né mãi, hễ chàng né một chiêu chưởng thì hoàn lại Từ ân một chiêu võ, tiến thối mãi. Từ ân niên kỷ đã cao, dần dần chậm chạp. Dương Qua lanh tay đâm vào bụng lão một thế võ mãnh liệt. Từ ân đề khí khinh thân nhảy tháo ra ngoài. Dương Qua quét ngang một kiếm, Từ ân ngã người ra sau tránh. Luồng dịch phong do ánh kiếm phát ra công phá mặt đất, tuyết vỡ tan như luồng mữa bão dữ dội, bốc văng đầy mặt Từ ân. Một bụm tuyết dính vào mi mắt ông ta làm cho ông phải ngừng tay lo dụi mắt, tức thì lưỡi kiếm thiết huyền đã đập vào vai. Từ ân đột nhiên bị thất thế, ông ta nghiêng qua một bên để tránh lưỡi kiếm nhưng vì đuối sức, gượng đứng không được nên ông lảo đảo ngã. Dương Qua thắng thế chĩa mũi kiếm vào bụng lão. Từ ân vô phương vùng vẫy, cố vận
nội lực để đẩy mũi kiếm nhưng Dương Qua đã nhanh nhẹn đá vào hấp huyệt của lão, làm lão không hít được tí hơi nào. Bây giờ chỉ còn nhắm mắt chờ chết. Trong chớp mắt, mũi kiếm của Dương Qua như chiếc búa ngàn cân bủa vào đầu. Từ ân kêu lên:
- Chết... Thôi rồi đời một tay cái thế anh hùng "Thiết chưởng thủy thượng phiêu Cừu thiên Nhận".
Thiết chưởng bang chủ, đã từng ngang dọc tung hoành, giết người như bỡn, trong thế gian không ai đương cự lại ngờ đâu lại bị thảm bại dưới bàn tay một đứa bé. Có lần chạy sang Tây Vực lại mắc vào xảo kế của lão Ngoan Đồng phải lộn về Trung Quốc, Giờ đây cái chết đã kề bên, rất tiếc là lão lại chết vào một tay đứa bé. Tưởng đến cái chết lão vô cùng hối hận! Nhưng lại nghĩ cũng đáng lắm không hối tiếc gì nữa. Cả đời gieo tang tóc cho mọi người, giờ đây hết mong gặp người cứu độ. Nhất Đăng đại sư đã nói đến muôn lời, ngàn tiếng cũng chẳng chịu nghe. Dương Qua với một thanh kiếm nhỏ cũng uy hiếp được ta đó! Bấy giờ Từ ân mới nghĩ: "Bị người giết thế này thì thê thảm quá. Lúc trước ta giết người, cũng thê thảm như vậy ư?".
Nhất Đăng đại sư thấy Dương Qua có ý thâu phục Từ ân về đường chánh, nẻo ngay nên ông cảm phục lắm và thầm tưởng:
- Đấy mới là kẻ thiếu niên anh kiệt trên đờt ít có vậy.
Nghĩ như thế, ông tiến về phía Dương Qua, duỗi tay thẳng và búng một cái nhẹ vào khoảng không. Kinh khiếp thay! Chỉ một cái búng nhẹ đã thấy thanh kiếm thiết huyền tuột khỏi tay Dương Qua rơi xuống đất một khoảng thật xa. Từ ân thoát chết đứng dậy, cúi đầu hướng về Nhất Đăng đại sư nói:
- Sư phụ! Tội đệ tử đáng chết! Tội của đệ tử đáng chết!
Nhất Đăng đại sư nói:
- ăn năn, giác ngộ! Đệ tử hãy xin lỗi và cảm ơn vị tiểu cư sĩ này!
Dương Qua bấy giờ cũng ngạc nhiên không biết vì sao chỉ có cái búng tay nhẹ của lão hòa thượng mà đánh rơi thanh kiếm của chàng. Hay là hòa thượng này là Nhất Đăng đại sư. Chỉ có đại sư với Hoàng dược Sư mới có ngón tay kỳ diệu như vậy. Nhất Đăng có "Nhất dương chỉ", Hoàng dược Sư có "Đàn chỉ thần công", ngoài ra trên đời này không có người thứ ba biết dùng ngón tay ảo diệu như vậy. Nghĩ như thế Dương Qua liền quỳ xuống lạy Nhất Đăng nói:
- Đệ tử là Dương Qua, xin ra mắt đại sư.
Từ ân thấy vậy bước đến quỳ ngay trước mặt chàng sắp sửa lạy tạ. Dương Qua hoảng sợ nói:
- Lão tiền bối chớ nên lễ bái mà giảm thọ tiểu nhân!
Tiểu Long Nữ cũng ra hành lễ Nhất Đăng.
Đại sư vui vẻ bảo:
- Hai gian nhà cổ bị chúng tôi phá nát rồi giờ biết chỗ nào ngồi nghỉ ngơi trò chuyện?
Từ ân nói:
- Đệ tử trong lúc cuồng dại phạm đến thầy, thương tích không rõ có sao không?
Nhất Đăng đại sư điềm đạm bảo:
- Người đã hoàn hảo rồi!
Từ ân lấy làm hoan hỉ, không biết nói sao cho cởi mở, ông liền chạy lại bên căn nhà đổ nát dựng lại mấy cột và xếp sơ mái nhà, để tạm ngồi tránh tuyết sương.
Bây giờ Dương Qua lại nghĩ đến Võ tam Thông và Châu tử Liễu không rõ ở đâu. Nghe nói thì hai người này ghé qua Thương Ngâu ẩn du ngoạn, rồi sau nghe Võ Tam Thông nói Châu tử Liễu bị trúng độc đến Tuyệt tình Cốc. Thiên Trúc thần tăng và Châu tử Liễu làm gì trúng độc mà đi xin thuốc giải để bị khốn?
Nhất Đăng đại sư nói:
- Này hai sư đồ! Có rõ lối nào vào Tuyệt tình cốc không? Chúng ta hãy đến đấy! Ngươi có biết Từ ân hoà thượng với Nữ cốc chủ "Tuyệt Tình" có quan hệ gia đình không?
Dương Qua ngẫm nghĩ giây lát và nhớ lại Bành trưởng lão gọi Từ ân hòa thượng là Cừu bang chủ nên thưa với Nhất Đăng rằng:
- Sư phụ! Từ ân đại sư có phải họ Cừu chăng? Có phải đại sư là Cừu thiên Nhận bang chủ bang thiết chưởng đấy chăng?
Từ ân tuy đứng rất xa, nhưng nghe rõ Dương Qua nói bèn quay lại bảo:
- Ngươi muốn hỏi Tuyệt tình cốc chủ nhân à? Nó là em gái lão đấy! Ngươi có nghe em gái ta vẫn bình yên mạnh khỏe đấy chứ?
Dương Qua nghe đến chữ "bình yên mạnh khỏe" chẳng dám trả lời vì chàng biết rõ Tuyệt tình cốc nữ chủ là Cừu thiên Xích, đã bị chồng bà chặt đứt cả tay, chân và trở thành phế nhân rồi.
Từ ân đại sư hỏi:
- Em gái ta tính rất gan dạ. Nó đã tạo ra nhiều nghiệp quả, không rõ bây giờ ra sao?
Dương Qua đáp:
- Lệnh muội đã bị tàn tật chân tay không cử động được nên phải ngồi một chỗ luôn!
Từ ân bùi ngùi than thở:
- Lão xa cách cô em này bao năm đâu rõ sự thể như vậy? Gia đình của lão đã... hết rồi sao?... Ôi... đau đớn thay...! Chỉ còn cô ấy và người em trai thứ là hết.
Lão hòa thượng Từ ân nói đến đấy sa nước mắt và hồi tưởng lại các việc đã qua.
Nhất Đăng đại sư thấy lão bùi ngùi thương xót như vậy biết rằng Từ ân trần duyên chưa dứt, nghiệp chướng còn đầy, có ăn năn hối ngộ cũng chỉ nhất thời mà thôi, rút cục ác niệm vẫn chưa tiêu diệt. Trong nghịch cảnh Từ ân sẽ bị đau thương chi phối và ác niệm sẽ sống dậy. Ông ta sẽ hung tợn hơn muôn lần lúc trước. Lúc đó dẫu muôn lời răn cũng không thể nào cảm hóa được. Tội nghiệp thay! Duyên kiếp muốn tròn, trần ai phải đoạn. Số phận Từ ân không hợp với duyên pháp của ta.
Dương Qua thấy Nhất Đăng trầm tư mặc tưởng, trong ánh mắt phát ra những tia "mến yêu thương xót" người đệ tử bị đày đoạ chàng thầm tưởng: "Võ công của đại sư thật là ảo diệu, tại sao để cho người đệ tử đả thương mà chẳng chống đỡ tí nào? Chắc là ông có một ý định cao sâu nên lúc mình sắp giết hòa thượng Từ ân, thì ông lại ra tay giải cứu người đệ tử".
Lòng thắc mắc chàng hỏi:
- Đại sư? Đệ tử ý ngu trí cạn, không rõ những việc làm vừa qua của đại sư chắc có cao ý gì xin đại sư chỉ điểm giảng dạy cho đệ tử.
Nhất Đăng đại sư nói:
- Lòng người khó hiểu! Nếu ta để cho nhà ngươi giết thác lão, lão không được giác ngộ, mà còn bị trầm nghịch thật sâu dưới A tỳ. Con người cứu mạng của ta ngẫm ra chẳng uổng! Lão đã thạch đức của ngươi!
Nhìn qua Tiểu long Nữ, đại sư nói tiếp:
- Tiểu nương tử vì sao độc khí nhập vào tạng phủ?
Dương Qua nghe đại sư hỏi thất kinh. Nhưng trong khoảnh khắc chàng đã tìm ra một tia sáng, đáp thay Tiểu long Nữ:
- Đại sư! Sau khi nàng bị thương nặng, tôi đã khai phá, đả thông các huyệt đạo để trị liệu nào hay đến bấy giờ chất độc của "Băng Phách ngân trâm", xâm nhập vào cơ thể ngũ tạng. Xin đại sư mở lượng từ bi mà cứu độ cho nàng!
Dứt lời chàng quá xúc động, quỳ xuống đất lạy đại sư. Nhất Đăng đại sư dang tay đỡ Dương Qua đứng dậy và nói:
- Ngươi đả thông khai phá các huyệt bằng cách nào?
Đồng thời đại sư ngẫm nghĩ: "Quái lạ! Trên cõi đời này chỉ có ngón Nhất dương chỉ của ta mới có đủ sức mạnh thần diệu, khai phá đả thông được các huyệt đạo, thiếu niên này dùng cách nào đả thông cho được?".
Dương Qua đáp:
- Đệ tử để nàng ngồi trên Hàn ngọc sàng, hai tay nàng với tay đệ tử áp vào nhau, vận hơi khử độc!
Nhất Đăng đại sư nghe sự giải thích đã hiểu phần nào bèn nói:
- Đấy là môn pháp của Âu Dương huynh, chữa liệu khai phá độc khí đang quấy động của các huyệt đạo chứ không khai trừ được tận gốc, phải dùng Nhất dương Chỉ mới trừ tận gốc được!
Vừa rồi Nhất Đăng đại sư vừa điểm đôi ngón tay vào mạch môn bàn tay của Tiểu long Nữ. Nét mặt đại sư đăm chiêu nghĩ ngợi. Trong giây phút im lặng, đại sư thốt lên ba tiếng nhỏ:
- Có thể cứu!
Rồi đại sư bảo cả bọn vào trong nhà.
Dương Qua mải lo nghĩ và âu sầu bỗng nghe đại sư nói ba tiếng "có thể cứu" làm chàng bối rối hoang mang.
Tiểu Long Nữ thấy Dương Qua mặt mày ủ dột, thần sắc bơ phờ, nàng khổ tâm nghĩ thầm: "Từ lúc ta ra đi đến giờ chuyện gì cũng do chàng gánh vác giúp đỡ cả". Nàng tỏ vẻ vui nói:
- Sống chết có mạng, không ai cưỡng lại được số trời! Dương huynh chẳng nên âu sầu phiền muộn! Mạng tôi cũng chưa đến nỗi gì?
Nhất Đăng đại sư từ lúc vào nhà được nghe Tiểu long Nữ ăn nói ôn nhu hòa hoãn, lại biết theo thời, thuận mạng nên khen thầm:
- Tuy là tuổi trẻ đôi mươi, nàng vẫn không lo sợ trước con đường sanh tử, thực là một nữ nhi khác đời.
Đại sư có biết đâu sở dĩ nàng được như vậy là nhờ sự giáo hóa rất nghiêm chỉnh của thầy. Nhất Đăng đại sư thầm nghĩ: "Đây mới thực là cặp vợ chồng xứng đáng. Trai võ công trác tuyệt, gái tài sắc phi phàm. Như thế không hổ danh là "Long Phụng nhân duyên", ít người sánh kịp. Từ thuở bình sinh đến nay ta mới thấy cặp vợ chồng Quách Tỉnh Hoàng Dung là một và cặp vợ chồng này là hai. Họ rất yêu quý nhau, hỗ trợ khi đấu tranh, an ủi nhau lúc hoạn nạn. Nhưng nay cô nhỏ này đang trúng độc quá nặng, còn ta cũng thọ thương, làm sao sử dụng được "Nhất dương Chỉ" để cứu mạng? ông trầm ngâm nghĩ ngợi một lúc, đoạn nói:
- Hai người niên kỷ còn nhỏ mà chuyện làm rất đáng khen. Lão nói không quá lời đâu.
Dương Qua nghe đại sư nói như thế cảm thấy khó chịu vì đại sư không đả động đến chuyện cứu Tiểu long Nữ. Chàng sa sầm nét mặt, đôi tay lạnh như tuyết giá...
Lại nghe Nhất Đăng đại sư nói tiếp:
- Bây giờ Tiểu phu nhân đã bị chất độc lâm vào tạng phủ! Còn lão lại thọ thương rất nặng nên chẳng biết làm sao sử dụng "Nhất dương chỉ" để chữa trị cho tiểu phu nhân được. Tuy nhiên không phải chỉ có một khoa hay một môn nào đặc biệt mới giải độc được. Nếu bây giờ tìm được cỏ Linh chi thiên thảo, cũng giải độc được cho Tiểu phu nhân. Còn hiện nay... Tiểu phu nhân nhờ nội công thâm hậu nên độc dược chưa xuất phát. Lão sẽ bảo đảm trị đỡ bằng cho tiểu phu nhân uống một hoàn thuốc có thể mạnh được bảy ngày, rồi chúng ta sẽ cùng đến "Tuyệt tình cốc" nhờ sư đệ của lão là Thiên trúc thần tăng chữa trị.
Dương Qua mừng rỡ đứng dậy nói:
- A! Đúng vậy! Đệ tử có nghe Thiên trúc thần tăng chuyên trị độc, ông ấy nổi tiếng thần y linh dược! Nếu gặp được thiền sư ắt có phương giải cứu.
Nhất Đăng đại sư nói:
- Nếu mà sư đệ ta cứu không được thì số mạng người đó hết rồi. Trên đời này hễ có một đứa bé sinh ra, ắt có người mất mạng. ấy là luật tuần hoàn. Còn như Tiểu phu nhân nếu thành thân xuất giá lâu rồi ắt khó chữa trị. Ta nói chẳng sai đâu.
Ông nói đến đây liền ngừng lại và nghĩ đến việc cũ. Ngày trước Châu bá Thông loạn giao với thứ phi của ông là Lưu quý Phi, sinh được đứa con trai. Chỉ vì sự ghen ghét mà sinh ra hận nên ông không chữa trị, để đứa nhỏ phải mất mạng. Từ ân giết chết đứa hài nhi trường hợp cũng tương tự vậy. Lúc bấy giờ Từ ân không rõ đạo lý, đến sau này quy y Phật tổ lại tôn Nhất Đăng làm thầy thì Từ ân đã tạo nhiều điều ác nghiệt. Tuy vậy Nhất Đăng đối với ông không oán trách nửa lời. Cũng vì trận giặc nội tâm mà ra, tính tự kỷ đều sinh sự bất hạnh, như trường hợp Từ ân giết đứa hài nhi như vậy.
Dương Qua liếc nhìn Nhất Đăng nghĩ thầm:
- Ông hòa thượng này rất kỳ dị. Bấy giờ chẳng chữa trị mà còn nói lý số, lại không có một lời an ủi cho người ta yên tâm!
Tiểu long Nữ cười chúm chím nói:
- Đại sư nói nghe bi quan quá!
Mắt nàng hướng ra cửa sổ thấy tuyết đổ muôn trùng, màu trời u ám. Nàng nói:
- Kìa! Trời tuôn đổ xuống bông tuyết trắng đẹp lung linh! Đẹp quá!
Tuy vậy, vầng thái dương vừa ló dạng thì khối tuyết lại tan rã tiêu điều. Mùa đông năm nay tuyết giá dày thêm, có lẽ còn lâu lắm bông tuyết mới hết rụng.
Nhất Đăng đại sư lại không ngớt nghĩ về cặp Dương Qua, Tiểu long Nữ. Dương Qua tuổi trẻ mà ngộ được đạo mầu thâm diệu. Từ ân còn kém y xa. Rồi ông quay đầu sang Từ ân hỏi:
- Ngươi nghĩ sao?
Từ ân làm thinh không đáp, chỉ lắc đầu cười vì Từ ân đang nghĩ ngày ta đi là sương giáng, giờ đến tiết đông thiên rồi, ông thầy này hay nói châm ngôn, ẩn ngữ quá. Hỏi nghĩ sao? là cái quái gì?
Dương Qua lòng phiền não, mãi lo sợ về việc Tiểu long Nữ mà nàng cứ dửng dưng không có vẻ gì buồn phiền chán nản. Chàng ôn lại việc gặp Nhất Đăng đại sư, từ khi cách nhau tấm vách đến lúc hầu chuyện cùng ông, đến lúc đại sư giúp chàng và Tiểu long Nữ hiểu về đạo lý và xa hơn nữa là ngày chàng bắt đầu yêu Tiểu long Nữ. Nhất nhất những chuyện gần đây xảy ra trước mắt chàng, làm cho tâm trí chàng mờ mệt.
Bấy giờ Nhất Đăng đại sư mới lần vào áo lấy ra một quả trứng gà, giao cho Tiểu Long Nữ nói:
- Con gà vì sao mà có? Nếu không có quả trứng này, câu chuyện từ ngàn xưa không ai giải nghĩa.
Dương Qua nói thầm:
- Lão hòa thượng lắm triết lý văn chương. Người ta sắp chết không cứu giúp!
Tiểu Long Nữ cầm quả trứng gà quan sát. Đây không phải là trứng gà thường mà là cục đất nung rất khéo, có chứa vật gì bên trong, màu sắc, hình dáng lại giống hệt một quả trứng thật. Nàng trầm ngâm một chốc đã hiểu ý đại sư nên nói vội:
- Trứng vỡ sinh ra gà, gà lớn sinh ra trứng. Cho nên vật gì có sinh ắt có chết.
Đại sư cười và ra dấu bảo nàng đập cái trứng gà. Cái trứng bể, lòi ra một viên thuốc màu vàng óng ánh, giống hệt lòng đỏ trứng gà.
Nhất Đăng đại sư bảo:
- Mạnh khỏe là nhờ nó!
Tiểu long Nữ hiểu ý đại sư, vội bỏ vào miệng, như ăn quả táo mềm thơm tho. Viên thuốc tự rã ra đi thẳng vào ruột.
Hôm sau Dương Qua cùng mọi người sửa soạn lên đường vào "Tuyệt tình cốc". Nhất Đăng đại sư tuy cho Tiểu long Nữ biết hiệu lực của viên thuốc chỉ được bảy ngày đêm thôi, nhưng viên thuốc này có công hiệu hơn nữa, và Tiểu long Nữ đủ sức lên đường.
Dương Qua còn ngại Nhất Đăng đại sư không đi nổi nên nói:
- Đại sư! Thương thế của đại sư có nặng lắm không và làm sao đi được?
Nhất Đăng trúng thương tích rất nặng nhưng ông nóng lòng cứu đệ tử và Tiểu long Nữ nên ông giả bộ mạnh bạo đáp:
- Chẳng có gì?
Rồi ông bắt đầu tiến bước. Ông đi trước, Từ ân, Dương Qua Tiểu long Nữ bước theo sau. Nhờ hoàn thuốc mà Tiểu long Nữ tinh thần tráng kiện, sức khỏe mạnh hơn xưa. Nàng trổ thuật khinh công đi vọt ngang Nhất Đăng đại sư mau như gió. Từ ân cả kinh tưởng nàng là gái đài trang, chân yếu tay mềm nào ngờ Tiểu cô nương này võ công cũng phi thường lắm. Một mình Dương Qua còn cự đương, thêm cô ả này giúp sức thì khó mà đoán được. Từ ân suy nghĩ thế nên dùng khinh công như gió cuốn theo cho kịp Tiểu long Nữ. Dầu sao ông cũng mang danh là thiên hạ vô địch về môn võ nầy. Ai ai cũng phải khen tặng là "Thiết chưởng thủy thượng phiêu" anh hùng.
Ông vượt qua khỏi Tiểu long Nữ trên mười trượng, Tiểu long Nữ chẳng chịu núng thế cứ đuổi theo mãi, chỉ còn thấy hai điểm đen trên nền tuyết bạc.
Dương Qua lại sợ Từ ân ác niệm phát sinh trở lại giết hại Long Nữ nên chàng cấp tốc đuổi theo. Nhưng về môn nầy Dương Qua kém hai người rất xa. Ban đầu còn thấy dạng hai người, đến sau họ mất hút. Chàng cố hết sức cũng không đuổi kịp. Bỗng nghe phía sau Nhất Đăng đại sư cười bảo:
- Tiểu cư sĩ. Nội lực của ngươi thâm hậu lắm tại sao không chạy được? Tôn sư ngươi là ai sao không chỉ dạy?
Dương Qua cả kinh. Chàng đã dùng hết sức khinh công mà đuổi theo không kịp. Chàng vừa nghe tiếng gọi vội quay đầu lại thì Nhất Đăng đã đến trước mặt, nhanh không thể tả mà dáng điệu thật khoan thai. Chàng thành thật đáp:
- Vãn bối biết võ công là nhờ vợ chỉ dạy đấy!
Nhất Đăng đáp:
- Tiểu phu nhân làm sao bì kịp ngươi?
Dương Qua đáp:
- Mấy tháng trước đây vãn bối chưa biết gì bỗng dưng có một sức mạnh kỳ dị, mà vãn bối vẫn chẳng hiểu duyên cớ ra sao cả.
Nhất Đăng đại sư hỏi:
- Vậy ngươi có uống thuốc gì không? Hay là ngươi ăn nhầm giống gì ngàn năm như cỏ "Anh chi" chẳng hạn thì nội lực của ngươi mới tăng trưởng như vậy?
Dương Qua ngẫm nghĩ phút chốc nhớ lại nói:
- Vãn bối nhớ lại rồi! Cách đây không lâu vãn bối có ăn một quả hồng. ăn xong sức mạnh tăng cường dữ dội, không biết đúng như vậy chăng?
Nhất Đăng nói:
- Trái hồng mà ngươi nói đó, gọi là Đào tiên thủy, nó còn tươi không có hạt phải chăng?
Dương Qua nói:
- Đúng như vậy. Thưa lão tiền bối! Vãn bối lấy làm kỳ dị chẳng hiểu sao, trái không hột lấy gì truyền giống?
Nhất Đăng hỏi:
- Ngươi đã hái quả này tại đâu?
Dương Qua đáp:
- Vãn bối lượm được, do con chim điêu từ đâu đem về rơi ngay đầu của vãn bối, thế mới lạ!
Nhất Đăng đại sư nói:
- Chính là câu chuyện ngàn năm một thuở. Ngươi có kỳ duyên mới gặp được! Trái hồng tươi này gọi là Châu quả, quý hơn "Thiên niên linh chi thảo", nó sẽ thành hình nhân sâm gọi là "Trân bửu" quý nhất trên đời. Giống "Châu quả này mọc ở hốc đá hoang vu, chân người không đến đó được, hoặc mười năm, hoặc hai chục năm mới có trái, có khi đến trăm năm mới có trái một lần. Chim điêu mang được quả này về chính là thần điêu.
Dương Qua hỏi:
- Chim ấy là thần điêu sao?
Chàng lại nghĩ: "Nếu gặp lại chim điêu mà xin ít quả cho Tiểu long Nữ ăn thì chắc nàng khỏe, và bổ ích lắm!
Hai người tuy đối đáp mà đôi chân vẫn bước nhẹ nhàng. Trong khoảnh khắc đã theo kịp Từ ân và Tiểu Long Nữ. Nhất Đăng đại sư và Dương Qua cả cười. Tại sao hai người chẳng dùng khinh công mà theo kịp? Vì khinh công chỉ lộng hành trong phút chốc thì nội lực suy giảm, phải ngưng lại vận khí. Còn hai người này lại dùng nội lực nên không bị suy giảm, càng đi càng mau hơn.
Tiểu long Nữ chậm lại cách Từ ân mấy trượng, vì nàng công lực không thâm hậu bằng Từ Ân được.
Khi đoàn người đi qua một sườn đồi Dương Qua bỗng chỉ tay trước mặt, nói:
- Kia có bóng ba người đi.
Dương Qua cố xem lại thì rõ người đi đầu là Từ ân, kế là Tiểu Long Nữ và kế bên Tiểu long Nữ lại là người lạ. Thấy người lạ đeo trên vai một gói cực lớn, nhìn kỹ chính là cái rương nhỏ, dáng đi nhẹ nhàng thoăn thoắt, chỉ cách Tiểu long Nữ chừng một trượng. Nhất Đăng đại sư lấy làm lạ, nghĩ đến quái gian đang trú ẩn giữa núi cao rừng rậm cướp của giết người nên đại sư cố đi nhanh hơn tí nữa để nhìn rõ lão ta là ai. Thì ra đó là một ông già râu tóc bạc phơ. Tiểu long Nữ về khinh công kém Từ ân nên lúc đầu chỉ cách xa một trượng, dần dần lùi lại đến sáu, bảy trượng. Dương Qua cảm nghĩ cũng như Nhất Đăng đại sư nên chàng đuổi
theo Tiểu long Nữ và khách lạ. Khi sắp vượt qua người khách lạ, bỗng nghe người khách lạ nói lên giọng thoang thoảng rất rõ ràng:
- Con Qua! vị đại hòa thượng nầy khinh công rất giỏi, ta và ngươi đều chẳng bằng! Ngươi thử đuổi theo xem.
Đoạn lão hướng qua Tiểu long Nữ cười nói:
- Ngươi cứ nhìn cái rương này! Long nhi con. Hãy tiếp chưởng khí lực! Đừng sợ lão hòa thượng! Đừng sợ!
Tiểu long Nữ hồn phi phách tán, quay đầu nhìn lại rõ là Lão Ngoan Đồng Châu bá Thông cười hềnh hệch chỉ ra sau lưng có cái rương nhỏ treo lủng lẳng và lão nói tiếp:
- Lại đây! Lại đây!
Cái rương nầy của Trùng Dương cung cất giấu. Trong rương chứa đủ vật dụng và thư tín bí mật của môn phái Toàn Chân, không rõ vì sao lão ăn cắp mang ra ngoài, đeo lủng lẳng trên vai.
Tiểu long Nữ cười khúc khích không đáp. Bỗng nhiên Châu bá Thông vượt mình đến kề Tiểu long Nữ, giơ tay ra đỡ sau lưng nàng và đưa nàng ngồi trên chiếc rương. Thân pháp ông ta thật ảo diệu phi thường. Chuyện xảy ra trong nháy mắt, Tiểu long Nữ không sao kháng cự kịp, phải ngồi chơi vơi trên chiếc rương của Lão Ngoan Đồng. Tiểu Long Nữ cố bám thật chặt và than:
- Kinh thay cho sức mạnh của Lão Ngoan Đồng.
