-
Hồi 41 - Ðỉnh Ngọc Làm Nên Phép Hóa Công - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 41 - Ðỉnh Ngọc Làm Nên Phép Hóa Công
Gã thấp lùn vội nhảy lại để thu lấy khí giới của mình.
Do Kiều Phong đã lượng biết sức khinh công của gã đến mức nào, nên ông phóng cây cương trượng vào vách đá núi cao hơn mặt đất hai trượng.
Gã thấp lùn nhảy lên cũng còn cách nửa thước nữa mới với tới được.
A Tử vỗ tay cười, nói:
- Hay quá! Bát ca ơi! Bát ca có nhổ được khí giới của Bát ca ra được thì tiểu Muội mới theo Bát ca về bái kiến sư phụ, còn nhổ không được thì đừng hòng.
Gã thấp lùn nhảy cái vừa rồi đã dùng hết sức bình sinh và thi triển khinh công đến tột độ, muốn nhảy cao hơn một tấc nữa thì khó lòng.
Gã nghe A Tử nói móc tức quá, cố sức nhảy lên cao hơn nhưng chỉ có đầu ngón tay giữa là chạm tới cây cương trượng mà thôi.
A Tử lại cười, nói:
- Mới chạm tới là không kể, phải nhổ ra mới được.
Gã thấp lùn lại càng tức giận hơn nữa. Lần này gã chuẩn bị lâu hơn hai lần trước, điểm hai chân xuống, vận hết khinh công, nhảy vọt lên. Quả nhiên ngón tay gã bám vào được cây cương trượng, nhưng người gã treo lơ lửng trên không đu qua đu lại. Gã dùng tay lay đi lay lại cây trượng. Nhưng cây trượng cắm sâu vào trong đá đến bảy thước mà gã cứ đu qua đu lại để lay như vậy thì cho đến ba ngày ba đêm cũng không nhổ ra cho được, chỉ tổ làm trò cười cho mọi người.
Kiều Phong cười, nói:
- Kiều mỗ xin kiếu các vị đây!
Gã thấp lùn không chịu buông tay, vì võ công gã đến mức nào gã tự biết rồi. Gã vừa nhảy lên nắm cây cương trượng đã là may mắn lắm, nếu tuột xuống thì sau có nhảy lên nữa vị tất đã nắm được. Cây cương trượng này gã tiếc lắm vì nó vừa vặn với sức gã. Muốn đánh cái khác được đúng như vậy cũng khó. Gã lại cố sức lắc cây trượng mấy cái nữa, song vẫn không nhúc nhích. Vừa nhìn thấy Kiều Phong chuyển mình bước đi, gã vội la lên:
- Ơ kìa! Ngươi phải để Bích Ngọc Vương Ðỉnh lại đã! Nếu không thì sau này rắc rối lắm đó.
Kiều Phong hỏi:
- Bích Ngọc Vương Ðỉnh gì đâu? Nó là cái chi vậy?
Ba gã đệ tử phái Tinh Tú tiến lại, nói:
- Võ công các hạ thật là xuất quỷ nhập thần. Chúng tôi bội phục vô cùng. Cái đỉnh nhỏ đó là một vật rất quan trọng của bản môn, người ngoài có cũng chẳng làm gì được, xin các hạ trả lại cho, chúng tôi xin đền đáp.
Kiều Phong thấy bọn chúng không có vẻ giả trá mà cũng không phải mai phục tại đây để tập kích mình, liền nói:
- A Tử! Cô lấy cái "Bích Ngọc Vương Ðỉnh"chi chi đó cho tôi xem đó là cái gì?
A Tử đáp:
- Trời ơi! Em đã đưa cho tỷ phu rồi mà, còn muốn trả lại hay không là tùy ở nơi tỷ phu. Nếu tỷ phu giữ lại thì cũng là của tỷ phu, không can dự gì tới em nữa.
Kiều Phong nghe A Tử nói, đã đoán ra cô ả đánh cắp bảo vật của sư môn cô. Song cô cố ý bảo đã đưa cho mình rồi là cốt để gieo vạ cho mình đây.
Ông liền tương kế tựu kế, cười ha hả nói:
- Cô đưa cho tôi rất nhiều thứ mà tôi chẳng biết cái nào là Bích Ngọc Vương Ðỉnh cả.
Gã thấp lùn đang lơ lửng trên không vừa nghe Kiều Phong nói vậy, cũng xen vào:
- Cái đỉnh ngọc cao độ năm tấc, toàn thân màu xanh ngọc ấy mà.
Kiều Phong nói:
- Ồ, cái đó hử? Tôi quả đã thấy rồi, nhưng cứ tưởng là một thứ đồ chơi trẻ con, chẳng dùng làm gì được.
Gã thấp lùn nói:
- Ngươi có hiểu gì đâu! Sao lại bảo là một cái đồ chơi con trẻ? Cái đỉnh ngọc đó...
Gã toan nói nữa thì gã béo mập vội quát lên:
- Sư đệ nói lăng nhăng gì lắm thế?
Rồi quay lại nói với Kiều Phong:
- Cái đó tuy là đồ chơi không dùng được việc gì, song của gia sư... Thân phụ của gia sư đã để lại cho người, vì thế mà không thể để mất được, xin các hạ trả lại cho.
Kiều Phong nói:
- Chết chưa! Thế mà tôi đã quăng đi mất rồi! Cũng không nhớ quăng ở đâu. Không biết còn tìm lại được nữa không? Nếu là một vật quan trọng thì tôi phải trở lại Tín Dương để tìm. Có điều đường sá xa xôi đi lại phiền phức và mất thì giờ.
Gã thấp lùn vội la lên:
- Quan trọng lắm chứ sao lại không? Chúng ta mau... quay lại để tìm kiếm.
Nói tới đây, gã buông mình nhảy xuống, bỏ luôn cả cây khí giới rất quý của gã.
Kiều Phong đưa tay khẽ vỗ trán mình mấy cái, nói:
- Chà! Mấy bữa nay ít uống rượu thành ra lú lẫn. Cái đỉnh ngọc này không biết bỏ ở Tín Dương hay ở Ðại Lý? Không chừng ở Tín Dương cũng nên...
Gã thấp kùn tính nóng như lửa, lớn tiếng la lên:
- Trời ơi! Ngươi nói cái gì mà rắc rối vậy? ở Ðại Lý hay ở Tín Dương? Muốn ở đâu thì ở, nhưng đừng nói đùa.
Gã béo mập xem chừng Kiều Phong cố ý làm khó dễ, liền nói:
- Các hạ bất tất nói giỡn. Nếu chiếc đỉnh ngọc còn nguyên vẹn không sứt mẻ đưa trả lại cho, thì chúng tôi xin tạ ơn rất hậu quyết chẳng sai lời.
Kiều Phong nói:
- Chết rồi! Tôi nhớ ra rồi...
Bốn gã nhớn nhác hỏi:
- Sao?
Kiều Phong nói:
- Cái đỉnh ngọc đó bỏ ở nhà Mã phu nhân, tôi bỏ vào đống lửa. Nhà phu nhân đã bị đốt cháy thành than không còn một mảnh ngói. Cái đỉnh đó bị lửa đốt không hiểu có việc gì không?
Gã thấp lùn lớn tiếng kêu lên:
- Thế thì hư mất rồi còn gì? Cái này... cái này... Tam sư huynh làm sao thì làm tôi không biết đâu. Sư phụ có trách phạt cũng không liên quan gì đến tôi.
Ðoạn, gã quay sang bảo A Tử:
- Tiểu sư Muội! Sư Muội nói với sư phụ thế nào thì nói, tôi mặc kệ đó.
A Tử cười, nói:
- Tôi nhớ dường như cái đó không bỏ tại nhà Mã phu nhân. Thôi Muội xin kiếu các vị sư huynh để các vị nói chuyện với tỷ phu.
Nói xong nàng lạng người đi một cái, bước lên trước Kiều Phong.
Kiều Phong quay lại giang tay cản trở bốn gã, nói:
- Nếu các vị nói rõ lai lịch cái Bích Ngọc Vương Ðỉnh ở đâu ra thì không chừng tôi còn có thể giúp các vị để tìm lại. Nếu không thì tại hạ cũng xin kiếu luôn.
Gã thấp lùn nói:
- Tam sư huynh! Tôi nghĩ không còn cách nào nữa. Sư huynh đem cái đó nói rõ cho y biết đi!
Gã béo mập nói:
- Ðược rồi! Tôi nói để các hạ hay...
Kiều Phong không chờ cho gã béo mập hết lời, đột nhiên lạng người đi một cái nhảy đến bên gã thấp lùn, đưa tay ra nâng nách gã, nói:
- Chúng ta lên trên kia nói chuyện. Ta chỉ tin lời ngươi thôi chứ không nghe họ.
Nguyên Kiều Phong biết gã béo mập tuy mặt ngoài ra vẻ hiền hậu nhưng kỳ thật gã rất xảo quyệt, không có câu nào thành thực. Vả lại gã thấp lùn tuy láu táu nhưng thực thà không biết nói dối. Kiều Phong kéo gã thấp lùn chạy thẳng lên vách núi.
Chỗ vách này tuy không dựng đứng nhưng cũng khó trèo và chẳng bấu víu vào đâu được. Thế mà Kiều Phong đề khí đi thẳng lên.
Chạy một mạch đã được hơn ba mươi trượng, thì đến một chỗ có mô đá lồi ra.
Ông liền đặt gã thấp lùn lên mô đá này, còn chính mình thì ông một chân đạp vào vách, còn một chân ở ngoài không gian.
Ông nói:
- Bây giờ ngươi nói cho ta nghe đi.
Gã thấp lùn ở trên cao nhìn xuống, bất giác choáng váng, vội la lên:
- Mau... buông ta xuống!
Kiều Phong cười, nói:
- Ngươi nhảy mà xuống!
Gã thấp lùn nói:
- Ngươi đừng nói nhảm! Cao thế này mà nhảy xuống thì người nát ra như cám còn gì!
Kiều Phong thấy gã lâm vào tình cảnh nguy ngập, mà không chịu nói ra thì trong lòng không khỏi khen thầm gã là người gan dạ.
Ông hỏi:
- Tên ngươi là gì?
Gã đáp:
- Ta là Xuất Trần Tử.
Kiều Phong tủm tỉm cười, nghĩ bụng:
- Cái tên nghe có vẻ phong nhã. Có điều thân thể gã không tương xứng .
Ông nói tiếp:
- Ta không đứng đây với ngươi được nữa, xin kiếu thôi. Sau này có ngày tái ngộ.
Xuất Trần Tử la lên:
- Không được, không được! Trời ơi! Ta té chết bây giờ.
Hai tay gã bám chặt vào vách núi, ngầm vận nội lực muốn bám lấy mỏm đá.
Song chỗ sờ tay thấy trơn tuột không bấu víu vào đâu được, tuy gã võ công cao cường, song ở trên cao, ba mặt chơi vơi trông mà phát khiếp.
Ba gã đứng dưới đất la hoảng không ngớt.
Kiều Phong giục:
- Nói mau đi! Bích Ngọc Vương Ðỉnh dùng làm gì? Nếu ngươi không chịu nói thì ta xuống đây, để mặc kệ ngươi ngồi đó.
Xuất Trần Tử vội nói:
- Tôi... tôi không nói không được hay sao?
Kiều Phong đáp:
- Ngươi không nói cũng được. Nhưng kiếu ngươi đấy!
Xuất Trần Tử vội nắm áo Kiều Phong:
- Ðể tôi nói! Bích Ngọc Vương Ðỉnh này là... một trong tam bảo của tệ phái. Nó... có công dụng về việc luyện Hoá Công Ðại Pháp. Sư phụ tôi bảo bọn võ lâm ở Trung Nguyên khi nghe đến thuật Hoá Công Ðại Pháp của tệ phái đều hồn vía lên mây. Nên hễ họ trông thấy Bích Ngọc Vương Ðỉnh này là muốn đập tan ngay lập tức. Vật này là một thứ kỳ trân, trên đời ít có chứ không phải tầm thường.
Kiều Phong đã nghe tiếng Hoá Công Ðại Pháp từ lâu biết đó là một tà thuật. Ông vừa nghe nói Bích Ngọc Vương Ðỉnh dùng vào việc đó liền không hỏi gì nữa. Ông đưa tay ra nắm lấy nách Xuất Trần Tử chạy ngay xuống núi.
Sườn núi dốc tựa bờ tường, nên lúc xuống rất mau nhưng cực kỳ nguy hiểm.
Xuất Trần Tử kinh hãi vô cùng, hô hoán rầm lên, song tiếng hô chưa dứt thì hai chân đã chấm đất. Mặt gã xám ngắt, hai đầu gối run lên bần bật.
Gã béo mập hỏi:
- Bát sư đệ! Sư đệ đã nói cả rồi ư?
Xuất Trần Tử chưa kịp trả lời, Kiều Phong đã gọi A Tử, bảo:
- Ðưa đây!
A Tử hỏi lại:
- Ðưa cái gì cơ tỷ phu?
Kiều Phong nói:
- Bích Ngọc Vương Ðỉnh.
A Tử nói:
- Tỷ phu vừa bảo bỏ trong nhà Mã phu nhân rồi kia mà, sao còn đòi em?
Kiều Phong đưa mắt nhìn thấy nàng thân hình mảnh dẻ, chiếc lưng thon nhỏ xíu,lại mặc áo mỏng, tựa hồ nàng không để cái đỉnh ngọc cao năm tấc bên trong mình thì nghĩ bụng:
- Cô này thật là xảo quyệt. Nhưng đây là việc nội bộ môn phái cô ta thì mình chẳng cần can thiệp đến làm quái gì. Có điều những thứ tà thuật mà quái này ám ảnh ghê gớm lắm. Nếu âm hồn không tan mà cứ theo mình quấy nhiễu thì cũng ớn lắm!
Ông nghĩ vậy, liền nói:
- Cái đó Tiêu mỗ chẳng dùng làm chi được, thì lấy làm cóc gì? Các ngươi tin lời ta cũng vậy mà không tin cũng thế thôi. Tiêu mỗ xin cáo từ đây.
Nói xong rảo bước đi ngay.
Ông mới nhô lên thụt xuống vài lần đã bỏ năm người kia khá xa.
Bốn gã khiếp sợ thần oai của Kiều Phong, nửa muốn đuổi theo, nửa không dám.
Chúng bàn nhau mãi chưa quyết định ra sao thì Kiều Phong đã mất hút dù có muốn đuổi cũng không kịp nữa.
Kiều Phong chạy một mạch hơn bẩy mươi dặm đường mới tìm được một tửu điếm liền vào đó uống rượu ăn cơm.
Ðêm hôm ấy Kiều Phong nghỉ lại quán Chu Vương.
Ông vận nội công một lúc rồi đi ngủ ngay.
Ðến nửa đêm Kiều Phong đang ngủ say, thốt nhiên nghe tiếng sao lanh lảnh vang lên.
Ông là người nội công thâm hậu, thấy tiếng sáo đó nổi lên từ đằng xa, ông đã nghe tiếng mà có vẻ quái lạ.
Tiếng sáo tuy không lớn lắm, song vẫn làm cho ông giật mình tỉnh giấc. Ông ngồi dậy để ý lắng tai nghe.
Một lúc sau, về góc Tây Nam, Kiều Phong nghe thấy mấy tiếng sáo đáp lại. Tiếng sáo này gắt gao thê thảm dị thường.
Ông nhận ra rằng đó là tiếng ngọc địch của phái Tinh Tú Hải Ma thì cười thầm trong bụng, lẩm bẩm:
- Bọn chúng đã đến gần đây, mình chẳng thèm để ý đến làm chi.
Thế rồi ông lại nằm xuống.
Ðột nhiên lại hai tiếng sáo"toe toe"vang lên và nghe rất gần, dường như ở ngay trong tửu điếm này.
Tiếp theo có tiếng người giục:
- Dậy mau đi! Ðại sư huynh đã đến! Chắc là bắt được tiểu sư Muội rồi!
Một người khác hỏi lại:
- Bắt được rồi ư? Anh liệu phen này cô ả còn sống được nữa chăng?
Người trước đáp:
- Ai biết đâu đấy! Ði mau, đi mau!
Tiếng hai người nói rất khẽ, song Kiều Phong nghe được rõ ràng.
Tiếp theo mấy tiếng đẩy cửa số, rồi có tiếng người nhảy ra ngoài.
Kiều Phong nghĩ bụng:
- Ðây là hai gã đệ tử khác của phái Tinh Tú Hải. Không ngờ trong tửu quán này cũng có bọn chúng mai phục. Có lẽ hai gã đến đây trước ta và im hơi lặng tiếng nên ta chưa phát giác ra. Nguyên bản ý Kiều Phong cũng không muốn can thiệp vào việc người, song ông thấy hai gã hỏi nhau "Phen này liệu A Tử còn sống được chăng" thì ông lại nhớ tới lời di ngôn của A Châu dặn ông phải trông nom cho A Tử.
Ông lẩm bẩm:
- Cô bé này tuy rất thâm độc, ta cũng không thể để cô bị chúng giết chết. Nếu ta bỏ mặc thì còn tình nghĩa gì với A Châu nữa?
Nghĩ vậy, ông nhảy ra khỏi phòng, thì nghe thấy tiếng sáo liên miên không ngớt.
Chỗ này dứt thì chỗ kia lại nổi lên đáp lại và đều chuyển về hướng tây nam.
Kiều Phong theo tiếng sáo chạy đi.
Chẳng bao lâu, ông đã đuổi kịp hai gã ở trong tiểu điếm đi ra.
Hai gã này ăn mặc cùng một kiểu với những gã kia, song nghe tiếng bước chân đã ra người già nua.
Tuổi hai gã này nhiều hơn mấy gã đệ tử mà ông đã được gặp trước.
Kiều Phong đi cách sau hai người chừng hai mươi trượng rồi cứ giữ mực đó theo dõi.
Ông đi qua hai ngọn núi, chợt thấy trong hang núi trước mặt có đống lửa sáng.
Ngọn lửa này cao chừng năm thước, màu sắc xanh biếc, khác hẳn lửa thường.
Kiều Phong để ý nhìn, tựa hồ như ma quỷ âm thầm.
Hai gã nhắm đống lửa mà chạy. Tới trước đống lửa, hai gã lại phục xuống đất.
Kiều Phong cũng dừng bước, ẩn vào phía sau tảng đá để nhìn ra, thấy đến hơn mười người đang tụ tập bên đống lửa.
Gã nào cũng mặc áo xô vàng, kẻ cao người thấp, ánh lửa xanh biếc chiếu vào mặt chúng, tên nào cũng lộ vẻ thê thảm.
Bên trái đống lửa biếc, có một người mặc áo tía đang đứng chính là A Tử.
Hai tay nhỏ nhắn của nàng đã bị dây sắt trói lại.
A Tử mặt trắng như tuyết, ánh lửa xanh lè chiếu vào, trông khác hẳn đi.
Song trên môi nàng vẫn nở một nụ cười, tỏ ra nàng rất quật cường chẳng sợ hãi gì.
Mọi người ngồi bên không ai lên tiếng, mắt chăm chú nhìn đống lửa, tay trái để lên trước ngực, miệng lâm râm không biết khấn khứa gì.
Kiều Phong biết các môn phái tà mà đều có một nghi thức riêng biệt nên không cần để ý. Thốt nhiên, Kiều Phong nghe hai gã đệ tử lúc nãy lên tiếng:
- Ðại sư huynh đã đến!
Ông nghe biết gã là đại đệ tử phái Tinh Tú và là một nhân vật đầu não trong đám này.
Ông lại đưa mắt ngó mười mấy gã, thấy già có trẻ có và đều ăn mặc giống như nhau.
Vẻ mặc cử chỉ những người này không có ai đặc sắc, tỏ ra là người cầm đầu.
Kiều Phong còn đang ngẫm nghĩ, bỗng nghe ba tiếng sáo "toe toe toe" có vẻ ôn hoà từ phía đông bắc vọng lại.
Mọi người quay lại nhìn về phía có tiếng sáo, nghiêng mình thi lễ.
A Tử chỉ sẽ hé môi chứ không xoay mình.
Kiều Phong cũng nhìn về phía có tiếng sáo thì thấy bóng một người mặc áo trắng vun vút đi tới. Hành động của gã này cực kỳ mau lẹ.
Gã cầm một ống sáo trắng đưa lên miệng nhìn vào đống lửa mà thổi, đống lửa lập tức tắt phụt ngay.
Giang sơn lại chìm đắm vào trong thế giới hắc ám.
Chỉ trong khoảnh khắc, ngọn lửa xanh biếc lại sáng loé lên, vụt một cái ngọn lửa bùng lên trên không cao chừng ba trượng rồi từ từ hạ xuống.
Mọi người hô vang:
- Ðại sư huynh pháp lực rất là thần diệu, khiến chúng tôi được mở rộng tầm con mắt.
Kiều Phong để ý nhìn gã đại sư huynh, bất giác rùng mình . Trong bụng ông vẫn đinh ninh đại sư huynh phải là người già đến năm sáu chục tuổi. Không ngờ bên đống lửa xuất hiện thêm một người áo trắng đứng sừng sững. Gã là một thiếu niên chừng hai mươi hai, hai mươi ba tuổi. Người gã cao và gầy, sắc mặc trông xanh và hơi vàng, tướng mạo khôi ngô tuấn tú.
Cặp lông mày hình thanh kiếm chênh chếch đi lên trông rất oai nghiêm. Tay trái gã cầm một ống ngọc địch dài đến hai thước.
Kiều Phong đã nhìn thấy kỹ thuật thổi lửa của y, cùng khinh công vun vút lúc gã tới đây, ông biết lực gã lợi hại vô cùng. Nhưng luồng hơi thổi tắt lửa vừa rồi lại thổi cháy lên đều không phải do nội lực mà ra. Ông chắc rằng trong ống sáo có giấu thứ thuốc gì đặc biệt.
Ông lẩm bẩm:
- Gã này tuy tuổi còn nhỏ, nhưng đúng là tay kình địch, không trách ai đã nghe danh phái Tinh Tú đều sợ mất mật. Quả nhiên nhân tài phái này cũng ghê gớm lắm. Ðồ đệ đã lợi hại thế này, thì Tinh Tú Lão Ma còn ghê gớm đến đâu. Hạng người này đã đến đây mà mình muốn cứu A Tử không phải là việc dễ.
Kiều Phong nghĩ vậy có vẻ hối hận là mình không động thủ ngay từ lúc mới đến, có phải cứu xong A Tử rồi không. Hiện giờ ta chỉ có một mình, nếu gặp kình địch dù không đáng sợ, nhưng chưa chắc đã cứu được A Tử bình yên.
Thiếu niên áo trắng nhìn A Tử, hỏi:
- Tiểu sư Muội! Sư Muội to gan thật đấy! Biết bao nhiêu anh em phải chật vật về sư Muội.
Tiếng gã trong trẻo rất dễ nghe.
A Tử cười, nói:
- Cả đến đại sư huynh cũng phải đích thân đi tìm kiếm, thì quả nhiên thể diện tiểu Muội tăng thêm được ít nữa. Dù sao thì tiểu Muội cũng đã dựa vào thế vững như núi, chả còn sợ gì nữa.
Thiếu niên áo trắng hỏi:
- Sư Muội cậy thế ai mà bảo vững như núi?
A Tử đáp:
- Ðúng thế! Tiểu Muội có gia gia, có bá phụ, có má má lại có cả tỷ phu nữa. Bấy nhiêu người mà chẳng vững như núi là gì?
Thiếu niên áo trắng hắng giọng hỏi lại:
- Sư Muội từ thuở nhỏ đã do gia gia ta nuôi dưỡng cho đến ngày khôn lớn, có thấy cha mẹ gì đâu? Bây giờ tự nhiên ở đâu mọc ra họ hàng thân thích thế?
A Tử đáp:
- Có ai lại không cha không mẹ bao giờ, chẳng lẽ ở trong hòn đá chui ra hay sao? Có điều gia gia má má tiểu Muội giữ tên họ bí mật, không muốn cho người ta biết mà thôi.
Thiếu niên áo trắng hỏi:
- Thế song thân sư Muội là ai?
A Tử đáp:
- Tiểu Muội nói ra e làm cho đại ca phải khiếp vía. Nếu đại ca muốn cho tiểu Muội nói ra, thì hãy mở trói cho tiểu Muội trước.
Thiếu niên áo trắng không ngờ bị cô lừa gạt, liền nói:
- Sư Muội muốn ta mở trói cho cũng chẳng khó gì. Hãy đưa Bích Ngọc Vương Ðỉnh cho ta trước.
A Tử nói:
- Cái đỉnh đó ở nơi tỷ phu tiểu Muội. Tam sư huynh, Tứ sư huynh, Thất, Bát sư huynh không chịu đòi lại thì tiểu Muội biết làm sao được?
Thiếu niên áo trắng đưa mắt nhìn bốn gã mà Kiều Phong đã gặp lúc ban ngày. Vẻ mặt thiếu niên rất ôn hoà, thế mà bốn gã cũng sợ run.
Xuất Trần Tử nói:
- Ðại sư huynh! Việc này không liên quan đến tiểu đệ. Tỷ phu sư Muội... bản lãnh ghê gớm quá, chúng tôi không đuổi kịp.
Thiếu niên áo trắng nói:
- Tam sư đệ! Nói cho ta nghe.
Gã béo mập đáp:
- Vâng, vâng!
Ðoạn, đem việc gặp Kiều Phong ở đâu, ông đón lấy những cây cương trượng như thế nào, rồi đem Xuất Trần Tử lên vách núi tra hỏi ra sao thuật lại kỹ một lượt, không giấu giếm câu nào.
Gã béo mập vốn là người rất bình tĩnh, lúc nào ăn nói cũng thản nhiên, thế mà đứng trước gã thiếu niên áo trắng, hắn sợ quá giọng run run dường như vạ lớn đã đến cho mình.
Thiếu niên áo trắng chờ gã nói xong, gật đầu rồi quay lại hỏi Xuất Trần Tử:
- Ngươi nói với y cả rồi hay sao?
Xuất Trần Tử đáp:
- Tiểu đệ tiểu đệ ...
Thiếu niên áo trắng vẫn ôn tồn:
- Ngươi nói với y thế nào cư thuật lại cho ta hay.
Xuất Trần Tử nói:
- Tiểu đệ tiểu đệ bảo Bích Ngọc Vương Ðỉnh là một trong ba thứ báu vật của bản môn, là... là thứ để luyện đại pháp... đó. Tiểu đệ lại nói cho y hay rằng sư phụ thường nói bọn võ lâm ở Trung Nguyên hễ nghe đến Hoá Công Ðại Pháp của chúng ta là hồn vía lên mây. Nếu Bích Ngọc Vương Ðỉnh vào tay họ là họ đập tan ngay.
Ngừng giây lát, Xuất Trần Tử kể tiếp:
- Tiểu đệ còn bảo y Bích Ngọc Vương Ðỉnh là vật chí bảo trên đời hiếm có. Vì thế... vì thế mà xin y trả lại cho.
Thiếu niên áo trắng nói:
- Hay lắm! Thế rồi y bảo sao?
Xuất Trần Tử nói:
- Y không nói gì cả, buông tiểu đệ xuống.
Thiếu niên áo trắng nói:
- Thế thì ngươi khá đấy! Ngươi bảo y cái Bích Ngọc Vương Ðỉnh đó dùng vào việc luyện Hoá Công Ðại Pháp, lại còn sợ y không hiểu Hoá Công Ðại Pháp là cái chi chi nên phải mách thêm cho y rằng bọn võ lâm ở Trung Nguyên hễ đề cập đến đại pháp này là hồn vía lên mây. Thế là tuyệt diệu! Nhưng y có phải là người trong môn phái võ ở Trung Nguyên không?
Xuất Trần Tử nói:
- Tiểu đệ tiểu đệ cũng không biết nữa.
Thiếu niên áo trắng hỏi vặn lại:
- Ngươi biết mà bảo không, hay ngươi không biết thật?
Gã thiếu niên vẫn nói bằng một giọng rất ôn hoà, thế mà Xuất Trần Tử, con người quật cường táo bạo, phải sợ đến kinh hồn tản đảm, hai hàm răng chạm vào nhau cầm cập.
Gã run lên đáp:
- Tiểu đệ tiểu đệ... không biết... thật. Gã cố giữ cho hàm răng khỏi đập vào nhau mà không sao giữ được. Gã đã nói lắp lại thâm vào những tiếng run cầm cập rất khó nghe.
Thiếu niên áo trắng hỏi:
- Ngươi bảo vậy có làm y khiếp sợ hồn vía lên mây không. Hay là y chẳng sợ cóc gì?
Xuất Trần Tử đáp:
- Dường như... y... không sợ thì phải...
Thiếu niên áo trắng hỏi:
- Ngươi thấy thế nào mà đoán là y không sợ?
Xuất Trần Tử nói:
- Tiểu đệ đoán không ra. Xin đại... đại huynh cho tiểu đệ biết.
Thiếu niên áo trắng nói:
- Người các phái võ ở Trung Nguyên sợ nhất là Hoá Công Ðại Pháp của chúng ta. Nhưng chiếc đỉnh ngọc đó đã vào tay y, môn Hoá Công Ðại Pháp không thể luyện được nữa, vì thế mà y không sợ.
Xuất Trần Tử nói:
- Phải rồi, phải rồi! Ðại... đại ca trông... trông thấy xa... muôn dặm... liệu việc như thần. Tiểu... tiểu đệ còn kém xa lắm.
-
Hồi 42 - Cách Trừng Phạt Ghê Hồn Của Trích Tinh Tử - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 42 - Cách Trừng Phạt Ghê Hồn Của Trích Tinh Tử
Tiêu Phong lúc ban ngày đã gặp bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy trong đám này có gã Xuất Trần Tử là kẻ thẳng thắn thực thà nên đã có cảm tình với gả.
Bây giờ thấy gã sợ hãi thiếu niên áo trắng thế, có ý muốn ra tay cứu gã. Không ngờ càng nghe lâu ngày càng thấy gã ăn nói chẳng ra gì cả, chỉ là hạng hèn nhát, xu mị gã thiếu niên một cách khả ố.
Ông lẩm bẩm:
- Gã này đâu phải là trang hảo hán? Dù gã sống hay chết cũng mặc, chẳng thèm bận tâm đến nữa.
Thiếu niên áo trắng quay sang hỏi A Tử:
- Tiểu sư Muội! Tỉ phu sư Muội là ai?
A Tử nói:
- Tỉ phu tiểu Muội ư? Tiểu Muội nói ra sợ đại ca hoảng hồn!
Thiếu niên áo trắng nói:
- Không sao đâu. Sư Muội cứ nói ra. Nếu là trang anh hùng lừng lẫy tiếng tăm thì Trích Tinh Tử này cũng cần biết để mà lưu ý.
Tiêu Phong nghe gả tự xưng danh, liền lẩm bẩm:
- Gả Trích Tinh Tử này xem ra có vẻ khoác lác! Vừa rồi mình thấy thân pháp gã lướt nhanh như gió, tuy khinh công giỏi thật, song cũng chẳng hơn gì ba tên Thạch Ðại Lý hay Vân Trung Hạc, một trong tứ ác. Có điều công phu gã này cổ quái ác hơn.
Bỗng thấy A Tử hỏi lại:
- Ðại ca! Trong các phái võ Trung Nguyên, ai là người đứng đầu đại ca có biết không?
Thiếu niên áo trắng tức Trích Tinh Tử đáp:
- Người ta thường đồn đại đến hai tên: "Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung." Chẳng lẽ cả hai người đều là tỉ phu sư Muội?
Tiêu Phong nghe Trích Tinh Tử nói đến câu: "Chẳng lẽ hai người đều là tỉ phu sư Muội?" Thì lửa giận bốc lên bùng bùng. A Tử chỉ là một cô chị, sao lại có hai tỉ phu được?
Ông lẩm bẩm:
- Thằng lỏi này quen thói ăn nói càn rỡ, sẽ cho người biết tay để chửa thói hồ đồ.
A Tử cưới khanh khách nói:
- Ðại ca nói thế mới là thú vị! Tiểu Muội chỉ có một tỉ nương lấy đâu ra hai tỉ phu?
Trích Tinh Tử tủm tỉm cười nói:
- Nào ta có biết tỉ sư Muội chỉ có một tỉ nương? Hề hề. Dù tiểu sư Muội chỉ có một cô chị mà có những hai tỉ phu lại càng là một chuyện ly kỳ.
A Tử nói:
- Này này! Tỉ phu tiểu Muội hay ghen lắm đó! Lần sau tiểu Muội gặp tỉ phu sẽ đem câu chuyện này thuật cho y nghe để đại ca nếm mùi đau khổ với y. Tiểu Muội nói để đại ca biết, tỉ phu tiểu Muội! Bang Chúa Cái Bang, oai danh lừng lẫy khắp Trung Nguyên, Bắc Kiều Phong chính thị!
A Tử vừa dứt lời, mấy gã đệ tử phái Tinh Tú đã gặp Tiêu Phong đều giật mình không nhịn được, đồng la lên:
- Ủa!
Nhị sư huynh tứ gã mũi sư tử nói:
- Thảo nào, thảo nào! Y bóp gẫy tay tôi, tôi cũng không ân hận gì nữa.
Trích Tinh Tử sẽ nhíu cặp lông mày, nói:
- Bích Ngọc Vương Ðỉnh đã vào trong tay Cái Bang thì thật khó lòng lấy lại rồi đấy.
Xuất Trần Tử tuy đang sợ hãi nhưng không sao đổi được cái tật lổm mồm.
Gã lắp bắp:
- Ðại sư huynh! Gã Kiều Phong đó hết... làm Bang Chúa... Cái Bang rồi! Ðại ca vừa ở miền tây về chẳng lẽ chưa được nghe các phái Trung Nguyên vừa đây mới xảy ra một việc quan trọng. Gã Kiều Phong đó bị người Cái Bang trục xuất ra khỏi Cái Bang rồi.
Trích Tinh Tử khẽ thở dài.
Song bộ mặt gã chỉ khẩn trương một lúc rồi trở lại bình thường.
Gã nói:
- Kiều Phong bị trục xuất khỏi Cái Bang rồi ư? Việc đó có thật không?
Tam đệ tử tức là gã béo mập đáp:
- Khắp chốn giang hồ đâu cũng nói vậy. Họ còn đồn đại hắn không phải người Hán mà là người Khất Ðan và đã trở nên kẻ thù số một của các anh hùng Trung Nguyên. Ai cũng muốn giết y cho hả giận. Tiểu Muội còn nghe nói Tiêu Phong giết song thân, giết sư phụ giết cả bạn bè, còn là một gã hèn hạ bỉ ổi, không một điều tàn ác nào gã từ.
Tiêu Phong nấp ở phía sau tảng đá núi nghe chúng kể chuyện về những tai bay vạ gió không may mình gặp phải từ mấy tháng thì không khỏi đau lòng. Mặc dầu ông võ công tuyệt thế, đởm hơn người mà thanh danh ông bị các bậc anh hùng trong võ lâm lăn mạ, lòng ông một phen uất ức, chán nản cuộc đời.
Bỗng thấy Trích Tinh Tử hỏi A Tử:
- Sao tỉ nương sư Muội đi lấy con người ấy? Chẳng lẽ khắp nơi thiên hạ chết hết cả, không còn chàng trai nào nữa hay sao? Hay là bị hắn tiền dâm hậu thú, rồi bị ép uổng phải lấy hắn là chồng?
A Tử cười lạt nói:
- Về việc tỉ nương tiểu Muội lấy hắn trong trường hợp nào, tiểu Muội không biết. Song tỉ nương tiểu Muội đã bị hắn ra tay đánh cho vài chưởng chết mất rồi. Bọn chúng đều la lên một tiếng kinh ngạc.
Bọn này nguyên là một lũ tà đạo lòng dạ trơ như gỗ đá, thế mà nghe nói Tiêu Phong giết cha mẹ, giết thầy, giết bạn, lại giết cả vợ con cũng không khỏi cảm xúc, ghê cho thủ đoạn tàn ác trên đời ít có.
Trích Tinh Tử nói:
- Tưởng gã còn ở Cái Bang, người nhiều thế mạnh, thì qùala điều khó khăn trong việc đối phó với hắn, nay hắn đã bị trục xuất khỏi Cái Bang, chẳng lẽ mình còn sợ hắn hay sao? Ha ha!
Ðột nhiên hắn buông mấy tiếng cười lạt nói:
- Thế mà bọn võ lâm tại Trung Nguyên nêu danh Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung gì gì hay quá: Ta không tin rằng hai gã có thì chống chọi lại với công phu kỳ diệu của phái Tinh Tú ta.
Gã bép mập nói:
- Chính thế! Bọn sư đệ chúng tôi cũng nghĩ vậy. Võ công của đại ca đã siêu phàm nhập thánh, phen này đại ca đến Trung Nguyên chém chết luôn cả Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung làm tỏa nhụt nhuệ khi các phái võ Trung Nguyên, để họ biết phái Tinh Tú ta lợi hại đến thế nào!
Trích Tinh Tử hỏi:
- Gã Kiều Phong hiện giờ ở đâu? Bọn ta đi phương nào tìm hắn?
A Tử nói:
- Hắn biểu ra ngoài ải Nhạn Môn Quan. Bọn ta theo phương đó mà đuổi chẳng sớm thì chầy cũng tìm được hắn.
Trích Tinh Tử nói:
- Phải rồi! Nhị Tam, Tứ, Thất, Bát. Năm vị sư đệ vừa rồi lâm tịch để thất cơ bại trận, các người muốn lãnh tội gì đây?
Cả năm gã khom lưng nói:
- Bọn tiểu đệ cung kính nhận lãnh trách phạt của đại ca.
Trích Tinh Tử nói:
- Bọn ta đến Trung Nguyên, hàn động nhiều việc. Nếu ta hình hạt quá nặng, không khỏi giảm sút đi một số người. Thôi đành thế hay vậy...
Chưa dứt lời, vung tay trái lên, trong tay áo phóng ra năm điểm ánh sáng xanh lè, tựa như năm con đom đóm bay ra xông thẳng đến gã. Mỗi điểm ánh sáng này rớt xuống vai một gã, tiếp theo là những vòng xèo xèo. Năm gã rú lên những tiếng kinh khủng.
Tiêu Phong ngửi thấy mùi thịt cháy khét lẹt tự hỏi:
- Mấy điểm lửa đó phải chăng đã đốt cháy thịt bọn kia?
Những điểm lửa đó tắt ngay song bọ mặt năm gã mỗi lúc một lộ vẻ đau đơn hơn lên.
Tiêu Phong nghĩ thầm:
- Gã thiếu niên áo trắng kia vừa phóng thứ điểm lửa ngoài chất lưu hoàn lân tiêu, bên trong còn có chất độc khác nhau nên lửa tắt rồi, chất độc thấm vào da thịt khiến người hải đau đớn không thể chịu được.
Bỗng thấy Trích Tinh Tử nói:
- Ðây là thứ luyện tâm đạn hạng nhỏ, chỉ trong vòng bảy bảy bốn mươi chín ngày là mãn kỳ hạn, các ngươi sẽ hết đau đớn mà da sẽ được một phen rèn luyệt cho sức nhẫn nại sẽ gia tăng. Lần sau có cường địch, không đến nỗi mới đánh một trận đã chịu khuất phục và lần nầy làm mất mặt cho môn phái Tinh Tú Hải.
Gã mũi sư tử cùng gã béo mập đồng thanh nói:
- Vâng vâng! Xin đa tạ những lời răn dạy của đại ca.
Còn ba gã kia chỉ vận động nội lực để chống lại với sự đau đớn. Mô tả không mở miệng nói được câu gì.
Trong khoảng thời gian cháy hết tuần hương, năm gã mới thấy trong người dần dần bớt đau. Lúc vừa rồi người ngoài trông thấy năm gã nghiến răng gắng gượng nhịn đau, bộ mặt cùng tiếng rên la của bọn họ thật rất khủng khiếp.
A Tử trông thấy cảnh tượng rùng rợn này không khỏi khiếp sợ. Trông cũng đành phó thác cho trời đến đâu thì đến.
Trích Tinh Tử từ từ đưa mắt nhìn Xuất Trần Tử nói:
- Bát sư đệ! Ngươi tiết lộ việc cơ mật trọng đại của bản phái, khiến cho vật đó có thể bị phá hủy, nên chịu tội gì?
Xuất Trần Tử thộn mặt ra, rồi đột nhiên quỳ mọp xuống đất năn nỉ:
- Ðại ca... đại ca! Tiểu đệ lúc đó hồ đồ buột miệng nói ra... xin đại ca tha chết cho. Từ rày... từ rày sắp tới, đại ca có bắt tiểu đệ làm thân trâu ngựa, tiểu đệ... cũng không dám... nửa lời oán trách. Nói xong lắc đầu lia lịa.
Trích Tinh Tử thở dài nói:
- Bát sư đệ! Ta cùng ngươi đã là bạn đồng môn. Nếu ta đủ quyền lực cũng muốn tha cho ngươi lắm. Nhưng lần nầy tha cho ngươi sau nầy có ai không tuân theo nghiêm lệnh của sư phụ thì làm thế nào? Thôi ngươi ra tay đi! Luật lệ của bản môn thế nào, ngươi đã biết rồi đó! Chỉ còn cách ngươi đánh bại được nguời chấp pháp thì bất luận tội nghiệt gì cũng xóa bỏ hết. Vậy ngươi đứng dậy ra tay tiếp đòn của gã.
Xuất Trần Tử khi nào dám chống lại với thiếu niên áo trắng, gã dập đầu không ngớt.
Trích Tinh Tử nói:
- Ngươi không ra tay để tiếp chiêu với ta ư?
Xuất Trần Tử vẻ mặt hoảng hốt đứng phắt dậy. Người gã tuy thấy lùn béo mập mà thân pháp rất mau lẹ. Gã nghe đại sư huynh nói vậy biết là không thể nào được tha nữa. Thứ binh khí mà gã quen dùng là cây cương trượng thì đã bị Tiêu Phong phóng chặt vào vách núi rồi không nhổ ra được đành bỏ lại đó.
Xuất Trần Tử vội cúi xuống nhặt hai hòn đá to bằng nắm tay. Hai tiếng vù vù vang lên, gã vừa nhắm Trích Tinh Tử ném tới, vừa nói:
- Ðại sư ca! Tiểu đệ đắc tội với đại ca đây!
Hai hòn đá vừa rời khỏi tay, gã nhặt luôn hai hòn khác ném liên tục.
Người gã nhảy về góc Ðông Bắc. Ðồng thời lại vang lên những tiếng "vù vù", gã ném luôn hai hòn nữa.
Người gã tròn ủng trông chẳng khác quả cầu bằng thịt, bắn đi khá xa.
Xuất Trần Tử tự biết võ công mình kém Trích Tinh Tử xa lắm, gã liệng đá ra với mục đích để ngăn trở đối phương một chút , may ra chạy thoát được chăng?
Xuất Trần Tử định bụng nếu chuyến này thoát nạn thì từ rày sắp tới gã kiếm chốn mai danh ẩn tích để bọn môn đồ phái Tinh Tú không thể đến nơi được.
Ngờ đâu Trích Tinh Tử phất tay một cái, một luồng kình lực từ trong tay áo phóng ra chạm vào viên đá.
Lập tức viên đá bay ngược lại nhằm liệng vào lưng Xuất Trần Tử.
Tiêu Phong nấp trong tảng đá lớn, thấy hòn đá phản kích mà còn rất mãnh liệt, bất giác gật đều khen thầm:
- Gã nầy có thuật trợn đà nội lực của đối phương để phản kích rất giỏi. Ðây là bản lĩnh của gã chứ không phải tà phép chi hết.
Xuất Trần Tử vừa nghe tiếng gió rất gấp đã biết rằng nếu mình xoay thêm về phía trước thế nào cũng trúng phải hòn đá, còn xoay tay đỡ thì lại không đủ nội lực. Gã đành nhảy tránh sang bên tả.
Xuất Trần Tử vừa nhảy tránh qua mé tả, thì Trích Tinh Tử lại khất tay áo cho hòn đá thứ hai bay tới, khiến cho gã không còn giây nào ngừng lại. Gã vừa đặt chân trái tới đất, một luồng kinh phong lại bay đến sau lưng, hòn đá thứ ba đã liệng tới nơi.
Tiêu Phong biết rằng nghệ thuật này bọn sư huynh sư đệ đồng môn chúng đã luyện rất thuần thục.
Trích Tinh Tử đã hiểu rõ sư đệ gã là Xuất Trần Tử muốn né tránh để định tâm có hành động gì rồi, nên gã liệng đá lại, hòn nào phuơng vị cũng vừa vặn để đối phương còn né tránh được nhưng không cho dừng chân lúc nào mà cứ phải tránh mãi về mé tả.
Tiêu Phong lại biết rõ Trích Tinh Tử cố ý muốn làm cho sự đệ gã hoảng hồn chứ không muốn giết ngay.
Trích Tinh Tử ném đến những hòn đá thứ năm thứ sáu thì làm cho chậm lại một lúc, vì nếu không chậm lại thì Xuất Trần Tử tránh không kịp.
Mỗi một hòn đá văng lại đều bức bách Xuất Trần Tử nhảy tránh sang mé tả. Sáu hòn đá liệng lại, Xuất Trần Tử nhảy tránh sáu lần thành ra lại trở về bên đống lửa.
Viên đá thứ sáu vừa rơi xuống thì Xuất Trần Tử sắc mặt lợt lạt thò tay vào bọc rút lưỡi dao trủy thủ ra, toan đâm vào ngực mình để tự tử.
Trích Tinh Tử khi nào để cho gã chết một cách dễ dàng như vậy? Gã phất tay áo ra, một chấm lửa xanh lè bay vút tới cổ tay Xuất Trần Tử.
Xèo xèo, viên đạn lửa đã xuyên vào, đốt cháy huyệt đạo ở cổ tay Xuất Trần Tử.
Xuất Trần Tử đau quá rời tay ra, lưỡi đao trủy thủ rớt xuống đất.
Gã lớn tiếng la lên:
- Xin đại ca mở lòng từ bi! Xin đại ca mở lòng từ bi!
Trích Tinh Tử lại phất tay áo, một luồng kinh phong phát ra bay vụt tới đống lửa xanh lè.
Ðột nhiên từ trong đống lửa nầy có một tia lửa nhỏ xíu bật thẳng vào Xuất Trần Tử.
Tia lửa này đốt cháy quần áo, đầu tóc Xuất Trần Tử.
Xuất Trần Tử lăn lộn dưới đất, rú lên những tiếng thê thảm mà không chết ngay được. Mùi thịt cháy khét lẹt bay ra bốn phía.
Thảm trạng này thật là khủng khiếp khiến ai trông thấy cũng phải ghê hồn.
Tiêu Phong tuy đã gặp không biết bao nhiêu cảnh tượng hung ác, hiểm độc, mà lúc này trông thấy thảm họa của Xuất Trần Tử trong lòng ông không khỏi rung động.
Bọn đồ đệ phái Tinh Tú sợ quá đến nỗi không dám thở mạnh.
Trích Tinh Tử cất tiếng hỏi:
- Anh em không ai nói gì. À phải rồi! Các ngươi cho ta là có thủ đoạn thâm độc quá. Xuất Trần Tử bị chết một cách oan uổng phải không?
Mấy câu hỏi hời hợt khiến cho bọn kia hoảng hồn tranh nhau lên tiếng.
Một gã nói:
- Tội Xuất Trần Tử chết là đáng lắm. Ðại ca lại tìm cách luyện xác trước khi hắn về Tây phương cực lạc. Thế là đại ca đối với gã nhân từ lắm rồi!
Có gã nói:
- Ðại ca là người anh minh quyết đoán, xử trí mọi việc rất đíc đáng đã không nhu nhược, lại không thái quá. Chúng tôi rất là kính phục.
Có gã nói:
- Y đã tiết lộ những việc cơ mật của bản phái để vật chi bảo của đồng môn dùng vào việc luyện công có thể lâm vào tình trạng bị phá hủy đáng tội lăng tri, xẻo từng miếng thịt để chịu đau khổ bảy ngày bảy đêm rồi mới xử tử. Thế mà đại ca nghĩ tình đồng môn chỉ xử y một cách nhẹ nhàng. Dù y chết rồi thành ma quỷ cũng còn cảm kích ơn đức Ðại ca.
Có gã nói:
- Bọn tiểu đệ đều có tội hết, xin đại ca bao dung cho.
Những lời tán tụng vô liêm sỉ xen lẫn với tiếng rên la thảm thiết Xuất Trần Tử hợp thành một điệu nhạc rất khó nghe.
Tiêu Phong cảm thấy chán ghét vô cùng, không muốn nghe nữa. Ông ngay mình, điểm chân phải xuống, nhảy bật người lên không một tiếng động, đã dăng xa ra ngoài hai trượng. Ðến tay bản lãnh cao cường như Trích Tinh Tử mà cũng không hay biết chi hết.
Tiêu Phong vừa tung mình đi một cái, đang khoa chân toan nhảy bước thứ hai bỗng nghe Trích Tinh Tử ôn tồn hỏi:
- Tiểu sư Muội! Tiểu Muội lấy cắp bảo đỉnh của sư môn đem đưa cho người ngoài, nên chịu trừng phạt cách nào đây?
Gã nói mấy câu đó bằng một giọng ôn nhu văn nhã, song Tiêu Phong vừa nghe đã run lên, ông lẩm bẩm:
- A Tử tuy là đứa tiểu tiện nhân khả ố, nhưng mình đã nhận lời ủy thác của A Châu, lẽ nào để cô ta chết ở dưới tay bọn qủy quái này? Chỉ sợ cô ta phải chịu những hình phạt còn thảm khốc gấp mười gã Xuất Trần Tử. Nếu mình thỏng tay bỏ mặc, thì yên tâm thế nào được?
Nghĩ vậy ông xoay mình trở lại, lằng lặng ẩn mình vào chỗ cũ.
Bỗng nghe A Tử đáp:
- Ðại ca! Tiểu Muội đả phạm vào lề luật của sư phụ. Ðiều đó tiểu Muội không dám cãi. Tiểu Muội xin hỏi đại ca còn muốn lấy lại chiếc đỉnh báu đó nữa không?
Trích Tinh Tử đáp:
- Ðó là một trong tam bảo của bản môn, lý đương nhiên là cần lắm chứ! Nhưng sao Tiểu Muội lại để lọt vào tay người một cách dễ dàng thế được?
A Tử nói:
Tỉ phu tiểu Muội là người tính nết rất quật cường, cái đỉnh đó tiểu Muội đưa cho y. Nếu tiểu Muội gặp y đòi thì thế nào y cũng phải để y nguyên lành lặn mà trả lại, chớ nếu người khác đến đòi thì đại ca thử tưởng tượng xem liệu y có chịu trả không?
Trích Tinh Tử "ồ" lên một tiếng nghĩ bụng:
- Thằng cha Kiều Phong trước đã làm Bang chúa Cái Bang, tiếng tăm lừng lẫy trên chốn giang hồ, e rằng y không chịu khuất phục dễ dàng bất cứ ai.
Gã nghĩ vậy liền đáp:
- Việc này khó mà nói trước được. giả tỷ cái bảo đỉnh đó mà bị sức mẻ rồi mới đưa về trả, thì tội trạng tiểu Muội còn nặng hơn một từng nữa.
Nếu các vị sư huynh tìm đến y để đòi lại vô luận thế nào y cũng không chịu trả đâu. Võ công đại ca dù cao cường đến bực nào đi nữa thì cũng đến giết y là cùng, còn việc lấy được lại đỉnh thì tật là muôn vạn khó khăn.
Trích Tử trầm ngâm một lát rồi hỏi:
- Theo ý sư Muội thì nên làm thế nào bây giờ?
A Tử nói:
- Ðại ca hãy tha tiểu Muội để một mình tiểu Muội đến Nhạn Môn Quan đòi tỷ phu trả bảo đỉnh đem về. Cái đó kêu bằng đem công chuộc tội. Có điều đại ca hứa với tiểu Muội sau khi lấy được đỉnh về đừng trách phạt tiểu Muội.
Trích Tinh Tử nói:
- Lời tiểu Muội nói nghe ra cũng có lý. Có điều Tiểu sư Muội làm thế là lột da hết cả mặt mũi ta mất rồi còn gì. Và từ đây trở đi ta không còn có thể làm người thừa kết phái Tinh Tú Hải nữa. Một khi ta lại buông tha tiểu Muội rồi, tiểu Muội xa chạy cao bay cùng tỷ phu để biệt tích, thì rồi ta biết đi đâu tìm tiểu Muội? Về việc tìm lấy cái bảo đỉnh này ta tưởng có chí thì nên. Gã họ Kiều kia vị tất đám phá đi. Ðiều cần nhất đừng tiết lộ những điều bí mật cho ai biết.
Ngừng dây lát, Trích Tinh Tử lại nói tiếp:
- Tiểu sư Muội! Sư Muội ra tay đi! Chỉ cần sư Muội đánh bại ta là đương nhiên thành người kế phái Tinh Tú, và ngược lại ta sẽ phải tuân theo hiệu lệnh của sư Muội. Khi đó Tiểu sư Muội sẽ thành đại sư mà ta đây là tiểu sư đệ.
Tiêu Phong nghe đến đây mới hiểu rõ là phái này xếp đặt trên dưới tùy theo võ công mạnh hay yếu, chứ không xếp theo thời kỳ nhập môn trước hay sau. Vì thế mà gã Trích Tinh Tử nhỏ tuổi lại được làm đại sư huynh, còn bao nhiêu đệ tử lớn tuổi hơn vẫn phải ở hàng sư đệ. Theo luật này sẽ đưa đến chỗ giữa ban đồng môn với nhau thường thường xảy ra giành nhau, tàn sát nhau, không kể gì đến tình nghĩa anh em.
Nhưng ông có biết đâu rằng lề luật này cũng đem lại một điều lợi cho mỗi đời chưởng môn, võ công lại cao lên một tầng. Oai quyền của Ðại sư huynh trong môn phái rất lớn nắm trong tay quyền sinh sát các sư đệ. Sư đệ nào không phục tòng y thì bất cứ lúc nào cũng có thể lấy võ lực ra phản kháng. Nếu kẻ làm sư đệ bị hại thì đại sư huynh đắc thắng, mà kẻ làm sự đệ dù bị đánh hay bị giết thế nào cũng đành chịu, không chống cự hay kêu ca vào đâu được. Trường hợp sư đệc đắc thắng thì lập tức nhẩy một bước lên làm đại sư huynh rồi đem xử tử gã đại sư huynh cũng được, chứ vị chưởng môn sư phụ đứng ngoài thỏng tay bỏ mặc, quyết không can thiệp.
Dưới lề luật này người nào cũng phải gắng sức cầu tiến.
Có điều bề ngoài ai nấy đều im lìm không tỏ vẻ gì hết có khi còn làm bộ võ công kém cỏi để cho đại sư huynh khỏi nghi kỵ.
Gã Xuất Trần Tử ỷ mình có sức mạnh ở cánh tay rất lợi hại.
Cây cương trượng của y đúc vừa dài vừa lớn, rất là trầm trọng, vì thế mà gã ở hàng bát sư đệ đã bị Trích Tinh Tử đem lòng ghen ghét, hễ có dịp nào là y mượn cớ để trừ khử ngay.
Ðồ đệ các phái khác thì chuyên chú luyện võ nghệ cho đến một mực nào đó nhứt định rồi dừng lại đó, không tiến thêm được nữa. Còn đồ đệ phái Tinh Tú thì không có ngày nào nhàn rỗi, phải luyện tập không dám chểnh mảng. Kẻ làm Ðại sư huynh thì sợ bọn sự đệ quay lại khiêu chiến với mình, còn kẻ làm sư đệ lại sợ Ðại sư huynh tìm đổ lên đầu mình những cuộc thí nghiệm để cho cuộc luyện võ được thành tựu. Ðại sư huynh mà không nắm chắc phần thắng thì không bao giờ dám gây hấn.
A Tử đã tưởng Trích Tinh Tử tha thiết vào cái bảo đỉnh không nở hại mình dè đâu gã không bị mắc vào tròng, mà lập tức đòi cô ta phải động thủ.
A Tử vừa nghe Trích Tinh Tử giục mình ra tay, thì cả kinh thất sắc. Cô thấy Xuất Trần Tử còn đang rên la hô hoán chưa chết đi được. Thâm trạng của gã sẽ đến với cô. Cô không biết làm thế nào run run nói:
- Chân tay tiểu Muội đều bị trói chặt làm sao động thủ được? Ðại ca muốn hại tiểu Muội mới bày ra cách này.
Trích Tinh Tử nói:
- Ðược lắm! Ta mở khóa chân tay cho sư Muội.
Gã nói xong phất tay áo một cái, một luồng hơi mạnh bắn vào đống lửa.
Ðống lửa xanh lè chia ra một giây nhỏ tựa như một tia nước chợt bắn vào chiếc khóa sắt trên tay A Tử.
Tiêu Phong nhìn rất rõ ràng:
Ðường tia lửa bắn đi đúng vào chỗ trong tay A Tử chứ không phải đốt cháy thân thể cô. Hơn nữa gã Trích Tinh Tử tự phụ võ công cao cường, địa vị cao qúy, quyết không muốn khuất uy tín trước mặt đồng môn. Võ công gã cao hơn A Tử rất nhiều cần gì hắn phải đánh lén. Có điều ông chưa biết nội lực gã ra sao, liệu có đốt gãy riêng cái khóa mà khỏi tổn thương đến cổ tay A Tử không?
Tiêu Phong còn đang suy nghĩ bỗng nghe thấy những tiếng xè xè.
Chẳng mấy chốc, hai tay A Tử đã giang ra được. quả nhiên cái khóa sắt đã gãy quãng giữa song còn lòng thòng móc dây xích ở trên tay.
Tia lửa vừa rồi đột nhiên rụt về, rồi lại bắn ra phía trước.
Nhưng lần nầy tia lửa nhằm chiếc chìa khóa sắt dưới chân A Tử vọt ra. Cũng chỉ trong khoảnh khắc, cái khóa sắt đã bị gãy rời .
Tiêu Phong ban đầu thấy tia lửa xanh lè nung khóa sắt ông không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, tưởng nội lực của Trích Tinh Tử cực kỳ ghê gớm. Ðến nổi tia lửa bắn vào xì chiếc khóa dưới chân. Lần này ông nhìn được rõ ràng hơn, thấy tia lửa bắn vào chỗ nào, lập tức khóa thay đổi màu sắc chỗ đó. Xem thế thì lửa này có điều chi quái lạ, chứ không phải là do nội lực mà ra.
Chân tay A Tử được tự do rồi, cô không còn cách gì chối từ được nữa mặc dầu cô là người tâm trí linh mẫn, song việc này không là điểu giảo quyệt để thoát khỏi đại nạn trước mắt.
Bỗng nghe bọn đồng môn thi nhau tán tụng Trích Tinh Tử.
Một gã nói:
- Bọn Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung gì gì đó, không dám xách giày cho đại ca.
Lại một gã nữa nói:
- Tiểu sư Muội! Sư Muội đã thấy kinh hồn chưa? Có điều đáng tiếc là tuy sư Muội biết hối nhưng đã muộn mất rồi.
Mỗi gã một câu bàn đi tán lại không ngớt.
Gã Trích Tinh Tử nghe lời xiềm nịnh ra chiều khoan khoái. Mặt gã hớn hở tươi cười, liếc mắt nhìn A Tử.
A Tử chỉ mong bọn chúng tán hoài để gã Trích Tinh Tử trì hoãn việc trừng phạt mình lúc nào hay lúc ấy.
Nhưng bọn chúng tâng bốc một hồi lâu cũng đâm nhàm.
Sau cùng không tìm được danh từ gì mới lạ để hót thêm nữa.
Lời tán tụng dần dần ít đi và rời rạc.
Trích Tinh Tử thủng thẳng nói:
- Tiểu sư Muội! Ra đòn đi thôi chứ!
A Tử nghĩ đến tình trạng Xuất Trần Tử bị thảm hình vừa rồi run lên hỏi:
- Tiểu Muội không ra đòn đâu!
Trích Tinh Tử hỏi:
- Sao sư Muội không chịu ra đòn? Ta xem sư Muội bản lãnh cũng khá đấy mà!
A Tử nói:
- Tiểu Muội không đánh nhau với đạ ca vì biết rõ mình đánh không lại, tội gì đánh cho mệt? Ðại ca muốn giết tiểu Muội thì giết phất cho rồi.
Trích Tinh Tử thở dài nói:
- Ta thực không muốn giết sư Muội. Một vị tiểu cô nương mặt đẹp như hoa, ta giết đi thật là đáng tiếc. Song biết làm thế nào? Thôi sư Muội ra đòn đi. Sư Muội giết ta rồi để mà làm đại sư tỷ. Trong phái Tinh Tú trừ sư phụ, còn ngoài ra sẽ đều phải theo mệnh lệnh của sư Muội hết.
A Tử nghiến răng nói:
- Dù tiểu sư Muội có đánh được, nhưng cũng nhất quyết không giết đại ca.
Trích Tinh Tử hỏi:
- Sao vậy?
A Tử đáp:
- Vì... vì tuổi Muội rất thương yêu đại ca.
Trích Tinh Tử nghe cô nói câu này, bổng run lên.
Tiêu Phong trong lòng cũng không khỏi chấn động vì không ngờ cô dám nói trắng trợn như vậy.
Bọn đệ tử đưa mắt nhìn nhau, không ai dám hé môi hé lợi, chúng ra mắt ngó dưới đất, không dám nhìn Trích Tinh Tử để khỏi rước họa vào thân.
Sau một lúc đột nhiên Trích Tinh Tử cười nói:
- Sư Muội còn nhỏ tuổi thế đã biết gì mà nói đến chuyện yêu thương với chẳng yêu thương? Ta đã có vợ rồi, tiểu Muội chưa hay sao?
A Tử đáp:
- Ðại ca là bậc anh hùng hiên ngang, võ công cao cường. Có vợ hay không phỏng có can gì? Tiểu Muội... tiểu Muội vẫn thương yêu đại ca.
Trích Tinh Tử thở dài nói:
- Giả tỉ tiểu Muội không phải tội này thì ta thà làm tiểu tinh cũng chẳng hề chi. Nhưng giờ... Ta có thương tiểu Muội cũng không thể giúp được. Thôi tiểu Muội ra đòn đi!
Trích Tinh Tử nói xong phất tay áo một cái, một luồng kình phong vụt tới đống lửa.
Một giây lửa từ từ bắn lại chỗ A Tử, dường như không muốn giết cô ta ngay, nên khiến tia lửa đi rất chậm.
A Tử sợ quá kêu lên rồi nhảy tránh về phía hữu hai bước.
Tia lửa lại đến bức bách, A Tử phải lùi thêm một bước nữa thì sau lưng cô đã giáp tảng đá lớn, phía sau có Tiêu Phong ẩn nấp.
Trích Tinh Tử lại vận nội lực cho tia lửa đó đi gần lại thêm nhưng xương sống A Tử đã sát vào tảng đá lớn, không còn đất lùi.
A Tử toan nhảy sang bên, song Trích Tinh Tử huy động tay áo, hai luồng kình phong chia ra bao vây hai bên tả hữu, khiến cô ta không còn né tránh được, mà phía trước mặt thì tia lửa đã gấn tới nơi.
Tiêu Phong biết tia lửa xanh lè này chạm vào người cô ta là lập tức sém da cháy thịt.
Ông thấy tia lửa cách mặt cô không đầy hai thước rồi cứ xích gần mãi lại, liền khẽ bảo:
- Cô đừng sợ! Tôi đến giúp cô đây!
Vừa nói vừa giơ tay ra che lấy lưng cô rồi nói tiếp:
- Cô vận chưởng lực nhắm vào tia lửa mà đánh ra!
-
Hồi 43 - Tiêu Phong Ám Trợ Tiểu Cô Nương - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 43 - Tiêu Phong Ám Trợ Tiểu Cô Nương
A Tử đang hồn lạc phách xiêu, đột nhiên nghe tiếng Tiêu Phong, thì không khác gì vớ được cứu tinh từ trên trời sa xuống.
A Tử không suy nghĩ gì nữa, vung chưởng đánh ra.
Lúc đó Tiêu Phong đã truyền nội lực mình vào thân thể nàng.
A Tử phóng chưởng lực ra, kình lực rất hùng hậu khiến cho tia lửa xanh lè phải co lại hai thước.
Trích Tinh Tử giật mình, vì gã yên trí rằng A Tử khác nào như cá nằm trong thớt, chỉ cần việc thi triển nội công phóng tia lửa đến trước mặt nàng quay đi quay lại mấy vòng cho nàng hết hồn, rú lên những tiếng kinh khủng trước mặt bọn đồng môn để dương oai với chúng một hồi rồi mới giết nàng.
Ngờ đâu cô bé A Tử, tuổi còn măng sữa, mà nội lực đã ghê gớm đến thế, thật là một sự đột ngột khiến cho Trích Tinh Tử phải sửng sốt.
Nguyên những đồ đệ phái Tinh Tú sau khi được sư phụ truyền võ công cho rồi, ai nấy tự rèn luyện lấy cho mình, nên trình độ ai đến mực nào, nếu không được mục kích lúc lâm địch, hoặc lúc bạn đồng môn tranh đấu để tài hại nhau, thì không thể nào biết được.
A Tử phóng ra một chưởng đẩy lui được tia lửa co về khiến cho mọi người phải la lên một tiếng kinh ngạc, nhưng không một ai ngờ nàng có người ám trợ, mà đều do A Tử có thiên tư thông tuệ khác thường và đã ngấm ngầm rèn luyện nội lực đến độ cực kỳ thâm hậu.
Trích Tinh Tử vận nội lực thúc đẩy tia lửa lại nhằm mặt A Tử lướt tới.
Lần này gã dùng sức rất mạnh xẹt nhanh như chớp.
A Tử la lên:
- Úi chà!
Rồi không biết làm thế nào để chống lại được, nàng liền né sang một bên để tránh.
May mà kình lực Trích Tinh Tử phóng vào tia lửa để cho nó đổi chiều nên đã giảm sút.