Phái Toàn Chân đã xưng là "Thiên hạ võ công chánh tông" không hổ danh vậy. Những đạo sĩ của Trùng Dương Cung tuy không hơn ta về nội lực giao đấu nhưng rất tinh túy về võ công và xứng đáng là đệ tử chân chính.
Bấy giờ Dương Qua và Nhất Đăng đã nhận rõ lão ta là Châu bá Thông. Còn Từ ân thì lại sợ Tiểu long Nữ qua mình nên cứ hướng về phía truớc mặt mà trực chỉ khinh thân, không ngờ sau lưng lão lại có thêm một người nữa.
Châu bá Thông bước mạnh và lẹ làng, phút chốc đã gần đến sau lưng Từ ân. Lão bảo nhỏ Tiểu long Nữ:
- Long Nhi! Đi độ mươi phút nữa là ta đến sau lưng lão ấy.
Tiểu long Nữ cười nói:
- Tại sao ông biết rõ hòa thượng nhiều vậy?
Châu bá Thông cười bảo:
- úy! Ta với lão thi chạy đua từ Trung Nguyên qua Tây Vực, rồi từ Tây Vực về Trung Nguyên. Tóm lại trên cả ngàn dặm đường, thì làm sao chẳng biết lão Cừu?
Tiểu long Nữ ngồi trên lưng lão Ngoan Đồng êm ả vô cùng, chẳng khác ngồi trên lưng tuấn mã. Nàng quá vui thích, cười hỏi:
- Lão Ngoan Đồng! ông tính đưa tôi vô hang nào?
Châu bá Thông nói:
- Ta chỉ cần làm vui chứ không có ẩn ý gì.
Độ mươi phút sau hai người đã đến sau lưng hòa thượng Từ ân, cách hai trượng. Lúc này kình lực hòa thượng bị giảm dần.
Châu bá Thông bảo nhỏ:
- Xuống chứ! Chạy chứ!
Và ông nghiêng mình cho Tiểu long Nữ nhảy xuống. Nàng sẵn trớn vụt lên phía trước, vụt khỏi mặt Từ ân, ngoái đầu lại cười "khì" rồi lại trổ hết thuật thần hành chạy tới.
Từ ân cả kinh trổ hết thuật khinh công đuổi theo. Càng đuổi Long Nữ càng chạy cách xa Từ ân.
Từ ân hòa thượng bình sinh có hai môn tuyệt kỹ công phu đáng gọi là thiên hạ vô địch! Bất ngờ chỉ một ngày một đêm ngắn mà môn thiết chưởng bị bại về Dương Qua, môn khinh công phải thua Tiểu long Nữ, bất giác trong lòng nổi lên một niềm bi quan vô tận và đôi chân dần dần kém sút. ông thầm tuởng:
- Rất khó nghĩ thay. Đại hạn ta đã đến rồi chứ tại sao một thiếu nữ chân yếu tay mềm đã qua mặt được! Hay là do ác niệm ta phát sinh, ra tay đả thương sư phụ mà bị quả báo nên mới xảy ra hai chuyện kỳ quặc như vậy?
Ông nghĩ xong, lại cố gắng vượt quá, đuổi theo Tiểu long Nữ. Suy xét mọi việc trên đời nếu tâm thần hoảng hốt thì không làm nên chuyện gì. Bởi thế nên ông mới thua sút Tiểu long Nữ.
Dương Qua đi phía sau nên thấy rõ Châu Bá Thông đã lén giúp cho Tiểu long Nữ nên mới thủ thắng được Từ Ân đại sư. Chàng liền nhanh đuổi theo Châu bá Thông. Khi đến kề bên, chàng cười to và nói:
- Châu lão tiền bối! Tôi đa tạ ơn ông! Đa tạ ơn ông!
Châu bá Thông cười hềnh hệch bảo:
- Cừu thiên Nhận tự phụ là "Thủy thượng phiêu" ta đẩy con bé chạy hơn lão hết khoe khoang. Thiên Nhận càng già càng giỏi hé! Nầy! Tại sao cái đầu lão nhẵn nhụi như vậy? Đã làm hòa thượng rồi à?
Dương Qua nói:
- Lão tiền bối chưa rõ sao? ông ta đã bái nhận Nhất Đăng đại sư làm thầy và hiện giờ ông ta là hòa thượng đấy chứ.
Chàng đưa ngón tay chỉ về phía sau nói:
- Nhất Đăng đại sư đã tới kia.
Châu bá Thông hoảng kinh la lên:
- Trời! Đoàn hoàng gia đến đây hay sao?
ông quay đầu nhìn lại quả thấy Nhất Đăng đại sư liền la hoảng:
- ôi! Xuất hành bất lợi! Đứng lại là đại kiết. Dứt lời liền rẽ vào lối khác lẩn khuất trong rừng cây.
Dương Qua không hiểu Đoàn Hoàng gia là ai? Người ấy thế nào mà Châu bá Thông lại sợ và trốn tránh như vậy? Chàng ngoái lại thì thấy Châu bá Thông đã lẩn khuất từ bao giờ. Chàng nhủ thầm:
- Thật là một kỳ nhân quái có một không hai vậy!
Nhất Đăng đại sư thoáng thấy Châu bá Thông đi trước, ám trợ cho Tiểu Long Nữ thắng Từ ân đại sư, rồi thoắt một cái đã mất hút tự bao giờ. ông mỉm cười nói với Từ ân:
- Ngươi biết tại sao không thắng được chăng? Đã có người ở sau quấy ngươi đấy.
-
Chương 78 - Quần Thoa Họp Mặt Thư Hùng - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 78 - Quần Thoa Họp Mặt Thư Hùng
Từ Ân im lặng chẳng nói Nhất Đăng đại sư tiếp lời:
- Có lòng ham muốn tất nhiên có sự tế ngụy, ngươi lấy võ công làm mạnh chưa chắc gì tranh thắng được người, bởi vì ta nào hiểu được kẻ ở sau lưng nhiều ít, lành hay dữ?
Ba người đang đàm luận bỗng nghe Tiểu long Nữ kêu to:
- Dương huynh lại đây xem cái này!
Cả ba người đều nghe tiếng và đi đến nơi, thấy Tiểu long Nữ chỉ vào một cây tùng già. Nhìn cây tùng thấy bên ngoài có miếng vỡ thực to của ai vạt ra vứt bỏ đấy, trên thân cây có dấu vẽ một mũi tên chỉ về hướng Bắc, và đầu mũi tên đó có dấu trâm vẽ thành chữ: "hướng vào Tuyệt tình cốc". Mũi trâm còn cắm vào đấy, nét chữ ẩn vào thân cây màu đen sẫm.
Dương Qua nói:
- Theo sự nhận xét của tôi thì chính Lý Mạc Thu vẽ, vì nơi đây hiện còn mũi "băng phách ngân trâm".
Tiểu long Nữ nói:
- Đúng vậy, sư tỷ tôi cũng đến tuyệt tình cốc không hiểu có biết đường chăng?
Dương Qua trầm ngâm nói:
- Quách phu nhân với Quách cô nương trong tay có dùng đến "Ngân phách băng trâm" chứ Võ tam thúc thì rõ lối vào Tuyệt tình cốc rồi. Còn như việc khắc chữ vào đây hoặc giả có người vào đây lưu lại bút tích đó.
Tiểu long Nữ nói:
- Vậy thì họ viết để ai xem đây?
Dương Qua muốn tiếp lời thì Nhất Đăng đại sư đã nói:
- Tôi có tên đệ tử họ Châu đầy mưu trí bị khốn ở trong hang, hoặc giả nó truyền lại dấu hiệu cho tôi thấy mà tới cứu hay là Võ tam Thông biết có người bạn già đến đây mà chỉ hướng đi?
Dương Qua gật đầu nói:
- Đại sư suy tính chắc chẳng nhầm đâu.
Nhất Đăng nhớ đến khi "Thiên Trúc thần tăng" không bị khốn cùng nhiều kẻ khác ông cũng đỡ lo lắng phần nào. Bốn người sửa soạn lên đường.
Đi đã năm ngày vẫn chưa đến. Qua buổi sáng tinh sương của ngày thứ sáu, Nhất Đăng đại sư bị vết thương trong mình hành hạ, dần dần ông ta không đi nổi nữa. Dương Qua thấy đại sư quá mệt mỏi, liền thưa:
- Đại sư! Đại sư hãy dừng tạm nghỉ ngơi, bảo dưỡng thân thể là trọng, đường vào Tuyệt tình cốc nhắm chẳng xa, để vợ chồng vãn bối cùng Từ ân đại sư vào trong hang, nếu tiện và may mắn thì sẽ cứu Thiên Trúc thần tăng và Châu đại thúc mang về đây.
Nhất Đăng đại sư đáp:
- Ta chẳng yên lòng ở đây được.
Cả bọn đều dừng lại nghỉ chân. Trong khoảnh khắc Từ ân và Dương Qua muốn đi. Dương Qua nói:
- Chỉ sợ chúng ta chần chừ, ở trong hang sinh biến, lão thánh tăng và Châu đại thúc e nguy đến tính mạng!
Bỗng nhiên Từ ân khom lưng xuống và nói:
- Sư phụ! sư phụ! Đệ tử sẽ ra sức cõng sư phụ đi.
Nhất Đăng đại sư vì nóng lòng cứu người nên thuận cho Từ ân cõng trên vai. Đường đi chẳng xa lắm, thấm thoắt đoàn người đã đến "Tuyệt tình cốc". Dương Qua hướng vào Từ ân nói:
- Bây giờ tôi và đại sư vào thông báo cho lệnh muội hay rồi sẽ ra rước tôn sư sau.
Từ ân còn lưỡng lự chưa đáp bỗng có tiếng dội từ dưới vọng lên, âm thanh chư cuộc xáp chiến dữ dội bằng gươm giáo. Từ ân không rõ cô em gái như thế nào, lành dữ chưa biết, lại cho nàng cùng Võ Tam Thông giao đấu. Bất giác Từ ân nói:
- Sư phụ, đệ tử quyết vào hang xem coi sự gì xảy ra.
Nhất Đăng đáp:
- Phải!
Đại sư chỉ nói được một tiếng là Từ ân phóng mình xuống hang rất lẹ. Khốn nỗi Từ ân không rõ đường lối trong hang quanh co khúc triết, vì thế Dương Qua phải đi theo vào dẫn lối cho Từ ân, hướng thẳng về nơi có tiếng giao đấu mà tiến tới. Tiểu long Nữ và Nhất Đăng tiếp tục theo sau. Bốn người lặng lẽ vào trong, được một chốc họ đến gần tiếng giao đấu, chỉ thấy tám người mặc áo lục, tay cầm binh đao, khí giới đứng ngoài ven mật lâm canh gác, còn tiếng binh đao từ trong mật lâm dội ra, mà không thấy rõ người giao đấu.
Bọn đệ tử áo xanh thấy bỗng nhiên có người xâm nhập vào các khẩu, liền la to một tiếng để thị oai và phân làm hai vòng vây phủ bọn người đột nhập vào mật thất, siết chặt dần dần. Tên đầu lãnh bọn này nhận ra Dương Qua và Tiểu Long Nữ liền ra lệnh nới vòng vây chận kiếm ngang lối đi, hét to:
- Chủ mẫu thỉnh Dương tướng công đến Tương Dương hành chuyện, công việc đã hoàn thành rồi ư?
Sở dĩ tên đầu lãnh hỏi: "Công việc đã hoàn thành rồi ư?" là vì Dương Qua lãnh chỉ thị đi hành thích Quách Tỉnh và Hoàng Dung vậy.
Dương Qua không đáp lại mà hỏi:
- Trong rừng ai giao chiến vậy?
Tên đầu lãnh áo lục không trả lời ngay, nhìn bọn người đầy nghi ngờ, không hiểu Dương Qua dắt bọn người nào vào đây, bạn hay là thù?
Dương Qua hiểu rõ tâm trạng y, nên mỉm cười nói:
- Tiểu đệ về đây không có ác ý nào. Công tôn phu nhân mạnh khỏe chứ?
Tên đầu lãnh áo lục phân vân trước sự ỡm ờ của Dương Qua nên khách sáo đáp:
- Đa tạ! nhờ phước trời chủ mẫu và cô nương vẫn mạnh khỏe.
Từ ân đại sư nghe nói em gái mình mạnh khỏe lấy làm mừng, nên tỏ lời hoan hỉ lắm.
Tên đầu lãnh áo lục lo ngại nói:
- Xin hỏi Dương tướng công, hai vị hòa thượng này là ai? Qúi vị vào trong rừng sâu hẻo lánh để làm gì? Và bốn cô gái có phải đi cùng không?
Dương Qua ngạc nhiên hỏi:
- Bốn cô gái nào? Chúng tôi không rõ.
Tên đầu lãnh áo lục nói:
- Có bốn cô gái vừa vào đây bằng hai ngả khác nhau. Chủ mẫu ra lệnh cấm họ đừng vào, mà chúng cả gan không nghe, lại gây sự đánh nhau tại Tình hoa ảo. Tướng công hãy lại đó xem có quen biết người nào không?
Dương Qua nghe đến ba chữ Tình hoa ảo thì chàng vô cùng sốt ruột và sợ hãi, vì Tình hoa ảo là một nơi cấm địa của Tuyệt tình cốc. Chàng thầm nghĩ: không biết bốn cô gái này là ai? Hay là... Hay là Hoàng Dung, Quách Phù, Hoàng Nhan Bình và Gia Luật Yên? Mà vô lý thay, không lẽ họ lại gây sự với nhau!
Chàng gật đầu nói:
- Phiền đầu lãnh dẫn dắt đến xem, biết đâu chẳng là quen biết? Tiểu đệ sẽ khuyên bảo họ ngừng chiến. Nếu nhận được người quen tiểu đệ sẽ yết kiến cốc chủ sau.
Người đầu lãnh áo lục nghĩ rằng bọn người của Dương Qua không tệ hại lắm và bốn cô gái này bỗng nhiên bị khốn ở Tuyệt Tình cốc ngay nơi nguy hiểm là Tình hoa ảo, gã sợ thiệt mạng bốn thiếu nữ nên bằng lòng hướng dẫn bọn Dương Qua vào trong.
Tình hoa ảo là một khu vườn bí mật dưới hang, có cây cỏ sum sê và nhiều loại hoa rất lạ. Bốn cô gái chia ra làm hai cặp đánh nhau rất kịch liệt. Dương Qua và Tiểu long Nữ lấy làm lạ, vì bộ pháp võ công của người rất kỳ lạ, khi giao đấu họ đứng cách nhau cả trượng.
Đột nhiên Tiểu Long Nữ "á" lên một tiếng to, và nàng khám phá ra bọn con gái này sợ đụng nhầm các loại gai độc hai bên. Nhất Đăng đại sư và Từ ân hòa thượng cũng kinh ngạc không kém vì sự bố trí quái của khu vườn Tình hoa ảo. Dương Qua và Tiểu long Nữ tiến gần chỗ bốn cô gái đánh nhau để xem lạ hay quen. Tiểu long Nữ nói với Dương Qua:
- Sư tỷ! sư tỷ kìa! Họ đã đến trước mình, tại sao lại đánh nhau kìa?
Thì ra con độc phụ Lý Mạc Thu với đệ tử của nó là Hồng lăng Ba đang cử kiếm chống đỡ kịch liệt với hai cô gái kia. Lý mạc Thu lúc ở Cổ Mộ bị Dương Qua chém gãy chiếc phất trần, không tạo lại được nên nàng sử dụng tạm chiếc gươm dài. Lý Mạc Thu chống trả với một, thiếu nữ áo vàng tay cầm cây Liễu đao, còn đệ tử của ả là Hồng lăng Ba giao đấu với thiếu nữ mặc áo tím, tay cầm thanh quảng tiêu (ống tiêu sắt).
Hai người sau này bộ pháp rất cao diệu, tiến lui có bộ vận rõ ràng. Thầy trò Lý mạc Thu núng thế.
Dương Qua nói thầm:
- Không rõ hai cô này là ai?
Chàng hướng mắt vào Long Nữ như ngầm hỏi. Tiểu long Nữ đáp:
- Thiếu nữ áo vàng là Trình Anh, còn thiếu nữ áo tím chính là Lục Vô Song.
Dương Qua và Tiểu long Nữ nhìn thấy bốn người giao đấu rất gay go, mỗi bước tới lui đều e dè kinh sợ. Riêng Lý Mạc Thu luống cuống thấy rõ, vì nàng đâu quen sử dụng trường kiếm. Tuy vậy họ cũng đem hết tài năng học thuật ra giao đấu, quyết một mất một còn. Phần Trình Anh rất tự phụ với những thế võ kỳ bí của Hoàng dược Sư truyền lại vì vậy nàng làm cho Lý mạc Thu liểng xiểng không ít. Riêng đệ tử của Lý Mạc Thu thì trái lại. Hồng lăng Ba võ thuật cao siêu có thể thắng Lục vô Song trong chốc lát, song hai người là bạn cũ với nhau, bởi vậy Hồng lăng Ba luôn luôn nhân nhượng, không tấn công kịch liệt như cặp kia. Nàng luôn luôn đứng dưới gió và bộ pháp rất chậm chạp, cố để cho Lục Vô Song né tránh.
Dương Qua thấy vậy bèn nói vời người đầu lãnh áo lục:
- Tại sao bốn người thiếu nữ nầy lại gặp nhau nơi đây và cớ nào đánh nhau như vậy?
Người đầu lãnh áo lục đáp:
- Nơi dây Công Tôn cốc chủ bố trí rất tinh vi, những kẻ lạ nào muốn vào Tuyệt tình cốc đều bị lọt vào khu rừng Tình hoa ảo nầy, họ sẽ bị cành cây, hoa lá của tình hoa giữ ở lại, dù muốn về cũng không được nữa.
Dương Qua biến sắc hỏi:
- Vậy khu vườn này cỏ cây hoa lá đều độc hết sao?
Gã áo lục tươi cười bảo:
- Công Tôn Cốc Chủ dự liệu chẳng lầm, bọn người này sớm muộn cũng ngộ độc mà chết!
Dương Qua ngẫm nghĩ: Chắc Lý mạc Thu dẫn dụ hai người này vào đây, mượn tay Cốc Chủ Tuyệt Tình giết.
Chàng đưa mắt quan sát, bỗng kêu lên:
- A! Ra thế! Khi kẻ gian lọt vào đây trước tiên là bị trúng độc, kế đó bị lọt vào "Ngư võng trận" một thế vô cùng hung ác. Nếu như Trình Anh và Lục vô Song bị trúng độc thì phải chết, vì trên đời này không có thuốc giải độc và trị nổi chất tuyệt tình hoa.
Chàng hoảng hốt gọi to lên:
- Trình sư tỉ, Lục sư tỷ, có tiểu đệ là Dương Qua đến đây. Nhị vị hãy thận trọng, đừng để vướng phải cỏ cây hoa lá mà ngộ độc chết. Hãy cẩn thận! Rất nguy hiểm đến sinh mạng.
Lý mạc Thu là kẻ gian ngoan xảo quyệt, khi lọt vào khu vườn tình hoa ảo là nàng đã hồ nghi rồi, vì có bao giờ người ta trồng cây cối và hoa loạn xạ giữa đường đâu? Nàng nghĩ là có những hầm sâu và ám khí.
Còn phần Trình Anh rất linh lợi, nàng cũng lo ngại như Lý mạc Thu. Bởi vậy tuy bốn cô này đánh nhau, họ rất e dè sợ đụng nhầm cơ quan có ám khí sẽ bay tua tủa ra hay là sợ lọt xuống hầm sâu đầy gai góc.
Đến khi nghe tiếng gọi hoảng hốt của Dương Qua thì trong bốn người này, hai người vui vẻ, hai kẻ kinh hồn, và họ mặc cảm như vừa bị trúng độc. Tuy vậy bốn người vẫn giao đấu hùng hổ hơn trước. Lần này họ tránh xa những bụi hoa tình và xáp gần nhau kịch đấu, ai ai cũng mong tung ra một độc thủ để kết liễu kẻ địch.
Phần Trình Anh và Lục vô Song nóng nảy muốn báo thù sư môn nên giao đấu rất hăng. Riêng Lý mạc Thu thì tưởng sớm muộn gì cũng hạ được địch thủ bằng cách dẫn dụ hai nàng kia đi lên khóm đá bên trên Tình hoa ảo, rồi sẽ dùng "Chấp cước thạch" đẩy hai nàng vào trong tử địa của Tình hoa ảo. Chừng ấy thầy trò sẽ rút lui.
Không ngờ Dương Qua lên tiếng gọi, làm cho nàng bối rối và kinh sợ, quay đầu nhìn lại, đã thấy cặp vợ chồng Dương Long đứng cách đấy chẳng xa. Nàng lại lo sợ hai người này tiếp tay thì mang khốn, nên hét to bảo Hồng lăng Ba:
- Lăng Ba! Tiểu đồ hãy gắng tí nữa, chiến đấu kẻo bỏ mạng cả thầy trò ta.
Hồng Lăng Ba từ nhỏ theo thầy học nghệ, tâm tánh rất dễ dạy và nàng rất kinh sợ Lý mạc Thu cho nên nghe tiếng thầy bảo nàng đáp liền không nghĩ ngợi:
- Tuân lệnh.
Và nàng đưa lên thanh quản trúc bủa mạnh vào tim của Trình Anh một nhát vô cùng ác hại. Lục vô Song tuy giao chiến với Lý Mạc Thu nhưng cặp mắt để chừng xem người chiến hữu. Đến khi thấy "Thanh quảng tiêu" đưa ra một thế khốc liệt nên nàng rướn người qua một bên, cử thanh dao liễu diệp ra đỡ, kêu lên một tiếng "choang" do đó Trình Anh thoát khỏi hiểm nghèo. Lý mạc Thu thấy vậy đâm vảo yết hầu Lục vô Song một gươm lẹ như điện chớp, sao sa. Lục vô Song ngả ngườt ra phía sau, rồi đưa thanh liễu đao ra đỡ thế kiếm của Lý mạc Thu. Bấy giờ Lý mạc Thu khoan khoái và hoan hỉ. Nàng cười to, rồi cử thanh trường kiếm
phạt ngang lưng Lục vô Song một nhát cực kỳ ác liệt. Lục vô Song luống cuống, chống trả không kịp, bị lưỡi kiếm gạt phăng thanh liễu diệp đao vào khóm hoa. Nàng hoảng sợ thối lui vài bước. Lý mạc Thu xoay qua Trình Anh tấn công tới tấp liên tiếp ba thế gươm ác liệt suýt đâm vào ngực nàng. Trình Anh chống trả chẳng nổi nên thối lui ra sau mấy bước sắp sửa rơi vào bụi hoa độc. Lục vô Song thấy tình thế nguy khốn đến nơi kêu rằng:
- Trình tỉ tỉ! Coi chừng các khóm hoa độc, đừng lùi lại, đừng lùi lại!
Lý Mạc Thu cười to và bảo:
- Đừng lui lại nguy hiểm, hãy tiến lên, ta nhường vài bước cho ngươi.
Nói xong, Lý mạc Thu lùi lại khoảng ba thước. Trình Anh dư hiểu dã tâm của nàng, đời nào họ Lý dung tha hay có ý nghĩ tốt đâu. Tuy nghĩ thế, nhưng Trình Anh vẫn mạnh dạn tiến về Lý Mạc Thu.
Lý mạc Thu mỉm cười nói:
- Tốt dấy, phải đấy! Là kẻ anh thư phải có gan vậy chớ.
Lời nói chưa dứt nàng vung ra một nhát kiếm ác liệt, như muôn ánh sao nhấp nhánh hào quang, nhắm ngay lưng Trình Anh phạt một nhát.
Dương Qua đứng bên ngoài trông thấy rõ ràng, và thấy thế võ nầy gọi là "Lĩnh nguyệt quy nhân", mà Lý mạc Thu đã cho chàng nếm một lần tại ngôi Cổ Mộ. Lại thấy Trình Anh giơ thanh quảng tiêu ra đỡ, giữ từ bụng xuống chân. Dương Qua vô cùng hoảng hốt nên nhặt vội hòn đá nhỏ, dùng hết nội lực khinh công ném vào hai ngón tay đang cầm chuôi kiếm của Lý mạc Thu. Viên đá bay vù đến, ai cũng tưởng hòn đá này sẽ đánh rơi thanh kiếm trong tay. Nào ngờ, một sự lạ xảy ra viên đá lại giáng mạnh vào mắt nàng. Lúc bấy giờ thanh kiếm của Lý mạc Thu chỉ cách Trình Anh qua làn tơ kẽ tóc, đột nhiên nàng thấy viên đá sắp chạm vào nắm tay nên rời Trình Anh mà lo chống trả lại viên đá thì viên đá lại bắn vào mắt. Cả sợ, Lý mạc Thu quay kiếm chém ngay viên đá, kêu "choang" một tiếng, văng ra ngoài.
Dương Qua sử dụng khoa ném đá nầy theo thế võ bí truyền "Đan chỉ thần công" của Hoàng dược Sư. Môn nầy rất kỳ quặc, nghe tiếng động hướng Đông mà đột kích hướng Tây, có thể gọi là "Du kích pháp".
Hiện giờ, Lý mạc Thu tuy đỡ vạt được những viên đá sau, chứ viên đá đầu tiên đã chạm phải mắt nàng. Với đôi mắt con nhắm con mở, thì làm sao giết Trình Anh được, nên nàng quay lạt toan trốn.
Môn pháp "Đan chỉ thần công" nếu gặp tay Hoàng lão tà, chỉ một hòn đá nhỏ thôi thì cũng đủ đột kích Lý mạc Thu hai lần, một lần rơi thanh kiếm hai là đui hẳn con mắt, chẳng sai một ly. Thuở trước Hoàng dược Sư rất đắc ý và yêu chuộng Dương Qua, nên ông ta truyền lại cho chàng cái môn pháp độc nhất vô nhị của ông, để sau nầy hộ thân trong lúc gian nan, nguy hiểm. Nhờ vậy mà Dương Qua cứu thoát Trình Anh trong cơn muôn chết một sống vậy.
Mạc Thu xông pha trăm trận, chiến thắng đã nhiều cũng hiểu rõ câu tùy cơ ứng biến. Lòng nàng tưởng Dương Qua đứng bên ngoài, và không dám dấn thân bước vào các bụi Tình hoa, không dè Dương Qua quá lắm, bắn vào người nàng những viên đá nhỏ, thế mà đối phó chẳng được. Lại thấy Trình Anh tài mạo song toàn, cái chết đến nơi mà chẳng chạy trốn, gắng gượng ở lại giao đấu làm chi cho sắc mắt nhợt nhạt. Nàng biết rằng Trình Anh tâm thần bất định nên hét to để áp đảo và nói:
- Hãy đánh lại! tái đấu, tái đấu!
Ghê thay con người độc ác, chẳng chịu nhường nhịn ai cả! Nàng múa tít thanh trường kiếm, đưa ra chiêu võ "Lĩnh nguyệt quy nhân" lúc nãy và chém ngang lưng.
Trình Anh đã biết sơ sơ lúc nãy, và nàng tưởng rằng Lý mạc Thu công trên là hư, mà đánh dưới mới là thật nên nàng đưa thanh quảng tiêu ra đỡ từ đan điền đi lên trên. Nàng đâu rõ Lý mạc Thu võ thuật cao thâm, biến hóa đủ điều, sự thật là Lý Mạc Thu chém ngang bên trên như nàng nghĩ, mà không công bên dưới. Chỉ thấy nhát kiếm vừa vút ngang lưng, Lý mạc Thu tiến kế bên và vươn hai ngón tay ra điểm vào bụng Trình Anh ngay Ngọc đường huyệt. Trình Anh hoảng sợ đưa thanh quảng tiêu ra, quét ngang đôi chân Lý mạc Thu. Lý mạc Thu nào phải tay xoàng, khi thấy ống tiêu của Trình Anh quét tới là nàng nhảy tung ra xa, lại nhìn thấy Lục vô Song đang bơ phờ đấu với Hồng lăng Ba, nàng thuận đà tung
ra một đá, Lục vô Song né khỏi và tiếp tục đỡ lưỡi kiếm của Hồng lăng Ba. Trình Anh không người giao đấu lại bị điểm trúng "Ngọc đường huyệt" còn đau buốt, nên đứng xơ rơ tại đó, lại bị Lý mạc Thu tung đôi chân lên, đá mạnh vào đầu gối rồi điểm luôn huyệt Dương quan. Trình Anh vô ý bị điểm một lượt hai huyệt, nên tay chân đau buốt, thân thế như dần, các chiêu võ bắt đầu rời rạc, không còn linh động như trước.
Lục vô Song cũng vậy, vì nàng đã dẫm phải nhiều lần trên các bụi hoa tình đầy chất độc. Chất độc này đã thấm nhiều vào cơ thể của nàng. Dương Qua trông rõ tình trạng này muốn nhảy vào cứu mà không kịp xuất thủ, đã nghe giọng nói hốt hoảng của Hồng lăng Ba kêu:
- Sư phụ...
Lý mạc Thu nghe tiếng kêu vội vã quay lại, thấy Trình Anh đang đỡ Lục vô Song. Nàng hớn hở vô cùng bảo to:
- Lăng Ba! Lăng Ba! Đệ tử hãy đạp lên mình chúng nó, ha ha!
(thiếu)
Bởi vì Trình Anh bị điểm trúng huyệt bụng và chân, đôi tay nàng còn mạnh cho nên thấy Lục vô Song sắp ngã vì nhiễm độc thì Trình Anh dang đôi tay ra đỡ và hốt hoảng kêu to: "Dương ca... Dương..." rồi tắt hẳn tiếng vì huyết khí ngăn chặn làm nàng mờ lệ và xúc động. Nàng đối với Dương Qua như cốt nhục tình thâm nhớ lại lúc nãy Dương Qua không nệ nguy hiểm mà bước vào bụi hoa tình cứu nàng, bây giờ chắc nàng chết, không đền ơn được.
Nguyên vì Dương Qua thấy Trình Anh và Lục vô Song, hai người nương nhau, bước vào bụi hoa tình cực độc thì chàng đã rõ Lý mạc Thu, dã tâm ác độc, đẩy hai người bằng "Chấp cước thạch" vào nơi huyệt địa cho nên lo lắng vô cùng, và muốn nhảy vào cứu hai người, thì đôi chân rướm máu cứng lại...
Lục vô Song và Trình Anh, hai người lùi về phía sau thật chậm chạp, rồi lảo đảo ngã xuống đất. Trình Anh chân đứng như gỗ, co duỗi chẳng được. Tiểu long Nữ thấy vậy đến bên giải giùm huyệt đạo.
Nàng nhìn về phía Dương Qua trông thấy đôi chân chàng rướm máu, máu chảy thấm ra ngoài không rõ chất độc đã thấm nhiễm vào đâu. Tuy vậy Dương Qua cố lê đôi chân lại phía ba nàng kia, muốn săn sóc hay giúp đỡ.
Trình Anh đôi mắt đầy lệ, Lục vô Song tuy nhiễm độc nặng cũng gắng gượng nói:
- Ngươi... ngươi. . . hãy bảo trọng? đừng cứu ta! Ai? Ai? đã dùng độc thủ như vậy?
Dương Qua thản nhiên cười nói:
- Tôi tuy trúng nhầm độc chưa giải được nhưng nhiều một chút cũng vậy. Có gì mà chẳng đồng?
Lúc bấy giờ mọi người đều nghĩ thầm: "Chất độc dù cạn dù sâu thật là khó phân biệt. Suy cho lắm, lo cho nhiều chẳng ăn thua gì cả. Cả ba nàng cho đó là lời an ủi mà thôi". Trình Anh nước mắt nhầy nhụa chẳng thốt được tiếng nào, Lục vô Song cố gắng nói như mê sảng:
- Trứng ngốc! Ngươi... ngươi... cánh tay trái... đã gãy rồi ư...?
Tiểu long Nữ và Trình Anh nghe nàng nói rất kỳ cục không hiểu gì cả và nhìn thấy rõ Lục vô Song trước đây có một nhan sắc ngư trầm, lạc nhạn, bây giờ xanh xám, mét vàng, trong lòng lấy làm chua xót, nhìn về phía Dương Qua thấy rõ chàng, có vẻ ưu tư lo nghĩ!
Trong khoảnh khắc họ cảm thông nhau vì là tình bạn từ lâu. Lục vô Song còn đang mơ màng, lại nghe Tiểu long Nữ hỏi lại:
- Ngươi vừa nói cái gì nghe lạ quá! Trứng ngốc là trứng gì? Làm sao lại là ngốc?
Lục vô Song "a" một tiếng rồi cãi lại:
- Trứng gà mà tôi nói nhầm, xin cải chánh lại.
Và nàng chưa tỉnh lắm! Hết nhìn Trình Anh lại nhìn Tiểu long Nữ, lại quay sang Trình Anh hỏi:
- Tỉ tỉ này có phải là...
Dương Qua đáp thay:
- Chính ta là... của tôi!
Trình Anh tiếp lời nói:
- Tỉ tỉ đây là Tiểu long Nữ tiền bối đó!
Lục vô Song nói tiếp:
- Sao vậy? Tôi đã hiểu rõ lắm rồi?
Sự thật là Lục vô Song đã thầm yêu Dương Qua nhưng bấy giờ nàng cũng như Trình Anh đều công nhận rằng, chỉ có Tiểu long Nữ mới xứng đáng làm vợ Dương Qua. Tuy vậy họ cũng không đem lòng đố kỵ, chỉ chọc ghẹo cho vui mà thôi. Trình Anh và Lục vô Song đưa mắt nhìn cặp Dương Long đang ngồi sát bên nhau có vẻ âu yếm đậm đà, dầu là thiếu nữ họ cũng mê mệt trước nhan sắc đẹp tuyệt vời của Dương Long, có thể gọi cặp vợ chồng này đệ nhất nhân gian vậy. Lục vô Song suy tưởng rằng: Nhan sắc và tài ba của ta chẳng bằng Tiểu long Nữ tí nào cả. Trình Anh hồi nhỏ rất hiền lành, cho nên lúc lớn khôn nàng bao giờ cũng ôn hòa nhã nhặn. Trái lại Lục vô Song tính tình cương quyết lại nóng nảy vô cùng. Đột nhiên nàng cất tiếng hỏi Dương Qua:
- Dương đại ca, cánh tay của đại ca lúc đó chắc đã gãy đoạn rồi sao? Thương thế có hành hạ nhiều lắm không?
Dương Qua cười thản nhiên nói:
- Đã sớm lành mạnh, là nhờ có người chặt tiện nó rồi.
Lục vô Song nói:
- Đau đớn thay! Cũng vì tình cảm mà mắc mưu bọn người gian ác! Có phải vậy không Dương ca? Giận thay sự ác độc của con ma đầu nào đó nỡ đoạn cánh tay của đại ca!
Bỗng nghe có tiếng nói lanh lảnh của một thiếu nữ từ phía sau vọng đến:
- Đừng nhục mạ sau lưng người? Ai ác độc? Ai bày mưu chớ?
Lục vô Song cả kinh quay lại nhìn rõ là một cô gái, dáng mặt thon nhỏ, mặt trắng môi hồng mắt tựa phượng hoàng, mày như lá liễu. Vẻ đẹp phàm gian ít có.
Cô gái này chính là Quách Phù vậy. Trên tay Quách Phù cầm thanh trường kiếm vẻ mặt hầm hừ, cùng đứng chung với một bọn bốn người hai nam hai nữ. Nhóm người nầy là Võ tam Thông, Gia Luật Tề.
Nguyên lúc anh em họ Võ, Gia Luật Tề và Quách Phù tránh ngọn lửa to, đứng vào khe suối, chờ khi ngọn lửa tắt dần họ mới đi ra gặp lại Hoàng Dung, Hoàng Nhan Bình và Gia Luật Yến, Họ bàn họp nhau thảo luận, và quyết tâm đến Tuyệt tình cốc, do Võ tam Thông hướng đạo, vì thuở trước ông có qua lại nơi đây mấy lần. Và cả bọn bắt đầu khởi hành, chẳng bao lâu đến hang. Riêng hai cô gái Gia luật Yến và Hoàng nhan Bình không thạo khinh công, đi chậm lại phía sau, nên gặp đại sư Nhất Đăng và Dương qua. Về phía Dương Qua cũng gấp rút đến hang tuyệt tình, để cứu Thiên trúc thần tăng và Chu tử Liễu. Cùng đi như vậy mà tình thế lại khác nhau! Bọn Dương Qua thì nhờ Châu bá Thông trêu chọc dẫn đường. Về phía Võ tam Thông thì do ông hướng đạo. Dương Qua và Từ ân vào cốc trước mới gặp được bọn Lý Mạc Thu và Trình Anh. Khi mọi người gặp nhau đông đủ Hoàng Dung và Võ tam Thông hướng vào Nhất Đăng đại sư hành lễ, lại giới thiệu mọi người với Nhất Đăng đại sư.
Trình Anh bấy lâu nghe tiếng tăm Hoàng Dung rất ngưỡng mộ mà không biết mặt vị sư tỷ này, đến khi gặp Hoàng Dung nàng tỏ ra rất cung kính, vội tiến về Hoàng Dung nói:
- Tiểu muội là Trình Anh, xin ra mắt sư tỷ!
Dương Qua và Hoàng Dung đều không rõ ràng, nay nghe nàng kể tự sự mới biết thân phụ của Hoàng Dung đã già mà còn nhận một nữ đồ. Hoàng Dung hỏi thăm tin tức thì được biết phụ thân nàng vẫn khỏe và đang vân vu bốn phương vô định.
Bấy giờ tại ngôi Mật lâm, các đệ tử của Tuyệt tình cốc đều trang bị gươm giáo, song nhìn bọn khách lạ thấy người nào cũng tuấn tú đoan trang, khí thế cực thịnh, nên chẳng dám ra mặt cản trở, chỉ biết chạy bay về phi báo chủ cốc là Cừu thiên Xích rõ.
Còn Quách Phù và Lục vô Song, hai người nhìn nhau với những tia mắt cực kỳ uất hận nhưng chẳng dám động thủ. Khi thấy Hoàng Dung chào hỏi mọi người và có vẻ nể trọng Trình Anh, thì cả hai lấy làm ngạc nhiên lắm. Lại nghe Hoàng Dung bắt gọi Trình Anh là sư thúc, làm Quách Phù kinh dị vô cùng. Dương Qua kéo Tiểu long Nữ đi ra xa mọi người, rồi tiếp tay với nàng tháo chiếc đai, bọc Quách Tường xuống. Đứa bé mũm mĩm dễ thương, vào buổi sơ sinh cũng đã bị phong trần dồn dập. Dương Qua nói:
- Long Nhi! Bây giờ công việc tạm yên. Long Nhi nên hoàn trả lại cho mẹ của nó.
Tiểu long Nữ âu yếm nhìn đứa bé và bế đi ngang trước mặt Hoàng Dung nói:
- Quách phu nhân! Tôi xin gởi lại cháu nhỏ.
Hoàng Dung đưa tay tiếp lấy và nghĩ rằng: Con trẻ từ lúc thoát thai đến nay được người bao bọc mãi trên lưng không rõ người mẹ lưu lạc ở phương nào? Hiện giờ mẫu tử trùng phùng vui vẻ biết bao. Nàng mãi nghẹn ngào mà không nói dược câu nào với Dương Long. Dương Qua lại tưởng nàng khách khí nên hướng về Quách Phù nói:
- Quách cô nương! Hiện giờ chị em cô nương đoàn tụ và đứa bé vẫn yên lành! Phận sự chúng còn phải lo việc khác nữa.
Đoạn chàng bảo Tiểu long Nữ, hãy tìm thuốc giải độc kẻo thấm vào ngũ tạng thì chết.
Quách Phù nghe thế cả giận nói:
- Mẹ ta ở đó, chuyện gì hãy nói với bà! Tình cờ ngươi và Tiểu long Nữ cứu em ta chứ công cán lớn lao gì mà làm mặt giận hờn?
Dương Qua bình sinh rất khẳng khái, chẳng chịu chầu chực hay khuất thân, vì thấy Hoàng Dung cứ mải ôm con nựng nịu mà không ngó ngàng gì tới hai người đã khổ sở vì đứa bé từ lúc biến cố xảy ra, nào là Tiểu long Nữ tay ôm tay đánh kẻ địch nên lấy làm bất mãn.
Lục vô Song liếc nhìn về phía Quách Tường và nói với Trình Anh:
- Nó là con gái của sư tỷ ngươi à? Ta cũng nguyện cầu sau này nó lớn không tài ba lỗi lạc, sẽ không giống man rợ mà không tốt.
Lời nói nầy cốt ý châm chích Quách Phù. Trình Anh hiểu rõ, há Quách Phù không biết hay sao cho nên nàng gay gắt tiếp lời:
- Em gái tôi có man rợ hay cái chi nữa can hệ gì đến mấy người? Mà ngươi nói ra câu này với dụng ý gì?
Vì năm rồi Dương Qua có cứu thoát Lục vô Song, cho nên từ ấy đến nay họ Lục vẫn suy tôn Dương Qua là người nghĩa ân số một, lúc nào hoạn nạn là có Dương Qua kịp thời cứu cấp cho nên khi thấy Hoàng Dung nhận con mà không cảm ơn Dương Qua, lại nghĩ đến Quách Phù chém đứt cánh tay Dương Qua thì Lục vô Song không giận sao được. Bởi vậy khi Quách Phù vừa nói dứt câu, nàng quát lớn:
- Tôi nói là nói quân man kìa! Loài man rợ ác tâm, người người đều hận thù. Vậy thì quân man quan hệ lắm chứ!
Lục vô Song không giống Trình Anh, tánh nóng nảy vô cùng. Tuy trước mặt mọi người, nhưng nàng chẳng hề giữ gìn ý tứ gì cả. Quách Phù nghe Lục vô Song mắng khéo mình nên nàng cả giận rút thanh kiếm, và hét lên:
- Ngươi muốn què giò mới dám nói lời trêu ngươi đó.
Hoàng Dung gọi to:
- Phù Nhi! không được vô lễ!
Bỗng nghe có tiếng "a" thật lớn, rồi từ bụi hoa độc xuất hiện ra hai người. Mọi người quay đầu nhìn lại thì là thầy trò Lý mạc Thu và Hồng Lăng Ba. Tiếng kêu vừa rồi do Hồng lăng Ba phát ra.
Nhất Đăng đại sư, Trình Anh và Hoàng Dung mải vui hội ngộ và tưởng Lý mạc Thu đã chạy trốn mất rồi, nào ngờ Lý mạc Thu vẫn còn đấy. Nguyên lúc đó thì Lý mạc Thu đã kéo Hồng lăng Ba vào bụi hoa độc, dùng kiếm bới đất, moi thành một lỗ giữa bụi cây. Nàng tính ẩn núp nơi đây để dùng "Chấp cước thạch" đá chết mọi người. Không ngờ Hồng lăng Ba đã bị hoa độc châm chích chịu không nổi nên kêu lên như thế.
Lý mạc Thu cả giận lôi người đệ tử nhảy tung ra ngoài như mọi người đã thấy. Khi đó Lý mạc Thu lại đá mạnh vào hông Hồng lăng Ba ngay yếu huyệt. Lục vô Song thấy vậy cả kinh nói to:
- Không tốt! Hỏng cả rồi, sư phụ đã truyền cho nó môn "Chấp cước Thạch".
Lục vô Song lúc còn nhỏ có chơi thân với Hồng lăng Ba và cũng thấu rõ lòng dạ thâm độc của Lý mạc Thu. Nàng biết Hồng lăng Ba trên đời nầy không người thân thuộc, gặp sự nguy cũng là vô lộ đảo sanh. Trong khi Hồng lăng Ba bị điểm yếu huyệt thì hai tay nàng bíu chặt cặp chân Lý mạc Thu, làm cho Lý mạc Thu phải hai lần suýt té, qua lần thứ ba Lý mạc Thu nổi giận dồn hết khí công vào đôi chân, tung ra một đá vào hông của Hồng lăng Ba. Một thế đá thần tốc làm cho tạng phủ của người đệ tử dập nát. Tuy đã chết nhưng đôi tay của Hồng lăng Ba vẫn bám chặt vào thân của Lý mạc Thu, máu ở miệng người đệ tử vọt ra có vòi. Lý mạc Thu vẫn chưa hài lòng, còn vận hết nội lực, nhảy lên cao một trượng. Nào ngờ sức nặng của Hồng lăng Ba lôi cuốn nên nàng ngã xuống đất, thân hình nằm gọn trên thân thể Hồng lăng Ba.
Mọi người đứng xung quanh đều ghê sợ kinh hồn. Thực là một thảm trạng. Thầy giết trò từ xưa đến nay là lần đầu tiên họ chứng kiến! Họ đưa mắt nhìn nhau mà chẳng nói nên lời.
Bấy giờ Lý mạc Thu cố gỡ đôi tay người đệ tử ra. Nhưng Hồng lăng Ba đã chết tự bao giờ mà đôi mắt mở trừng đầy vẻ oán hờn, u uất. Lý mạc Thu thản nhiên đứng dậy, phủi những bụi đất bám vào áo quần, không có gì cảm động hay xót xa. Nàng còn tưởng thầm rằng bây giờ trên mình ta, vô số gai góc của Tình hoa châm vào, phải đi tìm thuốc giải? Mà chỉ có cốc chủ Tuyệt Tình này mới có mà thôi. Suy nghĩ xong nàng thản nhiên bước nhanh vào bên trong Tuyệt tình cốc như người an nhàn vô sự.
Bỗng nghe Hoàng Dung gọi giật lại bảo:
- Lý tỷ tỷ hãy dừng bước, ta có đôi lời muốn nói với ngươi.
Lý mạc Thu suy nghĩ rất nhanh, nàng tưởng Hoàng Dung có thuốc giải độc, nên gọi nàng trở lại cho thuốc hay chỉ cách chữa trị chất hoa độc này. Vì nghĩ như thế Lý Mạc Thu tiến nhanh đến trước mặt Hoàng Dung và hỏi:
- Chuyện gì thế? Rồi nàng toan bước đi.
Hoàng Dung nói to như truyền lệnh:
- Lý Mạc Thu! Mi muốn ra khỏi chốn này sao? Nếu ngươi không giải thích tại sao ngươi giết tên đồ đệ thì ta quyết cản trở đó.
Lý mạc Thu đưa cây trường kiếm ngay mặt Hoàng Dung và bảo:
- Hoàng Dung! Ngươi muốn lên mặt giáo huấn ta sao?
Hoàng Dung cười to đáp:
- Không phải vậy? Ta bảo ngươi một điều để ngươi cho mọi người thấy là dại? Ngươi đã dùng chiêu võ "Chấp cước Thạch để hại tiểu đồ có đúng không? Vì nó cản trở không cho ngươi sát hại kẻ khác nên người đã giết nó rồi bỏ ra đi, coi như kẻ vô sự an nhàn vậy!
Lý mạc Thu sắc đổi thay, lúc nhạt, lúc hồng, trong tâm nàng hối hận vô biên. Nàng buồn bã trả lời:
- Ngươi đừng nói nữa! Ta chậm suy xét, mà lỡ tay như vậy!
Hoàng Dung nói:
- Phải thế! Cái gì cũng do sớm hay muộn mà thôi. Ngươi trúng độc hay không trúng độc cũng có một đường.
Lý Mặc Thu nhướn cặp mắt to nhìn Hoàng Dung không hiểu ý câu nói này sao cả.
Hoàng Dung than:
- Cũng tại ngươi không sớm suy tính, mới sinh ra ác độc, làm điều xằng bậy, hại người hại mình, rồi cũng có giờ nào đó? ôi cũng do sớm muộn mà ra.
Lý mạc Thu cũng không rõ ẩn ý câu này nữa, tuy rằng ăn năn nhưng chẳng khuất phục nên hét lên lanh lảnh:
- Hồng lăng Ba đồ đệ do tôi cứu mạng nó, đem về nuôi nấng từ thuở bé thơ, và bây giờ đã khôn lớn, thử hỏi không có tôi cứu thì làm sao có nó, trên cõi đời nầy nữa. Vì tôi có được sống thì nó cũng phải vì tôi mà chết, ấy là lẽ dĩ nhiên hợp lý lại công bằng.
Hoàng Dung nói:
- Mỗi người chúng ta đều do cha mẹ sinh ra bởi vậy con người ai cũng có cha mẹ và cha mẹ có khi nào giết hại con cái đâu, huống hồ là kẻ khác.
Võ tu Văn rút kiếm ra khỏi vỏ hướng vào Lý mạc Thu nạt lớn:
- Lý mạc Thu! Ngươi chết đáng số, tội ác ngươi chồng chất dẫy đầy. đừng nên ngụy biện dài dòng vô ích.
Võ tu Văn nói xong, tiến lên vài bước thì có năm người hưởng ứng, chia ra bao vây Lý mạc Thu. Năm người này là Võ đôn Nho, Gia luật Tề, Gia luật Yến, Hoàng nhan Bình và Quách Phù.
Lý mạc Thu nhìn khắp năm người thấy vẻ mặt người nào cũng muốn ăn tươi nuốt sống nàng, trong lòng rung động than thầm:
- Một mình Hoàng Dung còn khó cự huống chi có cả đôi Dương Qua và Tiểu long Nữ?
Lại thấy Trình Anh và Lục vô Song, kẻ cắp tiêu người xách đao tiến lên hai bước. ô hô! số mạng chẳng dài!
Bỗng nghe giọng hùng hổ của Lục vô Song nói:
- Ngươi thực là lòng lang dạ sói giết hết cả nhà ta. Hôm nay ta quyết cùng ngươi một còn một mất. Lý mạc Thu! Giờ thì ta không cần dĩ vãng ác độc của ngươi mà chỉ cần ngươi đền mạng Hồng lăng Ba sư tỷ của ta.
Quách Phù liếc xéo Lục vô Song bằng một con mắt, cười lanh lảnh nói:
- Ngươi lễ bái sư phụ đấy à?
Lục vô Song chớp nhanh đôi mắt nói:
- Trong thiên hạ đừng làm chuyện không đâu! Mình gieo ác nghiệp ắt khó sống lâu? Ngươi muốn học Lý mạc Thu khoa này sao?
Lý mạc Thu đau khổ cất tiếng nói to:
- Tiểu sư muội! sao sư muội chẳng nghĩ đến tình sư môn một tý nào vậy?
Lý mạc Thu hướng về Tiểu long Nữ nói như vậy mới thấy kẻ tiểu nhân lúc tai nạn hiểm nghèo thì hay van xin cầu cạnh, khi đắc thế lại dương dương tự đắc, coi đời bằng nửa con mắt. Lý mạc Thu đã lưu lạc giang hồ, tung hoành khắp nẻo, không khi nào kiêng nể một ai, nay không kịp suy nghĩ, giết thác Hồng lăng Ba, người bạn đường yêu dấu, cho nên lòng nàng rung động, không kể đê hèn, mới cất tiếng khẩn cầu.
Tiểu long Nữ nghe lời nàng nói vô cùng cảm động nhưng chẳng biết nói sao cho ổn thì Dương Qua cất tiếng đáp lại:
- Lý mạc Thu! Ngươi là kẻ bội sư, giết học trò thì nhắc làm gì tình sư môn hay nghĩa đồng đạo chứ?
Lý mạc Thu bỗng than lên một tiếng:
- Tôi tưởng ở đây ai cũng chẳng tốt gì có giỏi cứ đắnh đi, càng nhiều người càng tốt.
Tất cả mọi người đang vây chung quanh nàng đều rút kiếm ra khỏi vỏ, hàng đầu là anh em họ Võ, Trình Anh bên tả, Lục vô Song bên hữu, Võ Tam Thông, Gia luật Tề đoạn hậu, gươm đao chơm chởm, khí thế rợn người.
Cũng vì chính mắt họ nhìn thấy Lý Mạc Thu giết Hồng lăng Ba không chút cảm động, hành động thực là độc ác, nên ai cũng đem hết sức bình sinh ra giết nàng để trừ hậu hoạ.
Riêng một người bất động tĩnh là Nhất Đăng đại sư một vị cao tăng khổ hạnh. Tuy nhiên ông cũng không có ý can thiệp cứu trợ cho Lý Mạc Thu. ông nghĩ rằng nếu con ma đầu này sẩy mất, thì trên đời này còn lắm người bị chết hay đau thương vì nó.
Tiếng gươm đao choảng nhau "leng keng" sáu tay cao diệu về võ thuật tấn công nàng như bão tố mưa rơi. Lý Mạc Thu đơn thân tránh đỡ, lưỡi kiếm trên tay nàng uyển chuyển tựa phượng múa rồng bay, ảo diệu phi thường, chẳng loạn đao pháp, chẳng cuống chân tay, thật là đơn thân tuấn kiệt.
Tiếc thay! Nàng đã chọn con đường ác đạo mà đi. Không khéo sẽ chết tại đây dưới hàng tràng đao kiếm vậy. Trong khoảnh khắc, Lỷ mạc Thu cao tay trái lên, mắt đảo khắp mọi người và hô to:
- Hãy xem ám khí!
Tất cả mọi người giao chiến với nàng, ai ai cũng rõ, nàng có một môn ám khí cực kỳ nguy hiểm gọi là "Băng phách ngân trâm", cho nên mọi người cố vung kiếm bảo vệ thân mình. Trong lúc mọi người lo phòng bị thì thoắt một cái, như điện sẹt, sao sa Lý Mạc Thu đã tung mình nhảy khỏi vòng vây và chui một mạch vào bụi Tình Hoa mất dạng.
Mọi người vô cùng kinh ngạc và tức giận hết sức vì họ đã mắc mưu Lý Mạc Thu. Do sự nguy hiểm cùng quẫn mà trí óc Lý Mạc Thu nhớ đến những khóm tình hoa cực độc. Thân thể nàng đã nhiễm đầy chất độc từ lúc lọt vào khóm tình hoa rồi, bây giờ có bị châm chích thêm nữa cũng không sao, sớm muộn cũng chết, chẳng thà chạy vào bụi hoa độc còn hơn ở lại bị họ phanh thây.
Dương Qua và Hoàng Dung không liệu được mưu kế này của Lý Mạc Thu, đếu khi thấy nàng chạy thẳng ra khóm hoa độc, mới rợn người. Ai nấy e dè chưa dám đuổi theo. Bấy giờ Võ tu Văn mới hoảng hồn, thét to một tiếng:
- Ta sẽ theo bắt ngươi đến cùng!
Nói xong chàng đưa thanh kiếm về phía trước và chạy theo Lý Mạc Thu. Đường lối trong quanh co chật hẹp, chàng chạy được vào trong thì bóng Lý Mạc Thu biến mất dạng. Ngay khúc quanh này có ba lối đi thì biết Lý Mạc Thu đi lối nào? Còn đi sâu nữa, đâu biết lối ra, thế là chàng vác kiếm trở về.
Khoảnh khắc trôi qua bỗng thấy trước mắt xuất hiện năm cô gái vận áo lục bào đi đến. Người thiếu nữ đi đầu tay xách một bó hoa, theo sau bốn cô đều mang kiếm ngang lưng, khí thế trông rất hùng mãnh. Cô thiếu nữ đi đầu hướng về mọi người nói to:
- Cốc chủ cho mời quý vị, vì biết quý vị đại giá đến đây, ắt có điều lành chỉ bảo?