Tia lửa phóng thẳng vào phiến đá "xèo xèo."
Tiêu Phong khẽ bảo:
- Phóng chưởng bên trái ra để cắt đứt tia lửa đi!
A Tử nói:
- Cách đó tuyệt diệu!
Một luồng chưởng lực phóng ra đánh tạt ngang. Chưởng phong vừa đến nơi, lửa xanh lè lập tức bị đứt đội.
Mẩu cước không có hậu lực nối tiếp chỉ cháy được một lúc trên phiến đá rồi lụi đi dần dần.
Trích Tinh Tử nghĩ thầm:
- Nếu mình để mẩu lửa kia tắt ngấm tứ làm ình bị thua một trận trước mặt bọn sư đệ thì còn chi là nhuệ khí?
Nghĩ vậy gã lại dồn chưởng lực cho tia lửa bên ngoài lướt tới tảng đá để tiếp ứng nối liền với mẩu đầu tia lửa bị đứt ra.
A Tử thấy bàn tay Tiêu Phong đặt trên lưng mình vẫn dồn nội lực cuồn cuộn vào cho mình không ngớt, chẳng khác sông lớn nước nhiều, cứ tràn đầy vào trong người. Nếu không phát tiết nội lực ra thì cái thân bé nhỏ của mình không đủ chỗ chứa, đến phải căng thẳng rồi nổ tung.
Nàng liền vung tay phải phóng chưởng ra.
Nội lực của Tiêu Phong thâm hậu vô cùng, tuy trút sang người A Tử sức mạnh đã giảm đi vài phần, song nếu nàng khép vận dụng để đánh Trích Tinh Tử trong lúc bất ngờ thì chỉ một đòn là có thể thú thắng.
Nhưng vì nàng còn hoảng hốt, chưởng của nàng phóng ra hời hợt, không được trầm trọng và đúng mức như lúc bình tĩnh.
Chưởng phong phát ra vù vù làm tắt phụt tia lửa nhỏ bé chứ chưa tổn hại gì đến nội lực Trích Tinh Tử.
Thấy A Tử phóng chưởng ra đánh tắt tia lửa thần, các đồ đệ phái Tinh Tú đều khiếp vía, nhìn nhau thất sắc.
Chỉ có gã thất sư đệ ngu ngốc chẳng biết gì, đã gặp lúc này mà gã kiếm lời tán tụng Trích Tinh Tử.
Gã nói:
- Ðại ca! Công lực của đại ca thật là hùng hậu, ngọn chưởng của sư Muội phóng ra chẳng qua đánh tắt ngọn lửa thần là cùng, làm cóc gì được đại ca!
Mấy câu này gã nói thực tình để phỉnh phờ nịnh hót.
Trích Tinh Tử lại tưởng lầm câu nói xỏ xiên.
Gã điên tiết lên, đột nhiên phất tay một cái, tia lửa xanh lè vọt ra như tên bắn vào mặt thất sư đệ.
Tia lửa chỉ chạm vào mặt gã một cái xong lại co về ngay thế mà đã bị cháy bỏng, hai tay ôm mặt, gã lăn xuống đất, kêu thét lên như bị chọc tiết.
Tiêu Phong khẽ bảo:
- Thằng cha Trích Tinh Tử này bị bại một đòn đã thẹn quá hoá ra rồi, cô phải cẩn thận lắm mới được.
Ông tập trung hẹp tiếng nói thành một dãy như tia nước rót vào A Tử.
Trích Tinh Tử tuy nội lực gớm ghê là thế cũng không nghe thấy trông chi bọn sư đệ thì còn biết sao được.
Tiêu Phong vừa dứt lời quả nhiên thấy Trích Tinh Tử trừng trị thất sư đệ, lại phóng chưởng đánh xéo đi cho tia lửa bắn sang phía A Tử.
Lần này tia lửa lớn hơn lần trước nhiều, thanh thế dữ dội, phát ra tiếng vù vù vàsáng rực lên soi rõ cả mặt mũi A Tử lẩn tảng đá nàng dựa vào.
A Tử sợ tia lửa sáng quá chiếu rỏ cả đến Tiêu Phong nấp ở sau tảng đá, nàng liền nghiêng người đi phóng chưởng ra để chân tia lửa không cho tiến gần lại nữa.
Tia lửa xanh lè bị chưởng lực A Tử ngăn chặn, không tài nào phóng thêm vào phía trước được nữa rồi cứ lơ lửng ở nguyên một chỗ cố ló dài thêm được lên một tấc thì phải co về đến hai tấc ngay.
Tia lửa xanh không đứng yên được, luôn luôn phóng ra co lại, khác nào con trường xà (rắn dài) sắc xanh ngoe nguẩy trên không gian lúc đêm tối, hình dáng vừa rực rỡ vừa huyền ảo.
Trích Tinh Tử dồn chưởng lực luôn ba lần đều bị A Tử ngăn chặn khiến cho ngọn lửa phải lùi lại. Bất giác gã vừa phải nóng ruột vừa phần căm giận, lại thúc đẩy chưởng lực luôn hai lần nữa, mà tia lửa vẫn không tiến lên được.
Ðột nhiên một ý nghĩ thoáng qua làm cho Trích Tinh Tử phải lạnh xương sống, gã lẩm bẩm:
- Dư lực của con... con lỏi này làm sao mãi không hết? Dường như nó định trêu chọc ta. Chẳng lẽ sư phụ có lòng thì tự ngấm ngầm đem kỹ thuật rối thượng của bản môn truyền thụ cho nó.
Thôi ta... ta mắc vào tròng của nó rồi.
Gã nghĩ đến đây, trong lòng hoang mang trống rỗng, chưởng lực trong tay bất giác giảm yếu đi. Con "Trường xà" xanh lè nhanh như điện chớp thụt lùi về đống lửa.
Trích Tinh Tử đột nhiên quát lên:
- Chẳng lẽ ta lại sợ mi?
Dứt tiếng quát, gã lại gia tăng chưởng lực làm cho ngọn lửa to bằng cái đầu, khác nào một trái hỏa cầu xông lại phía A Tử.
A Tử thấy thế nguy, phóng ra một chưởng nhưng không ngăn nổi trái hỏa cầu cứ lù lù xông tới, nàng vội phóng cả chưởng lực tay trái ra mới chặn lại được.
Trái hỏa cầu ở trên không tuy không tiến thêm được, nhưng vẫn lúc lắc xoay chuyển mau lẹ vô cùng.
Bọn đệ tử thấy thế đều cất tiếng reo hò trầm trồ.
- Nào là công lực đại ca quả là thần diệu vô cùng! Phen này thì con tiểu tiện nhân sẽ phải nát ra như cám!
Nào là:
- Tiểu sư Muội ơi! Ðừng hung hăng nữa! Chịu thua sớm đi may ra đại ca còn để sống.
A Tử không sao trấn tĩnh được, thúc đẩy chưởng lực liên miên.
Chưởng lực của Tiêu Phong tu cực kỳ hùng hậu nhưng truyền vào cho nàng dù sao cũng chỉ là thứ nội lực ngoại lai nên kém phần mãnh liệt đầu có bằng được thực lực của chính mình nên lúc nàng vận tung thứ nội lực mượn của người ngoài này không được thuần thục.
Trích Tinh Tử cùng A Tử đôi bên cầm cự nhau một hồi thì gã phát giác chỗ nhược điểm của nàng nghĩ thầm:
- Con tiểu tiện nhân này được sư phụ đặc biệt chiếu cố rèn luyện võ công cho nó đã đến mức tuyệt vời, chẳng kém gì mình. Có điều phóng chưởng ra không đủ thanh thế chỉ một mức thúc đẩy về phía trước, để hai ben sơ hở khá nhiều. May mà nó mắc vòng tội lỗi, mình sớm phát giác ra nếu không thì chỉ trong vòng ba bốn năm nữa, trưởng pháp nó rèn luyện đên nơi đến chốn, lúc bấy giờ mình chết không có chổ chôn.
Nghĩ tới đó gã bất giác nhíu cặp lông mày đưa ngón tay trỏ ra luôn hai cái.
Ðống lửa phát ra tiếng "xùy xùy" rồi những tia lửa vọt ra mấy vòng hoa.
Những bông hoa lửa này khác nào những ánh sao chia ra xông hai bên tả, hữu A Tử nhanh như chớp.
A Tử la lên:
- Úi chà!
Nàng chưa biết làm thế nào, chưởng lực lại vướng vào việc ngăn chặn trái hỏa cầu, không rảnh tay để đẩy lui hai đóa hoa lửa.
Nàng đành né người sang bên để tránh.
Song Trích Tinh Tử lúc ra kêu công kích đã tính trước đối phương không còn cách nào khác bài cách né tránh sang bên.
Gã chỉ cần đóa hoa lửa làm cháy xém người A Tử dù không hại được tính mạng nàng, nhưng da thịt bị cháy xém đau đớn, cũng làm cho nội lực nàng phải giảm sút, rồi bấy giờ gã sẽ phóng hai đóa hoa nữa tới tiếp tục đốt thêm, thì quyết nàng không chịu nổi, còn hơi sức đâu nữa để công kích?
Gã vừa thấy A Tử né tránh, lại vận nội lực thúc đẩy cho đóa hoa lửa phóng tới.
Tiêu Phong khẽ la lên:
- Thôi hỏng rồi!
Ông biết A Tử không còn sức chống đỡ được nữa liền vung hai tay lên, hai luồng chưởng lực từ từ phóng ra.
Bỗng thấy lúc thân hình A Tử chuyển động, hai đầu dây lưng nàng cũng bay phất phơ tung lên quạt xuống.
Hai đóa hoa lửa bay vụt trở lại phía Trích Tinh Tử.
Gã sợ quá đứng thộn mặt ra một dây thì đóa hoa lửa đã bắn ngược trở lại đến nơi.
Gã chỉ kịp kêu lên một tiếng:
- Ối chao!
Rồi nhảy vọt lên tránh. Ðóa hoa lửa chui qua gầm chân gã bay đi.
Hai tên sư đệ reo lên:
- Tuyệt diệu! Bản lãnh đại ca thật là tuyệt diệu!
Tiếng reo chưa dứt thì đóa hoa lửa thứ hai lại bay tới trước Trích Tinh Tử.
Trích Tinh Tử còn đang lư lửng trên không, không tài nào lại nhảy lên được nữa, bị đóa hoa đốt xém bụng.
Gã lại rú lên một tiếng rồi hạ mình xuống.
Nguyên Tiêu Phong thấy Trích Tinh Tử lúc nãy mở miệng nói xúc phạm đến A Châu nên ông mới trừng phạt sơ qua bằng cách đó.
Trích Tinh Tử vừa đặt chân xuống đất, thì trái hỏa cầu cũng trở về đồng lửa.
Tử lúc đó bọn đệ tử phái Tinh Tú nhìn A Tử bằng con mắt kinh và trong bụng ai nấy đều nghĩ thầm:
- Công lực của tiểu sư Muội quả là ghê gớm, đại sư huynh vị tất đã thắng nổi nàng. giờ mình có hò khen ngợi Ðại sư huynh không nên rầm rộ quá nữa.
Trích Tinh Tử giơ hai tay lên, rỡ búi tóc ra cho buông xỏa xuống mặt đi, rồn cắn đầu lưỡi phun máu tươi vào đống lửa.
Ðống lửa tối lại rồi đột nhiên ngọn lửa lại sáng bùng lên soi lóa mọi người khiến không ai mở to ra được.
Bọn sư đệ lại nức nở khen:
- Công lực đại ca thật là ghê gớm, khiến cho chúng tôi được mở tầm mắt!
Trích Tinh Tử đột nhiên chạy quanh co chừng độ mười vòng rồi cầm tay áo một cái, cả đống lửa hất tung lên như một bức tường ánh lửa xông lại đè ập xuống A Tử.
Gã ngưng tụ hết nội lực đánh đòn nàng.
Tiêu Phong vừa nhìn thanh thế trận này của Trích Tinh Tử đã biết đây là một tà thuật lợi hại vô cùng, nếu mình vận động huyền công phá thì chẳng những công lực đối phương không giảm sút đi, mà ngược lại bị hao tổn rất nhiều. Gã này tuy đại gian ác, song không có oái oán gì với mình, tội gì ra mặt tranh đấu.
Nghĩ vậy ông xoay bàn tay lại nắm lấy lưng A Tử toan nhấc bổng nàng lên rồi cứ thế đem đi, chắc Trích Tinh Tử cũng không thể đuổi kịp được.
Bỗng thấy A Tử la lên:
- A Châu tỉ nương ơi! Ðứa em ruột thịt độc nhất rất thân ái của Muội người ta khinh mạn thế này đây! Tỉ nương có linh thiêng thì báo thù cho em.
Tiêu Phong ngạc nhiên nghĩ thầm:
- Sao cô này lại hô hoán A Châu? Ta làm thế nào đi được bây giờ.
Tiêu Phong ngẫn người một lát, đám lửa xanh quay lại rất mau sắp đè ập vào người A Tử, thật là một mối nguy cơ chỉ còn khe sợi tóc.
Bây giờ dù Tiêu Phong có muốn nắm A Tử chạy trốn cũng không kịp nữa, ông bất giác cả kinh nghĩ thầm:
- Gã này nội công quả là ghê gớm mới phóng ngọn lửa đến mau thế được, mình thật không ngờ.
Vì việc cứu A Tử gấp, ông liền phóng cả hai chưởng ra.
Hai luồng kình lực như gió bão.
Kình lực của Tiêu Phong đã nhằm vào bức tường lửa xanh lè đẩy mạnh.
Ðám lửa ở trên không ngừng lại một chút rồi từ từ lui về phía Trích Tinh Tử.
Trích Tinh Tử sợ quá lại cắn đầu lưỡi phun máu tươi vào.
Ðám lửa sáng rực lên bay về phía trước.
Nhưng mới tiến được chừng hai thước lại bị nội lực của Tiêu Phong đẩy ngược trở về.
Bọn đệ tử thấy tay áo A Tử kình phong thổi phồng lên khác nào cánh buồm thuận gặp gió , đều cho là nội lực của tiểu sư Muội này mãnh liệt đến cùng cực, chúng biết đâu rằng sau lưng cô còn có người ngoài.
Trích Tinh Tử lúc này sắc mặt lợt lạt, phun luôn mấy lần máu tươi vào đám lửa.
Mỗi lần phun máu ra là công lực lại bị giảm đi một ít.
Nhưng bây giờ gã đã thành thế cưỡi hổ, không thể xuống được nữa đành phải liều mạng đến cùng.
Gã định cố đốt chết A Tử rồi lập tức rởi khỏi nơi đây tìm chổ tu luyện lại nguyên khí. Không thế thì để bọn sư đệ nhìn rõ nhược điểm của mình, biết đâu chúng không thừa cơ hội này quay ra khiêu chiến với mình. Nhưng việc trước mắt là phải thanh toán xong A Tử đã rồi sẽ liệu.
Mình đang ở vào thế bị cháy lông mày, hãy tìm cách cứu nguy trước mắt, còn bao nhiêu việc khác hãy tạm gác lại!
Trích Tinh Tử không ngớt phun máu ra, song bị nội lực cực kỳ hùng hậu của Tiêu Phong đẩy lại thì đám lửa làm sao mà tiến lên được?
Tiêu Phong trong lúc đấu kình lực đã phát giác ra hàn khí đối phương mỗi lúc một thêm suy yếu, khác nào đèn khô dầu, liền khẽ bảo A Tử:
- Cô bảo gã nhận thua đi thôi đừng đấu nữa!
A Tử nghe lời, cất tiếng gọi:
- Ðại sư huynh! Ðại ca không đấu lại được với tiểu Muội đâu. Ca quỳ xuống van xin, tiểu Muội không giết đại ca đầu. Ðại ca nhận lời đi! Ðại ca nhận thua đi!
Trích Tinh Tử trong lòng hoảng hốt lạ thường, biết rằng tính mạng nguy đến nơi rồi, nghe A Tử bảo vậy liền gật đầu.
A Tử nói:
- Sao đại ca không mở miệng? Ðại ca không nói ra tức là không chịu thua.
Trích Tinh Tử lại gật đầu lia lịa nhưng vẫn không nên tiếng.
Nguyên gã đang phải vận toàn lực để chống lại nội lực của Tiêu Phong. Nếu gã mở miệng ra không giử được nữa, ngọn lửa sẽ lập tức lại đốt chết mình ngay.
Bọn sư đệ thấy Trích Tinh Tử lâm vào tình trạng cực kỳ nguy hiểm lại đua nhau lên tiếng mắng nhiếc.
Có kẻ nói:
- Trích Tinh Tử! Mi thua rồi sao không quỳ xuống dập đầu?
Có gã nói:
- Ðồ bị thịt! Thế mà cũng học đòi định làm thừa kế phái Tinh Tú để xấu mặt cả môn phái!
Có gã nhiếc móc:
- Ngày thường mi làm tàng với bọn ta lắm, gây bao nhiêu thảm hai cho anh em! Bây giờ tiểu sư Muội ra tay là mi phải tan xác!
Thật là một đám người đê tiện quen thói dậu đổ bìm leo. Chúng thấy Trích Tinh Tử sắp thất bại đến nơi liềm tìm đủ điều nhục nhã độc sĩ mạgã như tát nước vào mặt.
Tiêu Phong nghĩ thầm:
- Tinh Tú lão ma thu toàn hạng đệ tử chẳng có nhân cách gì hết, thì làm sao mà luyện được thành những tay có võ công cao siêu? A Tử từ thuở nhỏ đã nhập hàng ngũ với bọn này, thì dĩ nhiên tư cách cũng đê tiện như thế.
Vừa mới lúc nãy gã nào cũng xu mị Trích Tinh Tử một điều đại ca, hai điều đại ca tán dương nứt lời, tựa hồ như trên trời dưới đất không còn có ai bằng gã, một vị đại anh hùng vô địch trên thế gian mà bây giờ đã coi đại sư huynh không bằng tuồng chó lợn.
Tiêu Phong thấy Trích Tinh Tử sỡ hãi quá, ông cho là mình trừng phạt thế là quá đủ, liền thu nội lực về, hai tay áo A Tử rũ xuống.
Trích Tinh Tử vẻ mặt lu sìu, người gã loạng choạng, đột nhiên hai gối mềm nhủn, ngồi phệch xuống đất.
A Tử hỏi:
- Ðại ca! Ðại ca làm sao thế? Ðã chịu phục tiểu Muội chưa?
Trích Tinh Tử khẽ ấp úng:
- Tôi chịu thua rồi! Sư tỉ.. Sư tỉ... đừng kêu tôi bằng đại ca nữa. Bây giờ sư Muội đã thành đại sư tỉ chúng tôi rồi!
Gã vừa nói câu này bọn đệ tử reo hò vang dội.
Nào là:
- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Võ công đại sư tỷ thật là anh hùng quán thế. Phái Tinh Tú ta có người thừa kế như đại sư tỉ, tiếng tăm sẽ lừng lẫy khắp thiên hạ!
Nào là:
- Ðại sư tỉ! Ðại sư tỉ đi giết ngay mấy tên "Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung" gì gì đo, để cho phái Tinh Tú ta thành phái độc tôn ở Trung Nguyên.
Bỗng có kẻ bác ngay:
- Ngươi nói lăng nhăng gì thế: "Bắc Kiều Phong" đã là tỉ phu đại sư tỉ sao lại giết được?
Gã kia cãi:
- Giết được lắm chứ sao lại không? Trừ khi hắn biết điệu đến hàng phái Tinh Tú ta, cam chịu thua kém.
Tiêu Phong đứng sau tảng đá, nghe bọn chúna tức lại vừa buồn cười.
A Tử bỗng lên tiếng kẻ cả:
- Các ngươi làm gì mà rần lên thế? Hãy im miệng ngay!
Ðoàn này quay sang hỏi Trích Tinh Tử:
- Ðại sư huynh! Vừa nãy tiểu Muội năn nỉ đại sư huynh tha mạng. Nhưng đại sư huynh lòng lang dạ thú không chịu tha cho, bây giờ đại sư huynh tính sao đây?
Trích Tinh Tử nói:
- Tôi... Tôi đáng chết lắm! Ðại sư tỉ bảo đem lòng yêu tôi, tôi thà về nhà giết vợ để cùng đại sư tỉ kết nghĩa phu thê, vĩnh viễn tuân theo mệnh lệnh của sử tỉ không bao giờ dám trái ý.
Bọn đệ tử nghe Trích Tinh Tử nói mấy câu này đều đứng im thin, ngơ ngác nhìn nhau và đều nghĩ thầm:
- Thôi chết rồi! Sư Muội đã bảo đem lòng thương yêu đại sư huynh. Bây giờ y về giết vợ con để lấy cô này làm chánh thất, chắc cô ta sướng quá! Họ lấy nhau rồi thì hai người như một, ai làm thừa kế phái Tinh Tú cũng vậy. Mình vừa lên tiếng sỉ mạ tất sẽ bị trị tội.
Gã thất sư đệ từ lúc bị Trích Tinh Tử đốt mặt bị đau đớn vô cùng, bây giờ đã bớt một chút, lại kiếm lời tấn công.
Gã lớn tiếng nói:
- Phải rồi! Ðại sư tỉ sánh duyên cùng đại sư ca, thật lang tài nữ đẹp đôi nhất đời. Trong võ lâm ai chẳng khen sao? Nếu trên đời đại sư ca là bậc nhân tài xuất chúng còn ai đáng sánh vai được đại sư tỉ.
Một gã khác cướp lời:
- Ðại sư tỉ! Ðại sư huynh tuy võ công kém đại sư tỉ đôi chút nhưng hiện nay ở trên thế gian ngoàiy ra không còn người thứ hai nào nữa. Từ đây y nhứt định phải tuân theo mệnh lệnh của đại sư tỉ khi nào dám phản bội? Ðiều này tiểu đệ xin hết sức bảo đảm.
Một gã khác nói:
- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu!!Sau này hai vị sinh con, lý đương nhiên thành người thừa kế cho phái Tinh Tú và từ đây cứ truyền tử nhược tôn muôn đời không dứt. Ðó cũng là một đại hảo sự trong võ lâm.
Bọn đệ tử đua nhau mỗi người một câu, tìm không thiếu chi danh từ tốt đẹp nịnh bợ, cốt làm vừa lòng A Tử và Trích Tinh Tử.
Tiêu Phong ở phía sau tảng đá nghĩ thầm:
- A Tử đã thương yêu Trích Tinh Tử, bây giờ nàng lấy gã cũng là thiên duyên tác hợp dựng nên đôi lứa. Nếu gã không phải là người cùng phái Tinh Tú với nàng thì còn ai nhịn được những câu ti tiện hạ cấp đó?
Ông nghĩ vậy đưa mắt nhìn A Tử thấy nàng cười hì hì tỏ ra rất hoan hỉ, ông lẩm bẩm:
- Ðây là nàng tự nguyện như vậy, mà ta đối với A Châu cũng hết trách nhiệm. Từ đây nàng đã có nơi nương tựa, ta bất tất phải săn sóc gì đến nàng nữa.
Tiêu Phong muốn đứng dậy ra đi, bỗng nghe A Tử nói:
- Ðại ca! Ðại ca thật tình yêu thương Muội hay chỉ là sự bất đắc dĩ phải giết vợ con để lấy tiểu Muội?
Trích Tinh Tử vội đáp:
- Thật lòng. Tôi thật lòng như vậy. Nếu có chút giả dối thì trời tru đất diệt, chẳng được chết yên lành.
Bọn đệ tử lại đồng thanh phụ họa. Một tên nói:
- Tôi xem đại ca đúng là chân tâm. Một nhân tài như đại sư tỉ thì ai chả them khát, chỉ sợ cầu không được, lý nào còn chẳng chân tâm?
Tên khác nói:
- Ðại sư huynh giết sư tẩu, nếu không tiện tự mình ra tay thì để tiểu đệ đại lao cho.
Một gã khác cướp lời:
- Thôi đi! Lý nào đại ca lại không dám hạ thủ. Y đối với đại sư một lòng thành thực, đương nhiên tự mình ra tay hạ sát người vợ kia mới phải. Ngươi nói khó nghe lắm?
A Tử hỏi:
- Vừa rồi tiểu Muội cầu đại ca tha mạng, sao đại ca không chịu?
Trích Tinh Tử ấp úng:
- Cái đó... là tôi muốn nói rỡn với đại sư tỉ....
Nguyên Trích Tinh Tử vửa đấu với Tiêu Phong một hồi nội lực gã kiệt quệ. Bây giờ ngay bọn đệ tử kia bất luận là ai khiêu chiến gã không chống nổi. Chỉ còn cách hi vọng A Tử tha mạng cho, rồi đến lúc khôi phục lại được nguyên khí mới quay về tìm cách thanh toán sau này.
A Tử hỏi:
- Theo thể lệ của bản môn thì người thừa kế sau đối với người thừa kế trước phải thế nào?
Trích Tinh Tử toát mồ hôi trán nhỏ xuống ròng ròng run lên đáp:
- Ðại sư tỉ! Xin đại sư tỉ...
A Tử cười khanh khách nói:
- Tiểu Muội thật tình muốn tha sư huynh, nhưng tiếc rằng thể phản bản môn không thể để bị phá hoại vì tay tiểu Muội. Ðại ca! Lúc này tiểu Muội thương yêu đại ca thật, nhưng bây giờ càng thấy tư cách đại ca lại ngán lắm rồi! Ðại ca có biết không?
Trích Tinh Tử cuối đầu nói:
- Vâng vâng.
- A Tử giục:
- Ðại ca ra chiêu đi! Có bao nhiêu bản lĩnh xin đem hết ra đi để tỉ phu tỉ thí với tiểu Muội.
Trích Tinh Tử biết mệnh vận mình đã quyết định rồi năn nỉ gì nữa. Gã ngưng tụ nội lực vào hai bàn tay rồi phóng chưởng ra đống lửa. Ngờ đâu gã đã kiệt lực, hai chưởng phóng ra rồi, đống lửa xanh lè chỉ hơi nhúc nhích rồi yên tĩnh trở lại.
A Tử cười nói:
- Hay quá! Thật là hay quá! Sao pháp thuật của đại ca không ứng nghiệm nữa?
Nàng bước lên hai bước, vung chưởng đánh ra, một tia lửa danh bắn vào Trích Tinh Tử. Nội lực nàng cũng bình thường thôi, tia lửa chẳng lấy gì làm mạnh lắm.
Song lúc này Trích Tinh Tử không còn một chút lực lượng nào để chống đỡ, ngay gã muốn thí triển khinh công để chạy trốn cũng không còn đủ khí lực.
Tia lửa bắn vào người Trích Tinh Tử, chỉ trong chớp mắt là đầu tóc cùng áo quần gã cháy bùng lên.
Gã rú lên những tiếng cực kỳ thê thảm rồi toàn thân bị tràn ngập dưới ngọn lửa xanh.
Bọn đệ tử lại reo hò vang dội, đua nhau khen công lực đại sư tỉ đã đến chỗ xuất phàm nhập thánh đáng thay thế cho một kẻ bại hoại để làm thừa kế phái Tinh Tú và tạo phúc cho đồng môn.
Tiêu Phong tuy trải qua không biết bao nhiêu cảnh thảm khốc hung tàn trên chốn giang hồ, song ông thấy A Tử, con người diễm lệ khả ái mà làm việc hiệm độc đế thế thì nghĩ thầm:
- Nếu chính mắt mình không trông thấy, thì dù ai nói cũng không tin.
Trong lòng ông chán nản cuộc đời không biết đến đâu mà nói.
Ông thở dài thường thượt rồi cất tiếng bước ra đi.
A Tử bỗng cất tiếng gọi:
- Tỉ phu! Tỉ phu! Ðừng chạy nữa, hãy chờ em một chút!
Tiêu Phong nghe tiếng A Tử gọi, song không trả lời cứ ngang nhiên ra đi.
Các đệ tử phái Tinh Tú thấy từ sau tảng đá lớn có người xuất hiện một cách đột ngột thì không khỏi kinh ngạc.
Sau chúng nhận ra chính là Tiêu Phong lại càng sợ mất mật.
A Tử lại reo lên:
- Tỉ phu! Tỉ phu đợi em đi!
Vừa réo vừa chạy đến bên Tiêu Phong.
Giữa lúc ây tiếng Trinh Tinh Tử rên la càng lớn, gã hét lên như còi đang dội cả một khu rừng núi, nghe rất chói tai.
Tiêu Phong chau mày, gắt gỏng hỏi A Tử:
- Cô theo tôi làm chi? Cô đã trở nên thừa kế phái Tinh Tú, thứ vị một bậc đại sư tỉ bao nhiêu môn đồ trong phái còn chưa mãn nguyện hay sao?
A Tử cười đáp:
- Không được.
Rồi nàng hạ thấp giọng xuống nói:
- Cái chức đại sư tỉ hàm hồ lắm, có ăn thua gì đâu? Tỉ phu! Em mang đi với tỉ phu ra ngoài ải Nhạn Môn Quan.
Tiêu Phong nghe tiếng Trích Tinh Tử kêu la, không muốn chần chờ nữa, rải bước tiến về phía Bắc.
A Tử sánh vai cùng ông vừa đi vừa quay đầu lại gọi:
- Nhị sư đệ! Ta có việc phải ngược lên miền Bắc. Các sư đệ quanh đây chờ ta về, không được thiện tiện bỏ đi, đã nghe rõ chưa?
Bọn đệ tử nhất tề chạy theo mấy bước, khom lưng kính cẩn. Một lời nói:
- Tiểu Muội xin kính cẩn vâng pháp chỉ đại sư tỉ! Bọn sư đệ đâu dám trái lệnh.
Sau gã này, nhưng gã kia thi nhau tán tụng.
Nào là:
- Kính chúc đại sư tỉ thượng lộ bình an.
Nào là:
- Kính chúc đại sư tỉ mọi sự như ý.
Nào là:
- Kính chúc đại sư tỉ mở cờ chiến thắng, ngựa tới thành công.
A Tử vẫy tay mấy cái ra chiều hớn hở tươi cười.
Tiêu Phong nhờ ánh tuyết nhìn rõ trên khuôn mặt trái xoan đầy vẻ con nít vui tươi như khi được cái đồ chơi mới hoặc được ăn kẹo. Nếu không chính mắt mình trông thấy thì chẳng ai dám tin là nàng vừa mới hạ độc thủ sát hại đại sư huynh và lên ngôi thừa kế một tà phái lớn trong thiên hạ.
Tiêu Phong khẽ thở dài, chán ngán cho cuộc đời vô vị ở nơi trần tục.
A Tử hỏi:
- Tỉ phu! Sao tỉ phu lại thở dài? Phải chăng vì tiểu Muội quá tinh nghịch?
Nàng cho việc giết người vừa rồi chỉ là một chuyện tinh nghịch.
Tiêu Phong nói:
- Việc đó sao gọi là tinh nghịch được mà chính là một việc tàn nhẫn rất hung ác. Bọn đàn ông lớn tuổi chúng ta phạm vào thì chẳng có chi đáng kể. Cô nương là một cô gái nhỏ tuổi sao đã độc ác đến thế?
Ngừng một lát ông lại nói móc:
- Cô biểu cô yêu thương gã đại sư huynh cô. Sao còn đốt chết gã?
A Tử lấy làm lạ hỏi lại:
- Tỉ phu biết rồi cố ý hỏi chơi hay là chưa biết thật?
Nói xong nàng ngoẹo đầu nhìn Tiêu Phong với vẻ mặt tò mò.
Tiêu Phong nói:
- Tôi không biết mới hỏi chứ.
A Tử nói:
- Thế mới lại càng kỳ nữa! Tại sao tỉ phu lại không biết? Cái chức đại sư tỉ của tiểu Muội là giả đó chứ. Chức đó chính là của tỉ phu cho tiểu Muội, bất quá bọn chúng không nhìn thấy sự thật mà thôi. Tiểu Muội không giết Trích Tinh Tử, tất một ngày kia gã khám phá được bấy giờ tỉ phu tất đã ở bên mình tiểu Muội, thì tiểu Muội sẽ mầt lòng với gã. Tiểu Muội muốn sống thì chẳng thế nào không giết gã được.
Tiêu Phong nói:
- Cô thương gã đã mấy năm rồi? Bây giờ lớn tuổi, lấy gã làm chồng sao gã còn giết cô?
A Tử nói:
- Gã biểu về giết vợ con để lấy tiểu Muội, tiểu Muội là vợ gã sau này có người bảo gã về giết tiểu Muội, tất gã cũng nghe theo, hơn nữa tiểu Muội cảm thấy kết duyên với gã chẳng có gì là lý thú.
Tiêu Phong nghĩ thầm:
- Bây giờ cô này lại giở giọng con nít rồi. Nếu lấy người ta làm chồng là việc lớn cả một đời người, sao lại biểu là thú với chả chứ? Hay là cô bé này chưa hiểu việc đời mà sao cô đã nhiều mưu mẹo? Thế thì lúc cô hiểu đời chắc còn gây ra lắm chuyệt tai hại hơn.
Nghĩ vậy ông nói:
- Cô theo tôi đến ải Nhạn Môn Quan là gì?
A Tử đáp:
- Tỉ phu! Tiểu Muội xin nói thật với tỉ phu. Tỉ phu có muốn nghe không?
Tiêu Phong lẩm bẩm:
- À! Thế ra trước nay cô chưa nói thật bao giờ hay sao mà bây giờ mới nói thật.
Ông nói:
- Tôi muốn nghe lắm chứ, nhưng chỉ sợ cô nói không thực.
A Tử cười khanh khách nắm lấy tay ông nói:
- Tỉ phu có sợ tiểu Muội không?
Tiêu Phong đáp:
- Tôi chỉ sợ cô hay gây chuyện reo tai rắc họa và tự tiện giết người, lại còn sợ cô làm những việc kỳ quái...
A Tử hỏi:
- Như vậy tỉ phu đối với tôi thế nào?
Tiêu Phong đáp:
- Tôi chịu lời trọng thác của tỉ cô nương, dĩ nhiên là phải trông nom cho cô.
A Tử hỏi:
- Nếu tỉ nương tiểu Muội không ủy thác thì sao? Hay là tiểu Muội không phải là em chị A Châu thì sao?
Tiêu Phong hắng giọng nói:
- Nếu không thế thì bất tất tôi phải chăm lo cho cô.
A Tử nói:
- Tỉ nương em thì tỉ phu trọng vọng như vậy mà sao tỉ phu chẳng coi em vào đâu?
Tiêu Phong nói:
- Cái đó đã hẳn. Tỉ nương cô được người, được nết gấp nghìn gấp vạn cô, còn cô thì vĩnh viễn không bao giờ bằng tỉ nương cô được. Nói đến đây cặp mắt ông đỏ hoe giọng nói rất là chua sót.
A Tử bĩu môi nói:
- Chị A Châu đã thay thế thì tỉ phu gọi chị ấy đi theo.
A Tử nói xong trở gót đi liền.
Tiêu Phong bỏ mặt không hỏi gì đên nàng, cất bước ra đi trong lòng không khỏi đau thương, lẩm bẩm:
- Giả tỉ có A Châu cùng đi với mình, trên mặt đất đầy tuyết phủ mà nàng đột nhiên giận dỗi bỏ đi, thì dĩ nhiên mình phải đuổi theo nắm lại xin lỗi nhưng mà chẳng có bao giờ thế cả. Ngay từ lúc đầu mình thấy nàng ngoan ngoãn dịu dàng không khi nào còn chọc giận và việc đều chiều ý nàng cả. Hởi ơi! A Châu đối với mình một niềm thuận, làm gì có chuyện giận dỗi mình?
Tiêu Phong còn đang nghĩ vơ nghĩ vẫn, bổng nghe có tiếng bước tới.
A Tử bỏ đi đã lộn trở về. Nàng gọi:
- Tỉ phu ơi! Tỉ phu thật là con người khe khắt, đã bảo không em là nhất định không đợi, chẳng có chút lòng dạ nhân từ nào cả.
Tiêu Phong cười khẩy một tiếng rồi hỏi:
- A Tử! Cô nói cái gì lòng dạ nhân từ? Cô đã nghe ai nói đến chữ "Nhân từ."
A Tử đáp:
- Em nghe ma má em nói đó. Má má còn biểu: Ðối với người loài chẳng nên hung ác, bá đạo thái quá, phải có chút lòng nhân từ bi phải.
Tiêu Phong nói:
- Má má cô nói đúng đó! Ðáng tiếc làcô không ở cùng má má từ thủơ nhỏ, mà lại đi theo sư phụ học lấy cái nghề tâm địa độc ác.
A Tử cười nói:
- Thế thì được lắm! Tỉ phu ơi! Từ đây tôi đi theo hiền tỉ phu học lấy chút hảo tâm.
Tiêu Phong giẩy nẩy lên khoát tay lia lịa nói:
- Không nên đâu! Cô theo con người cổ lổ này thì cô chỉ là hại? A Tử! Cô đi thôi! Cô theo tôi chỉ tổ làm phiền cho tôi mà thôi. Muốn yên tâm để nghĩ ngơi một chút cũng không được.
A Tử nói:
- Tỉ phu có tâm sự gì bực rọc, cứ nói cho em hay để em lo giúp. Tỉ phu ơi! Tỉ phu là người tốt bụng quá nên dễ bị người ta lừa.
Tiêu Phong vừa tức mình vừa buồn cười, hỏi:
- Cô còn là đứa trẻ nít đã biết gì? Chẳng lẽ có điều tôi nghĩ chưa đến mà cô nghĩ được hay sao?
A Tử nói:
- Cái đó đã hẳn. Có vô số việc tỉ phu nghĩ chưa đến.
A Tử ngừng lại giây lát, bốc nắm tuyết dưới vò tròn lại rồi liệng ra xa, hỏi tiếp:
- Tỉ phu ơi! Tỉ phu định ra ngoài ải Nhạn Môn Quan làm gì?
Tiêu Phong lắc đầu đáp:
- Chả làm gì cả. Thả trâu nuôi cừu cho đến hết đời, chỉ có thế thôi.
A Tử hỏi:
- Ai nấu cơm cho tỉ phu ăn? Ai khâu áo cho tỉ phu mặc.
Tiêu Phong ngẩn người ra, vì ông chưa tính đến chuyện đó, buột miệng đáp:
- Cơm ăn áo mặc thì có khó gì? Người Khất Ðan chúng tôi ăn đã có thịt trâu thịt cừu, mặc đã có da trâu da cừu, tới đâu là nhà, ngã đâu là giường, như thế cũng xong.
A Tử nói:
- Những lúc tịch mịch tỷ phu trò chuyện với ai?
Tiêu Phong đáp:
- Tôi về đó sẽ kết giao với người cùng chủng tộc cho có bạn.
A Tử hỏi:
- Bọn họ giở đi giở lại bầt quá là mấy câu chuyện săn bắn, cưỡi ngựa mổ trâu giết cừu tì còn có chi là thú? Tiêu Phong buông một tiếng thở dài, biết nàng nói đúng không trả lời được. Tỉ phu không về Khất Ðan không được hay sao? Nếu không cần phải về thì ở đây uống rượu so gươm sống cuộc đời oanh liệt, chẳng kể gì hai chữ tử sanh có hay hơn không?
Tiêu Phong nghe nàng nói đến câu ở lại uống rượu so gươm, trong cuộc đời oanh liệt bất giác lại nổi máu anh hùng.
Ông ngẩn đầu lên một tiếng dài rồi nói:
- Cô nói cũng có lý.
A Tử nắm cánh tay Tiêu Phong đáp:
- Tỉ phu! Tỉ phu đừng nói nữa nhé. Em cũng không về Tỉnh Hải nữa, đi theo tỉ phu uống rượu so gươm.
Tiêu Phong nghe nàng nói một cách ngây thơ chất phác, cười hỏi:
- Cô là đại sư tỉ phái Tinh Tú, cô bỏ đi để môn phái người ta tất cả người thừa kế, mất luôn cả đại sư tỉ sao được?
A Tử nói:
- Cái chức đại sư tỉ của em là láo toét, chân tướng mà bị hại lộ mất mạng lập tức há phải chuyện chơi? Họ không người thừa kế tuy mất đại sư tỉ cũng chẳng làm cóc gì. Em nhất định đi theo tỉ phu uống rượu so gươm hay hơn.
Tiêu Phong nói:
- Nói đến uống rượu thì cô tửu lượng kém lắm, chỉ sợ cô không chống nổi một bát thì đã say mèm, còn về so gươm thì bản lĩnh cô chưa sao đâu. Lúc tôi nguy cấp cô chẳng giúp ích được gì, mà tôi lại còn phải xứng đáng cho cô nữa.
A Tử xịu mặt ra buồn rầu, nàng chau mày bước đi, nhưng chưa lấy hai bước, đột nhiên ngồi phệch xuống đất khóc bù lu bù loa.
Tiêu Phong giật nảy mình lên vội hỏi:
- Cô... Cô làm sao vậy?
A Tử chẳng nói năng gì nàng vẫn khóc hu hu. Nàng khóc cực kỳ thảm thiết.
Tiêu Phong từ khi biết nàng, thấy chỗ nào nàng cũng không chịu thua ai. Cả lúc bị bọn Tinh Tú trói, nàng cũng vẫn bướng bĩnh chẳng chịu khuất phục ai. Ông không ngờ nàng lại biết khóc rống lên một cách thống thiết đến thế, ông đâm ra luống cuống hỏi dồn:
- Này này! A Tử em! Em làm sao thế?
A Tử nức nở nói:
- Thôi tỉ phu đi đi để mặc em ngồi đây khóc đến chết thôi, để cho tỉ phu vui sướng.
Tiêu Phong cười nói:
- Có ai mà khóc chết người được bao giờ?
A Tử vừa khóc vừa nói:
- Em quyết khóc cho đến chết, khóc cho đến chết!
Tiêu Phong cười nói:
- Cô cứ thủng thẳng ngồi đây mà khóc nghe. Tôi không thể ngồi đây với cô được nữa.
Nói xong ông cất bước đi ngay.
Mới đi được hai bước thốt nhiên tiếng khóc im bặt.
Tiêu Phong rất lấy làm kỳ, ngoảnh đầu lại xem, thấy A Tử vẫn còn nằm phục xuống đống tuyết, không nhúc nhíc.
Ông cười thầm trong bụng:
- Cô bé này làm nũng đây! Nếu mình cứ chịu cô, cô càng làm giả, chả biết thế nào cho cùng.
Nghĩ vậy, ông cứ bỏ mặc đi luôn.
Ði chừng được hơn mười dặm ông mới quay đầu nhìn lại, nhưng trên mặt đất đầy tuyểt phủ chẳng thây động tĩnh gì.
Khu này là một cánh đồng bát ngát, nhỡn lực Tiêu Phong nhìn được rất xa, lại không vướng cây cối chi hết, dường như A Tử vẫn nằm ỳ ra đó không nhúc nhích.
Tiêu Phong không khỏi băng khoăn, ông tự hỏi:
- Cô này thật là tai quá! Chẳng lẽ cô cứ nằm lỳ mãi không bao giờ dậy nữa?
Rồi ông lẩm bẩm:
- Mình đã lỡ tay đánh chết tỉ nương cô, thì dầu A Châu chẳng căn dặn, mình đã không trông nom bảo vệ cho cô thì chớ, cũng không nên nói khích cho cô tức chết.
Nhớ tới A Châu bầu nhiệt huyết lại nổi lên, ông rảo bước quay lại lối cũ.
Ðến gần A Tử, Tiêu Phong quả nhiên thấy nàng vẫn nằm phục dưới đất y nguyên hiện trạng như lúc bỏ đi, không xê xích một ly nào.
-
Hồi 44 - Hão Hán Tay Không Đánh Chết Cọp - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 44 - Hão Hán Tay Không Đánh Chết Cọp
Tiêu Phong bước lại gần thêm bước nữa, bổng nhiên giật mình, vì thấy người A Tử ngập tuyết đầy đến mấy tấc.
Tuyết đóng lại tứ là tình trạng y ngyên không tan rữa.
Theo lẽ thường thi nhiệt khí trong người A Tử nằm bấy lâu tống ra tuyết bên mình nàng phải tan thành nước rồi mới phải, thế mà hiện tại không tan chút nào, hay là nàng chết thật?
Tiêu Phong sợ quá đưa tay sờ vào mặt A Tử, nhưng tay sờ chỗ nào cũng giá lạnh.
Ông đặt tay lên mũi, cũng thấy ngừng thở rồi.
Tiêu Phong nhớ lại A Tử chết để lừa gạt cả song thân nàng, biết nàng đã học được thuật "Quy tức công" của phái Tinh Tú, có thể bế tắc hô hấp, nên ông không hoang mang nữa.
Ông đưa ngón tay trỏ điểm huyệt dưới nách.
Nội lực ở trong người ông chuyển vào A Tử.
A Tử ú ớ rồi từ từ mở mắt ra.
Nàng vừa nhìn thấy Tiêu Phong đột nhiên hé miệng phun ra một mũi châm rất nhỏ nhằm bắn vào mí mắt Tiêu Phong.
Tiêu Phong chỉ cách A Tử chừng hơn một thước.
Ông không thể ngờ đến nàng đột nhiên hạ độc thủ.
Mũi độc châm bay ra rất nhanh.
Trong lúc bất ngờ lại ở gần gang tấc thì dù võ công ông cao cường đến đâu muốn né tránh cũng không kịp.
Tiêu Phong nghĩ ngay đến môn ám khí hiểm độc vô song của phái Tinh Tú, ai đã trúng phải thì tính mẹng khó mà hy vọng sống được, ông giơ tay phải lên phóng ra một chưởng, luồng chưởng phong đầy cực kỳ hùng hậu.
Tiêu Phong ngưng tụ hết công lực phóng ra để tự cứu mình, mũi nóc châm phóng ra nhanh như chớp lại chỉ cách đích có hơn một thước bị luồng chưởng phong hất đi mất tiêu.
Mũi ông còn thoáng ngửi lấy mùi tanh sặc do mũi độc châm tiết ra bay xít qua mặt ông cách đầy một tất, thật là một trường hợp nguy hiểm vô cùng.
Giữa lúc ấy, A Tử bị luồng chưởng phong quá mãnh liệt đánh bật hất ra ngoài mười trượng.
Người nàng rớt xuống đất rồi còn trượt thêm mấy trượng nữa vì mặt tuyết phủ trơn như mỡ.
Tiêu Phong thoán được tai nạn chỉ còn khe chừng sợ tóc, bất giác âm thầm:
- Thật là hú vía!
Lúc đầu ông nguyền rủa cô gái yêu tinh lòng dạ hiểm sâu đã ngấm ngầm hạ độc thủ mình một cách tối độc ác! Nhưng nhìn đến A Tử luồng chưởng phong của mình đánh hất ra ngoài mười trượng thì giật mình la lên:
- Trời ơi! Thôi chết rồi! Làm sao cô ta chịu nổi chưởng đó? Trông chừng mình đánh chết cô ta rồi cũng nên?
Ông nhẩy phốc đến bên A Tử thấy nàng hai mắt nhắm nghiền.
Hai khóe mắt đang rỉ máu tươi ra, sắc mặt lợt lạt, phen này thì nàng tắt thở thật rồi.
Tiêu Phong đứng thộn mặt ra lẩm bẩm:
- Mình đã đánh chết A Châu, lại đánh chết cả cô em Nàng... nàng.... lúc lâm chung còn dặn mình trông nôm cho em mình, thế mà... thế mà... mình lại đánh chết cô ta.
Tiêu Phong mới ngớ ngẩn mà tâm thần ông man, tựa hồ như trãi qua một thời gian rất lâu.
Ông lắc đầu vội đưa tay đặt vào lưng A Tử, hút chân khí mình truyền vào người nàng.
Hồi lâu A Tử mới hơi nhúc nhích được.
Tiêu Phong cả mừng gọi rối rít:
- A Tử! A Tử! Em đừng chết. Ta đã biểu bất luận gặp trường hợp nào vẫn cứu gỡ sinh mạng cho em.
Xong A Tử chỉ khẽ cử động một chút rồi lại nằm trơ ra đó, không nhút nhích.
Tiêu Phong lại càng bồn chồn trong dạ, nhưng có điều ông từng trãi sóng gió đã nhiều, nên gặp tình thế càng nguy cấp bao nhiêu ông càng cố trấn tĩnh bấy nhiêu.
Ông ngồi sếp bằng xuống đất, khẽ lưng A Tử dậy, đặt vào trước mặt mình, hai tay đón lấy lưng nàng phóng nội lực từ từ chuyển vào người A Tử.
Tiêu Phong biết A Tử bị thương rất nặng, hiện giờ còn cách gĩư cho nàng đừng tắc thở để khỏi chết ngay lập tức, rồi sẽ từ từ cứu vãng. Vì thế ông cần phải đem chân khí mình chuyển vào thân nàng.
Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, trên đầu ông tiết ra những tia độc khí, tỏ ra rằng ông đã đem toàn lực vận nội công một cách liên tục không gián đoạn để cứu vãng tình thế.
Cuộc vận công kéo dài thêm một giờ nữa, người A Tử đã hơi nhúc nhích được một chút thì nàng phiều phào gọi:
- Tỉ phu!
Tiêu Phong cả mừng, tiếp tục vận công lực chứ không nói gì rồi thấy người nàng dần dần ấm lại một chút, không gía lạnh như trước nữa, mũi nàng cũng thấy thoi thóp thở.
Tiêu Phong chỉ sợ mình ngừng vận nội công một chút là nàng sẽ tắt thở ngay, nên không dám ngừng lại giây phút nào.
Ðến giữa trưa thì hơi thở A Tử đã đều đều, Tiêu Phong mới ẵm nàng đứng dậy ra đi, xong mặt nàng vẫn trắng bệt không một chút huyết sắc.
Tiêu Phong rão bước đi nhanh và gĩư cho tật im để A Tử trong lòng mình không bị sốc chút nào.
Ông vừa đi vừa đặt tay trái vào lưng A Tử để truyền chân khí luôn luôn vào người nàng.
Ði được chừng một giờ thì đến một thị trấn nhỏ. Song thị trấn này không có phạn điếm.
Tiêu Phong lại quay về hướng Bắc mà đi, chừng hai mươi dặm mới gặp một quán cơm tồi tàn.
Trong quán này không có tiểu nhị. Chính chủ quán ra mời khách.
Tiêu Phong vội xin chủ quán lấy một bát nước nóng, dùng canh múc đỗ vào miệng A Tử.
Xong chỉ nàng chỉ nuốt ba thìa rồi lại trào ra hết. Nước nóng nôn ra có lẫn máu đen.
Tiêu Phong trong dạ bồn chồn và cảm thấy A Tử bị thương chuyến này khó lòng chữa khỏi được... Diêm vương Ðịch Tiết Thần Y không biết hiện giờ ông ở đâu. Mà dù lão có ở ngay bên cạnh, vị tuất đã chữa nổi chứng nội thương trầm trọng do trưởng lực của ông gây nên.
Tiêu Phong lại nghĩ lại A Châu trước kia bị chưởng môn phương trượng chùa thiếu lâm phóng chưởng làm nàng bị thương, nhưng không phải người nàng hứng lấy chưởng lực, tình trạng nhẹ hơn nhiều nên Tiết Thần Y mới chữa khỏi.
Tuy ông biết rõ không thể cứu sống được A Tử nhưng còn nước còn tát cho đến hơi sức cuối cùng mới thôi.
Ông nghĩ bụng:
- Mình đây hết lòng hết sức, dù cho chân khí cùng nghị lực kiệt quệ, cũng phải chống đỡ đến kỳ cùng không phải là để cứu A Tử mà thật ra là để khỏi phụ lời phó thác của A Châu.
Kể ra thì A Tử động thủ ám toán Tiêu Phong trước, khiến ông lâm vào tình trạng không phóng chưởng ra hất mũi độc châm đi tức bị mất hướng về tay nàng.
Ông là người võ công cao cường thì lúc gặp cảnh nguy cấp, không còn kịp suy nghĩ gì nữa, cách phản ứng tự nhiên là triển phương pháp có hiệu lực nhất để tự cứu giải cho mình.
Ông làm cho A Tử bị thương đây là ở trong trường hợp bất đắt dĩ.
Dù cho A Châu có mặt trong trường hợp này, quyết nhiên nàng cũng không có căm lời oán trách, vì chính tại A Tử tự rước vạ vào mình, chứ có quan hệ gì đến người khác.
Chỉ vì A Châu không biết, nên Tiêu Phong cảm thấy rất ân hận với nàng.
Suốt đêm hôm ấy, Tiêu Phong không chợp mắt, cả ngày hôm sau chàng cũng không lúc nào ngớt phóng chân khí và người A Tử để duy trì cứu mạng cho nàng.
Ngày trước, A Châu bị thương, chỉ có những lúc hơi thở nàng hạn hắt quá, Tiêu Phong mới phải ra tay truyền nội lực. Còn lần này, không lúc nào ông dám rờ bàn tay ra khỏi người A Tử, vì chỉ nhấc tay ra một cái là nàng tắt thở ngay lập tức.
Qua ngày thứ hai cho mãi đến đêm Tiêu Phong vẫn giữ nguyên tình trạng đó.
Tuy công lực ông rất thâm hậu xong hai ngày hai đêm liền phải dồn nội lực cho A Tư thì tránh sao khỏi mệt nhoài.
Trong quán cơm này chỉ có cất hai hủ rượu, Tiêu Phong uống sạch không còn một giọt, ông muốn sai chủ quán đi mua chỗ khác, nhưng trong mình không giắt sẳn tiền.
Nguyên Tiêu Phong là người nghiện rượu.
Trong một ngày không ăn cơm còn nhịn được, chứ không có rượu uống thì thật là khó chịu, nhất là tâm thần cũng như sức lực đều bãi hoải, lại càng cần uống rượu để phấn khởi tinh thần.
Tiêu Phong nghĩ bụng:
- Chắc trong mình A Tử có giắt tiền bây giờ đang cần, mình đành dùng tiền của cô, rồi sẽ liệu!
Nghĩ vậy ông liền cởi bộc áo của nàng ra, quả nhiên có thầy ba đỉnh vàng nhỏ.
Ông liền lấy ra một đỉnh rồi gói lại cẩn thận để sang một bên.
Lúc sách bộc áo lên, bổng nhìn thấy một dãi lụa tía, một đầu buột vào bộc áo, còn một đầu buộc vào sau.
Tiêu Phong lẩm bẩm:
- Cô bé này thế mà rất cẩn thận, cô sơ có người rút mất bộc áo, nên mới buộc một đầu dây vào vật gì trong mình. Thế này kể cũng khó chịu cho cô.
Nghĩ vậy ông đưa tay ra cởi dải buộc ở trên lưng. Dải này có thắt nút chặt qua, rất khó cởi.
Tiêu Phong hí hoáy hồi lâu mới cởi ra được.
Lúc ông kéo dải ra thì đầu dây kia có buộc một vật gì nặng chĩu, mà vật đó lại bỏ vào trong quần không chìa ra ngoài chút nào.
Tiêu Phong buông dây ra thì vật đó đánh xuống đất đánh "Cạch" một cái.
Ông rút ra coi thì vật đó màu xanh biết, sáng bóng nhìn ra thì là cái đỉnh ngọc bé nhỏ.
Tiêu Phong thở dài cuối xuống nhặt để trên bàn.
Ðỉnh ngọc này trạm trỗ rất tinh vi. Trong nền ngọc xanh biết có hiện lên những văn hồng, trong càng tăng thêm vẽ đẹp.
Trước nay Tiêu Phong không thích đồ chơi. Dưới mắt thì dù châu báu, bảo vật quí hơn nữa, ông chỉ coi như hòn gạch, hòn ngói.
Ông nhìn một lát rồi không nghĩ tới nữa, chỉ lẩm bẩm:
- Cô bé A Tử này thật là gião quyệt, mồm năm miệng mười bảo với bọn đệ Tinh Tú Hải là Bích Ngọc Vương Ðỉnh giao cho mình rồi. Ai ngờ buộc nó vào trong quần. Bọn đồng môn với cô một là Tinh Ðỉnh Ngọc mình dắt trong người, hai là không tiện xục tìm trong quần cô, chúng không phát giác ra được. Hởi ơi! Nay tính mạng cô còn mà giữ được thì vật này để làm gì?
Tiêu Phong gọi chủ quán lại đưa cho gã một đồng tiền vàng bảo mua rượu, mua thịt cho mình về ăn uống.
Một mặt ông vẫn tiếp tục nhã nội lực để duy trì tính mạng cho A Tử.
Ở trong tiểu điếm đã được bốn ngày.
Tiêu Phong không thể chống lại với sự mệt mõi, ông đành hai tay nắm lấy hai tay A Tử và đưa nàng vào lòng để tựa lưng vào ngực mình, truyền chân khí qua bàn tay vào trong thân thể nàng.
Sau một lúc, hai mắt ông nhích lại không mở ra được, gật gưỡng một lúc rồi thiếp đi.
Nhưng trong lòng ông vẫn khoắc khoải về sự sống chết của A Tử, nên mới ngủ được một lúc, đã giật mình tỉnh giấc. May mà trong lúc ông ngũ đi, chân khí vẫn không ngừng lưu động.
Nếu ông rời tay ra một chút là nàng tắt thở liền.
Tình trạng này lại kéo dài hai ngày nữa.
Tiêu Phong thấy A Tử tuy đã chết, xong thương thế không chuyển chút nào.
Nếu cứ nằm trong tiểu điếm này thì biết bao giờ cho ngã ngũ.
A Tử ngẫu nhiên mở mắt ra, xong mắt vẫn lờ đờ rõ ràng không biết trời biết đất gì nữa mà cũng không nói được.
Tiêu Phong lại uống hết hai hũ rượu lớn mà không nghĩ ra được điều gì.
Sau đó ông quyết định:
- Ta đành ẵm nàng lên đường vừa đi vừa vận chân khí, chứ cứ ở lại trong tiểu điếm này thì rốt cục vô kế khả thi.
Nghĩ vậy tay trái ông bồng A Tử, tay phải cầm bộc áo nhét vào trong bụng.
Lúc trông đến cái Bích Ngọc Vương Ðỉnh vẫn để trên bàn, ông nghĩ bụng"Cái vật hại người này, đập tan quách đi cho rồi."
Nhưng cầm đỉnh lên ông lại nghĩ :
- A Tử trăm cay ngàn đắng mới lấy cắp được vật này. Xem thương thế nàng không thể khỏi được. Trước lúc lâm chung, hoặc giả thần chí cô có tỉnh lại, tức hỏi đến đỉnh này, mình sẽ đưa cho cô coi để cô yên tâm mà chết, không còn ân hận điều gì.
Nghĩ vậy ông cầm lấy đỉnh ngọc vào tay thì cảm thấy trong đỉnh hình như có vật gì ngó ngoái.
Ông rất lấy làm kỵ, để ý nhìn kỷ thì ra mé đỉnh có năm lỗ nhỏ.
Nhìn kỷ thêm thì ở cổ đỉnh có một đường rất nhỏ, tựa hồ như đỉnh chia làm hai nữa.
Tiêu Phong lấy ngón tay út và ngón tay đeo nhẫn cặp chặt lấy cái đỉnh, còn ngón tay giữa và ngón tay cái giử lấy nữa trên khẽ xoay về bên tả. quả nhiên thấy đỉnh xoay đi.
Ông xoay luôn mấy vòng thì mở được nắp ra.
Ông nhìn vào trong đỉnh, bất giác cả kinh và nôn mữa.
Nguyên trong đỉnh này có hai con trùng độc đang cắn nhau, một con rết và một con bò cạp.
Hai con đang cắn nhau vật lộn rất kịch liệt.
Tiêu Phong là người kiến văn rộng rãi, biết là phái Tinh Tú dùng những trùng độc này luyện một môn tà pháp quái đản. Ông liền dốc đỉnh ngọc cho rết cùng bò cạp rới xuống đất rồi dẫm lên cho rớt đi.
Ðoạn ông lại đậy nắp cẩn thận bỏ vào trong bọc áo.
Tiêu Phong tính trả tiền hàng, ẵm A Tử gội gió dầm mưa tiết đi về phía bắc.
Ông tự biết mình đã mắt tội với bọn hào kiệt Trung Nguyên lại không muốn thay đổi hình dạng, cứ để vậy nhắm hướng Bắc mà đi.
Tiêu Phong đi như vậy được mấy trăm dặm vẫn bình yên vô sự.
Một hôm đến một thị trấn lớn, thấy có tiệm bán thuốc trên biễn đề: "Tiệm thuốc gia truyền của Vương Thông Trị" ông nghĩ bụng:
- Ở địa phương tầm thường này làm gì có bậc danh y, nhưng ta cứ vào thử xem cũng chẳng hề chi.
Ông liền ăm A Tử vào tiệm xin chữa thuốc.
Gã nho y là vương thông trị vừa cầm mạch A Tử vừa nhìn Tiêu Phong.
Gã đã thấy mạch A Tử đã tắt, liền đưa mắt nhìn Tiêu Phong thấy vẻ mặt ông ngơ ngát quái lạ.
Thốt nhiên lão đưa tay ra cầm mạch tay ông.
Tiêu Phong tức mình hỏi:
- Tiên sinh? Tôi đến xin tiên sinh chữa bệnh cho em tôi, chớ có đến chữa bệnh cho tui đâu.
Vương Thông Trị lắc đầu nói:
- Tôi coi lão huynh có bịnh, thần chí mê hoảng mất rồi cần phải chữa kẻo nguy đó:
Tiêu Phong hỏi:
- Sao tiên sinh bảo thần trí tôi mê loạn?
Vương Thông Trị đáp:
- Cô nương đây mạch đã tắt ngấm chềt tự bao giờ. Có điều người cô chưa cứng đờ mà thôi. Thế thì lão huynh còn đến cầu thầy chữa cái gì? Chẳng phải thần trí lão huynh đã mê loạn là gì? Lão huynh ơi! Người ta đã chết không thể sống lại được nữa. Lão huynh chẳng nên thương tâm quá độ, đem thi thể lịnh Muội mai táng đi, để người chết được yên phần xác.
Tiêu Phong khóc giỡ miếu giỡ, nhưng ông cũng biết rằng lời y không phải hoàn toàn vô lý. Thật ra A Tử đã chết đã lâu rồi chỉ còn nhờ vào chân khí của mình mà cầm được chút hơi tàn. Như vậy thì thầy lang tầm thường chữa thế nào được?
Nghĩ vậy Tiêu Phong đứng dậy trở gót đi ra.
Bỗng thấy một người ăn mặc ra lối quản gia ở đâu hấp tấp chạy đến tiệm thuốc hốt hoãng la lên:
- Phải đi tìm cho mau một lão sơn Nhân Sâm thật tốt. Lão gia nhà tôi trúng phong sắp tắt thở, thế mà nhờ có nhân sâm cứu sống được đó.
Gã trưởng qũy trong tiệm thuốc vội nói:
- Phải rồi! Phải rồi ở đây có lão Sơn Nhân.
Tiêu Phong lẩm bẩm:
- Phải có lão Sơn Nhân Sâm mới cứu sống được.
Một người bịnh sắp tắt thở, nếu quả uống vài hớp sâm thang mà giữ hơi thở sống thêm chốc lát để xem người chết có di ngôn gì để lại không, thì trường hợp này Tiêu Phong cũng đã biết rồi, chứ dùng lão Sơn Nhân Sâm để cứu mạng cho A Tử có ăn thua gì! Nhưng ông nghe lão quản gia nói, lại thấy lão chưởng qũy lấy ra một hộp gỗ đỏ, trân trọng mở nắp ra bên trong có đựng ba con nhân sâm bằng ngón tay.
Trước kia Tiêu Phong đã nghe nói nhân sâm lớn chừng nào thì tốt chừng nấy. Ngoài da vàng dăn deo xù xì càng qúi. Thứ nhân sâm lớn giống như hình người, đủ cả đầu lẫn tay chân là thượng hảo hạn sống đã lâu năm. Ba con sâm này toàn là vật tầm thường chẳng có chi đặt biệt. Gả quan gia chọn hộ một con rồi hấp tấp đi ngay.
Tiêu Phong lấy một đỉnh vàng mua luôn cả ba con.
Trong tiệm thuốc có đủ đồ dùng sắc thuốc cho khách hàng.
Chỉ một lát sắc lên thành nước sâm thang, từ từ đổ cho A Tử uống mấy thìa.
Lần này nàng uống sâm thang vào rồi không nôn ra, nên ông lại đổ thêm cho uống mấy thìa nữa.
Tiêu Phong thấy mạch cô đã hơi chuyển động hơi thở cũng khá hơn, bất giác mừng thầm trong bụng.
Gã nhờ Y Vương Thông Trị đứng bên vẫn lắc đầu quầy quậy nói:
- Lão huynh ơi! Nhân sâm không phải là thứ dễ tìm, dùng một cách phí phạm thì thật là đáng tiếc. Nó không phải là tiên đan. Nếu có cứu được người chết cho sống lại thì ra người giàu tiền vĩnh viễn không bao giờ chết.
Tiêu Phong mấy ngày liền không dám rời A Tử, trong lòng bực bội đã lâu.
Ông nghe Vương Thông Trị đứng bên nói lải nhải, bất giác điên tiếc lên, xoay tay lại toan phóng chưởng ra đánh.
Nhưng tay vừa dơ lên, ông lẩm bẩm:
- Tiêu Phong hỡi Tiêu Phong! Ngươi đánh cả người không biết võ công thì đâu phải là anh hùng hảo hán?
Nghĩ vậy liền dừng tay lại bồng A Tử lên chạy ra khỏi tiệm thuốc ông còn nghe văng vẳng tiếng Vương Thông Trị vừa cười vừa nói:
- Thằng cha này thật là hồ đồ, gã ôm một cái tử thi chạy lui chạy tới xem chừng chính gã cũng chẳn sống được mấy nỗi nữa.
Hắn còn biết đâu rằng vừa rồi suýt nữa hắn đã phải xuống chầu am vương.