Dương Qua quay đầu nhìn thiếu nữ mừng rỡ nói:
- Công tôn nương!
Tiểu nữ cầm giỏ hoa chính là Công tôn Lục Ngạc, con gái độc nhất của cốc chủ. Công Tôn Lục Ngạc nghe tiếng nói của Dương Qua lấy làm vui vẻ đưa mắt tìm thì Dương Qua đã đến trước mặt. Nàng vui mừng bảo:
- Dương đại ca! đại ca đã hoàn thành nhiệm vụ rồi sao? Hãy mau ra mắt mẫu thân.
Dương Qua nói:
- Công tôn cô nương sẽ cùng tôi và quí vị lão tiền bối vào ra mắt cốc chủ.
Nói xong Dương Qua đưa Công Tôn Lục ngạc đến ra mắt Nhất Đăng đại sư, rồi đến Từ ân hòa thượng và Hoàng Dung. Công Tôn Lục Ngạc đâu rõ vị Hắc y tăng trước mắt chính là cậu ruột của mình nên chỉ xá một xá rồi thôi và không lưu ý nữa.
Lại nghe Dương Qua giới thiệu Hoàng Dung là Quách phu nhân mà nàng biết rõ người này là kẻ đại cừu của mẹ mình. Dương Qua lãnh lệnh của Cốc chủ đi giết chết người này sao lại dắt về đây? Lòng nàng nghi ngờ có sự không may, do đó nàng thối lui hai bước, thi lễ với Hoàng Dung: rồi nói tiếp:
- Gia mẫu kính mời quý khách vào đại sảnh dùng trà.
Nàng sợ đông người sinh ra biến cố nên vào đại sảnh có mẫu thân nàng ở đó dù sao cũng đỡ ngại đôi phần. Nàng đi dẫn đường cho mọi người vào đại sảnh. Cừu thiên Xích ngồi trên chiếc ghế bọc hồ bì, kê ngay giữa gian phòng khách. Bà ngồi bất động như một pho tượng. Khi thấy mọi người bước vào, bà ta nói:
- Tối hảo, tối hảo, quý khách đến chơi, lão phu thân thể tàn phế nên đi đứng tiếp nghinh không được, xin quý vị niệm tình tha thứ!
Từ ân trong lòng buồn rượi, khi nhìn thấy cô em gái ngày nay, nhớ lại thuở lúc nàng mười tám tuổi xuân, sắc kiều mỹ, được nổi tiếng là đóa hoa vàng. Rồi nàng kết duyên với Tôn Chỉ, một trang tuấn kiệt vang danh. Giờ đây trước mắt ông những vóc dáng xuân thời không còn nữa, chỉ thấy nàng là một mụ già đầu sói, mặt nhăn nheo, thân hình tàn tạ. Từ ân nhớ lại những kỷ niệm của thời thơ ấu xa xưa, đôi mắt ông mờ đi vì xót xa cảm động.
Nhất Đăng đại sư thấy đôi mắt người đệ tử có những tia quái dị làm ông hết sức lo âu. Bình sinh Nhất Đăng đại sư giúp người không hề đắn đo suy nghĩ, ông đã giúp không biết bao nhiêu người, ai cũng cải ác vị thiện được, chỉ có Từ ân là người khó khăn nhất.
Từ ân đã hối ngộ làm lành nhưng chưa hẳn là con người hoàn bị. Vì lúc trước Từ ân là một nhân vật khét tiếng đứng vào hàng tiền bối võ lâm. Với cái quá khứ cao trọng này đại sư phải uyển chuyển hết sức mới có thể cầm giữ được người đệ tử già nua đã đắm chìm trong biển khổ bến mê nặng. Việc cải hóa là một việc thiên nan. Đại sư đã to nhỏ đủ điều trong mười năm ẩn dật, hầu mong xóa bỏ cái tàn tích giang hồ của người đệ tử, mỗi bước một nom theo và nhất nhất hành vi nào Từ ân cũng được đại sư lưu ý chỉ bảo. Thế thường có câu: không nhìn thì chẳng muốn, tâm ý không loạn, nếu nhìn thấy ắt sinh ra thèm thuồng mà hỗn loạn trong nội tâm, chừng ấy dù nói bao nhiêu lời hay dùng sức lực cản ngăn cũng không kịp. Lúc Nhất Đăng đai sự với Từ ân lên đường vào Tuyệt Tình cốc, cốt ý đến cứu Thiên Trúc thần tăng và Châu Tử Liễu, đại sư đã kiên tâm bền chí thuyết phục Từ ân từ chi tiết nhỏ mọn. Cừu Thiên Xích thấy Dương Qua trở về lấy làm ngạc nhiên. Bà ta vẫn tưởng Dương Qua trúng độc chết rồi, nào ngờ chàng trai khí sắc vẫn tươi nhuận, tinh thần vẫn sáng sủa đang đứng trước mặt bà thì bà vô cùng kinh ngạc hỏi to:
- Ngươi còn sống đấy ư?
Dương Qua cười nói:
- Tôi đã dùng lương dược để giải độc, những chất hoa độc tiêu tan cả rồi.
Cừu Thiên Xích "ứ" một tiếng to và nghĩ: "Trên đời này làm gì có thuốc giải nổi chất độc tình hoa? Ngoài bà ra không ai trị được!". Bởi vậy bà suy nghĩ mãi và nghi ngờ hỏi tiếp:
- Ngươi tìm kiếm hay đấy! Chính là môn thần dược chân mỹ vật. Vừa rồi có hai người lạ vào đây là Thiên Trúc thần tăng với gã thư sinh họ Châu, không biết họ đến để làm gì?
Dương Qua nói:
- Cừu lão tiền bối! Thiên Trúc thần tăng và Châu tiền bối hiện giờ bị giam giữ tại đâu? Vãn bối sẽ đến thăm và xin lão tiền bối mở lượng khoan hồng phóng thích cho họ!
Cừu thiên Xích cười to bảo:
- Cọp mạnh đâu tha cọp bị thương.
Cừu thiên Xích trong lòng vốn độc, thêm tật đa nghi, bao giờ bà cũng tưởng có kẻ hãm hại bà, cho nên tại Tuyệt tình Cốc bà bố trí không biết bao nhiêu cơ quan, hầm hố, do đó mới bắt được Chu Tử Liễu và Thiên Trúc thần tăng, rồi bà ta cầm giữ hai người tại một nơi bí mật.
Thiên Trúc thần tăng chẳng biết tí gì về võ nghệ nên được đối đãi tự do, còn Châu tử Liễu, võ công lợi hại nên bị cầm giữ rất ngặt. Bà ta lo sợ họ Chu đem lòng oán hận, phục thù Tuyệt tình cốc, nên cho rất nhiều người canh giữ sợ ông trốn thoát ra ngoài.
Dương Qua vừa nghe lời Cừu thiên Xích nói đượm vẻ hung hăng, biết rằng cục diện sẽ trở nên khó khăn nên chàng thầm tính kế để cứu hai người. Chàng nghĩ rằng chỉ có cách làm cho anh em họ nhận nhau, với tình cốt nhục họ sẽ vui vẻ thì cục diện sẽ trở nên dễ dàng và may mắn hơn.
Nghĩ như thế Dương Qua cất tiếng nói to:
- Cừu lão tiền bối, Tiền bối thực vô cùng tử tế vì nghĩ ra nghĩa của lão bà, nên tôi mới về đây với một người mà bà hằng mong nhớ và tôi cam đoan khi gặp mặt, lão sẽ hoan hỉ vô cùng.
Anh em Cừu Thiên Nhận vốn xa cách nhau đã lâu ngày. Cừu thiên Xích có nghe tin anh bà đi tu nhưng bà không tin anh bà như vậy vì anh bà là một trang hiệp sĩ thanh niên, có một bầu máu nóng sục sôi, dễ gì một trang cái thế anh hùng lại khoác áo nhà tu? Vì vậy khi gặp Hắc y tăng thì bà không để ý đến, và bà nghe bọn đệ tử bẩm báo, có Hoàng Dung kẻ thù bất cộng đái thiên của bà đã cùng với Dương Qua vào đây, tia mắt bà sáng rực, lộ vẻ vui mừng, liếc nhìn khắp cả mọi người và nói:
- Hay lắm! Tốt lắm! ai là Hoàng Dung? Hoàng Dung ở đâu? Sao ngươi dã tâm sát hại đại ca của ta? Hoàng Dung ở đâu?
Dương Qua cả kinh, tưởng là lời nói của mình làm cho huynh muội họ trùng phùng nào ngờ sự việc lại đổi thay một cách khốc liệt như thế. Chàng hoảng hồn hỏi:
- Cừu lão tiền bối, có lẽ tiền bối nghe lầm lời nói của vãn bối. Vãn bối nói đã đem về đây một người mà tiền bối nhớ thương kia. Xin tiền bối nhìn lại thử xem sao?
Cừu thiên Xích nghe không rõ nên hét to:
- Ngươi bảo có Quách Tỉnh đến đây à? Đừng nói một Quách Tỉnh mà bao nhiêu Quách Tỉnh ta cũng chẳng sợ! Chẳng sợ!
Dương Qua nhắc lại:
- Tiền bối nghe lầm rồi! Vãn bối nói đem một người về đây mà tiền bối nhớ thương.
Chừng ấy lão bà mới sực tỉnh và vui vẻ trở lại, nhưng chuyện Quách Tỉnh, Hoàng Dung còn văng vẳng trong đầu của Cừu lão quái bà. Bà đưa mắt nhìn về phía Võ Tam Thông, rồi hướng qua Gia luật Tề rồi nhìn sang ông hoà thượng thật già, đến ông hòa thượng hơi già, cả hai người sau bà chưa gặp lần nào, trong lòng bà nghe rạo rực, như cố tìm trong bọn nầy xem có Quách Tỉnh lại đây không. Khi đôi mắt bà nhìn phải ông hòa thượng hơi già là Từ ân, đột nhiên Từ ân nhìn lại, bốn mắt giao nhau, tấm lòng đã rõ.
Từ ân liền tung mình nhảy ra phía trước nghẹn ngào, chỉ nói được một câu:
- Tam muội!
Cừu thiên Xích nhận rõ ra anh em mà thôi nhưng trong lời nói nầy bao hàm cả muôn câu ngàn tiếng. Và cả hai im lặng trong phút chốc.
Trong khoảnh khắc, Cừu thiên Xích lên tiếng hỏi:
- Nhị ca! Sao nhị ca đi tu làm hòa thượng?
Từ ân không đáp lại hỏi:
- Còn Tam muội! Tay chân của Tam muội do đâu ra nông nỗi nầy?
Cừu Thiên Xích đáp:
- Tiểu muội mắc kế tên gian tặc Công Tôn Chỉ.
Từ ân cả kinh hỏi:
- Công Tôn Chỉ có phải là phu quân của tiểu muội chăng? và bây giờ nó ở nơi nào?
Cừu Thiên Xích căm hận đáp:
- Phu quân của tiểu muội đấy! Cái tên lòng lang dạ thú đã dùng mưu kế ám toán tiểu muội! Khổ thay! Căm giận thay gian tặc.
Từ ân lửa giận phừng phừng nói to:
- Cái tên gian tặc ấy bây giờ nó ở đâu? Ta sẽ tìm nó, phân ra muôn đoạn để rửa hận cho tiểu muội?
Cừu thiên Xích rưng rưng mắt nói:
- Tôi tuy bị người ám hại nhưng chưa đến nỗi chết! Thương cho đại ca phải chịu cái chết thê thảm.
Từ ân thản nhiên đáp:
- Phải vậy!
Cừu Thiên Xích nghe lão trả lời xuôi lơ nên cố vận hơi nói to:
- Trời! Nhị ca không còn một chút bản lãnh nào ư? Nhị ca hãy nhớ đến thủ túc chi tình! Ngay hôm nay phải tìm phương thế đi báo thù.
Từ ân lấy làm kinh sợ, lập lại lời nói của Cừu Thiên Xích:
- Tìm phương thế báo thù! Tìm phương thế báo thù!
Cừu Thiên Xích hét lên:
- Kẻ thù giết đại ca trước mắt đó! Nhị ca hãy giết con tiện nữ Hoàng Dung, rồi sẽ giết thằng Quách Tỉnh sau!
Từ ân hướng mắt nhìn về phía Hoàng Dung với tia mắt đỏ ngầu, rướm máu.
Nhất Đăng đại sư lo sợ nên bước dần ra trước mặt hai người nói:
- A di đà Phật! Từ ân! Đệ tử đã xuất gia thì không còn tưởng đến chuyện ác nữa! Huống chi lệnh huynh chết rồi, thì cũng không nên để dạ oán người, oan gia nên mở, đừng nên buộc.
Từ ân cúi đầu suy nghĩ trong chốc lát rồi nói với Nhất Đăng đại sư:
- Sư phụ! Sư phụ nói giùm cho tam muội nghe, đừng nên báo cái thù nầy.
-
Chương 79 - Liều Thân Khử Độc - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 79 - Liều Thân Khử Độc
Cừu Thiên Xích nhìn Nhất Đăng đại sư bằng nửa con mắt, chạy qua nói với Từ Ân:
-Lão hòa thượng đối truyền bát đáo nhị ca! Nhị ca hãy nghĩ lại xem, chúng ta vốn dòng hào kiệt có tiếng trên đời, ngày nay đại ca bị người sát hại, nhị ca nỡ dạ làm ngơ thì ai còn gọi là anh hùng hào kiệt nữa?
Từ Ân lắc đầu thở dài, lòng hỗn loạn đến cùng cực và nói lại:
-Anh hùng hào kiệt! Ta là anh hùng hào kiệt ư?
Cừu Thiên Xích đáp:
-Chính thế! Nhị ca mấy năm ngang dọc giang hồ, được nổi danh là "Thiết chưởng thủy thựng phiêu" mọi người đều nể mặt. Tiểu muội có ngờ đâu ngày nay nhị ca đã biến thành một ông cụ non lẩm cẩm, yếu đuối như kẻ nho sinh tham sống sợ chết. Cừu thiên Nhận nhị ca! Tiểu muội cần nói rõ điều này, nếu nhị ca không nghĩ đến tình cốt nhục mà báo thù cho đại ca, thì đừng nên nhìn vào đứa em tàn phế nầy nữa.
Nhóm người có mặt trong đại sảnh đều kinh hồn trước những lời nói buộc chặt lòng của Cừu Thiện Xích. Họ nói nhỏ với nhau:
-Ghê thay! Tâm địa của quái bà đầu sói thực lợi hại!
Hoàng Dung trước kia bị Cừu Thiên Nhận đánh trúng một chưởng tưởng đâu bỏ mạng may nhờ Nhất Đăng đại sư cứu chữa lành mạnh. Nay nghe lời Cừu Thiên Xích vừa nói làm nàng sợ toát mồ hôi, đã ngán mùi thiết chưởng của Thiên Nhận cho nên nàng suy nghĩ tìm đường tẩu thoát. Quách Phù tính nóng như lửa, lại nghe quái bà chọc tức Từ Ân, nên nàng cũng sôi máu uất hận lên, không nhịn nổi nữa, bước ra ngoài nhìn vào mặt nói to:
-Cừu lão tiền bối! Vì thân phụ và mẫu thân không rõ tiền bối ý rộng biết xa mà quên kinh sợ đó thôi! Chuyện gì lão tiền bối cứ nhỏ nhỏ to to mãi? Nếu lấy tình thật mà đối đãi nhau, còn hơn dùng lời quá khách khí nghe không ổn tí nào.
Hoàng Dung muốn lên tiếng ngăn cản Quách Phù nhưng bà thấy thái độ chưa dứt khoát của Từ Ân, mong rằng lời nói của Quách Phù thay đổi được tí nào về tinh thần của Cừu Thiên Nhận. Còn Quách Phù thấy mẹ không ngăn cản hay la rầy, được dịp nói tiếp:
-Tiểu bối thấy mọi người đối đãi với nhau, kẻ ở xa lại là khách, ai ai cũng phải tiếp đãi tử tế mà lão quái bà tiếp khách thế này có phải là vô lễ không? Đã vô lễ thì đâu đáng gọi là anh hùng hào kiệt?
Cừu Thiên Xích nhướng đôi mày, nhìn nàng và nổi giận quát to:
-Ngươi có phải là con gái của Quách Tỉnh và Hoàng Dung không?
Quách Phù nhanh nhẩu đáp:
-Không rõ! Cừu lão tiền bối! Tiểu bối thấy sự trái ngược kỳ dị nên bàn tán đó thôi. Như lệnh nhị ca của bà, đã xuất gia đầu phật và trở thành hòa thượng thì bà có nói bao nhiêu đi nữa cũng uổng công. Bởi vì, một khi tu hành thì trần ai phải dứt và đâu còn tạo ra điều nghiệp chướng trầm luân nữa?
Lão bà nổi giận lôi đình quát tháo ầm ỹ và bảo:
-Hay lắm! Ta hỏi ngươi có phải là con gái của Quách Tỉnh và Hoàng Dung không? Có phải là... Quách Tỉnh, Hoàng Dung không? Câu nói sau Cừu Thiên Xích bỏ hẳn hai chữ con gái và đột ngột từ miệng của bà phun ra một viên ám khí, gọi là Thiết táo hạt, nhằm ngay đỉnh đầu của Quách Phù bay tới. Ai cũng tưởng Quách Phù phải bỏ mạng dưới thiết táo hạt nầy nên bối rối và kinh ngạc vô cùng, không ai có thì giờ chống đỡ kịp. Bởi hai lẽ, một là trong lúc xuất kỳ bất ý là lão bà phun ám khí, hai là thiết táo hạt là môn ám khí nội gia chân truyền, do Công Tôn Chỉ thâu lượm các kỳ môn về ám khí hỗn hợp mà chế ra "hột táo sắt bay". Thiết táo hạt là môn ám khí đặc biệt nhất trên đời, có thể công phá được đồng, chì, thiếc, sắt, thì da thịt con người có thấm vào đâu?
Trong đại sảnh bấy giờ chỉ có Dương Qua và Tiểu Long Nữ biết rõ quái bà có môn độc khí. Nhưng Tiểu bong Nữ tâm tính hiền lành không hiểu được việc này có thể xảy ra. Dương Qua là người cẩn thận nên không giờ phút nào không theo dõi hành vi của quái bà. Đôi mắt chàng sáng rực, đến khi thấy gương mặt bà đổi thay và tiếng nói đứt quãng của Cừu Thiên Xích, chàng vội lách ngang mặt Quách Phù, rút thanh kiếm ra thủ thế thì vừa đúng lúc lão bà há miệng, phun ám khí, chàng vội vung gươm chém vào thiết táo hạt. Vừa chạm vào nhau, kêu to một tiếng "choang". Ghê thay cho thiết táo hạt, vừa chạm phải nó lưỡi kiếm đã đứt làm hai đoạn rơi xuống đất. Nhóm người có mặt tại đây kêu to một tiếng kinh hoàng. Quách Phù và Hoàng Dung mặt mày biến sắc. Hoàng Dung than nho nhỏ:
-Ta cũng rõ quái bà là một tay độc hại, nhiều thủ đoạn những tưởng giờ đây là một kẻ tàn phế, chân không duỗi ra, tay chẳng giơ lên được, đầu chẳng lắc lư, con người bất động phế thải, dù muốn tung ra ám khí hại người cũng chẳng được. Nào ngờ bà còn phun ra được viên thiết táo hạt đánh gãy thanh kiếm cũng chứng tỏ khí công của bà cao diệu phi thường.
Mọi người bàng hoàng kinh ngạc, nghĩ thầm:
-Nếu không nhờ Dương Qua kịp thời can thiệp thì tánh mạng Quách Phù đâu còn nữa? Chàng ta xuất thủ thật là nhanh nhẹn phi thường, không ai có thể ngờ được.
Cừu Thiên Xích đôi mắt cứ trừng trừng nhìn Dương Qua, giận thay cho chàng đã dám ra tay cản trở bà, cứu mạng người khác. Cừu Thiên Xích giận run lên, da thịt run bần bật và thét lanh lảnh:
-Tài thật! Giỏi cho Dương Qua! Ngươi dám trở lại đất này và lọt vào Tình hoa ảo độc nhuộm đầy mình. Tuy nhiên hiện giờ độc chưa công phạt nhưng ba hôm nữa ắt tánh mạng không còn! Này Dương Qua! Trong cõi đời này ngoài ta ra không ai có thể có được nửa viên thuốc giải độc. Dù ngươi chẳng tin sự thể cũng xảy ra. Đoạn bà lại cười to!
Dương Qua trong lúc xuất thủ cứu người là đều trái với tập tục của Tuyệt Tình Cốc mà Cừu Thiên Xích đã đề ra nên chàng lo ngại chạy đến trước mặt quái bà tỏ vẻ cung kính thưa:
-Cừu lão tiền bối! Vãn bối trót gây đại tội với tiền bối. Xin người mở lòng tha thứ và ban bố cho thuốc giải độc, trọn đời vãn bối sẽ cảm tạ ơn sâu.
Cừu Thiên Xích đáp:
-Chẳng nên thế! Từ ngày ta hiểu biết ân tình coi là trọng, ngươi đừng nói điều ban bố hay thọ ơn, ngươi hãy nghe kỹ đây: Ta là Cừu lão thái bà, có thù phải trả, mang ơn phải đền, dù không báo đền được ta vẫn giữ mãi trong tâm. Dương Qua! Ta sẽ tặng thuốc giải độc cho ngươi khi nào ngươi đem đến đây hai cái thủ cấp của Hoàng Dung và Quách Tỉnh. Nếu làm trái lại điều này, mà theo cứu người thù của ta thì ngươi chẳng nên nói gì vô ích!
Công Tôn Lục Ngạc thấy cơ sự đau buồn, và tình trạng gấp rút như vậy nên bước ra nói:
-Mẹ! Cậu! hãy tự tay báo hận, Dương ca là kẻ vô can, xin đừng bắt buộc Dương ca làm chuyện đó.
Cừu Thiên Xích bảo nhỏ với Công Tôn Lục Ngạc:
-Ta còn mười viên thuốc giải, ngươi hãy cất giữ tử tế đừng khinh thường mà trao tay cho kẻ khác thì có tội đó. Lục Ngạc nghe qua như cởi mở cõi lòng, mặt mày hớn hở, vì rắp tâm cứu người. Quách Phù được Dương Qua cứu mạng. Bấy giờ nàng mới tin rằng Dương Qua có tinh thần hào hiệp và trọng hậu. Lòng lấy làm cảm mến. Nàng nhớ lại lúc gây thương tích cho Dương Qua và chàng trước sau cũng cứu nàng mấy lượt nhưng nàng vẫn mấy lượt lấy oán đền ơn, cũng vì lòng cuồng ngạo mà tâm tư nàng đã nổi lên một trận bão lòng dữ dội, nàng hối hận vô cùng nói lớn
-Dương đại ca, bấy lâu tiểu muội lắm điều thất lễ với đại ca! Xin đại ca thương tình thứ lỗi. Dương Qua mỉm cười tha thứ. Nhìn thấy Quách Phù xót xa vô kể, hối hận muôn ngàn còn chàng đau khổ quá nhiều thầm nghĩ:
-Con bé Phù cứng cổ nhất trần gian, mà hôm nay dám nhận lỗi với ta trước mọi người, hay là nàng thấy ta và Tiểu Long Nữ chịu nhiều cảnh đau khổ mà an ủi vậy?
Trong lúc đó Cừu Thiên Xích vẫn đưa mắt nhìn Dương Qua và Tiểu Long Nữ. Bà đã rõ Dương Qua sẽ không cưới con gái của bà, nên bà nhất định không giúp cho Dương Qua chữa bệnh. Dương Qua hiện giờ mắc kẹt giữa hai nàng tiên kiều mỹ Công Tôn Thúy và Tiểu Long Nữ nên rất khó làm êm dịu cả hai. Chàng nói nho nhỏ:
-Ta cưới Tiểu Long Nữ làm vợ vì tình môn đệ vạn tử nhất sanh, nếu ta bỏ nàng vì tham sống thì thành ra kẻ phụ nghĩa vô ân sao?
Vừa nói xong, chàng nhích mình đến bên Tiểu Long Nữ, toan dắt nàng tránh khỏi nhóm người, thoát ra ngoài sảnh môn. Vì Dương Qua có cảm tưởng nếu chàng và Tiểu Long Nữ nấn ná ở đây sẽ làm gai mắt quái bà cũng như làm buồn Lục Ngạc. Chàng lại suy nghĩ:
-Ta ngại ở trong sảnh sẽ sinh ra cuộc tranh đấu, chi bằng ra ngoài này rồi sẽ lén đi kiếm Thiên Trúc thần tăng và Châu đại thúc.
Tuy nhiên chàng chưa chưa kịp thoát đi thì trong sảnh có nhiều bộ mặt ngơ ngáo khi trông thấy chàng nắm tay Tiểu Long Nữ. Cừu Thiên Xích thất vọng. Trình Anh, Lục Vô Song, Công Tôn Lục Ngạc đều cảm như mất vật gì quý báu. Cừu Thiên Xích cười lanh lảnh nói to:
-Cao quý thay!
Rồi bà quay đầu sang Từ Ân hòa thượng nói:
-Nhị ca! Nhị ca! Tôi nghe nói Hoàng Dung là Khất Cái Bang chủ và nghe nói Thiết chưởng bang chủ có đắc tội với Hoàng Dung phải không?
Từ Ân nói:
-Thiết chưởng sớm phải bàn tán. Tôi là bang chủ có hiểu và nghe gì đâu?
Cừu Thiên Xích nói:
-Quái! chẳng được! Chẳng được! Nhị ca không có y trượng làm lệnh thì có ai biết được Khất Cái hay Thiết Chưởng đâu?
Lời nói của Cừu Thiên Xích tỏ vẻ khinh ngạo người anh. Công Tôn Lục Ngạc chẳng muốn nghe những lời gay gắt của mẹ nàng và nhìn về hướng Dương Qua thấy chàng đang bước từ từ ra ngoài. Nàng phóng mình đuổi theo kêu giật lại
-Dương Qua! Sao ngươi dám nhìn ta bằng cách trêu tức vậy? Chính ngươi là kẻ bội nghĩa bạc tình nhất trần gian.
Dương Qua nghe tiếng kêu của Công Tôn Thuý làm chàng cảm động dừng chân và cúi đầu suy nghĩ:
-Công Tôn cô nương mới thực là trang thục nữ nhiều độ lượng cao xa, nàng biết ta kết duyên với Tiểu Long Nữ mà vẫn giữ thái độ thường, không đổi nét mặt. Chàng bèn quay đầu lại, tỏ vẻ hối hận lắm nói to:
-Công Tôn cô nương!
Công Tôn Lục Ngạc giận nói:
-Dương Qua, ngươi chính là tên gian tặc, đường vào hang rất dễ, lối ra nghẽn mất rồi!
Tuy giọng nói mạ ly như thế nhưng nét mặt chẳng có vẻ gì giận dữ hay hung hăng và đôi mắt nàng có những tia nhìn yếu đuối, ân tình. Dương Qua đã hiểu được phần nào tâm trạng nên lên tiếng nói:
-Công Tôn cô nương! Tôi chẳng làm gì có lỗi với cô nương. Nhưng bị nhiễm độc quá nặng, tôi muốn thoát khỏi Tuyệt tình cốc này.
Công Tôn Lục Ngạc nghe chàng nói vậy quay đầu về đại sảnh hình như sợ Cừu Thiên Xích thấy điều gì rồi quay lại nhìn Dương Qua với tia mắt yêu mê mệt hét to:
-Tên tiểu tặc Dương Qua! Hãy nghe cho kỹ lời ta! Hận chẳng được cùng ngươi một thuyền nửa lái. Ta muốn chẻ con tim ngươi ra xem con tim đen bạc của ngươi.