Tiêu Phong mà không nén được cơn tức giận phóng chưởng đánh ra, thì đến mười gã Vương Thống Trị cũng đi đời. Tiêu Phong ra khỏi tiệm thuốc nghĩ thầm:
- Mình nghe nói thứ lão Sơn Nhân sản xuất nhiều ở núi Trường Bạch trên một dãy đất cực kỳ rét lạnh. Chi bằng mình về phía Ðông Bắc để thử xem công thứ sâm đó có thể bồi dưỡng nguyên khí cho A Tử được không? Mình xem ra không còn cách gì cứu sống được cô ta, nhưng nếu cứu cho cô tĩnh lại ở nhân gian một ngày thì đối với A Châu mình cũng bớt được đôi chút ân hận.
Nghĩ vậy, ông theo ngã Ðông Bắc mà tiến.
Dọc đường thì gặp tiệm thuốc, Tiêu Phong lại vào hỏi mua nhân sâm. Sau này tiền xài hết rồi ông chẳng nể nang gì nữa, cứ thò tay ra lấy liền.
Mấy tên làm ăn trong tiệm chống thế nào nổi.
A Tử sau khi uống nhiều nhơn sâm, thương thế quả nhiên khá nhiều, có lúc nàng đã mở mắt ra khẽ gọi: "Tỉ Phu."
Ban đêm Tiêu Phong ngủ đi có lúc rời tay ra không tiếp chân khí cho A Tử mà nàng vẫn còn thoi thóp thở.
Càng ngược lên mạn Ðông Bắc đường càng vắng teo.
Tiêu Phong trông thấy mấy khi gặp người qua lại. Về sau thì chỉ thấy cỏ hoang mờ mịt tuyết đọng thành gò đốn.
Tiêu Phong có khi suốt ngày không gặp một ai, bất giác ông nản chí than thầm:
- Hỏng bét! Thật là hỏng bét! giả tỷ gặp chỗ có sâm, nhưng tuyết ngập cao thế này thì làm sao mà đào được? Mình đành trở lại thấy chỗ nào có sâm, có tiền thì mua, không tiền thì cướp.
Nghĩ vậy, ông bồng A Tử quay về.
Gặp chính tiết đại hàn, mặt đất tuyết đọng dầy đến mấy thước, đi lại rất khó khăn.
Nếu ông không phải là tay võ công trác tuyệt, lại đèo theo một người, thì chẳng bị chết cóng, chân cũng bị sa lầy không rút lên được, và không tài nào thoát chết.
Ðến ngày thứ ba, chiều trời thảm đạm, xem chừng sắp có gió to, mưa tuyết, Tiêu Phong buông tầm mắt nhìn ra thì trước sau toàn một màu tuyết phủ, không một vết chân người.
Ông cảm thấy mình cô độc khác nào con thuyền lạc lõng giữa biển khơi, bên tai chỉ nghe gió rít từng hồi.
Tiêu Phong biết mình lạc đường mất rồi, mấy lần nhẩy lên cây cao trong ra bốn mặt, chỉ thấy biển tuyết bát ngát che phủ hết cả những khu rừng rậm rạp một mầu trắng xóa, chẳng còn phân biệt đâu là đông tây, nam, bắc nữa.
Ông sợ A Tử rét cóng, đành cởi áo trường bào ra quấn cho nàng.
Tuy ông là người chẳng biết chẳng sợ trời sợ đất, nhưng lúc này ông ở giữa bầu vũ trụ mênh mông, tựa hồ trong khoảng trời đất bao la chỉ còn sót lại một mình ông, lòng ông không khỏi hoang mang sợ sệt.
Nếu chỉ có một mình ông thôi thì còn khá, dù biển tuyết bao la vô bờ bến, cũng không vây hãm nổi ông được, nhưng đằng nầy ông lại ôm trong lòng một người mê man sống dở là cô bé A Tử.
Tiêu Phong luôn ba ngày chưa được ăn cơm.
Ở trong bể tuyết bát ngát này, muốn kiếm một con gà rừng hay con thỏ nội cũng chẳng thấy bóng.
Ông nghĩ thầm:
- Hiện giờ bốn phương mờ mịt muốn tìm đường ra cũng được, đành nghĩ lại trong rừng một đêm, chờ ngớt mưa tuyết có mặt trời hoặc có trăng sao mới biết đường mà tìm phương hướng.
Nghĩ vậy, Tiêu Phong liềm tìm đến một chỗ kín gió và bẻ mấy cành khô đốt lửa lên.
Lửa cháy mỗi lúc một to, ông cảm thấy trong mình ấm áp nhưng bụng đói như cào.
Tiêu Phong nhìn gốc cây thấy mấy gốc cỏ úa, màu xám xịt, xem chừng không độc, liền nhổ lên mấy cây nướng vào bên đống lửa cho tái đi, để ăn cho đở đói.
Ăn mười mấy cây cỏ, tinh thần đã hơi phấn khởi. Tiêu Phong bồng A Tử lên để tựa vào ngực mình ngồi trước đống lửa sưởi ấm.
Tiêu Phong định chợp mắt ngủ đi, bất thình lình vang lên một tiếng gầm rùng rợn, đúng là tiếng cọp rừng, từ góc Ðông Bắc vọng lại.
Ông cả mừng lẩm bẩm:
- Có cọp đến đây, mình lại có thịt ăn.
- Tiêu Phong để ý lắng tai nghe thì ra một đôi lão hổ đang chạy đất đầy tuyết.
Ông lại văng vẳng nghe có tiếng quát tháo, dường như có người đương rượt theo lão hổ.
Tiêu Phong nghe thấy tiếng người thì lại càng mừng rỡ, rồi rõ ràng tiếng chân hai con cọp đang chạy về phía Tây.
Ông liền thi triển khinh công chạy ra đón đường.
Lúc này tuyết xuống càng mạnh, gió bắt rít lên từng cơn cuốn trong mãnh tuyết trắng phau thổi bạt đi.
Tiêu Phong mới chạy được hơn mười trượng thì trước mặt hiện lên một cánh thung lũng rộng rải bát ngát.
Hai con mãnh hổ vẫn gầm thét chạy đến.
Phía sau là một Ðại Hán khoác áo da, tay cầm đinh ba rất lớn đuổi theo.
Tiêu Phong thấy cặp mãnh hổ này thân hình cao lớn, trông mà không khiếp.
Người đi săn chỉ có một mình dám cả gan đuổi hổ, thật dạng vào hạng hiến có.
Hai con mãnh hổ chạy một lúc, bổng một con quay lại gầm lên, nhìn người đi săn nhẩy sổ tới.
Ðại Hán giơ đinh ba lên chằm cổ họng mãnh hổ đâm tới.
Con hổ này cử động cực kỳ mau lẹ.
Nó nghiêng đầu đi một cái là tránh khỏi mũi đinh ba.
Con hổ thứ hai lại xông tới.
Người đi săn chân tay cũng mau lẹ dị thường.
Gã trở cây đinh ba đánh chát một tiếng. Cán cây đinh ba đập trúng vào đầu hổ.
Con hổ bị đau gầm lên một tiếng, cúp đuôi cúi đầu chạy thẳng.
Con hổ kia cũng không ham đánh nữa, bỏ chạy ngay.
Tiêu Phong thấy chân tay người đi săn mau lẹ, sức mạnh vô cùng, nhưng dường như chẳng hiểu võ công là gì cả.
Có điều gì gã đã quen tính dã thú.
Lúc lão hổ chưa nhảy tới gã đã cầm đinh ba để chờ sẳn đặng phóng trúng đầu.
Ðó là lối liệu địch của gã. Song đâm chết hai con mãnh hổ không phải là việc dễ.
Tiêu Phong lớn tiếng gọi:
- Lão huynh! Tôi đến giúp lão huynh đánh hổ đây.
Ông lạng mình xông ra đón đầu hai con mãnh hổ.
Người đi săn thấy Tiêu Phong xông ra một cách đột ngột thì giật mình kinh sợ la lên, giọng nói líu lo.
Tiêu Phong nghe âm thanh không phải là người Hán, và chẳng hiểu gã nói gì.
Ông đành bỏ mặc không nói nữa, giơ tay lên nhắm đúng đầu hổ đánh ra một chưởng đến "Huỵch" một tiếng.
Con hổ bị trúng chưởng té lăn đi mây vòng. Nó điên tiết lên, nhằm Tiêu Phong nhảy xổ lại.
Tiêu Phong phóng chưởng đến bảy thành công lực, nếu là người thì dù võ công cao cường đến đâu cũng phải nát óc. Song mãnh hổ đầu rắn xương to, nên đòn chưởng vừa rồi có thể đập vỡ đá tan bia trúng vào đầu nó mà nó chỉ bị ngã lăn long lóc, rồi chồm dậy được ngay.
Tiêu Phong buột miệng khen:
- Con thú này giỏi thực! Ông né mình đi một cái để tránh. Tay trái vung lên đánh chéo xuống.
Một tiếng chát vang lên, Tiêu Phong đã phạt trúng lưng mãnh hổ.
Ðòn này ông đã tăng thêm phần công lực.
Mãnh hổ xông về phía trước mấy bước.
Trông chân nó loạng choạng thì biết ngay rằng nó bị đau quá và tìm đường chạy trốn.
Tiêu Phong khi nào chịu bỏ, nhảy lên hai bước, đưa tay phải ra chụp lấy đuôi hổ.
Ông quát to lên một tiếng, tay trái cũng nắm lấy phía trên khấu đuôi, phấn khởi thần lực, cả hai tay kéo mạnh một cái.
Con mãnh hổ đang ra sức chạy trốn, đột nhiên bị người kéo lại, hai luồng kình lực hất mạnh, tung con hổ lên không.
Người săn cầm đinh ba đang cùng con hổ kia tranh đấu chợt thấy Tiêu Phong xách mãnh hổ kia tung lên thì kinh hãi vô cùng.
Con hổ đang lơ lững trên không, há miệng, nhe nanh, giơ vuốt ra, Tiêu Phong chồm xuống.
Tiêu Phong lại quát lên một tiếng, vung hai chưởng ra đánh mạnh vào bụng hổ.
Bụng hổ là chỗ mềm nhũn bị chiêu"bài vân song chưởng", chiêu thức mà Tiêu Phong đắc ý nhất, đánh trúng.
Con cọp bự lập tức tan nát phủ tạng lăn lộn mấy cái rồi nằm chết dăng cẳng trong đống tuyết.
Người đi săn thấy Tiêu Phong tay không đánh chết hổ trong lòng kính phụ vọ cùng, nghĩ thầm: Trong tay mình cầm đinh ba mà không đánh chết được hổ chẳng hóa ra để họ coi thường mình ư? Gã liền hết sức bình sinh phóng cây đinh ba đâm chết bên tả sang bên hữu, nhát dao cũng trúng vào mình cọp.
Con mãnh hổ bị trúng đinh ba hăng tiết lên, nhe bộ răng trắng ởn cắn người đi săn.
Thấy mãnh hổ hết chồm lại vồ, người đi săn né mình tránh khỏi, tung caây đinh ba đâm tạt ngang, đánh"sột"một tiếng. Cây đinh ba trúng vào cổ mãnh hổ. Người đi săn đưa cả hai tay hết sức đâm thật mạnh chênh chếch.
Mãnh hổ gầm lên rùng rợn rồi té vật xuống đất. Người đi săn ấn mạnh cây đinh ba như người đóng đanh con ác thú xuống đất.
Bỗng nghe "roạc" một tiếng, tấm da thú gã khoác vào người để làm áo bị rách toạc một đường dài để hở cả sống lưng ra, trong rõ những bắp thịt nổi lên cuồn cuộn, coi rất hùng vỉ.
Tiêu Phong ngó thấy, bấc giác buột miệng khen thầm:
- Thật là một trang bảo hán!
Con mãnh hổ nằm kềnh dưới đất, bụng ngữa lên trời, nhưng đã bị đinh ba đóng chặt xuống không lăn lộn được.
Nó giơ bốn vó lên giảy giụa hồi lâu rồi nằm yên không nhúc nhích được nữa.
Bây giờ Ðại Hán mới rút đinh ba lên, buông một tràng cười ha hả ra chiều đắc chí.
Gã xoay mình lại nhìn Tiêu Phong, giơ thẳng hai ngón tay cái lên nói bi bô mấy câu.
Tiêu Phong không hiểu gã nói gì, nhưng trông vẻ mặt cũng biết đại khái là gã tán dương mình là bậc đáng kính.
Ông cũng bắt chước kiểu gã giơ thẳng hai ngón tay cái lên cất tiếng nói:
- Anh hùng...! Hảo hán...!
Chừng Ðại Hán cũng hiểu là Tiêu Phong tán dương gã.
Gã ra vẻ thích trí, trỏ tay lên sóng mũi nói líu lo:
- Hoàn Nhan A Cốt Ðã!
Tiêu Phong đoán chừng gã tự giới thiệu danh tánh mình, liền cũng trỏ tay lên sống mũi đáp:
- Tiêu Phong!
Ðại Hán hỏi:
- Tiêu Phong? ... Khất Ðan? ...
Tiêu Phong gật đầu rồi hỏi lại:
- Tôi Khất Ðan! Còn hảo hán!
Ông vừa hỏi vừa trỏ tay vào gã để gã hiểu ý.
Ðại Hán đáp:
- Hoàn Nhan A Cốt Ðả! Nử Chân!...
Tiêu Phong đã được nghe ở về phía đông nước liêu, phía bắc nước Cao Ly, có một bộ lạc tên gọi Nữ Chân.
Người bộ lạc này rấ khỏe mạnh thiện chiến. Nguyên Hoàn A Cốt Ðả này là người bộ lạc Nử Chân.
Tiêu Phong tuy không hiểu tiếng nói, nhưng ở giữa "bể tuyết" hẻo lánh này gặp một người đồng bạn, thì ông cũng hoan hỉ vô cùng. Tiêu Phong giơ hai ngón tay lên trỏ ra hiệu cho Ðại Hán biết mình còn có một người đồng bạn nữa.
A Cốt Ðả gật đầu có ý hiểu rồi.
Ðoạn gã đưa tay ra nhắc con cọp mà gã vừa đâm chết lên.
Tiêu Phong cũng xách con cọp của mình lên trở lại chổ A Tử nằm, hất A Cốt Ðã theo sau ông.
A Tử tuy không mở mắt ra nhưng còn nuốt được huyết cọp đến mười hớp.
Tiêu Phong cả mừng ông xé lấy hai đùi cọp để vào đống lửa nướng.
A Cốt Ðả thấy Tiêu Phong không cần đao, lấy tay không xé đứt cọp sống như xé thịt gà chín thì ghê cho sức mạnh của ông.
Chẳng những gã mắt chưa được nhìn, mà tai cũng chưa được nghe ai đến chuyện hi hữu này.
Gã thộn mặt ra nhìn hai tay Tiêu Phong xét một hồi, rồi đưa bàn tay ra khẽ vuốt ve cổ tay ông với vẻ mặt rất trọng kính. Thịt cọp chín rồi, Tiêu Phong cùng A Cốt Ðả ăn một bữa no.
A Cốt Ðả giơ tay ra hiệu hỏi Tiêu Phong đến đây có việc gì?
Tiêu Phong cũng dùng hai tay ra hiệu móc đất lấy nhân sâm để chữa bịnh cho A Tử rồi bị lạc đường.
A Cốt Ðả cười ha hả một hồi ra hiệu cho Tiêu Phong rằng, nhân sâm dễ lắm cứ theo gã rồi muốn lấy bao nhiêu cũng có. Tiêu Phong cả mừng liền đứng dậy, tay trái ẵm A Tử tay phải xách một con cọp lên.
A Cốt Ðả lại chìa ngón tay lên ra hiệu khâm phục chân lực của Tiêu Phong vô cùng.
A Cốt Ðả thuộc kỷ đường lối dãy đất này.
Dù gặp trời bão tuyết mặt đất trắng xóa không rõ lối nào đi mà gã cũng không lạc đường.
Hai người đi cho đến lúc trời tối thì vào trong rừng ngũ đỡ.
Trời sáng lại ra đi. Hai người cứ nhắm về hướng Tây mà đi trong hai ngày liền từ sáng đến tối.
Ðến trưa hôm thứ ba, Tiêu Phong nhìn thấy nhiều vết chân người trên tuyết liền đưa mắt hỏi A Cốt Ðả.
A Cốt Ðả giơ tay ra hiệu cho hiểu đây đã gần đến bộ lạc gã ở. quả nhiên đi hết hai khu thung lũng, thấy trên sườn núi phía đông xám xịt lộ ra mấy doanh trại quây bằng da các giống thú sắc trắng.
A Cốt Ðả chũm môi lên như một hồi còi, lát sau có người chạy ra đón.
Tiêu Phong theo A Cốt Ðả lại gần, thì thấy phía trước trại nào cũng đốt một đống lửa.
Xung quanh đống lửa có vô số đàn bà con gái ngồi hoặc khâu da thú rừng hoặc ướp thịt dã thú.
A Cốt Ðả dẫn Tiêu Phong đến trước trại lớn nhất, vén màn bước vào.
Tiêu Phong cũng theo A Cốt Ðả đi vào thấy trong trại có mười mấy người ngồi quanh quẩn đang uống rượu.
Mọi người nhìn thấy A Cốt Ðả lớn tiếng reo mừng.
A Cốt Ðả trỏ Tiêu Phong nói liến thoắng một hồi.
Tiêu Phong coi bộ dạng biết rằng gã đang thuật lại chuyện mình tay không đánh chết hổ.
Cả bọn xúm đến quanh mình Tiêu Phong, chỉ thẳng ngón tay cái lên trầm trồ khen ngợi.
Ðang lúc câu chuyện náo nhiệt bỗng có một người Hán ăn mặc ra kiểu mãi võ từ ngoài chạy vào.
Gã nhìn Tiêu Phong hỏi:
- Lão gia biết tiếng Hán không?
Tiêu Phong mừng như bắt được của đáp ngay:
- Biết chứ! Biết chứ!
Rồi ông hỏi đến lai lịch bộ này, thì rằng:
- Ðây là trại vị tù trưởng bộc lạc Nữ Chân. Lão râu đen ngồi giữa là tù trưởng tên gọi Hòa Lý Bố.
Lão có 11 người con mà toàn là những tay anh hùng hảo hán. A Cốt Ðả là con thứ lão.
Người Hán vừa vào đã tự giới thiệu với Tiêu Phong tên gọi Hứa Trác Thành.
Hàng năm cứ đến mùa đông là lại tới mua nhân sâm cùng lông da thú rừng và ở đây cho đến sang xuân mới về.
Hứa Trác Thành hiểu tiếng Nữ Chân. Lúc này Tiêu Phong nhớ làm thông ngôn cho mình.
Người Nữ Chân rất kính phục những bậc anh hùng hảo hán.
Gã Hoàn nhân Cốt Ðả là người thông minh nhanh nhẹn, được phụ thân gã rất mến yêu.
Người trong bô lạc ai cũng ưa chuộng gã.
Gã khen Tiêu Phong nứt lưỡi, nên mọi người đối đãi với ông như một bậc thượng khách, cự kỳ cung kính.
-
Hồi 45 - Mối Hận Thù Giữa Bộ Lạc - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 45 - Mối Hận Thù Giữa Bộ Lạc
Nữ Chân và người Khất Ðan
A Cốt đã nhường lều của mình làm nơi cư trú cho Tiêu Phong cùng A Tử.
A Cốt đã là người có quyền thế lớn trong bộ lạc Nữ Chân.
Túp lều của y rộng rãi quang đãng hơn người thường nhiều.
Tiêu Phong từ chối mấy câu.
Nhưng A Cốt đã nhất định không chịu.
Tiêu Phong là người tính tình khoáng đạt, thấy đối phương có ý chân thành, liền ẵm A Tử vào trong lều nghĩ ngơi.
Tối hôm ấy bộ lạc Nữ Chân mở ra tiệc lớn để hoan nghênh Tiêu Phong.
Họ nấu thịt hai con cọp làm món trân hào cho bữa tiệc.
Tiêu Phong hơn nữa tháng nay không biết mùi rượu là gì, bây giờ đuợc người Nữ Chân đem ra từng túi da đựng rượu mạnh, ông uống hết túi này đến túi khác khoan khoái vô cùng!
Người Nữ Chân cất rượu không ngon lắm, nhưng chất rượu cực mạnh, người thường chỉ uống được nữa túi nhỏ đã say mèm. Thế mà Tiêu Phong uống liền một lúc hơn mười túi, sắc mặt vẫn không biến đổi.
Người Nữ Chân cho ai có tửu lượng giỏi là bậc hảo hán.
Lúc Tiêu Phong tay không đánh chết cọp, họ không đước mắt thấy, nhưng xem ông uống rượu thì cả mười mấy Ðại Hán Nữ Chân cộng lại cũng chưa bằng mình ông, tất nhiên là ông được ai nấy kính sợ.
Ðêm hôm ấy uống rượu xong, Tiêu Phong nghĩ tại bộ lạc Nữ Chân trong lòng cảm thấy khoan khoái vô cùng.
Bọn người Nữ Chân không ai có thành kiến hẹp hòi, tính tình bộc trực, rất hợp với Tiêu Phong.
Hứa Trác Thành thấy người Nữ Chân đem lòng khâm phục Tiêu Phong, gã cũng cực kỳ cung kính.
Tiêu Phong ở bộ lạc này rỗi rãi quá không có việc gì làm.
Ban ngày ông cùng A Cốt đã đi săn. Tối về nhờ Hứa Trác Thành dạy tiếng Nữ Chân.
Khi ông đã học được đến bảy phần mười tiếng nói bộ lạc này, lại tự nghĩ mình là người Khất Ðan, nếu không biết nói Khất Ðan thì không được.
Ông liền nhờ Hứa Trác Thành dạy ông thứ tiếng mẹ đẻ ngay.
Hứa Trác Thành là một gã được đi nhiều nơi bất luận là tiếng Khất Ðan, tiếng Tây Hạ hay tiếng Nữ Chân đều rất thạo.
Tiêu Phong về lối học tiếng nói không được thông minh cho lắm, nhưng học mãi rồi cũng đủ phô diễn tư tưởng mình cho người khác hiểu, không cần phải thông dịch.
Ngày tháng thoi đưa, đông hết đã sang xuân.
Hàng ngày A Tử lấy nhân sâm làm cơm, thương thế nàng đã khá nhiều.
Nên hiểu rằng bộ lạc Nữ Chân ở nơi sơn dã hoang vu, đào được những thứ nhân sâm lâu ngày vào hạng thượng phẩm, thực là quí hơn cả vàng bạc nữa.
Mỗi lần Tiêu Phong đi săn đều được nhiều dã thú, liền đem về đổi lấy nhân sâm cho A Tử dùng.
Thời bấy giờ trừ phi là công chúa của đức Hoàng đế, còn bất luận là ai, cũng không có nhân sâm mà uống.
Tiêu Phong mỗi ngày chỉ cần vận khí dồn lực vào cho A Tử hai lần là đủ, không phải đặt bàng tay lên lưng nàng suốt ngày đêm như trước nữa. A Tử có đôi khi đã gắng gượng nói được vài câu, song tứ chi tuyệt lực, không nhúc nhích được.
Những việc ẩm, thực, của nàng nhất nhất đều do Tiêu Phong lo liệu.
Mỗi khi ông nhớ tới thâm tình của A Châu thì dù có phải nhọc nhằn về A Tử ông cũng vui lòng chẳng những không ân hận chút nào mà còn cảm thấy việc thị phụng A Tử càng cực bao nhiêu càng tỏ lòng báo đáp ân tình của A Châu bấy nhiêu.
Một hôm A Cốt đã đem hơn mười người trong bộ lạc đi săn con gấu lớn ở ngọn núi về phía Tây Bắc.
Gã mời Tiêu Phong cùng đi. Con gấu lớn này da đã dày, lại nhiều mỡ. Hùng Chưởng (tay gấu) là một món ăn trân qúy thời bấy giờ.
Tiêu Phong đã nghĩ được ít lâu, thấy A Tử tinh thần tiến rất nhiều nên vui vẻ đi theo.
Ðoàn người ra đi từ lúc chưa sáng, nhằm hướng Tây Bắc mà tiến.
Bấy giờ sang tiết đầu hạ, băng rữa tuyết tan, đường bùn lầy rất khó đi, song người Nữ Chân cước lực rất mạnh nên vẫn đi được mau lẹ.
Ðến khoảng giờ ngọ đã đi được chừng hơn trăm dặm. Tiêu Phong băn khoăn về A Tử ở nhà, ông lo còn phải đi xa nữa, bỗn thấy một người già la lên.
- Gấu! Gấu!
Mọi người nhìn về phía tay lão trỏ, thấy dưới bùn lầy còn in những vết tay gấu rất lớn.
Cách đó không xa nhìn rõ cả vết chân. Mọi người phấn khởi theo vết chân gấu đuổi theo.
Con gâu lớn chân tay ấn sâu xuống đất đến vài tấc, dù là đứa nhỏ chẳng biết theo bút.
Ðoàn Ðại Hán vừa đuổi theo vừa reo, vết chân đi thẳng về phía Tây.
Sau khi ra khỏi quãng bùn lầy, đến một cánh đồng cỏ, mọi người chạy mau.
Ðoàn người đang hấp tấp rượt gấu, bất thình lình nghe tiếng vó ngựa dồn dập phía trước cát bụi bay mù, một đại đội nhân mã chạy nhanh tới.
Chỗ này là một cánh đồng cỏ bằng phẳng, một con gấu đen quay quanh chạy trở lại vì phía sau có bảy tám chục người cưởi ngựa hò hét đuổi theo.
Ðoàn người ngựa này hoặc cầm trường mâu, hoặc mang tên ná người nào coi bộ cũng rầt hung hăng.
A Cốt đã la lên:
- Bọn Khất Ðan! Bọn Khất Ðan! Chúng nhiều người lắm, ta chạy đi thôi!
Tiêu Phong nghe nói là bản xứ, trong lòng đã có ý muốn lận cận, nhưng thấy A Cốt đã trở gót trốn chạy.
Mình ông không tiện tới, đành dừng bước lại để xem cho rõ.
Bỗng thấy bọn Khất Ðan hô lớn:
- Nữ Chân man tử! Bắn chúng đi! Bắn chúng đi! Những tiến lách tách vang lên, không ngờ tê bắn ra như mưa.
Tiêu Phong trong lòng căm giận lẩm bẩm:
- Sao chưa hỏi nguyên do, vừa thấy mặt bắn ngay lập tức?
Mấy mũi tên bắn tới bên mình, đều bị ông giơ tay ra hất đi.
Bỗng nghe một tiếng rú ối chao rất thê thảm.
Một ông gìa người Nữ Chân trong bọn đi săn bị bắn trúng lưng, ngã xuống chết liền.
A Cốt đã dẫn mọi người chạy núp vào phía sau một mô đất nằm xuống, giương cung lên bắn ngã hai tên Khất Ðan.
Tiêu Phong đứng giữa không biết nên giúp bên nào.
Bọn cung nỏ Khất Ðan nhắm Tiêu Phong bắn không ngớt bằng những mũi tên dài.
Tiêu Phong nắm được một mũi tên tiện tay múa lên để rồi rớt xuống tới tấp.
Ông lớn tiếng quát hỏi:
- Các ngươi làm gì vậy? Sao chưa hỏi han gì đã ra tay giết người.
A Cốt đã ở sau mô đất lớn tiếng gọi:
- Tiêu đại ca, Tiêu đại ca! Lại đây mau! Bọn chúng không biết đại ca là người Khất Ðan đâu!
Giữa lúc ấy có tên Khất Ðan vác mâu phóng ngựa đến trước mặt Tiêu Phong.
Hai gã hai bên đâm vào cạnh sườn ông.
Tiêu Phong không muốn sát hại người đồng tộc giơ tay ra nắm lấy hai mũi mâu khẽ giật một cái, cả hai đều ngã lăn xuống ngựa.
Tiêu Phong liền dùng cán mâu khều hai gã lên.
Hai gã đang lơ lửng trên không và kêu thét lên, thì Tiêu Phong đã bất ngã xúaông đất, hồi lâu không bò dậy được.
Bọn A Cốt đang lớn tiếng hoan hô.
Bỗng thấy một Ðại Hán mặc áo hồng bào trong bọn Khất Ðan đang lớn tiếng truyền lệnh.
Mấy chục tên Khất Ðan chia ra làm hai cánh bao vây xa xa để chận đường về bọn A Cốt đả.
A Cốt đã thấy thế nguy, nếu để lọt vào vòng vây bên địch, tất bị chết hết.
Gã liền hô đồng đảng xoay mình chạy trốn.
Bọn Khất Ðan tên bắn như mưa, lại mấy người Nữ Chân nữa trúng tên té nhào.
Tiêu Phong thấy người Khất Ðan dã man vô cùng không biết là lẽ phải.
Tuy họ là người cùng chủng tộc cũng không thể nhường nhịn được nữa.
Ông liền cướp một cây cung lớn, bắn luôn bốn phát:
Cách! Cách! Cách! Cách!.
Mỗi mũi tên đều trúng vào vai hoặc vào đùi khiến cho bốn gã Khất Ðan phải ngã ngựa, nhưng chưa đến nỗi mất mạng.
Không ngờ lão mặc áo hồng bào lớn tiếng quát, bọn người Khất Ðan chẳng những không lùi mà con phóng ngựa đuổi theo cực kỳ hung hăng.
Tiêu Phong thấy trong bọn đi với mình chỉ có A Cốt Ðã và ba thanh niên vừa bắn vừa chạy, ngoài ra đều bị Khất Ðan bắn chết hết.
Cánh đồng cỏ này không có chỗ nào ẩn nấp được, Tiêu Phong xem chừng nếu còn đánh nữa thì cả A Cốt Ðã.
Ông nghĩ đến mình được người Nữ Chân trọng đãi vào hàng thượng tân, rồi tự hỏi: "Những người bạn tốt gặp bước nguy nan mà mình không che chở được thì sao đáng mặt anh hùng hảo hán! Nếu mình lại giết hết bọn Khất Ðan là người cùng chủng tộc thì sao cho đành dạ? Ông nghĩ chĩ còn cách bắt lấy lão cầm đầu mặc áo hồng bào, buộc y phải hạ mình lui binh hai bên bãi chiến là hơn cả.
Nghĩ vậy, Tiêu Phong lớn tiếng quát:
- Này! Này! Nếu bọn ngươi không lùi bước thì ta không nể kêu!
Chưa dứt lời, ba cây trường mâu"vù vù"phóng tới.
Tiêu Phong nghĩ bụng: "Bọn này thật không, biết đều chút nào." Ông hạ thấp người lạng nhanh lại phía người mặc áo hồng bào.
A Cốt Ðả thấy Tiêu Phong mạo hiểm thì hốt hoảng la lên:
- Không được đâu! Tiêu đại ca! Về đây mau!
Tiêu Phong chẳng nói gì cứ việc xông lại.
Bọn Khất Ðan la ó rầm lên, kẻ bắn tên, người phóng mâu đến tới tấp.
Tiêu Phong phóng chưởng ra đánh. "choang" một tiếng, một cây trường mâu gãy làm hai.
Ông cầm lấy cây trường mâu gãy, khác như thanh trường kiếm để gạt tên rồi chạy như bay xông đến trước người mặc áo hồng bào.
Lão này đây mặt râu đâm tua tủa, trông rất oai phong thấy Tiêu Phong xông lại, vẫn chẳng hoang man chút nào.
Lão giựt lấy ba cây thương ở trong tay bọn hộ vệ bên mình." Vèo"một tiếng, một cây thương nhắm Tiêu Phong phóng tới.
Tiêu Phong giơ tay ra nắm lấy.
Ngọn thương thứ hai phóng tới cũng bị Tiêu Phong chụp được nên hai gã hộ vệ ngã lăn xuống ngựa.
Người mặc áo hồng bào quát lớn:
- Thằng cha này giỏi thật! Lão phóng ngọng thương thứ ba ra.
Tiêu Phong giơ tay trái lên dùng thủ pháp "Tá lực đảlực" trở ngọn thương đâm trở ngược lại đánh "sột" một tiếng.
Mũi thương đâm sâu vào bụng ngựa lão mặc áo hồng bào.
Lão la lên:
- Úi chà!
Rồi không để mình ngã ngựa, lão nhảy phắt xuống.
Tiêu Phong uốn mình đi tiến lại vươn tay trái ra nắm lấy vai bên phải lão.
Giữa lúc ấy. Tiêu Phong nghe sau lưng có tiếng gió vù vù, biết là ngưới ám toán.
Ông liền vận kình lực vào hai chân đẩy mạnh người về phía trước hơn một trượng.
Hai tiếng phập phập vang lên, hai cây trường mâu cắm sâu xuống đất.
Tiêu Phong ôm lấy lão mặc áo hồng bào, nhảy sang bên tả, tới sau lưng một kỵ sĩ Khất Ðan.
Ông phóng chưởng ra hất gã nầy xuống rồi nhảy phốc lên lưng ngựa.
Lão mặc áo hồng bào vung quyền lên toan thúc vào mặt Tiêu Phong.
Tiêu Phong thích mạnh tay vào nách lão, khiến lão không nhúc nhích được nữa.
Ông bảo:
- Nếu ngươi không hạ lệnh cho đồng đảng rút lui thì ta bóp chết ngươi ngay tức khắc.
Lão mặc áo hồng bào bất đắc dĩ phải la lên:
- Anh em rút lui đi.
Bọn Khất Ðan lùi lại nhưng tới tấp xông đến bên Tiêu Phong, toan nhằm cơ hội để cứu viện cho thủ lãnh.
Tiêu Phong cầm mũi mâu chí vào đầu lão mặc áo hồng bào quát hỏi:
- Các ngươi có muốn ta đâm chết lão này không?
Một lão gìa Khất Ðan la lên:
- Ngươi muốn yên lành thì thả ngay thủ lãnh bọn ta. Nếu không sẽ bị năm ngựa phân thây lập tức.
Tiêu Phong cười ha hả vung chưởng lên nhắm lão cách không phóng ra.
Nguyên Tiêu Phong muốn phóng chưởng này thị uy hăm dọa bọn chúng để khỏi phải giết hại nhiều người, nên ông dùng sức rất mạnh. Vừa nghe"binh"một tiếng, lão hán bị chưởng phong đánh hất từ trên ngựa bay ra ngoài mấy trượng miệng hộc máu tươi ra chết liền.
Bọn Khất Ðan chưa thấy ai có thần lực phóng chưởng ra không tian mà lợ hại đến thế, đều dừng ngựa lùi về phía sau, mặt lộ vẻ hoảng hốt, chỉ lo Tiêu Phong phóng chưởng lực không hình không bóng, khác nào yêu pháp đánh vào đâu cũng khó lòng chống nổi.
Tiêu Phong nói:
- Nếu bọn ngươi không rút lui, ta phóng chưởng đánh chết lão này ngay.
Ông vừa nói vừa giơ tay lên như muốn đánh vào đầu lão mặc hồng bào.
Lão la hoảng:
- Các người lui đi! Lui mau đi.
Bọn Khất Ðan cho ngựa lùi lại mấy bước nhưng vẫn chưa chịu rời khỏi nơi đây.
Tiêu Phong nghĩ bụng:
- Chỗ này là một giải bình ngục gát. Kêu mình tha cho lão thủ lĩnh thì bọn Khất Ðan cưỡi ngựa rượt theo vẫn không thể trốn thoát được.
Ông liền bảo lão mặc hồng bào:
- Ngươi bảo chúng đem bốn con ngựa lại đây.
Lão mặc hồng bào theo lời ra lệnh cho bọn kỵ sĩ Khất Ðan giắt bốn con ngựa lại giao cho A Cốt Ðã.
A Cốt Ðã đang căm hận bọn Khất Ðan sát hại bao nhiêu đồng đảng của mình, gã phóng quyền ra đánh binh mình tiếng khiến gã kỵ sĩ Khất Ðan dắt ngựa đến bị lăn đi mấy vòng.
Bọn Khất Ðan tuy nhiều người, nhưng không dám đánh trả.
Tiêu Phong lại nói:
- Ngươi ra lệnh cho thủ hạ hãy giết ngựa đi không được để một con nào.
Lão mặc hồng bào tính nết mau mắn, không tranh luận với Tiêu Phong nữa, lớn tiếng truyền lệnh.
- Các ngươi xuống ngựa và đâm chết hết ngựa đi!
Bọn kỵ sĩ không do dự chút nào, nhảy xuống ngựa rồi dùng trường mâu đâm chết ngựa của mình.
Tiêu Phong không ngờ bọn võsĩ lại ngoan ngoãn tuân theo lời thủ lãnh đến thế, trong lòng sinh ra cảm phục.
Ông lại nghĩ:
- Lão mặc hồng bào này xem ra có địa vị rất tôn qúi. Lão chỉ hô một tiếng là bọn kỵ sĩ không dám trái lệnh. Quân lệnh người Khất Ðan nghiêm minh như vậy không trách gì họ đánh nhau với người Tống, phần nhiều thắng trận.
Tiêu Phong lại nói:
- Ngươi bảo đồng đảng về đi, không được đuổi theo chỉ một người truy kích là ta chặt một cánh tay ngươi. Hai người truy kích ta chặt hai tay, bốn người truy kích là cả tứ chi.
Lão mặc hồng bào tức giận râu dựng ngược lên, nhưng đã bị Tiêu Phong uy hiếp, chẳng còn làm thế nào được, bất đắc dĩ phải ra lệnh:
- Các ngươi về cả đi! Sau này sẽ điều động nhân mã đến phá sào huyệt bọn Nữ Chân.
Bọn võ sĩ đồng thanh đáp:
- Xin tuân lệnh.
Vừa đáp vừa khom lưng ra chìu cung kính.
Tiêu Phong dắt ngựa chờ cho bọn A Cốt Ðã lên ngựa hết nhắm hướng Ðông rong đuổi theo đường cũ.
Ông thấy bọn A Cốt Ðã đi mấy dặm, mà bọn Khất Ðan không đuổi theo.
Bấy giờ ông mới nhảy sang yên con ngựa khác, nhường con ngựa vừa cưởi cho lão mặc hồng bào.
Cả sáu người ngựa đi thẳng một mạch về đến đại doanh.
A Cốt Ðã đem việc gặp giặc bẩm với phụ thân là Hòa Lý Bố.
Ðã tường thuật được cả việc Tiêu Phong giải cứu và bắt thủ lĩnh Khất Ðan đưa về.
Hòa Lý Bố rất mừng nói:
- Hay lắm! Ðem con chó Khất Ðan vào đây cho ta!
Lão mặc hồng bào tiến vào trong trướng vẻ mặt vẫn ngang nhiên lẫm liệt, đứng thẳng người chứ không chịu qùy.
Hòa Lý Bố biết lão là người tôn quý bên Khất Ðan, cất tiếng hỏi:
- Ngươi tên họ là chi? Làm chức tước gì bên Liêu Quốc?
Lão ngang nhiên đáp:
- Ta có phải bị ngươi bắt về đâu mà ngươi hỏi được ta?
Nguyên người Khất Ðan cũng như người Nữ Chân đã có lệnh hễ ai bắt được địch nhân đó chỉ làm nô lệ riêng cho người đã bắt được. Ai bắt được con gái, tiền bạc cũng gĩư riêng làm của mình. Nếu người bắt được không bằng lòng tặng cho thì bất luận là ai cũng không tranh lại được.
Ðây là một thông lệ cho tất cả các dân tộc dã man cùng các bộ lạc khắp bốn phương Ðông Tây Nam Bắc.
Hòa Lý Bố cười ha hả nói:
- Người nói phải đó!
Lão mặc hồng bào chạy đến trước mặt Tiêu Phong .
Tiêu Phong đưa tay phải lên trán nói:
- Thưa chủ nhân! Chủ nhân là bậc anh hùng quán thế, tôi đã bị bắt, tuyệt không oán hận điều chi. Nếu anh hùng bằng lòng thả tôi về thì tôi xin đem ba chục xe bạc trắng, ba trăm con tuấn mã lại kính dâng.
Thúc phụ A Cốt Ðã là Phã Lạp Thục nói:
- Ngươi là bậc đại quý ở Khất Ðan mà chỉ chuộc có thế, không đủ, Tiêu hảo hán! Hảo hán bắt y phải đem ba chục xe vàng, ba trăm xe bạc, ba nghìn tuấn mã đến chuộc.
Nguyên ba xe vàng, ba chục xe bạc, ba trăm con tuấn mã cũng là nhiều lắm rồi.
Người Khất Ðan và người Nữ Chân giao chiến đã mấy chục năm nay, chưa bao giờ có khoản thục kim lớn đến thế. Nếu lão hồng bào không chịu thêm nữa thì cũng chịu nhận cho xong, không ngờ lão hồng bào ngần ngừ một lát rồi đáp:
- Thôi, thế cũng được!
Những người trong bộ lạc Nữ Chân nghe lão mặc áo hồng bào Khất Ðan ưng chịu khoản thục kim như lời Phã Lạp Thục đều lấy làm kinh ngạc. Họ còn ngờ là tai nghe không rõ.
Nên biết rằng, hai chủng tộc Nữ Chân cùng Khất Ðan tuy là những chủng tộc bán khai, kiến thức về văn hóa hãy còn lạc hậu, nhưng đã giao ước điều chi thì một là một, hai là hai, không bao giờ nói dối lời, dù là việc tầm thường cũng vậy, huống chi đây lại là khoản thục kim. Giả tỉ người Khất Ðan không nạp đủ số, hoặc cố ý phản phúc thì lão mặc áo hồng bào không được trở về nước, cho nên không ai hứa hông làm gì.
Phã Lạp Thục còn ngờ rằng lão bị bắt sợ hãi quá độ, thần trí mê man, liền nhắc lại:
- Ngươi đã nghe rõ chưa? Ta biểu ba mươi xe vàng, ba trăm xe bạ, ba ngàn con tuấn mã?
Người mặc áo hồng bào, vẻ mặt cực kỳ ngạo mạn, nói:
- Ba chục xe vàng, ba trăm xe bạc, ba ngàn cỗ ngựa có chi là không kể? Sau này nước Ðại Liêu ta giàu bốn bể, có cả thiên hạ thì khoản thục kim nhỏ mọn này đã vào đâu?
Dứt lời, lão quay lại nhìn Tiêu Phong ra chìu cung kính nói:
- Thưa chủ nhân! Tại hạ chỉ tuân lời một mình chủ nhân dậy còn kẻ khác nói chõ vào, tại hạ không thèm trả lời đâu.
Phã Lạp Thục nói:
- Tiêu huynh đệ! Bạn thử hỏi xem y làm quan chức gì bên nước Liêu?
Tiêu Phong đưa mắt nhìn người mặc hồng bào, chưa kịp hỏi thì đã nói ngay:
- Thưa chủ nhân! Chủ nhân muốn biết lai lịch tại hạ thì dù tại hạ nói quanh để lừa gạt chủ nhân, chắc chủ nhân cũng khó mà phân biệt được chơn hay giả. Nhưng chủ nhân là bực anh hùng hảo hán, tại hạ cũng là bậc anh hùng hảo hán. Tại hạ đã không muốn lừa thì chủ nhân bất tất hỏi làm gì.
Tiêu Phong quay tay trái rút thanh đoản đao ở sau lưng ra, dùng ngón tay phải bật vào lưỡi dao đánh keng một tiếng. Thanh đoản đao đúc bằng thép nguyên chất lập tức gãy làm hai đoạn.
Ông lớn tiếng quát:
- Người không chịu nói thì to gan thực! Ta chỉ bưng vào đầu ngươi một cái xem nó rắn đến đâu?
Người mặc áo hồng bào vẫn thản nhiên không sợ hãi gì, chìa thẳng ngón tay cái lên, khen:
- Bản lãnh tuyệt vời! Công lực ghê gớm! Bữa nay tại hạ được thấy người anh hùng thứ nhất trên thế gian thật là không uổng phí một đời. Tiêu anh hùng! Anh hùng cậy mạnh đè người muốn bắt tại hạ phải khuất phục thì không được đâu. Chủ nhân muốn giết thì giết, người Khất Ðan tuy không đánh nổi chủ nhân, nhưng cốt cách quyết không chịu kém.
Tiêu Phong cười ha hả nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Ta không giết ngươi tại đây. Vì nếu ta chỉ chém ngươi một nhát cho xong đời, vị tất ngươi đã chịu khâm phục. Vậy chúng ta đưa nhau đi tới một chỗ xa vắng để cùng nhau tỷ thí một phen.
Hòa Lý Bố cùng Phả Lạp Thục đồng thanh can:
- Tiểu huynh đệ! Giết lão này đi thì thực là đáng tiếc. Chi bằng lưu lão ta lại để lấy khoản thục kim hay hơn. Nếu ông bạn tức mình với lão thì nên dùng côn gỗ roi da đánh vào một chập là đủ.
Tiêu Phong nói:
- Không được! Lão muốn làm hảo hán, tại hạ không chịu được.
Nói xong, ông quay sang mượn cặp trường mâu và đôi cung nỏ của một người Nữ Chân đứng bên.
Ðoạn ông cầm cổ tay lão mặc hồng bào kéo đi ra khỏi đại trại.
Tiêu Phong nhẩy lên ngựa, giục:
- Ngươi cũng lên ngựa đi!
Lão mặc hồng bào coi chết như không, lão biết rõ mình đấu với Tiêu Phong tất là phải chết và lão ngờ rằng Tiêu Phong đã bắt được lão cũng như mèo vồ được chuột, chờn vờn chơi một lúc rồi mới giết.
Nhưng lão vẫn ngang nhiên chẳng sợ hãi gì, nhảy tót lên lưng ngựa nhắm hướng Bắc mà đi.
Tiêu Phong cưỡi ngựa theo sau.
Hai người đi được vài dặm Tiêu Phong nói:
- Bây giờ rẽ về hướng Tây!
Lão mặc hồng bào nói:
- Phía Tây phong cảnh rất đẹp. Ta được chết tại đó cũng hả.
Tiêu Phong nói:
- Khí giới đây ngươi đón lấy!
Rồi đưa cho lão một thanh trường mâu, một cây cung.
Lão đón lấy rồi dõng dạc nói:
- Tiêu anh hùng! Tại hạ biết rõ là không đủ sức đối địch với anh hùng. Song người Khất Ðan thà chết chứ không chịu nhục. Tại hạ động thủ đây!
Tiêu Phong nói:
- Khoan đã!
Rồi liệng thanh trường mâu và cây cung đang cầm trên tay xuống đất.
Hai tay không cầm binh khí.
Tiêu Phong dừng ngựa tủm tỉm cười.
Lão mặc hồng bào cả giận nói:
- À! Ra ngươi muốn tay không để đấu với ta. Thế thì ngươi kinh ta quá lắm!
Tiêu Phong lắc đầu nói:
- Không phải thế, Tiêu mỗ bình sinh rất kính trọng những bậc anh hùng, rất mến tiếc những tay hảo hán. Võ công ngươi tuy không bằng ta, nhưng cũng là một tay đại anh hùng, đại hảo hán, xứng đáng là người bạn của Tiêu mỗ. Vậy Tiêu mỗ để cho hảo hán về nước.
Lão mặc hồng bào cả kinh hỏi:
- Thế nào?
Tiêu Phong tươi cười đáp:
- Ta đã bảo hán là người bạn tốt của Tiêu mỗ. Vậy để hảo hán bình yên về nước.
Lão mặc hồng bào khác nào người ở dưới qủy môn quan được trả về, mừng rỡ khôn xiết, hỏi lại:
- Tiêu anh hùng thả ta về thật ư? Hay là anh hùng có dụng ý. Ta về rồi sẽ cho người đem thục kim gấp mười lần đến trao anh hùng.
Tiêu Phong khoát tay nói:
- Ta đã lấy tình bạn đối với hảo hán, sao hảo hán lại không lấy nghĩa bằng hữu đối đãi với ta? Tiêu Phong này đường đuờng một đấng anh hào, há còn đi tham tiền bạc hay sao?
Lão mặc hồng bào nói:
- Dạ! Dạ!
Ðoạn quăng binh khí, nhẩy ra khỏi mình ngựa quỳ xuống đất nói:
- Ða tạ ân công đã mở lượng hải hà tha mạng cho.
Tiêu Phong cũng quỳ xuống đáp lễ nói:
- Tiêu Phong đã không giết bạn khi nào còn dám nhận lạy của bạn. Nếu là kẻ nô lệ để Tiêu mỗ nhận lạy thì Tiêu mỗ quyết không tha mạng đâu.
Lão mặc hồng bào mừng quá, đứng lên nói:
- Tiêu anh hùng! Anh hùng một điều gọi tại hạ là bạn, hai điều gọi tại hạ là bạn. Tại hạ muốn với lên cao cùng anh hùng kết làm anh em được không?
Tiêu Phong sau khi học thành tài liền gia nhập ngay vào Cái Bang. Trong bang, phân chia địa vị rõ rệt. Trên là Bang Chúa, phó Bang Chúa, dưới có các vị trưởng lão, truyển công, chấp pháp, và bốn vị trưởng lão đại hộ pháp. Sau nữa đến Ðà chúa các phân Ðà. Các hạng đệ tử thì từ Bát Ðại (tám túi) thất đại trở xuống. Tại Cái Bang ông chỉ là nguời làm nên công trung vẻ vang, chứ chưa từng kết nghĩa anh em với ai. Vềsau tại thành Vô Tích, nhân cuộc uống rượu thi cùng Ðoàn Dự, vì cũng hâm mộ nhau mà kết nghĩa chi lan. Bây giờ, ông thấy người mặc áo hồng bào đề cập đến việc này, bỗng nhớ lại những năm mình ở Trung Nguyên giao du với các bậc hào kiệt khắp thiên hạ, bữa nay bôn đào đến nước man mọi, cảm thấy mình phiêu lưu cô độc, lại có người nêu ra việc này thì trong lòng ông không khỏi cảm kích. Ông nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Tại hạ là Tiêu Phong, năm nay ba mươi ba tuổi, còn tôn huynh bao nhiêu?
Người đó cười nói:
- Tại hạ người họ Gia Luật, lớn hơn ân công mười một tuổi.
Tiêu Phong nói:
- Sao huynh trưởng còn kêu tiểu đệ bằng ân công? Huynh trưởng là đại ca, vậy nhận cho tiểu đệ một lạy này. Nói xong lạy phục xuống. Ðoạn đốt lông đuôi mũi tên làm hương khói rồi hai người trông lên trời lây tám lạy, kết làm anh em.
Gia Luật Cơ rất mừng nói:
- Hiền đệ họ Tiêu, dường như cũng là người Khất Ðan với ta.
Tiêu Phong nói:
- Chẳng dấu gì đại ca, Tiểu đệ nguyên là người Khất Ðan.
Nói xong cởi áo ra để hở dấu chàm đầu con Lang sắc xanh ở trước ngực.
Gia Luật Cơ trông thấy cả mừng nói:
- Quả nhiên đúng rồi. Hiền đệ thuộc dòng họ Vương hậu nước Khất Ðan ta. Hiền đệ ơi! Ðất Nữ Chân rét quá chi bằng hiện đệ theo ta về thượng kinh cùng hưởng phú quý.
- Xin đa tạ hảo ý của ca ca. Tiểu đệ vốn là người nghèo hèn không hợp với đời sống nơi giàu sang. Tiểu đệ ở lại Nữ Chân để săn đón uống rượu làm vui, tiêu dao ngày tháng hay hơn. Sau này nhớ tới ca ca sẽ trở về Liêu Quốc thăm hỏi.
Tiêu Phong từ giả A Tử ra đi đã lâu, sự nhớ đến thương thế nàng liền nói:
- Ca ca ơi! Ca ca về đi để người nhà cùng bọn thuộc hạ khỏi mong đợi.
Gia Luật Cơ gật đầu nói:
- Thế cũng hay! Bữa nay trong lúc thảng thốt anh em mình chưa được nói chuyện nhiều, nhưng chúng ta đã kết nghĩa chi lan, sau này thì thân cận nhiều hơn mới được.
Gia Luật Cơ nói xong lên ngựa nhắm hướng Tây mà đi.
Tiêu Phong cũng lên ngựa quay về thì thấy A Cốt Ðã dẫn mười tên thuộc hạ ra nghênh tiếp.
Nguyên A Cốt Ðã thấy Tiêu Phong đi lâu không về, rất sợ ông không phải gian kế người mặc áo hồng bào, trong lòng hồi hộp không định đi tiếp ứng.
Tiêu Phong kể cho gã nghe mình đã tha cho người mặc áo hồng bào về nước Liêu rồi.
A Cốt Ðã cũng là bậc anh hùng có kiến thức, rất tán đồng việc Tiêu Phong rỏ ra con người đại lượng.
Một hôm Tiêu Phong cùng A Cốt Ðã ngồi rỗi nói chuyện, ông đề nghị tới chuyện A Tử bị thương do chưởng lực mình lỡ tay gây ra. Tuy đã dùng nhân sâm để duy trì tính mạng cho nàng nhưng lâu ngày vẫn không khỏi được nên trong lòng rất là phiền muộn.
A Cốt Ðã trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
- Tiêu đại ca! Thế ra lệnh Muội bị ngoại thương. Người Nữ Chân chúng tôi ai bị đánh hay bị ngã thành thương tích thì vẫn dùng gân hổ, xương hổ và mật gấu, ba vị đó làm thuốc điều trị rất hiệu nghiệm Ðại ca thử chữa bằng thứ đó coi.
Tiêu Phong cả mừng nói:
- Thứ gì thì khó, chứ gân hổ, xương hổ đây chẳng thiếu gì. Chỉ còn mật gấu thì tôi rán đi tìm giết, lấy mật là đủ.
Ðoạn ông hỏi rõ cách dùng rồi đem xương hổ, gân hổ nấu nhừ thành cao cho A Tử uống.
Sáng sớm hôm sau, Tiêu Phong vào rừng sâu chằm lớn để săn gấu.
Ông chỉ đi có một mình nên hết sức thì triển khinh công, so với cuộc đi săn đông người được mau lẹ hơn nhiều.
Hôm đầu ông không tìm thấy dấu vết con gấu đen nào.
Ðến ngày thứ hai ông săn được một con, liền mổ ra lấy mật chạy về trại cho A Tử uống dần.
Cao Hồ Cốt cùng mật gấu và nhân sâm lâu năm ở núi Trường Bạch đều là những dược vật rất qúy báu để trị thương thế, nhất là mật gấu còn tươi nguyên ở Trung Nguyên lại càng khó kiếm.
Lão Tiết Thần Y tuy là tay chữa bịnh như thần, song nếu không có được vật cũng không xong.
Ðem tài lão so với Tiêu Phong chỉ trong vài ngày đã kiếm được mật gấu cho A Tử uống thì Tiết Thần Y cũng khó mà bì kịp.
Âu cũng là số mệnh A Tử chưa đến nổi chết nên đến gần núi Trường Bạch chính là nơi sản xuất nhân sâm rất nhiều, mà cũng là nơi tìm được cao xương hổ cùng mật gấu rất dễ.
Hơn nữa lại được Tiêu Phong có một bản lĩnh ghê người để chạy chữa cho nàng.
Hơn hai tháng trời A Tử đã uống hơn hai mươi cái mật gấu, thương thế bớt rất nhiều.
Gân Cốt trước ngực nàng bị gãy nát đã nối liền lại được.
Thỉnh thoảng nàng đã nói được bảy tám tiếng liền.
Tiêu Phong rất lấy làm an ủi trong lòng vì xem ra tính mạng A Tử có cơ vãn hồi được.
Chỉ cần ở lại chân núi Trường Bạch này trong vài năm là nàng có hy vọng hoàn toàn khỏi hẳn.
Một hôm về buổi chiều Tiêu Phong đương ngồi trước trại chặt xương hổ, cạo gân hổ để nấu cao, bỗng thấy một người Nữ Chân hấp tấp chạy lại nói:
- Tiêu đại ca ơi! Có mười mấy người Khất Ðan đưa đồ lễ đến đại ca đó!
Tiêu Phong reo lên một tiếng biết ngay rằng đó là người của nghĩa huynh Gia Luật Cơ đến.
Bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, một toán người ngựa từ từ đi trên lưng ngựa thì đều xếp đầy phẩm vật.
Người đội trưởng Khất Ðan đã được nghe Gia Luật Cơ kể lại tướng mạo Tiêu Phong nên vừa trông thấy từ đằng xa đã biết rồi.
Gã xuống ngựa chạy đến trước mặt, lạy phục xuống đất nói:
- Từ khi chủ nhân tiểu tốt cùng Tiêu đại nhân chia tay, người nhớ tưởng đại gia đêm ngày, nay sai tiểu tốt đưa lễ mọn sang mời Tiêu Phong nhân qua Thượng Kinh chơi ít bữa để chủ nhân tiểu tốt được thỏa đáng bấy lâu khát vọng.
Nói xong dập đầu lạy, rồi hai tay đưa trình lễ đơn một cách cực kỳ cung kính.
Tiêu Phong cầm lễ đơn cười nói:
- Ðại ca thật hậu tình quá! Thôi ngươi đứng dậy đi!
Ông mở lễ đơn ra coi trong đơn kê:
- 5000 lạng vàng, 50. 000 lạng bạc, 1000 trâu béo, 5000 con cừu, 3000 tuấn mã.
Ngoài ra còn đầ mặc, đồ dùng không thiếu thứ gì.
So với khoản bạc kim mà Phả Lập Thục yêu sách hôm trước thì trong lễ đơn này còn lâu hơn gấp mấy.
Tiêu Phong xem lễ đơn xong không khỏi giật mình.
Lúc ban đầu nhìn thấy mưới mấy con ngựa thồ chất đầy phẩm vật đã cho là nhiều lắm rồi.
Nhưng so với trong lễ đơn thì không biết phải bao nhiêu ngựa mới chất hết.
Gã đội trưởng khom lưng nói:
- Chủ nhân tiểu tốt lo rằng trong khi đi đường xa những giống sẽ thất lạc đi phần nào, cho nên ngoài số trâu lừa ngựa kê trong lễ đơn, người còn đưa thêm đi một số để dự bị điển khuyết. May nhờ thiêng phúc của Tiêu đại gia cùng của chủ nhân tiểu tốt, dọc đường không gặp mưa tuyết hay dã thú chi hết nên sự tổn thất không có gì đáng kể.
Tiêu Phong cảm động nói:
- Gia Luật ca ca chu đáo đến thế kia ư? Nếu ta không nhận thì sợ phụ lòng người mà thu nhận thì ta chẳng yên tâm chút nào.
Ðội trưởng nói:
- Chủ nhân tiểu tốt dặn đi dặn lại rằng Tiêu đại gia chối từ không nhận thì tiểu tốt về sẽ bị trọng phạt.
Bất thình lình hiệu tù và nổi lên inh ỏi.
Mọi người trong các doanh trại Nữ Chân đều cầm đao thương, cung tên chạy ra.
Rồi có tiếng hô lớn:
- Quân địch đã kéo đến, ai nấy phải chuẩn bị nghênh chiến.
Tiêu Phong nhìn về phía có hiệu tù và nổi lên, thì thấy cát bụi bay mù, tựa hồ có vố số quân mã đang tiến về phía đó.
Bọn Khất Ðan có người lên tiếng gọi to:
- Các vị khỏi hoang mang đó là toán trâu dê lừa ngựa của Tiêu đại gia.
Họ dùng tiếng Nữ Chân kêu gọi liền mấy lần, song bọn người Nữ Chân không tin.
Bọn Hòa Lý Bố, Phả Lạp Thúc, A Cốt Ðã chia nhau ra thống lĩnh những toán người trong bộ lạc bày thành đội ngũ ở phía Tây ngoài doanh trại.
Ðây là lần đầu Tiêu Phong được xem người Nữ Chân bày thành trận thế để sẳn sàng nghênh địch, ông thấy các vị thủ lĩnh hiệu lịnh nghiêm minh và người trong bộ lạc đều kiêu dũng hăng hái thì nghĩ thầm: "Nhân số bộ lạc Nữ Chân tuy ít, song rất tinh nhuệ. Bọn thủ hạ chưa kiêu dũng bằng người Nữ Chân. Còn bọn quan binh nhà Ðại Tống ở Nhạn Môn Quan thì càng kém xa nữa.
Gã đội trưởng Khất Ðan nói:
- Tiểu tốt xin ra bảo thuộc hạ tạm phải dừng lại đừng tiến vào vội, để tránh hiểu lầm.
Gã nói xong trở gót nhày lên yên, toan gia roi cho ngựa chạy, thì A Cốt Ðã vẫy tay một cái.
Bốn tên Nữ Chân cũng lên ngựa theo sau gã đội trưởng Khất Ðan.
Năm gã cho ngựa đi từ từ tiến về phía trước.
Khi gần tới nơi thì thấy trâu dê lừa ngựa rải rác khắp trên đồi dưới nội.
Hơn một trăm mục tử Khất Ðan tay cầm gậy dài, quát tháo, xua đuổi bầy mục súc tuyệt không có một tên quân nào. Bốn gã người Nữ Chân thấy vậy bật cười, bắt ngựa quay về báo với Hòa Lý Bố.
Chẳng bao lâu đoàn súc vận đã đến gần. Tiếng trâu rống lẫn với tiếng ngựa hí rất là huyên náo, không còn ai nói ai nghe thấy gì nữa.
Tối hôm ấy, Tiêu Phong nhờ người Nữ Chân giết bò mổ dê đãi khách phương xã.
Sáng hôm sau Tiêu Phong lấy một ít vàng bạc gấm vóc tặng cho bọn Khất Ðan đưa lễ vặt đến.
Sau khi bọn Khất Ðan từ biệt ra về rồng ông đem vàng bạc gấm vóc để lừa ngựa chuyển hết lại cho A Cốt Ðã để gả chia cho người dòng bộ lạc.
Người Nữ Chân tự nhiên được vô số tài vật đều không xiết vui mừng!
Cả bộ lạc mở đại yên ăn uống mấy ngày. Ai nấy đều cảm ơn Tiêu Phong.
Quang âm thấm thoát, lại hết hạ sang thu. Bệnh tình A Tử đã bớt được vài phần. Tinh thần nàng đã tỉnh táo.
Suốt ngày, nàng nằm trong điều dưỡng thương thế, sinh ra chán ngán, nên nàng đòi Tiêu Phong lên ngựa để ra ngoài xem ngắm phong cảnh cho giải lòng sầu muộn.
Tiêu Phong nhất nhất chìu theo ý nàng.
Mấy tháng sau, trừ những ngày gió to tuyết lớn, A Tử đành chịu ở nhà, còn những ngày tạnh nắng hai người lại lên ngựa rong chơi.
Lâu những nơi gần quanh xem mãi cũng chán.
Hai người đem theo mùng mền đi khá xa để nghĩ đêm ở ngoài, có khi mấy ngày liền không về.
Tiêu Phong nhân cơ hội những đêm ở ngoài đi săn cọp, săn gấu đào nhân sâm về chữa thương cho A Tử.
Vì những mũi độc châm A Tử phóng ra là giết được cọp và gấu, cho nên ở khu vực này trông biết bao nhiêu cọp vằn, gấu đen đã bị về tay Tiêu Phong.
Muốn tiện cho việc tìm sâm, Tiêu Phong lại đi về hướng Ðông Tây, hướng Bắc.
Một hôm, A Tử bảo phong cảnh mặt đông và mặt bắc nàng xem qua rồi, còn muốn đi về phía Tây.
Tiêu Phong nói:
- Mé Tây chỉ là một cánh đồng cỏ rộng mông mênh, chả có sơn tây gì đáng xem hết.
A Tử nói:
- Nếu là cánh đồng cỏ bát ngát lại càng tốt, vì cánh đồng cỏ rộng, biển cả bao la, mà em chưa được coi biển cả bao giờ. Trước em ở Tinh Tú Hải, tuy gọi là biển, nhưng vẫn còn thấy bờ thấy bến.
Tiêu Phong nghe nàng nói đến ba tiếng "Tinh Tú Hải" trong lòng không khỏi băn khoăn.
Ông nghĩ:
- Gần một năm nay đến ở chung với người Nữ Chân bao nhiêu chuyện võ lâm đã quên dần. A Tử không được tự do hành động, nên không gây ra những vụ tàn nhẫn.
Ông chỉ nghĩ đến trị thương cứu mạng cho nàng chớ không bao giờ tưởng đến sau khi khỏi thương thế thì tính tình quái ác của nàng lại phát sinh thì làm thề nào?
Tiêu Phong ngoảnh đầu lại nhìn A Tử thấy khuôn mặt trái xoan trắng như tuyết chưa có một chút ánh hồng nào, hai má nàng lỏm vào và cặp mắt đen sâu hoắm, dung nhan cực kỳ tiều tụy, thì trong lòng không khỏi đau thương, ông lẩm bẩm:
- Nàng là một cô bé trước kia lanh lợi khả ái biết bao nhiêu vì bị trúng chưởng của mình đến nỗi thập tử nhất sinh biến thành chiếc thân tàn ma dại thế này, nỡ nào mình còn nghĩ đến những điều ác đức của nàng?
Nghĩ vậy, Tiêu Phong liền cười nói:
- Cô đã muốn đi về phía Tây thì tôi đưa cô đi. A Tử! Ðến khi cô khỏi bệnh, tôi sẽ đưa cô đến biên giới nước Cao Ly để xem biển cả thật, một làn nước biết bao la không còn nhìn thấy đâu là bờ là bến. Cánh đồng cỏ ở gần đây đã thấm vào đâu.
A Tử vỗ tay cười nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Em tưởng chẳng cần phải chờ cho em khỏi nữa, mà có thể ngay bây giờ.
Tiêu Phong "Ồ" lên một tiếng vừa sợ vừa mừng hỏi:
- Chân tay cô đã cử động được như thường chưa?
A Tử cười nói:
- Bốn năm hôm trước đây, hai tay em đã cất nhắc được rồi, hôm nay thì cử động càng linh hoạt hơn.
Tiêu Phong cả mừng nói:
- Hay quá! Cô ả tinh quái này lại nói dối ta rồi?
A Tử tia mắt thoáng lộ vẻ giảo quyệt mỉm cười nói:
- Chẳng thà em vĩnh viễn không nhúc nhích được hay hơn, vì có thế thì tỉ phu ngày nào cũng ngồi với em, chẳng hơn là em hết bệnh rồi tỉ phụ lại đuổi em đi!