Vừa dứt lời nàng phùng miệng ra, hô to một tiếng, nhả ra "thiết táo hạt" bắn thẳng vào mặt Dương Qua. Dương Qua sớm phòng bị nên vừa thấy nàng phun ám khí, liền vươn tay ra đánh rơi xuống và nói:
-Nàng quyết định không cho tôi về còn dùng ám khí hại tôi sao Công Tôn cô nương? Tôi đã có lỗi quá nhiều, dù cô nương đối xử cách nào cũng được.
Công Tôn Thúy nghe chàng nói cảm động, hai tay bưng mặt khóc rấm rức và chạy vào đại sảnh. Nàng đã mơ ước chàng từ lâu, giờ đây lại về tay người khác. Chẳng khác giấc mộng như giọt nước đầu gành. Cừu Thiên Xích thấy con bị lụy như vậy, liền bảo:
-Ngạc con! Kẻ bạc tình vô nghĩa, mẹ đã cho nó bài học rồi! Tiểu tử ấy chỉ còn sống hết ngày nay nữa thôi.
Công Tôn Lục Ngạc ngồi bệt xuống đất ôm đầu gối mẫu thân khóc ồ ồ. Trong đại sảnh bấy giờ mọi người đều xám mặt, sợ quái bà đổ quạy mà khó lòng. Riêng một mình Hoàng Dung vui vẻ hơn hết và thầm nghĩ:
-Nhân lúc quái bà lo an ủi cô con gái si tình, không đề phòng, ta có cơ hội trộm thuốc giải độc! ối chao! Tên tiểu tử Dương Qua có đào hồng chiếu mạng nên đi đâu cũng lắm cô gái đẹp si tình! Anh chàng này coi bộ như vậy mà cũng đảo khuynh được các cô sắc nước hương trời ư? Nghĩ dến đây Hoàng Dung hướng về Trình Anh và Lục vô Song nhéo một cái như ngầm bảo họ: "Tình thương là khúc nhạc u buồn". Trong khi Dương Qua tiếp được ám khí, muốn bước vào trong bỗng chàng nhớ lại lời nói và hành động của Lục Ngạc rất kỳ dị, phải chăng nàng có dụng ý bảo ta điều gì? Tiểu Long Nữ cũng nhìn thấy nàng rất kỳ quặc, nói năng có vẻ dữ tợn mà thần sắc có ẩn sự gì vui vui nên Tiểu Long Nữ bảo Dương Qua:
-Anh ạ! Tôi xem cô ta có ý xử tốt với mình, hay là cô ta giữ bà mẹ lại để chúng ta dễ bề trộm thuốc giải độc? Anh nghĩ xem!
Dương Qua gật gù đáp:
-Cũng có lẽ thế! Hai người quay lại đại sảnh ngó trước nhìn sau không một bóng người, và hai
người tìm xem ám khí "Thiết táo hạt" để coi hình dáng ra sao mà có sức mạnh lạ lùng như vậy. Nhưng họ chỉ gặp một hột nhãn, chớ không phải thiết táo hạt gì cả. Dương Qua cầm lên ngắm nghía, lại thấy không phải hột nhãn thường, nó có một lần chỉ bao quanh hột. Chàng bóp thử một cái mạnh, hột nhãn nứt làm hai, chính giữa hột có một tấm giấy nhỏ. Tiểu Long Nữ gật gù bảo:
-Tại mình không kịp suy nghĩ lời nói của cô nương. Lúc nãy cô ấy nói rằng: "Hận chẳng được cùng ngươi một thuyền nửa lái. Ta muốn chẻ tim ngươi ra xem coi tim đen bạc". Công Tôn Lục Ngạc thật chu đáo với ta!
Dương Qua moi tờ giấy mở ra. Hai người cùng xem, thấy chữ viết: "Bầu thuốc giải độc mẫu thân rất bí mật, để tôi tìm kế trộm cho sau. Thiên Trúc thần tăng với Châu tiền bối bị cầm tù tại Hỏa hoàn thất". Bên dưới vẽ một bản đồ, ghi rõ đường lối quanh co trong hang dẫn đến chỗ Hỏa hoàn thất. Dương Qua và Tiểu Long Nữ mừng vô hạn. Dương Qua bảo nhỏ:
-Địa thế chu vi hang Tuyệt Tình nầy rất lớn! Mấy ngọn núi bao bọc, bên trong phỏng độ mười sào đất. Tổ tiên của Công Tôn Chỉ ngày xưa chạy giặc đến đây, năm này tháng nọ sửa sang mỗi khi một ít thành ra nơi ẩn náu rất thuận lợi, lại lo sợ kẻ ngoài xâm nhập vào nên bố trí rất nhiều cơ quan xảo diệu đời này qua đời khác, lưu truyền đến đời Công Tôn Chỉ, Cừu Thiên Xích, không biết là mấy trăm năm. Thực là một cảnh đào nguyên dưới thế. Từ ngày vợ chồng Công Tôn Chỉ quyền ngôi chủ cốc. Hai người biến chế ra các con đường, sinh khắc tử, tuyệt ảo mộng. Tuy vậy chứ không bằng Đào Hoa đảo của Hoàng dược Sư. Công Trình xây cất Tuyệt tình cốc từ đời trước truyền lại theo thời gian, cải biến dần dần, những đệ tử của cốc chủ toàn là những người thân tín hay họ hàng, vì phải rõ đường đi lối bước trong mười hang, bảy ngách tại đây.
Tiểu Long Nữ và Dương Qua khi xem xong bức sơ đồ chỉ dẫn lập tức dùng thuật khinh công tuyệt kỹ đi lần vào hang. Đường lối thật quanh co khúc khuỷu. Theo đường trong địa đồ, hai người phải dừng lại trước một khu đất rộng chừng mười tám trượng. Nơi đây là những cây cổ thụ, những tán lá che cả mặt đất, dưới gốc cây có nhiều chỗ ngồi được, lót bằng gạch nung đỏ, không khí tĩnh mịch, im lặng, thật là nơi bí mật vô cùng. Dương Qua có một cảm tưởng Tuyệt Tình Cốc đúng với tên của nó, đã cách biệt với nhân gian. Dương Qua bảo Tiểu Long Nữ ngồi dưới tàng cây cổ thụ rồi nói:
-Long nhi! Hãy ngồi nơi đây để tôi vào trong xem tường hư thực.
Nói xong cả hai người kiểm xoát lại một lần nữa theo tấm họa đồ rồi chàng noi theo hàng cây chi chít, dẫn vào lối Hỏa hoàn thất. Chàng thấy cánh cửa mật thất khuất bởi một chòm hoa thực lớn. Đến nơi, chàng dùng tay gõ nhẹ vào cánh cửa ba bốn tiếng, bỗng nghe một giọng nói lạnh lùng phát ra:
-Ai đó vậy?
Dương Qua đáp:
-Lệnh của cốc chủ, lại xem tù nhân!
Cánh cửa hé mở, chỉ vừa một người vào. Dương Qua lách mình vào trong thật nhanh nhẹn và hỏi to vào. Đột nhiên bức tường nứt ra, có người đệ tử của chủ cốc, vận y phục lục bào bước ra. Dương Qua lúc bước ngang vào cửa không thấy lối nào cả, chỉ thấy trước mặt chàng một bức tường sừng sững chặn cả lối đi. Đến lúc bức tường nứt ra làm chàng ngạc nhiên nói:
-Kỳ ảo thực!
Người đệ tử y lục bào bước ra thấy Dương Qua là khác lạ nên hoảng hốt nói chẳng nên lời và lắp bắp:
-Ngươi... ngươi là...
Tên đệ tử áo lục nhận ra chàng là người có giao hảo với chủ nhân nhưng tạo sao chàng đến đây một mình mà chẳng thấy tiểu chủ? Hay là Tuyệt tình cốc xảy ra sự gì rồi chăng? Dương Qua nhìn vẻ mặt của y trông rất buồn cười nên bảo to rằng:
-Công Tôn cốc chủ bảo ta đến dẫn hai người bị giữ ở đây vào đại sảnh, một lão hòa thượng và một người họ Châu. Ngươi hãy giao cho ta mau!
Tên đệ tử áo lục ngần ngừ nên hỏi:
-Ông... có... lệnh bài của cốc chủ đến đây không?
Dương Qua không đáp, xẵng giọng nói:
-Ngươi hãy dẫn ta vào trong xem xét!
Tên áo lục hơi gườm Dương Qua nên chẳng nói năng gì cả, đi trước dẫn đường cho chàng vào bên trong. Qua khỏi bức tường, hơi nóng trong nhà xông lên hừng hừng tuy trời rét lạnh. Dương Qua đưa mắt quan sát, thấy có hai người mình trần trùng trục, vận một chiếc khố da trâu đang ôm từng bó củi đốt vào lò, hơi nóng toát ra hừng hực mồ hôi chảy ra như suối. Lúc trước Dương Qua có vào đây một lần xem cuộc tỉ thí nội công của Kim Luân Pháp Vương và Ni ma Tinh tại ngôi Hỏa hoàn Thất. Ngôi Hỏa Thất này do Kim Luân Pháp Vương chỉ dẫn cho Cừu Thiên Xích tạo ra, cốt ý lấy hơi nóng của lửa, và tạo ra "khí hạo nhiên" nhân tạo. Chàng lại nghĩ đến hai người bị khốn ở đây luôn luôn nóng bức thì họ làm sao chịu nổi? Lại thấy tên đệ tử áo lục đi vào phía trong xa tí nữa. Nó dùng tay khuân một tảng đá to, lòi ra một lối đi xuống đất. Dương Qua cúi đầu nhìn vào bên trong, thì đó là một hang đá sâu thăm thẳm. Hai người bước vào trong hơn một trượng, rẽ sang bên trái thì thấy đó là một gian nhà xây dưới đất. Dương Qua nhìn thấy Chu tử Liễu đang ngồi xếp tròn lưng dựa vào vách đá, dùng ngón tay trỏ vẽ xuống đất những nét ngoằn ngoèo và lấy làm đắc ý lắm. Còn nhà sư Thiên Trúc thần tăng thì nằm nghiêng dưới đất, nét mặt ưu tư không rõ chết hay sống. Dương Qua đi lại gần Chu Tử Liễu cất tiếng nói:
-Chu đại thúc! Chu đại thúc! Có tôi đến cứu đây!
Chu Tử Liễu ngước mắt lên nhìn Dương Qua và nói:
-Có bạn từ phương xa lại, hãy nói vài câu đã nào! Vội gì?
Dương Qua vô cùng cảm phục. ông đã mang tù tội muôn phần nguy hiểm dồn dập, mà ông không coi ra gì cả. Lúc có người đến cứu lại không tỏ vẻ mừng rỡ, thực đúng là trang hiệp sĩ, vui không hớn hở, buồn chẳng lo âu, gặp nguy hiểm mặt không biến sắc, cố lại chỉ có một người như ông. Dương Qua lại hỏi:
-Thiên Trúc thần tăng đã ngủ mê hay sao?
Chàng vừa nói xong câu này đột nhiên trong lòng hồi hộp vô cùng không biết có sự gì an nguy sinh tử xảy ra cho Tiểu Long Nữ chăng? chất độc đã luân chuyển khắp châu thân nàng, chỉ còn chờ đợi sự cứu chữa của Thiên Trúc thần tăng mà thôi! Chu Tử Liễu không đáp lời chàng mà trầm ngâm nói:
-Sư thúc không chuộng võ công nên chẳng biết vận nội lực để chống trả với thời tiết ở đây, khí nóng như lửa cháy, khí lạnh như giá băng, làm cho khí huyết ông đảo lộn, làm cho ông đã...!
Dương Qua vừa nghe đến đây, bỗng có ngọn gió lạ từ đâu thổi tới sau lưng chàng nghe mát rượi. Dương Qua đoán chắc có kẻ xâm nhập vào đây. Chu Tử Liễu đứng yên không nói nữa, đột nhiên bàn tay ông đưa ra hai ngón tay quạt về phía sau lưng, trong ngón tay phát ra một trận cuồng phong, bắn vào hông người lạ mà ông chẳng quay đầu lại, vẫn đứng nguyên như pho tượng đá. Phía sau bỗng phát ra một tiếng "á" thật lớn và nghe rõ tiếng chân người lảo đảo ngã xuống đất. Nguyên Chu Tử Liễu đã đưa mắt nhìn về phía song cửa, một tay vịn vào vách nên ông biết kẻ lạ đến trước Dương Qua và ông dùng Nhất Dương chỉ đánh trúng huyệt ngọc đường của kẻ địch. Dương Qua quay đầu nhìn lại thì rõ ràng là tên đệ tử của Tuyệt Tình cốc. Tên nầy không phải là tên đã đưa chàng vào đây. Vì tên đưa chàng vẫn đứng chỗ cửa hang, tay cầm đốc kiếm trông dễ sợ. Dương Qua hướng vào tên áo lục nói:
-Hãy mở rộng cửa nhà đá, đem hắn ra ngoài!
Tên đệ tử áo lục nói:
-Cửa đã khóa rồi, đâu có chìa mà mở? Chiếc chìa khoá do Cốc chủ giữ, nếu bảo người mang ra thì tôi mở, bằng không hãy kiếm chìa khóa khác đưa đây!
Dương Qua lòng đang gấp nói:
-Tránh ra ta mở cho!
Nói xong Dương Qua rút cây Thiết huyền kiếm, nhắm ngay vách đá, bủa xuống một nhát cực mạnh, phát ra một tiếng "bình" cực lớn. Bức vách đổ xuống lộ ra một lỗ làm cho người đệ tử y lục thất kinh kêu "á" một tiếng. Dương Qua đưa thanh kiếm khoét vào vách đá một lỗ vừa người vào ra. Chu Tử Liễu thấy Dương Qua trổ thần lực phá vách làm cho ông và tên đệ tử áo lục vô cùng kinh ngạc. Nói về Chu tử Liễu và Thiên Trúc thần tăng tìm đến cốc chủ xin thuốc giải độc, chẳng ngờ Cừu thiên Xích sai bảy đệ tử dùng đại đạo ngư võng trận nửa dụ, nửa áp bức xua hai người chạy lọt vào trong Hỏa hoàn Thất. Chu tử Liễu cố vận sức dùng Nhất Dương chỉ ngày đêm công phá thạch thất, mà chỉ làm nứt bức tường bằng đường chỉ. ông ta còn dùng dịch khí công đánh vào vách đá bình bịch, nhưng các khối đá chung quanh cực lớn, sức người có hạn không làm sao lay nổi, vì thế mà thoát thân không được. Bấy giờ Chu tử Liễu thấy Dương Qua dùng kiếm phá hỏng bức vách, thực là một công phu tối mạnh, từ xưa đến nay ông chưa thấy lần nào. Ông kinh ngạc đến đỗi kêu to lên:
-Dương bằng hữu. Kính mừng võ công người tiến triển
Khi Chu tử Liễu thốt xong lời nói với Dương Qua, ông liền đi lại phía Thiên Trúc thần tăng, cúi người xuống bế xốc thần tăng lên, rồi vượt lỗ hổng bước nhanh ra ngoài. Dương Qua tiếp tay với Chu Tử Liễu đỡ thần tăng đưa ra ngoài hướng về đại sảnh mà bước tới. Dương Qua cứu được người trong lòng lấy làm khoan khoái lắm! Chàng nhìn chung quanh ngôi nhà "Hỏa hoàn thất", lại nhìn thể xác thần tăng, thấy đôi mắt người nhắm kín lại, chàng thầm tưởng:
-Trời ơi! Nếu ai vô phúc chết đây, Hỏa hoàn Thất sẽ nung chín như viên gạch. Rồi chàng cúi xuống ngực thần tăng, nghe trái tim ông còn đập nhè nhẹ, hơi thở rất yếu. Chu tử Liễu nói:
-Sư thúc hôn mê mấy hôm rồi, đến nay không thấy thay đổi gì cả. Dương Qua mặt đỏ lên vì tức bực, nói to:
-Sát đát! Bình sinh chàng hay cứu giúp người lâm nạn, không bao giờ nghĩ đến người thân, kẻ lạ, chàng chỉ lấy việc cứu người làm phương tiện, chẳng riêng gì Thần Tăng gặp hồi sắp chết. Nhưng chính vợ chàng lâm nguy lại cứu không được chàng buồn bã nói:
-Thần tăng nguy hiểm thì Tiểu Long Nữ bị nguy đến tính mạng. Vậy hãy đem Thần Tăng ra ngoài, khoảng khoát thoáng khí xem may ra ông có tỉnh lại chăng?
Chàng liền bế xốc Thần tăng ra ngoài. Tiểu Long Nữ đứng ngoài chờ đợi rất nóng ruột, không hiểu chàng vào trong có gặp tai nạn gì xảy ra không, nên nàng đưa mắt trông chàng, đến khi thấy ba người bước về hướng nàng thì Tiểu Long Nữ vô cùng mừng rỡ. Dương Qua nói:
-Phải kiếm nước lạnh cho Thần tăng uống chút ít xem sao?
Chu Tử Liễu nói:
-Không được! Vì sư thúc trúng độc tình hoa.
Dương Qua há hốc mồm vì ngạc nhiên, kêu lên:
-Sư thúc! Châu đại thúc! Trúng nặng hay nhẹ?
Chu Tử Liễu đáp:
-Theo tôi tưởng chắc không đến nỗi nào, vì chính tay sư thúc lấy gai tình hoa chích vào mình để thí nghiệm.
Dương Qua và Tiểu Long Nữ vô cùng ngạc nhiên kêu lên:
-Ồ ! Tại sao thế? Chu tử Liễu nói:
-Chính sư thúc đã nói với tôi rằng giống Tình hoa này nguyên ở tại sứ Thiên Trúc, ngày nay đã tuyệt chủng, không hiểu vì sao người ta đưa về Trung Thổ cho mọi người. Mấy năm về trước, tại nước Thiên Trúc có vô số người trúng độc tình hoa. Thiên Trúc thần tăng bình sinh hay nghiên cứu các chất độc và ông phân tích rất hay. ông nghe nói Tình hoa là giống độc, tuy nhiên ông chưa có dịp nghiên cứu, nay tình cờ lại gặp tại Tuyệt Tình cốc, ông lấy hoa độc thí nghiệm cho chích vào mình, biết đâu ông tìm ra phương pháp trị liệu, mà không cần phải cầu đảo kẻ khác? Dương Qua vô cùng kinh dị và lấy làm bội phục nên nói:
-Nhà Phật có lời, ta chẳng vào địa ngục vậy ta là kẻ sa địa ngục. Thần tăng xả thân cứu đời, chẳng ngại nạn tai hiểm trở, thật trên đời có một không hai!
Chu Tử Liễu nói:
-Cố nhân có tục truyền Vua Thần Nông nếm trên trăm loại cỏ để tìm ra thứ thuốc cứu người, bấy giờ ông hằng nếm độc dược mà thân thể vẫn chi thanh khỏe mạnh, thì xét ra sư thúc chẳng có mệnh hệ nào.
Dương Qua gật đầu có vẻ hài lòng và nói:
-Không biết đến bao giờ thần tăng sẽ tỉnh lại?
Chu tử Liễu nói:
-Sư thúc lấy Tình hoa thí nghiệm, ắt người suy tính chẳng nhầm. Trong khoảng ba ngày, ba đêm chắc sư thúc sẽ tỉnh lại, tính ra từ hôm sư thúc mê man đến nay đã hai ngày hai đêm rồi. Dương Qua thốt lên một tiếng "ái da" hướng về Tiểu Long Nữ bằng đôi mắt xót xa. Chàng thầm nghĩ:
-Thần tăng trúng độc trầm trọng, mê man bất tỉnh hai ngày hai đêm. Nhưng chất độc cũng tùy theo người mà công phạt. Đối với Thần tăng thì cái thân mình là Tứ đại giai không, ắt là phải khác hơn thường nhân rồi. Chàng e sợ Tiểu Long Nữ là phận liễu bồ nhược chất, nếu độc tính tái phát, không rõ sự nguy hại là dường nào?
Tiểu Long Nữ nói:
-Chu đại thúc, hai người bị giữ tại Tuyệt tình thất làm sao đi tìm được Tình hoa mà thí nghiệm? Chu tử Liễu ngó ngay mặt Tiểu Long Nữ và thầm khen nàng đã đẹp lại thông minh, liền đáp:
-Từ khi chúng tôi bị giam giữ ở Hỏa hoàn Thất thì có một vị tiểu thư thường đến viếng thăm. Tiểu Long Nữ ngắt lời:
-Có phải cô ấy lớn người, cao ráo, mặt trắng như ngà, miệng vuông môi đỏ, thường đeo đôi khuyên tròn không?
Chu tử Liễu đáp:
-Đúng đấy!
Tiểu Long Nữ nhìn Dương Qua cười và nói tiếp với Chu Tử Liễu:
-Vị thiếu nữ trẻ đẹp ấy tên là Công Tôn Lục Ngạc con gái cưng của cốc chủ. Vì nàng nghe nói có hai vị là người của Dương Qua đến xin thuốc, tự nhiên nàng phải trông nom. Trừ ra không dám phóng thích hai vị mà thôi. Tôi đoán như vậy có nhầm không Chu đại thúc?
Chu Tử Liễu nói:
-Đúng vậy! Sư thúc có xin nàng bẻ một nhánh Tình hoa và tôi có nhờ nàng ra ngoài cầu cứu. Mọi việc nàng vui lòng giúp. Tôi thường hỏi nàng là ai, tên gì? Nhưng nàng chỉ lắc đầu không đáp. Không ngờ nàng là con gái của Cốc chủ!
Tiểu Long Nữ nói:
-Chúng tôi tìm đến nơi đây là nhờ cô ấy chỉ điểm.
Dương Qua nói:
-Chu đại thúc! Có tiền bối Nhất Đăng đại sư đến đây.
Chu Tử Liễu quá mừng rỡ nói to:
-A, đại sư cũng đến đây sao? Hay quá!
Dương Qua nhíu đôi lông mày nói:
-Cùng đi với đại sư có Từ Ân hòa thượng không rõ bây giờ có xảy ra sự phiền hà gì nữa chăng? Chu Tử Liễu rất ngạc nhiên nói:
-Từ Ân sư huynh lại đây tất là điều bất hảo rồi. Anh trai, em gái họ Cừu xa nhau thì thế nào Cốc chủ không nhắc lại âm tình này nọ, sẽ sinh ra nhiều điều rắc rối.
Chu Tử Liễu tuy vào học với Nhất Đăng nên ông nể Từ Ân là người cao danh trọng vọng trong giới giang hồ. Hơn nữa có một hôm Từ Ân và Nhất Đăng đại sư đấu trí tại Thương Ngư ẩn, do đó ông lấy làm kính nể tôn Từ Ân lên hàng sư huynh và ông cũng rõ Cừu thiên Xích là em ruột Từ Ân. Nay bỗng nghe Dương Qua nói Từ Ân đã gây ra sự phiền hà thì ông lấy làm thắc mắc vô cùng. Dương Qua thấy vậy nên tường thuật đầu đuôi câu chuyện Từ Ân cho Chu Tử Liễu nghe và nói thêm:
-Từ Ân hòa thượng bây giờ tâm tính rất bất thường mà gặp Cừu thiên Xích dùng lời bài bác ngạo mạn nữa. Chu tử Liễu nghe qua liền nói:
-Vậy ra Quách phu nhân cũng có mặt trong cốc sao? Có bà ta ở đấy thì không có việc gì xảy ra đâu. Vì bà ta là người quyền biến và cơ trí đủ điều, lại có lệnh tôn sư định vào trong cốc và Dương bằng hữu võ công tinh tấn, ắt cuộc diện không đến nỗi nào. Bây giờ chúng ta chỉ lo ngại cho thân thể của Thiên Trúc sư thúc mà thôi!
Dương Qua nghe nhắc đến Thần tăng, nỗi an nguy và mối lo ngại thực nặng nề chẳng nhỏ, chàng tiếp lời:
-Hiện giờ cả ba chúng ta ngồi chờ Thần tăng sống dậy rồi sẽ lo liệu sau, không rõ ý kiến của Châu sư thúc thế nào?
Chu Tử Liễu trầm ngâm lo nghĩ rồi nói:
-Phải tìm ra chỗ nào để trấn an chứ?
Ông thầm tính các nơi trong Tuyệt Tình cốc, chỗ nào cũng đầy dẫy bẫy cạp, cơ quan hoặc là hoa độc. Chỉ có góc nhà Hỏa hoàn này coi vậy mà yên tĩnh nhất nên ông bảo tiếp:
-Thôi đành ở đây vậy.
Dương Qua cũng đồng ý về sự nhận xét của ông nên nói:
-Lời nói của Chu Đại thúc chí lý đấy... Tôi đã suy nghĩ nhiều mà tính không ra chỗ ẩn cư nơi nào không hầm sâu thì có nhiều nguy hại, chỉ có ở đây là ẩn an được, tuy có tên đệ tử áo lục không đáng quan tâm cho lắm.
Chu Tử Liễu cúi người xuống bế xốc thần tăng lên và nói:
-Ở đây tạm được rồi và một mình tôi cũng đủ bảo vệ thần tăng. Tôi muốn phiền Dương đệ phu phụ nên về đại sảnh mà trợ lực với Tôn sư, vì Tôn sư đã già yếu lại thọ thương, e có việc sơ suất xảy ra.
Dương Qua sực tỉnh nhớ lại Nhất Đăng đại sư thương thế trầm trọng còn Từ Ân lại không thể tin tưởng được, khi lành khi dữ không chừng và Thiên Trúc thần tăng thương thế dù nhẹ cũng phải có người canh chừng ông. Chàng lại thấy Chu Tử Liễu bồng Thần tăng đi dần vào trong Hỏa hoàn thất nên đợi ông đi khuất, vợ chồng Dương Qua mới noi theo lối cũ trở về đại sảnh. Khi hai người đi ngang qua khu vườn Tình Hoa, nhìn thấy một bụi tình hoa cực lớn, bao nhiêu lá Tình hoa đều rơi rụng, chỉ còn có thân cây trơ trọi, khô cằn nhiều gai độc chông ra lởm chởm. Bây giờ nhằm tiết lạnh động thiên cho nên các bụi Tình hoa không còn vẻ đẹp như lúc xuân thời. Dương Qua thấy vật tưởng người, nghĩ đến Lý Mạc Thu mà chua chát nên chàng bảo Tiểu Long Nữ:
-Tính người cũng như thân cây này vậy! Có lúc sum suê tuyệt đẹp, như hoàn cảnh chúng ta, có lúc khô héo tàn tạ như Lý Mạc Thu sư tỉ. Tình hoa tuy không gặp mùa xuân sắc nhiều gai độc của nó cũng làm hại người.
Tiểu Long Nữ nói:
-Nếu như Thiên Trúc thần tăng tìm ra thuốc hay để giải độc Tình Hoa thì chẳng riêng gì tôi với anh được cứu chữa mà Lý sư tỉ chắc cũng được Thần tăng chữa trị.