Tiêu Phong nghe nàng nói bằng một giọng chân thành, quả nhiên chàng sinh lòng ái ngại cho nàng rủ rỉ hỏi:
- Ta thà là người thô lỗ cục cằn, mới sơ ý một lần mà đánh cô suýt uổng mạng, thì dù hàng ngày kề cận cô, phỏng chi là thú?
A Tử không trả lời, hồi lâu nàng mới hỏi khẽ:
- Tỉ phu ơi! Sao hôm ấy tỉ phu lại phóng chưởng đánh em mạnh đến thế?
Tiêu Phong không muốn nhắc lại chuyện cũ, lắc đầu gạt đi:
- Thôi việc đã qua rồi, cô còn nhắc làm chi? A Tử! Ta làm cô bị trọng thương như vậy, trong lòng rất hối hận, cô có giận tôi không?
A Tử đáp:
- Dĩ nhiên là em không oán giận. Tỉ phu thử nghĩ coi tại sao em không oán giận? Em chỉ mong được gần gũi tỉ phu, thì hiện nay tỉ phu chẳng ở liền bên cạnh em là gì? Thế là em thỏa lòng lắm rồi. Tiêu Phong nghe nàng nói vậy, tuy ông biết nàng là một cô bé có những quan niệm kỳ dị. Song thực ra gần đây tính nết nàng đã khá nhiều, có lẽ vì mình đã hết lòng chăm nom săn sóc nàng, giết cọp săn gấu để chữa bệnh đồng thời làm cho tính khí ngang chướng của nàng tiêu tan đi nhiều.
Ông sắp sửa xe ngựa và đồ dùng rồi cùng A Tử đi về hướng Tây.
Ði được mấy dặm A Tử bỗng hỏi Tiêu Phong:
- Tỉ phu đã đoán ra chưa?
Tiêu Phong nói:
- Ðoán cái gì?
A Tử nói:
- Hôm ấy vì lý do gì em dùng độc châm để ám hại tỉ phu?
Tiêu Phong lắc đầu đáp:
- Ý nghĩ của cô trời không biết, quỉ không hay, làm sao ta đoán trúng được?
A Tử thở dài nói:
- Tỉ phu không đoán ra thì thôi, bỏ đi chẳng nghĩ đến làm chi nữa. Tỉ phu! Kìa! Kìa! Ðoàn chim nhạn kia tại sao đang bay thành hàng xuống phương Nam?
Tiêu Phong ngẩng đầu lên thấy trên trời quả có hai đàn nhạn xếp thành hình chữ nhân bay xuống phương Nam liền đáp:
- Trời rét đến nơi! Nhạn là giống chim sợ rét, nên bay xuống phương Nam để tránh mùa giá lạnh.
A Tử lại hỏi:
- Ðến sang xuân, sao chúng lại trở về xứ Bắc? Nếu chúng sợ rét lạnh sao không ở luôn miền Nam có hơn không? Mỗi năm một chuyến bay về chẳng vất vả lắm ư?
Tiêu Phong từ thuở nhỏ chỉ chuyên tâm học võ công, còn về đặc tính các loài cầm thú chẳng bao giờ ông khảo sát đến, giờ bị A Tử bất chợt hỏi tới ông không biết trả lời ra sao, chỉ lắc đầu cười nói:
- Ta chẳng hiểu lẽ gì mà loài nhạn không quản ngại khó nhọc vất vả, có lẽ vì chúng sinh trưởng ở xứ Bắc, nên không bỏ được tấm lòng lưu luyến cố hương.
A Tử gật đầu nói:
- Nhất định là vì thế rồi. Tỉ phu coi đó mà coi. Loài nhạn dù bé nhỏ như vậy, thế mà bay xuống miền Nam rồi, sau gia gia, má má, tỷ nương rồi tỉ phu chúng nó bay trở về miền Bắc dĩ nhiên chúng cũng theo về.
Tiêu Phong nghe A Tử nói đến bốn chữ "Tỉ nương", "Tỉ phu" không khỏi động lòng, quay lại nhìn nàng, thấy nàng đang ngơ ngẩn trông đàn nhạn bên trời, tỏ ra câu nàng vừa nói đó là sự ngẫu nhiên, chứ không phải đã nghĩ từ trước bất giác ông động lòng, nghĩ thầm:
- Nàng buột miệng nói câu này thì ra buộc cả ta cùng gia nương nàng vào một chỗ, đủ tỏ trong thâm tâm nàng đã coi ta là người rất thân tình trong nhà, thế thì ta không nên rời nàng nữa. Ta đành chờ cho nàng khỏi bệnh rồi đưa về Ðại Lý để giao trả tận tay cha mẹ nàng mới xong trách nhiệm.
Hai người vừa đi đường vừa chuyện trò vui vẻ.
Lúc nào A Tử mỏi mệt, Tiêu Phong lại ẵm nàng từ trên ngựa xuống đặt vào trong xe để nàng ngũ yên.
Ban ngày đi, tối lại vào rừng ngũ đỡ. Tiêu Phong cùng A Tử đi vài ngày thì đến cánh đồng cỏ.
A Tử nhìn cánh đồng cỏ bát ngát không biết đến đâu là hết thì khoan khoái vô cùng.
Nàng nói với Tiêu Phong:
- Tỉ phu ơi! Nếu mình cứ nhắm hướng Tây đi nữa, thì thật chẳng khác gì lạc vào giữa biển cả bao la bát ngát, nhìn ra bốn phía chẳng còn biết đâu là bờ nữa có lẽ càng thú.
Tiêu Phong biết ý A Tử muốn vào sâu đến khu rừng trung tâm cánh đồng này, ông không nỡ trái ý, gia roi cho ngựa chạy vào.
-
Hồi 46 - Cuộc Phiếm Du Đưa Đến Gặp Hoàng Gia - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 46 - Cuộc Phiếm Du Đưa Đến Gặp Hoàng Gia
Kiều Phong cùng A Tử đi sâu vào trong cánh đồng cỏ mấy ngày liền.
Nhằm gặp tiết thu, vòm trời quang đãng khí trời mát mẻ.
Mùi cỏ êm dịu thoảng đưa hương man mát, khiến du khách cảm thấy tinh thần khoan khoái.
Trong đồng cỏ rậm thiếu gì dã thú. Kiều Phong săn lấy nướng ăn, tâm hồn lâng lâng, chẳng bận một điều lo nghĩ chi hết.
Kiều Phong đi luôn mấy ngày nữa.
Hôm ấy vào khoảng giờ ngọ ông nhìn phía trước mặt, ở tận đằng xa thấy vô số doanh trại, không hiểu là nơi đồn trú quân binh hay là nhà ở một bộ lạc nào đó.
Kiều Phong bảo A Tử:
- Phía trước kia là chỗ đông người trú ngụ, chúng ta quay về thôi để tránh mọi sự phiền lụy có thể xảy ra.
A Tử nói:
- Ðừng! Ðừng quay về vội. Em muốn lại đó chơi. Tỉ phu ơi Em mới cất nhắc được hai tay, còn hai chân vẫn thuỗn ra. Em làm gì được mà tỉ phu e chuyện rắc rối?
Kiều Phong cười nói:
- Những chuyện rắc rối đâu có phải do một mình cô gây ra, có khi từ người khác đưa đến cho mình, muốn tránh cũng không được.
A Tử cười nói:
- Nếu vậy thì ta cứ lại xem, không hề gì đâu?
Kiều Phong biết nàng còn tánh trẻ con, thích coi những nơi náo nhiệt liền buông cương cho ngựa đi từ từ về phía doanh trại. Cánh đồng cỏ mặt bằng phẳng, tuy trông thấy doanh trại rồi mà hãy còn xa.
Kiều Phong cùng A Tử đi chừng được bảy tám dặm bỗng nghe tiếng hiệu tù và nổi lên inh ỏi, rồi thấy cát bụi mịt mù. Một đội kỵ mã chia làm hai cánh một toán chạy lên phía Bắc, một đội quay xuống phía Nam.
Kiều Phong kinh ngạc nói:
- Hỏng rồi! Lại bọn kỵ mã Khất Ðan.
A Tử nói:
- Họ là đồng hương với tỉ phu, thế là hay tuyệt. Sao tỉ phu còn kinh hãi?
Kiều Phong đáp:
- Nhưng mình đã quen biết họ đâu? Thôi ta về quách chẳng ở lại lôi thôi.
Dứt lời ông bắt ngựa quay về lối cũ.
Mới đi được mấy bước bỗng nghe trống thúc vang lên, tiếp theo lại thêm mấy đội kỵ mã Khất Ðan xông tới.
Kiều Phong tự hỏi:
- Sao bốn mặt không thấy địch quân? Chắc là họ tập trận hay săn dã thú chi đây?
Bỗng nghe tiếng reo hò vang dội:
- Bắn đi! Bắn hươu đi!
Cả ba mặt Tây, Nam, Bắc đều thấy tiếng hô bắn hươu.
Kiều Phong nói:
- Té ra họ săn hươu, binh sĩ Khất Ðan thanh thế lớn lắm.
Ông ôm A Tử ngồi trên lưng ngựa dừng lại ở mặt Ðông để coi.
Bọn kỵ mã Khất Ðan đều trong mặc thiết giáp, ngoài khoát cẩm bào.
Cách ăn mặc không khác gì lúc ra trận.
Cẩm bào có nhiều màu sắc: một đội hồng bào, một đội thanh bào, một đội hoàng bào và một đội tử bào.
Cờ hiệu đội nào cũng cùng màu sắc với cẩm bào đội ấy. Binh cường mã tráng, lui tới rong rủi, trông rất oai hùng.
Kiều Phong cùng A Tử trầm trồ khen ngợi.
Quân kỵ Khất Ðan tung hoành tiến thoái theo đúng quân lệnh.
Tên nào cũng cầm trường mâu đuổi hươu nai.
Họ thấy Tiều Phong cùng A Tử cũng chỉ ngó qua, chứ không hỏi han chi hết.
Ba cánh quân kỵ từ ba mặt dồn lại vây mấy chục con hươu vào giữa.
Ngẫu nhiên một con chạy lọt qua chỗ trống ra ngoài vòng vây.
Kiều Phong đang đứng xem chợt có tiếng la to:
- Có phải Kiều đại gia đó không?
Kiều Phong tự hỏi:
- Không biết ai đã nhận ra mình?
Ông ngoảnh đầu nhìn ra thì thấy một người trong đội thanh bào chạy lại, chính là gã đội trưởng trước đây mấy tháng đã được Gia Luật Cơ phái mang đồ lễ đến Kiều Phong.
Gã còn cách Kiều Phong chừng mười trượng đã xuống ngựa lật đật đi bộ đến trước mặt ông, quỳ phục xuống đất, nói:
- Chủ nhân tiểu tốt hiện ổ phía trước kia, cách đây không xa mấy. Người thường nhắc đến Kiều đại gia luôn, dường như nhớ mong đại gia lắm. Bữa nay cơn gió nào thổi đại gia đến đây? Xin kính thỉnh đại gia qua hội diện với chủ nhân tiểu tốt.
Kiều Phong nghe tin Gia Luật Cơ cũng ở gần đây thì vui mừng khôn xiết nói:
- Ta cũng đi chơi phiếm thôi, chả có việc gì cả, không ngờ nghĩa huynh ta cũng ở gần đây, thế thì may mắn biết chừng nào! Ngươi dẫn ta đến hội ngộ.
Gã đội trưởng vừa chủm môi huýt lên một tiếng sáo, đã thấy hai tên quân kỵ cưỡi ngựa chạy lại.
Gã đội trưởng nói:
- Các ngươi lập tức về bẩm chủ nhân có Kiều đại gia bên núi Trường Bạch qua chơi nghe!
Hai tên kỵ binh nghiêng mình nhận lệnh rồi chạy như bay.
Các đội khác vẫn tiếp tục săn hươu, gã đội trưởng đốc xuất đội kỵ binh áo xanh hộ vệ phía sau Kiều Phong và A Tử đi về hướng Tây.
Kiều Phong nghĩ thầm:
- Nghĩa huynh ta không phải tướng chắc cũng là mõt vị đại thần tại triều đình Khất Ðan, nên mới có thanh thế lớn như vầy được. Bọn kỵ binh chạy lui chạy tới trong cánh đồng cỏ liên miên không ngớt. Tên nào bào giáp cũng mới tinh, đầy vẻ hùng tráng.
Gã đội trưởng nói:
- Bữa nay đại gia đến thật vừa khéo. Sáng mai ở đây có mở hội tưng bừng náo nhiệt.
Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử Thấy nàng lộ vẻ vui mừng, liền hỏi:
- Có cuộc chi mà tưng bừng náo nhiệt?
Ðội trưởng đáp:
- Mai mở cuộc diễn võ. Số là có Khuyết Chân chỉ huy đội thị vệ trong cung Vĩnh Xương và cung Thái Hoà. Bọn quân Khất Ðan chúng tôi đều thi đua võ công, chưa hiểu ai là người tốt phước tranh đoạt được chân chỉ huy này.
Kiều Phong nghe đến cuộc tỉ võ, tự nhiên thấy trong lòng hứng khởi, nở mặt nở mày, cười nói:
- Thế thì hay thật! Ta đang muốn hiểu biết võ công người Khất Ðan.
A Tử cười nói:
- Anh đội trưởng ơi! Sáng mai anh trổ tài võ nghệ, tôi chúc cho anh được chức chỉ huy đội thị vệ.
Gã đội trưởng thè lưỡi ra rồi nói:
- Tiểu nhân đâu dám có gan dạ đó?
A Tử cười nói:
- Giành giựt chức chỉ huy có gì là khó. Anh đội trưởng ơi! Tên anh là gì?
Ðội trưởng đáp:
- Tiểu nhân tên gọi Thất Lý.
A Tử nói:
- Anh nhờ tỉ phu dậy mấy đường quyền thì lo gì không giành được chức chỉ huy?
Thất Lý mừng rỡ nói:
- Nếu được Tiêu đại gia chỉ giáo cho, tiểu nhân đã thấy làm tốt phước lắm rồi còn chức chỉ huy đó tiểu nhân không dám nghĩ đến.
Ðoàn người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ.
Ði chừng được một dặm bỗng có một đội kỵ binh chạy lại.
Thất Lý nói:
- Ðây là đội Phi Hùng trong "Bì Thất Ðại Trướng"
Ðội quân này quân trang bằng da gấu.
Áo bào khoác ngoài bằng da gấu đen, mũ cao bằng da gấu trắng, trông khí thế thật hùng dũng.
Ðội quân lại gần đến nơi.
Tiếng hô dõng dạt vừa dứt, cả đội đều xuống ngựa, đứng sau hai bên đường đồng thanh nói:
- Xin kính cẩn nghênh tiếp Kiều đại gia!
Kiều Phong giơ tay đáp lễ:
- Không dám!
Rồi phóng ngựa đi trước, đội phi hùng phóng ngựa theo sau.
Ði được vài dặm lại thấy đội Phi Hổ, mũ áo đều bằng da hổ đến đón tiếp.
Kiều Phong tự hỏi:
- Không hiểu Gia Luật Cơ ca làm quan đến chức gì mà dưới trướng có những đội quân oai phong như vậy?
Gã Thất Lý không nói ra, mà lúc Kiều Phong gặp Gia Luật Cơ cũng kiên quyết không chịu thố lộ địa vị của mình, nên ông cũng không muốn hỏi.
Ði đến lúc xế chiều thì gặp một trướng lớn.
Tại đây, một đội Phi Báo đội mũ mặc áo da báo ra nghinh tiếp Kiều Phong cùng A Tử vào trong trướng.
Kiều Phong chắc mẫm vào đây là gặp Gia Luật Cơ ngay.
Nào ngờ trong trướng chỉ thấy trên kỷ bày sẵn vô số món ăn và trái cây mà chẳng thấy chủ nhân đâu.
Gã đội trưởng Phi Báo vào nói:
- Chủ nhân tiểu tử xin Kiều đại gia hãy nghĩ tạm ở đây một đêm sáng mai hãy ra mắt chủ nhân tiểu tử.
Kiều Phong đã vào rồi cũng không hỏi gì nữa, ngồi xuống bên kỷ tự do ăn uống.
Bốn tên tiểu đồng đứng rót rượu, thái thịt, hầu hạ một cách rất chu đáo.
Sáng hôm sau thức dậy lại đi một ngày nữa.
Ðội kỵ mã dẫn đường trông thẳng về phía Tây mà đi một mạch chừng hai trăm dặm.
Xế chiều lại đến một trướng lớn vào ngủ tại đó thêm đêm nữa.
Vào khoảng giữa giờ Ngọ ngày thứ ba, đoàn người ngựa đang đi bỗng thấy Thất Lý nói:
- Ði quanh hết sườn núi này nữa là tới nơi.
Kiều Phong ngẩn đầu nhìn hình thế trái núi rất là hùng vĩ.
Dưới chân núi một con sông lớn nước chảy cuồn cuộn xuốmg phía nam.
Ðoàn người đi quanh hết sườn núi quả thất cờ xí rợp trời tung bay phất phới.
Cả bốn mặt Ðông, Tây, Nam, Bắc đều có doanh trướng dày như bát úp. Hàng ngàn, hàng vạn kỵ binh, bộ binh đứng vây quanh một khu đất trống.
Các đội kỵ mã Phi Hùng, Phi Hổ, Phi Báo đi hộ vệ Kiều Phong, tù và thổi lên inh ỏi.
Ðột nhiên hiệu trống thùng thùng lẫn tiếng pháo nổ rầm trời vang động cả khe núi.
Quan binh giàn hàng tại khu đất trống rẽ ra hai bên.
Một Ðại Hán râu quăn quắt ngất ngưởng ngồi trên lưng con tuấn mã cao lớn sắc vàng đi ra.
Chính là Gia Luật Cơ.
Gia Luật Cơ cho ngựa chạy về phía Kiều Phong cất tiềng gọi:
- Kiều hiền đệ! Ca ca mong hiền đệ đi được!
Kiều Phong phóng ngựa lên đón.
Hai người đồng thời xuống ngựa, tay cầm tay, mặt mày hớn hở, trong tâm xiết đỗi vui mừng!
Bốn mặt tướng sĩ hoan hô vang dội:
- Vạn tuế! Vạn vạn tuế!
Kiều Phong giật mình nghĩ thầm tự hỏi:
- Tại sao nơi đây lại nhiều tướng lãnh quan binh thế này.
Người nào cũng khom lưng hoan hô "vạn tuế" là nghĩa làm sao?
Gia Luật Cơ dắt tay Kiều Phong đứng giữa trung quân, nhìn Ðông ngó Tây ra chiều đắc ý.
Kiều Phong ngơ ngác hỏi:
- Ca ca ơi! Phải chăng ca ca... ca ca là...
Gia Luật Cơ cười ha hả nói:
- Giả tỉ hiền đệ biết ta là đương kim Hoàng đế nước Ðại Liêu thì ta e rằng hiền đệ không chịu kết nghĩa anh em với ta. Chính tên ta là Gia Luật Hồng Cơ. Hiền đệ đã có ơn cứu mạng ta, vĩnh viễn ta không quên được.
Kiều Phong tuy là người hiên ngang khí khái, nhưng trước nay chưa biết Hoàng đế bao giờ.
Bữa nay ông thấy nghi thức phô trương cực kỳ long trọng thì không khỏi luống cuống.
Ông hoang mang nói:
- Tiểu nhân chưa được biết bệ hạ nên mới mạo phạm rất nhiều tội đáng muôn thác!
Nói xong toan quỳ xuống.
Nguyên ông là thần dân Khất Ðan gặp Hoàng đế trong nước đương nhiên phải quỳ lạy.
Gia Luật Hồng Cơ vội nâng dạy cười nói:
- Không biết là không có lỗi. Hiền đệ đã cùng ta kết nghĩa Kim bằng. Bữa nay hai ta chỉ nói đến chuyện nghĩa khí mà thôi. Sáng mai hãy dùng nghi lễ của chúa tôi cũng chưa muộn.
Ðoạn nhà vua vẫy tay một cái, ban cổ nhạc nổi chiêng trống hoan nghinh tân khách.
Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Kiều Phong đi vào trướng lớn.
Doanh trướng của hoàng đế nước Liêu mấy tầng lợp da trâu vẽ rồng vẽ phượng đủ màu sắc trông trông huy hoàng rực rỡ. Doanh trướng này gọi là "Bì thất đại trướng."
Gia Luật Hồng Cơ ngồi chính giữa mời Kiều Phong ngồi ghế bên. Văn võ bá quan nhất nhất tiến lên lạy mừng.
Những tước phẩm triều đình Khất Ðan chia làm:
Bắc Viện Ðại Vương, Bắc Viện Khu Mật Sứ, Nam Viện Ðại Vương, Nam Viện Khu Mật Sứ rồi đến đại soái, Thái Phó, Thái Bảo, bì Thất Ðại Tướng Quân, Tiểu Tướng Quân, Mã Quân chỉ huy sứ vân vân...
Kiều Phong được nghe giới thiệu các quan tướng nhưng nhiều quá không nhớ xiết được.
Ðêm hôm ấy trong trướng mở tiệc lớn, người Khất Ðan rất tôn trọng nữ giới, A Tử cũng được mời vào dự yến trong "Bì thất đại trướng."
Thật là một tiệc yến, rượu như ao, thịt như núi không thiếu thứ gì, bất tất phải tường thuật.
Tiệc rượu đã nửa vời, hơn mười tên võ sĩ Khất Ðan ra trổ tài trước mắt vua để giúp vui, người nào chân tay mau lẹ, khí lực hùng hậu, mỗi khi cử động đều theo một lối võ công siêu việt. cách biến hóa tuy không xảo diệu bằng võ sĩ ở Trung Nguyên, song lối tiến ngay đánh thẳng của bọn này lúc lâm địch rất công hiệu.
Các quan chức văn ban võ phái người nào cũng đều mừng rượu Kiều Phong.
Ông không cự tuyệt với một ai, có rượu đưa đến mừng là cạn chén.
Ông uống có đến ngoài ba trăm chén rượu mà sắc mặt vẫn không thay đổi khiến cử tọa đều kinh hãi.
Gia Luật Hồng Cơ trước nay vẫn tự phụ mình võ công quán thế mà phen này bị Kiều Phong bắt cả nước đều biết tiếng. Y có ý muốn Kiêu Phong trổ tài võ nghệ siêu quần để che lấp cái nhục ông bị bắt.
Nhà vua không ngờ nguyên về tửu lượng Kiều Phong đã ghê gớm hơn người.
Gia Luật Hồng Cơ đã có ý định ngày hôm sau nhân cuộc hội tỉ võ, yêu cầu Kiều Phong thi triển tuyệt kỹ cho quốc dân lác mắt. Nhưng bây giờ tửu lượng của ông đủ áp đảo quần hùng, người nguời đều đem lòng kính phục.
Gia Luật Hồng Cơ cả mừng nói:
- Kiều hiền đệ. Hiền đệ là một vị anh hùng hảo hán đệ nhất trong nước Ðại Liêu ta.
Thốt nhiên một giọng nói trong trẻo vang lên:
- Không phải! Y mới là đệ nhị anh hùng!
Mọi người nge tiếng quay lại nhìn xem ai thì té ra là A Tử.
Gia Luật Hồng Cơ hớn hở tươi cười hỏi:
- Tiểu cô nương! Y mới là đệ nhị vậy chớ đệ nhất anh hùng là ai?
A Tử đáp:
- Ðệ nhất anh hùng hảo hán chính là bệ hạ. Tỉ phu tôi tuy bản lãnh nghiêng trời nhưng vẫn phải tuân theo bệ hạ không dám trái lệnh. Vậy bệ hạ là đệ nhất anh hùng chớ còn ai?
Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói:
- Cô nương nói phải! Cô nương nói phải!
Rồi Gia Luật quay lại nói với Kiều Phong:
- Kiều hiền đệ! Ta muốn phong cho hiền đệ một tước vị xứng đáng. Ðể ta nghĩ xem phong chức gì cho phải?
Lúc này nhà vua tửu lượng mười phần đã uống hết tám chín, đưa ngón tay lên gõ trán mấy cái ra chiều suy nghĩ.
Kiều Phong nói:
- Bệ hạ bất tất phải nhọc lòng, tiểu nhân tính tình thô lỗ, khó lòng hưởng thụ giàu sang. Trước nay quen thói hạc nội mây ngàn, tấm thân vô định, thực tâm không muốn làm quan.
Gia Luật Hồng Cơ nói:
- Không được! Ðể ta phong cho hiền đệ một chức quan lớn chỉ cần uống rượu mà không cần làm việc.
Chưa dứt lời bất thình lình có hiệu tù và inh ỏi từ xa đưa đến, tiếng tù và gay gắt dường như có việc gì khẩn cấp.
Người nước Liêu đều ngồi trên chiếc chiếu trải dưới đất để dự tiệc vừa nghe tiếng tù và ai nấy đứng phắt dậy lộ vẻ kinh hoàng.
Tiếng tù và đi rất mau.
Hồi đầu tiên còn xa ngoài mười dặm, hồi thứ hai đã lại gần thêm mấy dặm.
Ðến hồi thứ ba chỉ còn mấy dặm mà thôi.
Kiều Phong nghĩ thầm:
- Con tuấn mã lẹ nhất đời hay khinh công tuyệt đỉnh của một nhân vật nào thì dù tìm khắp thiên hạ cũng không ai nhanh được như thế. Ðây chắc là người Liêu đã dự bị cách truyền tin nhanh chóng để cáo cấp quân tình. Hiệu tù và ở trạm đầu nổi lên truyền đến trạm hai rồi cứ thế truyền đi.
Hiệu tù và mỗi lúc gần lại, đến phía ngoài ngoài "bì thất đại trướng" thì đột nhiên im bặt.
Mấy trăm doanh trại đang mừng tiệc, hoan hô rầm rĩ rất là huyên náo, đột nhiên trở lại yên tĩnh không một tiếng động.
Gia Luật Hồng Cơ vẫn hớn hở tươi cười, từ từ nâng chén ngọc lên uống cạn rồi nói:
- Thượng kinh có kẻ phản loạn. Bây giờ chúng ta phải nhổ trại.
Hai tiếng "nhổ trại" nhà vua vừa nói ra, Quan Hành Quân Ðại tướng quân lập tức chuyển mình ra khỏi doanh trại phát lệnh.
Hiệu lệnh ban ra đến mười người rồi từ mười truyền đến trăm người từ trăm người ra đến ngàn người.
Lát sau khẩu hiệu vang động cả một góc trời nhưng quân sĩ vốn rất nghiêm chỉnh và có thứ tự, tuyệt không nhốn nháo chút nào.
Kiều Phong nghĩ thầm:
- Nước Ðại Liêu ta từ ngày lập quôác đến giờ đã hai trăm năm, oai phong lẫy lừng thiên hạ. Tuy có nội loạn mà quân tình vẫn nghiêm minh. Thế nên mấy triều Liêu chúa thống suất quân cơ rất có phương pháp.
Bỗng lại nghe tiếng vó ngựa dồn dập. Ðội quân tiên phong đi trước.
Tiếp theo là hai đội tả, hữu tiên phong. Tiền quân, tả quan, hữu quân, đã nhổ trại khởi hành.
Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Kiều Phong nói:
- Chúng ta cùng đi xem.
Hai người ra khỏi đại trướng.
Tuy đêm tối nhưng mỗi mắt cờ hiệu đều có thắp đèn lồng xanh, đỏ, vàng, trắng, đủ màu sắc soi sáng.
Mười mấy vạn đại quân nhằm phía đông nam tiến phát.
Chỉ nghe tiếng vó ngựa hí và tiếng vó ngựa lộp cộp, không một tiếng người.
Kiều Phong tự nghĩ:
- Phép trị quân nghiêm minh thế này có thể bách chiến bách thắng. Bữa trước, hoàng thượng cậy tài một mình đi săn mới bị ta bắt. Giả tỉ đại quân kéo đến thì Nữ Chân tuy kiêu dũng cũng không tài nào địch nổi với quân quá chênh lệch.
- Ta cũng mong thế...
Mọi người ăn cơm xong thì có thám tử thứ hai về bẩm báo:
- Nam Viện đại vương lập hoàng thái thúc lên kế vị và đã ban chiếu xuống nhân dân.
Gã không dám nói thêm nữa, hai tay nâng chiếu chỉ của hoàng đế dâng lên.
Gia Luật Hồng Cơ đón lấy chiếu coi.
Tờ chiếu đại khái tố cáo Gia Luật Hồng Cơ hoán đoạt ngôi vua. Trong chiếu nói rõ cả đến việc đức tiên đế đã lập Gia Luật Hồng Cơ Trọng Nguyên làm hoàng thái đệ hai mươi bốn năm trời, nhân dân điều biết. Tiên đế băng hà, Gia Luật Hồng Cơ cướp ngôi đoạt bảo, khiến cho trong triều ngoài nội đều nổi lòng căm phẫn. Hiện nay Hoàng thái đệ lên ngôi chính thống, đốc xuất binh mã trong nước đi dẹp kẻ hoán đoạt v. v... Tờ chiếu này có nhiều lời xách động quần chúng. Quân dân nước Liêu xem tất phải hoang mang.
Gia Luật Hồng Cơ cả giận, cầm chiếu thư ném vào đống lửa cho cháy thành tro bụi.
Nhà vua trong lòng nóng nảy lo phiền nghĩ bụng:
- Hoàng thái thúc giữ chức vụ thiên hạ binh mã đại nguyên soái, có thể điều động hơn tám mươi vạn binh mã. Huống chi con y là Sở Vương lại điều động thêm binh mã dưới trướng nữa, thì khí thế lợi hại vô cùng. Ðây mình chỉ đem theo hơn mười vạn nhân mã đi hộ giá. Số quân quá chênh lệch quyết không địch nổi. biết làm thế nào?
Suốt đêm nhà vua trằn trọc ngủ không được.
Kiều Phong nghe Liêu đế muốn phong quan tước cho mình, ông toan dẫn A Tử đang đêm bỏ đi ngay không từ biệt nữa. Nhưng lúc này ông thấy nghĩa huynh gặp bước hoạn nạn không tiện đi ngay.
Ông nghĩ rằng:
- Dù sao mình cũng phải ra sức giúp y một phen mới khỏi uổng tấm lòng tri ngộ .
Ðêm hôm đó ông rảo bước đi chơi ngoài doanh trại, vẳng nghe có tiếng binh bàn tán, đều lo lắng cha mẹ vợ con đang ở Thượng Kinh nhất luật đều bị Hoàng thái thúc câu lựu hết e rằng tính mệnh không toàn.
Có lẽ nhớ đến người nhà đột nhiên buông tiếng khóc.
Tiếng khóc này dường như tính cách truyền nhiễm.
Một người vừa khóc lên hết thảy quan binh trong trại cũng khóc theo.
Chỉ trong khoảnh khắc tiếng khóc vang trời náo động cả một vùng hoang dã.
Tướng lãnh thống lĩnh ba quân bù cực lực cản trở hò hét khan cổ, mà cũng không ngăn nổi.
Gia Luật Hồng Cơ nghe tiếng than khóc biết là điềm quân tâm tan vỡ thì trong lòng phiền não vô cùng.
Sáng hôm sau, laị có thám tử đến báo hoàng thái thúc cùng Sở vương thống lĩnh hơn ba mươi vạn binh mã đến đây phạm giá.
Hồng Cơ nghĩ bụng:
- Hôm nay, chỉ tiến chứ không thoái, dù sao cũng quyết một trận tử chiến.
Nghĩ vậy nhà vua liền triệu tập bá quan thương nghị.
Quần thần đối với Hồng Cơ đều một dạ trung thành, nguyện hết sức quyết một trận tử chiến, nhưng ai cũng lo quân tâm nghiêng ngã.
Hồng Cơ truyền lệnh:
- Các quan binh phải ra sức dẹp kẻ phản loạn. Sau khi bình xong ngoài việc thăng quân còn được trọng thưởng.
Ðoạn nhà vua mặc áo giáp vàng, đầu đội mũ trĩ thân hành thống lĩnh ba quân tiến về phía Hoàng thái thúc.
Các quan quân thấy hoàng thượng thân hành cự địch đều phấn chấn hô vang:
- Vạn tuế!
Và thề liều chết cho vẹn lòng trung.
Kiều Phong đeo cung cầm mâu theo sau Hồng Cơ để hộ vệ nhà vua.
Hơn mươi vạn binh mã nhằm phía đông nam ào ào thẳng tiến.
Thất Lý cầm đầu một đội Phi Hùng để hộ vệ A Tử đi theo toán hậu quân.
Kiều Phong cưỡi ngựa theo sát Hồng Cơ, thấy ông tay phải cầm cương ngựa hơi run thì biết rằng nhà vua không nắm vững phần nào trong cuộc chiến tranh này.
Trong cánh đồng cỏ trừ tiếng vó ngựa dồn dập, không còn một thứ âm thanh nào khác.
Ði đến giữa giờ ngọ, thốt nhiên nghe thấy tiếng tù và nổi lên inh ỏi, ai cũng hiểu là quân địch sắp đến nơi.
Tướng lệnh trung quân truyền ra:
- Xuống ngựa!
Bao nhiêu quân sĩ đều xuống ngựa hết, cầm cương dắt ngựa đi chỉ có Gia Luật Hồng Cơ cùng các đại thần là được ngồi nguyên trên lưng ngựa.
Kiều Phong không hiểu sao kỵ binh phải xuống ngựa, ông lộ vẻ nghi ngờ.
Gia Luật Hồng Cơ thấy vậy cười hỏi:
- Hiền đệ ở Trung Nguyên đã lâu, chưa hiểu cách hành quân của người Khất Ðan phải không?
Kiều Phong đáp:
- Tiểu nhân đang định xin bệ hạ chỉ giáo cho.
Gia Luật Hồng Cơ cười đáp:
- Các tiếng xưng hô: "bệ hạ"đó không biết có còn được hết ngày nay nữa không? Hiền đệ cùng ta nên kêu nhau bằng anh em. Song hiền đệ cứ gọi ta là bệ hạ hoài?
Kiều Phong nghe tiếng cười của nghĩa huynh có đượm vẻ chua cay liền nói:
- Vâng, vâng xin đại ca chỉ giáo cho.
Hồng Cơ nói:
- Cuộc giao phong ngoài bình nguyên điều cần nhất là phải dè dụm mã lực, thứ hai mới đến nhân lực.
Kiều Phong bấy giờ phải tỉnh ngộ nói:
- À, phải rồi! Sở dĩ kỵ binh phải xuống ngựa là để dưỡng sức cho ngựa đỡ mệt.
Hồng Cơ gật gầu nói:
- Dành sức ngựa để đến lúc lâm trận xung phong cho mạnh không sức nào ngăn trở được. Người Khất Ðan đánh Ðông dẹp Bắc bách chiến bách thắng phần lớn là nhờ ở bí quyết này.
Nhà vua nói đến đây, thanh âm trầm xuống vì thấy trước mặt cát bụi tung trời, chưa thấy người mà bụi đã bốc lên cao đến hơn mười trượng.
Hồng Cơ cầm roi ngựa trỏ về phía trước hỏi:
- Hoàng thái Thúc cùng Sở Vương đã lâu ngày từng trải chiến trận, đều là những kiện tướng của nước ta. Họ vẫn cho binh sĩ cưỡi ngựa phóng tới rất gấp sao không dè dặt mã lực? Chắc là họ nắm vững phần thắng, không còn e dè chi nữa.
Chưa dứt lời bỗng thấy tả quân và hữu quân đồng thời hiệu tù và.
Kiều Phong dùng hết nhãn lực để nhìn ra xa thì thấy về phía Ðông có hai cánh quân mã, phía tây có hai cánh, kể cả toán chính diện nữa là năm toán đánh ập vào một toán.
Gia Luật Hồng Cơ biến sắc, ra lệnh cho tướng chỉ huy trung quân:
- Ngươi cho hạ trại đi!
Tướng chỉ huy trung quân dạ một tiếng rồi phóng ngựa chạy ra truyền lệnh cho ba quân hạ trại.
Lập tức các đội tiền quân và hữu quân đều quay lại.
Bao nhiêu quân sĩ trồng cột dựng nên một tòa doanh trại rất lớn.
Cả bốn mặt trước sau, tả hữu đều có kỵ binh đóng giữ.
Mấy vạn quân cung nỏ nấp vào phía sau những cột lớn và dương cung sẵn sàng chỉ còn chờ lệnh là bắn ra.
Kiều Phong nhíu cặp lông mày nghĩ thầm!
- Cuộc đại chiến này chưa biết ai thắng ai bại, thì người cùng dòng giống Khất Ðan cũng lâm vào thảm cảnh thây phơi đầy nội máu chảy thành sông. Nếu may mà nghĩa huynh thắng trận chẳng nói làm chi. Giả tỷ mà người bị hại, thì ta phải nghĩ kế cứu người cùng A Tử được an toàn và đưa đi ẩn lánh một nơi, còn cái ngôi hoàng đế chẳng làm thí thôi cũng chẳng cần gì.
Doanh trại của Liêu vùa mới dựng xong thì đội tiền phong bên phản loạn đã đến nơi.
Ðội tiền phong này không xông vào khiêu chiến, dừng ngựa ở đằng xa vừa tầm cung cứng tên mạnh bắn tới.
Ðồng thời hiệu trống và hiệu tù và liên thanh bất tuyệt.
Các đội ngũ bên địch bao vây khắp bốn mặt, trận thế rất chỉnh tề không hỗn độn chút nào.
Kiều Phong đưa mắt nhìn ra thấy quân địch không biết cơ man nào mà kể, ông trông không rõ hết được, nghĩ bụng:
- Trận đánh này e rằng nghĩa huynh mình tất bị thất bại. Ban ngày khó lòng phá vòng vây để trốn thoát phải cân chống đỡ cho được đến đêm, trời tối mình sẽ tìm cách cứu nguy rồi chạy trốn.
Ông nhìn bóng nắng chiếu xuống những cây cột bóng hãy còn ngắn chủn, mặt trời mới qua ngọ chưa được mấy tý.
Thốt nhiên không gian nổi lên mấy tiếng le te.
Mọi người ngẩn nhìn lên thì ra một đàn nhạn đang bay lưng trời.
Gia Luật Hồng Cơ cũng ngẩng đầu lên nhìn đàn nhạn giây lát rồi gượng cười nói:
- Giả tỷ lúc này ta có hóa làm giống chim nhạn kia cũng khó lòng bay ra thoát khỏi vòng vây này.
Bắc Viện Ðại Vương cùng viên tướng chỉ huy trung quân nhìn nhau thất sắc vì biết nhà vua thấy quân tình chênh lệch quá nhiều đâm ra khiếp sợ.
Ðột nhiên quân địch nổi trống trận vang trời.
Tướng chỉ huy trung quân bên Liêu chúa cũng lớn tiếng ra lệnh:
- Thúc trống!
Mấy trăm cái trống khua lên ầm ầm.
Tiếng trống bên địch vừa dứt, mấy vạn kỵ binh reo hò vang động ca góc trời, cầm trường mâu xông lại.
Ðội tiền phong bên địch đa lại tới vừa tầm tên bắn.
Tướng chỉ huy trung quân phất cờ một cái, tiếng trống im bật.
Mấy vạn mũi tên đuôi có tra lộng bắn ra vun vút.
Ðội tiền phong bên địch tới tấp ngã ngựa.
Song hàng trước ngã thì hàng sau lại xô lên ào ạt. những người ngựa phía trước ngã ra biến thành những ụ thịt đỡ tên cho những đội sau tiến lên.
Quân cung nỏ bên địch dùng mộc che mình để tiến lên nhằm ngự doanh bắn vào.
Gia Luật Hồng Cơ lúc ban đầu rất là khiếp sợ, nhưng đã đến lúc tiếp chiến thì nhà vua lại hăng hái bội phần, tay phải cầm một thanh trường đao ra hiệu lệnh chỉ huy ba quân.
-
Hồi 47 - Cuộc Nội Chiến Rùng Rợn Giữa Hai Phe Khất Ðan - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 47 - Cuộc Nội Chiến Rùng Rợn Giữa Hai Phe Khất Ðan
Các tướng sĩ thấy Hoàng thượng thân hành đi trước nghênh địch liền cả tiếng hoan hô:
- Vạn tuế! Vạn vạn tuế!
Quân địch nghe thấy tiếng hô vạn tuế, ngoảnh đầu lên coi thấy Gia Luật Hồng Cơ mặc bào vàng giáp vàng đứng ở phía trước doanh trại.
Nhà vua oai phong lẫm liệt khiến cho quân địch bỗng nhiên chùn lại không dám tiến nữa.
Gia Luật Hồng Cơ thấy cơ hội thuận lợi liền hô lớn:
- Ðội tả quân kỵ binh xông trận!
Tướng chỉ huy cánh tả quân là Bắc Viện Khu Mật Sứ vừa nghe Hoàng thượng ra lệnh dẫn ba vạn kỵ binh quanh lại bao vây cạnh sườn mé hữu nghịch quân.
Bên địch sau khi trông thấy Gia Luật Hồng Cơ, lòng quân đã nao núng, không đề phòng cánh quân tinh nhuệ trong ngự doanh hùng dũng xông ra.
Bắc Viện Khu Mật Sứ lại là một danh tướng nước Liêu.
Quân hai bên giao chiến được hay thua là do khí thế mạnh hay yếu.
Ðịch quân đang lúc do dự thì đội kỵ binh bên ngự doanh đã xông đến.
Nghịch quân lập tức rối loạn hấp tấp lùi lại.
Bên ngự doanh lại thúc trống trận, cho cánh hữu quân xông ra nữa.
Nghịch quân vừa giao chiến mấy hợp bị thua phải rút lui.
Ngự quân ào ạt đuổi theo như vũ bão.
Kiều Phong cả mừng la lên:
- Cung hỉ đại ca! Trận nầy bên ta toàn thắng rồi.
Gia Luật Hồng Cơ hạ trại xong, nhảy lên lưng chiến mã dẫn quân ra tiếp ứng.
Bỗng nghe hiệu tù và nổi lên, cánh quân sinh lực bên địch xông ra.
Chớp mắt, tên bắn dao đâm vèo vèo, cuộc tranh đấu kịch liệt vô cùng.
Kiều Phong kinh hãi nghĩ thầm:
- Bình sinh ta chưa từng thấy cuộc giao phong nào khốc liệt như bữa nay. Một người dù có bản lãnh thiên hạ vô địch ở giữa đám thiên binh vạn mã này, cũng hết đất dụng võ. Có giỏi chăng nữa cũng chỉ giữ mình cho khỏi mất mạng là may. Cuộc giao chiến giữa những toán quân khổng lồ này so với những cuộc tỉ võ một người hay nhiều người trong võ lâm thật khác nhau một trời một vực.
Bất thình lình phía sau mặt trận, nghịch quân nổi hiệu thanh la lui binh.
Ðội kỵ binh nghịch quân rút lui thì đội cung nỏ bắn tên ra như mưa để yểm hộ cuộc rút lui.
Tướng chỉ huy trung quân cùng Bắc Viện Khu Mật Sứ dẫn quân xông trận ba lần đều không làm cho trận thế đối phương rối loạn được, mà bên ngự quân có đến vài ngàn binh sĩ bị bắn chết.
Gia Luật Hồng Cơ ra lệnh:
- Sĩ tốt tử thương quá nhiều rồi, hãy tạm lui quân!
Lập tức ngự doanh nổi hiệu thanh la lui binh.
Bên nghịch quân phái hai đội xông ra tập kích song ngự quân đã chuẩn bị trước tránh bại rút lui rồi bổ vây hai bên.
Hai đội nghịch quân độ ba ngàn người bị quân binh vây hãm, ngoài ra còn mấy trăm tên xuống ngựa đầu hàng.
Gia Luật Hồng Cơ vẫy tay một cái, quân sĩ trong trại doanh cầm trường mâu ra đâm chết hết ba trăm tên quân địch này.
Hai bên đánh nhau trong vòng một giờ mà cuộc thảm sát tàn khốc dị thường, rồi cả hai bên cùng rút lui chủ lực cách xa nhau tầm tên bắn không tới được.
Khu đất trống ở giữa hai mặt trận, thây phơi máu chảy ghê hồn những kẻ bị thương kêu gào thật thê thảm.
Hai bên cùng cho đội quân áo đen ba trăm người chạy ra kiểm điểm những người bị thương.
Kiều Phong tưởng họ ra khiêng thương binh về cứu chữa.
Không ngờ đội áo đen này ra đến nơi rút đao chém hết những thương binh đối phương.
Sau khi chém chết hết rồi, quân áo đen hai bên la hét om sòm quay ra đánh nhau.
Kiều Phong thấy hai đội quân áo đen này tuy nhân số chẳng có là bao nhưng đều là những tay võ giỏi.
Ánh đao lấp lánh hai bên chiến đấu cực kỳ kịch liệt.
Chỉ trong khoảnh khắc đã có đến hai trăm tên bị chém chết ngã lăn xuống đất.
Ðội quân áo đen bên ngự doanh mạnh hơn, mới bị chết có mấy chục người, thành ra số còn lại hai ba người hợp lại chọi một và thế được thua đã hiển nhiên.
Ðánh thêm một lúc nữa số người nhiều ít càng chênh lệch nhau ba bốn gã quân binh một tên nghịch quân.
Lạ thay quân hai bên chỉ reo hò trợ oai, mấy chục vạn nghịch quân cũng thỏng tay bàng quang chứ không thêm binh tiếp viện.
Sau cùng ba trăm nghịch quân áo đen đều bị giết hết. Ðội ngự quân áo đen còn trở về được hơn một trăm ba mươi tên.
Kiều Phong nghĩ thầm:
- Ðây hẳn là thể lệ tranh đấu của người Liêu như vậy?
Nhìn vào cuộc chiến tranh khốc liệt này, tuy lề lối đã kém xưa nhiều nhưng chí phấn đấu kinh hồn động phách của hai bên hãy còn thấy rõ.
Gia Luật Hồng Cơ giơ cây trường đao lên, lớn tiếng truyền lệnh:
- Nghịch quân tuy nhiều nhưng tướng sĩ không có lòng chiến đấu. Bên ta lại tiếp tục một trận nữa chắc phải thua.
Ngự quân nhất tề hoan hô:
- Vạn tuế! Vạn vạn tuế!
Tiếng hoan hô vừa dứt bỗng nghe bên địch quân nổi hiệu tù và.
Ba người cưỡi ngựa từ từ đi đến.
Người đi giữa hai tay cầm một mảnh da dê giương ra cất tiếng dõng dạc đọc, thì ra đây là chiếu thư của Hoàng thái Thúc.
Tờ chiếu như sau: "Gia Luật Hồng Cơ cướp ngôi, y chỉ là ngụy quân. Hiện nay Hoàng thái Thúc lên ngôi chính thống. Vậy đã là quan binh trung thành của nước Ðại Liêu, phải lập tức về triều quy thuận. Tân hoàng đế nhất lượt gia phong tam cấp."
Mười mấy tay cung nỏ bên ngự quân phóng tên ra veo véo nhằm bắn vào người đọc chiếu thư.
Người này được hai gã đi hai bên giơ mộc lên che đỡ phía trước.
Người đứng giữa toan tiếp tục đọc nữa thì đột nhiên ba con ngựa đều bị bắn trúng ngã khuỵu xuống.
Ba gã ẩn mình vào phía sau những lá mộc và một gã tiếp tục đọc xong chiếu thư của Hoàng thái Thúc rồi lui về bản trận.
Bắc Viện Ðại Vương thấy quan binh dưới trướng mình khi nghe xong ngụy chiếu thư có ý ngã nghiêng, liền hạ lệnh:
- Các ngươi ra thóa mạ lại đi!
Ba chục tên quan binh liền ra đứng trước trại.
Hai mươi tên giơ mộc lên che đỡ cho mười tay mạ thủ già giọng lớn tiếng thóa mạ.
Gã mạ thủ đầu tiên lớn tiếng mắng:
- Những tên phản quốc gian tặc kia! Chúng bay chết không có đất mà chôn đến nơi rồi!
Sau gã thứ nhứt, gã mạ thủ thứ hai nhiếc mắng còn tệ hại hơn.
Những tên về sau càng buông những lời tục tĩu ra chửi rủa.
Kiều Phong chưa biết tiếng Khất Ðan mấy, nên ông không hiểu những câu chửi rủa này, chỉ thấy Gia Luật Hồng Cơ gật đầu lia lịa ra chiều đắc ý thì chắc rằng những tay"mạ thủ"này đã chửi bới một cách hay ho.
Kiều Phong lại đưa mắt nhìn sang bên trận địch thì thấy xa xa có chỗ che tàn che tán, ánh vàng rực rỡ và có hai người cưỡi tuấn mã đứng tay cầm roi ngựa chỉ trỏ.
Một người đầu đội mũ bình thiên, mình mặc áo hoàng bào. Dưới cằm chòm râu dài đã lốm đốm bạc.
Còn một người mặc áo giáp vàng lấp lánh dưới bóng dương quang. Người này mặt mũi gầy nhom nhưng có vẻ tinh thần tráng kiện.
Kiều Phong nghĩ thầm:
- Coi điệu bộ này thì hai người đó chắc là cha con Hoàng thái Thúc và Sở Vương.
Thốt nhiên mười gã mạ thủ ngừng lại thầm thì bàn nhau một hồi lại ngoạc mồm gân cổ bới móc những việc thầm kín của Hoàng thái Thúc cùng Sở Vương ra mà chửi rủa.
Hoàng thái Thúc dường như là người chính trực xuất thân, không chửi mắng vào chỗ nào được, mười gã mạ thủ chỉ xỉa xói vào Sở Vương. Họ kể tội y nào:
gian dâm phi tần của phụ thân, nào cậy thế cha làm càn.
Những câu chửi bới này để ly gián cảm tình giữa hai cha coa.
Cả mười tên đồng thanh chửi bới rất to và rất nhịp nhàng, thanh âm vọng ra xa đến mấy dặm.
Mấy chục vạn quân sĩ bên địch đến quá nửa nghe được rõ ràng.
Sở Vương cầm roi ngựa vẫy một cái nghịch quân la lối om xòm.
Tiếng la vang dội cả góc trời làm át mất hẳn tiếng chửi bới của mười tay mạ thủ.
Sau một hồi náo loạn bỗng thấy quân địch rẽ ra hai bên để đẩy mười chiếc xe ra đến trước ngự doanh.
Xe dừng lại, những tên quân theo xe lôi mấy chục đàn bà con gái ở trong xe xuống.
Có bà già tóc bạc phơ. Có cô trạc tuổi đang xuân. Người nào cũng ăn mặc cực kỳ lịch sự.
Bọn đàn bà vừa ra khỏi xe thì tiếng chửi mắng đôi bên đều im bặt.
Gia Luật Hồng Cơ kêu thét lên:
- Mẫu thân ơi! Mẫu thân! Hài nhi phải bắt quân nghịch phân thây muôn đoạn để báo thù cho mẫu thân.
Nguyên bà già tóc bạc này là đương kim Hoàng thái hậu, tức Tiêu thái hậu, mẫu thân Gia Luật Hồng Cơ, còn ngoài ra là Tiêu hoàng hậu, các vị phi tần, Công chúa vân vân...
Hoàng thái thúc cùng Sở Vương thừa dịp Hồng Cơ ra ngoài săn bắn nổi loạn bao vây cung cấm, bắt Hoàng thái hậu cùng hết thảy gia quyến nhà vua.
Hoàng thái hậu lớn tiếng nói:
- Xin bệ hạ đừng lấy thân già này cùng vợ con làm trọng, phải hết sức giết giặc!
Mấy chục tên quân rút đao ra kề vào cổ đám hậu phi. Bọn phi tần nhỏ tuổi khóc lóc kêu gào.
Hồng Cơ cả giận quát to:
- Bắn chết hết những kẻ kêu gào khóc lóc kia đi!
Tên bay lách cách bắn ra hơn mười mũi, bao nhiêu phi tần công chúa đều bị chết hết dưới mũi tên tàn bạo.
Hoàng hậu reo lên:
- Bệ hạ bắn là phải lắm! Cơ nghiệp của tổ tông truyền lại không thể để rơi vào tay bọn gian thần tặc tử!
Sở Vương thấy Hoàng thái hậu cùng hoàng hậu đều quật cường chẳng những không uy hiếp được Hồng Cơ mà lại làm cho lòng quân bên mình nghiêng ngửa, liền hạ lệnh:
- Bắt những người đàn bà đó bỏ lên xe đẩy lùi lại.
Bọn quân sĩ bắt Hoàng thái hậu bỏ lên xe rồi đẩy lùi lại phía sau trận tuyến.
Sở Vương lại hạ lệnh:
- Ðẩy xe chứa gia đình quan quân bên địch vào trong trận.
Chợt nghe thấy tiếng sáo trúc nổi lên, thanh âm rất thê thảm.
Quân mã rẽ sang hai bên, tiếng lọc cọc đẩy ra.
Một dãy dài già trẻ trai gái từ phía sau đưa ra mặt trận, tiếng khóc vang trời.
Ðây là gia quyến của các tướng sĩ trong ngự doanh.
Ðám quan binh trong ngự doanh là những thân quân kề cận Liêu đế nên Gia Luật Hồng Cơ ưu đãi họ đặc biệt cho gia quyến được vào ở thượng kinh. Một là khiến họ đem lòng cảm kích, lúc có việc sẽ liều mình chết, hai là để giám thị toán quân tinh nhuệ này không dám đem lòng phản trắc. Ngờ đâu chuyến này đi săn biến loạn xảy ra từ trong nhà người thân tín của nhà vua là Hoàng thái thúc làm phản.
Gia thuộc bọn quan binh ngự doanh này có đến trên hai mươi vạn người. Trong đó có nhiều người vì lúc rối loạn mà bắt lầm. Trong lúc nhốn nháo không xét rõ được ai thuộc vào hạng gia quyến bên địch.
Chỉ thấy một đoàn trai gái dắt díu nhau đều bị giải ra trước trận.
Bất quá độ hai vạn người đáng bị bắt.
Còn ngoài ra đều là những người khác ở thượng kinh cũng bị bắt trong lúc nhốn nháo và đưa cả đến đây.
Sở Vương sai một tướng dưới cờ tung ngựa ra trận lớn tiếng gọi:
- Các quan binh ngự doanh nghe đây! Gia quyến các ngươi đều bị bắt. Hễ ai đầu hàng sẽ được thăng quan và trọng thưởng. Còn kẻ nào không đầu hàng thì tân Hoàng đế ra lệnh đem gia quyến ra chém hết.
Người Khất Ðan vốn tính tàn nhẫn hiếu sát đã nói chém giết là chém giết thật sự chứ không phải chỉ hăm dọa mà thôi.
Các quan binh trong ngự doanh có một số nhận ra người nhà lên tiếng gọi nhau:
- Gia gia! Má má! Hài tử! Phu quân! Hiền thê!
Tiếng gọi nhau náo loạn lên.
Bỗng nghe trống bên địch thúc vang, hai nghìn tên đao phủ đi bộ xông ra tay cầm đại đao sáng loáng.
Tiếng trống vừa dứt, hai nghìn thanh đại đao giơ lên nhằm vào đầu bọn gia quyến quan binh.
Viên tướng vừa rồi lại gọi to:
- Ai về đầu hàng tân Hoàng đế sẽ được trọng thưởng. Còn ai không hàng thì gia đình sẽ bị giết hết.
Gã vẫy tay một cái trống lại nổi lên...
Tướng sĩ bên ngự doanh biết rằng hồi trống dứt, viên tướng kia vẫy tay ra hiệu là hai ngàn thanh đao chém xuống.
Nguyên quan quân này trước đây vẫn một lòng trung với Hồng Cơ, Hoàng thái thúc cùng Sở Vương biết rằng đem mồi thăng quan ra nhử không lôi kéo được họ, nên phải đem cha mẹ vợ con cho họ mắt thấy cảnh gia đình bị tàn sát tất phải khiếp sợ.
Trống thúc liên hồi không ngớt. Thân quân trống ngực đánh thình thình.
Ðột nhiên, trong ngự doanh có một người chạy ra kêu òm lên:
- Má má ơi! Má má! Ðừng giết má tôi!
Gã quăng mâu xuống, hộc tốc chạy về phía bà lão trong trận bên địch.
Trong ngự doanh bắn tên ra véo một cái trúng vào lưng gã, nhưng gã chưa chết cứ chạy băng băng về phía mẫu thân.
Những tiếng gọi nhau ơi ới. Con gọi cha, anh gọi em, vợ gọi chồng, nhốn nháo cả lên.
Liền một lúc mấy trăm người trong ngự doanh ùa chạy sang trận địch.
Những quan chức thân tín của Gia Luật Hồng Cơ rút kiếm chém lia mà không ngăn lại nổi.
Trước còn mấy trăm người sau đến hàng ngàn người chạy đi.
Thật là một cuộc đại loạn. Trong số mười lăm vạn quân dã chạy đi mất tám, chín vạn.
Gia Luật Hồng Cơ thở dài sườn sượt.
Nhà vua biết rằng đại cuộc hỏng mất rồi, liền nhân lúc bọn thân quân bỏ trại, chạy đi nhận gia quyến, hạ lệnh:
- Nhổ trại rút lui về phía núi Thương Mang ngã Tây Bắc.
Tướng chỉ huy trung quân mật truyền hiệu lệnh cho số quân còn lại chưa đầu hàng chừng độ năm sáu vạn người.
Tiến đội đổi làm hậu quân, hậu quân đổi làm tiền đội nhổ trại về phía Tây Bắc.
Sở Vương vội truyền lệnh cho quân kỵ đuổi theo, song trên bãi chiến trường gia đình binh sĩ già trẻ lớn bé đày dẫy làm nghẽn cả lối đi. Khi dẹp được đường cho quân kỵ rượt theo thì ngự quân đã chạy xa rồi.
Trên năm vạn thân quân chạy đến chân núi Thương Mang thì trời dã hoàng hôn.
Quân sĩ vừa đói vừa mệt nhọc, lập doanh trại trên sườn núi đẻ tiện việc phòng thủ ở trên đánh xuống.
Thân quân lập trại vừa xong chưa kịp nấu cơm thì Sở Vương đã tự mình thống lĩnh toán quân tinh nhuệ đuổi đến chân núi.
Sở Vương lập tức hạ lệnh xung phong đánh lên sơn trại.
Nhưng thân quân ở trên núi bắn xuống như mưa. Nghịch quân vừa bị chết vừa bị thương có đến trên ba ngàn người.
Sở Vương thấy thế trận bất lợi liền hạ lệnh thu binh, đóng trại dưới chân núi.
Tối hôm ấy, Gia Luật Hồng Cơ đang đứng bên sườn núi nhìn ra xa thấy doanh trại nghịch quân đèn đuốc như sao sa.
Từ phía xa cũng thấy ánh lửa chập chờn, đó là hậu đội nghịch quân cũng kéo đến tham chiến.
Nhà vua lòng buồn rười rượi muốn vào trướng yên nghĩ đột nhiên Bắc Viện Khu Mật Sứ chạy đến báo cáo:
- Một vạn năm ngàn quân mã dưới trướng hạ thần bỏ chạy xuống núi đầu hàng nghịch tặc. Hạ thần trị quân không nghiêm, tội đáng muôn thác.
Gia Luật Hồng Cơ vẫy tay nói:
- Cái đó không thể trách ngươi được. Thôi vào nghĩ đi.
Nhà vua quay lại nhìn thấy Kiều Phong đứng bên cạnh đang ngớ ngẩn xuất thần, liền bảo:
- Ðến sáng mai, nghịch quân sẽ kéo đại binh đến vây đánh, chúng ta sẽ bị bắt hết. Ta là một vị Quốc quân không thể chịu nhục với bọn nghịch tặc, sẽ tự vẫn để báo đền xã tắc, hiền đệ ơi! Hiền đệ đưa cô em trong lúc đem tối trốn đi! Võ công hiền đệ rất mực cao cường, nghịch quân không ngăn trở được đâu.
Nhà vua nói đến đây, vẻ mặt thê lương nói tiếp:
- Ta những tưởng ban cho hiền đệ quyền cao chức trọng, hưởng thụ phú quý. Ngờ đâu đến tính mệnh ca ca không giữ được, còn làm liên lụy đến cả hiền đệ.
Kiều Phong nói:
- Bậc đại trượng phu phải biết đường lui tới. Hôm nay bại trận tiểu đệ bảo hộ đại ca trốn đi chiêu tập những người trung nghĩa mưu đường phục quốc.
Hồng Cơ lắc đầu nói:
- Nay ta không giữ được tính mệnh cho lão mẫu cùng thê tử, sao còn được gọi là bậc Ðại trượng phu? Dưới con mắt người Khất Ðan, kẻthắng là anh hùng, người thua thành phản nghịch. Ta bị một trận tan tành, còn mong gì trung hưng cơ nghiệp. Hiền đệ trốn đi thôi! Kiều Phong biết Hồng Cơ đã nói thực tình, ông khẳng khái đáp:
- Ðã thế thì sáng mai tiểu đệ cùng đại ca ra quyết một trận sống mái với quân địch. Chúng ta đan kết nghĩa kim lan thì đại ca làm hoàng đế hay thường dân cũng vậy thôi. Kiều Phong này lúc nào cũng coi đại ca là nghĩa huynh. Huynh trưởng gặp nạn kẻ làm em phải liều cùng sống chết, có lý đâu chạy trốn lấy một mình?
Gia Luật Hồng Cơ hai hàng nhiệt lệ tuôn rơi, cầm tay Kiều Phong nói:
- Hiền đệ ơi! Hiền đệ thật là người có nghĩa khí ta rất cảm tạ.
Kiều Phong về trướng mình thấy A Tử nằm trong góc, hai mắt mở thao láo, thì ra nàng vẫn chưa ngủ. Nàng hỏi:
- Tỷ phu có giận em không?
Kiều Phong lấy làm lạ hỏi lại:
- Giận cô điều chi?
A Tử nói:
- Chúng ta gặp tai nạn này là tự em gây ra. Nếu em không đòi ra du ngoạn ngoài cánh đồng cỏ thì đâu đến nỗi bị khốn ở đây. Tỷ phu ơi! Chúng ta đành chịu chết tại chốn này rồi phải không?
Ánh lửa đỏ ngoài trướng soi vào bộ mặt lợt lạt của nàng thoáng hiện nét ửng hồng, trông càng thêm vẻ non nớt.
Kiều Phong cảm thấy xót thương nói:
- Tôi giận cô thế nào được? Nếu tôi không đánh cô đến bị thương thì đã không tìm đến chốn này.
A Tử tủm tỉm cười nói:
- Nếu em không phóng độc châm thì việc gì tỷ phu đánh em đến bị thương?
Kiều Phong đưa tay ra vuốt ve mái tóc A Tử. Nhưng từ khi nàng bị thương, tóc rụng mất quá nửa. Mớ tóc còn lại đã ít lại vàng khè.
Kiều Phong khẽ thở dài một tiếng nói:
- Cô còn bé bỏng thế này mà đã chịu khổ sở vì tôi.
A Tử nói:
- Tỷ phu ơi! Trước em không biết làm sao tỷ nương lại ưa tỷ phu? Nhưng về sau em hiểu ra rồi.
Kiều Phong nghĩ bụng:
- Tỷ nương cô thâm tình biết là chừng nào. Cô còn nhỏ đã biết gì. Thực ra vì sao mà A Châu lại thương yêu một kẻ thô lỗ như mình. Chính mình cũng còn chẳng hiểu thì cô này biết thế nào được?
A Tử nghoảnh đầu lại, nét mặt lộ vẻ kỳ dị nói:
- Tỷ phu! Tỷ phu có biết tại sao hôm ấy em bắn độc châm vào tỷ phu? Em không muốn bắn chết tỷ phu, mà chỉ chủ tâm bắn cho tỷ phu không nhúc nhích được, để em được kề cận luôn bên mình.
Kiều Phong hỏi:
- Thế thì có chi là thú?
A Tử mỉm cười nói:
- Khi tỷ phu không cử động được thì vĩnh viễn không thể xa em. Nếu không thì lúc nào tỷ phu ghét em lại bỏ đi, không thèm nhìn gì đến nữa.
Kiều Phong nghe nàng nói tuy ra vẻ con nít nhưng không khỏi hãi hùng. Ông biết rằng không phải buột miệng nói hồ đồ, nên lại càng thương xót và nghĩ thầm: "Sáng mai chắc là phải chết. Thôi ta an ủi cô này mấy câu.
Nghĩ vậy ông nói:
- Cô nghĩ như vậy thực trẻ con quá. Nếu cô thực tình ưa tôi, sao không nói thật ra thử xem tôi có chịu không nào?
Cặp mắt A Tử đột nhiên sáng ngời, lộ vẻ vui mừng nói:
- Tỷ phu ơi! Sau khi thương thế em khỏi rồi, em vẫn đi theo tỷ phu, vĩnh viễn không trở về nơi sư phụ phái Tinh Tú nữa. Tỷ phu đừng bỏ em nhé!
Kiều Phong biết A Tử đã gây nên vạ lớn với phái Tinh Tú, đúng là nàng không dám về đó nữa. Sáng mai đây, đội quân của Hoàng Thái Thúc đánh lên sơn trại, ngọc đá đều ra tro hết, khó lòng có cơ trốn thoát được.
Nghĩ vậy ông liền cười nói:
- Cô làm Ðại sư tỷ phái Tinh Tú mà không trở về thì khác gì để họ như rắn mất đàu, làm sao tiện?
A Tử cười đáp:
- Ðể cho bọn họ rối loạn với nhau một mẻ, em không bận tâm gì đến bọn họ nữa.
Kiều Phong kéo chăn đắp cho nàng rồi cũng giải tấm chiên ra nằm xuống một góc trường.
Ánh lửa ngoài trương chập chờn lúc tắt lúc sáng, vẳng nghe tiếng khóc ầm ĩ bên tai.
Kiều Phong biết đó là bọn ngự quân nghĩ đến gia đình.
Chúng cũng tự hiểu sáng mai khôn toàn tính mệnh, nhưng vì tấc dạ trung trinh với Hoàng thượng mà không chịu phản bội.
Sáng sớm hôm sau, Kiều Phong tỉnh dậy bảo gã đội trưởng Thất Lý chuẩn bị ngựa tốt, trông nom cho A Tử ông mặc quần áo gọn ghẽ ăn hết hai cân thịt dê, uống một cân rượu rồi chạy ra sườn núi.
Lúc này trời còn tối om.
Nhưng chẳng bao lâu thì trời rạng đông.
Trong trại địch, hiệu tù và nổi lên vang động, rồi tiếng khí giới va chạm chan chát.
Bên ngự doanh một đội binh mã kéo ra phòng vệ các nơi hiểm yếu.
Tiêu Phong ở trên cao nhìn xuống thấy ba mặt Ðông Nam và Tây đầu người lố nhố toàn là địch quân.
Một màn sương trắng bao phủ ngoài xa nên không trông rõ.
Lát sau vừng thái dương đã nhô lên đầu ngọn cỏ, muôn đạo hào quang chiếu ra bắn tan chỗ sương mù dày đặc.
Kiều Phong trông rõ toàn là quân mã bên địch.
Ðột nhiên trống trận nổi lên, hai đội quân địch mang hiệu cờ vàng tiến ra theo sau Hoàng Thái Thúc cùng Sở Vương.
Hai vị này cưỡi ngựa đến chân núi, giơ tay chỉ trỏ lên trên núi ra chiều đắc ý.
Gia Luật Hồng Cơ xuất lĩmh đội thị vệ đứng trên sườn núi thấy vậy, lửa giận bốc lên ngùn ngụt, nhắc lấy cây cung của một tên quân trong đội thị vệ.
Ðứng trên núi nhòm xuống tựa hồ địch đã gần kềmà thật ra hãy còn cách xa.
Tên bắn rà mới đến nửa vời đã rơi xuống đất.
Sở Vương cười ha hả nói:
- Hồng Cơ! Ngươi cướp ngôi của gia gia ta làm ngụy quân đã bấy nhiêu lâu nên nhường ngôi lại đi. Ngươi mau mau đầu hàng, gia gia sẽ tha chết cho và cũng gia nhân nghĩa phong cho ngươi làm chức Hoàng thái điệt.
Nói xong y lại cười ha hả.
Mấy câu này rõ ràng Sở Vương có ý châm chọc Hồng Cơ đã giả nhân nghĩa phong cho Gia Luật Trọng Nguyên làm Hoàng thái thúc.
Hồng Cơ cả giận mắng lại:
- Quân phản tặc vô liêm sĩ kia! Sao còn dám mở miệng nói càn .
Bắc Viện Khu Mật Sứ nói:
- Vua nhục thì bầy tôi phải chết. Chúa thượng đối với hạ thần ơn nặng tày non. Hôm nay chính là lúc hạ thần báo ơn chúa thượng.
Nói xong Khu Mật Sư lãnh ba ngàn thân binh reo hò xuống núi.
Ba ngàn người này là những tay dũng sĩ Khất Ðan.
Chuyến này họ biết mình thế nào cũng chết, nên ai nấy cũng liều mình, một người đánh lại mười, reo hò xông trận, chiến đấu một cách cực kì anh dũng, khiến cho địch quân lập tức phải lùi lại hơn một dặm.
Sở Vương phất cờ hiệu.
Mấy vạn quân mã lại tiến lên. Tiếng đao thương va chạm nhau lẫn tiếng người huyên náo vang động cả một góc trời. Máu thịt bắn lên tung tóe.
Ba ngàn quân mỗi lúc một mòn đi rồi sau cùng bị chết hết.
Bắc Viện Khu Mật Sứ ra sức chém giết thêm mấy người nữa rồi tự đâm cổ mà chết.
Hồng Cơ cùng Kiều Phong ở trên núi trông xuống rất rõ nhưng không có cách nào cứu được.
Trong lòng hai vị xiết bao cảm kích tấc dạ trung thành của con người liệt sĩ đều phải sa nước mắt.
Sở vương lại ruổi ngựa đến chân núi cười nói:
- Hồng Cơ! Bây giờ ngươi đã chịu đầu hàng chưa? Ngươi chỉ còn chút ít quân mã thì làm gì được? Bọn thủ hạ ngươi đều là dũng sĩ nước Ðại Liêu. Sao ngươi nỡ để họ chết uổng theo ngươi. Ðã là một đấng nam nhi, một bậc đại trượng phu thì phải cả quyết mau lẹ. Hàng thì hàng lẹ, đánh cũng đánh ngay. Nếu đã biết mình sức cùng lực kiệt thì nên tự vận mà chết để tạ tội với thiên hạ, khỏi làm uổng mạng sĩ tốt.
Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, hai mắt đẫm lệ, tay cầm thanh đao nói:
- Giang sơn cẩm tú nhường cho cha con nhà ngươi. Thế là giữa tình chú cháu, anh em đã cốt nhục tương tàn. Sao còn giết hại dũng sĩ Khất Ðan.
Nói xong giơ đao lên toan đâm cổ.
Kiều Phong giơ bàn tay dài như tay vượn ra thi triển Cẩm nã thủ pháp cướp lấy thanh đao trong tay Gia Luật Hồng Cơ nói:
- Ðại ca là bậc anh hùng hảo hán, có chết thì chết ở chiến trường, cớ sao lại tự vẫn?
Hồng Cơ thở dài nói:
- Hiền đệ ơi! Ở đây có bao nhiêu tướng sĩ theo ta đã lâu ngày ta không nỡ ra nơi trận địa, để bọn họ phải hộ vệ ta mà uổng mạng.
Bỗng nghe Sở Vương lớn tiếng gọi:
- Hồng Cơ! Ngươi chưa tự vẫn đi còn đợi đến bao giờ?
Tay gã cầm roi chỉ trỏ ra chiều đắc ý vô cùng.
Kiều Phong thấy Sở Vương mỗi lúc một đến gần thì nghĩ ra một kế, khẽ nói vỡi Hồng Cơ:
- Ðại ca đối thoại với y để kéo dài câu chuyện, tiểu đệ lần mò đến gần y để bắn một phát.
Hồng Cơ vốn biết Kiều Phong bản lãnh phi thường mừng thầm nói:
- Kế ấy hay lắm! Nếu bắn chết được y thì dù ta có mất mạng cũng nhắm mắt được.
Nhà vua liền cất cao giọng nói:
- Sở Vương kia! Ta đối đãi với cha con ngươi có điều chi tệ bạc? Phụ thân ngươi muốn làm Hoàng đế thì làm chứ sao? Hà tất phải sát hại bao nhiêu tướng sĩ cùng trăm họ, làm tổn thương đến nguyên khí nước ÐẠi Liêu ta?
Kiều Phong cầm một cây cung cứng, mười mũi tên lang nha, dắt một con tuấn mã từ từ ra sườn núi. Ông né người xuống chui xuống vào gầm bụng ngựa, hai chân móc lên lưng ngựa chí mạnh một cái cho ngựa chạy xuống.
Bọn nghịch quân dưới chân núi thấy con ngựa không có người cưỡi chạy xuống đều cho là ngựa đứt dây cương chạy rông, chẳng lấy chi làm lạ, không ai buồn để ý. Ngựa chạy xuống mỗi lúc một gần, một tên quân trông thấy dưới gầm bụng ngựa có người ẩn nấp, lập tức hô hoán lên.
Kiều Phong lấy chân thích mạnh vào lưng ngựa cho ngựa xông thẳng đến phía Sở Vương.
Ông thấy chỉ còn cách chừng hai trăm bộ, liền bám sát bụng ngựa giương cung nhắm Sở Vương bắn tới.
Bọn vệ sĩ đứng bên Sở Vương rất lanh lợi, giơ mộc lên để tránh tên.
Kiều Phong bắn nỏ liên châu, một gã vệ sĩ bị trúng tên ngã ra.
Phát tên thứ hai bắn tới ngực Sở Vương.
Sở Vương nhanh mắt lẹ tay vung roi ngựa lên gạt.
Nguyên cách dùng roi gạt tên là một tuyệt kỹ của Sở Vương.
Song y có ngờ đâu người bắn cung sức cánh tay mãnh liệt phi thường, nội kinh dồn cả vào mũi tên.
Roi ngựa chỉ gạt được mũi tên trệch đi một chút.
Véo một tiếng, mũi tên đã cắm vào vai bên tả, Sở Vương trúng tên rú lên:
- Ái chao!
Rồi đau quá phải nằm phục xuống yên ngựa.
Những tên Kiều Phong bắn, chuôi có lông phóng ra rất mạnh và trúng đích.
Lúc phát tên thứ hai bắn ra thì ông đã đến gần Sở Vương hơn, mũi tên xuyên qua lưng y đến trước ngực.
Sở Vương lảo đảo rồi từ trên lưng ngựa ngã lăn xuống đất.
Kiều Phong vừa ra trận đã thành công, bắn chết được Sở Vương thì nghĩ thầm: "Chi bằng ta thừa cơ, bắn chết luôn Hoàng thái thúc."
Ðịch quân thấy Sở Vương chết rồi ngã lăn xuống ngựa đều hô hoán ầm lên.
Mấy trăm quân cung nỏ nhắm bắn vào con ngựa có Kiều Phong ẩn mình.
Chỉ trong chớp mắt con ngựa này đã bị trúng đến dư hai trăm mũi tên.
Kiều Phong nằm dưới đất lăn đi mấy vòng đến gần một con ngựa khác do một tên địch quân cưỡi.
Chỗ này quân địch toàn là kỵ binh, Kiều Phong thi triển thuật nhỏ mọn từ gầm bụng nhoai sang gầm bụng ngựa kia.
Ðịch quân ở vào tình thế ném chuột sợ bể đồ không dám bắn tên nữa, vì sợ bắn nhằm người phe mình.
Chúng liền rút trường mâu ra đâm tới tấp, song Kiều Phong chuồn dưới gầm bụng ngựa thoắt sang bên tả, thoắt qua mé hữu.
Ðịch quân nhốn nháo cả lên xô đẩy nhau, chen chúc nhau, chỉ tổ xéo lên nhau, mà không đâm trúng được Kiều Phong.
Nguyên Kiều Phong thi triển cách lẩn mình đó chỉ là một xảo thuật rất tầm thường của giới võ lâm ở Trung Nguyên gọi là "dịa đường công phu." Tất cả những thế địa đường quyền, địa đường đao, địa đường kiếm, đều nằm lăn lộn dưới đất để tùy cơ nhằm đánh vào hạ bộ bên địch.
Kiều Phong là người mắt nhanh tay lẹ, thân pháp tuyệt diệu, dùng cách này chuồn qua hàng ngàn bụng ngựa để đến gần Hoàng thái thúc.
Vút! Vút! Vút! Ba mũi tên nhằm Hoàng thái thúc bắn ra.
Bọn vệ sĩ hộ vệ Hoàng thái thúc thấy Sở Vương bị bắn chết, dĩ nhiên là đã phòng cẩn mật.
Hơn ba chục tên giơ mộc lên che kín mấy tầng cho Hoàng thái thúc.
Ba mũi tên chạm vào mộc vang lên những tiếng leng keng rồi rớt xuống.
Trong tay Kiều Phong có mười mũi tên mà đã bắn ra hết bảy mũi, chỉ còn có ba.
Ông nhìn thấy bên địch có đến dư ba chục lá mộc che đỡ cho Hoàng thái thúc thì tính rằng ba mũi tên này có giỏi cũng chỉ bắn chết được ba tên vệ sĩ là cùng, còn nói chi đến chuyên bắn Hoàng thái thúc.
Lúc này Kiều Phong đã vào sâu trong trận địch.
Phía sau hàng ngàn quân khinh kỵ cầm trường mâu đuổi theo, trước mặt lại có thiên binh vạn mã, ông đã bị hãm vào nơi tuyệt địa.
Ngày nọ một mình ông, tiếng gọi là độc đấu quần hùng ở đất Trung Nguyên, song đối phương bất quá chỉ vài trăm người cũng đã nguy hiểm lắm rồi, may có người đến tiếp cứu mới thoát chết.
Bữa nay Kiều Phong bị hãm vào giữa chốn trùng vi mấy vạn người thì làm cách nào để thoát thân được.
Kiều Phong lâm vào tình trạng con dã thú đến bước đường cùng.
Bất thình lình ông gầm lên một tiếng thật to, tung người nhảy vọt lên qua ba chục lá mộc rồi hạ mình xuống trước ngựa Hoàng thái thúc.
Hoàng thái thúc giật mình khinh sợ vội giơ roi lên quất vào mặt đối phương.
Kiều Phong né người đi tránh ra, đồng thời nhảy phốc lên yên ngựa Hoàng thái thúc, tay trái nắm lấy sau lưng lão, giơ cao người lão lên quát hỏi:
- Ngươi muốn sống hay là muốn chết? Muốn sống thì bảo ba quân hạ binh khí xuống ngay!
Hoàng thái thúc hồn vía lên mây thộn mặt ra dường như không nghe rõ lời Kiều Phong.
Lúc đó quân địch la rầm lên nghe muốn đứt cả màng tai. Háng ngàn hàng vạn quân giương tên nhắm bắn Kiều Phong. Song chúng thấy Hoàng thái thúc bị ông bắt giữ trong tay nên không dám bắn nữa.
Kiều Phong vận khí từ huyệt đan điền lên, dõng dạc tuyên bố:
- Hoàng thái thúc hạ lệnh cho tam quân phải bỏ binh khí để nghe tuyên đọc thánh chỉ: "Hoàng đế đại xá cho tam quân đều được vô tội bỏ đi không cứu xét."
Tuy ông chỉ nói mấy câu đơn giản mà khiến được mấy chục vạn quân xôn xao cả lên.
Tiếng ông hô rất lớn, vang động cả một khu vực rộng đến vài dặm.
Có đến quá nửa số quân nghe rất rõ ràng, công lực Kiều Phong quả nhiên phi thường.
Bọn nghịch quân vốn chỉ là một phong trào ồ ạt.
Chúng đều muốn bắt Gia Luật Hồng Cơ để được công lớn.
Bây giờ thốt nhiên thấy Sở Vương chết ở trân tiền, lòng quân đã lung lay.
Kế tiếp lại thấy Hoàng thái thúc bị bắt, ai nấy đều nhốn nháo cả lên, không biết làm thế nào.
Kiều Phong đã rút kinh nhgiệm về vụ Bang chúng Cái Bang phản nghịch thâm hiểu lòng người.
Ðứng trước hoàn cảnh phản nghịch mà bị thất bại, người nào cũng chỉ cầu được miễn tội.
Vậy điều cần nhất là mình tỏ ra bỏ hết thù cũ quyết không cứu xét, thì quân phản nghịch tự nhiên mất hết chí chiến đấu.
Lúc này nghịch quân thế lớn, Bên Gia Luật Hồng Cơ bất quá còn hơn hai vạn người ngựa. Nếu còn tiếp tục chiến đấu thì quyết nhhiên không địch lại với số quân địch quá chênh lệch.
Vì thế ông không chờ Gia Luật Hồng Cơ xuống mà chỉ tuyên bố mấy câu để yên lòng quân nghịch.
Mấy câu nói dõng dạc của Kiều Phong vừa truyền ra, nghịch quân đang nhốn nháo, lập tức im lặng phăng phắc ngơ ngác nhìn nhau, trong lòng hoang mang không có chủ đích gì cả.
Kiều Phong biết là cục diện lúc này hãy còn rất nguy hiểm. Chỉ một người đứng bên hô hào là mười mấy vạn quân vô chủ này sẽ ngae theo ngay gây đại biến. Ông không dám trì hoãn giây phút nào, lập tức hô lớn:
- Hoàng đế xuống chỉ, tướng sĩ nghịch quân bất luận lớn nhỏ, nhất luận đều được tha hết. Hoàng đế đặc biệt rộng ơn, quyết không tra xét, quan quân đều được giữ nguyên chức vụ. Vậy các người mau mau bỏ khí giới đi.
Bỗng thấy tiếng loảng xoảng vang lên, một số người quẳng trường mâu trong tay xuống.
Tiếng hạ khí giới truyền nhiễm rất mau.
Chỉ trong chớp mắt có đến phân nửa quẳng khí giới theo, còn phân nửa phân vân chưa quyết.
Kiều Phong giơ cao người Hoàng thái thúc lên, phóng ngựa từ từ lên núi.
Bọn nghịch quân không ai dám cản trở.
Ðầu ngựa ông đi tới đâu là phía trước lại tránh ra để nhường lối đi.
Kiều Phong cưỡi ngựa lên đến lưng chừng sườn núi thì có hai đội ngự doanh quân cưỡi ngựa đón lên sơn trại.
Trên đỉnh núi vang lừng chiên trống nhộn lên một bầu không khí tưng bừng.
Kiều Phong lại nói:
- Hoàng thái thúc! Hoàng thái thúc mau mau hạ lệnh cho bọn thuộc hạ bỏ khí giới đầu hàng thì sẽ được toàn tính mạng.
Hoàng thái thúc nói:
- Ngươi dám bảo đảm cho ta ư?
Kiều Phong quay đầu nhìn xuống thấy còn vô số nghịch quân trong tay vẫn cầm lăm lăm cung tên và trường mâu thì biết rằng lòng quân chưa định, nguy hiểm chưa qua.
Ông nghĩ thầm:
- Hiện giờ việc trấn tỉnh quân tâm là cần nhất. Một mạng Hoàng thái thúc giết đi hay để sống có chi là đáng kể, chỉ cần phái người canh giữ giám sát, quyết từ đây về sau y không dám phản bội nữa.
Kiều Phong nghĩ vậy liền nói:
- Bây giờ chỉ còn một đường lối hay nhất là Hoàng thái thúc đoái tội lập công. Hoàng đế biết rõ việc này đều do Sở Vương gây ra nhất định sẽ tha chết cho Hoàng thái thúc.
Nguyên Hoàng thái thúc vốn không nghĩ đến tranh đoạt đế vị. Chỉ vì con lão là Sở Vương có dã tâm thoát đoạt mà gây nên vạ lớn. Lúc này lão đã bị bắt, chỉ còn mong được toàn mạng, liền đáp:
- Thôi ta cũng đành theo lời ngươi!
Kiều Phong đặt Hoàng thái thúc ngồi xuống yên ngựa, dõng dạc lên tiếng:
- Tam quân hãy nghe đây! Hoàng thái thúc có chỉ thị cho các người.
Hoàng thái thúc lớn tiếng hô:
- Người gây nên bạo loạn là Sở Vương hiện đã bị chết rồi. Ðức Hoàng thượng khoan hồng đại lượng tha tội hết thảy cho các ngươi. Các ngươi mau mau hạ khí giới rồi đến trước Hoàng thượng thỉnh tội.
Hoàng thái thúc vừa nói xong, bọn nghịch quân khác nào như rắn không đầu, dù có kẻ hung hăng quật cường, cũng không dám trái lệnh.
Rồi những tiếng loảng xoảng vang lên, hết thảy nghịch quân đều hạ khí giới.
Kiều Phong áp giải Hoàng thái thúc lên núi Thương Mang.
Gia Luật Hồng Cơ nỗi mừng biết lấy chi cân, khác nào như người trong mộng choàng tỉnh giấc.
Nhà vua chạy đến bên Kiều Phong, nắm chặt hai tay nói:
- Hiền đệ ơi! Hiền đệ ơi! Giang sơn này của ca ca, từ đây anh em ta cùng hưởng.
Nói tới đây nhà vua cảm động quá, bất giác sa lẹâ.
Hoàng thái thúc quỳ phục xuống đất nói:
- Kẻ loạn thần là Trọng Nguyên cam chịu tử tội trước bệ hạ cầu mong bệ hạ khoan ơn.
Gia Luật Hồng Cơ lúc này vui vẻ quá, quay lại hỏi Kiều Phong:
- Hiền đệ tính thế nào đây?
Kiều Phong đáp:
- Nghịch quân người nhiều thế mạnh, điều cần nhất hiện giờ là phải chấn tỉnh quân tâm. Xin bệ hạ giáng chỉ tha tử tội cho Hoàng thái thúc để tránh lòng quân phản trắc.
Hồng Cơ cười nói:
- Hay lắm, hay lắm! Nhất thiết việc gì ta cũng nghe hiền đệ.
Nhà vua quay lại bảo Bắc Viện Ðại Vường:
- Khanh truyền chỉ ra phong cho Kiều Phong tước Sở Vương giữ chức vụ Nam Viện Ðại Vương, và thống lĩnh nghịch quân rút về thượng kinh.
Kiều Phong nghe nói giật mình. Ông giết Sở Vương, bắt Hoàng thái thúc chỉ vì muốn cứu mạng cho nghĩa huynh, tuyệt không có ý mưu đồ tước lộc.
Bây giờ thấy Gia Luật Hồng Cơ đột nhiên phong quyền tước lớn cho mình thì chân tay luống cuống không biết nói thế nào.
Bắc Viện Ðại Vương nhìn Kiều Phong, chắp tay nói:
- Xin kính mừng Kiều huynh! Tước Sở Vương trước nay chưa phong cho ai người họ khác.
Kiều Phong tạ ơn Hoàng thượng đi!
Kiều Phong tiến về phía Gia Luật Hồng Cơ nói:
- Thưa dại ca! Công cuộc hôm nay mà vãn hồi được là nhờ hồng phúc tày trời của đại ca khiến cho quan binh chịu thúc lòng qui thuận, mà bình định xong công cuộc phản loạn này, tiểu đệ bất quá đem chút sức mọn ra góp vào mà thôi có chi là đáng kể công lao. Huống chi tiểu đệ không biết làm quan mà cũng không muốn làm quan. Xin đại ca thu hồi sắc mạng cho.
Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả đưa tay phải ra nắm lấy vai Kiều Phong nói:
- Tước vị Sở Vương, quan hàm Nam Viện Ðại Vương là chức quyền tối cao của Triều Ðình Ðại Liêu, nếu hiền đệ còn chê nhỏ không chịu thần phục ta, thì ca ca đây đành nhường luôn cả ngôi hoàng đế cho hiền đệ, ngoài ra không còn cách nào nữa.
Kiều Phong giật mình lẩm bẩm:
- Chết chưa! Ca ca ta vì mừng vui quá mà quyên cả hình thức mất rồi, không còn nhớ gì cả. Nếu mình do dự có thể gây nên biến cố.
Nghĩ vậy, Kiều Phong đành quì xuống bẩm:
- Thần là Kiều Phong xin lãnh chỉ. Ða tạ hoàng ân.
Gia luật Hồng Cơ tươi cười giơ tay ra nâng Kiều Phong dậy.
Kiều Phong nói:
- Hạ thần không dám nghịch chỉ, vâng mệnh lãnh quan tước. Song hạ thần là kẻ thảo dã tính tình lỗ mãng không hiểu pháp độ triều đình. Nếu có phạm lỗi, mong được bệ hạ khoan hồng.
Gia Luật Hồng Cơ vỗ vai Kiều Phong nói:
- Không hề chi mà ngại.
Nhà vua quay sang nhìn một người đứng tuổi trạc ngoài bốn mươi nói:
- Gia Luật Mạc Ca! Ta cho ngươi lãnh chức Nam Viện Khu Mật Sứ phò tá Kiều Phong đại vương, phụ trách quân vụ trong nước.
Gia Luật Mạc Ca cả mừng vội quỳ xuống tạ ơn Hoàng thượng, rồi khom lưng làm lễ tham bái Kiều Phong, nói:
- Thuộc hạ xin tham kiến đại vương.
Hồng Cơ nói:
- Mạc Ca! Ngươi bẩm với đại vương truyền lệnh cho, đặng thống lĩnh nghịch quân quay về Thượng kinh. Chúng ta lại vấn an Thái hậu.
Lúc đó trên núi chiên trống tưng bừng. Gia Luật Hồng Cơ cùng bá quan xuống núi. Các loạn tướng đã dẫn quân vào thỉnh Hoàng thái hậu, Hoàng hậu ra ngoài tù xa và cung kính mời ngồi chờ trong doanh trại.
Gia Luật Hồng Cơ tiến vào trong trướng. Mẹ con, vợ chồng làm lễ tương kiến. Trải qua một cuôc cải tử hồi sinh, mọi người đều hoan hỉ tán dương công lớn của Kiều Phong, bất tất phải thuật kĩ cho rườm lời.
Gia Luật Mạc Ca đi trước dẫn đường và giới thiệu Kiều Phong cùng các bộ thuộc Nam Viện để cùng nhau làm lễ tương kiến.
Vừa rồi Kiều Phong xông vào chỗ thiên binh vạn mã, anh dũng tuyệt luân, mọi người đều mắt thâùy. Các thuộc viên dưới trướng Sở Vương cũ thấy Kiều Phong thần oai lẫm liệt liền đem lòng khiếp sợ, không ai dám tỏ ý bất phục. Chẳng những Kiều Phong anh hùng làm họ kính sợ, mà Sở Vương trước tính nết nóng nảy chẳng được ai ưa.
Chúng vừa thấy Kiều Phong vào đến quân trung hết thảy đều nghe lệnh răm rắp.
Kiều Phong nói:
- Ðức Hoàng thượng đã miễn tội cho các ngươi đi theo kẻ phản thần làm loạn. Từ đây sắp tới, các ngươi phải biết hối cải ăn năn, đừng ăn ở hai lòng mà gây nên tội đại nghịch.
Một tướng râu bạc tiến ra nói:
- Bẩm Ðại Vương! Hoàng thái thúc cùng Thế tử bắt hết gia thuộc chúng tôi, bức bách chúng tôi phải theo hai người làm loạn. Nếu chúng tôi không theo họ, Thế tử sẽ chém hết cả nhà, chúng tôi lâm vào tình trạng bất đắc dĩ mà gây nên tội lỗi, mong rằng Ðại Vương tâu rõ lên thánh thượng cho.
Kiều Phong gật đầu nói:
- Các ngươi đã biết thế thì chúa thượng sẽ khoan dung không hỏi gì đến tội trước nữa.
Nói xong, Kiều Phong quay sang bảo Gia Luật Mạc Ca:
- Bây giờ cho tam quân nghĩ ngơi, ăn uống xong, lập tức nhổ trại về kinh.
Các quan viên dưới trướng Nam Viện Ðại Vương đều được giữ nguyên chức vào lạy mừng Kiều Phong. Kiều Phong tuy trước kia chưa làm quan, nhưng ông đã từng làm Bang chúa Cái Bang lâu ngày, cầm đầu bao nhiêu anh hùng hảo hán một cách rất oai nghiêm. Nay ông thống lĩnh bọn hào kiệt Khất Ðan cũng chẳng khác gì mấy với qui cựu hào kiệt đất Trung Nguyên. Dù trong việc cầm quân nước Liêu có lề luật riêng, Kiều Phong cũng chỉ để ý một chút là hiểu hết. Hơn nữa ông lại được tay phò tá Gia Luật Mạc Ca phân phái các bộ thuộc cùng thu xếp mọi việc rất đúng phép tắc.
Kiều Phong thống lĩnh đại quân sắp lên đường thì Hoàng thái hậu cùng Hoàng hậu phái sứ giả đưa mũ áo tiền bạc đến ban cho.
Kiều Phong tạ ơn xong, Thất Lý hộ vệ A Tử cũng vừa tới nơi.
Nàng mặc áo gấm cưỡi tuấn mã đều do Hoàng thái hậu ban cho.
Kiều Phong thấy A Tử thân hình loắt choắt, mặc bộ áo rộng thùng thình. Bộ mặt nàng bé nhỏ, bị cổ áo che lấp quá nửa.
A Tử chưa được mắt thấy Kiều Phong bắn chết Sở Vương, bắt sống Hoàng thái thúc, nhưng nàng được nghe bọnThất Lý thuật chuyện lại. Khi người ta thuật lại chuyện gì, thế nào cũng thêm thắt vào cho câu chuyện thêm đậm đà, để công cuộc oai hùng của Kiều Phong càng thêm vẻ li kỳ.
A Tử vừa nhìn thấy Kiều Phong đã trách ngay:
- Tỷ phu ơi, tỷ phu lập nên công trạng lớn lao mà không nói trước cho em hay, để em như người ngồi trong ống chẳng biết chi hết.
Kiều Phong cười nói:
- Ðó chẳng qua là vận hên lập được chút công nhỏ mọn, trước đã biết đâu mà nói? Cô vừa thấy tôi lại nói chuyện trẻ nít rồi.
A Tử nói:
- Tỷ phu ơi! Tỷ phu lại gần đây!
Kiều Phong liền đến bên nàng, ông thấy bộ mặt gầy ốm xanh xao vì hân hoan quá đỗi mà thoáng hiện ánh hồng. Khi trông đến áo xiêm nàng bận, thấy nàng buồn cười lại vừa khả ái.
Kiều Phong không nhịn được phá lên cười ha hả.
A Tử làm mặt giận nói:
- Em nói chuyện đứng đắn sao tỷ phu lại cười hô hố thật là kỳ quá.
Kiều Phong cười nói:
- Tôi trông cô mặc áo chẳng khác gì người đóng trò, coi rất thú vị.
A Tử hậm hực nói:
- Tỷ phu coi em là tuồng con nít để làm trò cười cho tỷ phu chắc?
Kiều Phong nói:
- Không phải thế! A Tử cô nương! Lần này tôi tưởng cả hai người chúng ta cùng chết mất mạng, ngờ đâu lại được thoát chết. Tôi lấy làm khoan khoái quá, còn những chức tước Nam Viện Ðại Vương chi chi đó, tôi thật không màng. Mình được sống sót đã là may mắn lắm rồi.
A Tử hỏi:
- Tỷ phu sợ chết lắm hay sao?
Kiều Phong ngẩn ngơ giây lát rồi gật đầu đáp:
- Phải rồi! Gặp lúc nguy hiểm, dĩ nhiên tôi sợ chết.
A Tử nói:
- Em thì cho tỷ phu là bậc anh hùng hảo hán không sợ chết. Nếu tỷ phu sợ chết thì sao dám xông vào chỗ thiên binh vạn mã?
Kiều Phong đáp:
- Cái đó kêu bằng:
tìm sự sống trong đất chết. Giả tỷ không liều lĩnh xông pha thì chết còn gì. Thế đâu có phải là dũng cảm với anh hùng? Chẳng qua mình chỉ như con dã thú đến bước đường cùng thì phải liều mạng mà thôi. Tỷ như chúng ta bao vây con gấu hay con cọp, nó không có đường chạy thoát thì nó phải nhảy xổ vào cắn xé ta may ra thoát chết.
A Tử mỉm cươì nói:
- Tỷ phu lại đem ví mình với giống súc sinh rồi.
Lúc đó hai người đều cưỡi trên lưng ngựa sánh vai mà đi. Kiều Phong đưa mắt nhìn ra xa, trên cánh đồng cỏ bát ngát cờ xí tung bay, đội ngũ tề chỉnh kéo một hàng dài không biết đến đâu là cùng. Chung quanh hai người vô số sĩ tốt hộ vệ.
A Tử khoan khoái vô cùng, nàng nói:
- Ngày nọ em đoạt được chân thừa kế phái Tinh Tú. Hai ba đời phái này mới được vài trăm đệ tử. Trừ sư phụ ra thì em là người có quyền lớn hơn cả, trong lòng đã lấy làm hí hửng. Nhưng bây giờ so với tỷ phu thống lĩnh dư hai mươi vạn nhân mã thì chẳng ăn thua vào đâu. Tỷ phu! Em nghe nói Cái Bang không cho tỷ phu làm Bang chúa. Chà! Chà! Một Cái Bang nhỏ xíu lấy gì làm quí. Bây giờ tỷ phu đem binh mã đến giết sạch họ đi!
Kiều Phong lắc đầu lia lịa nói:
- Cô nương lại nói chuyện trẻ con rồi! Tôi là người Khất Ðan, Cái Bang không cho làm Bang chúa là hợp lý hợp tình. Vả lại, người Cái Bang đều là bạn cũ của tôi sao lại giết họ?
A Tử nói:
- Bọn chúng đuổi tỷ phu ra khỏi Bang, đối xử bất nhân với tỷ phu, thì nên giết sạch đi chớ để làm gì? Sao tỷ phu còn bảo họ là bạn?
Kiều Phong chưa biết trả lời ra sao, chỉ lắc đầu quầy quậy. Ông nhớ lại khi ở Tụ Hiền Trang đã tuyệt giao và chặt đứt mối tình cũ với bạn bè thì không khỏi bùi ngùi trong dạ.
A Tử hỏi:
- Giả tỷ bọn họ biết tin tỷ phu làm đến Nam Viện Ðại Vương nước Ðại Liêu, chắc là họ hối hận lắm, nhưng họ có muốn rước tỷ phu về làm Bang chúa Cái Bang, chắc tỷ phu cũng không chịu làm nữa.
Kiều Phong tủm tỉm cười nói:
- Ðâu lại có lý thế được? Các bậc anh hùng hảo hán ở nhà Tống đều coi người Khất Ðan là phường tội ác ngập đầu. Tôi ở nước Liêu càng làm quan to bao nhiêu, họ càng căm hận tôi bấy nhiêu.
A Tử nói:
- Úi chà! Họ căm hận tỷ phu thì làm cóc gì? Mình tha căm hận cho họ là tốt.
Kiều Phong buông luồng nhởn tuyến nhìn ra chân trời xa trong rừng núi chập chùng lẩm bẩm:
- Qua dãy núi bên kia là đến Trung Nguyên rồi đó.
Tuy ông là người Khất Ðan, nhưng ở Trung Nguyên từ thuở nhỏ nên trong thâm tâm ông thích nhà Ðại Tống hơn nước Ðại Liêu nhiều. Giả tỷ người Cái Bang bao dung cho ông làm một tên tiểu tốt vô danh, một gã đệ tử hạng bét chưa được đeo túi, có lẽ ông còn khoái hơn làm tới chức Nam Viện Ðại Vương tại nước Ðại Liêu.
A Tử lại nói:
- Tỷ phu ơi! Em cho rằng đức Hoàng thượng thật là thông minh. Người phong cho tỷ phu làm Nam Viên Ðại Vương để ngày sau nước Ðại Liêu có giao tranh với nước ngoài tỷ phu sẽ lãnh binh đi chinh phạt, tất là đánh đâu được đấy. Tỷ phu chỉ có việc xông vào trận địch bắn chết chủ tướng, tất nhiên địch quân phải quì xuống xin hàng, như thế là toàn thắng.
Kiều Phong mỉm cười nói:
- Bộ hạ Hoàng thái thúc đều là quan binh nước Liêu trước nay vẫn nghe mạng lệnh hoàng thái thúc. Hôm nay sở dĩ họ phải đầu hàng là vì Sở Vương bị chết, Hoàng thái thúc bị bắt. Còn trường hợp hai nước giao tranh thì tình hình lại khác hơn. Mình có giết được quan nguyên soái thì họ còn phó soái cầm đầu, Giết được Ðại tướng quân thì còn thiên tướng hay phó tướng. Họ chiến đấu đến cùng, mình đơn thương độc mã thì làm gì được.
A Tử gật đầu nói:
- À ra thế đấy! Tỷ phu ơi! Tỷ phu biểu rằng xông vào trận địch giết chết Sở Vương chả có chi là dũng cảm. Vậy thì trong đời tỷ phu còn viẹâc nào mới chân chinh là dũng cảm, tỷ phu nói cho em nghe có được không.
-
Hồi 48 - Kiều Anh Hùng Phụng Mạng Xuất Chinh - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 48 - Kiều Anh Hùng Phụng Mạng Xuất Chinh
Kiều Phong xưa nay không ưa kể những trận đắc thắng hay những võ công oanh liệt của mình. Hồi ông còn ở Cái Bang, ra trận giết được bao nhiêu kẻ gian ác cực kỳ lợi hại, nhưng bất luận cuộc ác đấu kịch liệt đến thế nào, khi về tới bản Bang, ông cũng chỉ nói sơ qua là đã giết được người này người nọ. Còn những việc từng trải gian nan thì bất cứ người nào hỏi ông cũng không chịu nói ra.
Lúc này nghe A Tử hỏi đến, nhớ lại đời mình từng đánh quen trăm trận, lâm địch thế nào rút lui ra sao, kể về lòng dũng cảm của ông không bao giờ nói hết được.
Tuy nhiên, ông cũng chỉ trả lời một cách lờ mờ:
- Tôi đánh nhau với ai, đều là chuyện bất đắc dĩ. Ðã bất đắc dĩ mà phải chiến đấu thì làm gì còn có chuyện dũng cảm nữa.
A Tử nói:
- Em biết rồi! Chuyện dũng cảm nhất của tỷ phu là cuộc ác đấu ở Tụ Hiền Trang.
Phong rùng mình hỏi:
- Sao cô biết việc ấy?
A Tử đáp:
- Hôm đó ở hồ Tiểu Kính, sau khi tỷ phu đi rồi, gia gia, má má cùng bọn thuộc hạ gia gia em có nói chuyện đến tỷ phu và xem chừng ai nấy đều bội phục võ công tỷ phu. Họ kể rằng tỷ phu đến Tụ Hiền Trang dự cuộc anh hùng đại hội rồi một mình đấu với quần hùng chỉ vì câu chuyện đến chữa nội thương cho một thiếu nữ lại chính là tỷ nương em. Lúc đó gia gia cùng má má em chưa biết A Châu tỷ nương là ái nữ của mình. Họ còn biểu tỷ phu đối xử với nghĩa phụ, nghĩa mẫu cùng ân sư cực kỳ độc ác tàn nhẫn, nhưng đối với đàn bà con gái rất đa tình. Họ kết luận tỷ phu vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn cùng hiếu sắc, là con người bất cận nhân tình..
Nói tới đó nàng cười lên khanh khách.
Kiều Phong lẩm bẩm:
- Vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc! Hỡi ơi! Trách nào những bậc anh hùng hảo hán Trung Nguyên chẳng nghiến răng căm giận Kiều Phong này!
Ðại quân đi liền trong mấy ngày về đến Thượng Kinh.
Trăm quan ở lại giữ kinh thành cùng trăm họ đã được tin, ra tận ngoài xa để đón tiếp.
Lá cờ soái của Kiều Phong đi đến đâu cũng được trăm họ thắp hương quỳ lạy, hoan hô ca tụng công đức của Kiều Phong vì họ biết rằng nếu ông không dẹp xong cuộc biến loạn này thì không biết còn bao nhiêu quân sĩ nước Liêu phải uổng mạng. Nhân dân ở Thượng kinh đại đa số là gia quyến ngự doanh quân, cố nhiên cảm kích ơn đức ông vô cùng!
Kiều Phong lỏng buông tay khấu cho ngựa đi bước một. Trăm họ reo hò vang dội:
- Ðội ơn Nam Viện Ðại Vương đã cứu mạng!
Chỗ thì reo:
- Xin hoàng thiên bảo hộ Nam Viện Ðại Vương sống lâu trăm tuổi.
Kiều Phong nghe những lời chúc tụng cùng thấy trăm họ nước mắt chạy quanh vì cảm đọng thì biết làhọ chí thành. Ông nghĩ: "Một người ở ngôi cao, nhất cử nhất động có quan hệ đến họa phúc của muôn dân. Khi ta bắn chết Sở Vương, chỉ nhân một lúc sinh cường muốn cứu nghĩa huynh và tự cứu mình, không ngờ lại là một việc làm ơn cho bá tính. Than ôi! Lúc ta còn Ở Trung Nguyên cố ý tâm thành hảo sự cho mọi người, mà lại bị bao nhiêu điều chê trách, trở nên một tên gian ác trong chốn giang hồ. Ta vừa đến Ðại Liêu tự nhiên lại thành ra cứu tinh cho trăm họ. Thế thì biết đâu là thiện là ác, thực khó mà phân biệt được."
Thượng kinh là thủ đô của nước Ðại Liêu. Thời bấy giờ Ðại Liêu là nước lớn thứ nhất sau nhà Ðại Tống. Nhưng lực lượng nước Liêu còn cường thịnh hơn nhà Ðại Tống nhiều. Người Khất Ðan sinh nhai bằng nghề súc mục không có chỗ ở nhất định. Những cung điện ở thành thượng kinh thô bỉ hủ lậu, so với Trung Nguyên thật khác nhau một trời một cực.
Ðại quân về thượng kinh, đội quân nào về doanh ấy, những quan tướng thuộc quyền Nam Viện Ðại Vương được Kiều Phong đón vào vương phủ.
Vương phủ này là chỗ ở của Sở Vương.
Sở Vương trước cực kỳ xa xỉ, dinh thự rất là rộng lớn. Trong nhà trần thiết kế cực kỳ xa hoa.
Kiều Phong suốt đời yên phận nghèo nàn, ông vào vương phủ đi coi các phòng viện một lượt.
Ông không quen những cảnh giàu sang phú quý liền sai thuộc hạ dựng hai nơi doanh trướng để mình cùng A Tử mỗi người ở một cái. Cách khải cư của ông giản dị chất phác như xưa.
Ðến ngày thứ ba, xa giá Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, Hoàng hậu, Công chúa về đến thượng kinh.
Kiều Phong dẫn bách quan ra tiếp giá.
Trong triều tấp nập bận rộn luôn mấy ngày.
Ðầu tiên là tiệc khánh hạ bình xong cuộc đại loạn luận công ban thưởng, kế đến việc vỗ về gia đình Bắc Viện Khu Mật Sứ cùng các quan binh đã tử nạn.
Hoàng thái thúc tự biết mình không còn mặt mũi nào về đến triều đình nên tự vẫn ngay ở dọc đường.
Hồng Cơ là người thủ tín, những quan binh về phe đảng phản nghịch đều không bị xét hỏi gì cả.
Trong hoàng cung mở yến tiệc khao thưởng công lao tướng sĩ luôn ba ngày.
Kiều Phong là bậc anh hùng đệ nhất trên chiếu tiệc.
Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, Hoàng hậu, các phi tần cùng công chúa ban thưởng rất nhiều.
Các quan văn võ cũng đưa đồ lễ đến tặng, chất như núi.
Yến tiệc khao thưởng xong xuôi, Kiều Phong đến Nam Viện phục vu.
Tộc trưởng mười mấy bộ lạc trong nước Ðại Liêu lục tục kéo đến bái kiến, những bbộ lạc đó là: Ô Ngổi bộ, Bắc Khắc bộ, Nam Khắc bộ, Thất Vi bộ, Mai Cổ Tất bộ, Ngũ Quốc bộ, Ô Cổ Lạc bộ rồi còn gì nữa ông không nhớ hết.
Tiếp theo đến các quan quân trong "đại trướng Bì Thất" của Hoàng đế, quan quân thuộc sau doanh của Hoàng hậu, những quan quân, những đội thị vệ trong Hoàng Ninh cung, Trường Ninh cung, Vĩnh Hưng cung, Tích Khánh cung, Diêm Xương cung tấp nập vàp làm lễ bái kiến.
Những thuộc quốc của Ðại Liêu cộng năm mươi chín nước là Thổ Cốt Hồn, Ðột Quyết, Ðảng Hạng, Sa Ðà, BA Tư, Ðại Thục, Tân Giới, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Cao Xương, Cao Ly, Tây Hạ, Vu Ðiền, Ðôn Hoàng v. v.. Các nước đều cho sứ thần đưa lễ vật đến Thượng kinh. Họ biết rằng Kiều Phong nắm giữ binh quyền nên đưa tặng đồ trân bảo để cầu thân. Kiều Phong hàng ngày phải tiếp khách hay đón tiếp các bộ thuộc. Trước mắt ông toàn thị vàng bạc, châu báu, bên tai ông toàn những lời ca tụng, nịnh hót. Ông lấy làm phiền phức và chán ngán.
Hơn một tháng trời, Kiều Phong bận bịu vào việc tiếp khách mới hết người đến chúc mừng.
Một hôm Gia Luật Hồng Cơ vời ông vào triều bệ kiến. Nhà vua nói:
- Hiền đệ lãnh chức Nam Viện Ðại Vương ngồi trấn giữ Nam Kinh để chờ cơ hội đánh xuống Trung Nguyên. Tuy ca ca không muốn xa rời hiền đệ. Nhưng vì muốn lập kì công để lại nghìn thu, vậy hiền đệ sớm chọn ngày thống lĩnh ba quân tiến xuống cõi Nam nghe!
Kiều Phong nghe Hoàng thượng sai mình lĩnh Nam Chính, trong lòng kinh hãi hỏi:
- Nam Chính là việc trọng đại, đâu phải chuyện tầm thường. Kiều Phong này là một kẻ dũng phu sợ không đương nổi việc đó.
Gia Luật Hồng Cơ cười nói:
- Nước nhà mới trải qua cơn biến loạn cần cho sĩ tốt nghĩ ngơi. Nhà Ðại Tống hiện Thái hậu đang cầm quyền, trọng dụng Tư Mã Quan sửa sang việc triều chính không có chổ nào sơ hở. Chúng ta không nên khởi binh Nam chinh lúc này. Hiền đệ ơi! Hiền đệ xuống Nam Kinh rồi nên luôn luôn để tâm đến việc thôn tính Nam triều. Bên ta chờ khi nào Tống triều xảy ra cuộc nội biến là lập tức ra quân. Họ ở trong thời kì nội bộ vững vàng mà Liêu quốc ta cử binh đi xâm lược sẽ phải tổn nhiều lực lượng mà thu lượm được ít hiệu quả.
Kiều Phong đáp:
- Vâng! Như thế là phải.
Hồng Cơ nói:
- Có điều ta phải theo dõi việc chính trị Nam triều có thực sự chỉnh đốn, cùng là trăm họ có một lòng qui phục triều đình họ hay không?
Kiều Phong nói:
- Thần xin bệ hạ chỉ thị đường lối cho.
Hồng Cơ cười ha hả nói:
- Ðường lối xưa nay vẫn thế, cứ việc xuất vàng bạc châu báu cho nhiều để mua lòng những kẻ gian tế làm nội công cho mình. Người phương Nam thiếu gì kẻ tham tài, hèn hạ, vô liêm sỉ. Hiền đệ ra lệnh cho Nam Viện Khu Mật Sứ đừng tiếc tiền của, phải vung nhiều ra để mua chuộc bọn này.
Kiều Phong vâng lệnh cáo từ lui ra, trong lòng rất là phiền não, vì ông là một hảo hán hiên ngang trước nay chỉ kết giao cùng những bậc anh hùng hào kiệt. Trên chốn giang hồ, ông từng thấy những vụ hãm hại ngấm ngầm, lén lút hạ độc thủ, hoặc mưu thần chước quỷ chẳng thiếu thứ gì, dù là việc giết người phóng hỏa, cũng chưa từng đem tiền bạc ra thuê ai bao giờ. Huống chi ông tuy là người nước Liêu nhưng được nuôi dưỡng ở Trung Nguyên từ ngày còn thơ ấu cho đến lúc trưởng thành. Thế mà Gia Luật Hồng Cơ giao phó cho ông việc trừ diệt Tống triều, tất nhiên ông rất đổi phiền lòng.
Kiều Phong nghĩ thầm: "Ca ca ta phân cho ta làm chức Nam Viện Ðại Vương là người rất có thành ý, nếu ta từ quan ngay thì không khỏi cô phụ tấm thịnh tình của người và có thể sức mẻ đến nghĩa anh em. Âu là ta hãy xuống Nam Kinh nhận chức trong vòng năm, bảy tháng hay một năm rồi xin cáo là xong. Bấy giờ nếu ca ca ta không chuẩn cho ta từ chức, ta sẽ treo ấn bỏ quan rồi chuồn đi thì ca ca cũng phải đành chịu chứ làm gì được."
Chủ ý đã định, Kiều Phong thống lãnh thuộc hạ đem cả A Tử xuống Nam Kinh.
Thời bấy giờ Nam Kinh của nước Ðại Liêu tức là Bắc Kinh ngày nay, hồi đó còn gọi là Yên Kinh hay U Ðô (kinh đô Châu U).
Nguyên về triều nhà Tấn, Trạch Kính Ðường làm Hoàng đế, nước Liêu hết sức giúp đỡ, Trạch Kính Ðường liền cắt mười sáu châu đất Yên Vân để đền đáp.
Mười sáu châu hồi đó là địa hạt: A Châu, Thuận Châu, Ðàn Châu, Trác Châu, Dịch Châu, Kế Châu, Bình Châu, Thước Châu, Doãn Châu v. v. và toàn là những khu vực trọng yếu về phía Bắc Ký Châu. Sau khi mười sáu châu này được cắt cho nước Liêu rồi, ba triều đại Tấn, Tống, Chu đã phải nhiều phen chinh phạt, mà thủy chung vẫn không lấy lại được.
Ðịa thế mười sáu châu Yên Vân này rất thuận lợi cho nước Liêu đóng quân. Mỗi lần nước này có cuộc động binh lại xua quân qua một cánh đồng bát ngát, Ðại Tống không có địa thế hiểm yếu để phòng thủ. Hai nước Tống, Liêu thường xảy ra cuộc giao binh đến hơn năm trăm năm mà Tống triều chưa được phen nào thắng trận, cố nhiên không phải kếm về lực lượng mà tại Liêu quốc ở trên cao đánh xuống kiềm chế đươc chiến trận và chiếm được tiện nghi nhiều hơn.
Kiều Phong vào thành rồi, thấy Nam kinh phố xá rộng rãi bá tính Nam triều qua lại rất đông. Bên tai ông toàn nghe tiếng nói Trung Nguyên, chẳng khác gì mình đã vào Trung Nguyên vậy. Về phần phồn hoa đô hội, nơi đây hơn thượng kinh rất nhiều.
Kiều Phong cùng A Tử thấy phố xá phồn thịnh rất lấy làm vui thích, hôm sau hai người dùng xe nhẹ đi dong chơi phố phường. Thành Yên Kinh rộng ba mươi sáu dặm vuông chia làm tám cửa. Mặt Ðông có cửa An Ðông và cửa Nghình Xuân. Mặt Nam có cửa Khai Dương và Ðan Phụng. Mặt Tây là cửa Hiền Tây và Thanh Tấn. Mặt Bắc là cửa Thôn đại và củng Thần. Tên hai cửa mặt Bắc có ngụ ý thần phục phương Bắc, tuân theo thánh chỉ của Hoàng đế Bắc quốc.
Vương phủ Nam Viện Ðại Vương ở về mé Tây Nam trong nội thành. Tieu Phong và A Tử đi chơi được nửa ngày thấy chợ búa, phố xá, chùa chiền rất là trù mật, không phải đi coi một lúc mà hết được.
Kiều Phong đã làm Nam Viện Ðại Vương, không phải quản hạt mười sáu châu Yên Vân mà thôi đến cả một giải phủ Ðại Ðồng thuộc đạo Tây Kinh và phủ Ðại Ðịnh thuộc đạo Trung Kinh cũng phải tuân theo lệnh ông. Vì oai quyền quá lớn, ông không thể ở trong doanh trại lụp xụp được đành dọn vào vương phủ.
Kiều Phong trông coi được mấy ngày cảm thấy đầu óc tối tăm, không được phóng khoáng như ở chốn giang hồ, nên rất lấy làm khó chịu. Ông thấy Nam Viện Khu Mật Sứ Gia Luậtb Mạc Ca rất tinh minh mẫn cán, thành thuộc về chính trị, liền giao hết cho y.
Làm quan to kể ra cũng có chỗ hay là trong vương phủ không thiếu gì đồ quý trọng cùng dược liệu hiếm có. A Tử tha hồ mà ăn cao hổ cốt cùng mật gấu, nàng dùng như cơm bữa. Nội thương của nàng mỗi ngày một đỡ. Sang đến mùa đông, nàng đã đi lại được và cử động tự do. Trước hết nàng đi chơi trong nội thành Yên kinh, sau nàng ra chơi cả ngoài thành trong phạm vi mười dặm.
Một hôm trời vừa tạnh mưa tuyết, A Tử mặc áo cừu vào điện Tuyên Giáo của Kiều Phong nói:
- Tỷ phu ơi! Tiểu Muội ở mãi trong thành buồn quá, tỷ phu đưa em đi săn.
Kiều Phong ở trong cung điện lâu ngày cũng phát ngán, nghe A Tử nói vậy thì cả mừng, liền sai thuộc hạ sắp ngựa đi săn. Ông không thích lối săn đem nhiều người đi để bao vây dã thú mà chỉ dẫn mấy tên tùy tùng để phục dịch cho A Tử. Ông lại e làm kinh động đến dân gian, nên chỉ mặc bộ áo da dê như quân sĩ, rồi đeo cung dắt tên cưỡi tuấn mã cùng A Tử ra cửa Củng Thần đi về phía Bắc.
Ðoàn người ra khỏi cửa Củng thần hơn mười dặm, chỉ săn được mấy con thỏ nhỏ.
Kiều Phong nói:
- Chúng ta thử qua mặt Nam coi.
Nói xong bắt ngựa rẽ ra ngã Tây rồi quay xuống phía Nam. Lại đi được hai mươi dặm thì gặp được một con hươu sao chạy xéo qua mặt.
A Tử liền nhắc lấy cung của tên tùy tùng, lắp tên toan bắn. Ngờ đâu cánh tay nàng còn yếu quá không dương cung nổi.
Kiều Phong tay trái quàng sau lưng A Tử nắm lấy cây cung, tay phải kéo dây cung rồi buông tay ra đánh tách một tiếng, mũi tên vừa bay ra, con hươu sao đã ngã lăn xuống đất. Bọn tùy tùng hoan hô rầm lên.
Kiều Phong buông tay A Tử tủm tỉm cười, bỗng thấy mắt nàng ngấn lệ chạy quanh thì lấy làm kỳ hỏi:
- Sao vậy? Cô không muốn ta giúp cô bắn dã thú ư?
A Tử nghe Kiều Phong hỏi nước mắt tràn xuống, nàng nói:
- Tiểu Muội... Tiểu Muội thành người vô dụng mất rồi, dương cái cung tầm thường còn không nổi thì làm được cái gì?
Kiều Phong an ủi nàng:
- Cô đừng nóng nảy, khí lực sẽ dần hồi phục. Nếu sau này không khôi phục lại được nguyên khí thì tôi sẽ rèn luyện phép tập nội công cho, nhất định khí lực sẽ tăng gia.
A Tử đang khóc phá lên cười hỏi: "Tỷ phu nói thật không? Có nhất quyết rèn tiểu Muội tập nội công không?
Kiều Phong đáp:
- Cô hãy yên lòng! Ta nhất định dạy cho cô.
Ðang lúc nói chuyện, bỗng nghe mé Nam có tiếng vó ngựa dồn dập. Kiều Phong nhìn ra thì thấy một đại đội nhân mã đang rong ruổi trên mặt đất đầy tuyết đọng. Ông nhìn phía trước bọn này không thấy cờ hiệu chi hết. Họ toàn là quan binh nước Liêu, chúng đang ca hát vang lừng vui nhộn. Phía sau bọn quan binh có nhiều người bị bắt cột vào khấu đuôi ngựa, tựa hồ đi trận mạc đắc thắng trở về.
Kiều Phong tự hỏi:
- Bên ta có đánh nhau với ai đâu? Vậy chắc đã xảy ra cuộc giao phong ở đâu trở về?
Ông thấy đội quan lính rẽ ra ngã Ðong rồi đi vào thành Nam Kinh, liền quay lại bảo một tên tùy tùng:
- Ngươi lại hỏi bọn kia xem chúng đi đâu về?
Tên tùy tùng đáp:
- Vâng!
Rồi nói tiếp:
- Ðây là bọn anh em thuộc hạ đi kiếm lương về. Nói xong gã phóng ngựa chạy tới chỗ bọn quan binh.
Chạy gần đến nơi, gã lớn tiếng nói mấy câu.
Bọn quan binh nghe Nam Viện Ðại Vương ở đây liền hoan hô ầm ĩ, rồi nhất tề nhảy xuống ngựa tay cầm dây cương dắt ngựa rảo bước đến trước Kiều Phong cúi đầu thi lễ và hô to:
- Ðại Vương thiên tuế!
Kiều Phong giơ tay lên nói:
- Thôi, các ngươi đứng dậy đi! Ông thấy đội quan binh ước chừng dư tám trăm người, trên lưng ngựa chất đầy vải lụa cùng đồ vật và số người bị bắt cũng đến dư tám trăm, phần đông là con gái ít tuổi vàmột số trai tráng. Họ đều mặc y phục người Tống, ai nấy khóc lóc kêu gào, vẻ mặt cực kỳ buồn thảm. Gã đội trưởng nói:
- Bữa nay đến phiên đội binh của tiểu nhân đi kiếm lương thảo may nhờ phúc lớn của Ðại Vương thu lượm được kết quả mỹ mãn.
Ðoạn gã quay bảo binh sĩ:
- Các ngươi lựa chọn lấy những cô gái xinh đẹp cùng những đồ vàng bạc quý giá để dâng Ðại Vương xin Ðại Vương thiên tuế thâu dụng.
Các quân sĩ dạ ran.
Chúng đưa hơn hai chục mỹ nữ đến trước ngựa Kiều Phong, và gói nhiều đồ trang sức vàng bạc, vải vóc vào trong một tấm vải gai. Bọn quan binh Khất Ðan rất tôn kính những bậc anh hùng. Nếu Kiều Phong chịu thu dụng những con gái, lụa là cùng châu báu đi cướp về được thì chúng lấy làm vinh dự lắm.
Ngày trrước, Kiều Phong đến ngoài Ải Nhạn Môn Quan, chính bắt ông đã thấy bọn quan binh nhà Ðại Tống hiếp đáp nhân dân Khất Ðan, lần này ông lại thấy quân binh Khất Ðan đi bắt con dân Ðại Tống. Vẻ mặt những nhười bị bắt bữa nay cũng sầu hổ chẳng khác gì những người Khất Ðan bị bắt ngày nọ.
Kiều Phong ở nước Liêu ít lâu, ông đã biết đại khái về chế độ quân binh trong nước. Nước Liêu đã không phát lương thảo cho quân đội mà cũng không trả tiền lương. Những thức nhu dụng của quan binh đều trông vào các đồ cướp được bên địch. Háng ngày phái bộ đội qua các nước lân bang như Ðại Tống, Tây Hà, Nữ chân, Cao Ly để cướp bắt dân lành. Công việc này họ gọi là"kiếm lương thảo"mà thực ra là hành động của quân cường đạo.
Quan binh triều Tống cũng đi"kiếm lương thảo"bên nước Liêu để báo thù. Vì thế mà nhân dân ở vùng biên giới hai nước cực kì khổ sở, lúc nào cũng nơm nớm lo sợ, sớm lo hôm, tối lo mai.
Kiều Phong trông thấy những hành động cực kì tàn nhẫn vô đạo này nên không muốn làm quan lâu bền. Ông chỉ muốn kéo dài thời gian để vẹn nghĩa với Gia Luật Hồng Cơ rồi cáo quan về ở ẩn. Chủ ý đã định như vậy, nên bất luận với những việc cơ binh trọng đại gì trong nước, ông cũng không phát biểu chủ trương chi hết. Bây giờ trước mắt ông xảy ra thảm trạng ông không khỏi đau thương.
Ông hỏi lại đội trưởng:
- Ngươi đi kiếm lương thảo ở đâu về?
Ðội trưởng kính cẩn đáp:
- Bẩm đại vương! Bọn tiểu nhân di kiếm lương thảo ở ngoài địa hạt Trai Châu nhà Ðại Tống. Từ khi đại vương về đây, thuộc hạ không dám lấy lương thảo trông phạm vi Châu quận nhà.
Kiều Phong nghĩ thầm:
- Nghe lời gã này, thì ra trước nay chúng vẫn cướp bóc của người Tống trong Châu quận này.
Kiều Phong quay lại dùng tiếng Hán hỏi một thiếu nữ điệu đến trước ngựa:
- Ngươi ở đâu?
Thiếu nữ quỳ xuống khóc lóc đáp:
- Tiểu nữ người ở Trương Gia thôn, xin đại nhân mở lòng nhân đức tha cho tiểu nữ về nhà để được đoàn tụ cùng cha mẹ.
Kiều Phong lại ngẩng đầu trông sang bên, thì mấy trăm người bị bắt đều quỳ hết một lượt.
Trong đám này chỉ có một chàng thiếu niên vẫn hiên ngang đứng sững.
Trong số mấy trăm người vừa trai vừa gái bị bắt đều quỳ mọp dưới đất mà một thiếu niên dám hiên ngang đứng sững tỏ rõ thái độ quật cường của gã.
Kiều Phong thấy thiếu niên chừng mười sáu mười bảy tuổi mặt dài, cặp mắt loang loáng, tuyệt không có chút gì khiếp sợ, liền hỏi:
- Chú nhỏ kia! Nhà chú ở đâu?
Thiếu niên đáp:
- Tôi có việc cơ mật cần được bẩm đại vương.
Kiều Phong nói:
- Chú lại đây nói ta nghe!
Gã thiếu niên giơ hai tay bị cột bằng sợi dây thừng rất lớn lên nói:
- Xin đại vương dời ra xa bọn thuộc hạ, việc này không thể để người ngoài nghe thấy được.
Kiều Phong động tính hiếu kỳ, tự hỏi:
- Thằng nhỏ này đã biết gì mà bảo là có việc cơ mật? Gã ở dưới Nam lên hoặc gã có điều chi báo cáo quân tình nhà Ðại Tống? Nhưng ông lại nghĩ rằng: "Gã đã là người Ðại Tống mà đến báo cáo việc cơ mật trong nước cùng người Khất Ðan thì cũng chỉ là một tên Hán gian hèn hạ, đáng khinh. Dù sao gã đã bảo có việc cơ mật trọng đại, âu là ta cũng thử nghe coi cũng chẳng hề chi."
Nghĩ vậy Kiều Phong tung ngựa chạy ra xa mười mấy trượng vẫy tay bảo:
- Chú theo ta lại đây!
Thiếu niên chạy lại giơ hai tay lên nói:
- Xin đại vương hãy cắt dây trói cho tôi đã, tôi sẽ lấy một vật trong bọc để trình đại vương.
Kiều Phong rút đơn đao ở sau lưng ra.
Soạt một tiếng, lưỡi dao bổ xuống, đường đao trông như để bổ dọc gã thiếu niên, nhưng rất đúng vị trí lưỡi dao chỉ chặt đứt dây trói mà không động chạm gì đến tay gã.
Thiếu niên giựt mình chú ý nhìn Kiều Phong hồi lâu.
Kiều Phong tủm tỉm cười tra đao vào vỏ rồi hỏi:
- Nào! Chú có gì đâu đưa ta coi.
Thiếu niên thò tay vào bọc móc ra một vật cầm trong tay nói:
- Ðại vương coi đây sẽ rõ.
Nói xong chạy lại trước ngựa Kiều Phong.
Kiều Phong vừa giơ tay ra đón lấy vùa để mắt trông thì thấy đồ vật cầm trong tay thiếu niên cựa quậy, ông rất lấy làm lạ bảo:
- Chú ruỗi bàn tay ra cho ta coi.
Rồi không đón lấy nữa.
Thiếu niên biết âm mưu mình đã bại lộ, sắc mặt tái mét.
Ðột nhiên gã cầm vật trong tay liệng vào mặt Kiều Phong.
Kiều Phong vung roi ngựa lên hất vật đó xuống đất.
Ông chú ý nhìn thì té ra là một con rắn nhỏ xíu đan sì.
Ông nhíu cặp lông mày rồi không để ý gì đến nữa, chỉ nghĩ thầm:
- Thằng nhỏ này tinh nghịch thật. Dám bắt rắn đem cho mình chơi chắc?
Ông lại để ý nhìn con rắn rớt xuống đất, nó lầp tức nhảy lên há miệng cắn vào đùi ông.
Kiều Phong không ngờ đến con rắn nhỏ xíu này lại tung bay lên được, bất giác giật mình đánh thót một cái, rút chân về.
Con rắn cắn hụt ông, liền đớp ngay vào chân trước con ngựa ông đang cưỡi.
Ngựa bị rắn cắn mình mềm nhũn ra, ngã vật xuống đất.
Kiều Phong đang ngồi trên ngựa nhảy xuống kịp.
Ông thấy con ngựa không hí lên được một tiếng chỉ giãy giụa mấy cái rồi chết ngoẻo.
Thiếu niên xông vào phía trước nhặt lấy con rắn nhỏ trên mình ngựa ra rồi liệng vào người Kiều Phong.
Kiều Phong thấy con rắn nhỏ này nọc độc ghê gớm.
Còn đang lơ lửng trên không, nó đã lè lưỡi lắc lư cái đầu nhảy vào mình, ông không dám chần chừ, vận nội kình vào roi ngựa quất mạnh một cái hất ra xa.
Con rắn bị roi quất mà nó vẫn chưa chết, nó tung bay ra xa ngòi mấy một trượng rơi xuống đống tuyết, quằn quặi một chút rồi quay đi mất hút.
Kiều Phong tuy đã trải qua nhiều phen nguy hiểm bất ngờ, thế mà nghĩ đến lần này ông không khỏi ớn da gà.
Trâu ngựa là những súc vật to lớn, khi mắc bệnh người ta phải dùng liều thuốc hàng nửa cân hay một cân trở lên mới thấu bệnh, chứ không phải chỉ mấy đồng cân hay mấy lạng là đủ như trị bệnh cho người.
Cứ suy đó mà ra thì đủ biết rằng muốn dùng chất độc để đánh chết trâu ngựa, số lượng cũng phải nhiều hơn mới có công hiệu.
Con rắn nhỏ xíu này chỉ đớp một cái mà làm chết được ngựa, thì nọc độc của nó mãnh liệt biết đến đâu mà kể?
Gã thiếu niên đã cầm rắn trong tay được để liệng vào Kiều Phong thì cũng phải là một nhân vật rất lợi hại về cách dùng độc, trị độc.
Kiều Phong từng làm Bang chá Cái Bang.
Những bạn bè trong Bang trị độc kể có đến hàng ngàn hàngvạn.
Chức Tư Không cũng là một tay giỏi về nghề này, nhưng chưa có gì đáng gọi là kỳ lạ.
Ðến con rắn đen sì nhỏ xíu này mới thật là hạn hữu.
Những nhà trị rắn độc ở Cái Bang đều là những người đứng tuổi hoặc người già, trải qua bao lâu năm kinh nghiệm mới lành nghề.
Gã thiếu niên này mới mười sáu mười bảy tuổi mà đã có một bản lãnh tinh vi đến thếthì thật là trên đời này hiếm có.