Dương Qua trong lòng kỳ vọng nơi Thiên Trúc thần tăng làm sao chữa trị cho Tiểu Long Nữ hết chất độc trong nội tạng, đấy là ước vọng thứ nhất của chàng. Lại nghĩ về Thần tăng bị hôn mê bất tỉnh, không rõ ông tỉnh lại hay không? Ông chết đi rồi thì biết liệu làm sao? Chàng nhìn về Tiểu Long Nữ mà trong lòng chua xót và bi quan đến cực độ. Chàng lại nghĩ đến chất độc của Tình hoa đang hành hạ Trình Anh và Lục vô Song nhưng Tiểu Long Nữ thì chưa đến nỗi nào? Chàng liền ngước mặt nhìn lên bụi Tình hoa thấy thân cây trơ trụi, chàng muốn bật cười, vì nghĩ đến con đường sinh tử hoang mang thịnh suy bi thời không sao lường được. Lúc bấy giờ trong đại sảnh của Tuyệt tình cốc, hoàn cảnh có vẻ sáng láng hơn trước. Cừu thiên Xích dùng lời khích ngạo người anh, mỗi lúc một tỏ ra nghiêm khắc và độc hại. Nhất Đăng đại sư thì chẳng nói nửa lời, chuyện Từ Ân đại sư để cho Từ Ân tự quyết định. Bấy giờ Từ Ân Hòa thượng nhìn sang cô em gái quay lại nhìn qua Hoàng Dung. Một người em gái với tình ruột thịt, một ông thầy với tình giáo hoá, một kẻ giết anh với mối thù chẳng đội trời chung. Bao nhiêu điều ân oán đua nhau nổi dậy ở nội tâm, nẻo ác điều lành thi nhau giao chiến trong trí não, và Cừu thiên Nhận phải chọn lấy một con đường. Từ thuở ấu thơ đến lúc già nua tuổi tác, mười năm gây sóng gió tày trời giờ đây giữa biển trần có bao nẻo mà không dứt khoát được. Mọi người trong đại sảnh nhìn thấy Từ Ân lúc cười như nắc nẻ, lúc khóc như mưa sa, ai cũng thương cảm giùm hoàn cảnh bi đát của ông thật là khó xử. Lục Vô Song thấy Dương Qua rời đại sảnh rất lâu mà chưa trở lại và mãi thấy không khí ngột ngạt của hai lão họ Cừu gây ra, đối với nàng không liên can gì cả. Nàng bước nhè nhẹ đến bên Trình Anh, nắm chéo áo nàng và ra dấu bảo đi ra ngoài trong chốc lát. Khi cả hai rời đại sảnh Lục Vô Song nói:
-Biểu tỉ! Trứng ngốc đã mang Tiểu Long Nữ đi đâu rồi nhỉ? Trình Anh chẳng trả lời chợt hỏi lại: -Biểu muội! Thân người bị trúng độc chưa hiểu sẽ ra sao?
Lục Vô Song kêu to một tiếng "y hi" và trong lòng nàng không có ý gì lo lắng cả nên tiếp lời:
-Không đến nỗi gì mà lo dù sao cũng còn Thiên Trúc và sư phụ.
Trình Anh lái sang chuyện khác nói:
-Theo tôi nhận thấy, ở đây chỉ có Long cô nương là đẹp đẽ hiền lành nhất, tài ba có lẽ trội hơn chúng ta, hèn gì Dương đại ca chẳng nhận cô làm vợ.
Lục vô Song nói:
-Tỉ tỉ khen mãi! Làm sao tỉ tỉ biết Long cô nương tài cao hơn người, bất quá cũng như chúng ta chứ hơn sao được?
Bỗng nghe phía sau có tiếng người con gái nói lanh lảnh:
-Chân cẳng của Tiểu Long Nữ như tăm tre, đâu có đẹp! đâu có đẹp
Lục vô Song hoảng sợ liền rút thanh kiếm điệp đao, quay người lại, thì rõ ra tiếng vừa rồi là của Quách Phù. Quách Phù thấy Lục Vô Song khí thế hung hăng nên hoảng, nhảy ra sau lưng Gia luật Tề, rút ngang lưỡi kiếm của chàng này chạy ra, nhìn về Lục vô Song, cặp mắt đại nộ hét to: -Ai, ai... muốn động thủ ra đây thử sức chơi.
Lục Vô Song cười hì hì nói:
-Nếu mi có giỏi đừng dùng kiếm mới tài chứ.
Quách Phù nghe Lục vô Song khiêu khích liền đáp:
-Tôi không dùng kiếm cũng được! Vậy ngươi hãy bỏ đao đi! Tôi xin lãnh giáo, xem võ công ngươi tài đến bực nào.
Nói xong nàng vùng kiếm múa vù vù, tiếng nghe tiếng dứt. Lục vô Song quá tức cười nói:
-Cái gì cũng tại ngươi, trên cũng ngươi gây lý, dưới ngươi toan gây sự. Ta tức quá, tức quá! Con gái của nhà họ Quách đâu có vô phép với tiền bối như vậy? Tốt lắm! tốt lắm, hôm nay ta sẽ dạy cho ngươi bài học đích đáng để mà chừa bỏ cái tính xấc xược, hỗn láo với kẻ bề trên. Quách Phù hỏi to:
-Ý da, ngươi bảo ai là tiền bối? ngươi là tiền bối à?
Lục vô Song cười hà hà nói:
-Ngươi còn con nít lắm, không biết cũng phải. Chị của ta là sư thúc của ngươi và ngươi không được gọi cô nương này cô nương nọ, mà phải kêu bằng dì và gọi ta bằng dì nuôi hiểu chưa?
Lục Vô Song lấy ngón tay chỉ về Trình Anh nói:
-Dì của ngươi đấy.
Quách Phù nghe nói thế liền chống gươm, không múa may nữa, suy nghĩ:
-Lúc Trình Anh và mẹ ta gặp nhau hai người tỏ vẻ thân thiện lắm và mẹ ta chẳng bảo kêu bằng "sư thúc" hay sao? Chu cha! Con nhỏ này cũng đứng vào hàng cụ lão tiền bối sao? Thực là tức cho ông ngoại ta đã già quá đỗi mà còn thu nhận đứa bé làm đệ tử. Nàng lại nghĩ thêm:
-Với bấy nhiêu tuổi đầu thì họ được bao nhiêu thế võ?
Thế là nàng tiếp tục hỏi Lục Vô Song:
-Đâu có gì để phân biệt thật hay giả? ông ngoại tôi danh dư mãn thiên hạ thì không biết bao nhiêu đồ đệ, khôn có, ngu có đủ hạng và hiện giờ không chừng có đến đệ tử con, đệ tử cháu nữa
Trình Anh tâm tánh thuần hậu, ôn hòa nghe mấy lời xàm sỡ của Quách Phù đáng lẽ nàng giận lắm, nhưng thâm tâm nàng đang hướng về Dương Qua sống chết thế nào chưa rõ thì chú ý làm gì lời nói nhảm nhỉ vô sự này nên Trình Anh nói:
-Biểu muội! Đừng nói nữa! hãy lo đi tìm Dương đại ca
Lục Vô Song gật đầu huớng về Quách Phù nói tiếp:
-Ngươi đã nghe rõ ràng chưa? Tỉ tỉ của ta lì dì của ngươi. Còn Quách đại hiệp và Hoàng Dung bang chủ danh vang thiên hạ, dự khắp đất trời, chắc có nhiều kẻ sâm si, ngu ngốc, khôn ngoan, lanh lợi, không chừng còn lại một hai cô gái nhỏ sau này...
Nói xong, Lục Vô Song cười ngất và quay người theo Trình Anh mất hút. Quách Phù tính nóng như lửa lại nghe Lục Vô Song nói những câu độc hại nên không nhẫn nhịn được, nàng thét to:
-Thực quá lắm! quá lắm!
Rồi xách kiếm rượt theo hai người, Lục Vô Song nghe tiếng kiếm vun vút, vù vù đuổi theo làm nàng chẳng hiểu chuyện gì xảy ra nữa. Lại nghe Quách Phù thét to:
-Ngươi đã mắng ta là người rừng, là mọi rợ lúc trước đó, ý ra làm sao?
Vừa nói nàng vừa đưa ra một chiêu võ. Lục Vô Song cử Liễu diệp đao ra đỡ rồi cười đáp:
-Cô nương hãy nghe đây! Quách đại hiệp là người trung hậu, Hoàng Bang chủ là con gái Đào Hoa đảo chúa, hai người danh cao vọng trọng, võ nghệ siêu...
Quách Phù cướp lời:
-Ngươi đừng nói lòng vòng vô ích! Hãy trả lời cho ta đi! Không cần tán tụng cha mẹ ta làm gì. Nàng nói xong câu này liền vung ra một thế kiếm tối độc nhắm vào Lục Vô Song. Lục Vô Song nhảy lùi lại và nói:
-Ngươi tự tiện khai chiến à? Ngươi đã chặt đứt cánh tay của Dương đại ca trong khi ngươi chưa rõ thanh, hồng, hắc, bạch, làm oan uổng một đời người. Ngươi không nghĩ gì tới ông bà Quách đại hiệp đã xử thế rất nhũn nhường thì ngươi hãy nghĩ mà nhân nhượng với kẻ khác chứ! Đừng làm càn rồi hối hận.
Quách Phù cười khinh ngạo:
-Nhân nhượng là cái gì? Tại sao phải nhân nhượng chứ?
Lục Vô Song khoan khoái mỉm cười tiếp:
-Ngươi hãy suy nghĩ cho kỹ đi, rồi sẽ nói hoặc làm.
Bấy giờ Gia Luật Tề đứng sau bức vách nghe rõ hai người nói với nhau, tuy biết Quách Phù tâm tính hào sảng, thua xa Lục Vô Song về mưu kế, nếu dùng lời nói nhất định Quách Phù phải kém xa nên ông liền bước ra nói:
-Quách cô nương! chẳng nên nói với tỉ tỉ nhiều lời
Ông đã xem qua võ công của Quách Phù và Lục Vô Song một lần rồi, mà hai người này nói mãi chẳng động thủ không biết phần thắng sẽ về ai. Lại thấy Quách Phù nói năng có vẻ hờn dỗi mà không rõ Lục Vô Song dụng ý gì nên hỏi tiếp:
-Ngươi đừng nói nhiều vô ích để ta hỏi nàng này cho rõ minh bạch đầu đuôi.
Lục vô Song nhìn về phía Gia Luật Tề bằng nửa con mắt nói:
-Nếu sau này chuyện khổ sở xảy ra ngươi là kẻ đầu tiên gánh chịu đó.
Gia luật Tề suy nghĩ và ông đã lầm to. Lục Vô Song không có ý hại Quách Phù mà nàng chỉ muốn giảng giải về đạo lý cho Quách Phù nghe để sau này khỏi xảy ra chuyện lôi thôi đáng tiếc. Quách Phù nhìn Gia luật Tề hỏi:
-Gia huynh có hồ nghi tôi không phải là con ruột của cha mẹ tôi không? Gia Luật Tề không biết trả lời sao cho ổn, nên nói thác:
-Chẳng biết! Chẳng biết! Tôi ngán vụ này rồi, không dám lý luận.
Lục Vô Song dồn ép thêm:
-Gia huynh! Cô nương tự nhiên hồ nghi. Gia huynh biết sao nói vậy, chớ chuyện gì phải sợ chạy?
Quách Phù đã dịu xuống phần nào, chống kiếm ngồi nghỉ. Gia Luật Tề lòng tưởng được một lời hay hay nên nói:
-Bây giờ vị cô nương nói làm gì lời khích bác? Ai cũng biết võ nghệ thì cứ tỷ thí xem nào.
Lục Vô Song hiểu lời châm chích của Gia luật Tề nên mạnh bạo nói:
-Lời ngươi nói như tấm lưới, nói cho nhiều chỉ tóm có câu khích bác.
Bấy giờ Quách Phù đã có cảm tình nhiều với Gia Luật Tề. Tính con trẻ thường thích vị ngọt cho nên những câu nói vừa qua làm cho Quách Phù hoan nghênh, cho là ông ta đã hiểu rõ tâm ý mình. Vì Quách Phù từ thuở bé được cha mẹ cưng yêu chiều chuộng và hai người bạn nhỏ con của Võ Tam Thông đối với nàng việc nhỏ lớn cũng chiều ý cả, trừ khi Dương Qua hay đả kích nàng lúc lầm lỗi cho nên nàng chẳng thích Dương Qua tí nào. Hôm nay ngẫu nhiên gặp một đối thủ lợi hại mà nàng cố nhường nhịn vì sợ gây ra tai nạn. Nhưng Lục Vô Song quá xấc láo Quách Phù giận quá mắng:
-Nay ta nói cho ngươi biết, nếu hôm nay ta không bẻ được hay chặt được chân ngươi thì ngươi đừng bảo ai kêu ta là dòng họ Quách nữa.
Lục Vô Song châm biếm:
-Ngươi bảo không chặt được chân ta thì đừng kêu ngươi là họ Quách phải vậy không? Vậy muốn người ta gọi ngươi họ Trương hay họ Lý?
Lục Vô Song chưa nói dứt lời đã thấy Quách Phù múa thanh kiếm thép vù vù trước mặt, như muôn ngàn ngọn gió thổi, hướng vào Lục Vô Song đâm mạnh một gươm. Lục Vô Song né khỏi và đưa thanh liễu diệp đao ra đỡ gạt, rồi mắng Quách Phù hai tiếng: "Người rừng". Quách Phù nổi giận vung gươm tiến đánh tới tấp, cả hai giao chiến vô cùng ác liệt. Lại nói về Quách Phù thuở nhỏ được Quách Tỉnh, Hoàng Dung vô cùng yêu quý và truyền thụ võ công cho nàng đến bực thượng thừa, với môn võ rất khó khăn và lắm công phu. Quách Phù trời phú cho một thiên tư lỗi lạc, lại nhờ có phụ thân truyền dạy, rồi đến mẫu thân khích lệ do đó nàng có một căn cơ võ thuật vào hạng thượng thừa lại là môn võ chánh tông. Bấy giờ lửa giận chưa nhiều, nên nàng chưa ra tay giết hại đó thôi. Lục vô Song hiểu như thế cho nên không bao giờ dám đối chọi với Quách Phù, nàng chạy ra bên ngoài. Quách Phù nổi giận múa gươm, tiếng gió dậy ào ào hướng vào Lục Vô Song công phạt. Làn kiếm lấp lánh như điện chớp và nhắm ngay Lục Vô Song đâm một nhát gươm khốc liệt. Trình Anh đứng bên ngoài xem thấy rõ nên nhíu mày nghĩ thầm:
-Tiểu muội mắng người là đồ man rợ thật thái quá. Không khéo đôi chân của Vô Song bị nó chém đứt vì Lục vô Song đã núng thế nhiều.
Trình Anh đưa mắt ra xem, thấy Lục Vô Song thối lui mãi, Quách Phù kiếm thế rất hung hăng múa tới tấp, bức Lục vô Song đến bước cùng đường. Bỗng nhiên nghe Lục Vô Song kêu to một tiếng "ái da". Lưỡi kiếm của Quách Phù đã chém vào chân nàng, toét ra một mảnh quần lụa. Trình Anh thấy khí thế chẳng có lợi cho họ Lục. Quách Phù tiếp tục bức mãi thì Lục vô Song sẽ lâm vào hiểm địa, do đó Trình Anh dùng tuyệt kỹ khinh công nhảy vào vòng kiếm giữa hai người, giang đôi tay ra bảo to:
-Quách cô nương! hãy dung tình, đừng vội xuống tay.
Quách Phù thâu kiếm trở về, thấy lưỡi kiếm có vấy máu đã rõ Lục Vô Song bị trúng thương nên nàng dương dương tự đắc bảo to:
-Hôm nay ta cho nàng một bài học đích đáng và từ nay về sau, Lục tỉ! Ngươi đừng ăn nói hàm hồ, theo bá đạo thì ta chẳng dung tình nữa đâu!
Quách Phù có biết đâu Lục vô Song là một thiếu nữ cứng đầu ngang ngổ nhất trên đời, trời chẳng sợ, đất chẳng kiêng, huống hồ cô nương họ Quách. Lý Mạc Thu hung hăng ác độc dường ấy mà nàng còn lén ăn cắp sách đi trốn. Tuy nhiên lúc bấy giờ Quách Phù thấy rõ chiếc quần lụa của họ Lục dính đầy máu bê bết mà Lục Vô Song đã không sợ hãi còn nói:
-Nay ngươi thích ta một gươm thì khắp trong thiên hạ sẽ đàm luận có lợi cho ta nhiều
Sở dĩ Lục vô Song nói như thế vì nàng rõ sự hiền đạt của cha mẹ Quách Phù, không bao giờ dụng dưỡng cho nàng làm theo lối man rợ. Quách Phù la lớn:
-Thiên hạ nói, thiên hạ nói cái gì?
Nói xong nàng tiến lên ít bước, vung trường kiếm ra, chĩa thẳng vào bụng họ Lục. Trình Anh đứng giữa can thiệp thấy vậy bèn chìa ra ba ngón tay kẹp cứng lưỡi kiếm. Xuất thủ rất nhẹ nhàng, đồng thời cũng kẹp luôn lưỡi liễu đao của Lục vô Song làm cho Lục vô Song và Quách Phù rút ra và cử lên không được. Trình Anh khuyên:
-Lục biểu muội, Quách cô nương, tôi không muốn hai người đánh nhau. Chúng ta đang ở vào hiểm địa thì chúng ta chẳng nên giao tranh vô ích.
Khi Trình Anh bỏ tay ra Quách Phù liền rút thanh kiếm về và nghĩ rằng Trình Anh đã dùng Xích không chưởng hăm dọa mình. Tuy vậy Quách Phù thét to:
-Ngươi đứng ra bênh vực cho nó, phải hay không? Tốt lắm! tốt lắm! Thì hai người tấn công đi! ta chấp cả hai, không sợ các ngươi. Họ Trình ngươi chẳng có đao kiếm đó sao? Nói xong, nàng vung thanh trường kiếm nhắm ngay ngực Trình Anh đâm tới. Nhưng nàng lại thu về vì Trình Anh chỉ có hai tay không. Trình Anh với tay sau lưng, rút ra một ống tiêu bằng ngọc dài cỡ thanh kiếm. Trình Anh rút thanh quản tiêu ra nhưng không chống đỡ... mà chỉ vào Quách Phù nói to:
-Quách cô nương! Ta hết dạ khuyên ngươi, mà ngươi cố ý chẳng nghe! Gia Luật huynh! Phiền Gia Luật huynh khuyên nhủ cô ấy vài lời.
Gia luật Tề lắc đầu quầy quậy nói to:
-Chẳng dám! chẳng dám! Quách cô nương, tôi thấy cô nương đang ở vào hoàn cảnh phải đối địch, vậy mọi việc xử sự lớn nhỏ gì cũng rán cẩn thận đề phòng.
Quách Phù nói:
-Tốt lắm! Gia huynh không bênh tôi để đi bênh kẻ khác.
Nàng thấy Trình Anh có dáng tao nhã hơn người, gương mặt yên tĩnh lòng bỗng nhiên sinh ra một ý niệm:
-Khó nói quá! Không hiểu nàng ra sao?
Trong khoảnh khắc, Gia Luật Tề đến bên Quách Phù nói:
-Từ Ân hoà thượng thật là cổ quái, tôi muốn trở lại xem lệnh đường có sao không.
Lục Vô Song tâm trí thông minh, tình cảm sâu động, nhận thấy Quách Phù đa tình đa cảm, nàng lên tiếng nói
-Ngươi hãy nhìn xem! Biểu tỉ tỉ của ta nhan sắc đẹp hơn ngươi, nhân phẩm ôn nhu hơn ngươi, võ công cao diệu hơn ngươi, vậy ngươi hãy cẩn thận đề phòng.
Những lời nói này làm cho Quách Phù rung động, nàng hỏi:
-Ngươi bảo ta đề phòng việc gì chứ?
Lục Vô Song cười to đáp:
-Chỉ có biểu tỉ tỉ không được trứng ngốc hoan nghênh mà thôi. Trái lại ngươi cũng hoan nghênh biểu tỉ tỉ như vậy.
Quách Phù nghe những lời này cũng đã hiểu phần nào nên nàng vung gươm ào ạt đến bên Lục vô Song uy hiếp.
-
Chương 80 - Từ Ân Hòa Thượng - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung
Chương 80 - Từ Ân Hòa Thượng
Quách-Phù hướng về phía Trình-Anh đưa ra một thế kiếm gọi Ngọc lặng thôi ngân tiễn" môn kiếm thuật này do mẫu thân đem hết tuyệt kỷ kiếm phong ra truyền dạy, do đó kiếm thế ảo diệu phi thường, khi vung ra kình lực của nó chiếm cả một vùng đất rộng bao quanh thân mình như muôn ánh hào quang. Trừ người nào có võ công cao hơn mới tiếp được vài chiêu, rồi rút ra chớ tuyệt nhiên không có chỗ công kích được.
Trình-Anh nhíu mày và suy nghĩ:
- Vị cô nương này, chưa chi đã dùng một thế công quá đáng, tiểu muội ta dù có lỡ lời đắc tội với nàng, thì cũng không đến nỗi phải coi nhau như cường cừu đại địch, không hiểu điều khinh lẽ phải, mà nỡ xuống tay độc sát. Mọi việc cũng tại Hoàng dược Sư dạy cho con cháu những đường kiếm quá sớm.
Quách-Phù đưa ra kiếm phong sắt xoáy vào bụng nàng, Trình-Anh đưa ra một ngón tay vận kình phong chận lại. Lưỡi kiếm đang như vũ bão bỗng bị làn kinh phong cản lại, nên không đâm được vào bụng nàng. Trình-Anh vươn tay ra dùng kình lực đẩy lưỡi kiếm đội ra sau. Cái xuất thủ vừa rồi của Trình-Anh rất quái dị, hơi gió mạnh thổi bạt lưỡi kiếm, kêu vo vo. Kình lực này là một ngón đàn, đẩy rơi cây kiếm của Quách-Phù xuống đất.
Chiêu võ nầy là một ngón trong "Đàn chỉ thần thông" mà Trình-Anh núng thế mới đem ra sử dụng.
Ngón đàn chỉ của Trình-Anh sử dụng ban nẫy, tuy lấy trong "Văn chỉ thần thông", và nàng còn tiếp vào những kình lực kinh hoàng, vì nàng không rõ được đường kiếm của Quách-Phù ra sao cả, nên cả hai đều cẩn thận đề phòng.
Trình-Anh lại nghĩ:
- Lúc nầy chỉ làm hạ kiếm của Quách-Phù thì chưa gọi là thắng được, nếu ta đem "Nhứt chỉ lực" mà họp với "Đàn chỉ thần thông" thì cướp lưới kiếm của Quách-Phù dễ như trở bàn tay.
Nghĩ như thế, nàng vung ra một ngón "Đàn chỉ thần thông" vào người Quách-Phù, tay trái giơ cao tiếp chưởng, rồi nhảy vài bước chân mặt búng một đá nhằm ngay tay cầm kiếm, đồng thời mặt rút ra ống tiêu ngọc, nhắm ngay huyệt đạo sau lưng Quách-Phù mà điểm.
Quách-Phù bị ba thế của Trình-Anh tấn công một lượt, hễ "Đàn chỉ thần thông" thì bị điểm huyệt, lại bị chiếc đá vào tay. Nàng liền nhảy lùi ra sau, tránh ngọn thần chưởng lợi hại, thì đã bị Trình-Anh dùng hai ngón tay kẹp chặt cây kiếm thâu về. Nàng mắc cỡ nhảy tháo ra ngoài.
Quách-Phù võ công chẳng kém ai, tuy nhiên kinh nghiệm tranh đấu, chỉ giỏi tài háo thắng trong giây lát, để rồi phải thua thiệt với người. Nếu nàng chịu khó để ý trong khi giao đấu thì Lục-vô-Song cũng như Trình-Anh phải kém nàng.
Gia-luật-Tề thấy vậy hỏi:
- Ôi chao! Cô nương chỉ giùm ta phép đoạt kiếm đó.
Trình-Anh lẳng lặng giắt thanh quang tiêu vào lưng, và chuyển người đến, cặp tay Lục-vô-Song dẫn ra ngoài.
Quách-Phù nhặt thanh trường kiếm đưa về phía Trình, Lục:
- Khoan đi đã, chậm lại! Ta muốn bàn một chuyện tốt.
Lục-vô-Song mỉm cười đáp:
- Trở lại bàn...
Trình-Anh không để cho Lục-vô-Song nói hết lời, đẩy nàng phía trước ba thước, rồi cắp tay nàng tiến lên cách xa mười trượng.
Lục-vô-Song rất ức vì chưa được nói hết lời.
Gia-luật-Tề nói:
- Quách cô nương! Tuy Trình cô nương đã hơn một chiến thế, song sự thật theo ta thấy chưa chắc thắng bại về ai.
Quách-Phù cười hận nói:
- Phải đấy! Thế ưng trảo của ta toan đưa ra, song chưa kịp nàng đã thừa hư đánh một chỉ lực, cũng tại ta vô ý không rõ cục diện, chứ chưa hẳn là thua đâu nhé!
Gia-luật-Tề không nói, chỉ kêu một tiếng "Hừm", vì tâm trạng trước cũng như sau, can trường chánh trực, không bao giờ đua bợ ai, nên ông tỏ ra lời chê trách Quách-Phù bị thua thiệt, nói:
- Quách cô nương! Trình tiểu thơ võ công trác tuyệt, sau nầy gặp lại nhau, thì hãy đề phòng cẩn thận, chớ có khinh địch mà thiệt đó.
Quách-Phù là một thiếu nữ tự tôn tự đại, nghe Gia-luật-Tề nhắc đến Trình-Anh, làm cho lòng nàng mờ tối hẳn lại, và tức khí hét lên:
- Gia huynh! Ngươi bảo võ công nó trác tuyệt ư?
Gia-luật-Tề nói:
- Phải đấy! giỏi thật đấy!
Quách-Phù nói như hét vào lỗ tai Gia-luật-Tề:
- Này ông ơi! Tôi chẳng thấy lời nói ông đúng tí nào cả, hãy nói xem ai giỏi dở ra sao?
Nói rồi nàng nhoài mình ra như muốn đi kiếm Trình-Anh và Lục-vô-Song.
Gia-luật-Tề hoảng vía hét to:
- Không phải vậy đâu! Đừng vội vàng, tôi yêu cầu cô đừng khinh địch! Yêu cầu cô lưu ý. Tôi bênh vực cô, chớ có bênh vực nàng đó đâu?
Quách-Phù nghe lời biện luận êm dịu, trong lòng khoan khoái nhoẻn miệng cười.
Gia-luật-Tề nói:
- Chẳng phải tôi bênh vực cô để đoạt lại kiếm sao? Sao cô kỳ vậy?
Quách-Phù quay đầu lại nhìn ông ta mỉm cười và nói:
- Coi người kỳ quái, hì hì... Coi kỳ quá!
Và gương mặt nàng lộ vẻ cười thích chí.
Gia-luật-Tề thấy bầu không khí ôn hòa cũng vui vẻ lại.
Bỗng nghe tiếng hú liên hồi từ đại sảnh vọng ra và hòa với tiếng "leng keng" như tiếng sắt chạm nhau, rầm rầm trong đại sảnh.
Quách-Phù cũng nghe như vậy nên hoảng hốt bảo:
- Gia huynh, mau vào trong xem cớ sự.
Lúc vào đây, Quách-Phù thấy Cửu lão bà lúc nào cũng nói những lời cay đắng, làm cho Quách-Phù không hiểu được câu chuyện mười năm về trước lỗi phải về ai? Nhưng nàng cũng hiểu sơ là Cửu-thiên-Xích muốn gây sự với mẹ nàng. ở đây nàng không chịu nổi với bầu không khí oi bức nặng nề do Cửu-cốc chủ tạo ra, nên nàng mới lui ra ngoài đại sảnh tìm làn không khí dễ chịu hơn. Rồi duyên cớ nàng mới gây sự đánh nhau với hai nàng Trình, Lục.
Bấy giờ nghe tiếng nổi lên rầm rộ, làm cho nàng hết sức lo cho hoàn cảnh của mẫu thân đang ở trong hang hùm nọc rắn, vậy nàng hối hả chạy vào đại sảnh.