Kiều Phong nghĩ lại bấy nhiêu điều rồi lẩm bẩm: "Nếu mình không có tâm linh mau lẹ, lại đưa tay ra đón lấy thì uổng mạng rồi còn gì? ."
Quan binh Khất Ðan thấy con ngựa của Kiều Ðại Vương ngã ra chết, tới tấp chạy lại.
Kiều Phong xua tay nói:
- Các ngươi đừng lại đây!
Quan binh nghe ông ra lệnh đều dừng bưóc.
Kiều Phong nhìn xuống con ngựa bạch nằm chết trong đống tuyết bây giờ toàn thân biến ra sắc đen, chẳng khác gì một con hắc mã thì trong lòng kinh hãi vô cùng.
Ông lẩm nhẩm gật đầu, nói:
- Giỏi lắm! Giỏi lắm! Tên chú là gì? Cớ sao lại đến nhằm ta hạ độc thủ?
Thiếu niên mím chặt môi không trả lời.
Kiều Phong nói:
- Ngươi cứ nói đi ta sẽ tha mạng cho?
Thiếu niên nói:
- Ta đến báo thù cho cha mẹ ta không xong, còn nói gì được?
Kiều Phong hỏi:
- Cha mẹ chú là ai? Chẳng lẽ ta giết chết cha mẹ chú ư?
Thiếu niên tiến lên hai bước, giơ tay trỏ vào mặt Kiều Phong vẻ mặt cực kỳ căm phẫn nói:
- Kiều Phong kia! Mi đã giết hại bá phụ lại giết luôn cả gia gia cùng má má ta. Ta căm hận không ăn tươi nuốt sống mi được và xé xác mi ra làm muôn mảnh.
Kiều Phong nghe gã nói đến tên của mình là Kiều Phong lại biểu mình giết hại bá phụ cùng song thân gã tì biết ngay chắc là ngày trước mình đã gây thù oán ở Trung Nguyên.
Ông hỏi:
- Bá phụ và song thân chú là ai?
Thiếu niên đáp:
- Ta không muốn sống nữa nên ta bảo cho ngươi biết làm trai họ Du ở Tụ Hiền Trang chúng ta không phải là phường tham sanh úy tử.
Kiều Phong nghe nói đến họ Du ở Tụ Hiền Trang liền nói:
- Ủa! Ngươi là con cháu song hùng họ Du. Vậy hiền tôn là Du Câu hay Du Nhị Gia rồi.
Ngừng một lát ông nói tiếp:
- Ngày đó ta ở Quí trang bị quần hùng Trung Nguyen vây đánh và bức bách ta phải ứng chiến. Ðó là việc bất đắc dĩ, lệnh tôn cùng lệnh bá phủ đều tự vẫn chết đấy chứ!
Tới đây ông lắc đầu nói tiếp:
- Hỡi ôi! Dù người tự vẫn hay người bị giết cũng chẳng khác gì nhau, vì ngày đó ta cướp mất binh khí của bá phụ cùng gia gia chú đến nỗi các người phải tự vẫn. Chú em ơi! Tên chú là gì?
Thiếu niên đứng phưỡn ngực ra đáp:
- Ta là Du Thản Chi. Ta không cần ngươi hạ sát, ta học lối bá phụ cùng gia gia ta.
Nói xong gã thò tay vào ống bít tất rút ra một lưỡi đoản đao rồi cầm đao đâm ngực.
Kiều Phong vội lấy roi ngựa vung ra quấn lấy lưỡi đoản đao kéo về.
Du Thản Chi cả giận nói:
- Ta muốn tự vẫn, ngươi cũng không cho ư? Quân Liêu tội ác ngập đầu kia! Mi thật lòng lang dạ thú!
Lúc này A Tử đã tung ngựa đến bên Kiều Phong quát lên:
- Thằng quỷ con chưa ráo máu đầu kia! sao dám mở miệng mắng người? Mi muốn chết phải không? Ha! Ha! Muốn chết cũng không dễ đâu!
Du Thản Chi Ðột nhiên thấy một vị tiểu cô nương kiều diễm, gã đứng ngây người ra mà nhìn không nói nên lời.
A Tử nói:
- Tỷ phu ơi! Thằng lỏi này hiểm độc gớm lắm. Gã toan dùng rắn độc để hại tỷ phu. Bây giờ tiểu Muội cũng dùng rắn độc để cắn cho y biết mùi.
Nàng là môn đệ phái Tinh Tú, về môn tà độc thì hiện nay không đâu bằng phái này.
Kiều Phong quay lại bảo tên đội trưởng:
- Bữa nay đi kiếm lương được những thứ gì của người Tống ta cho các ngươi tát, nghe chưa!
Ðọi trưởng mừng quá đáp:
- Ðại Vương có lòng thương thuộc hạ xin đa tạ.
Kiều Phong nói:
- Những quân binh bắt được người Tống đem về cho ta thì sẽ về Vương phủ để lãnh thưởng.
Bọn quan binh mừng rỡ vô cùng đồng thanh nói:
- Bọn tiểu nhân xin thành tâm dâng Ðại Vương hết đâu dám mong lãnh thưởng.
Kiều Phong nói:
- Các ngươi để những kẻ bị bắt lại đây rồi đưa nhau về thành trước đi, và nhớ đến lãnh... thưởng. Ðám quân binh cúi đầu tạ ơn.
Gã đội trưởng nói:
- Bữa nay không được nhiều dã thú, Ðại Vương bắt lấy đám Tống chư (1) này làm "bia thịt." Trước kia Sở Vương ưa món đó lắm. Có điều đáng tiếc là món hôm nay bọn tiểu nhân bắt được phần nhiều đàn bà. Lần sau sẽ bắt những hạng trai tráng nhiều hơn về để Ðại Vương dùng làm bia thịt. Tống chư là lợn Tống. Tiếng nói để tỏ ý khinh bỉ cũng như Liêu cẩu (chó Liêu).
Nói xong thi lễ, kéo quân về.
Câu chúng vừa nói: "Bắt đám lợn Tống làm bia thịt" vừa lọt tai Kiều Phong, khiến ông rùng mình. Tước mắt ông hiện ra cảnh tượng thê thảm. Sở Vương ngày trước từng bắt người Tống làm"bia thịt"khủng khiếp vô nhân đạo biết chừng nào!
Háng trăm người Tống chẳng khác gì loài dã thú hoặc ngồi trên đống tuyết kêu gào hoặc chạy trốn. Những bậc quý nhân Khất Ðan cười ha hả dương cung lắp tên để bắn chết chơi. Còn người nào chạy được xa rồi thì người Khất đan reo hò đuổi theo tựa như cuộc săn đuổi chồn thỏ vậy. Rút cuộc đều bị bắn chết hết. Các trò bắn người này họ gọi là bia thịt. Cảnh tượng thảm khốc này không chỉ một lần mà thôi, người Khất đan coi những vụ đó là thường, họ bàn tán đến luôn, tựa hồ câu chuyện bình thường không có chi lạ.
Kiều Phong đưa mắt nhìn những người bị bắt thì thấy sắc mặt của người nào cũng tái mét, run cầm cập trước ngọn gió heo lạnh buốt.
Trong bọn dân miền biên giới này có nhiều người hiểu tiếng Khất Ðan từng nghe đến chuyện bia thịt lại càng khủng khiếp.
Kiều Phong thở dài sườn sượt, ngó về phía nam rừng núi trùng điệp, bỗng nhớ lại: "Nếu không có người phát giác ra thân thế mình thì đến ngày nay ta vẫn tưởng mình là người nhà Ðại Tống. Ta với bọn người đó cùng nói một thứ tiếng cùng ăn một thứ cơm, có khác chỗ nào đâu? Làm sao đã là người cả lại còn phân chia làm người Khất Ðan, người Ðại Tống, rồi người Nữ Chân, người Cao Ly... Bọn người bên này sang bờ cõi nước kia để kiếm lương rồi bọn người kia lại qua đất bên này để giết người đốt nhà? Người này mắng người kia là "Liêu cẩu" người kia lại mắng người này là "Tống chư."
Trong một lúc không biết bao nhiêu là sóng tư tưởng cuồn cuộn tràn ngập đầu óc ông.
A Tử vẫn nhìn chằm chặp vào Du Thản Chi đang tính toán xem hành hạ gã cách nào đừng để gã chết ngay tức khắc. Nàng lẩm bẩm:
- Mấy bữa nay mình đang buồn đây. Tuy bắt được tên này về nháao bằng bắt được con hươu con hoẳng chơi cho thích?
Rồi nàng reo thầm:
- À phải rồi! Ta hãy đem thử uy lực chiếc Bích Ngọc VưởngÐinh xem thế nào cũng hay! Trước hết ta bắt mấy con rắn độc cho cắn tay phải gã chờ cho chất độc chạy vào trái tim rồi hãy chém tay gã đi. Ðoạn lại cho rắn cắn tay trái và cũng làm theo cách đó có thể tiêu khiển cho mình được bốn năm ngày.
Kiều Phong thấy lũ quan binh nước Liêu đi xa rồi không còn ai nữa liền bảo đám nạn nhân:
- Hôm nay ta tha các người về, vậy các ngươi chạy ngay đi!
Bọn người bị bắt vẫn tưởng Kiều Phong tha cho họ chạy đi rồi lại bắn bia thịt như những lần trước, thành ra họ vẫn thất vọng ngồi yên.
Kiều Phong lại giục:
- Các ngươi về rồi nên rời xa biên giới để khỏi bị chúng đi càn quét về. Ta có cứu các ngươi cũng chỉ đươc một lần mà thôi, chứ không được lần thứ hai đâu.
Bây giờ bọn nạn nhân mới tin là Kiều Phong nói thật reo hò mừng rỡ quỳ mọp cả xuống đập đầu lạy, đồng thanh nói:
- Ơn đức Ðại Vương ơn nặng tày non. Bọn tiểu nhân trở về nhà sẽ cầu trời khấn phật cho Ðại Vương được sống lâu hưởng phúc.
Nên biết rằng bọn dân Tống bị người Liêu càn quét bắt về rồi trừ khi là nhà đại phú có vàng bạc đem đến chuộc về thì không kể còn ngoài ra bị chết trên đất Liêu, thảm cảnh xương trắng quê người đã diễn ra nhiều lần.
Luôn mấy năm Tống cùng Liêu đánh nhau liên miên nên người giàu có đều di cư vào nội địa cả rồi. Bọn dân bị bắt này đều là hạng cùng khổ, làm gì có tiền bạc lụa là để đem chuộc. Họ biết rằng thân phận họ không bằng trâu ngựa, nay được Kiều Phong buông tha cho họ trở về với gia đình thì nỗi vui mừng biết lấy chi cân?
Kiều Phong nhìn thấy bọn nạn nhân vui mừng dắt giúm nhau đi về phía nam, nghĩ thầm:
- Người Khất Ðan mình bắt họ về đây, rồi lại tha họ khiến bọn họ phải nhọc nhằn khiếp sợ một phen thì làm gì còn có ơn đức với ai.
Ông thấy bọn nạn nhân kéo nhau đi mỗi lúc một xa, chỉ còn mình gã Du Thản Chi vẫn phưỡn ngực đứng đó liền hỏi:
- Sao chú không chạy đi? Bây giờ chú về Trung Nguyên đã có lộ phí chưa?
Nói xong ông thò tay vào bọc toan lấy tiền bạc cho gã nhưng bên mình lại không đem theo đồng tiền nào. Lúc móc túi định lấy tiền tiện tay ông móc cái gói nhỏ bằng giấy dầu ra, ông bỗng chua xót trong lòng thấy gói giấy dầu này bọc cuốn Dịch Cân Kinh bằng tiếng Phạn.
Nguyên ngày trước A Châu vào chùa Thiếu Lâm lấy cắp được pho sách này, nàng bắt buộc ông phải nhận lấy cất đi. Nay người mất mà kinh còn, trách nào trông thấy di vật ông chẳng đau thương?
Kiều Phong lại cất gói nhỏ vào bọc buồn rầu nói:
- Bữa nay ta đi săn không mang tiền theo. Nếu chú không có tiền xài đi theo ta về thành mà lấy.
Cặp mắt Du Thản Chi giận như muốn tóe lửa, lớn tiếng quát:
- Gã họ Kiều kia! Mi muốn giết thì giết, muốn mổ thì mổ, hà tất còn dùng ngụy kế để trêu cợt và làm nhục ta. Họ Du này nghèo khổ chết thôi, chứ không thèm nhận một đồng một chữ của mi.
Kiều Phong cho gã nói thế là phải. Mình là kẻ thù giết cha gã mối thù không đội trời chung, dù nói lắm cũng vô ích, liền bảo:
- Ta không giết chú. Chú muốn báo thù thì lúc nào muốn đến tìm ta cũng được.
A Tử vội nói:
- Tỷ phu ơi! Không thể tha gã được! Thằng lõi này độc ác lắm, gã có báo thù cũng không dùng võ công đàng hoàng, mà chỉ dùng thuốc độc hoặc rắn độc. Vô luận là thủ đoạn hèn mạt nào gã cũng dám làm, khiến cho mình biết đâu mà đề phòng. Ðã nhổ cỏ phải nhổ tận gốc mới khỏi lo về sau.
Kiều Phong lắc đầu nói:
- Bước đường giang hồ chỗ nào cũng đầy gai chông nguy hiểm, mình đều bước qua cả rồi. Xem chừng gã thiếu niên này không hạ nổi ta đâu. Ngày trước vì ta nói khích mà bá phụ cùng thân phụ gã tự vẫn chết! Ðó cũng là chuyện vô tình. nhưng món nợ máu đó ta hãy còn chịu đó chưa trả, có lý nào lại giết cả con cháu họ Du nữa.
Du Thản Chi nghe Kiều Phong muốn tha mình mà vị tiểu cô nương cứ khuyên y giết mình. Tuy chàng cũng muốn đi luôn để khỏi sợ Kiều Phong biến đổi lòng dạ. Nhưng mình chạy đi ngay thì làm hại đến uy danh của phụ thân mình. Gã miễn cưỡng tỏ vẻ gan dạ lạnh lùng đứng nhìn hai người.
Kiều Phong nói:
- A Tử! Chúng ta về thôi. Bữa nay chả còn gì mà săn bắn nữa.
A Tử bĩu môi nói:
- Tiểu Muội đã nghĩ cách an bài gã kia đâu vào đấy rồi mà tỷ phu cứ đòi tha gã. Thế rồi tiểu Muội về thành lấy gì mà chơi?
Nói vậy thì nói chứ nàng không dám trái ý Kiều Phong, bắt ngựa quay đầu cùng Kiều Phong dong cương về thành.
Ði được mấy trượng, nàng còn quay đầu lại bảo:
- Thằng lỏi kia! Mi về luyện lấy sáu chục năm võ công nữa rồi hãy tìm đến tỷ phu ta để báo thù!
Nói xong nàng mỉm cười, gia roi cho ngựa chạy nhanh.
Du Thản Chi thấy bọn Kiều Phong đi về phía tây thủy chung vẫn không quay đầu lại mới biết là mình đã thoát chết. Gã lẩm bẩm một mình: "Tên gian tặc này, sao lại không giết ta? Chắc y coi ta chẳng vào đâu, không thèm giết ta cho bẩn tay. Nay y đã làm chức đại vương chi chi đó ở nước Liêu. Từ đây về sau việc báo thù của ta khó lắm rồi. Nhưng rồi cũng có ngày ta phải tìm đến chỗ y."
Gã cắm đầu vừa đi trên đất đầy tuyết phủ vừa tìm con rắn đen nhỏ xíu để bắt nó đem về. Gã đang tìm kiếm bỗng thấy trên bụi cỏ mé tả một gói nhỏ bọc giấy dầu chính là của Kiều Phong vừa đánh rớt.
Gã liền nhặt lên mở ra xem, thì ra là một cuốn sách. Gã giở luôn mấy trang, nhưng trang nào cũng chỉ thấy chi chít những chữ ngoằn ngoèo hoặc khuyên hoặc điểm. Gã chẳng hiểu gì hết.
Nguyên Kiều Phong nhìn thấy vật lại nhớ đến người. Lúc ông đút"Dịch cân Kinh"vào bọc, lòng dạ thẩn thờ, không bỏ kinh vào trong túi lại bỏ ra ngoài, rồi lúc ngựa chạy xốc nên giấy dầu rớt xuống bụi cỏ, mà ông không hay biết, nênDu Thản Chi bắt được.
Gã xem từ đầu đến cuối, mù mịt chẳng hiểu một chữ nào thì nghĩ thầm: "Ðây chắc là chữ Khất Ðan, cuốn sách này hẳn là vật rất hữu dụng của tên gian tặc. Ta không trả lại y, để y khổ sở cho bỏ ghét!"
Du Thản Chi nghĩ mình lấy được cuốn sách của Kiều Phong tất làm khó cho ông, gã cảm thấy có điều khoan khoái trong lòng vì gã cho là thế cũng gỡ gạc được tí chút trong việc báo thù cha gã.
Cố nhiên, mối thâm thù giết cha mẹ, sâu tấy biển cả, không phải vì cái việc cỏn con đó mà Kiều tan, nhưng nó làm phiền cho kẻ thù phải rầy rà bực bội, cũng là hay rồi.
Gã gói cuốn sách lại trong tờ giấy dầu, cất kỹ vào trong túi áo lót mình rồi trông về phía nam mà đi.
Từ ngày còn nhỏ, Du Thản Chi đã theo phụ thân học võ, nhưng tư chất kém cỏi lại thân thể gày yếu nên sức lực cánh tay không sao mạnh lên được.
Bá phụ cùng phụ thân gã đều nổi tiếng anh hùng trong giới võ lâm ở Trung Nguyên, mà gã học võ ba năm chưa ăn thua gì, thật không xứng đáng là con cái nhà danh gia.
Du Thản Chi học võ cho đến ngày mười hai tuổi, phụ thân gã là Du Câu phát ngán, bàn cùng bá phụ gã:
- Không ngờ nhà họ Du ta lại sanh ra con mẻ mọt chẳng bõ để người ta cười cho thúi óc. Hơn nữa khi người ngoài nghe tiếng là con cháu Du Tị Song Hùng ở Tụ Hiền Trang, thì lúc ra tay họ sẽ dùng hết sức và chỉ một chiêu là y tất uổng mạng. Âu là mình cho y học nghề văn để bảo toàn lấy mạng sống hay hơn.
Thế là từ năm mười hai tuổi, Du Thản Chi thôi không học võ nữa theo thầy đồ đọc sách. Song gã đọc sách cũng lại chểnh mảng vì gã còn để tâm nghĩ đến chuyện đâu đâu, Thảnsự học hành luôn luôn bị gián đoạn.
Một hôm sư phụ nhắc lại cho Du Thản Chi câu nói của Ðức Khổng Tử:
- Việc học có siêng năng và nhuyên cần thì mới tìm thấy sự hứng thú.
Gã nói:
- Ngài nói như vậy;nhưng đệ tử chưa hiểu là nói về môn gì. Gia gia dạy đệ tử tập quyền, đệ tử rất siêng năng và chuyên cần mà tuyệt chẳng thấy hứng thú chi hết.
Sư phụ gã tức mình nói:
- Ðức Khổng Tử nói đó là một học thuyết của thánh hiền để dựng nghiệp lớn trên đời, chứ ngài nói đến cái nghề đánh quyền múa thương làm gì?
Du Thản Chi liền nói:
- Ðược lắm! Sư phụ bảo bá phụ cùng gia gia đệ tử đánh qu yền múa thương là chẳng ra gì. Ðệ tử phải đem chuyện này tố với gia gia.
Ðại khái là gã chọc tức để thầy đồ tức mình phải bỏ đi.
Du Câu đã đánh y không biết bao nhiêu lần, song con người như gã càng đánh càng quật cường bướng bỉnh.
Du Câu thấy con hư cứng đầu khó dạy cũng chẳng biết làm thế nào được, chỉ thở dài rồi bỏ mặc gã muốn làm gì thì làm không nói đến nữa.
Vì thế nên Du Thản Chi đã mười bảy tuổi lại con nhà danh giá mà vẫn văn dốt võ nát;chỉ đi theo một người khách trong nhà đi học nghề bắt rắn, suốt ngày chạy lăng xăng trên núi hay dưới đồng.
Từ khi bá phụ cùng phụ thân gã tự vẫn chết, rồi mẫu thân cũng đật đầu vào cột tử tiết theo cha, thì gã lênh đênh cơ khổ, du đảng khắp nơi. Trong tâm gã chỉ muốn đi tìm Kiều Phong để báo thù.
Hôn xảy ra cuộc đại chiến ở Tụ Hiền Trang, gã nấp ở sau nhà để xem đánh nhau nên gã đã nhớ rõ mặt ông.
Gã nghe nói ông là mgười Khất Ðan, thế là cứ ngây ngô đi về hướng Bắc. Tuy gã chủ tâm đi báo thù mà rút cục trong bụng chẳng biết làm thế nào để báo thù.
Một hôm gã đang chạy lăng băng ở miền biên giới rồi gặp bọn kỵ binh Khất Ðan đến bắt đi và tự nhiên gặp Kiều Phong. Âu đó cũng là một chuyện khuôn thiên lừa lọc, không hẹn mà nên.
Gã được Kiều Phong tha rồi, vừa đi vừa nghĩ bụng: Hiện bây giờ mình chạy xa được chừng nào hay chừng nấy để khỏi bị quân Khất Ðan bắt trở lại. Rồi mình sẽ đi bắt rắn độc tìm cách lẻn vào giường Kiều Phong, bỏ rắn vào chăn mền để nó cắn chết kẻ thù. Còn vị tiểu cô nương kia! Trời ơi! Sao mà người nàng đẹp thế!
Gã nhớ đến hình dung A Tử, bất giác luồng nhiệt huyết nổi lên bừng bừng.
Từ nhỏ đến giờ, năm nay gã mười bảy tuổi và đây là lần đầu tiên trong tâm gã nảy ra cảm giác quỷ quái này...
Gã nhớ đến bộ mặt xanh lướt nhưng thanh nhã mĩ miều của cô bé kia, trong lòng gã lại cảm thấy vui sướng vô cùng!
Du Thản Chi cắm đầu đi mau. Một loáng gã đã qua mặt bọn nạn nhân. Vì gã ở dưới nam nên không quen biết ai trong bọn này. Có người kêu gã kết bạn đồng hành nhưng gã cũng mặc, chỉ lủi thủi đi một mình.
Du Thản Chi đi được mười mấy dặm đường thì bụng đói như cào, nhìn đông ngó tây để kiếm xem có thứ gì ăn được không. Nhưng ở giữa cánh đồng bát ngát ngoài cỏ khô cùng tuyết trắng, chẳng có thứ gì nữa.
Gã lẩm bẩm: "Giả tỷ mình là con trâu hay con dê có lẽ lại thú hơn" vì nó gặm cỏ uống tuyết cũng khoan khoái rồi. Hừ! Nhưng nếu mình làm con dê nhiều người ta giêt gia gia, má má là hai con dê già để ăn thịt thì mình có báo thù không? Nhưng báo thù bằng cách nào? Mình lấy sừng húc kẻ đã giết cha mình ư? Cũng vô lý, người ta nuôi trâu nuôi dê là để ăn thịt, làm sao mình lại tính đến chuyện báo thù với chẳng báo thù?
Du Thản Chi vừa nghĩ vơ nghĩ vẩn, bỗng lại nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập.
Ba tên kỵ binh Khất Ðan đang ruổi ngựa trên đất đầy tuyết phủ rầm rập đi đến, chúng vừa thấy gã thì reo hò mừng rỡ.
Một tên quân Khất Ðan vung cái thòng lọng ra chụp vào cổ gã rồi giật mạnh một cái.
Du Thản Chi thấy nghẹt cổ khó thở, vội giơ tay lên đằng ra.
Không ngờ tên quân Khất Ðan huýt lên một tiếng còi rồi giựt cương cho ngựa chạy nhanh.
Du Thản Chi chân đứng không vững, té lăn xuống đất rồi bị tên quân Khất Ðan kéo tuột đi.
Du Thản Chi kêu lên được mấy tiếng thật to, nhưng rồi cổ họng bị rít chặt lại, không kêu được nữa.
Tên quân Khất Ðan sợ cứ kéo như vậy sẽ làm chết Du Thản Chi liền dừng ngựa lại.
Du Thản Chi lóp ngóp bò dậy, vừa nới dây thòng lọng ra một chút thì tên quân Khất Ðan lại giật mạnh một cái khiến cho gã lảo đảo chúi về phía đằng trước hai bước suýt ngã vật xuống.
Ba tên quân Khất Ðan thấy vậy lại cười ồ. Rồi một tên lớn tiếng nói bi bô với Du Thản Chi mấy câu, nhưng gã không hiểu tiếng Khất Ðan chỉ lắc đầu quày quạy.
Tên quân Khất Ðan lại quất ngựa chạy, lần này ngựa chạy nhanh hơn trước.
Du Thản Chi sợ nghẹt cổ họng không thở được phải hấp tấp chạy theo.
Ba tên kỵ binh Khất Ðan trông về hướng tây mà đi. Tuy chúng không cho ngựa phóng nước đại, nhưng so với người đi chân cũng nhanh hơn nhiều.
Du Thản Chi muốn giữ cho khỏi té nhào cứ phải chạy gần. Gã thấy ba tên kỵ binh nhắm về phía Kiều Phong cho ngựa chạy, thì không khỏi hoảng hồn rủa thầm: "Thằng cha Kiều Phong này miệng thơn thớt da ớt ngâm. Y bảo tha mình rồi lại cho quân đuổi theo bắt lại. Phen này bị y bắt nữa chắc khó lòng thoát chết!"
Từ ngày Du Thản Chi lìa cửa lìa nhà đi về phương Bắc, lúc nào cũng nghĩ đến việc báo thù, chứ có biết trời cao đất rộng là gì.
Gã gặp Kiều Phong một cách đột ngột, cảnh cha mẹ gã bị thảm tử hiển hiện ra trước mắt, máu nóng gã sôi lên sùng sục. Gã tưởng liệng rắn độc ra cắn chết được kẻ thù ngay. Song gã liệng không trúng thế là bao nhiêu chí khí lại tiêu tan. Gã tưởng thoát chết là may ngờ đâu lại bị quân Khất Ðan bắt trở lại.
Lần trước bọn Khất Ðan đi kiếm lương bắt được gã cho gã đi theo bọn đàn bà con gái. Dĩ nhiên bọn này đi thong thả thôi, nên gã theo không khó nhọc gì. Chỉ có lúc gã bị bắt, gã bị đánh một sống đao vào sau lưng là hơi đau ê ẩm mà thôi.
Lần này gã bị bắt khác hẳn lần trước, gã đã bị ngựa kéo xềnh xệch một lúc, bây giờ lại phải gần theo kịp ngựa cho khỏi ngã lăn ra. Gã vừa chạy vừa thở hồng hộc trông rất thiểu não.
Mặt đường đầy tuyết rất trơn. Du Thản Chi chỉ chạy được vài chục bước lại trượt chân té nhào xuống. Mỗi lần té là đây thòng lọng lại xiết chặt sau cổ đến trầy da chảy máu.
Tên kỵ binh Khất Ðan vẫn cho ngựa chạy đều đều, không dừng lại lúc nào, và cũng chẳng thèm để ý đến gã sống hay gã chết nữa, cứ thế kéo gã vào thành Nam Kinh. Lúc vào thành Du Thản Chi mình đầy những máu, trông không còn ra hình người nữa. Gã chỉ mong được chóng chết cho khỏi đau đớn.
Vào thành rồi, ba tên kỵ binh Khất đan còn cho ngựa chạy mấy dặm đường nữa mới kéo gã đến một tòa cung điện. Du Thản Chi thấy đường lót đá tảng màu xanh, cổng cao cột lớn chẳng biết đó là cung điện nào.
Dừng lại trong thời gian chừng uống cạn tuần trà, tên quân Khất Ðan lại kéo Du Thản Chi đến một khu sân rộng rồi đột nhiên huýt lên một tiếng sáo, thích cặp giò vào sườn ngựa phóng rất nhanh. Du Thản Chi không ngờ tên quân phóng ngựa một cách đột ngột chỉ chạy được ba bước rồi té nhào.
Tên kỵ binh Khất Ðan miệng huýt sáo liên hồi, kéo Du Thản Chi chuyển qua ba khúc quanh trong sân. Vó ngựa chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Mười mấy tên quan binh đứng ngoài xem, reo hò trợ oai. Du Thản Chi nghĩ thầm: à ra bọn chúng lôi ta cách này đến chết đây.
Từ đầu cho đến chân tay gã va vào đá xanh lát dưới đất khiến gã đau đớn khắp mình mẩy. Bọn quan binh Khất Ðan đang cười rộ, đột nhiên nổi lên một giọng cười trong trẻo của một thiếu nữ.
Du Thản Chi giữa lúc hôn mê vẳng tiếng cô gái vừa cười vừa nói:
- Ha ha! Cái diều giấy bằng người này, e rằng khó lòng thả lên được.
Du Thản Chi tự hỏi: Diều giấy người là ai vậy? Gã còn đang nghĩ ngợi, bỗng thấy sau cổ bị rít chặt lại rồi người gã tung lên trên không.
Nguyên tên kỵ mã Khất Ðan phóng ngựa cho chạy thật nhanh, lôi gã tung bay lên tựa như cái diều giấy để làm trò chơi.
Du Thản Chi người tung bay vì ngựa chạy nhanh, cổ gã bị xiết chặt đau điếng người, không còn biết gì nữa. Mồm miệng và lỗ mũi gã bị gió tràn vào đầy rất khó thở.
Bỗng nghe tiếng cô gái vỗ tay cười:
- Hay quá! Hay quá! Quả nhiên chẳng khác gì thả diều giấy.
Du Thản Chi ngoảnh mặt về phía phát ra tiếng cười nói, thì thấy người vỗ tay tươi cười chính là thiếu nữ chim sa cá lặn mình mặc áo tía.
Du Thản Chi nhìn thấy nàng không biết gã vui mừng hay đau thương. Người gã đang bay trên không trung nên không hiểu gã tư tưởng thế nào. Thiếu nữ kiều diễm này chính là A Tử.
Nguyên nàng thấy Kiều Phong buông tha Du Thản Chi, trong bụng không vui. Nàng cưỡi ngựa theo ông đi một lúc rồi cố ý lùi lại sau để bảo bọn tùy tùng đi bắt gã trở lại và dặn chúng không được cho Kiều đại vương hay biết.
Bọn tùy tùng biết Kiều đại vương nuông chiều cô bé này, việc gì cũng theo lời cô, dĩ nhiên là chúng không dám trái lệnh. Nhân lúc Kiều Phong không để ý, chúng dừng lại trên sườn núi chờ cho đòan người đi xa rồi, bấy giờ mới quay lại đuổi theo bắt Du Thản Chi.
A Tử về thành rồi vào cung Hựu tránh xa chỗ ở Kiều Phong để ngồi chờ.
Lúc bắt được Du Thản Chi đem về, nàng gạn hỏi bọn Khất Ðan có cách nào đánh đập hành hạ tội nhân mới mẻ đặc biệt không? thì có gã đưa ra ý kiến: "thả diều người."
Trò này làm cho A Tử Thích quá, nàng hạ lệnh lập tức thi hành. Thế la "cái diều" Du Thản Chi được tung lên.
A Tử xem cách thả diều người rất lấy làm thích thú, liền gọi bảo:
- Ngươi để ta thả một chút!
Rồi nàng lẹ làng tung mình nhảy lên lưng ngựa để tên Khất Ðan đang cưỡi cầm lấy dây thòng lọng giựt tên quân:
- Thôi, ngươi xuống đi.
-
Hồi 49 - Du Thản Chi Mê Mẫn Tâm Thần - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 49 - Du Thản Chi Mê Mẫn Tâm Thần
Tên quân Khất Ðan nhảy xuống ngựa để cho A Tử thả "diều người."
A Tử cầm đầu dây rồi phóng ngựa để cho chạy đường vòng tròn. Nàng sung sương hở tươi cười miệng hô:
- Thú quá! Thú quá!
Nhưng nàng bị ghương mới khỏi mà chưa được bình phục bàn tay vẫn còn yếu sức rồi mềm nhũn ra tuột mất đầu dây.
Du Thản Chi rớt xuống đất đánh cái "huỵch"một tiếng, trán gã đụng vào cạnh phiến đá sắc nhọn, bị thương một lỗ, máu chảy ra như suối.
A Tử cụt hứng tức mình la mắng:
- Thằng khốn nạn này sao nặng thế!
Du Thản Chi đã đau xuýt ngất người lại nghe nàng quát mắng vì thân thể vì quá nặng, những muốn quay lại cãi lộn, nhưng không nói nên lời.
Một tên quân Khất Ðan chạy nới lại dây lọng tròng cổ gã, một tên khác xé vạt áo buộc vết thương, nhưng máu tươi vẫn tuôn ra ướt hết không thể cầm được.
A Tử nói:
- Các ngươi lại thả diều đi cho ta coi, liệu có thả lên cao bàng nóc nhà được khkông?
Du Thản Chi không hiểu tiếng Khất Ðan chỉ thấy họ vừa nói vừa giơ tay chỉ chỏ lên nóc nhà cũng đoán là chuyện khong hay cho mình.
Quả nhiên một tên quân Khất Ðan nhắc đầu dây lên luồn qua nách rồi bước lên lưng để khởi làm ngẹn cổ gã rồi quát lên một tiếng:
- Lên đi!
Ðoạn phóng ngựa chạy nhanh. Du Thản Chi trước còn chạy lệt sệt dưới đất mấy vòng rồi tung lên cao dần dần. Tên quân Khất Ðan thả dây mọt lúc lại dài ra. Người Du Thản Chi dần lên cao. Tên Khất Ðan đột nhiên hô lên một tiếng rồi buông đầu dây ra. Du Thản Chi tựa hồ như mũi tên bật khỏi dây cung bắn tung lên.
A Tử cùng các quan binh reo ầm lên. Du Thản Chi không gượng được đành để cho người tung mạnh lên trên không, gã nghĩ bụng:
"Phen này chắc chết!." Khi người gã tung lên hết đà, gã chúc đầu xuống chân ngược lên tưởng chừng như đầu đổ xuống phiến đá xanh đến vỡ óc.
Bốn tên quân Khất Ðan vội tung giây thòng lọng ra tròng lấy lưng gã rồi giật mạnh ra bốn phía. Du Thản Chi ngất xỉu, bốn luồng sức mạnh giữ gã cứng đơ lơ lửng trên không, đầu gã chỏ xuống chỉ còn cách mặt đất chừng ba thước.
Trước tình trạng cực kỳ nguy hiểm nếu chỉ một trong bốn tên quân Khất Ðan chậm giật dây một chút, khiến cho sức mạnh bốn bên không cân nhau thì Du Thàn Chi sẽ đụng đầu xuống đá vỡ óc ra mà chết.
Bọn Khất Ðan thường ngày vẫn đem người Tống ra làm trò chơi như vậy, trong mười người bị chết hết chín. Dù là ở trong cánh đồng cỏ mặt đất mềm dẻo hơn nhưng từ trên cao rớt xuống cũng vỡ óc gãy cổ chết nhiều rồi.
Giữa lúc tiếng hô vang dội bốn tên quân Khất Ðan hạ Du Thản Chi xuống.
A Tử lấy tiền ra thưởng cho đám quan binh mỗi tên mươi lượng.
Bọn quan binh sung sướng tạ ơn rồi hỏi:
- Cô nương còn muốn coi trò gì nữa không?
A Tử thấy Du Thản Chi ngất đi khôngbiết còn sống hay đã chết rồi. Hơn nữa cô vừa thả"diều người"đã dùng sức quá nhiều trước ngực, không đủ sức để xem nữa liền đáp:
- Ta xem đủ rồi. Thằng lỏi này nếu không chết thì sáng mai đem gã vào yết kiến ta để ta nghĩ cách têu khiển khác. Gã đã toan ám toán sát Ðại Vương thì không thể để nó chết một cách dễ dàng được.
Ðám quan binh dạ vang.
Lúc Du Thản Chi tỉnh lại thì mũi ngửi thấy mùi khê nằng nặc. Gã bừng mắt ra nhìn mà chẳng thấy gì, câu đầu tiên gã tự hỏi: "Ta còn sống hay chết rồi? ."
Gã cảm thấy khắp mình đau đớn, miệng khát nước phi thường.
Gã cất tiếng gọi:
- Nước! Nước!
Nhưng nào có ai thèm thưa.
Gã gọi luôn mấy tiếng rồi ngất đi. Gã mơ thấy bá phụ, phụ thân giao đấu với Tiêu Phong, máu chảy lênh láng lại nhìn thấy người mẹ rất thân yêu dắt gã ngồi vào lòng dỗ dành và bảo gã đừng sợ.
Gã lại thấy cả A Tử xuất hiện ra trươc mắt với vẻ đẹp nồng nàn dưới cặp mắt hồ thu và sắc sảo dị thường. Bộ mặt nàng đột nhiên co rúm lại biến thành cái đầu rắn hổ mang bành hai má phùng phình, mình sặc sỡ lại cắn gã.
Du Thản Chi sợ quá muốn trốn chạy, nhưng đến ngón tay còn không nhúc nhích được. Gã gắng gượng né tránh nhưng người vẫn cứng đờ. Rồi gã bị con rắn độc cắn lôi từng miếng thịt ở trên cánh tay, dưới đùi, sau lưng, trước cổ, khắp mọi chỗ trong người, nhất là ở trên trán rắn cắn còn mạnh hơn. Gã thấy những miếng thịt rớt ra thì hết hồn toan kêu lên mà không ra tiếng.
Du Thản Chi người nóng bừng thần trí mê man suốt đêm. Lúc gã tỉnh lại thì người ê ẩm cũng khổ sở như lúc nằm mơ.
Hôm sau hai tên quân Khất Ðan áp giải gã đến yết kiến A Tử, người gã hãy còn nóng ran. Gã vừa bước đi một bước thì người lại ngã lăn ra.
Hai tên quân Khất Ðan vội cắp gã lên rồi vừa mắng vừa dìu đến một căn nhà bằng đá rất lớn. Du Thản Chi tự hỏi: Bọn này đem ta đi đâu? Phải chăng lôi mình ra giết?
Ðầu óc gã vẫn hôn mê, không nghĩ nhiều được. Gã chỉ biết chúng đưa mình qua hai dãy hành lang đến ngoài một tòa sảnh đường...
Hai tên quân Khất Ðan ở ngoài cửa tòa sảnh rồi bẩm báo mấy câu.
Phía trong có tiếng cô gái đáp lại, cửa nhà sảnh đường mở ra. Hai tên quân Khất Ðan liền đẩy gã vào. Du Thán Chi ngửng đầu nhìn lên thì thấy nền nhà trãi một tấm thảm sặc sỡ. Một thiếu nữ xinh đẹp ngồi trên cẩm đôn tận phía trong chính là A Tử.
Nàng để bàn chân trần đặt xuống tấm thảm. Du Thản Chi thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn như tuyết, trong như ngọc, mềm như đoạn thì trái tim gã đập mạnh, lòng gã rạo rực. hai mắt gã nhìn choằm chặp vào hai bàn chân xinh đẹp kia. Gã tưởng chừng như da thịt bàn chân nàng trong bóng tối có thể soi gương được.
Bàn chân có ẩn hiện mấy đường gân xanh, gã muốn vươn tay ra vuốt ve lưng bàn chân A Tử.
Hai tên quân Khất Ðan buông tay ra để Du Thản Chi đứng một mình. Du Thản Chi loạng choạng xuýt ngã, nhưng rồi cố gượng đứng vững được.
Cặp mắt Du Thản Chi vẫn không rời bàn chân A Tử. Gã thấy mười ngón chân nàng đều một màu hồng phớt tựa như những canh hoa nhỏ bé.
A Tử đưa mắt nhìn Du Thản Chi thấy gã đầy như những máu me dơ bẩn mặt mũi xưng vếu. Hàm dưới đưa ra, hai mắt đỏ ngầu ham muốn như tóe lửa.
A Tử chợt nhớ lại một con chó sói đói bị thương. Hôm ấy nàng cùng Tiêu Phong đi săn, nàng bắn một phát trúng đầu con chó, nhưng vì không đủ sực mạnh nên không bắn chết được nó. Con sói bị thương cũng dương đôi mắt tóe lửa ra nhìn mình, khác nào cặp mắt Du Thản Chi lúac nàyđang nhìn nàng. nàng tưởng gã muốn nhảy chồm lại cắn mình. Nhưng gã đang bị thương trong miệng lại học máu ra như suốikhông còn ođủ sức. A Tử thích trông cặp mắt hằm hắm như con dã thú, nàng còn muốn con dã thú gầm lên nhữbg tiếng thê thả. Nhưng gã Du Thản Chi bạc nhược quá rồi không còn chút sức nào để phản kháng dù kích thích đến đâu cũng không có phản ứng.
Hôm trước gã toan dùng rắn cho cắn Tiêu Phong, mà không chịu quỳ lạy ăn nói quật cường không thèm lấy tiền của ông. A Tử rất vui mừng và coi gã như một loài dã thú rất lợi hại.
A Tử còn muốn hành hạ đâm cho gã bị thương khắp người. Nàng còn muốn mỗi lần bị thương gã lại chồm lên cắn mình một miếng và đương nhiên không để gã cắn trúng. Ðằng này đi bắt gã đem về để thả diều người thì cái loài dã thú không phản này có dùng làm trò chơi cũng không thú.
A Tử khẽ chau mày tự hỏi: "Bây giờ tìm cách gì mới lạ hành hạ gã này cho vui".
Ðột chiên Du Thản Chi kêu lên mấy tiếng "Hà hà" rồi không biết một luồng khí lực ở đâu đưa đến, khiến gã đủ sức nhảy đến gần A Tử khác nào con beo vồ mồi. Gã ôm chặt lấy chiếc đùi bé nhỏ của nàng lên, cúi rập đầu xuống để hôn hít hai bàn chân nàng.
A Tử cả kinh kêu thét lên. Hai tên quân Khất Ðan cùng bốn ả nữ tỳ hầu cận nàng đều la ầm lên, chạy vào cố gỡ nàng ra.
Du Thản Chi vẫn bám chặt lấy chân nàng dai như đĩ a đói, dù chết cũng không chịu buông tay.
Tên quân Khất Ðan vì dằng mạnh khiến cho A Tử đang ngồi trên cẩm đôn tuột xuống tấm thảm trãi dưới đất. Hai tên quân Khất Ðan vừa sợ vừa tức không dám dằn ra nữa. Một tên đạp mạnh vào sau lưng Du Thản Chi còn một tên tát vào mặt gã.
Những vết thương của Du Thanû Chi vẫn nóng ran, thần trí gã vẫn như người điên chưa tỉnh. Bất luận tình cảnh gì trước mắt gã cũng chỉ thấy lờ mờ. Gã hết sức ôm chặt lấy chân A Tử và vẫn đặt môi xuống hôn bàn chân nàng.
A Tử thấy môi gã khô và nóng bỏng vào chân mình thì trong lòng sợ hãi, nhưng trái lại nàng thấy có cảm giác kỳ dị tê tê buồn buồn rồi đột nhiên nàng thét lên lanh lãnh:
- Ôi chao! Thằng lõi này cắn đầu ngón chân ta.
Rồi nàng vội bảo các ngươi mau ra xa! Gã này phát điên rồi đừng để gã nổi khùng cắn đứt ngón chân ta.
Du Thản Chi cắn mơn man ngón chân A Tử. Tuy nàng không thấy đau nhưng nàng sợ đột nhiên gã cắn mạnh.
Vì nàng e tên quân Khất Ðan đánh đập gã làm cho gã cáu lên liều chết cắn bậy, nên phái bảo chúng xa ra.
Hai tên quân Khất Ðan không biết làm thế nào đành buông tay ra. A Tử dỗ ngọt:
- Mi buông ra đừng cắn ta, ta sẽ tha chết cho.
Lúc này tâm thần Du Thản Chi đã mê loạn không hiểu nàng nói gì.
Một tên quân Khất Ðan cầm đao rút ra khỏi vỏ toan chặt vào cổ gã cho đứt rơi đầu ra, nhưng lại sợ nhát dao chém xuống làm bị thương đến A Tử nên dùng dằn chưa dám hạ thủ.
A Tử lại nhủ:
- Chao ôi! Mi không phải dã thú, cắn người làm gì? Mau nhả ra ta sẽ kêu người đến chữ vết thương cho ngươi và tha ngươi về Trung Nguyên.
Du Thản Chi vẫn mặc kệ. Răng lưỡi gã vẫn nhẹ nhàng đưa qua đưa lại trên bàn chân A Tử chứ không cắn cho nàng đau, rồi hai bàn tay gã mân mê vuốt ve lưng bàn chân nàng một cách âu yếm. Tâm hồn gã thấy phiêu diêu tựa như lúc làm diều người bay bỗng lên mây.
Một tên quân Khất Ðan mau trí đột nhiên thò tay ra bóp cổ Du Thản Chi. gã bị nghẹt cổ không tự do mở ra được.
A Tử vội co đùi lên rút ngón chân trong miệng gã ra.
Nàng sợ gã phát điên lại cắn nữa, liền đứng dậy rút hai chân để về phía sau cẩm đôn.
Hai tên quân Khất Ðan nắm chặt lấy Du Thản Chi rồi nắm tay đấm vào miệng gã hơn mười quyền. Gã hộc lên máy tiếng rồi ọc máu tuơi ra làm dơ bẩn cả tấm thảm trãi dưới đất.
A Tử nói:
- Các ngươi dùng tay đừng đánh gã nữa.
Trãi qua cơn nguy hiểm vừa rồi, nàng thấy gã còn có chỗ để làm trò chơi được, chưa đến nỗi vô vị, nên không muốn cho gã chết ngay.
Hai tên quân Khất Ðan dừng tay không đánh nữa. A Tử ngồi xếp bằng trên ghế để hai bàn chân xuống dưới mông, rồi tính toán: "Bây giờ hành hạ gã bằng cách nào đây?"
Nàng ngẩng đầu lân thấy Du Thản Chi cặp mắt vẫn nhìn mình trừng trừng, liền hỏi:
- Mi nhìn ta gì mà dữ vậy?
Du Thản Chi chẳng quan tâm gì đến sự sống chết nữa, không cần nghĩ ngợi gì đáp liền:
- Cô nương đẹp quá! Nên tôi muốn nhìn mãi.
A Tử đỏ mặt lên nghĩ bụng: "Thằng lõi này thật là gan liền, dám buông lời xúc phạm."
Có điều trước nay nàng chưa từng thấy một chàng trai nào mở miệng khen nàng đẹp trước mặt. Lúc nàng còn học võ phái Tinh Tú, bọn sư huynh đều coi nàng là một đứa trẻ ranh mãnh tinh nghịch. Từ khi nàng theo Tiêu Phong, không phải ông sợ nàng tinh ngịch mà chỉ lo nàng chết. Ông chưa từng để ý đến đẹp hay xấu. Bây giờ nàng thấy Du Thản Chi khen mình thì trong bụng không khỏi mừng thầm rồi định bung: "Ta lưu gã ở bên mình để lúc nào ngồi buồn lại đem gã ra tiêu khiển, như vậy cũng hay! Có điều tỉ phu ta bảo tha gã, nếu biết ta bắt gã về tát nhiên cấu giận. Dù ta có dối được bữa nay thì bữa mai tất cũng bị lộ. Muốn cho tỉ phu ta thủy chung không hay biết được thì phải dùng cách gì đây? Cấm mọi người xung quanh không được tố cáo với tỉ phu thì ta có thể làm được. Xong lỡ tỉ phu đột ngột đến đây trông thấy gã thì sao?
Nàng trầm ngâm một lát rồi chợt nghĩ ra điều gì nàng lẩm bẩm: "A Châu tỉ nương rất giỏi cải trang. Tỉ nương giả là gia gia mà tỉ phu không nhận ra. Ta đem gã này thay hình đổi dạng, tất tỉ phu không thể biết được, chỉ còn e gã nếu không tự nguyện thì dù là cải trang cho gã cũng chỉ được một lúc rồi gã vội rửa đi, khôi phục lại chân tướng cũng bằng vô dụng"
Cặp lông mày cong cong của A Tử nhíu lại. Nàng nghĩ ra được mưu kế, vỗ tay cười ha hả reo lên:
- Hay lắm, hay lắm! Ta cứ làm thế là được.
Nàng nói tiếng Khất Ðan bảo hai tên quân một hồi. Chỗ nào chúng nghe chưa hiểu hỏi lại thì nàng giải thích rõ ràng. Nàng lại sai thị nữ lấy ra ba chục lạng bạc giáo cho chúng.
Hai tên Khất Ðan cầm tiền rồi cúi mình thi lễ, kéo Du Thản chi ra ngoài phòng Du Thản Chi la lên:
- Ta muốn ở đây nhìn nàng! Ta muốn nhìn cô bé xinh đẹp mà độc ác kia.
Mấy tên quân Khất Ðan cùng bọn thị nữ không hiểu tiếng Hán chẳng hiểu gã kêu la chuyện chi.
A Tử cười hì hì nhìn sau lưng gã lại tưởng đến sáng kiến thông minh của mình, càng nghĩ càng đắc chí.
Du Thản Chi bị lôi về chỗ cầm tùvà quẳng xuống đống cỏ khô.
Ðến chiều có người mang lại cho Du Thản Chi một dĩa thịt cừu và mấy cái bánh bao.
Người gã vẫn còn nóng ran miệng nói lảm nhảm. Người đưa bánh đưa thịt đến sợ quá vội đặt ăn xuống rồi chạy đi.
Du Thản Chi đói quá, đói đến nỗi không biết gì nữa. Thức ăn để đó thủy chung gã vẫn không đụng đến.
Chiều hôm ấy, thốt nhiên có ba người Khất Ðan đến, Du Thản Chi tuy thần trí mê man, nhưng gã cũng biết lờ mờ, tưởng là những chuyện không hay sắp đến cho mình. Gã gượng gạo đứng lên.
Du Thản Chi vẫn già giọng mắng nhiếc:
- Mấy con chó Khất Ðan này muốn chết phải không? Ðại gia sẽ băm bọn bay ra làm muôn đoạn!
Ðột nhiên tên Khất Ðan thứ ba, hai tay bưng một vật gì trắng toát trông giống như gạo hay làn tuyết. Chúng giữ chặt lấy mặt gã.
Du Thản Chi thấy mặt mình vừa ướt vừa mát lạnh. Ðầu óc gãtỉnh lại nhưng hơi thở không thông. Gã nghĩ thầm: "Bọn này bít kín thất khiếu cho ta chết ngay đây!" Nhưng gã lại biết ngay là mình đoán sai, mồm miệng và mũi gã có người chọc ra mấy lần gã lại thở hít được như thường, chỉ còn cặp mắt là không mở ra được. Gã cảm giác mặt mình ướt đẫm và đang có người xoa nắn tựa hồ như trát bột hay trát bột vào.
Du Thản Chi bị hành hạ hai ngày liền, đau khổ đủ điều. Bây giờ trong lòng gã mê man tự hỏi: "Bọn ác tặc này không biết đang dùng phương pháp cổ quái nào để giết ta đây?"
Sau một lúc gã thâùy họ khẽ nậy chất bột trên mặt mình ra.
gã mở mắt nhìn thì thấy một chiếc mặt nạ bằng bôt mì vừa tháo ra.
Tên quân Khất Ðan hai tay cầm rất cẩn thạn cái mặt nạ bằng bột còn đang ướt này chỉ sợ vỡ nát.
Du Thản Chi lớn tiếng mắng:
- Quân Liêu cẩu hèn mạt này! Ta sẽ cho bọn mi chết không có đấùt mà chôn.
Ba tên quân Khất Ðan để mặc Du Thản Chi tha hồ chửi bới kêu gào, chúng mang cái mặt nạ đắp bằng bột đi.
Du Thản Chi sực nhớ ra lẩm bẩm: "Phải rồi! Chúng bôi thuốc độc vào mặt mình, chắc chẵn bao lâu mặt mình sẽ nát rửa da thịt, biến thành quỷ sứ..."
Gã càng nghĩ càng sợ hãi rồi định bụng:
Nếu để chúng hành hạ cho đến chết thì thà rằng tự tử đi còn hơn. Gã chủ ý rồi liên tiếp đập đầu vào tường"binh binh"luôn mấy cái.
Nhưng tên ngục tốt nghe tiếng chạy vào trói chặt tay chân gã lại.
Du Thản Chi đã đập đầu đến choáng óc, sắp ngất đi, để mặc bọn ngục tốt muốn làm gì thì làm.
Qua được mấy ngày, gã thấy mặt mình chẳng đau đớn gì mà cũng không nát rữa song gã quyết lòng một chết cho rồi. Gã tuy bụng đói mà ngục tốt đưa cơm vào ăn nữa.
Ðến ngày thứ tư, ba tên quân Khất Ðan lại chạy đến chỗ Du Thản Chi xiềng gã đem đi. Trong lúc đau khổ vô cùng gã chỉ còn xót lại một chút hy vọng là được đưa đến chỗ A Tử để nàng hành hạ khảo đã, thì dù có đau khổ đến đâu chăng nữa cũng còn được thấy dung nhan người đẹp để mà an ủi. Hoài bão hy vọng đó, trên nét mặt đau khổ thoáng một nụ cười chua chát.
Ba tên quân Khất Ðan đem gã qua mấy đường hẻm nhỏ rồi đưa vào một gian phòng tối đen. Bươc qua một cái bệ đa chừng mười bậc thì đến một nơi than hồng bốc lên ngùn ngụt soi sáng nửa căn nhà đá.
Một bên thợ rèn vai u thịt bắp mình trùng trục đứng bên lò lửa. gã chăm chú nhìn một vật đen sì mà gã đang cầm trên tay.
Ba tên quân Khất Ðan đẩy Du Thản Chi đến trước mặt gã thợ rèn. Hai tên chia nhau giữ chặt hai tay gã, còn một tên nắm lấy sau lưng.
Người thợ rèn ngẹo đầu ngắm nhìn đồ vật cầm trong tay tựa hồ như để so sánh.
Du Thản Chi đưa mắt nhìn đồ vật trong tay người thợ rèn thì thấy một cái mặt nạ đúc bằng thép, có dùi thủng miệng, lỗ mũi và hai mắt. Gã tự hỏi: "Cái mặt nạ bằng thép này để làm gì? ."
Bỗng người thợ rèn cầm chiếc mặt nạ lên úp vào mặt gã.
Du Thản Chi bất giác ngẩng đầu về phía sau để tránh nhưng rút cục người thợ vẫn lồng vào được. Gã thấy mặt mình giá lạnh vì da thịt chạm vào gang théo. Gã rất làm kỳ ở chỗ chiếc mặt nạ này lồng vào mặt mình vừa khẳm vừa khăm, mồm miệng mặt mũi chỗ nào cũng ăn khớp, dường như cái mặt này họ làm để cho đeo.
Du Thản Chi không phải hạng ngu ngốc cho lắm, gã chỉ nghi ngờ một lúc rồi biết ngay cứu cánh về vụ này. Ðột nhiên gã, cảm thấy lạnh đến xương sống, than thầm: "trơi ơi! Ðúng là chúng làm cái mặt này để cho mình đeorồi. Bữa trước bọn chúng đã lấy bột ướt để nhòi vào mặt mình thì ra là chúng làm khuôn mặt. Không biết bọn chúng làm cái mặt nạ này là có dụng ý gì? Hay là..."
Dường như Du Thản Chi đã đoán ra cái trò độc ác của bọn Khất Ðan đúc mặt nạ để làm gì, gã không dám nghĩ thêm nữa, chỉ cố cựu quay lùi lại.
Người thợ rèn lại tháo mặt nạ ra gật lia lịa ra vẻ vừa lòng. Y lấy ra một cái kiềm to tướng cặp lấy mặt nạ đặt vào lò lửa nung cho đỏ lên. Tay phải cầm một cái dùi sắt đánh vào mặt nạ beng beng một hồi rồi lại đưa tay sờ đầu sờ gáy Du Thản Chi để sữa lại những chỗ không ăn khớp.
Du Thản Chi quát mắng:
- Mấy thằng Liêu cẩu trời đánh này! Tụi bây định làm việc thương thiên nghịch lý gì đây? Tụi bây là những con quỷ hung tàn, hoàng thiên sẽ giáng họa để tụi bay không được chết yên lành đâu! Nhà trời sẽ ra tay sát hại cả đến lục súc cùng con cái của tụi bây.
Gã lớn tiếng chửi mắng ầm ầm, nhưng bọn Khất Ðan chẳng hiểu gì hết.
Người thợ rèn đột nhiên quay đầu lại nhìn Du Thản Chi bằng đôi mắt hung dữ, giơ cái đầu kim sắt nung đỏ lên như muốn chỉ vào mặt gã.
DuThản Chi khiếp quá mắt trợn lên miệng há hốc ra.
Người thợ rèn chỉ hăm dọa thế thôi rồi cười ha hả rút kiềm về. Ðoạn y lấu một cái khuôn sắt ngư hình nửa quả dưa, ướm vào sau gáy Du Thản Chi bằng đôi mắt hung dữ, giơ cái đầu kim sắt nung đỏ lên. Ðoạn y lớn tiếng nói mấy câu.
Ba tên quân Khất Ðan dằn ngửa Du Thản Chi trên mặt bàn đầu thò ra ngoài. Lại thêm hai người Khất Ðan nữa lại tiếp tay giữ đầu gã không cho gã động dậy. Cả thảy năm nười giữ cả chân tay mình mẩy Du Thản Chi. Khói trắng bốc lên hơi mùi thịt khét lẹt bay ra.
Du Thản Chi rú lên một tiếng ngất đi.
Người thợ rèn lấy kiềm gắp nốt miếng mô hình nữa lắp vào sau gáy gã. Cả hai nửa úp vào nhau thành ra cái hình tròn chụp cả lấy đầu Du Thản Chi.
Cái lồng sắt hãy còn nóng bỏng chạm vào da thịt cháy lên xèo xèo, thịt cũng mềm nhũn ra.
Người thợ rèn này là tay khéo nhất trong thành Yên Kinh. Hai nửa đầu ráp vào nhau trông liền như một không hở sợi tóc.
Du Thản Chi khác nào kẻ vào địa ngục, trãi qua muôn trượng lửa nóng. Gã ngất đi không biết bao lâu dần dần hồi tỉnh, cảm thấy trước mặt sau gáy đau rát không chịu được gã lại ngất đi.
Nên biết rằng người ta lúc thần trí mê man mà ngất đi được cũng là một việc trời sanh ra để hộ vệ cho tâm trí. Nếu không có lúc ngất đi đó thì sẽ đau khổ cho đến chết.
Du Thản Chi ba lần ngất đi, ba lần hồi tỉnh. Gã lớn tiếng kêu gào mà bên tai vẫn chẳng nghe thấy tiếng mình.
Lúc đầu gã tưởng tại mình điếc, nhưng rồi kêu to lên một lần nữa mới phát giác ra mình kêu không thành tiếng. Gã nằm thẳng người muốn cử động cũng không được. Gã không nghĩ ngợi gì chỉ cắn răng để cố nhịn đau đớn từ trước mặt đến sau gáy.
Gã giữ nguyên tình trạng như vậy hồi lâu rồi gắng gượng giơ tay lên sờ mặt lạnh cứng ngắtvà như thế đã đủ chứng minh gã đoán không lầm là cái mặt nạ chụp vào đầu gã.
Du Thản Chi căm hận vô cùng cố gắng kéo mặt nạ ra, nhưng dường như đã gắn chặt vào mặt gã, kéo thế nào cũng không nhúc nhích được. Gã vừa căm phẫn vừa tuyệt vọng, không nhẫn nại được, khóc òa lên. Nước mắt gã tuôn ra như suối mà tiếng khóc cũng chỉ ấm ức, không phát ra thanh âm.
Gã đang độ thiếu niên nên dù đau đớn đến đâu cũng vẫn đủ sức chịu đựng, không đến nỗi chết.
Mấy hôm sau những vết thương và những chỗ đau đớn dần dần giảm bớt đi, gã đã cảm thấy đói bụng ngửi mùi bánh mùi thịt thèm quá không nhịn được, liền bốc ăn. Ăn vào thấy người càng dễ chịu hơn.
Bây giờ Du Thản Chi đưa tay lên sờ khắp trên đầu, trên mặt biết rằng cái lồng sắt đã úp chụp kín cả đầu, mặt mình không còn cách nào tháo ra được.
Mấy hôm đó gã tức giận như điên cuồng, nhưng sau ba ngày dần dần gã bình tĩnh trở lại. Rồi tự hỏi: Quân Liêu cẩu này dùng lồng sắt chụp lấy đầu mình là có dụng ý gì?
Gã cho đây chỉ là mệnh lệnh của Tiêu Phong, còn dụng ý gì thì gã nghĩ mãi cũng không đoán ra.
Sở dĩ A Tử sai đắp lồng sắt chụp vào đầu vào mặt gã là để bịp Tiêu Phong. Vụ này nhất thiết do gã đội trưởng Thất Lý chiều ý A Yử mà làm ra.
Hằng ngày A Tử vẫn hỏi dò Thất Lý về mọi tình hình Du Thản Chi sau khi đầu gã đã chụp lồng sắt vào rồi. Ban đầu nàng vẫn lo rằng nhân vụ này mà Du Thản Chi sẽ chết mất, nhưng về sau nàng biết gã đã dần dần khỏe lại như cũ thì rất mừng lòng.
Mới đây A Tử được tin Tiêu Phong ra duyệt binh ngoài cõi Nam Giao, liền truyền cho Thất Lý đem Du Thản Chi vào để nhìn hình thù gã sau khi đầu bịt lồng sắt và mặt nạ ra sao? Nàng ngồi trong cung Ðoan Phúc để chờ cho đến khi ba quân Khất Ðan bộ hạ của Thất Lý dẫn Du Thản Chi vào.
A Tử vừa trông thấy hình thù Du Thản Chi trong lòng xiết bao nỗi mừng vui về cách giả tạo này. Nàng lẩm bẩm:
- Phương pháp này thật là tuyệt diệu! Bây giờ thằng lỏi đeo bộ mặt này vào thì dù gã có đứng đối diện, tỷ phu ta cũng không thể nhận ra được.
Du Thản Chi tiến lên mấy bước. A Tử vỗ tay khen hay rồi bảo Thất Lý:
- Ngươi lấy năm chục lạng bạc để thưởng cho tên thợ rèn đã làm việc chu đáo!
Thất Lý nói:
- Xin vâng. Ða tạ Quận chúa.
Nguyên Gia Luật Hồng Cơ muốn chiều lòng Tiêu Phong đã đặc biệt giáng chỉ phong A Tử làm Ðoan Phúc quận chúa. Cung Ðoan Phúc này cấp riêng cho nàng làm nơi cư trú.
Du Thản Chi nhìn qua lỗ mắt trên mặt nạ thấy A Tử tươi cười xinh đẹp vô cùng, thì trong lòng không khỏi rung động. Gã thấy nàng cười nói tuy chẳng hiểu gì, nhưng cũng thấy khoan khoái trong lòng bất giác nhìn nàng chằm chặp không chớp mắt. A Tử thấy Du Thản Chi đeo mặt nạ coi rất kỳ dị, song nhận ra gã vẫn nhìn mình không chớp mắt, liền hỏi:
- Thằng lỏi ngu ngốc kia! Mi nhìn ta làm chi vậy?
Du Thản Chi ấp úng:
- Tôi... tôi không biết!
A Tử hỏi lại:
- Mi đeo mặt nạ có dễ chịu không?
Du Thản Chi lại hỏi:
- Cô nương thử đoán xem có dễ chịu không?
A Tử cười khanh khách đáp:
- Ta nghĩ không ra.
Nàng thấy cửa miệng Du Thản Chi rất hẹp chỉ đủ để ăn cơm húp canh. Còn muốn ăn thịt phải phải nghiền nát ra mới đưa vào được. Như vậy dù gã muốn cắn ngón chân mình cũng không thể được, liền cười hỏi:
- Sỡ dĩ ta bắt mi phải đeo mặt nạ để vĩnh viễn mi không cắn ta được.
Du Thản Chi mừng thầm, nói:
- Phải chăng cô nương muốn tôi... tôi ở luôn bên mình để hầu hạ?
A Tử đáp:
- Chà! Mi là một đứa khốn nạn, để mi ở bên mình đặng mi nghĩ cách hại ta phải không?
Du Thản Chi nói:
- Tôi quyết không để ý hại cô nương. Tôi chỉ thù một mình Tiêu Phong mà thôi.
A Tử nói:
- Mi muốn hại tỷ phu ta, phỏng có khác gì hại ta?
Du Thản Chi nghe A Tử nói vậy trong lòng chua xót, không biết trả lời thế nào.
A Tử cười nói:
- Mi muốn hại tỷ phu ta, ta tưởng lên trời cũng không khó bằng. Thằng ngốc kia! Mi có muốn chết không?
Du Thản Chi đáp:
- Dĩ nhiên là tôi không muốn chết. Có điều hiện giờ trên đầu tôi chụp một cái lồng sắt thành thử người chả ra người, quỷ chả ra quỷ thì dù chết cũng vậy thôi, chả khác gì.
A Tử nói:
- Nếu quả mi muốn chết thì ta cho mi được toại nguyện, có điều không phải được chết một cách dễ dàng đâu.
Nàng quay sang bảo gã Thất Lý đứng bên cạnh:
- Thất Lý! Ngươi lôi nó ra chặt cánh tay trái đi!
Thất Lý dạ một tiếng rồi lôi Du Thản Chi đi.
Du Thản Chi cả kinh la lên:
- Không! Không! Tôi không muốn chết! Cô nương... Cô nương đừng sai chặt cánh tay tôi.
A Tử cười lạt nói:
- Lời ta đã nói ra lẽ nào không thi hành, trừ phi... mi chịu quỳ xuống khấu đầu!.
Du Thản Chi còn đang ngần ngừ, Thất Lý đã lôi gã ra hai bước.
Du Thản Chi không dám chần chừ nữa, quỳ mọp ngay xuống dập đầu lạy, đầu gã chụp lồng sắt chạm xuống đá xanh kêu"boong boong."