Vào bên trong, nàng đưa mắt quan sát, thấy có Nhất-Đăng sư ngồi giữa, miệng niệm Phật, nhắm nghiền đôi mắt, như một pho tượng. Vẻ mặt rất từ thiện trang nghiêm. Về phía trên khách sảnh thấy Từ-Ân hòa thượng, tay múa máy, chân bước tới thụt lùi như đang tỉ võ, miệng kêu to những lời thê thảm như cọp gầy. Tiếng kêu lẻng kẻng là do đôi vòng sắt trên tay ông chạm nhau.
Cửu-thiên-Xích thì ngồi trơ trơ trên chiếc ỷ, vẻ mặt hầm hầm xanh như ánh thép, đôi chân mày cau có, miệng nhăn nhó, ai nhìn vào gương mặt xấu xí này, cũng phải bật cười.
Hoàng-Dung và Võ-tam-Thông ngồi ở góc phòng theo dõi hành động của Từ-Ân hòa thượng.
Từ-Ân nhảy lui lại lồng lộn một hồi, trán của ông mồ hôi đổ như tắm, hơi thở dồn dập. Ông càng nhào lộn càng thở nhiều.
Nhất-Đăng đại sư mở to đôi mắt nhìn Từ-Ân cất tiếng bảo:
- Từ-Ân! Từ-Ân! Thiện ác ngươi đã rõ, hôm nay sự giác ngộ đang đón chờ ngươi, hãy quyết chọn cho mình một lối thoát!
Từ-Ân nghe tôn-sư nói thế, hơi thở càng nhiều, ông lảo đảo ngã quỵ.
Cửu-thiên-Xích hét to:
- Lục-Ngạc! Hãy đỡ cậu con lên! Lục-Ngạc đâu?
Từ-Ân hé mắt nhìn Công-Tôn Lục-Ngạc qua màn lệ, thấy nàng dung mạo đoan trang, mày ngài mắt phượng, mơ màng tưởng đến người em gái của ông lúc trước cũng dung mạo thế này, nên ông nói với giọng mơ màng:
- Tam muội! Ta ở đâu đây!
Công-tôn Lục-Ngạc biết cậu mình mê muội nên đáp to:
- Cậu ơi! Cậu! Cháu là Lục-Ngạc đây, Công-tôn Lục-Ngạc cháu của cậu!
Từ-Ân lảm nhảm nói:
- Cậu, cậu! Ngươi bảo ai là cậu? Ngươi nói ai thế hả?
Cửu-thiên-Xích chua xót tận tâm can đáp:
- Nhị ca! Cháu là con gái của Tam-muội, và cháu phải gọi Nhị-ca bằng Cậu!
Từ-Ân bấy giờ sực tỉnh nói có vẻ bối rối:
- Đại ca! Đại ca của ta ra sao? Tam-muội đâu rõ! Đại ca của ta chết tại núi Thiết-chưởng, thân thể rơi xuống vực thẳm tan tành xương thịt! Xác chết không còn!
Rồi ông quay qua Công-tôn Lục-Ngạc nhìn nàng trân trối và lẩm bẩm:
Cháu của ta! Ta là cậu! Ha ha! Ta là cậu.
Bao nhiêu kỷ niệm vui buồn thời thơ ấu hiện trước mặt ông. Đôi mắt ông trào ra hàng suối lệ.
Trong khoảnh khắc ông ta lại nức nở, đứng dậy đi lại trước mặt Hoàng-Dung giơ tay ra điểm vào mặt nàng thét to:
- Ngươi là Hoàng-Dung! Phải, chính ngươi giết đại ca ta. Ngươi là Hoàng-Dung! Ngươi hãy thường mạng. Sát nhân giả từ! Hoàng-Dung đây, Hoàng-Dung! Quách-Phù đi vào khách sảnh, tiến lại đứng bên mẫu thân, và đưa tay ra bồng bé Quách-Tường. Nàng nhìn thấy Từ-Ân hòa thượng gương mặt hung ác lạ lùng, tay chỉ vào mặt mẹ nàng quát mắng. Nàng là một cô gái chung thân không nhường ai cả, mắt thấy tai nghe Từ-Ân như vậy, nàng cả giận chạy đến trước mặt Từ-Ân nói to:
- Hòa thượng! Hòa thượng chớ nên vô lễ! Ta sẽ không dung tha cho ông đâu?
Cừu-thiên-Xích cười to bảo:
- Con nhỏ điên rồi! Ngươi dám to gan như vậy!
Từ-Ân hỏi to:
- Người là ai?
Quách-Phù đáp:
- Ta đã nói nhiều lần rồi! Hòa thượng đôi tai có điếc không? Ta nói lại cho ngươi nghe đây: Ta là Quách-Phù, con gái của Quách-đại-hiệp và Hoàng bang chủ, nghe rõ chưa?
Từ-Ân đưa ngón tay chỉ Quách-Tường nói:
- Còn con nhãi con nầy là ai?
Quách-Phù nhanh miệng đáp:
- Nó là em gái nhỏ của ta!
Từ-Ân cười lên sặc sụa nói to:
- Hừm! Hoàng-Dung và Quách-Tỉnh ở với nhau, sanh được hai đứa con à? Hai đứa con nhỏ à!
Hoàng-Dung nghe giọng nói của Từ-Ân hoảng kinh la to:
- Phù-Nhi! Hãy trở lại đây mau!
Quách-Phù có vẻ khinh hờn Từ-Ân, vì nàng thấy ông ta cả nửa ngày mà chỉ nói điên khùng không dám ra tay đối địch, nên nàng lầm tưởng Hòa-thượng nầy kính sợ mẹ nàng. Bởi vậy, Quách-Phù không nghe lời lui lại, mà còn bước tới vài bước nữa nói thêm:
- Hòa-thượng nói có chuyện hận thù, mà không nói rõ cốt chuyện ra sao?
Từ-Ân bảo:
- Ta có chuyện hận cừu, và muốn trả sự hần cừu ngay bây giờ!
Những lời nói sau này như sét nổ làm rung rinh cả chiếc kê trà, ly chén chạm nhau kêu "lảng cảng".
Quách-Phù thấy thế run lên, vì từ nhỏ đến giờ nàng chưa thấy lời nói của người nào mãnh liệt như vậy.
Nàng lại thấy Từ-Ân đưa cả hai tay ra, tay trái muốn chụp bắt nàng, tay mặt tung ra một chưởng long trời đổ đất. Bây giờ nàng muốn thối lui, đã trễ quá rồi...
Hoàng-Dung, Võ-tam-Thông, Gia-luật-Tề, không hẹn nhau mà cả ba tung mình ra phía Từ-Ân sắp đưa ra thiết chưởng vô cùng lợi hại, và tay trái sắp bấu vào người, vô phước cho ai bị lão bấu nhằm sẽ tan xương nát thịt, vì trong cái chụp bắt người của ông trong lòng tay trái có một kình lực bén như thép.
Hữu chưởng đưa ra kêu to ba tiếng "ầm! ì ì ì". Ba người đang đi tới bị dội ngược lại lảo đảo.
Gia-luật-Tề võ công rất kém, nên bị chưởng phong đẩy văng ra xa. Riêng có Hoàng-Dung chỉ lảo đảo và giữ dược vị trí cũ. Nàng liếc mắt nhìn xem thấy Từ-Ân đã nắm chặt bé Quách-Tường trong tay, còn Quách-Phù ngã lăn xuống đất làm nàng kinh hãi vô cùng.
Hoàng-Dung hét lên một tiếng kinh khiếp và bảo thầm:
- Việc này chẳng tại Phù-Nhi, và có lẽ nàng bị thương và trúng phải chưởng lực.
Bà lập tức bước đến bên Quách-Phù, giơ tay đỡ con gái dậy và dìu vào góc phòng. Tay mặt nàng với rút ở sau lưng ra ngọn roi đả cẩu, tung mình tới trước, tay tả vung ra ngọn cẩu bổng, sử dụng chữ phong ra chống lại.
Từ-Ân hòa thượng tung ra chưởng lực mạnh gấp đôi, nhưng bị ngọn đả cẩu kềm giữ, nên chẳng hại được mình bà.
Quách-Phù kỳ thật là không bị một tí thương tích nào cả, và chỉ bị hỗn loạn nội tâm đến cực độ.
Đến lúc được mẫu thân dìu vào trong góc đại sảnh, nàng mới kêu được một tiếng "A".
Lúc bây giờ, Gia-luật-Tề, Gia-luật-Yến, anh em Võ Thị với Hoàng-nhan-Bình, thấy Từ-Ân khai chiến, mỗi người đều rút binh khí ra khỏi vỏ. Chỉ có Nhất-Đăng đại sư ngồi im lặng giữa đại sảnh, tay cầm hạt bồ đề, miệng niệm Phật hiệu, an nhiên bất động, làm như ông không thấy không nghe những biến cố xảy ra trước mắt.
Từ-Ân đưa đứa bé Quách-Tường ra trước mặt bảo to:
- Con gái nhỏ, con gái nhỏ của Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung đây! Bây giờ ta giết ngươi trước, sau mới giết Quách, Hoàng!
Cừu-thiên-Xích cười lên sặc sụa nói to:
- Nhị ca! Nhị ca đáng quí, đáng mến! Thế mới đáng là Cừu đại chủ, rạng rỡ anh hùng "Thiết chưởng thủy thượng phiêu chứ.
Nhìn vào trong đại sảnh bấy giờ chẳng ai địch lại Từ-Ân dù có họp lại mà vây Từ-Ân cũng chẳng thắng nổi, vì ông có môn "Địch thử kỵ khí" và một thế thượng đẳng là bé Quách-Tường đang nằm gọn trong tay ông, thì chẳng có người nào dám nhúc nhích cả, chỉ biết đứng chết trân ra đó.
Trong bầu không khí cực kỳ căng thẳng, bỗng nghe Quách-Phù kêu to:
- "Dương đại ca! Dương đại ca ở đâu? Mau đến cứu em gái tôi!
Dương đại ca!".
Lúc nàng nguy hiểm đến nơi, chỉ nhớ có một mình Dương-Qua là cứu cánh thôi. Cũng vì từ trước đến nay, mỗi lần nàng lâm vào đường tủ huyệt, thì có Dương-Qua xuất hiện cứu khỏi. Hiện tại nàng nhìn khắp mọi người, đều đứng trơ ra đó không ai dám tự động khai chiến, hay nói một đôi lời với Từ-Ân, do đó lòng nàng nảy ra tia hy vọng kêu Dương-Qua cầu cứu.
Dương-Qua lúc bấy giờ, cùng với Tiểu-long-Nữ chắp tay nhau tản bộ nhàn du, để hưởng ngoạn Tuyệt-tình-cốc trong lúc trời chiều. ánh sáng lê lói chiếu vào sườn non phong cảnh tuyệt đẹp.
Bỗng nhiên chàng sực tỉnh nhớ lời của Châu-tử-Liễu dặn là phải đến gấp đại sảnh để bảo vệ Nhất Đăng đại sư. Chàng bèn giục Tiểu-long-Nữ đi gấp về đại sảnh.
Từ-Ân hòa thượng bế Quách-Tường trước ngực, và hướng về Hoàng Dung bảo rằng:
- Dương-Qua! Ai là Dương-Qua chứ! Ta đã thử đấu khắp các anh hùng thiên hạ, nào là Đông-Tà, Tây-Độc, Bắc-Cái, Nam-Đế. Trung-thần-Thông, trong ngũ bá anh hùng cũng chưa làm tổn thương được Cửu-thiên-Nhận. Dù cho các ngươi triệu mời đủ năm ngươi cũng không chắc cứu nổi đứa bé nầy.
Nhứt-Đăng đại-sư từ từ mở mắt quay về phía Từ-Ân. Ông thấy tia mắt Từ-Ân có những tia hồng đẫm máu, sát khí đầy mặt, liền trầm giọng bảo rằng:
- Từ-Ân, ngươi vì người nhà mà báo oán. Người ta cũng tức ngươi mà trả thù, ngươi sẽ nghĩ sao?
Từ-Ân đáp:
- Ai cũng có gan mặt, há chẳng lầm lẫn.
Bấy giờ trời chiều bảng lảng, những vệt nắng yếu ớt chiếu vào đại-sảnh. Người nào cũng nhìn ra ngoài, đều có vẻ thương cảm mông lung. Riêng sắc mặt Từ-Ân-ân bị tia nắng chiếu vào trông thật đằng đằng sát khí.
Trong khoảng thời gian mọi người im lặng, đột nhiên Hoàng-Dung cất tiếng cười sặc sụa, cười quên thôi, khi cười thật to, khi cười thật nhỏ, thật là một chuỗi cười điên dại của một kẻ não lòng.
Mọi người trong đại sảnh nghe tiếng cười dòn dã của Hoàng dung, đều rợn người, tóc lông đều dựng đứng.
Quách-Phù gọi lớn:
- Má! Má ơi!
Võ-tam-Thông cùng Gia-luật-Tề nói lớn:
- Quách phu nhơn! Quách phu nhơn.
Mọi người đều nghĩ mà sầu não cho hoàn cảnh của Hoàng-Dung! Có lẽ bà ta bị người cướp mất đứa con yêu dấu, cho nên tâm tánh thất thường, tinh thần hỗn loạn.
Lại thấy Hoàng-Dung rút cây đả cẩu bổng ném xuống đất, và nhảy lên cao mấy trượng, làm chiếc búi tóc tỏa ra rủ xuống phủ lấp cả mặt mày trông rất dễ sợ.
Tiếng cười nhỏ dần như rên rỉ, nghe như quỉ khóc ma hờn!
Hoàng-Dung làm như người mất cả thần trí, điên dại.
Quách-Phù thấy mẹ như thế hốt hoảng, la to:
- Mẹ ơi! Mẹ! và đến trước mặt mẫu thân nắm tay bà khóc rấm rức.
Hoàng-Dung vịn vai con tiến về trước mặt Từ-Ân khóc rồi lại cười.
Cừu-thiên-Xích gương to đôi mắt, trong lòng rất bất định, nhìn rõ thảm trạng của Hoàng-Dung.
Võ-tam-Thông hô to:
- Quách phu nhơn! Hãy bình tâm, tỉnh trí để mà tìm cáchh đưa lệnh ái ra khỏi tay người.
Khi nghe Võ-tam-Thông nói bà tỏ vẻ nghe lời, liền chấp đôi tay hướng về phía Nhất-Đăng đại sư, rồi quay qua Từ-Ân hòa thượng xá xá và nói:
- Hòa thượng! Người nhứt định giết chết con gái ta sao? Nếu hòa thượng có giết nó, thì giết bằng cách bóp cổ, bóp vào yết hầu nó! Chứ đừng nắm tóc mà đập chết! Hòa thượng Từ Ân Bang-chủ nghe rõ chứ.
Từ-Ân lúc nầy biến sắc, gương mặt xanh xao vàng vọt, đôi tay ôm chặt đứa bé Quách-Tường. Rồi nói tiếp:
- Người... Người... Người là ai?
Hoàng-Dung ôm bụng cười ngặt nghẹo, giăng đôi tay ra phía trước, làm như cầu khẩn điều gì! Và cúi khom người xuống, làm ra bái lạy Từ-Ân.
Từ-Ân một tay bế Quách-Tường, còn một tay cũng vung ra chưởng được. Nhưng vì lời nói lạ của Hoàng-Dung, làm ông nghĩ lợi mà không vung chưởng giết nàng. Đã thế, Từ-Ân còn bước thêm hai bước, đưa cánh tay trái lên, phẩy một cái nhẹ, bốc Hoàng-Dung đứng dậy và hỏi tiếp:
- Ngươi là ai? Người nào?
Hoàng-Dung liền nghĩ ra một kế thứ hai nữa, giả bộ trầm ngâm đáp:
- Ta đấy à! Ngươi đã hoàn toàn quên hết dĩ vãng rồi sao? Ta và ngươi có một lần gặp tại Đại-Lý của Đoàn hoàng-gia! Tại đây người bấu đứa nhỏ trọng thương nhớ chưa! Người bấu cách nào mà đứa nhỏ hết cục cựa, sống chết dở dang, ngươi bỏ đi nhớ rõ chưa! Đứa nhỏ vô phương điều trị, đã chết thảm thương! Ngươi nhớ rõ chưa. Ta là mẹ đứa trẻ, ta là mẹ đứa trẻ... Giờ đây ngươi muốn bóp chết trẻ sơ sinh nữa ư! Giết đi! Sao chẳng giết? Sao ngươi chẳng giết? Hoàng-Dung nói một hơi dài...
Từ-Ân nghe quá rúng động cả tim gan, bao nhiêu kỷ niệm trong ký ức đều hiện mờ mờ ra trước mắt.
Câu chuyện mười năm xưa cũ đã khơi lại dần dần... Hồi đó Cừu-thiên-Nhận là một trang thanh niên mã thượng, lưu lạc giang hồ. Ngày nọ ông ghé qua nước Đại-Lý, một quốc gia thuần thái bình, dưới quyền thống trị của Hoàng-đế họ Đoàn, tức Đoàn hoàng-gia hay Đoàn Nam-Đế ông lọt được vào Hoàng-cung... Và lỡ tay bóp chết đứa nhỏ của bà Lưu qui-phi. Bây giờ Đoàn hoàng-gia là một tay kiệt hiệp giang hồ, có trên mười năm công luyện thường dùng Nhứt-lương-chỉ để giao chiến hay trị thương. Bà đem đứa bé đến trước mặt Đoàn Hoàng-Gia... Bà thứ phi nọ đã hết lòng cầu khẩn nhưng ông nhẫn tâm không chữa, để đứa bé phải chết thảm thương.
Mãi về sau Lưu quí-phi Anh-Cô, đã cùng Từ-Ân tương ngộ, thì bà Lưu quí-phi đã điên khùng rồi, bà ấy đổ tội cho Từ-Ân và đánh ông một trận tơi bời.
Tuy Từ-Ân võ nghệ hơn bà mấy bực, nhưng ông nghĩ cũng tại mình mà bà Anh-Cô ra như thế này... Ông đành chịu thua và chạy trốn. Đến nay đã mười năm qua...
Hoàng-Dung rõ câu chuyện nầy, mới đem ra chế ngự Từ-Ân. Tay ông bồng đứa trẻ y hệt câu chuyện năm xưa.
Cái tâm bịnh của Từ-Ân được Hoàng-Dung khơi lại, làm cho ông hết sức cảm động bồi hồi.
Võ-tam-Thông, Gia-luật-Tề và mọi người trong đại sảnh, đều tưởng Hoàng-Dung đã nổi cơn điên, mới xui người quật chết con mình, chứ họ có biết đâu Hoàng-Dung là người đại-trí, đại dõng. Không thua bực mày râu nam tử, và chắc gì bọn mày râu nam tử có đủ can đảm làm việc này.
Hoàng-Dung khéo dùng tâm lý đánh vào kẻ địch, làm cho mọi người sửng sốt câu nói "Ngươi hãy giết nó đi! Tại sao mà chẳng giết". Họ tưởng lầm Từ-Ân sẽ bóp nát xương đứa bé, họ hết sức lo sợ sự xảy ra.
Nhưng Từ-Ân đứng trơ như pho tượng gỗ, còn Hoàng-Dung hết đứng lại ngồi và cười hoài, làm cho mọi người không thể đoán được câu chuyện ra sao?
Từ-Ân Hòa thượng hai tay vẫn giữ chặt Quách-Tường và dưa mắt nhìn về Hoàng-Dung rồi quay sang nhìn Nhứt-Đăng đại sư, rồi lại nhìn đứa bé! Lòng ông nổi lên một hối hận vô biên, ông nói:
- Chết rồi! Chết rồi! Đã chết rồi một đứa trẻ... ai lại bỏ chết nữa sao? Chết! Đừng chết!
Ông nói xong bế đứa nhỏ đi đến trước mặt Hoàng-Dung và đưa đứa bé cho mẹ nó. Hai tay ông tỏ ra kính cẩn vô cùng.
Đoạn ông nói tiếp:
- Con trẻ đã chết vì ta, thì ngươi hãy đánh chết ta mà đền lại.
Hoàng-Dung vô cùng mừng rỡ, đưa tay tiếp lấy bé Quách-Tường.
Bỗng nghe Nhứt-Đăng đại-sư nói:
- Oan oan tương báo? Chừng nào mới thôi! Trong tay cầm đao, chừng nào mới bỏ.
Từ-Ân nghe qua lời ẩn ngữ của Đại-sư, làm ông bối rối kinh hoàng, không đưa đứa nhỏ cho Hoàng-Dung, mà liệng xuống đất.
Hoàng-Dung sợ con gái té đập đầu chết, nên phóng ra một chân hất nhẹ Quách-Tường đưa lên không trung và rơi ngay xuống chỗ Gia-luật-Tề.
Gia-luật-Tề đưa tay tiếp nhẹ đứa bé vào lòng.
Khi Hoàng-Dung đá Quách-Tường liền tung mình ra ngoài và nói to:
- Đứa bé bị ngươi giết chết rồi, tốt lắm, tốt lắm.
Sự thật không phải Hoàng-Dung đá đứa bé mà mà nàng dùng đôi bàn đỡ nhẹ vào lưng nó, rồi chuyển nhẹ lên không trung, nhắm ngay chỗ Gia-luật-Tề mà bỏ xuống.
Vì nàng nghĩ rất kỹ:
- Từ-Ân tâm tánh bất thường, nếu nàng nhảy ra ôm đứa bé biết đâu lão ta đổi ý, mà vung ra một chưởng thì rồi đời cả mẹ lẫn con.
Cho nên nàng giả điên khùng cho giống Anh-Cô để cảm hóa vị hòa thượng đam mê này.
Hoàng-Dung lại sợ con bé Quách-Phù nói năng lỗ mãng nữa càng nói thêm, nên bà tiến về phía Quách-Phù khóa chặt khẩu huyệt của nàng.
Xong việc Hoàng-Dung rít to lên:
- ái cha! Hòa thượng đã giết chết đứa bé rồi!
Từ-Ân hòa thượng mặt đỏ như than hồng, chỉ trong khoảnh khắc Hoàng-Dung đã giúp ông ta giác ngộ!... ông tiến lại phía Nhất-Đăng đại sư phủ phục sát đất, hành đại lễ và nói to:
- Sư phụ! Đa tạ thầy cảm hóa.
Nhất-Đăng đại sư vòng tay đáp lễ và bảo:
- Từ-Ân hòa thượng, kính mừng ngài ngộ đạo!
Cả hai nhìn nhau mỉm cười thông cảm.
Từ-Ân sắp sửa bước ra khỏi đại sảnh. Cừu-thiên-Xích thấy vậy kêu to:
- Nhị ca! Nhị ca hãy trở lại.
Từ-Ân quay đầu lại và bảo:
- Tam muội gọi ta hãy trở lại! Ta cũng có lời yêu cầu Tam muội "Hãy trở lại con đường chân chính".
Nói xong Từ-Ân chuyển mình bay vọt ra ngoài đại sảnh.
Nhứt Đăng đại sư lòng mừng vô kể, sắc mặt như trăng rằm nói:
- Lành thay! Lành thay!
- Và ông đứng dậy đi lui vào gốc đại sảnh ngồi tình tọa tham thiền.
Hoàng-Dung sửa mái tóc và quay sang Gia-luật-Tề tiếp lấy Quách-Tường bế trong lòng. Bà vô cùng hoan hỉ.
Quách-Phù được thân mẫu giải khai huyệt đạo. Nàng trải qua một giây phút kinh ngạc lẫn vui mừng. Nàng hỏi:
- Mẹ! Mẹ đã hết rồi sao? Con tưởng mẹ sắp phát điên cuồng rồi đấy.
Hoàng-Dung không trả lời, đứng lên về phía Nhứt-Đăng đại-sư hành lễ, cúi đầu và nói:
- Đại-sư? Tiểu điệt-nữ trong lúc hồn mạng đã đề cập tới việc cũ mong đại sư thứ lỗi.
Nhứt-Đăng đại-sư mỉm cười bảo:
- Dung nhi! Dung nhi! Ta có lời khen đó! Dung nhi đã làm nữ Gia Cát Lượng vậy.
Tất cả những người trong đại sảnh, chỉ có Võ-tam-Thông hiểu sơ sơ về câu chuyện cũ, còn lại thì không hiểu gì cả, còn câu chuyện Nhứt Đăng và Hoàng-Dung mang hồ lô đi bán thuốc gì, thì chẳng ai biết.
Cừu-thiên-Xích thấy sự tình biến chuyển sấm dậy đất bằng, còn bà ngao ngán chẳng biết lo liệu làm sao! Cừu-thiên-Nhận đã đi ra, ắt là đến chết không còn gặp nhau nữa. Nhìn về phía ngoài bà thấy Từ-Ân đi thoăn thoắt, phút chốc đã mất dạng, lòng bà nổi lên một đau buồn vô tận, nhớ lại lời nói của ông anh: Ngươi gọi ta trở lại, ta cũng yêu cầu ngươi trở lại... con đường chính".
Câu nói nầy anh bà đã khuyên bà sớm hồi tâm. Lòng bà nổi lên một sự xúc động vô bờ bến.
Do đó bà ngước nhìn mọi người, lòng bớt đi vẻ cừu hờn căm phẫn và nói:
- Quí vị hãy ở đây an nghỉ: Lão phu nhơn tàn phế không bồi bạn được!
Hoàng-Dung nói:
- Chẳng dám! Hôm nay chúng tôi đến hầu viếng, là để cầu lão bà ban cho Tuyệt-tình-đơn...
Cừu-thiên-Xích ra dấu bảo chúng đệ tử Lục y và gật đầu, tức thì nhóm đệ tử Lục-y đã hiểu ý, hô to một tiếng "vâng".
Các cửa ra vào, và bên ngoài cửa song, xuất hiện mỗi nơi bốn năm thiếu nữ áo lục, tay cầm dao kiếm, cứ mỗi bọn năm người thì có một người mang một tấm Ngư võng cực lớn, và chúng đứng gác theo thế phòng thủ của chủ cốc chỉ dạy. Ngoài ra có bốn cô nhan sắc tuyệt vời bước vào trong đại sảnh, khiêng chiếc ngự-ỷ và Cừu-thiên-Xích đang ngồi, đưa cốc chủ vào trong nội đường.
Võ-tam-Thông và Gia-luật-Tề đã xem "Ngư võng trận" nên rõ sự lợi hại của mảnh lưới nầy, kinh hãi nói:
Đao kiếm tuy vậy còn dễ phá, chứ mảnh lưới này trùm vào, không biết liệu làm sao?
Cả bọn Hoàng-Dung đều nghi ngờ, không biết lành dữ thế nào.
Anh em họ Võ xách kiếm ra ngoài, bỗng nghe một tiếng "bình" cực lớn, cửa sảnh khép lại. Hai anh em họ Võ dùng kiếm bổ mạnh vào cửa. Nhưng ổ khóa cánh cửa quá lớn không sao mở được.
Hoàng-Dung trấn tĩnh bảo:
Chẳng nên kinh hoàng! Việc đâu còn đó. Chúng ta ra khỏi đại sảnh là thoát nạn. Tuy vậy cũng còn nhiều mối lo, làm sao phá được mảnh lưới, và làm sao trộn thuốc cứu người.
Công-tôn Lục-Ngạc theo mẹ vào nội đường hỏi:
- Mẹ! Mẹ tính làm gì đấy.
Cừu-thiên-Xích thay ông anh đi rồi, đối phương lại rất nhiều tay võ công, nhưng không lẽ bó tay hay sao. Vả lại kẻ giết anh mình đang dừng trước mặt, chắc chắn là bà không thể xử hành được bà trầm ngâm trong giây lát vào bảo:
- Lục-Ngạc! Con đi ra ngoài xem xét, coi Dương-Qua và cô gái ấy ở đâu?
Lời bà bảo đúng ngay với ý nguyện của Công-tôn Lục-Ngạc nên nàng gật đầu lui ra, hướng về Hỏa-hoàng-thất.
Đi được nửa đoạn đường, bỗng nghe có tiếng xì xào trò chuyện chính là giọng của Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ.