A Tử cười khanh khách đáp:
- Từ thuở nhỏ ta chưa được nghe ai dập đầu lại có âm thanh dễ nghe như vậy. Mi lạy thật lâu cho ta nghe.
Du Thản Chi là một vị Tiểu trang chúa ở Tụ Hiền trang, dù gã văn dốt võ dát mọi người trong trang đều biết gã là một thiếu niên đốn mạt, nhưng con Du Ký chết rồi, Du Câu chỉ có mình gã, quý gã như hòn ngọc báu.
Tiểu Trang chúa gọi một tiếng ngươì nhà đã răm rắp. Từ thuở nhỏ gã đã được nuông chiều, ăn sung mặc sướng, có bao giờ chịu khổ nhục như ngày nay?
Lúc Du Thản Chi mới thấy Tiêu Phong gã còn có khí phách quật cường, thà chết chứ không chịu quỳ lạy. Nhưng mấy bữa nay từ tâm hồn cho đến thể xác, gã chịu không biết bao nhiêu là đau đớn cực nhục cho nên mất hết chí khí của trang thiếu niên. Gã vừa nghe A Tử muốn chặt tay mình, bắt gã quỳ xuống, gã cũng phải quỳ rồi bắt gã lạy gã cũng phải lạy. A Tử bảo gã dập đầu nghe hay, gã cũng dập đầu lia lịa kêu"boong boong."
A Tử tủm tỉm cười nói:
- Hay lắm! Từ đây trở đi, ta sai bảo ngươi điều gì, ngươi không kháng cự thì thôi. Nếu còn trái lệnh, lập tức ta sai chặt tay, mi đã nhớ chưa?
Du Thản Chi nói:
- Vâng, vâng.
A Tử nói:
- Ta cho ngươi đội cái lồng sắt, ngươi có hiểu tại sao không?
Du Thản Chi nói:
- Thực tình tôi không biết.
A Tử nói:
- Ðáng lẽ mi chết rồi, ta cứu mạng mi mà mi không biết cám ơn ta. Tiêu đại vương muốn bằm mi nát ra như cám, mi có biết không?
Du Thản Chi đáp:
- Y là kẻ thù giết cha tôi, cố nhiên không chịu buông tha.
A Tử nói:
- Y giả vờ tha mi, rồi lại sai người đi bắt ngươi về để băm vằm mi ra. Ta thấy mi là một đứa nhỏ không đến nỗi hèn hạ lắm, nên sai người bắt mi về đây, giết mi đi nghĩ cũng tội nghiệp, nên ta phải nghĩ cách giấu mi. Nếu Tiêu đại vương lại gặp mi thì mi tất phải chết mà rầy rà đến cả ta nữa.
Du Thản Chi chợt tỉnh ngộ nói:
- À! Thế ra cô nương đúc cái lồng sắt này bịt đầu tôi là để cứu mạng cho tôi. Tôi cảm kích vô cùng!
Chính A Tử đã làm cho gã đau đớn ê chề, lại bịp gã khiến gã đem lòng cảm kích. Nàng thấy gã tin lời mình mà khoan khoái vô cùng, mỉm cười nói:
- Vì thế mà rồi đây mi có gặp Tiêu đại vương thì đừng nói năng chi hết để y không nghe được thanh âm mà nhận ra mi nữa. Nếu mi lên tiếng, y nhận ra mi, tất đem chặt một cánh tay mi đi. Rồi đi một thời gian ngắn lại chặt nốt một cánh tay thứ hai.
A Tử quay sang bảo tên đội trưởng:
- Thất Lý! Ngươi đi thay quần áo Khất Ðan cho gã mặc, tắm rửa cho sạch những vết máu mủ tanh hôi trong người gã đi!
Thất Lý vâng lệnh lôi Du Thản Chi ra ngoài.
Chẳng mấy chốc tên đội trưởng lại đưa gã vào.
A Tử thấy gã đã thay mặc quần áo Khất Ðan. Thất Lý muốn lấy lòng A Tử, cho gã mặc quần áo sặc sỡ, giống một tên tiểu sửu (thằng hề trong tuồng tàu).
A Tử cả cười nói:
- Ta đặt tên cho mi là Thiết Sửu. Từ đây nếu ta kêu Thiết Sửu thì mi phải thưa ngay.
Rồi nàng cát tiếng gọi to:
- Thiết Sửu! Du Thản Chi vội đáp:
- Dạ, dạ!
A Tử thích lắm đột nhiên nàng nhớ ra điều gì hỏi:
- Thất Lý! Có phải nước Ðại Tự bên Tây Vực đem đến biếu một con sư tử không? Ngươi kêu quản sư đem nó vào đây, đồng thời gọi mấy tên vệ sĩ đến nữa.
Thất Lý vâng lệnh chạy đi. Mười sáu tên vệ sĩ tay cầm trường mâu chạy vào điện, khom lưng thi lễ trước A TưÛ. Ðoạn đứng ngay người lên, chỉa mười sáu mũi trường mâu ra phía ngoài để bảo vệ cho A Tử.
Chỉ trong khoảnh khắc ngoài điện có tiếng sư tử gầm thét. Tám Ðại Hán khiên một chiếc củi sắt đi vào. Trong cũi có một con sư tử đực chạy quanh. Con sư tử này lông vàng bờm dài nanh vuốt rất nhọn trông rất hung dữ. Gã quản sư tay cầm roi da đi trước.
A Tử thấy con sư tử hung mãnh mà phát khiếp. Nàng hớn hở nói:
- Thiết Sửu! Ta bảo ngươi làm một việc, thử coi ngươi có chịu nghe lời ta không?
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Gã trông thấy con sư tử thì trong lòng hồi hộp tự hỏi: "Không biết A Tử có dụng ý gì đây?" nghe nàng nói trống ngực đánh hơn trống làng.
A Tử nói:
- Ta không hiểu cái lồng sắt bịt đầu ngươi có được kiên cố không? Vậy ngươi thử dò đầu sắt vào cho con sư tử cắn mấy miếng thử xem có vỡ được không?
Du Thản Chi nghe nói cả kinh ấp úng:
- Cái đó... Cái đó... Không nên thử làm chi. Giả tỷ nó cắn vỡ thì đầu tôi...
A Tử gắt gỏng:
- Mi thật là đồ vô dụng! Có việc cỏn con thế mà đã khiếp sợ. Kẻ là đại trượng phu thì coi cái chết như không mới phải. Và ta chắc rằng nó cắn không vỡ được đâu.
Du Tharn Chi nói:
- Cô nương! Chuyện này há phải trò đùa. Giả tỉ nó cắn không vỡ thì cái lồng sắt cũng bị móp méo, và đầu tôi...
A Tử cười khanh khách nói:
- Thì đầu ngươi có méo xệch đi cũng chẳng sao. Thằng lỏi này thật khoa chịu quá! Cái đầu mi cũng chẳng còn đẹp đẽ gì nữa. Dù cái lồng có méo mó thì cái đầu ngươi ở bên trong cũng chẳng ai trông thấy. Hà tất ngươi phải quan tâm nó đẹp hay xấu? ...
Du Thản Chi vội nói:
- Có phải tôi còn có tham vọng cho cái đầu dễ coi đâu? ...
A Tử sa sần nét mặt gạt phắt đi:
- Mi không nghe lời ta ư? Ðược lắm!
Ðoạn nàng quay ra bảo gã đội trưởng:
- Thất Lý! Ngươi quẳng cả người nó vào trong củi cho sư tử ăn thịt đi!...
Thất Lý"dạ"một tiếng rồi chạy lại nắm lấy Du Thản Chi.
Du Thản CHi nghĩ thầm: "Nếu quẳng cả người mình vào cũi cho sư tử cắn thì còn chi là tính mạng. Thôi ta đành nghe lời cô này thò cái đầu sắt vào củi, còn sống hay chết đành phó mặc số phận"
Nghĩ vậy gã la lên:
- Thôi đừng! Tôi xin vâng lời cô nương!
A Tử cười nói:
- Có thế chứ! Ta bảo cho ngươi biết:
từ đây trở đi ta biểu ngươi làm sao thì lập tức ngươi phải làm ngay! Nếu còn bướng bỉnh để bản cô nương nổi nóng thì không hay đâu.
Ðoạn nàng thét gã đội trưởng:
- Thất Lý! Ngươi nọc cổ gã ra đánh ba chục roi để từ đây cho gã biết phép.
Thất Lý vâng lệnh lập tức rút lấy cây bì tiêu trong tay gã quả sư quất vào lưng Du Thản Chi.
Du Thản chi đau quá không chịu được, rú lên một tiếng:
- Úi chao!
A Tử nói:
- Thiết Sửu kia! Ta cho mi hay:
ta sai người đánh mi tức là ta tử tế với mo lắm đó. Thế mà mi lại la làng. Phải chăng mi không muốn ta sai người đánh mi?
Du Thản Chi vội nói:
- Không! Không! Tôi vui lòng lắm. Xin đa tạ cô nương có lòng hạ cố đã cho tôi được ăn đòn.
A Tử thét:
- Ðánh đi!
Thất Lý quất veo véo liền một lúc đến mười roi.
Du Thản Chi nghiến chặt hai hàm răng chịu đựng không dám hé miệng. Bởi vì gã đã đội lồng sắt những ngọn roi chừa đầu gã ra, chỉ vụt vào lưng, nên gã có thể nhẫn nại được.
A Tử thấy gã chịu đựng không rên rỉ gì, lại cảm thấy trò này vô vị hỏi:
- Thiết Sửu! Ta lại hỏi ngươi, có phải ngươi nói vui lòng để ta sai người đánh mi không?
Du Thản Chi đáp ngay:
- Vâng!
A Tử lại hỏi:
- Ngươi nói thực hay nói dối? Ta nghĩ rằng ngươi buột miệng nói để bịp ta.
Du Thản Chi nói:
- Thực tình như vậy, đâu dám lừa bịp cô nương.
A Tử nói:
- Mi đã vui lòng, sao lại không cười, và không reo lên "Thú quá! Thú quá!"
Du Thản Chi bị nàng hành hạ đến ruột, tan hồn, quên cả mối căm thù. Nàng nói làm sao cũng bào hao làm vậy. Gã miễn cưỡng lên tiếng:
- Cô nương đối với tôi thật là phúc đức. Tôi dược ăn đòn khoan khoái vô cùng!
A Tử nói:
- Thế mới phải chứ! Nào ta thử xem.
Nàng nói xong đập bàn một cái, Thất Lý giơ roi lên vụt tới tấp.
Du Thản Chi cười ha hả nói:
- Sướng quá! Sướng quá! Ða tạ cô nương đã ban ơn cho.
A Tử lại đập bàn ra hiệu roi lại quất xuống, Du Thản Chi vẫn bám gan chịu đòn reo lên:
- Ða tạ cô nương đã cứu mạng cho, Roi đòn này thật là sung sướng.
Chỉ trong khoảnh khắc đã đánh đến hai chục roi, kể cả đòn đánh trước tổng cộng đến ba mươi roi.
Du Thản Chi bị đau ê ẩm cả người loạng choạng bước đến bên cũi sắt. Gã nghiến răng thò đầu vào trong cũi.
A Tử bảo gã quản sư:
- Ngươi cho sư tử cắn gã đi. Sao mãi nó không vồ?
Gã quản sư quát lên mấy tiếng. Con sư tử nghe hiệu lệnh chồm lại há miệng thật to cắn vào đầu Du Thản Chi.
Bỗng nghe tiếng xào xạo. hàm răng sư tử nhá chiếc lồng sắt. Du Thản Chi sợ quá nhắm mắt lại.
Gã cảm thấy một luồng nhiệt khí qua những lỗ hỗng lồng sắt chui vào thì biết rằng cả cái đầu mình đã lọt vào hàm sư tử. Tiếp theo gã cảm thấy trước trán và sau gáy đau đớn kịch liệt.
Nguyên người thợ rèn lúc chụp cái lồng sắt vào đầu gã, đầu và mặt mũi bị lồng sắt còng nóng bỏng làm cho gã xém da cháy thịt. Sau mấy bữa những vết thương mới đong vẩy. Bây giờ sư tử cắn vào, những vết thương lại toét ra.
Sư tử cố sức gặm mà cắn không vào, lại thấy đau răng. Nó nổi hung giơ vuốt lên cào vai Du Thản Chi.
Du Thản Chi bị sư tử cào vai bị thương đau tới xương tủy hét lên một tiếng Úi chao! rùng rợn.
Con sư tử thấy trong miệng mình tự nhiên bật lên tiếng thét thì không khỏi giật mình, há miệng ra lùi lại phía sau cũi sắt.
Nên biết rằng sư tử hay hùm beo tuy đều là loài thu sdữ nhưng không phải nó chỉ một mực liều lĩnh vồ cànkhông suy xét. Lúc gặp điều gì khác lạlà nó lại thụt về để coi cho rõ xem có nên vồ nữa hay không, nhất là con sư tử này sau khi bị bắt, tính hung hăn giảm đi rất nhiều. Du Thản Chi vừa la lên một tiếng, sư tử sợ quá lùi lại.
Gã quản sư coi đó là một việc mất thể diện cho mình, gã lại lớn tiếng quát tháo giục sư tử vồ Du Thản Chi cắn nữa.
Du Thản Chi cả giận, đột nhiên vươn tay nắm lấy cổ áo gã quản sư gắng sức kéo mạnh, lôi đầu gã đứt vào cũi sắt.
Gã quản sư rú lên.
A Tử thích quá vỗ tay cười ha hă:
- Hay quá! Hay quá! Ta được coi hai người đánh nhau trí mạng thật là tuyệt!
Mấy tên quân Khất Ðan toan chạy ra gỡ gã quản sư ra khỏi tay Du Thản Chi, nhưng nghe A Tử nói vậy lại thôi. Gã quản sư hết sức cựa quạy, nhưng lúc này Du Thản Chi đã nổi tinh, cố giữ chằng chằng gã quản sư, nhâùt quyết không chịu buông tha.
Gã quản sư chỉ còn trông con sư tử lại cứu mình, gãthét lên:
- Cắn! Cắn chết đi!
Con sư tử lại nghe gã giục rối rít, gầm lên một tiếng đau tai nhức óc, nhảy chồm lại. Nó chỉ thấy chủ nhân giục cắn chết đi mà không biết cắn ai? Nó nhe hàm răng sắc nhọn, trắng ởn ngoạm rau ráu cắn đứt một bên đầu gã quản sư, óc và máu tươi vọt ra tung tóe nhày nhụa trên mặt đất!
A Tử hớn hở tươi cười reo ầm lên:
- Ha ha! Thiết Sửu đại thắngThiết Sửu đại thắng!
Nàng vẫy tay ra lệnh cho mấy tên quân Khất Ðan khiêng cũi sư tử đi và đem tử thi gã quản sư ra ngoài. Ðoạn nàng bảo Du Thản Chi:
- Thế là được rồi! Mi đã làm cho ta được vừa lòng trong chốc lát. Ta muốn thưởng mi mà chưa biết thưởng gì đây?
Nàng chống tay lên cằm ra chiều suy nghĩ.
Rồi! Mi toan ở chờ Tiêu đại vương đến thăm ta, mi thừa cơ hạ thủ để sát hại đại vương, báo thù cho cha mẹ mi phải không?
Du Thản Chi nói:
- Tiểu nhân đến đây cốt để báo thù cho song thân nhưng không ngờ vụ này lại dính líu đến cô nương.
A Tử nói; - Tại sao mi lại thích làm nô lệ cho ta?
Du Thản Chi đáp; - Cô nương là người đẹp nhất trên trần gian. Tiểu nhân... Tiểu nhân tưởng tìm khắp thiên hạ cũng không tìm được người thứ hai nào như cô nương!
Gã nói câu này thật là hỗn xược vô cùng! Giả tỉ A Tử là một cô gái tầm thường mà thấy kẻ đê hèn dám ra điều trêu cợt thì đã giết rồi. Nhưng A Tử lại ưa nghe người ta tán tụng mình dẹp.
A Tử là một cô gái nhỏ tuổi tuy nhan sắc mỹ miều song chưa hết độ trưởng thành hơn nữa nàng bị trọng thương chưa khỏi hoàn toàn người vẫn gầy nhom vàng ửng, mà biểu đẹp nhất trần gian thì thật là quá đáng. Nhưng nàng thấy ở đời có kẻ khen mình nhan sắc khuynh thành cũng nức lòng hả dạ.
A Tử toan ưng thuận lời khẩn cầu của Du Thản Chi, bỗng có thị vệ báo:
- Ðại vương đã đến!
A Tử đưa mắt nhìn Du Thản Chi khẽ hỏi:
- Ngươi có sợ không?
Du Thản Chi run run đáp:
- Không sợ.
Thực ra gã nghe Tiêu Phong đến hồn vía đã rụng rời. Nếu quả gã không sợ thật thì việc gì vừa nói vừa run?
Bỗng thấy cửa điện mở rộng. Tiêu Phong mình mặc áo cừu nho, lưng thắt đai lụa đi đến.
Tiêu Phong vừa bước vào cửa điện đã nhìn thấy ngay vũng máu tươi lại thấy một người đầu chụp lồng sắt, trông điệu bộ rất kỳ dị, ông nhìn A Tử cười hỏi:
- Bữa nay coi khí sắc cô có vẻ tươi cười, chắc lại có trò chơi gì mới lạ?
A Tử cười đáp:
- Nước Cao Xương bên Tây Vực mới đem cống gã này tên gọi Thiết Sửu. Ðầu gã sư tử cắn cũng không vỡ được. Tỷ phu coi đầu gã còn in vết sư tử cắn đây nè!
Tiêu Phong nhìn kỹ cái lồng sắt quả nhiên vết răng sư tử hãy còn rõ mồn một.
A Tử lại nói tiếp:
- Tỷ phu ơi! Tỷ phu có cách nào tháo cái lồng sắt đầu gã ra coi được không?
Du Thản Chi nghe A Tử nói vậy thì hồn vía lên mây. Gã đã được mục kích Tiêu Phong trổ oai thần đánh nhau với quần hùng Trung Nguyên ở Tụ Hiền Trang. Ông vung song chưởng đánh bá phụ cùng phụ thân gã khiến cho lá mộc bằng sắt trên tay phải văng mất thì bây giờ ông muốn tháo cái lồng sắt đầu gã phỏng có khó gì?
Lúc thợ rèn lắp lồng sắt vào đầu gã thì gã muốn ngất đi, song bây giờ trái lại, gã chỉ mong cái lồng này vĩnh viễn lấy đầu mình, không muốn Tiêu Phong nhìn rõ bản tướng.
Tiêu Phong đưa ngón tay ra khẽ gõ vào cái lồng sắt nghe"coong coong"thì bật cười nói; - Cái lồng này bền chặt gớm! Người thợ chế ra nó lại rất tinh vi, phá hủy đi há chẳng đáng tiếc ư?
A Tử nói:
- Sử giả nước Cao Sương cho tiểu Muội hay rằng: gã này mặt tinh răng lồi, ba phần giống người bảy phần giống quỷ. Ai trông thấy cũng phải tránh xa, nên cha mẹ gã mướn thợ rèn đúc cái lồng sắt này chụp vào đầu gã để người ngoài trông thấy khỏi khiếp sợ! Tỷ phu ơi! Tiểu Muội muốn coi chân tướng gã thế nào mà thiên hạ phải khủng khiếp?
Du Thản Chi lại càng run sợ, hai hàm răng đập nhau cầm cập.
Tiêu Phong thấy gã kinh sợ lạ thường, liền nói:
- Gã này sợ quá rồi! Mở mặt gã làm cóc gì? Gã đã chụp lồng sắt từ thuở nhỏ, nếu mình miễn cưỡng lấy ra, e gã khó lòng sống được...
A Tử vỗ tay cười nói:
- Nếu vậy càng hay! Tiểu Muội đã thấy con rùa, đầu nó thò ra thụt vào trong cái mai cứng rắn, tiểu Muội muốn bắt lột bỏ cái mai kiên cố đi, thử coi nó có sống được không?
Tiêu Phong nghe A Tử nói vậy, bất giác châu mày, cho là một câu vô cùng khinh bạc, tâm địa cực kỳ tàn nhẫn! Ông nói:
- A Tử! Em là cô bé nhỏ tuổi ngoan ngoãn sao lại ưa chơi những trò độc ác làm cho người ta phải sống dở chết dỡ như vậy?
A Tử mồm năm miệng mười, chu chéo lên:
- Trời ơi! Tỷ phu không thương tiểu Muội phải không? Tiểu Muội đâu có hay được bằng chị A Châu. Nếu tỷ phu coi tiểu Muội cũng như chị A Châu thì sao mấy ngày liền không lại thăm tiểu Muội lấy một lần?
Tiêu Phong nói:
- Làm cái chức Nam Viện Ðại Vương chi chi đó thật là ngán quá! Ngày nào cũng như ngày nấy, công kia việc nọ bận tíu tít chẳng có lúc nào mở mắt ra được. Tuy bận là thế mà mỗi ngày tôi chả đến thăm cô một lần là gì?
A Tử cướp lời:
- Mỗi ngày một lần! Mỗi ngày một lần! Tiểu Muội không muốn tỷ phu diễn cái trò mỗi ngày đến thăm một lần lấy lệ ấy. Giá mà có chị A Châu thì nhất định tỷ phu ở luôn bên cạnh không dời nữa bước chứ chẳng"một lần"gì ráo!
Tiêu Phong nghe nhắc đến A Châu, cảm thấy đau lòng, xong thực tình như vậy, không biết trả lời sao chỉ cười khà khà nói:
- Tỷ phu là người lớn, không biết chơi những trò cho hợp cỡ trẻ con như cô. Vậy cô kiếm mấy cô bé cùng một cỡ với cô để trò chuyện cho vui có hơn không?
A Tử lại xoen xoét nói:
- Cái gì mà trẻ con chớ chẳng trẻ con. Tiểu Muội có phải trẻ con đâu? Nếu tỷ phu không muốn chơi với tiểu Muội thì còn đến đây làm gì?
Tiêu Phong nói:
- Tôi đến đây xem cô có mạnh hơn chút nào không? Bữa này cô đã uống mật gấu chưa?
A Tử nhấc chiếc cẩm đôn lên, hùng hổ quẳng xuống đất nói:
- Trong lòng tiểu Muộiđã phiền muộng thì dù mỗi ngày có uống đến hàng trăm cái mật gấu cũng chẳng ăn thua gì?
Tiêu Phong thấy A Tử vẫn giữ thói con nít thường làm mình làm mẩy. Giả tỷ nàng là A Châu, thì ông cam tâm nghĩ cách khiến cho nàng đổi giận làm lành, nhưng đối với con người điêu ngoa độc ác như A Tử, thì ông không thể nhịn nổi sự chán ghét, chỉ buông thỏng một câu:
- Cô hãy nằm nghĩ một lát cho đỡ mệt. Rồi đứng dậy đi ra.
A Tử trông sau lưng Tiêu Phong, người nàng run run muốn khóc òa lên. Nàng chợt nhìn thấy Du Thản Chi đứng đó. Bao nhiêu lửa giận đầy ruột liền chi trút lên đầu gã. Thật là giận cá chém thớt.
Nàng quát lên:
- Thất Lý! Quất cho gã ba mươi roi.
Thất Lý"dạ"rồi rút lấy roi da.
Du Thản Chi vội kêu lên:
- Cô nương! Tiểu nhân có điều gì lầm lỗi đâu?
A Tử chẳng thèm trả lời gã, chỉ quát Thất Lý:
- Ðánh đòn mau!
Thất Lý được lệnh càm roi quất"véo"vào lưng Du Thản Chi.
Du Thản Chi không ngớt kêu la van vỉ:
- Cô nương! Xin cô cho biết tiểu nhân đã phạm tội gì để sau này khỏi tái phạm.
Thất Lý lại quất mạnh luôn mấy roi.
Du Thản Chi kêu giãy lên, A Tử nói:
- Ta muốn đánh là đánh! Mi không có quyền được chất vấn ta. Chẳng lẽ mi vô tội mà ta sai đánh oan mi hay sao? Mi muốn biết phạm tội gì ư? Ta cho mi hay:
mi dám chất vấn ta, cũng là một tội rồi đó! Cần phải đánh đau!
Du Thản Chi cãi:
- Vì cô nương đánh trước tiểu nhân mới hỏi. Lúc tiểu nhân chưa hỏi cô nương đã sai đánh rồi kia mà.
Roi lại quất "Ðét, đét, đét" luôn ba ngọn. A Tử cười nói:
- Ta biết trước là mi vẫn chưa chịu một phép, nên ta sai gã đánh mi, quả nhiên mi chất vấn ta thật! Thế có phải là ta đoán việc như thần không? Và ta biết rõ lòng dạ mi vẫn bướng bĩnh quật cường. Nếu mi đúng là kẻ tận trung thì thốt nhiên có bị ta đánh, tất đã cố sức chịu đựng, hơn nữa mi vui vẻ tự động hiến thân để hứng lấy những roi đòn mới phải. Mi đã la làng là trong lòng mi không phục ta rồi. Thôi! Mi không muốn để ta đánh chẳng thèm sai người đánh cho bẩn tay.
Du Thản Chi nghe A Tử nói vậy lại càng sợ hãi, người gã run lên mình sởn gai ốc. Gã biết rằng nếu A Tử không đánh gã nữa thì nhất định nàng sẽ nghĩ ra thứ hình phạt còn thảm khốc gấp mười thà rằng chịu mấy chục roi đòn đi còn hơn.
Nghĩ vậy gã vội kêu van:
- Tiểu nhân thực có lỗi! Tiểu nhân thực có lôi. Xin cô nương cứ đánh, đánh nữa cho! Tiểu nhân được đội ơn đức rất nhiều! Cô nương đánh nhiều chừng nào có bổ ích cho tiểu nhân chừng ấy.
A Tử mỉm cười hỏi:
- Mi cũng khá thông minh đấy, nhưng ta chả mắc mưu mi đâu. Phải chăng mi nói đãi lòng xin ta càng đánh hay là để ta hả dạvà sẽ tha cho mi.
- Tiểu nhân không dám nói đãi lòng cô nương.
A Tử lại hỏi:
- Mi chân tâm muốn ta đánh thật nhiều ư?
Du Thản Chi đáp:
- Ðúng là tâm nguyện của tiểu nhân như vậy.
A Tử nói:
- Nếu vậy được lắm! Ta sẽ cho mi được toại nguyện.
Ðoạn nàng quay sang bảo gã đội trưởng:
- Thất Lý! Ngươi đánh gã đủ một trăm roi cho gã tâm nguyện được ăn nhiều đòn.
-
Hồi 50 - Một Lối Luyện Công Kỳ Dị - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 50 - Một Lối Luyện Công Kỳ Dị
Du thản Chi giật mình nghĩ thầm:
- Nếu cô này sai người đánh mình một trăm roi thì còn chi là tánh mạng, nhưng việc đã đến thế này nếu mình kiên quyết không chịu, người ta vẫn cứ đánh mình. Vậy mình có chống cự cũng chẳng ăn thua gì.
Gã nghĩ vậy nên không nói gì nữa.
A Tử hỏi:
- Làm sao mi lại lầm lì không nói? Phải chăng trong lòng mi còn có chỗ ấm ức? Ta kêu người đánh mi chắc mi cho ta là bất công phải không?
Du Thản Chi nói:
- Tiểu nhân chân tâm kính phục cô nương, biết rõ cô nương sai đánh tiểu nhân tức là có hảo tâm muốn thành toàn cho tiểu nhân vậy.
A Tử hỏi:
- Thế sao mà rồi mi chẳng nói năng gì?
Du Thản Chi không biết trả lời ra sao, gã ấp úng:
- Cái đó... cái đó... tiểu nhân lúc nào cũng nghĩ đến ơn đức cô nương thâm trọng tày non, tiểu nhân vô cùng cảm kích, không lời nào giải tỏa cho xiết được! Tiểu nhân chỉ nghĩ cách sau này không biết lấy chi đền đáp cô nương cho phải đạo?
A Tử nói:
- Chà mi bảo đền đáp ta? Dền đáp cách nào? Ta sai người đánh mi một roi mi ghi vào góc lòng để căm thù ta chứ gì?
Du Thản Chi khoát tay lia lịa đáp:
- Không không! Không phải! Tiểu nhân nói đền đáp là đúng chân tình. Tiểu nhân đã nhất quyết dù có phải nhảy vào đống lửa hay phải tan xương nát thịt vì cô nương cũng cam lòng.
A Tử nói:
- Nếu vậy thì hay lắm! Thất Lý đâu? Ngươi đánh gã đi!
Thất Lý "dạ" một tiếng rồi rút bì tiên ra quất Du Thản Chi. Lúc đánh được hơn năm chục roi. Du Thản Chi đau tê dại cả người và đầu óc tối tăm không còn biết gì nữa. Hai đầu gối gã nhũn ra từ từ ngã xuống.
A Tử thấy vậy cười hì hì. Nàng chờ cho gã cất tiếng van xin và định bụng hễ gã cất lời năn nỉ thì lại tăng gia năm mươi roi nữa.
Ngờ đâu lúc này Du Thản Chi đã mê man bất tỉnh. Thỉnh thoảng gã khẽ rên ư ử trong miệng chứ không van vỉ chi hết.
Ðánh được hơn bảy mươi roi thì gã ngất lịm đi. Thất Lý vẫn chẳng dung tình, đánh đủ trăm roi mới buông tay ra.
A Tử thấy Du Thản Chi chỉ còn thoi thóp thở. Tình trạng thập tử nhất sinh của gã làm cho nàng cụt hứng. Nàng nói:
- Các ngươi đem gã ra ngoài thôi! Thằng lỏi con này chả còn gì đáng coi nữa.
Rồi nàng quay ra hỏi tên đội trưởng:
- Thất Lý! Ngươi còn có trò gì mới mẻ nữa không?
Thất Lý dường như không nghe rõ, sai mấy tên thuộc hạ khiêng Du Thản Chi đi. Du Thản Chi bị trận đòn này phải dưỡng thương đến hơn một tháng mới khỏi.
Những tên quân Khất Ðan thấy A Tử dường như lãng quên Du Thản Chi rồi, đã lâu nàng không kêu đem gã lại để hành hạ nữa. Chúng liền ghi tên vào danh sách những người Tống mới bị bắt và cho theo bọn này đi làm những công việc đê tiện, như: hốt phân, kì cọ chuồng dê, nhặt phân trâu, lột da cừu, gặp việc gì làm việc ấy.
Trên đầu Du Thản Chi lại chụp chiếc lồng sắt, mọi người nhằm vào đó mà chế nhạo, khinh mạn gã. Cả đến người Hán đồng bào với gã cũng coi như một con quái vật.
Du Thản Chi ráng sức chịu đựng, ai nói ngược nói xuôi cũng mặc không bao giờ đối đáp, cơ hồ gã biến thành kẻ câm điếc. Có ai đánh mắng gã, gã cũng không hề chống cự. Chỉ trừ phi có người cưỡi ngựa đi ngang qua là gã mới ngẩng đầu lên nhìn một cái.
Du Thản Chi chỉ còn một điều tâm nguyện là mong có ngày được "cô nương" gọi gã đến để đánh cho một chặp. Gã coi việc mình không được gặp A Tử là một cực hình còn đau khổ hơn việc bị đánh đòn.
Thời gian lặng lẽ trôi hơn hai tháng nữa, tiết trời đã đỡ lạnh.
Một hôm Du Thản Chi đang theo mọi người ra ngoài thành Nam kinh vác đất, khuân gạch để bồi đắp cho tường thành dầy thêm, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập.
Mấy người cưỡi ngựa từ cửa nam ra, một âm thanh trong trẻo cười nói:
- A ha! Gã Thiết Sửu chưa chết ư? Ta tưởng gã bỏ mạng từ lâu rồi.
Ðoạn nàng gọi:
- Thiết Sửu! Mi lại đây!
Ðó chính là A Tử.
Du Thản Chi mơ tưởng ngày đêm chỉ mong đến lúc được nghe người sang sảng tiếng vàng. Vừa nghe gọi, gã cuống cả lên hai chân dường như đóng chặt xuống đất không sao cất bước nổi nữa. Trái tim gã rạo rực dường như muốn nhảy ra ngoài lồng ngực. Lòng bàn tay gỉ mò hôi ra ướt đẫm.
A Tử gắt lên:
- Thiết sửu! Thằng chết kia! Ta kêu mi lại đây mi không nghe thấy hay sao?
Du Thản Chi vội đáp:
- Dạ! Cô nương!...
Gã xoay mình chạy lại trước ngựa A Tử. Ðang chạy, gã không nhìn được ngẩng đầu lên nhìn nàng.
Thấm thoát đã bốn tháng, bây giờ Du Thản Chi mới lại được thấy mặt người tiên. Nàng da dẻ thêm phần hồng hào, vẻ đẹp lại càng tăng lên gấp bội.
Du Thản Chi trong lòng xiết bao hồi hộp, gã vừa đi vừa nghếch mặt lên, vấp chân một cái ngã lăn ra. Mọi người thấy vậy đều cười rộ. Gã lổm ngổm đứng dậy và không dám nghếch mặt lên nhìn A Tử nữa.
A Tử trong lòng hớn hở, cười hỏi:
- Thiết Sửu! Sao mi lại chưa chết?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân đã có lời nói:
Phải tìm cách để báo đáp ơn đức cô nương, khi nào đã chết được?
A Tử lại càng khoan khoái cười khanh khách nói:
- Ta đang tìm một tên nô bộc hết dạ trung thành để làm một việc trọng đại. Ta e rằng người Khất Ðan tay chân cục mịch làm hỏng việc của ta. Nay mi chưa chết thì hay lắm. Mi theo ta đi!
Du Thản Chi đáp:
- Xin vâng.
Rồi đi theo sau ngựa A Tử.
A Tử vẫy tay ra hiệu cho Thất Lý cùng ba tên vệ sĩ Khất Ðan trở lại, không phải đi theo nàng nữa.
Thất Lý đã biết A Tử nói đâu là đúng thế, không ai khuyên can được. Vả lại thằng lõi mặt sắt, con người hèn hạ nhu nhược dù có theo nàng quyết cũng không xảy ra biến cố gì. Y chỉ dặn một câu:
- Xin cô nương về sớm cho.
Ðoạn cả bốn tên nhảy xuống ngựa đón chờ ở ngoài cổng thành. A Tử lỏng buông tay khấu cho ngựa đi thong thả. Ði chừng được bảy tám dặm thì đường lối càng hoang vu tịch mịch. Sau đến một nơi khe núi âm u rậm rạp.
Du Thản Chi chân dẫm xuống đất lõm bõm, vì những lá rụng và cỏ thối lâu năm nhão ra thành bùn. Lại đi chừng hơn một dặm, đường núi cũng gập ghềnh. A Tử phải xuống ngựa, tay cầm dây cương dắt ngựa đi một quãng nữa.
Nàng đưa mắt nhìn ra bốn mặt thấy chỗ này âm u mờ mịt. Gió lạnh rít từng cơn theo khe núi thổi vèo vèo, khiến cho người rét buốt thấu xương.
Nàng nói:
- Hay lắm! Chỗ này được đây!
Nàng buột ngựa vào gốc cây rồi dặn Du Thản Chi:
- Những việc gì mi trông thấy bữa nay phải nhớ kỹ rằng không được tiết lộ với một ai và ngay với chính ta mi cũng không được đề cập đến nữa. Mi nghe rõ chưa?
Du Thản Chi đáp:
- Vâng vâng!
Lúc này gã mừng như điên. Dù A Tử gọi gã đi theo ra nơi hẻo lánh này để đánh gã một trận nhừ xương, gã cũng vui vẻ can tâm.
A Tử thò tay vào bọc lấy chiếc đỉnh ngọc màu xanh biếc đặt xuống đất nói:
- Lúc mi thấy những loài sâu bọ cổ quái xuất hiện, ta cấm mi không được sợ sệt và nhất là không được lên tiếng.
Du Thản Chi lại đáp gọn:
- Vâng.
A Tử lại lấy trong bọc một cái túi vải nhỏ xíu mở ra thì bên trong có mấy viên sắc vàng, sắc đen, sắc tía, sắc đỏ.
Nàng véo lấy mỗi thứ một chút bỏ vào trong đỉnh ngọc quẹt lửa đốt lên, rồi đậy nắp đỉnh lại. Nàng nói:
- Chúng ta ngồi gốc cây này để coi chừng.
A Tử ngồi xuống gốc cây. Du Thản Chi không dám ngồi bên nàng, chạy lại ngồi trên một tảng đá, cách chỗ nàng chừng hơn một trượng. Gió lạnh căm căm vẫn thổi đều, quyện mùi thơm ngát từ quần áo A Tử tiết ra đưa vào mũi Du Thản Chi, khiến cho gã ngây ngất đê mê. Gã nghĩ rằng cuộc đời gã mà còn được giây phút như lúc này thì bấy nhiêu lâu gã có chịu cực nhọc đau đớn ê chề cũng là được trả một cách quá hậu rồi! Gã chỉ mong A Tử vĩnh viễn ngồi dưới gốc cây, để cho gã đứng xa xa hầu tiếp nàng là mãn nguyện lắm rồi.
Tâm hồn Du Thản Chi đang bay bỗng lên chín tầng mây thì bỗng nghe dưới bụi rậm có tiếng sột soạt, một giống rắn rết gì đang bò lại.
Du Thản Chi tuy không có tài cán gì, nhưng gã sở trường về nghề bắt rắn rết... Gã vừa nghe tiếng động đã biết ngay có vật kì dị.
Quả nhiên trong đám cỏ xanh rậm rạp có vật gì đang động đậy nhìn kỹ thì là một con rết toàn thân nó lấp lánh. Ánh sáng đầu nó đỏ như máu khác hẳn với giống rết thường.
Con rết này ngửi mùi hương từ trong đỉnh ngọc bay ra liền tìm đến ngay. Nó thấy đỉnh ngọc có lỗ thủng nên chui vào không ra nữa.
Du Thản Chi sắp la lên:
- Con rết này độc ghê gớm!
Thì phía sau lại thấy tiếng "xì xì", một con bò cạp sắc vàng ở trong bụi cỏ đang bò rất nhanh.
Du Thản Chi vừa toan đưa chân ra giẫm chết, thì A Tử vội quát lên:
- Ô kìa! Không được giẫm chết nó. Mi thật là ngu ngốc!
Du Thản Chi còn đang giơ chân phải lên chưa giẫm xuống, gã nghe A Tử la, liền dừng lại. Con bò cạp cũng chạy mau lại phía đỉnh ngọc rồi chui vào.
Chỉ trong chớp mắt, trong đỉnh ngọc nổi lên những tiếng"chi chi." Con rết cùng bò cạp đánh nhau.
Du Thản Chi vốn ưa coi loài côn trùng đấu chơi. Từ thuở nhỏ gã vẫn nuôi dế để xem chúng chọi chơi. Lúc này gã muốn mở nắp đỉnh để coi rết và bò cạp chọi nhau, xem con nào thắng con nào bại. Nhưng gã khiếp oai A Tử không dám cử động hấp tấp.
Lúc con rết và con bò cạp đang chọi nhau trong đỉnh ngọc thì từ góc Tây Bắc một con thạch thùng chạy lại, từ góc Tây Nam cũng có một giống côn trùng chạy ra không biết là giống gì. Con này tròn như quả cầu toàn thân lấp lánh. Hai giống côn trùng này đều chạy về phía đỉnh ngọc. Lập tức có những tiếng kỳ dị phát ra loạn cả lên.
Du Thản Chi đưa mắt nhìn về phía A Tử thì thấy nàng lộ vẻ vui mừng.
Nàng xoa hai bàn tay nhỏ nhắn vào nhau khẽ nói:
- Bốn con đến rồi quả nhiên hương liệu mình rất linh nghiệm!
Nàng chưa dứt lời, thì lại thêm một con nhện chạy vào trong đỉnh ngọc.
Bấy giờ Du Thản Chi mới hiểu là cô này tìm đến đây vì chỗ này rậm rạp ẩm thấp có nhiều trùng độc. Nhưng gã chưa hiểu cô dẫn dụ những trùng độc đến để làm gì. Nếu muốn xem chúng chọi nhau thì sao lại không mở nắp đỉnh?
Bỗng nghe một tiếng "tạch" con bò cạp từ trong đỉnh ngọc bị hất ra, không nhúc nhích, vì nó đã chết rồi.
Một lát sau, lần lượt đến con nhện, con thạch thùng và con vật mình tròn không biết tên đều bị đẩy ra ngoài và đều chết cả rồi.
A Tử vỗ tay cười nói:
- A ha! Con rết đầu đỏ lợi hại hơn hết.
Du Thản Chi hỏi:
- Cô nương! Cô đốt hương liệu gì mà dẫn dụ bao nhiêu thứ côn trùng độc bò đến?
A Tử sa sầm nét mặt nói:
- Ta đã bảo mi không được hỏi lôi thôi. Mi quên rồi hay sao? Nếu lần sau mi còn lắm miệng thì ta cho ăn trăm roi đòn đó!
Du Thản Chi cúi đầu nói: Vâng! Tiểu nhân cao hứng, không kịp suy nghĩ buột miệng nói ra, xin cô nương lượng thứ cho...
A Tử không thèm nói gì với gã nữa. Nàng móc trong bọc lấy một cái túi vải ra. Trong túi có một mảnh đoạn rất dày. Miếng đoạn này có hào quang lóng lánh, hình như những ánh ngũ sắc không nhất định. Mỗi khi tay nàng cử động một chút thì màu sắc rực rỡ lại biến ảo ly kỳ.
A Tử tiến lại gần cái đỉnh ngọc phủ tấm đoạn lên gói cái đỉnh lại. Du Thản Chi nhìn xuống con bò cạp cùng mấy con vật bị chết nằm dưới đất thì thấy bốn con này đều xác xơ. Bao nhiêu chất nước trong mình chúng đều bị hút khô kiệt.
A Tử lấy mảnh đoạn gói chặt đỉnh ngọc, dường như sợ con rết ở trong bò ra mất, rồi nàng bỏ vào trong một cái túi da treo ở cổ ngựa.
Nàng cười nói:
- Chúng ta về thôi!
Ðoạn giục ngựa cho đi!
Du Thản Chi theo sau A Tử, nghĩ thầm: Cái đỉnh ngọc này đã cổ quái. Nhưng chất hương liệu lại càng kì dị hơn. Chỉ thắp lên là dẫn dụ được bọn côn trùng tìm đến.
A Tử về đến điện Ðoan Phúc dặn bọn thị vệ trong điện dọn một buồng xép bên cạnh cho Du Thản Chi ở.
Du Thản Chi cả mừng, gã biết rằng từ nay thường được thấy mặt A Tử luôn.
Quả nhiên sáng hôm sau A Tử cho gọi Du Thản Chi đến tòa điện phụ. Chính nàng đong cửa điện lại. Trong điện chỉ có hai người. A Tử chạy lại đầu phía Tây điện, mở một cái lọ sành ra cười nói:
- Ngươi coi đây có hùng vĩ không?
Du Thản Chi nhìn vào thì thấy con rết bắt được hôm qua đang chạy rất nhanh trong lọ.
A Tử nói:
- Bữa nay chúng ta lại đi bắt một con trùng độc khác đem về...
Du Thản Chi xiết đỗi hoài nghi, nghĩ bụng: Một cô gái xinh đẹp như thế kia, thiếu gì trò chơi mà phải đi tìm những trùng độc dơ dáy mà nguy hiểm về chơi." Nhưng gã không dám hỏi nhiều, chỉ đáp gọn một tiếng:
- Vâng!
A Tử dẫn Du Thản Chi đến một khe núi khác. Nàng cũng đốt hương liệu bỏ vào ngọc đỉnh như hôm trước và cũng dẫn về được năm thứ trùng độc. Sau một phen tranh đấu, lần này còn lại được con nhện đen.
A Tử lại mang về bỏ vào lọ khác nuôi.
Nàng gọi Du Thản Chi đem chăn chiếu vào căn điện phụ để tối ngủ tại đó canh chừng mấy con trùng độc.
Du Thản Chi xem qua đã biết những loại côn trùng này có thể đục lỗ vì chúng ở trong chỗ kín mít không có kẽ hở, có khi lại tự khoét vết nứt để trốn ra. Gã nghĩ thầm:
Bất luận là để con rết hay con nhện chạy mất mình cũng phải tội trước tiên. Huống chi A Tử đã tổn hao bao nhiêu tinh thần mới bắt được chúng về. Nếu mình để chạy mất một con, có khi nàng nổi hung giết mình đi thế là uổng mạng. Vì vậy, nên lúc nào gã cũng nơm nớp để ý trông coi hai cái lọ này. Gã chợp ngủ chốc lát, lúc chợt tỉnh dậy lại quẹt lửa soi xem ngay.
Chiều hôm sau, A Tử lại dùng phương pháp đó đi bắt được một con cóc.
Ngày thứ tư đi bắt thì dẫn dụ toàn những giống côn trùng rất nhỏ, rõ ràng chất độc không được mạnh lắm, A Tử chưa vừa lòng lại đi thêm hơn mười dặm mới bắt được con bò cạp xanh biếc. Suốt ngày thứ năm không bắt được thứ gì, cả ngày thứ sáu cũng vậy.
Ðến ngày thứ bảy mới bắt được con rắn xanh nhỏ. A Tử ra chiều vui thích, sai Du Thản Chi mỗi ngày phải giết một con gà trống lấy tiết để nuôi những con trùng độc này. Nuôi được hơn mười ngày, một buổi sáng kia, A Tử lại vào tòa điện nhỏ để xem năm thứ trùng độc rồi nói:
- Ðược rồi!
Nàng lại lấy đỉnh ngọc và hương liệu thắp lên rồi bảo Du Thản Chi:
- Mi mở nắp năm cái lọ sành ra.
Du Thản Chi tuân mệnh mở hết các lọ rồi đứng sang một bên.
Bỗng nghe thấy tiếng sột soạt, năm con trùng độc ngửi thấy mùi hương tranh nhau chui vào đỉnh ngọc. Tiếp theo là tiếng chọi nhau chí chí.
Năm con trùng độc này con nào cũng hút hết những chất độc của bốn con khác nên trong mình chúng đều có chất độc kịch liệt. Chúng lại ăn tiết gà lâu ngày, dương khí rất vượng, vừa gặp những loại khác, chúng cắn xé nhau đến chết ngay lập tức.
Ðầu tiên là con cóc bị chết trước, thứ hai là con rắn xanh bị chết theo.
Còn ba con nữa đấu nhau một lúc thì con nhện và con bò cạp đều nhảy ra ngoài đỉnh ngọc, trong đỉnh chỉ còn con rết bắt được hôm đầu tiên là lợi hại hơn cả.
Con rết toàn thắng rồi bò ra ngoài đỉnh ngọc đi hút những chất độc ở mấy con kia. Rồi mình nó cũng sưng vù lên. Cái đầu đỏ biến sang sắc tía, rồi từ sắc tía biến sang sắc biếc, sau cùng biến ra màu đục.
A Tử rất lấy làm mừng khẽ nói:
- Xong rồi! Thế là môn phái ta lại có thể luyện được môn tuyệt kỹ này!
Du Thản Chi lẩm bẩm:
- Té ra cô này đi bắt những con trùng độc để luyện một môn tuyệt nghệ gì đây.
Con rết ăn những chất độc no rồi lại quay về đỉnh ngọc.
A Tử hỏi Du Thản Chi:
- Thiết Sửu! Ta đối với mi thế nào?
Du Thản Chi đáp:
- Cô nương đối với tiểu nhân ơn nặng tày non.
A Tử hỏi:
- Mi biểu rằng dù có phải vì ta mà tan xương nát thịt hoặc nhảy vào đống lửa mi cũng can tâm. Câu đó là ngươi nói thực hay nói dối?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân không dám dối cô nương. Cô nương có việc gì xin cứ sai bảo, tiểu nhân quyết không từ chối.
A Tử nói:
- Nếu vậy thì hay lắm! Ta cho mi hay ta muốn luyện một môn tuyệt kỹ cần có người trợ giúp mới xong. Mi có ưng giúp ta không? Giả tỷ luyện được thành công, nhất định ta sẽ trọng thưởng cho mi.
Du Thản Chi nói:
- Lý đơn nhiên là tiểu nhân phải tuân theo lời cô nương sai bảo, cô nương bất tất phải quan tâm đến chuyện ban thưởng.
A Tử nói:
- Thế thì lại càng tuyệt nữa! Vậy chúng ta bắt đầu luyện thôi.
Nói xong nàng ngồi xếp bằng, hai tay sát vào nhau, nhắm mắt vận khí một hồi rồi nói:
- Mi đưa tay ra bắt láy con rết đó lại đây. Thế nào con rết cũng cắn mi, nhưng mi đừng có nhúc nhích, để yên cho nó hút khí huyết của mi, càng hút càng hút được càng hay.
Du Thản Chi từ thuở nhỏ đã quen chơi rắn rết, biết rằng những loài này tuy hình thù nhỏ xíu màchất độc lợi hại vô cùng. Nếu người sơ ý để nó đớp một miếng, vết thương cũng sưng vù hàng mấy ngày chưa khỏi.
Con rết này hình thù quái dị, mấy con rắn con nhện... không nọc độc bằng, nó cắn chết thì đủ biết nó độc cỡ chừng nào!
Du Thản Chi nghe A Tử bảo mình để cho con rết hút máu, gã rùng mình ghê sợ hơn là bị đánh trăm roi, vẻ băn khoăn lộ hẳn ra ngoài mặt.
A Tử sa sầm nét mặt hỏi:
- Sao? Mi không muốn thế ư?
Du Thản Chi ấp úng:
- Không phải là tiểu nhân không muốn. Có điều... có điều...
A Tử nói:
- Có điều con rết này độc quá, mi sợ chết chứ gì?
Du Thản Chi không biết nói thế nào. Gã nhớ lại lời hứa tự nguyện vì nàng dù tan xương nát thịt, vì nàng nhảy vào đống lửa... Nhưng giờ gặp cảnh nguy nan gã lại sợ co vòi.
Du Thản Chi ngẩng đầu lên nhìn A Tử, thấy mặt nàng đỏ nhừ, môi chúm lại ra chiều khinh miệt gã vô cùng! Gã mê hoảng như người bị ma ám, nói:
- Hay lắm! Tiểu nhân xin vâng mệnh cô nương.
Ðoạn gã nghiến răng nhắm mắt lại, tay trái mở nắp đỉnh ngọc, tay phải thò vào trong đỉnh.
Vừa thò vào đầu ngón tay giữa đau nhói như bị kim đâm. Du Thản Chi cố nhịn đau, gã mở bừng mắt ra, nhìn thấy con rết đang cắn ngón tay giữa mình, quả nhiên để hút máu. Gã khiếp quá khắp người sởn gai ốc. Gã toan vẫy tay cho con rết rơi ra, chân gã đạp mạnh xuống đất, nhưng dù gã không nhìn cũng biết cặp mắt sắc như dao của A Tử đang nhìn chòng chọc vào lưng mình nên gã lại không dám nhúc nhích.
Thực ra thì lúc con rết hút máu gã không đau lắm, nhưng gã nhìn con rết thấy mỗi lúc một phồng lên mà ngón tay gã tím bầm lại. Quầng máu tím trước lợt sau đã mồi dần dần thẫm lại.
Sau một lúc vết thâm từ ngón tay loang ra bàn tay rồi từ bàn tay lên ngón tay.
Ðến lúc này thì Du Thản Chi không còn nghĩ gì đến tính mạng mình nữa, gã trở lại bình tĩnh, miệng lộ vẻ tươi cười, nhưng vì mặt gã chụp lồng nên A Tử trông không được rõ. Con rết này từ khi hút nhiều chất độc, cái đầu đỏ biến thành màu lục, bây giờ lại từ màu lục trở lại màu hồng.
Du Thản Chi lẩm bẩm:
- Bao nhiêu chất độc ngươi đã truyền vào người ta. Hay lắm. Ta là Thiết Sửu thì bây giờ lại biến thành Ðộc Sửu.
A Tử cười khánh nói:
- Mi hãy còn cười nói được kia ư?
Miệng nàng nói vậy hai mắt chú ý nhìn con rết, để hết cả tâm thần vào đó. Ðột nhiên, con rết buông ngón tay Du Thản Chi, nằm phục xuống trong lòng đỉnh ngọc. Một lát sau lỗ đỉnh có máu rươm rướm chảy ra.
A Tử lộ vẻ vui mừng đưa ngón tay đón lấy huyết dịch, nàng ngồi xếp bằng vận nội công cho huyết dịch thấm vào trong da bàn tay.
Du Thản Chi nghĩ thầm:
- Thế là huyết dịch ta thấm vào trong người nàng. Xem chừng nàng đang luyện môn "ngũ độc chưởng" chi đây.
Gã là người hủ lậu hẹp hòi, nên không biết cái đỉnh ngọc này là vật chi bảo của phái Tinh Tú, mang danh là "Bích Ngọc Vương Ðỉnh" và môn tuyệt nghệ của A Tử luyện kêu bằng: "Hóa công đại pháp", một môn tuyệt học của tà phái đã làm cho các tay hào kiệt võ lâm phải kinh hồn táng đởm. Con rết tiết hết huyết độc xong lăn ra chết liền.
-
Hồi 51 - Ðòi Báo Vật Nhà Sư Ðộng Thủ - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 51 - Ðòi Báo Vật Nhà Sư Ðộng Thủ
A Tử xoa tay mạnh vào nhau rồi nhìn vào lòng bàn tay thì thấy hai bàn tay vẫn đẹp như ngọc không có chút vết tích gì, mà cũng không có dấu máu dơ bẩn chi hết. Nàng biết những gì mình nghe trộm ở nơi sư phụ về phép luyện công quả đúng rồi bất giác cả mừng. Nàng cầm đỉnh ngọc lên đổ xác con rết xuống đất rồi bon bon chạy ra ngoài điện không thèm để mắt ngó Du Thản Chi nữa, tựa hồ như người đó đã thành vật vô dụng như con rết vậy.
Du Thản Chi nhìn sau lưng A Tử đi khỏi rồi cởi áo ra, thì thấy quầng đen đã chạy tới nách đồng thời một cánh tay bị ngứa ngáy khó chịu.
Bệnh ngứa lan ra mau chóng chỉ trong chớp mắt, gã cảm thấy tựa hồ có đến hàng ngàn hàng vạn con kiến đang cắn rứt.
Du Thản Chi nhảy lên chồm chồm, đưa tay lên gãi. Nhưng không gãi còn khá, vì càng gãi bao nhiêu thì càng ngứa dữ dội thêmbấy nhiêu, dường như trong xương tủy và trong ruột gan đều có sâu bọ bò qua bò lại lúc nhúc.
Người bị đau còn chịu được chứ bị ngứa ngáy thì không thể nào chịu được, Du Thản Chi nhảy lên nhảy xuống la hét om sòm rồi rồi đập cái đầu sắt vào tường kêu binh binh.
Gã chỉ mong sao cho mình ngất đi không còn biết gì nữa để khỏi chịu đựng những cơn ngứa ngáy kì dị.
Du Thản Chi đập đầu một lúc nghe đánh tạch một tiếng, một vật trong bọc rơi xuống.
Ðó là gói giấy dầu tuột ra để lộ một cuốn sách giấy vàng, chính là cuốn sách chữ Phạn mà gã lượm được của Kiều Phong.
Du Thản Chi bị cơn ngứa ngáy hành hạ chẳng buồn lượm lên nữa.
Trong lúc vô tình gã trông thấy bìa sách lật ra trang đầu có vẽ một nhà sư người gầy như que củi.
Hình vẽ nhà sư này rất là kì dị , đầu luồn xuống dưới hai chân quặp lại, hai bàn tay thì nắm lấy hai chân.
Du Thản Chi đang ngứa ngáy khó chịu, chẳng còn lòng dạ nào để ý đến hình vẽ kì dị này.
Gã chồm lên nhảy xuống một hồi nữa thì cảm thấy cơn ngứa ngáy làm cho khó thở.
Gã nằm xuống đất xé hết quần áo rách tươm rồi lăn mình cho da thịt sát xuống mặt đất.
Gã gãi một hồi nữa đến trầy da chảy máu.
Trong lúc Du Thản Chi vừa lăn lộn vừa gãi tự nhiên đầu gã luồn vào giữa hai chân quặp lấy. Vì đầu gã có chụp lồng sắt thành lớn quá không ra được.
Gã đưa hai tay nắm chân định kéo rộng ra rồi hất đầu lên, song lúc này gã kiệt sức quá rồi, không nhúc nhích được nữa tạm dừng tay thở lên hồng hộc.
Ngẫu nhiên cuốn sách bày ra trước mắt kiểu hình vẽ nhà sư gầy trong cuốn sách giống như kiểu gã đang ngồi.
Trong lòng gã vừa kinh ngạc lại vừa buồn cười. Kì dị ở chỗ gã ngồi kiểu này tuy vẫn ngứa như cũ nhưng hơi thở nhẹ nhàng hơn. Vì vậy nên gã không muốn rút đầu ra khỏi chân mà cứ để nguyên vậy gục xuống đất.
Gã gục đầu như vậy thì hai mắt càng gần sách hơn. Gã nhìn lại ảnh nhà sư đột nhiên thấy người trong tranh vẽ có những sợi dây rất nhỏ. Vì sách cũ quá, màu giấy đã vàng khè và xám xịt, nên chẳng thấy gì.
Du Thản Chi cảm thấy tay mặt ngứa một cách kì lạ, mắt gã cũng ngẫu nhiên nhìn vào cánh tay phải nhà sư trong đồ hình, bỗng thấy từ cánh tay này có sợi dây nhỏ thông lên đến cổ họng rồi chuyền xuống trước ngực đi vòng vèo đưa ra hai vai rồi lên đến đỉnh đầu.
Du Thản Chi nhìn sợi dây nhỏ đó thì trong lòng tự nhiên cảm thấy tựa hồ như tay phải ngứa ghê gớm, có một luồng hơi ấm áp đi theo những đường như sợi dây, từ cổ họng xuống trước ngực rồi từ hai vai đến đỉnh đầu, dần dần biến mất.
Gã tiếp tục đưa luồng tư tưởng theo những đường chỉ trong đồ hình mấy lần và mỗi lần đều thấy một luồn khí ấm thông vào đầu óc, rồi cánh tay đang ngứa cũng bớt dần đi.
Du Thản Chi cảm thấy rất là kì lạ, gã chẳng hoài công suy xét nguyên do tại sao? Chỉ cho luồng tư tưởng tiếp diễn như vậy đến ba mươi mấy lượt. Cánh tay chỉ còn hơi ngứa gã làm thêm mười lần nữa thì từ cánh tay cho đến bàn tay không còn thấy gì nữa.
Bấy giờ gã mới rút đầu ra khỏi đôi chân.
Gã giơ bàn tay lên xem thì những quầng đen trên tay cũng đều biến mất.
Du Thản Chi đang mừng rỡ bỗng la lên:
- Chao ôi! Thôi hỏng rồi! Nọc rết kịch độc đã chuyền vào mình cả rồi.
Nhưng dù sau gã hết được cơn ngứa kì dị đã thấy đỡ khổ, còn những mối lo gì hãy bỏ đó. Gã lẩm bẩm:
- Việc đời kể ra cũng lạ, mình ngẫu nhiên đưa đến kiểu ngồi như hòa thượng này là nghĩa làm sao? Phải chăng đó là ý trời?
Thật ra hình vẽ trong sách là một diệu pháp để trút bỏ những mối ưu phiền trong lúc luyện công.
Du Thản Chi đang rất khổ sở đến cực độ biến diễn ra cách đó chứ không phải do sự ngẫu nhiên mà gặp.
Nên biết rằng "Vướng cổ thì ho, ăn no quá thì mửa." Ðó là tính cách tự nhiên của con người. Du Thản Chi đang lúc ngứa ngáy khổ sở thì gục đầu xuống cũng chỉ là một tập quán tự nhiên chẳng có gì lạ. Có điều cuốn sách rớt xuống lại tự nhiên mở ra đúng tranh đó thì quả là một sự ngẫu hợp... Còn bao là ý trời ban phước hay gieo họa thì còn khó mà biết được.
Du Thản Chi ngơ ngẩn một lúc, gã mệt quá lăn ra ngủ.
Sáng sớm hôm sau, gã vừa thức giấc mở chăn ra đã thấy A Tử lật đật đi vào điện.
Nàng thấy Du Thản Chi thân thể lõa lồ bộ dạng kì quái thì la lên một tiếng kinh ngạc rồi hỏi:
- Mi vẫn chưa chết ư?
Du Thản Chi giật mình rồi vội kéo chăn trùm lên che mình rồi đáp:
- Tiểu nhân chưa chết.
Rồi gã lẩm bẩm:
- Té ra nàng tưởng mình chết rồi!
A Tử nói:
- Mi chưa chết thì hay lắm! Mau mặc quần áo rồi theo ta đi bắt trùng độc.
Du Thản Chi vâng lời ngay.
A Tử ra ngoài rồi gã nói với tên quân Khất Ðan lấy cho một bộ áo.
Tên quân Khất Ðan này thấy gã hàng ngày đi theo A Tử, ngĩ rằng gã được quận chúa thương yêu, liền kiếm một bộ y phục lành lặn sạch sẽ cho gã thay.
Du Thản Chi theo A Tử ra khỏi cung như mấy hôm.
Nàng đem đỉnh ngọc đốt hương dẫn dụ trùng độc bắt về.
Sau cùng cũng chọn một con độc nhất cho ăn tiết gà, rồi cho hút máu Du Thản Chi để đem ra luyện công.
Du Thản Chi lại chiếu theo đồ hình trong sách để hóa giải độc.
Lần thứ hai là con nhện xanh hút máu gã.
Lần thứ ba là con bò cạp lớn.
Lần nào A Tử cũng chắc là gã cũng phải chết, thế mà gã vẫn không sao, nàng không khỏi đem lòng ngờ vực.
Cuộc bắt những trùng độc của A Tử tiếp diễn sau ba tháng thì bên ngoài thành Nam kinh trong vòng mười dặm, rắn rết độc mỗi ngày một ít đi, rồi chỉ còn những con không độc mấy, không hợp ý A Tử. Càng về sau hai người càng phải đi xa thêm.
Một hôm hai người ra ngoài thành phía tây hơn ba mươi dặm.
A Tử thắp hương liệu lên chờ hồi lâu mới thấy trong đám cỏ rậm có tiếng sột soạt.
A Tử hô lên:
- Cúi thấp xuống!
Du Thản Chi vội phục xuống, thoáng nghe những tiếng phì phì.
Trong tiếng kì dị này có lẫn mùi tanh hôi, khiến người phải buồn nôn. Du Thản Chi nín thở không nhúc nhích, bỗng thấy trong đám cỏ dại rẽ ra hai bên, một con trăn lớn, mình trắng chấm đen từ phía Tây đi qua phía Ðông.
Ðầu con trăn này hai mang bành ra hình tam giác. Trên đầu nhô lên một miếng thịt sù sì.
Ở phương Bắc vốn rất ít rắn rết.
Du Thản chi chưa thấy con trăn hình thù quái dị này bao giờ. Con trăn chạy đến bên đỉnh ngọc, rồi đi vòng quanh chiếc đỉnh. Nhưng thân nó dài hơn trượng, mình to bằng cánh tay thì làm thế nào chui vào trong đỉnh được? Nó ngửi thấy mùi thơm rồi nó cứ đập cái đầu vào đỉnh"cốp cốp."
A Tử không ngờ mùi hương lại dẫn dụ cả con vật lớn đến thế. Nàng kinh dị vô cùng chưa có ý định ra sao.
Nàng khẽ bò đến bên Du Thản Chi hỏi nhỏ vào tay gã:
- Làm thế nào bây giờ? Nếu để con trăn đập vỡ đỉnh ngọc thì hỏng bét!
Du Thản Chi vừa nghe tiếng oanh thỏ thẻ lại hơi ấm lọt vào tai là một chuyện suốt đời gã chưa được thấy bao giờ.
Gã lấy làm vinh hạnh vô cùng liền đáp:
- Không hề chi! Tiểu nhân ra đuổi nó đi!
Nói xong gã đứng dậy rào bước đến gần con trăn. Con trăn vừa nghe thấy tiếng động, lập tức ngẩn đầu lên, thè lưỡi đỏ hỏn ra phun phè phè, sắp nhảy chồm lại.
Du Thản chi thấy vậy sợ hãi chưa dám tiến lên, gã toan nhặt viên đá để toan ném nó, nhưng lại sợ làm vỡ đỉnh ngọc.
Gã còn đang phân vân chưa biết làm thế nào, bỗng thấy một luồng gió lạnh thổi vào mặt, khiến gã kinh hãi rùng mình cúi đầu xuống xem thì thấy từ góc Tây Bắc có một dây lửa cháy đi tới. Chỉ trong khoảnh khắc dây lửa cháy đến trước mặt.
Lúc gần đến thì nhìn rõ không phải là dây lửa mà trong bụi cỏ có vật gì bò lại. Làn cỏ xanh gặp phải vật đó trở thành cỏ khô vàng úa trông xa như lửa cháy. Khí lạnh ở dưới chân gã mỗi lúc một lạnh buốt thêm. Gã lùi lại mấy bước thì thấy vết cỏ khô vàng đi dần dần về phía đỉnh ngọc. Con vật đó là một con tằm.
Con tằm này trắng như ngọc có ẩn hiện sắc xanh khác với con tằm thường. Nó lớn hơn con tằm thường nhiều và giống như con giun. Mình nó trong suốt như thủy tinh.
Con trăn khí thế hung hãn ngẩng đầu lên vừa thấy con tằm này thì tựa hồ như sợ lắm. Nó rút đầu lại để dấu dưới mình.
Con tằm trong suốt bò mau lạ thường qua mình con trăn chẳng khác nào cục than hồng. Nó bò đến đâu xương sống con trăn cháy thành tro đến đó. Lúc bò lên đến đầu, con trăn bị xẻ đôi tựa như một lưỡi dao rạch dọc.
Con tằm chui vào túi nọc độc bên mang con trăn để hút nọc một lát là hết ráo. Mình con tằm chướng lớn lên gấp đôi.