Hai người đối đáp với nhau nghe rất êm tai, lại nghe lẫn vào câu chuyện của họ có tiếng "Công-tôn cô nương". Bốn tiếng này gợi tánh hiếu kỳ của Lý-Ngạc.
Bấy giờ bầu trời tối đen như mực, Công-tôn Lục-Ngạc lần theo xóm liễu ven rừng và nghĩ thầm:
- Cái gì mà có Công-tôn cô-nương trong đó?
Tánh háo kỳ nổi dậy, Công-tôn Lục-Ngạc phóng người thật nhẹ, bước đến gần chỗ hai người nói chuyện.
Nhìn xuyên qua bóng tối lờ mờ, nàng thấy rõ Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ đang đứng kề vai nói chuyện. Lại nghe Dương-Qua nói:
- Nên đa tạ Công-tôn cô-nương! Tôi cũng đồng ý về điểm nầy. Tôi chỉ mong sao thần-tăng sớm tỉnh lại, cả nhà mới tiêu thù, giải tán, tà độc tận tiêu, mới là yên tâm được.... "ý a".
Nghe hai tiếng "ý-a" Công-tôn Lục-Ngạc lật đật bỏ trốn chạy, không dè ở đây gây sự... Kỳ quái.
Lòng Công-tôn Lục-Ngạc lúc bấy giờ mới chua xót, đau khổ cho mối tình câm. Nàng đưa mắt ngó mông lung, lại thấy Dương-Qua rời chỗ đang đứng, choàng tay qua vai trái Tiểu-long-Nữ, vịn vai nàng mà đi.
Dương-Qua đột nhiên đau buốt đôi vai, xúc động vô cùng. Tiểu-long-Nữ nói:
- Có phải chất độc tình-hoa tái phát đấy ư?
Dương-Qua đau đớn nói:
- ừ! ừ!
Vì đau buốt cả chân răng nên chàng nói năng rất khó. Công-Lục-Ngạc đã đến thật gần chỗ hai người, lòng nàng suy tưởng:
- Muốn giải chất độc tình hoa này, phải có nửa bầu linh đơn vào bình phục tức khắc. Nhưng mình phải nói làm sao với mẫu thân chứ Dương-huynh thì khó hỏi được.
Vài phút trôi qua Dương-Qua cất bước nhè nhẹ và thở ra một lời. Tiểu-long-Nữ nói:
- Anh Qua! Mỗi lần cử động, chất độc càng thấm nhiều, nên anh mới bị phát động mau lẹ như vậy! Không rõ Thiên-trúc thần tăng đã tỉnh lại chưa? Khi ông tỉnh rồi chưa chắc ông đã tìm thuốc giải. Vậy anh cũng đừng nên khổ sở. Âu đó cũng là định mệnh.
Dương-Qua đau khổ vô cùng, song cũng gượng cười và nói:
- Vị Công-tôn Thái-bà Cốc chủ này, tánh ích kỷ và cố chấp thuốc giải độc tình hoa, bà ấy giấu một nơi bí mật lạ thường.
Ngoài bà ra, chồng con hay tất cả mọi người trong cốc, cũng không rõ được nơi nào giấu thuốc? Làm sao cho bà ấy vui lòng, thì mới mong bà ấy tự tay cấp cho. Còn nếu lấy dao gươm kề cổ, cứa đầu bà cũng nhất định từ chối.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Anh Qua! Tôi nghĩ điều này rất tiện!...
Dương-Qua thấu rõ tâm lý của Tiểu-long-Nữ, nên chàng buồn bã nói:
- Em hãy tạm ngưng những lời nói này, Anh với em tình sâu nghĩa nặng, nên trời dong ruổi kết nghĩa vợ chồng! Tưởng là kết tóc trăm năm. Tôi nguyện Hoàng-thiên hậu thổ, như số mạng bất thường thì chúng ta hãy ở bên nhau, đừng để người thứ ba xen vào.
Tiểu-long-Nữ đau khổ nói:
- Còn Công-tôn cô-nương! Tôi xem cô ấy thực là người tử tế đàng hoàng, nhan sắc lại mặn mà đằm thắm. Hẳn anh hiểu lòng tôi nghĩ chớ.
Công-tôn Lục-Ngạc rúng động cả tâm can, biết rằng Tiểu-long-Nữ khuyên Dương-Qua cưới nàng, để mà cầu thuốc giải độc, cứu lấy bản thân.
Lại nghe Dương-Qua cười bảo Tiểu-long-Nữ:
- Em ạ! Công-tôn cô nương chắc là trang tiểu thơ hoàn mỹ lắm nhưng trong thiên hạ chẳng thiếu chi người như nàng. Thí dụ như Trình-Anh, Lục-vô-Song hai người nầy cũng sắc nước hương trời đâu kém Lục-Ngạc. Nhưng tất cả anh đều không có tình trọng nghĩa sâu như em, chỉ có em với anh đôi tim mới một điệu! Em thử nghĩ một gã con trai sờ mó vào người em để giải chất kịch độc thì em nghĩ sao? Em từ chối hay chấp thuận!
Tiểu-long-Nữ ngắt lời:
- Em là phận gái đâu dám luận nhiều!
Dương-Qua cười to bảo:
- Người đời trọng nam khinh nữ, còn tôi là Dương-Qua trọng nữ khinh nam.
- Hai người nói chuyện đến đây, bỗng nghe tiếng "sột soạt" trong bụi cây gần đó.
Dương-Qua quát hỏi:
- Ai đó! Ai?
Công-Tôn Lục-Ngạc tưởng bị người nghe thấy, vì đã để lộ hình ích nên muốn lên tiếng đáp lời. Bỗng có tiếng "sột soạt" nổi lên từ cây đại-thọ và giọng trong trẻo của cô gái nói:
- Tướng Ngốc... Ngươi đấy à!
Lục-Ngạc bước lại gần để xem, thì đó là Trình-Anh và Lục-vô-Song.
Thấy hai cô gái nầy lòng nàng nổi lên cơn sóng tình rào rạt nghĩ thầm:
- Nếu đem so sánh thì ta thua đứt Tiểu-long-Nữ, còn Trình-Anh và Lục-vô-Song hai vị nầy võ công phần nào cũng phi phàm xuất chúng ta cũng không bì kịp.
Từ ngày Công-Tôn Lục-Ngạc gặp Dương-Qua, nàng đối với chàng trai xa lạ nầy, bằng một mối tình câm sôi bỏng, thâm thúy vô cùng. Chừng nàng nghe rõ Tiểu-long-Nữ với Dương-Qua nói chuyện, lòng nàng đã rõ Dương-Qua đối với Tiểu-long-Nữ có một mối tình trân trọng vô biên, dầu nàng có tương tư hay cảm mến thế nào cũng vô ích.
Suy nghĩ cùng cạn Công-tôn Lục-Ngạc rời xa nhóm người nầy, nàng nhắm hướng tây rảo bước.
Tội nghiệp cho nàng, cha mẹ nầy thì tâm địa độc ác, còn tình vợ chồng cha mẹ nàng là một mối tình khổ lụy chua cay. Do đó Công-tôn Lục-Ngạc bị ảnh hưởng não buồn cô độc từ nhỏ, và khi nên người gặp Dương-Qua lại mang thêm mối lụy tình.
Nên hôm nay tâm thần nàng hỗn loạn, quyết ý không muốn sống trên đời nữa.
Đêm về bao phủ rừng Tuyệt tình đen như mực, Công tôn Lục Ngạc thẫn thờ bước thấp bước cao! Đi mãi và đi mãi, không còn rõ mình sẽ đến đâu hay về đâu. Đường rừng núi về đêm nguy hiểm ngàn trùng, chông gai, hố thẳm, thú dữ, rừng sâu, nàng chẳng hề nghĩ đến và lẩm bẩm.
- Ta hết quyền sống rồi.
Nàng lầm lũi đi trong rừng núi tịch mịch, bỗng nghe tiếng người nói chuyện cuốn theo chiều gió đưa đến tai nàng.
Công-tôn Lục-Ngạc giật mình đưa mắt nhìn chung quanh cho nàng hãi hùng.
Nguyên lúc tinh thần điên đảo, tâm trí hôn mê, không kịp suy xét nên nàng đi lạc vào hướng tây của Tuyệt-tình-Cốc. Nơi tuyệt đối không vết chân người, bấy giờ nàng tỉnh trí nhìn xem những ngọn đồi cao chót vót, chính là nơi hiểm nguy bực nhứt, vùng Tuyệt-tình-Cốc, đây là một ngọn đồi trọc, cây cối, cỏ hoa thưa thớt, cao vút vượt khỏi những đồi ở vùng nầy, không biết đã bao nhiêu thế kỷ, mà có người khắc ở chân đồi một dòng chữ "Đồi-trường-Nhai". Ba chữ này gợi cho dân chúng ở vùng này biết đây là vùng cấm địa.
Trên ngọn đồi quanh năm mây che tuyết phủ khí bốc lạnh hai bên ngọn đồi là hố sâu thăm thẳm, gai gốc phủ đầu. Trước mặt là ngọn dốc cao, đường lên khúc khuỷu quanh co, cỏ cây hoa lá tiêu điều.
Bởi nơi đây đá nhiều đất ít, còn sau lưng đồi như bức tường đứng nghiêng, dù cho thú dữ có đi giỏi đến đâu, mà đi trên đường này cũng rơi ngay xuống vực.
Đoạn-trường-cốc phong cảnh hoang vu tiêu điều cho nên dân liệp bộ (thợ săn) ít hay bén mảng tới đây, vì đó là nơi nguy hiểm địa.
Công-tôn Lục-Ngạc vì có ý định chết, nên nàng không có ngại gì, nơi đây nữa. Nàng đi lần đến chỗ có tiếng nói phát ra, từ sau một phiến đá và nghe ngóng. Giọng nói nầy làm cho nàng kinh ngạc vô cùng, vì tiếng nầy là tiếng của Công-tôn-Chỉ phụ thân nàng.
Cha nàng đối với mẹ nàng rất lạnh nhạt, do đó có một hôm mẹ nàng quá giận phun ra viên "Thiết táo hạt" làm hỏng hết một con mắt của ông, rồi ông nổi giận dùng dao đoạn hết tay chân của bà rồi từ bỏ Tuyệt-tình-Cốc mà đi.
Ông lại không lưu chút tình phụ tử nào đối với nàng, mà ông chỉ rầy la đánh đập nàg. Do đó Lục-Ngạc không thương cha bằng mẹ.
Từ ngày phụ thân nàng bỏ nhà ra đi đã lâu lắm, lạ sao hôm nay đột ngột trở về? Chắc hẳn ông có một mưu kế ám muội gì nữa, nên Lục-Ngạc lắng tai nghe tiếp:
Công-tôn-Chỉ nói:
- Ngươi hư một mắt vì thằng tiểu tặc Dương-Qua ám toán, còn ta hư một mắt vì con ác phụ họ Cừu đả thương! Vậy chúng ta gọi nhau là "Đồng bệnh tương niên" người nghĩ sao?
Công-tôn-Chỉ nói xong cười hô hố, mà kẻ đối thoại tuyệt nhiên không đáp lời!
Công-tôn Lục-Ngạc lấy làm lạ! Trên đời này làm sao có chuyện như thế? Và cô ả kia là ai, mà bị Dương-Qua đả thương?
Lại nghe Công-tôn-Chỉ nói tiếp:
- Chúng ta gặp nhau đây, có lẽ duyên trời ruỗi xuôi cho hòa hợp, ngươi thử xem câu "Đồng bệnh tương niên" ta nói có đúng không! Này nhé ngươi với ta "độc thân độc nhãn" thì cũng nên kết hợp với nhau và thành lập cái "hội một mắt" ngươi nghĩ sao!
Bỗng nghe người đàn bà nói:
- Vậy nào...
Và tỏ ra giận dữ tiếp lời:
- Ngươi ngạo báng, trên sự đau khổ của kẻ khác à?
Công-tôn-Chỉ lật đật nói tiếp:
- Không đâu! Ta thấy ngươi thần sắc mờ mệt, lại cùng cảnh với ta, thì ta vui mừng nên mới lỡ lời như thế, xin chớ trách và thứ lỗi.
Công-tôn Lục-Ngạc nghe người đàn bà ấy rên rỉ và tiếp lời:
- Tôi bị trúng phải tình hoa quả độc, người không lưu ý giúp ta chút nào, còn đem toàn lời giỡn chơi làm trò cười.
Công-tôn Lục-Ngạc bấy giờ đã hiểu rõ nàng kêu lên nho nhỏ:
- A! Cô ả nầy chính là Lý-mạc-Thu lúc vào Tuyệt-tìnhh-cốc Dương-Qua đả thương hư mắt và bị độc tình hoa rồi! Cô ả gặp phụ thân ta như thế...
Người đã cùng Công-tôn-Chỉ nói chuyện, chẳng phải ý trung nhân của ông, hay xa lạ trong giới võ lâm, mà nàng chính là Lý-mạc-Thu.
Lúc nàng trúng nhầm độc Tình hoa, nàng đã chạy khắp hang, tính lọt ra ngoài tìm thuốc giải độc nào ngờ trong hang đường lối quanh co bí mật xuyên ra trở lại mà chẳng tìm được lối ra.
Lòng nàng rối rắm tơi bời, không còn nghĩ gì nữa được, nên chạy hoảng. Thời may đến Tuyệt-tình-Nhai nàng gặp Công-tôn đứng tại đó.
Công-tôn-Chỉ có ý đến đây! Ông không muốn cho chúng đệ tử hay gia nhơn bắt gặp, vì ông đến đây cốt ý giết chết vợ là Cừu-thiên-Xích, và nhân tiện đoạt lại chủ quyền ngôi Tuyệt-tình-Cốc nên Lý-mạc-Thu mới vô tình gặp ông:
Hai người đấu quyền chút đỉnh để khỏi bỡ ngỡ vào câu chuyện.
Công-tôn-Chỉ nhận thấy võ công của nàng cao diệu và nhìn mặt nàng rồi có một ý nghĩ rằng:
Ta có nhiều việc sắp làm trong cốc này làm sao nói cho cốc trợ giúp một tay.
Thế là ông kiếm chuyện nầy nọ, cố cầm Lý-mạc-Thu và lần đến vấn đề...
Lý-mạc-Thu tuổi tác chẳng nhỏ, nhưng từ lúc ấu thơ đã luyện khinh công đề khí, võ thế, quyền cước cho nên sức lực dồi dào, tinh thần tráng kiện, nhan sắc của nàng chẳng kém thiếu nữ đôi mươi, mà còn trội về nhân tình, duyên dáng.
Con Công-tôn-Chỉ muốn cưới Tiểu-long-Nữ song bất thành muốn yêu cầu Hoàng-nhan-Bích chẳng được, bỗng nhiên gặp Lý-mạc-Thu, đầu óc ông ta bỗng sanh ra một ý niệm bất lương và ông nghĩ:
- Sau khi giết chết con quỉ già Cừu-thiên-Xích, ta sẽ cố cùng nàng nầy. Nàng nầy võ công cũng giỏi, nhan sắc chẳng kém ai, dù kén chọn cũng vậy thôi. Tuy nàng hư một mắt, nhưng làm vợ có sao, trong gia đình chẳng ai bỏ chánh thê, thứ thiếp.
Công-tôn-Chỉ có hiểu đâu Lý-mạc-Thu độc hơi sài lang, ác hơn hổ báo, chuyên dùng tình ái để chinh phục lòng người. Lời nàng không thiếu "ác nghiệt", và cuộc đời cũng do ác nghiệt mà nổi danh. Chung quy cũng tại "Tình" mà ra nông nỗi như vậy.
Giờ đây nghe lời lão Công-tôn-Chỉ lòng nàng phiền não vô cùng. Nàng chỉ mong cầu thuốc giải độc, mà gặp lão nầy nói chuyện, nên nàng chán ngán trả lời.
Bỗng nhiên Công-tôn-Chỉ nói:
- Ta chính là chủ ngôi Tuyệt-tình-Cốc này, đã sáng chế thuốc giải độc Tình-hoa, trong thiên hạ trừ ta ra, không kiếm được người thứ hai. Chỉ vì phương pháp chế thuốc rất mất thì giờ, phải tránh xa chỗ có nước, và phải gần nơi nhiều lửa. Hiện tại trông cốc còn một bầu thuốc mà con ác phụ cất giữ, tôi uất ức muốn trừ khử con quỉ già ấy, nếu thấy tiện, cô nương có thể giúp ta chăng?
- Lý-mạc-Thu nghe qua như mở cờ trong bụng, nhưng ý nghĩ của nàng có hai lối. Nếu được người cho thuốc giải độc thì có gì tốt đẹp bằng. Còn vị Cốc-chủ phu nhơn chưa bẳn ai bằng lão nầy. Lão ta chẳng nói đấy sao? Trong thiên hạ người đời chỉ có một mình Công-tôn-Chỉ là biết phương giải độc Tình-Hoa.
Nguyên lúc nhỏ Công-tôn-Chỉ nghe ông cha kể lại: Từ lúc họ Công-tôn vào đây lập nghiệp, rất nhiều người bị chết về loại tình hoa cực độc, bởi vậy một vị Tăng tổ trước rất đau lòng cho cháu con mãi chịu ảnh hưởng nên mới ngày đêm, gia công nghiên cứu về dược thảo có độc tánh, do đó mới tìm ra phương pháp, bào chế thuốc giải độc. Còn kẻ địch khi đã vào Tuyệt Tình Cốc, tất gặp phải Tình-Hoa mà mang họa chết tức khắc, vô phương tìm đâu ra cách chữa độc.
Môn thuốc giải độc nầy, cha truyền con nối, tuyệt đối không có một người nào hiểu biết. Tuy nhiên, Cừu-thiên-Xích còn một ít thuốc là do đời trước để lại, còn phương pháp chế biến đã bị thất truyền từ lâu.
Hiện nay nữa chai thuốc để lại do Cừu-thiên-Xích cất giữ một nơi bí mật, mà Công-tôn-Chỉ không tài nào kiếm được.
Lý-mạc-Thu nghe qua lời nói của Công-tôn-Chỉ... trầm ngâm giây lát và hỏi:
- Những lời ông nói đó, có thực như vậy chăng? Thuốc giải độc sao lại do Tôn phu-nhơn cất giữ? Còn Tôn-phu-nhơn với ông là tình chồng vợ, nghĩa phu thê, tại sao lại hóa ra cừu hận? Ông tính giết bà ấy thực không ổn! Vì bà ấy chết rồi ai đưa thuốc giải độc cho ông?
Công-tôn-Chỉ cố tránh không trả lời, nhìn qua chỗ khác, nói:
- Lý cô nương. Tôi muốn cùng cô kết duyên, rồi sẽ lo liệu cứu cô nương. Tôi dầu có chết cũng không oán hận!
Lý-mạc-Thu mặt đỏ phừng phừng và nói:
- Tôi rất đa tạ ông, nếu ông thật tình muốn cứu tôi.
Công-tôn-Chỉ bảo nhỏ:
- Tôi có một kế hoạch giựt lại linh đơn trên tay ác phụ. Tôi muốn cô nương đáp đền tôi một việc.
Lý-mạc-Thu cười duyên đáp:
- Tiểu muội, một đời phiêu bạt giang hồ, tấm thân trơ trọi lại một mình, mà chẳng bị người ức hiếp. Nay vì chút thuốc độc, ông muốn giúp thì giúp, còn không tiện thì thôi. Tôi không ngờ: Lý-mạc-Thu ngày nay mà đi ăn mày sự sống.
Công-tôn-Chỉ võ công tuy giỏi, nhưng lại sanh trưởng tại nơi hang sâu, rừng thẳm, so với khách giang hồ cũng là tay lợi hại, nhưng có điều chưa ai được rõ tên ông. Trong mười năm qua ông cũng nhờ Cừu-thiên-Xích chỉ dẫn, cất bước hành hiệp trong mười năm. Trong thời gian nầy ông có nghe Lý-mạc-Thu có cái tên rất kêu là "Xích luyện tiên tử" tiếng dội gần xa. Trong giới võ lâm ai ai cũng đồn rằng Lý-mạc-Thu mặt tợ tiên bồng, mà lòng như rắn rít.
Tuy nghe đồn đãi như vậy, thực ra ông chưa được dịp diện kiến nàng.
Thế mà trong khoảng thời gian ngắn ngủi, đoán qua lời nói và hành vi của nàng, ông ta thấy Lý-mạc-Thu cực kỳ tao nhã hiền lành, do đó lòng ông rào rạt mừng vui, và ông kiếm lời xin lỗi:
- Cô nương! Xin đừng lưu tâm phiền giận nữa! Tôi đã vì cô mà làm một việc bạo thì niềm vui vẻ chẳng kịp đến! Chỉ vì muốn cướp đoạt Tuyệt-tình đơn, mà phải làm con gái tôi tổn thương đến tính mạng, tôi chẳng biết làm sao cho hơn, mới dùng kế lành!
Nào ngờ Công-tôn Lục-Ngạc núp sau tảng đá nghe câu nói ấy nàng run rẩy cả thân, kêu lên một tiếng lớn.
Lý-mạc-Thu lấy làm kinh ngạc khi nghe Công-Tôn-Chỉ nói. Nàng tiếp lời:
- Có phải thuốc giải độc do lệnh ái cất giữ chăng?
Công-tôn-Chỉ nói:
- Chẳng phải như vậy? Để tôi giải thích cho cô nương nghe kế hoạch nầy. Bởi vì con ác phụ của tôi đó, tính tình cố chấp và rất đa nghi như Tào Mạnh Đức, thuốc giải độc nó giấu nơi bí ẩn không nào tìm ra, nên dùng bạo lực cưỡng bách, lại càng hư hỏng và không kết quả gì, chỉ có cách lập kế làm cho mụ ta mắc mưu chừng ấy mới cướp đoạt được.
Lý-mạc-Thu gật đầu bảo:
- Cái kế ấy ra sao?
Công-tôn-Chỉ vui vẻ nói:
- Nó là con ác phụ, đối với mọi người đều không tình nghĩa gì cả, gan ruột hiểm độc, không ai nói nó nghe, bất luận chuyện gì. Trên đời này nó chỉ có một đứa con gái mà nó quý nhất là do tình mẫu tử ràng buộc. Tôi chỉ thấy ác phụ còn có yếu điểm nầy thôi. Bây giờ để ta dẫn dụ Lục-Ngạc ra đây, để nàng xô nó vào khóm tình hoa độc nhứt. Chuyện xảy ra như vậy, ắt con ác phụ sẽ nóng ruột vì con gái cưng mà đem thuốc giải độc cho con Lục-Ngạc. Lúc đó mình sẽ thừa cơ cướp đoạt một bầu thuốc mà do con ác phụ đó cất giữ thôi. Lấy được thuốc tôi sẽ giao cho cô nương. Như thế tánh mạng con gái nhỏ của ta sẽ khó lòng chữa trị.
Lý-mạc-Thu trầm ngâm đáp lời:
- Có gì khó! Công huynh chẳng cần xô cô ấy vào bụi Tình hoa làm chi cho nguy hiểm. Chỉ nên xô cô ấy vào bụi Tình hoa giả rồi lấy tình hoa độc và gai của nó cài vào áo quần, như thế chúng ta đoạt được linh đơn, mà không tổn thương đến lệnh ái.
Công-tôn-Chỉ nói:
- ác phụ gian trá thông minh, nếu Lục-Ngạc không trúng độc thì nó biết ngay không thể nào che mắt được đâu.
Nghe đến đây Công-tôn Lục-Ngạc xúc động kêu lên, bất giác đôi giòng lệ tuôn trào.
Lý-mạc-Thu làm ra vẻ giả nhơn giả nghĩa nói:
- Làm như vậy để cứu sanh mạng cho tôi, mà lại để lệnh ái đau đớn thì tôi không nỡ, vậy ta hãy tìm kế khác, chứ cách nầy xin bỏ đi.
Công-tôn-Chỉ tiếp lời:
- Không! Không được! Ta còn không tha cho con ác phụ thay, huống hồ con gái của nó. Ta không muốn cô nương bỏ qua vấn đề.
Lý-mạc-Thu ngẫm nghĩ chỉ còn có nước theo kế của lão chứ còn kế gì khác.
Công-tôn-Chỉ lại nói:
- Bây giờ chúng ta chờ đợi nơi đây! đến đêm nữa, ta sẽ đến bảo đứa con gái ra, nếu nó không nghe lời tôi thì tôi còn mưu kế khác.
Hai người lời qua tiếng lại, Công-tôn Lục-Ngạc nghe rõ ràng từng lời một, và nàng càng nghe càng đau khổ và sợ hãi. Nàng nhớ lại một hôm Công-tôn-Chỉ xô nàng và Dương-Qua vào đầm cá sấu, thì nàng thấy thân phụ đối với nàng không chút mến yêu. Hôm nay tình cảm ông lại còn biến trá và ác độc hơn. Có người nào dám giết chết con gái, để đi theo một tình nhân! Thật là hung dữ hơn hổ báo sài lang! Nàng không thể tưởng được công việc sẽ xảy ra.
Công-tôn-Chỉ và Lý-mạc-Thu bàn luận xong, dìu dắt nhau đến phía trên, ngồi chờ đợi giờ khắc đến là thi hành.
Công-tôn Lục-Ngạc không dám ra mặt, nên nhẹ bước lẻn ra sau. Chẳng mấy chốc nàng đã lùi ra xa hơn mười trượng. Chừng đó nàng mới yên tâm, quay đầu lại và chạy rất nhanh.
Nàng chạy trên nửa giờ đã xa hẳn Đoạn-trường-Nhai và sợ rằng về đến phòng thì phụ thân nàng đến bắt dẫn đi.
Bây giờ lòng nàng ảo não thê lương vô cùng. Nàng đi thẫn thờ tìm một phiến đá ngồi nghỉ đỡ chân.
Trăng tà khuất bóng, lá rụng rì rào. Nàng cảm thấy trên đời này không còn gì để nàng luyến tiếc nữa. Nàng tự nhủ:
- Ta đã muốn tự tử, thì các ngươi lại muốn mưu toan độc hại ta. Thật là kỳ dị! Ta đã muốn chết thì chẳng còn trốn tránh làm chi nữa. Đột nhiên đầu nàng nẩy ra một tia hy vọng nghĩ thầm:
- Các kế của phụ thân ta tuy độc, nhưng kỳ dị thay. Ta không còn có ý tự tử nữa. Ta sẽ đem kế nầy gạt mẫu thân ta lấy thuốc cứu Dương-Qua, để chồng vợ họ sum hiệp, họ sẽ biết ơn ta và đối đãi với ta tốt hơn không còn gọi là "Khổ nạn cô nương"! à! à! Ta phải làm kế ấy.
Nghĩ đến đây, lòng nàng vui thích vô cùng, bao nhiêu buồn đau tuyệt vọng lúc nãy đều biến mất, lòng nàng trở nên bình tĩnh lạ.
Nàng đứng dậy nhìn bốn bề yên lặng không một bóng người, chỉ còn có một mình nàng nên nàng dùng hết sức lực chạy nhanh về đại sảnh... Hướng về phòng mẹ nàng.
Trong thời gian đó nàng đi bẻ các gai tình hoa gài vào vạt áo, lại dùng gai tạm thích vào da thịt làm có dấu trầy trụa thương tích.
Khi về đến phòng Cừu-thiên-Xích, nàng đứng ngoài cửa sổ kêu to:
- Mẹ! Mẹ đã ngủ chưa?
Cừu-thiên-Xích đáp:
- Lục Ngạc! Có chuyện gì đó?
Công-tôn Lục-Ngạc đáp:
- Mẹ! Con đã rơi nhắm bụi tình hoa độc! Mẹ, mẹ.
- Nói xong nàng liền dùng cành hoa nầy cắm mạnh vào chiếc áo bên ngoài.