Ðứng xa trông chẳng khác một bình thủy tinh bên trong đựng một thứ nước xanh xanh.
A Tử vừa mừng vừa sợ khẽ nói:
- Con tằm này ghê gớm quá. Quả là ông vua trong các loại nọc độc.
Du Thản Chi trong lòng hồi hộp nghĩ thầm:
Giả tỷ con tằm này mà hút máu mình thì còn chi là tánh mạng.
Con tằm đi một vòng quanh cái đỉnh ngọc, bò qua bò lại, nó đi tới đâu thành chết đến đấy. Nhưng tựa hồ như nó biết rằng nếu chui vào trong đỉnh tất là phải chết nên chỉ quyện vòng ngoài mà thôi.
Nó quyện đi quyện lại một lúc thì bỏ đi về hướng Tây Bắc.
A Tử la lên:
- Ta phải rượt theo nó cho mau!
Nàng lấy tấm khăn đoạn ra bọc đỉnh lại rồi lên ngựa chạy theo con tằm.
Du Thản Chi lết thếch chạy theo A Tử.
Con tằm tuy nhỏ, mà nó chạy rất lẹ, cũng may là nó để vết đen lại mới biết đường mà đuổi theo, nếu không thì đã mất hút ngay từ lúc đầu.
Hai người chạy theo một mạch chừng ba bốn dặm bỗng nghe phía trước có tiếng nước chảy róc rách, thì ra đã đến bờ suối, và không thấy dấu vết đâu nữa.
A Tử nhìn sang bờ suối bên kia, cũng không thấy vết con tằm bò lên, dĩ nhiên là nó lặn xuống suối rồi. Nàng bực mình dặm chân oán trách Du Thản Chi:
- Mi phải tìm kiếm kì được bắt nó đem về cho ta, không thì đừng vác mặt về ra mắt ta nữa.
Nói xong nàng xoay mình nhảy tót lên ngựa về thành Du Thản Chi rất đỗi hoang mang, đành theo dọc bờ suối đi về phía hạ lưu để tìm. Gã đi đến bảy tám dặm đường.
Lúc trời đã hoàng hôn, đột nhiên gã thấy giữa đám bụi rậm bờ bên kia có một vệt đen thì mừng rỡ vô cùng, gọi ầm lên:
- Cô nương! Cô nương! Tiểu nhân kiếm thấy nó rồi!
Nhưng A Tử đi xa từ lâu rồi.
Du Thản chi lội xuống suối qua bờ bên kia, cứ theo vệt đen mà đi. Vệt đen này theo sườn núi đến khu thung lũng trước mắt.
Du Thản chi trong lòng phấn khởi nên chạy rất nhanh. Gã ngẩng mặt nhìn lên đầu núi có một ngôi chùa, cách kiến trúc cực kì hùng vĩ.
Du Thản chi ngẩng đầu lên trông, trước cổng chùa có tấm biển đề năm chữ lớn "sắc kiến Mẫn Trung Tự" Gã chẳng còn lòng nào mà ngắm phong cảnh miếu điện, chỉ lủi thủi theo vệt đen bên sườn núi mà đi quanh co mấy chỗ ở phía sau.
Bỗng trong chùa có tiếng chuông, tiếng khánh, tiếng mõ và tiếng tụng kinh. Chư tăng đang bận khóa lễ, thanh âm nhộn nhịp dường như khá đông người.
Du Thản Chi từ khi trên đầu chụp lồng sắt, đã tự thẹn với hình thù kì dị của mình, không dám xuất hiện trước mặt mọi người. Gã sợ chư tăng trông thấy, liền men theo chân tường lầm lũi mà đi. Gã thấy vệt đen đi qua một khu bùn lầy rộng lớn rồi ra đến khu vườn rau.
Du Thản Chi mừng thầm chắc trong vườn không có người, gã chỉ cần con tằm đang ăn rau tại đó, thì bắt được ngay. Gã rảo bước đi về phía vườn rau.
Ðến chân dậu lập tức dừng bước, vì nghe trong vườn có tiếng người đang mắng nhiếc.
Gã nghe rõ:
- Mi không giữ kỉ luật, một mình bỏ đi rong chơi khiến cho lão sợ hết hồn nửa ngày trời chỉ lo mi đi rồi mất biền biệt không về nữa. Lão đem mi từ đỉnh núi Côn Luân đường xa muôn dặm tới đây, mà mi chẳng biết cái công trình khổ nhọc của lão đối với mi. Mi như vậy là mi tự hại bước tiến trình của mi đó, không còn ai thương mi nữa.
Nghe giọng người này ra chiều căm hận nhưng vẫn đầy vẻ thương yêu và kì vọng rất nhiều, chẳng khác gì lời cha mẹ dạy một đứa con bướng bỉnh hư đốn.
Du Thản Chi lẩm bẩm:
- Lão nói cái gì đem từ núi Côn Luân, đường xa muôn dặm tới đây xem chừng như lão là sư phụ hay là bộc tiền bối người nào đó, chứ không phải là phụ thân.
Du Thản Chi vừa nghĩ, vừa nép mình vào bên dậu để ngó trộm thì thấy lão đó là một vị hòa thượng.
Nhà sư này thấp lủn thủn mà béo chùn béo chụt, người tròn ủng như trái bóng. Chính ra đã là người tu hành tất nhiên đầu trọc, nhưng đặc biệt nhà sư vẫn để tóc dài, tay chân mặt mũi cũng đầy lông lá. Nhưng quần áo nhà sư mặc trên người rất là sạch sẽ, thật là chẳng nhuốm bụi trần.
Bỗng nhà sư trỏ tay xuống đất, vẻ mặt căm tức mắng nhiếc không ngớt miệng.
Du Thản chi nhìn theo tay nhà sư chỉ thì vừa kinh dị vừa mừng thầm.
Té ra nhà sư kia nào phải đang trách mắng ai đâu, mà chính đang thống mạ con tằm kì dị.
Tưởng nhà sư lùn cổ quái nhất là lão cất tiếng mắng nhiếc con tằm thì lại là một điều không thể tưởng tượng nổi.
Du Thản Chi thấy ở dưới đất con tằm đang chạy tới chạy lui dường như muốn tìm đường chạy thoát, nhưng tựa hồ như nó đụng đầu vào bức tường vô hình và lập tức rụt lại chuyển hướng.
Du Thản Chi chú ý nhìn thấy dưới đất có vạch một vòng tròn sắc vàng.
Con tằm tả xung hữu đột mà thủy chung không sao vượt khỏi cái vòng.
Bấy giờ gã mới tỉnh ngộ, lẩm bẩm một mình:
- À phải rồi! Nhà sư đã dùng một thứ thuốc để vẽ vòng tròn kia mà thuốc này lại kị với con tằm đó, khác nào rắn sợ hồng hoàng.
Nhà sư lùn nhiếc mắng một hồi rồi lấy trong bọc ra một vật gì cắn ăn ngấu nghiến, nhìn kĩ thì thấy cái đầu dê nướng chín rồi. Lão ăn một cách ngon lành. Lão móc trên đầu cột một bầu cũ kĩ và rách nhiều chỗ, mở nút ra, rồi ngửa cổ dốc bình vào miệng nuốt ừng ực một hồi.
Du Thản Chi ngửi thấy mùi thơm biết ngay bầu này đựng rượu ngon.
Gã lẩm bẩm:
- Té ra nhà sư này uống rượu ăn thịt. Xem chừng lão nuôi con tằm này và quý báu vô cùng! Mình biết làm thế nào để lấy cắp đây?
Du Thản Chi còn đang ngẫm nghĩ, chợt góc vườn bên kia có tiếng người gọi:
- Tam Tĩnh! Tam Tĩnh!
Nhà sư lùn nghe thấy giật mình hoảng hốt giấu vội cái đầu dê cùng bầu rượu vào đống rơm. Bên ngoài tiếng người kia lại gọi dồn:
- Tam Tĩnh! Tam Tĩnh! Ngươi ẩn vào đâu mà kín thế? Sao không lên cúng phật?
Nhà sư lùn vội nhắc cái cuốc chạy ra luống rau vừa cuốc vừa nói:
- Tôi còn xới rau mà! Phương trượng bảo phải ráng sức trồng rau, có được rảnh đâu mà cúng Phật?
Người kia đi lại gần.
Du Thản Chi ngó trộm thấy một nhà sư đứng tuổi vẻ mặt nghiêm trang tựa hồ như bao phủ một làn sương mờ lạnh lùng nói:
- Một ngày hai khóa cúng: sáng và chiều, ai cũng phải đông đủ. Ngươi lên dự khóa cúng xong rồi xuống xới rau.
Nhà sư thấp lùn pháp danh là Tam Tĩnh nói:
- Vâng.
Rồi bỏ cuốc theo nhà sư đứng tuổi đi ngay. Lão không dám ngoái đầu nhìn lại con tằm, tựa hồ như sợ nhà sư đứng tuổi kia phát giác.
Du Thản Chi chờ cho hai người kia đi ra rồi lắng tay nghe bốn bề vẳng lặng như tờ, gã lẩm bẩm:
- Trên chùa đang khóa cúng Phật, các nhà sư đều trên Tam Bảo, mình không đánh cắp con tằm thì biết đợi đến khi nào?
Gã liền từ chân giậu chui ra, thấy con tằm vẫn chạy lăng xăng không ngớt, bụng bảo dạ:
- Làm thế nào bắt được nó bây giờ?
Gã ngây người ra một lúc ngẫm nghĩ cách bắt con tằm, rồi chạy lại đống rơm, móc cái bầu ra, giơ lên lắc lắc, Gã thấy hãy còn đến nửa bầu rượu, gã uống liền mấy hơi, còn thừa dổ xuống vườn rau, gã từ từ để miệng bầu quay vào phía trong vòng tròn vẽ dưới đất.
Con tằm bò một lát đến miệng bầu quả nhiên chui lọt vào trong.
Du Thản Chi cả mừng bịt nút miệng bầu lại hai tay bưng bầu chui qua dậu ba chân bốn cẳng theo đường cũ chạy về.
Du Thản chi ra khỏi chùa Mẫn Trung mới được vài chục trượng thì cái bầu tiết ra khí lạnh tê người chẳng khác gì cầm một tảng băng.
Gã hết đổi bầu từ tay phải sang tay trái, rồi lại từ tay trái sang tay phải. Nhưng cái bầu lạnh thấu xương không thể nào cầm được.
Du Thản Chi để lên đầu đội thì càng lại không xong vì khí lạnh truyền qua cái lồng sắt thấu vào óc buốt không chịu nổi các mạch máu trong cơ thể hồ như đông lại không lưu thông được.
Du Thản Chi gặp tình trạng cấp bách nghĩ ra được một kế .
Gã cởi dây lưng ra buộc vào cổ bình rồi xách đi. Dây lưng không truyền khí lạnh mới cầm đi nhanh được. Hơi lạnh trong bầu chỉ tiết ra trong khoảnh khắc phía ngoài bầu một tầng sương lạnh đóng váng.
Du Thản Chi rảo nhanh về đến ngoại thành Nam Kinh thì trời đã khuya. Cổng thành đã đóng rồi gã đành phải ngủ ngoài một đêm.
Sáng sớm hôm sau gã mới vào cung Ðoan Phúc, trình A Tử là đã bắt được con tằm mang về.
A Tử nghe nói cả mừng, bỏ tằm vào trong lọ sành để nuôi.
Hồi đó đã sang tháng năm vào tiết đầu hạ khí trời ấm áp. Thế mà nuôi một con tằm bên trong điện phủ, khí lạnh trong điện mỗi lúc một lân cao chẳng mấy chốc mà bình trà chén nước đều đóng băng.
Ðêm hôm ấy Du Thản Chi ngủ tại đó, rét run lên bần bật suốt đêm không sao ngủ được.
Gã nghĩ lẩn thẩn: "Con tằm này thật là kì dị thiên hạ hiếm có. Giả tỷ cô nương cho nó hút máu mình dù chẳng bị nọc độc làm cho uổng mạng thì cũng chết cóng."
A Tử thấy con tằm phát ra khí lạnh kì dị thì biết con vật hạn hữu. Nàng tiếp tục đi bắt những rắn độc, trùng độc đem về cho đấu với con tằm. Con tằm chỉ quanh một vòng đi đủ làm cho con vật kia lạnh cóng rồi nó hút lấy chất nước trong mình con vật bị chết.
A Tử thử luôn mười mấy ngày như vậy, không còn giống trùng nào có thể chống cự được với con tằm nữa.
Một hôm A tử vào Thiên điện bảo Du Thản Chi:
- Bữa nay ta giết con tằm bóng rọng (trong suốt) kia. Mi thò tay vào trong lọ để cho nó hút máu!
Du Thản chi mấy hôm nay ban ngày lo sốt vó, ban đêm nằm mơ thấy toàn chuyện hãi hùng. Bây giờ gã thấy nàng chẳng chút rộng tình bắt mình phải hy sinh cho con tằm. Trong lòng gã siết nỗi thê lương! Cặp mắt đăm đăm nhìn A Tử nhưng gã không nói gì cũng không nhúc nhích.
A Tử ngồi xếp bằng tĩnh tâm vận nội công, hí hửng mừng thầm bụng bảo dạ:
- Ngẫu nhiên ta được vật dị bảo này về luyện Hoa Công Ðại Pháp. Sự thành tựu của ta biết đâu chẳng lợi hại hơn sư phụ ta?
Nàng giục Du Thản Chi:
- Mi thò tay vào trong lọ đi!
Du Thản Chi nước mắt tuôn rơi, quỳ xuống lạy A Tử nói:
- Cô nương ơi! Khi cô nương luyện xong độc chưởng thần công rồi, đừng quên kẻ tiểu nhân này đã chết vì cô nương. Tiểu nhân họ Du tên Thản Chi, chứ không phải là Thiết Sửu, Ðồng Sửu gì ráo!
A Tử tủm tỉm cười nói:
- Ðược rồi ngươi tên Du Thản Chi! Ta nhớ kĩ lắm! Mi đối với ta một dạ trung thành, ta coi ngươi là một đứa nô bộc trung nghĩa.
Du Thản Chi nghe A Tử khen mình gã, gã cảm thấy cõi thấy cõi lòng được an ủi rất nhiều trước khi nhắm mắt, gã dập đầu lạy hai lạy rồi nói:
- Ða tạ cô nương!
Nhưng ai mà chả có lòng ham sống sợ chết.
Du Thản Chi không muốn bó tay chịu chết gã nghĩ đến bữa trước bị rắn rết cắn, nhờ phép vận công của nhà sư trong đồ hình mà thoát chết, bữa nay gã lại đem cách đó ra thử.
Gã đứng vững hai chân, cuối mình luồn đầu qua hai chân rồi thò tay phải vào trong lọ, đồng thời tâm niệm một sợi chỉ vàng xâu trong người nhà sư vẽ trên hình đồ.
Ðột nhiên ngón trỏ thấy hơi ngứa ngáy, một luồn khí lạnh chui vào trong tâm.
Gã đã chuẩn bị từ trước, tâm tâm niệm niệm vào đường chỉ vàng, quả nhiên thấy luồng khí lạnh đi theo mạch lạc hẳn hòi, đúng như luồng sợi chỉ vàng mà hắn đang để tâm suy nghĩ. Luồng khí lạnh từ trong tâm ra ngón tay rồi lại về cánh tay... Sau cùng chuyền lên đỉnh đầu...
Luồng khí lạnh này nhỏ xíu nhưng lạnh vô cùng, Du Thản Chi phải nhẫn nại lắm mới chịu nổi!
A Tử thấy kiểu cách của Du Thản Chi vừa lấy làm lạ vừa buồn cười, nàng động tính hiếu kì lại gần coi thì thấy con tằm kia đang cắn chặt đầu ngón tay trỏ Du Thản chi. Mình con tằm trong suốt như thủy tinh, nàng trông thấy rõ một dây máu do miệng tằm hút vào, chạy qua mé tả, sang mé hữu, đưa ra miệng rồi trở về người Du Thản chi.
Từ đầu sắt cho đến quần áo cùng chân tay gã đều bao phủ một màn sương bạc.
A Tử lẩm bẩm gã này chết rồi! Trong mình người sống có một luồng nhiệt khi phát ra thì khi nào sương đóng thàng băng thì được.
Nàng lại thấy trong mình con tằm vẫn có máu chuyển động rõ ràng đó là chưa hút hết sức. Nàng định chờ cho nó no lăn rồi mới đập chết lấy huyết luyện công. Nàng để hết tâm trí chăm chú theo dõi cuộc diễn biến.
Ðột nhiên trên mình con tằm có một luồng nhiệt khí toát ra.
A Tử còn đang kinh hãi bỗng nghe"tạch"một tiếng, con tằm từ ngón tay Du Thản Chi rớt xuống.
Trong tay A Tử đã cầm sẵn một cây côn gỗ, liền đập xuống.
Con tằm này bản tính rất linh mẫn, chính ra khó lòng đánh trúng nó. Dè đâu nó rơi xuống đáy lọ rồi ngửa bụng lên, cựa quậy một lúc mà không sao trở mình lên được nên cây côn của A Tử vừa đánh xuống con vật đã nát nhừ.
A Tử cả mừng, A Tử vội mừng vội thò tay vào lọ lấy nước trấp dịch trong mình con tằm xoa vào hai bàn tay, rồi nhắm mắt vận công cho huyết dịch thấm vào tay. Nàng biết rằng con tằm này là vật chi bảo không phải một lúc mà tìm được ngay, nên nàng lấy nước đó sát hết lần này đến lần khác để luyện công, kì cho đến lúc khô kiệt mới thôi.
A Tử vất vả nửa ngày trời, bây giờ nàng mới duỗi chân đứng dậy vãn thấy Du Thản Chi đứng kiểu đó, và khắp người chỗ nào cũng phủ một làn sương đóng lại trắng xóa. Nàng lấy làm kinh dị, đưa tay sờ vào người gã thì thấy giá buốt vô cùng, phải co lại ngay. Quần áo gã cũng đều đóng băng cứng nhắc.
A Tử chẳng hiểu ra sao, ngơ ngác đứng nhìn gã hồi lâu mới bỏ đi.
Hôm sau A Tử đến thiên điện xem thấy Du Thản Chi vẫn đứng nguyên như cũ, băng giá đóng lạitrên người gã dày thêm một lớp nữa.
Nàng vừa kinh hãi vừa buồn cười cho gọi Thất Lý đến, sai y đem xác Du Thản Chi đem chôn.
Thất Lý dẫn mấy tên quân Khất Ðan khiêng xác Du Thản Chi bỏ vào xe ngựa.
A Tử dặn Thất Lý chôn cất cẩn thận. Nhưng gã Thất Lý chẳng buồn cất công đào lỗ chôn táng, ném xác Du Thản Chi xuống khe nước rồi trở về thành.
Không ngờ cái tính lười nhác của Thất Lý lại cứu được mạng sống của Du Thản Chi.
Nguyên ngón tay gã bị con tằm cắn, đáng lí ra phải dùng phép vận công trong Dịch cân kinh để giải độc.
Pho dịch cân kinh do thủ bút của Ðạt ma lão tổ để lại. Trong kinh này truyền cho những người có nội công tối cao theo phép mà làm.
Du Thản Chi sau khi bị con tằm hút máu, máu lại nhập về ngón tay vào huyết quản, đồng thời đem những tinh hoa của con vật độc nhất thiên hạ là con tằm giá lạnh kia đưa vào thân thể. Giả tỷ gã đã luyện hết toàn bộ pháp quyết trong Dịch Cân Kinh thì gã có thể đẩy chất độc ra ngoài. Nhưng gã chỉ nhìn theo tranh vẽ rồi theo phép hàng công, chất độc vào rồi không biết cách trụt ra chứa chất độc con tằm vào trong người.
Chất kịch độc này thuộc loại âm hàn, thêm vào đó những chất độc khác của con rết, nhện, rắn... đã chứa sẵn trong người gã.
Mấy chất độc chồng chất lên làm cho gã chết cứng.
Giả tỷ, Thất Lý đem xác gã chôn xuống đất thì mấy trăm năm sau xác lão vẫn cứng đơ, chưa chắc đã tiêu hóa được. Ðằng này xác gã hất xuống suối, từ từ chảy xuôi, chảy được chừng hai mươi dặm thì dòng nước đến chỗ quanh co và chật hẹp xác gã bị vướng đám lau sậy. Chẳng bao lâu nước quanh chỗ gã đóng lại thành băng trông tựa hồ xác gã đã đưa vào quan tài bằng thủy tinh.
Nước suối tiếp tục cọ sát không ngớt, làm cho khí lạnh trong người Du Thản Chi giảm xuống dần dần rồi sau cùng khối băng quanh người lão từ từ tan ra.
May mà đầu gã chụp lồng sắt, chất sắt mau nóng mà cũng mau lạnh. Vì thế nước bọc trong ngoài lồng sắt tan trước.
Du Thản Chi bị nước tràn vào miệng ho một lúc, đầu óc tỉnh táo lại. Gã từ lòng suối bò lên, toàn thân còn lại những mảnh băng chạm vào nhau lách cách.
Gã mơ màng như người đang nằm mộng tỉnh giấc.
Lúc người bắt đầu lạnh cứng, không phải gã chết tri giác. Có điều bị băng đóng chặt chung quanh không sao nhúc nhích được.
Du Thản Chi ngồi bờ suối nhớ lại, mình đối với A Tử hết dạ trung thành, nguyện đem thân nuôi trùng độc cho nàng luyện công. Thế mà mình chết rồi. A Tử tuyệt không một tiếng thở dài.
Gã bị băng đóng chung quanh người trông ra rất rõ. Gã thấy A Tử hớn hở tươi cười lấy huyết con tằm ra đổ trên bàn tay luyện công. Gã nhìn thấy A Tử ngoẹo cổ, nhìn xác mình, dường như cái chết của mình khiến nàng thú vị tuyệt không có chút gì là thương tiếc mình.
Gã tự nhủ: "con tằm kia đủ chất độc, nó đánh ngã bao nhiêu loại trùng độckhác. Cô nương lấy huyết dịch nó luyện vào bàn tay chắc là môn độc chưởng luyện xong rồi. Nếu mình về xem nàng...
Ðột nhiên người gã run bắn lên, gã lẩm bẩm:
- Cô nương mà thấy mặt mình, chắc đem mình ra thử độc chưởng, nếu độc chưởng luyện xong thì chỉ một chưởng thì mình toi mạng. Nếu chưa thành thì nàng bắt mình đi bắt trùng độc cho đến khi nào luyện xong độc chưởng, rồi bấy giờ lại thử chưởng thì mình cũng hết sống. Ðằng nào cũng chết, mình trở về đó làm cóc gì.
Gã đứng dậy nhảy lên mấy bước cho những hòn băng còn đọng ttrên người hay trong quần áo rơi hết ra rồi tự hỏi:
- Ta biết đi đâu bây giờ?
Còn đang phân vân bỗng nghe tiếng cười khanh khách như tiếng nhạc vàng thuận theo chiều gió đưa lại rồi thanh âm một thiếu nữ thỏ thẻ nó:
- Tỉ phu ơi! Lâu nay tỉ phu không đi chơi với tiểu Muội, bây giờ du ngoạn lâu thêm một chút không được sao?
Giọng nói trong trẻo ỏn thót này có lẫn cả phần cám dỗ không phải A Tử thì còn ai vào đây? Du Thản Chi cả kinh nghĩ:
- Làm sao cô nương ấy đến được đây? Dường như nàng đi với Kiều Ðại vương?
Tiếp theo là tiếng vó ngựa dồn dập, hai con ngựa từ đàng xa phóng tới. Du Thản Chi nhìn bốn phía không thấy chỗ nào ẩn lánh được, gã đành co rúm người lại, nằm phục đám cỏ rậm sau gốc cây, gã vừa cử động một cái thì Kiều Phong trông thấy ngọc cỏ phất phơ đằng xa, liền nói:
- A Tử trong đám cỏ rậm sau cây kia có con dã thú, chưa hiểu là chó sói hay hươu nai.
A Tử cười nói:
- Mắt tỉ phu tinh thật! Còn ở xa thế mà đã trông rõ.
Nói xong phóng ngựa lại gần, vẫn còn e con thú chạy trốn mất, khi hai người cách bụi cỏ vừa tầm mũi tên, bỗng nghe: "vèo" một mũi tên bắn ra, Du Thản Chi không dám nhúc nhích, đành gửi tính mạng cho số trời, may mà Kiều Phong cùng A Tử không trông thấy rõ, mũi tên say xít qua đầu, cắm vào gốc cây. Giả tỉ tên trúng vào lồng sắt thì dù gã không đến nỗi bị thương nhưng tên chạm vào bật ra tiếng vang, tất Du Thản Chi bị lộ tung tích.
Lại khéo làm sao trong đám cỏ này có hai con thỏ rừng.
Phát tên A Tử bắn tới, chúng kinh hãi phải chạy ra bon bon chạy trốn về phía trước.
A Tử cười nói:
- Chà chà! Phen này tỉ phu trông sai rồi! Chỉ có hai con thỏ làm gì có chó sói, với hươu nai?
Nói xong giục ngựa tiến lên. Véo véo!
Hai mũi tên bay ra, cặp thỏ trúng tên ngã quay.
A Tử ngồi trên ngựa nhặt lấy hai con thỏ thì bất thình lình bên kia bờ suối có tiếng người hỏi:
- Tiểu cô nương! Cô nương có thấy con hàn độc trùng của tôi đâu không?
A Tử ngẩn đầu lên thì thấy người gọi mình là một nhà sư hình dong cổ quái.
Nhà sư này thấp lủn thủn mà béo chùn béo chụt, người tròn ủng chẳng khác nào một quả bóng khổng lồ.
Du Thản Chi nấp trong đám cỏ rậm cũng trông rõ thì đúng là Tam Tĩnh hòa thượng ở sau vườn rau chùa Mẫn Trung. Con tằm kia được nhà sư này nuôi. Y gọi là Hán Ngọc trùng thì đúng là tên thực của con tằm.
Gã lẩm bẩm:
- Con tằm đó đã bị cô nương đập chết rồi. Nhà sư này hỏi lại đúng cô ta!
Bỗng thấy A Tử ngẩn người ra rồi cười khanh khách nằm phục xuống lưng ngựa không ngẩng lên nữa.
Tam Tĩnh nổi giận nói:
- Ta có con tằm trắng, hễ nó đi đến đâu là cây cỏ cháy đến đó. Mi có trông thấy không? Cớ sao lại cười?
A Tử nhìn Kiều Phong nói:
- Tỉ phu coi kìa! Quả bóng khổng lồ tròn ủng kia có đáng buồn cười không?
Kiều Phong nghiêm mặt nói:
- Tuồng con nít nói năng chẳng biết điều kính trọng, không được vô lễ với đại sư phụ.
Ông thấy Tam Tĩnh tướng mạo kì dị, tiếng nói sang sảng như tiếng chuông đồng, rõ ràng là một tay bản lãnh cao cường, lại nghe nhà sư đi tìm con Hàn Ngọc trùng chi chi thì biết ngay là không phải vật tầm thường.
A Tử nói:
- Ðại hòa thượng ơi! Hòa thượng nuôi con tằm đó ư?
Tam Tĩnh vội nói:
- Phải rồi! Phải rồi! Tôi đem nó từ núi Côn Luân đường xa muôn dặm tới đây. Cô nương đã nhìn thấy nó, xin làm ơn trỏ đường cho.
A Tử nói:
- Con tằm đó đi qua đâu thì có một vệt đen kéo theo phải không? Mình nó lạnh vô cùng nên bất luận cái gì xung quanh đều đóng lại thành băng, có đúng không?
Tam Tĩnh nói:
- Ðúng rồi! Ðúng rồi! Không sai một li nào hết.
A Tử cười nói:
- Hôm qua tôi thấy con tằm đó đánh nhau với con rết, và bị rết cắn chết rồi.
Tam Tĩnh tức giận nói:
- Thúi lắm quân chó đẻ! Con Hàn ngọc Trùng của ta là vua độc trong thiên hạ. Bất luận rắn độc hay trùng độc nào thấy nó cũng đều sỡ hãi không dám nhúc nhích, có lí đâu bị rắn cắn được?
A Tử thấy lão nói thô tục thì càng chọc tức thêm:
- Thầy chùa không tin thà thôi. Hôm qua tôi cũng thấy một con tằm lớn trong suốt như thủy tinh, thấy hình dạng cổ quái nên giẫm chết rồi! Tam Tĩnh nhảy chồm lên một cái đã xa hơn trượng trông chẳng khác chi quả bóng bật lên trên không.
Lão cất tiếng chửi:
- Tổ mẹ mười tám đời nhà ngươi! Con Hán Trùng Ngọc của ta linh hoạt như gió, nếu mi không có thuốc kị thì làm sao chế phục được nó. Mi chưa dẫm vào nó thì nó đã cắn ngươi toi mạng rồi.
A Tử thò tay vào bọc, lấy ra gói nhỏ. Nàng mở gói ra thì đúng là xác con tằm kì dị đó. Con tằm này bị côn gỗ đập chế huyết dịch phọt ra còn đọng đóng lại thành băng cứng đờ.
Nguyên A Tử biết xác con tằm này chắc còn có chỗ dùng được việc, nên gói lại đem theo.
Tam Tĩnh thấy con tằm quí của mình quả nhiên đã chết rồi. Sắc mặt lão nhợt nhạt như xác chết trôi. Người lảo đảo, đột nhiên lão nằm phục xuống đất khóc rống lên một hồi rồi bất thình lình đưa tay ra cướp lấy xác con tằm ôm vào lòng vừa khóc vừa nói:
- Con ơi! Ta trăm cay nghìn đắng đưa con từ núi Côn Luân đến đây. Con không nghe lời ta, một mình đi du ngoạn để con tiện tì kia dẫm chết!
Lão càng khóc càng thê thảm, sau nghẹn ngào khóc không ra tiếng nữa.
A Tử vỗ tay cả nói:
- Hay quá! Hay quá!
Kiều Phong là người hiểu rộng biết nhiều, ông chắc chắn nhà sư không để yên ông cầm cương ngựa toan đứng chắn trước người A Tử để hộ vệ cho nàng rồi hãy kiếm lời từ tạ nhà sư.
Nào ngờ Tam Tĩnh đại sư chưa dứt tiếng khóc đã nhảy vọt lên như quả bóng nhằm lao xuống A Tử.
Nhà sư nhảy cực kì mau lẹ, như Kiều Phong ngồi trên ngựa chưa chạy được đến A Tử thì lão đã nhảy bổ tới nơi.
Kiều Phong nghe tiếng gió cấp bách, vội la lên:
- Chớ đánh chết người!
Tay trái ông nắm lấy sau lưng A Tử nhấc bổng nàng lên ngồi trước mình.
Bỗng nghe tiếng binh một cái." Trái bóng thịt"Tam Tĩnh đụng vào con ngựa của A Tử. Con ngựa bị hất ra xa ngã kềnh xuống đất chết ngay lập tức.
A Tử sợ tái mặt không ngờ lão hòa thượng hình thù cổ quái mà uy mãnh đến thế.
Tam Tĩnh đụng vào làm chết con ngựa của A Tử rồi người bật lên như cái lò xo xoay sang A Tử.
Kiều Phong hích vào hai bên vế đùi cho ngựa nhảy tung lên để tránh nhưng Tam Tĩnh vọt lại quá nhanh mà ngựa nhảy chậm hơn.
Kiều Phong xem chừng nguy hiểm đến nơi.
Nhà sư chồm tới uy lực dũng mãnh ghê gớm. Nếu muốn chống lại phải phóng chưởng ra. Song ông lại nghĩ Rõ ràng A Tử có lỗi đạp chết con tằm quý của người ta. Bên mình đuối lí, chẳng lẽ cậy mạnh hiếp người.
Ông liền tay trái ôm lấy A Tử phi thân nhảy ra ngoài yên ngựa một quãng xa chừng hai trượng." Binh"một cái Tam Tĩnh đã nhảy xổ xuống con ngựa Kiều Phong.
Lần này lảo nhảy mạnh hơn, con ngựa bật văng đi đúng vào cây xuyên qua bụng, ruột gan cùng máu tươi chảy ra lênh láng.
Tam Tĩnh thản nhiên nhằm Kiều Phong cùng A Tử xông tới.
Kiều Phong rất lấy làm kinh dị, ông lẩm bẩm:
Thế võ của nhà sư đem thân mình để choảng và người quả là ít thấy. Nhưng lão cứ dùng tấm thân bằng da bằng thịt để nhảy xổ vào, gặp người cầm khí giới há chẳng uổng mạng?
Ông thấy nhà sư vẫn tiếp tục nhảy xổ vào mình.
Lần này ông không tránh nữa cất tiếng nói:
- Xin hòa thượng đừng bức bách tôi nữa, để tôi có lời nói lại với hòa thượng.
Tam Tĩnh chỉ cách ông không quá ba thước. Nhà sư nghe ông nói câu này đột ngột tung mình lên trên ba trượng xoay lốc ba vòng.
Kiều Phong ôm lấy A Tử lùi sau hai bước.
Tam Tĩnh lẹ làng hạ mình xuống. Vai lão vừa chạm đất, lập tức lão trào mình tiến đến chân Kiều Phong la lớn:
- Trả con tằm ta đây! Trả con tằm ta đây!
Thân pháp này so với địa đường quyền thường thấy trong các phái võ thật khác xa. hai chân lão co lên như quả bóng khổng lồ lă tròng trọc đến nơi.
Kiều Phong nghĩ thầm:
- Nhà sư này thật là kì cục. Ðánh nhau với người mà dùng thế này sao được. Ông nhảy sang bên hai bước. Vừa nhảy vừa liếc mắt xuống thấy phấn vàng rơi rụng đầy mặt đất.
Ông là người linh cơ mau lẹ, tuy chưa biết thứ phấn vàng này có điều chi lạ, nhưng rõ ràng không phải có từ trước, mà đúng là nhà sư trong lúc cử động tay chân đã rắc ra. Nếu mình dẫm vào e mắc bẫy. Ông quát ra một tiếng phóng chân đá ra, người nhảy vọt lên ôm A Tử nhảy theo, không chịu dẫm chân xuống phấn vàng.
Nguyên thứ phấn này là thứ phấn độc của Tam Tĩnh rắc ra. Nếu Kiều Phong dẫm phải, phấn bay tung lên thì ông cùng A Tử sẽ hít phải và lập tức toàn thân nhũn ra rồi để cho kẻ địch muốn băm vằm thế nào cũng được.
Tam Tĩnh ghê cho Kiều Phong rất linh cơ, lão thấy ông sắp mắc vào bẫy, thế mà đang lúc nguy nan ông lại nhảy vọt lên tránh khỏi. Lão đã nhảy bật lên như cái lò so nhằm Kiều Phong bổ tới. Lão chắc mẫm dù võ công Kiều Phong cao cường đến đâu nhưng tay ẵm một người nhảy lên một lần rồi, hẳn không thể nhảy lên cái thứ hai. Chỉ cốt sao cho hai người ngã lăn ra là xong. Trong mồm miệng lão đã để thuốc độc sẵn, còn đối phương nhất địng trúng độc.
Kiều Phong thấy nhà sư lại nhảy tới không tránh được nữa liền khẽ đưa chân trái đập vào trái bóng thịt , để mượn đà nhảy ra chỗ khác.
Tam Tĩnh dùng hết sức bình sinh nhảy lại, mà Kiều Phong đã hất trở về. Lúc toàn thân lão bị đá hất lên, khác nào như gốc cây từ trên không rớt xuống, lão không tự chủ được duỗi hai chân ra. Chân rớt xuống đất đá "binh"một tiếng, chẳng khác nào đóng cọc xuống đất. Ðầu gối không co lại được, sức nặng toàn thân đè xuống cái ống chân nhỏ bé kêu rắc rắc, hai ống chân đã bị gãy rồi.
Kiều Phong đạp vào người nhà sư, bản ý chỉ cốt lấy đà nhảy ra chỗ khác tránh chất độc. Ông không ngờ đến cách luyện nội công kì dị của nhà sư này. Nội lực không ăn ý với kinh mạch. Thân thể lúc ở trên không, lại không thành ý định của người.
Kiều Phong thấy hòa thượng gãy hai chân trong lòng rất ân hận, ông nói với nhà sư:
- Ðại sư đừng có nhúc nhích. Nằm yên đấy chờ tôi gọi người đến đưa đại sư về quý tự. Ðại sư ở chùa nào?
Tam Tĩnh nhịn đau hồi lâu rồi mới nói:
- Cha mi khắp thiên hạ đâu chả là nhà? Việc gì mi phải hỏi cha mi trụ trì chùa nào? Ta gãy chân thì tự biết điều trị. Mi còn giả vờ nói đãi lòng làm chi?
Kiều Phong nói:
- Nếu đại sư đã tự chữa được lấy cho mình thì còn gì hay bằng! Tại hạ họ Kiều tên Phong, đại sư muốn báo thù thì đến Nam Kinh tìm tại hạ.
Ðoạn ông quay sang A Tử:
- Chúng ta về thôi!
A Tử cũng nhìn Tam Tĩnh thè đầu lưỡi ra, lấy ngón tay chỉ vào má mà nói:
- Tại hạ họ Ðoàn tên Tử, đại sư muốn báo thù thì đến thành Nam Kinh tìm tại hạ!
Nói xong cầm tay Kiều Phong dắt đi.
Du Thản Chi nấp trong bụi rậm, ngó trộm tấn kịch vừa rồi, trong lòng kinh hãi. Gã thấy A Tử đi khỏi tuy cũng hơi yên tâm nhưng bâng khuân ngơ ngẩn như người mất hồn. Nhất là gã thấy A Tử nắm tay Kiều Phong ra chiều thân thiết thì trong lòng càng uất hận buồn rầu.
Bỗng gã nghe Tam Tĩnh kêu:
- Nước! Nước! Ta khát nước quá!
Du Thản Chi nghĩ thầm: "Con tằm đó là do ta bắt cắp về cho cô nương làm lụy đến nhà sư này, nay y lại gãy chân, mình thật áy náy quá."
Gã nghe lời nhà sư đòi uống nước liền từ trong bụi chui ra nói:
- Ðại sư chờ một chút tôi lấy nước cho.
Tam Tĩnh quay lại coi thấy gã mặt sắt hình thù quái dị thì giật nảy mình lên hỏi:
- Mi là người hay là quỷ sứ?
Du Thản Chi nhăn nhó cười không trả lời, gã nói:
- Tôi đi lấy nước đây!
Gã chạy ra suối gần đấy, hai tay vốc nước từ từ để vào miệng nhà sư.
Nhà sư uống nước rồi nói:
- Chưa đủ, còn khát lắm!
Du Thản Chi nói:
- Ðược rồi!
Ðoạn lại vốc nước nữa cho đại sư uống.
Nhà sư hết khát rồi, gã nói:
- Ðại sư không đi được, từ đây về chùa Mẫn Trung cũng không bao xa, ta cõng đại sư đi!
Tam Tĩnh trố mắt nhìn Du Thản Chi xem cử động, còn thì gã đã chụp cái lồng sắt không trông thấy rõ chân tướng.
- Sao mi biết ta là hòa thượng chùa Mẫn trung?
Du Thản Chi chột dạ nghĩ thầm: "Hỏng bét! Mình thò đuôi ra mất rồi!" Gã đành hàm hồ nói:
- Gần đây chỉ có một chùa Mẫn Trung là ngôi chùa lớn. Tại hạ nghĩ đai sư ở chùa đó.
Tam Tĩnh nói:
- À! Thằng này thông minh đấy! Ta không cần mi cõng. Ở vườn sau chùa Mẫn Trung ta có cái bầu đựng rượu thuốc trị thương rất linh nghiệm. Ta phiền mi tới đó đem ra đây cho ta.
Du Thản Chi lấy làm kì hỏi:
- Trong vườn rau còn có cái bầu nữa ư? Thế cái bầu kia...
Ba tiếng "cái bầu kia" vừa ra khỏi miệng, gã biết mình dại rồi nên im bặt không nói sao nữa.
Tam Tĩnh cũng nói:
- Ủa! Ta hồ đồ mất rồi! Cái bầu ấy không thấy nữa. Ta nhờ mi cõng ta về vậy.
Du Thản Chi nói:
- Ðược!
Từ chổ bờ suối đã trông thấy mái chùa Mấn Trung, bất quá cũng chừng hơn một dặm, Du Thản Chi cúi xuống cõng nhà sư rồi cất bước.
Gã mới đi được bảy tám bước, bỗng thấy mười đầu ngón tay nhà sư cứng như sắt chạm vào cổ mình mỗi lúc một nghẹt thở.
Du Thản Chi cả kinh, gã cố hết sức hất Tam Tĩnh xuống đất.
Nào ngờ hai chân nhà sư quặp lấy lưng gã.
Lúc hất nhà sư ra thì thấy lưng mình đau đớn kịch liệt.
Bỗng nghe Tam Tĩnh hỏi: Cái bầu rượu ta có phải thằng lõi này đánh cắp không? Thằng giặc non! Mi đã lấy trộm uống lại ăn cắp luôn cả bầu rượu nữa nghĩa làm sao?
Du Thản Chi đang bị nhà sư nắm giữ, đành cãi liều:
- Không phải! Tôi không lấy bầu rượu của đại sư đâu.
Tam Tĩnh nói:
- Mi vừa nghe ta nói trong vườn rau còn cái bầu rượu đã tỏ ra sửng sốt. Mi có tật giật mình. Cái bầu của ta không phải mi lấy cắp thì ai vào đây?
Du Thản Chi không thấy nhà sư đề cập đến con tằm thì nghĩ bụng:
- Lấy cắp cái bầu thì chẳng chi quan hệ.
Hơn nữa cũng không còn cách nào cãi được, gã đáp:
- Thôi được rồi! Nếu tại hạ có ăn cắp cái bầu của nhà sư thì để tại hạ về lấy trả là xong.
Tam Tĩnh cười ha hả rồi đột nhiên khóc rống lên, nghẹn ngào hỏi:
- Thằng giặc con này! Lúc mi ăn cắp cái bầu rượu của ta ngươi có thấy đứa con quý báu của ta là "Hàn Ngọc Trùng" không?
Du Thản Chi đáp:
- Không thấy! Tại hạ chỉ thấy ở dưới đất có vẽ một vòng tròn chứ không thấy gì hết.
Tam Tĩnh nói:
- Hỡi ôi! Nó không giữ bổn phận bỏ trốn đi bị người ta đánh chết rồi! Thằng giặc này đi về phía Ðông?
Du Thản Chi hỏi:
- Sao lại đi về phía Ðông?
Nhà sư hai tay bóp chặt cổ gã nói:
- Ta bảo ngươi đi về phía Ðông thì ngươi đi về phía đó. Sao còn hỏi lôi thôi?
Du Thản Chi bị Tam Tĩnh bóp cổ đau quá đành đi về hướng Ðông.
Nhà sư này tuy thấp lùn nhưng béo chụt nên người y nặng quá, Du Thản Chi chỉ đi được vài dặm là thở hồng hộc, gã phều phào nói:
- Tại hạ mệt quá không đi được nữa rồi, ngồi nghĩ chút xíu đi.
Tam Tĩnh tức mình nói:
- Ta bảo ngươi nghĩ đâu mà ngươi dám nghĩ? Ði mau! Ði mau!
Nhà sư vừa nói vừa kẹp hai chân vào người, tựa như người thúc vế vào lưng ngựa.
Du Thản Chi bị nhà sư thôi thúc không làm thế nào được, đành miễn cưỡng bước đi.
Lại đi thêm năm sáu dặm nữa, gã cất chan không nổi, người gã té nhào về phía trước, miệng sùi bọt giãi hồng hộc.
Tam Tĩnh hét:
- Ði mau! Ði mau!
Y vừa giục vừa đánh Du Thản Chi.
Du Thản Chi nói:
- Ðại sư có đánh chết tôi cũng không đi nổi nữa.
Tam Tĩnh nói:
- Ngươi không đi ta sẽ giết mi.
Vừa dứt lời thì phía sau có tiếng người gọi:
- Tam Tĩnh! Ngươi to gan thật! Dám trốn ra đây! Phương trượng truyền pháp chỉ sai chúng ta đi bắt ngươi về.
Du Thản Chi quay đầu nhìn lại thì thấy phía sau, trên đường lớn có hai nhà sư mặc áo bào xám chạuy như bay đến.
Người đi trước chính là nhà sư lớn tuổi mà gã đã gặp trong vườn rau lúc trước.
Tam Tĩnh kêu vang:
- Sư huynh ơi! Hai chân tiểu đệ bị kẻ địch đánh gãy rồi bây giờ không thể nào nhúc nhích được. Chờ cho tiểu đệ chữa xong rồi sẽ về chùa chịu tội với phương trượng.
Nhà sư đứng tuổi quát lên:
- Có người cõng ngươi trốn đến đây, thì có người cõng ngươi về chùa. Trời ơi! Người ngợm gì... mà kì quái như vậy?
Nhà sư thấy Du Thản Chi đội lồng sắt, bất giác la lên những tiếng kinh ngạc.
Còn nhà sư kia ít tuổi hơn, nói:
- Bắt luôn cả tên tà ma quỷ quái này về chùa.
Tam Tĩnh nói:
- Nếu hai vị sư huynh bắt buộc phải đưa tiểu đệ về chùa thì tiểu đệ xin tuân mệnh.
Rồi lão quát Du Thản Chi:
- Thằng giặc con này! Cõng ta theo hai vị sư huynh.
Du Thản Chi nói:
- Tôi đi không nổi nữa rồi, cần nghĩ một lúc đã.
Tam Tĩnh nói:
- Không được! Chúng ta cần phải về chùa Mẫn Trung trước trời tối.
Nhà sư đứng tuổi cũng nói:
- Phải rồi! Mau lên! Còn nghĩ gì nữa?
Nói xong liền tiện tay nhặt lấy một cành cây bên đường quật vào vai Du Thản Chi.
Du Thản Chi đau quá nghĩ thầm:
- Sao những nhà tu hành lại nóng nảy thế mà không nghe lời nói thật?
Gã đành gượng gạo đứng dậy cõng Tam Tĩnh, chân ngang đá chân xiêu, đi về lối cũ.
Hai nhà sư đi sau Du Thản Chi để canh chừng, thấy ống chân Tam Tĩnh quả bị gãy rồi, hai bàn chân lủng lẳng đưa qua đưa lại, nên chẳng cần quan tâm đề phòng.
Ngờ đâu bốn người đi đến khe núi, Tam Tĩnh đột nhiên ấn tay trái vào lưng Du Thản Chi, người y nhảy tung lên, nhắm nhà sư đứng tuổi xô lại!
Nhà sư này quát mắng:
- Mi muốn chết đó chăng?
Nhà sư không kịp rút giới đao phóng chưởng ra đánh Tam Tĩnh cũng phóng chưỏng dánh trúng vào hậu tâm nhà sư kia.
Hai chưởng giao nhau nổi lên một tiếng vang ghê rợn.
Nhà sư trẻ tuổi lùi lại một bước dùng cả song quyền đánh vào trước mặt Tam Tĩnh.
Tam Tĩnh để cánh tay trái lên cánh tay nhà sư để mượn đà người y tung lên cao tay phải phóng chưởng đánh trúng đầu nhà sư đứng tuổi.
Tiếp theo Tam Tĩnh lộn mình một vòng đã về đến trên lưng Du Thản Chi.
Du Thản Chi thấy trên lưng bỗng nhiên nhẹ bổng, thì ra Tam Tĩnh phi thân ra ngoài cự địch. Gã toan chạy trốn, nhưng chưa kịp rời khỏi chỗ cũ thì Tam Tĩnh đã bay trở về. Tay trái y nắm lấy cổ gã.
Du Thản Chi nhìn ra thấy hai nhà sư kia đầu gối nhũn ra, từ từ ngồi phệt xuống mặt nhăn nhó ra chiều đau đớn vô cùng!
Gã vừa sợ hãi vừa ngạc nhiên tự hỏi:
- Tam Tĩnh hòa thượng đánh đòn gì mà ghê gớm thế? Y mới phóng ra một chưởng mà xem chừng đối phương bị thương rất nặng!
Bỗng nghe hai nhà sư mới đến miệng thở hộc lên mình co rúm lại mình giãy dụa mấy cái rồi chết liền.
Tam Tĩnh giơ tay phải ra trước mặt Du Thản Chi ra chiều đắc ý nói:
- Mi trông rõ rồi chứ!
Du Thản Chi ngó bàn tay y thấy một ngón tay giữa đeo nhẫn. Trên mặt nhẫn chìa ra một mũi kim châm nhỏ xíu. Ðầu mũi kim châm hãy còn dính máu tươi.
Gã nghĩ một lúc rồi tỉnh ngộ ra lẩm bẩm:
- Té ra trong tay y có giấu ngầm một mũi kim châm. Mũi kim này bôi thuốc kịch độc nên hai chưởng phóng ra đánh chết luôn hai người.
Tam Tĩnh giơ mũi kim châm vào lỗ mắt Du Thản Chi hăm dọa nói:
- Mi mà không nghe lời ta, ta sẽ cho mi ăn một mũi.
Nói xong đưa hai tay trái ra nắm lấy hai xác chết nhấc bổng lên rồi quăng xuống khe núi.
Y bảo Du Thản Chi:
- Ði về hướng Ðông.
Du Thản Chi không dám cãi lời gã nghĩ đến thủ đoạn độc ác của nhà sư hổ mang vừa giết hai nhà sư kia, gã không khỏi sởn gai rùng mình.
Một luồng khí lực không biết từ đâu nhập vào chân gã làm cho gã run lẩy bẩy, nhưng bước chân rất mau hết cả mệt nhọc trông về hướng Ðông mà đi.
Lúc đó trờ xẩm tối, Du Thản Chi nghĩ bụng:
- Hai chân thằng cha này chưa nối được, chờ cho hắn ngủ say rồi mình sẽ có cơ hội chạy thoát.
Nào ngờ lúc trời tối, Tam Tĩnh bắt Du Thàn Chi đi vào bụi cỏ rồi bắt nằm xuống, y co người lại như trái bóng thịt ngồi chồm chồm lên cái lồng sắt đầu Du Thản Chi.
Một lúc sau thấy Tam Tĩnh ngáy pho pho thì ra y đã ngủ say.
Du Thản Chi nghẹt thở muốn chết, nhưng biết rằng mình chỉ khẽ động đậy một chút là Tam Tĩnh dậy ngay và mình sẽ ăn đòn.
Du Thản Chi bị"trái bóng thịt" đè lên cổ khổ sở vô cùng.
Nguyên cái lồng sắt này chụp vào đầu gã lúc còn nóng hổi, nên da đầu, da mặt gã đã dính vào lồng, không có cách nào gỡ ra được.
Tam Tĩnh ngồi trên cái lồng sắt, chỉ khẽ động đậy một cái là Du Thản Chi đau đớn vô cùng.
Sáng sớm hôm sau Tam Tĩnh lại giục Du Thản Chi cõng mình ra đi.
Tam Tĩnh xem chừng chân mình bị gãy chấp nối rồi thì năm sáu chục ngày mới đi lại bình thường.
Du Thản Chi cũng biết thế gã nghĩ đến cơ cực này càng rùng mình lẩm bẩm:
- Nếu suốt ngày, suốt đêm trong hai tháng trời mà lưng mình phải chịu đựng trái bóng thịt. dư hai trăm cân đè lên thì chịu sao nổi?
Giữa giờ ngọ hôm ấy hai người đến một thị trấn liền vào tiệm nghĩ chân ăn uống.
Du Thản Chi thấy có người đánh một đàn lừa ngựa đi qua liền nói:
- Sư phụ thuê một con lừa cưỡi há chẳng hay hơn và đi mau hơn là ngồi trên lưng tôi?
Tam Tĩnh quát mắng:
- Mi nói năng gì thế? Cưỡi ngựa cưỡi lừa làm sao tiện bằng ngồi trên lưng người? Con ngựa có đưa ta vào giường được không? Có cõng ta đi Kiều được không?
Du Thản Chi ngẫm nghĩ lời lão nói quả đúng nên không nói năng gì nữa.
Tam Tĩnh muốn gã có sức lực đi nhanh hơn, liền mua bánh cho gã ăn thật no.
Chiều hôm ấy đi về hướng Nam.
-
Hồi 52 - Vu Oan Giá Họa Cho Người - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 52 - Vu Oan Giá Họa Cho Người
Chiều hôm ấy đi rẽ về hướng Nam.
Trong khi đi đường, Tam Tĩnh thốt nhiên nói đến giáo lý nhà Phật, y bảo:
- Trời đất sinh ra muôn vật. Sang, hèn, họa, phúc đều do kiếp trước mà ra. Một người hai đời gây nên nghiệp chướng thì kiếp này phải hóa làm trâu ngựa để cho người cưỡi. Tỉ như Du Thản Chi dù chưa hóa làm trâu ngựa, nhưng cũng phải làm nô lệ cho người. Ðó cũng là kiếp trước nặng nợ, nên kiếp này phải trả. Nếu kiếp này có tích nhiều âm đức thì kiếp sau mới được hưởng phúc.
Du Thản Chi nghe y nói vậy nửa tin nửa ngờ, rồi gã tự hỏi:
- Thằng cha này vừa ra tay đã giết hai nhà sư, tàn nhẫn đến thế là cùng. Trong đời mi chắc đã giết bao nhiêu người nữa. Vậy mà mi còn dám mở miệng nói đến tích đức tu nhơn ư?
Nhưng gã đang bị trong vòng kiềm tỏa của Tam Tĩnh, nên trong bụng nghĩ như vậy mà không dám nói ra.
Hai người trông thấy về hướng Ðông Nam mà đi luôn mấy ngày.
Tiết trời đã ấm áp dần dần.
Du Thản Chi nghe Tam Tinh vừa đi đường vừa hỏi lối về Hà Tân thì trong bụng mừng thầm. Gã nghĩ bụng:
- Xuống bể càng hay, được ngồi thuyền, mình không phải làm trâu ngựa cho hắn nữa.
.............................. .............................. ...............
- Tên tiểu tặc họ Du phải vào bón phân trong vườn rau để tư tâm hỏi đã làm nên tội lỗi.
Du Thản Chi ngơ ngác theo mấy nhà sư vào vườn rau bái kiến kiếm một nhà sư quản lý vườn này.
Nhà sư quản lý vườn pháp hiệu Duyên Căn hình thù bé nhỏ mà gầy khẳng gầy kheo, đã rụng mất hai chiếc răng cửa. Lúc y nói miệng để trống hốc. Y thấy Du Thản Chi đầu bịt lồng sắt hình thù quái gở lấy làm thích thú.
Lão ngồi trên ghế dài, nghếch chân lên, hỏi lai lịch Du Thản Chi.
Du Thản Chi nghĩ :
- Cha bác mình là những nhân vật có tên tuổi trong võ lâm, nếu bữa nay mình nói thật ra há chẳng làm nhục đến oai danh Du thị Song hùng và Tụ Hiền Trang ư?
Nghĩ vậy, gã chỉ khai mình là người tầm thường quê kệch, chẳng may bị quan binh Khất Ðan bắt đem đi, rồi bị hành hạ khổ sở.
Nhà sư này rất ưa chuyện trò, những chi tiết nhỏ nhặt lão cũng muốn hỏi chân tơ kẻ tóc quyết không để cho Du Thản Chi ăn nói hàm hồ. Nhưng Du Thản Chi quyết ý dấu nhẹm thân thế mình. Ngoài điều gã kể mình là thiếu niên nhà nông, gã không nói thêm gì nữa.
Nhà sư tra ngọn hỏi ngành mãi đến tối mịt mới xong, tính vừa ba giờ đồng hồ.
Nhà sư Duyên Căn hỏi đi hỏi lại hết lần này đến lần khác để kiếm lấy một chỗ sơ hở mà vặn Du Thản Chi.
Du Thản Chi tuy không phải là một gã thông minh lanh lợi, nếu gã nói dối bị lòi đuôi. Nhưng gã đem thân thế mình nói rút lại một cách vắn tắt.
Ðại khái những câu hỏi và câu trả lời như sau:
- Phụ thân ngươi làm gì?
- Chết rồi!
- Tại sao mà chết?
- Ốm!
- Ốm bệnh gì?
- Tôi không biết!
- Sao ngươi giúp đỡ Tam Tĩnh?
- Y bắt được tôi.
- Sao mi không trốn đi?
- Tôi không trốn thoát.
Ðến bữa cơm tối Duyên Căn bưng bát cơm lớn đến bên Du Thản Chi ngồi ăn để tiện vặn hỏi.
Sau khi không hỏi thêm được điều gì nữa, Duyên Căn mới bảo:
- Ngươi múc ra hai thùng nước phân bón rau. Chúng ta ở đây không thể lười nhác được đâu. Vừa rồi hhỏi chuyện mi mất hàng nửa ngày công việc đều bỏ bê.
Du Thản Chi đáp ngay:
- Vâng!
Gã không màng phân trần về vụ mất thì giờ này là do nhà sư hỏi vặn mà gã phải trả lời chứ đâu phải gã bày chuyện.
Du Thản Chi trong bụng đói meo, mình đầy thương tích, mà vẫn đi múc phân tưới rau ngay chứ không dám kêu ca gì hết.
Vườn rau chùa Thiếu Lâm rất rộng diện tích có đến hai trăm mẫu. Trong vườn này kể cả hạng thợ thường xuyên lẫn thợ làm xắp có đến ba bốn chục người và đều là tăng sĩ trong chùa.
Du Thản Chi mới đến, đầu lại đội cái lồng sắt, hình thù cổ quái, mọi người đều khinh miệt và thường đem gã ra làm trò cười. Những công việc nặng nhọc dơ dáy đều đổ lên đầu gã.
Du Thản Chi càng ngày càng suy nghĩ ít đi, quan niệm và phải trái về mừng giận thương vui. Gã cũmg mơ hồ không phân biệt được rõ ràng. Ai bảo gì gã cũng chịu.
Suốt ngày gã chỉ ngơ ngác bần thần. Họa hoằn trong lúc ngủ mê, gã mới mơ thấy A Tử.
Một hôm vào lúc hoàng hôn, Du Thản Chi bón tưới vườn rau xong thì thân thể mệt nhoài, chân tay ê nhức, gã chợt nge thấy tiếng đũa lách cách, gã liền đứng dậy xuống nhà ăn cơm, bỗng thấy tiếng Duyên Căn gọi:
- A Du! Mi cầm bát cơm này đưa sang căn phòng nhỏ bên rừng trúc cho một vị sư phụ ở đó dùng, vì y bịnh không qua đây được.
Thản Chi đáp:
- Vâng!
Ðoạn đón lấy bát cơm sang rừng trúc.
Rừng trúc này lớn lắm, gã đi một lúc mà vẫn chưa hết.
Gã nhìn vào trong đám lá cây rậm rạp thấy một căn nhà đá nhỏ, liền chạy đến trước cửa cất tiếng gọi:
- Sư phụ! Sư phụ! Cơm của sư phụ đây!
Trong nhà có giọng khàn khàn đáp lại.
Du Thản Chi đưa tay ra đẩy cửa.
Cánh cửa mở ra, gã bưng bát cơm lớn đi vào.
Gã thấy trên chiếc chiếu trải dưới đất có một người nằm quay mặt vào trong.
Trong nhà không có giường phản, bàn ghế chi hết.
Một cái bát sành đựng lưng bát nước lã đặt ngay trong một góc chiếu.
Du Thản Chi lại nói:
- Sư phụ! Tôi mang cơm lại cho sư phụ đây!
Người kia nói:
- Ta không đói, không ăn cơm được ngươi bưng về đi!
Tiếng nói phều phào không được rõ ràng và thủy chung vẫn không quay đầu ra.
Du Thản Chi vừa nghe y biểu không đói, không ăn cơm, liền bưng bát cơm về nhà ngay, báo cho Duyên Căn biết.
Trưa hôm sau, Duyên Căn lại kêu Du Thản Chi mang cơm đi, người kia vẫn không ăn.
Bốn ngày liền, Du Thản Chi mỗi ngày đưa cơm hai lần.
Người đó không lúc nào quay mình ra và thủy chung vẫn không ăn cơm.
Gã cũng mất tính hiếu kỳ nữa, mặc dù thấy việc khác thường, gã cũng chẳng buồn quan tâm.
Ðến trưa hôm thứ năm, Du Thản Chi theo thường lệ lại bưng cơm sang, người kia vẫn nhắc lại câu trước:
- Ta không đói, không ăn cơm, ngươi mang về đi.
Du Thản Chi vẫn bình thản lạt lẽo như thường đáp:
- Ðược rồi!
Ðoạn trở gót đi luôn.
Người này đột nhiên vùng dậy nắm lấy tay Du Thản Chi mắng:
- Mi là người không có lòng dạ chi hết...
Vừa nói mấy tiếng người đó la lên:
- Úi chao!
Vì thấy đầu gã đội cái lồng sắt, nên không khỏi giật mình kinh ngạc.
Du Thản Chi thấy nhà sư vừa gầy gò vừa đen đúa, mắt sâu mũi cao, không ra dáng một nhà sư Trung Nguyên. Trên mặt nhiều vết nhăn nheo mà không biết đã bao nhiêu tuổi.
Nhà sư hỏi:
- Ðầu ngươi chụp cái chi?
Du Thản Chi đáp:
- Cái lồng sắt.
Nhà sư lại hỏi:
- Ai chụp vào đầu ngươi?
- Người Khất Ðan.
Nhà sư hỏi:
- Sao mi không bỏ đi?
Du Thản Chi đáp:
- Bỏ không được.
Nhà sư nói:
- Bốn ngày liền ta không ăn cơm, ngươi chẳng hỏi gì đến đã đành sao cũng không kêu ai lại thăm ta một lần. Hoặc kêu thầy đến chữa bịnh cho ta, là nghĩa làm sao?
Nhà sư này tuy người Hồ bên Tây Vực song nói tiếng Hán rất lưu loát.
Du Thản Chi nói:
- Ông sống cũng thế chết cũng vậy, có liên quan gì đến tôi?
Nhà sư cả giận vươn tay ra nắm lấy vai Du Thản Chi.
Du Thản Chi thấy vai bị đau tựa hồ dao cắt, nhưng gã nhịn đau quen, chẳng cậy cựa mà cũng chẳng rên la, cứ thản nhiên như không.
Nhà sư rất lấy làm kỳ hỏi:
- Mi có thấy đau không?
Du Thản Chi lạnh lùng đáp:
- Ðau cũng thế mà không đau cũng vậy. Chả can hệ gì!
Nhà sư lại càng ngạc nhiên hỏi lại:
- Mi bảo không can hệ gì. Chẳng lẽ cái vai này không phải là vai mi? Ta vận thêm kình lực bóp nát vai mi ra nhé?
Nhà sư vừa nói vừa vặn kình lực mạnh bóp mạnh.
Du Thản Chi thấy đau vào đến tận tâm can, vai gã quả nhiên bị bóp nát.
Song người gã tuy đau mà tâm thần gã trơ như gỗ đá chẳng tranh biện mà cũng chẳng van xin.
Gã yên trí rằng trong lá số gã, thiên đình đã định sẵn xương vai gã bị bẻ nát, đành phải chịu.
Nhà sư thấy sức chịu đựng gã cương cường như vậy đâm ra bội phục nói:
- Giỏi lắm! Trong chùa Thiếu Lâm cả đến tên đầu bếp cũng tu luyện được đến mức độ này thì ghê thật! Thôi ngươi đi đi!
Du Thản Chi bưng bát cơm về, chưa ra khỏi rừng trúc thốt nhiên va phải nhà sư Duyên Căn đứng ở bên đường.
Duyên Căn âm thầm chạy đến bên gã cười lạt nói:
- A Du! Việc chùa Mẫn Trung nước Liêu đã phát giác ra rồi, ngươi đến viện Giới Luật đi!
Du Thản Chi nghe nói việc chùa Mẫn Trung bị phát giác thì nghĩ thầm:
- Ðây chắc là Tam Tĩnh đã điều tra ra vụ ta ăn cắp con tằm kỳ dị. Vụ này rắc rối ta. Thôi ta đành phó mặc trời.
Gã lẻo đẻo theo Duyên Căn về viện Giới Luật đã gặp nhà sư già.
Lúc này lại thấy nhà sư đó đứng trước cửa viện lạnh lùng nói:
- Du Thản Chi! Tam Tĩnh biểu những tội đại ác tại chùa Mẫn Trung đều do ngươi gây ra, có đúng thế không?
Du Thản Chi đáp:
- Ðúng thế! Chính tôi gây ra!
Nhà sư già nghe Du Thản Chi nhận tội nhận tội, không chối cải một câu nào thì lấy làm lạ hỏi, nói:
- Mi đã nhận tội, ta không làm khó dễ vói người làm chi nữa mà năm trăm roi đòn thị uy cũng miễn cho mi. Mi vào phòng sám hối để nghĩ kỹ lại coi, nếu còn điều gì không thật nói với ta.
Duyên Căn dẫn Du Thản Chi tới phía sau viện Giới Luật.
Nơi đây là một khoảng đất trống, đã bày sẵn bốn cái "cột đá"hình vuông.
Duyên Căn kéo một chiếc cột đá một cái cửa mở ra.
Chính mỗi một cột này là một căn nhà nhỏ xíu.
Duyên Căn đẩy cửa vào, bảo Du Thản Chi vào trong xong rồi đóng lại.
Tuy gọi là phòng sám hối nhưng thực ra không phải là một căn phòng mà chỉ một "chiếc quan tài" bằng đá để dựng lên.
Du Thản Chi vào rồi, đừng nói không thể ngồi xuống được, mà xoay mình cũng đã khó khăn.
Trên nóc nhà đã có đục hai lỗ thông hơi. Bốn mặt vách đá gần khít chạm vào người.
Du Thản Chi lẩm bẩm:
- Mình có việc gì suy nghĩ, làm tổ gì mà phải sám hối ?
Giữa lúc ấy, bỗng nghe tiếng người kêu thất thanh như lợn bò chọc tiết.
Tiếng kêu la do những lỗ nhỏ trên đỉnh thạch thất vọng ra và rõ ràng là tiếng Tam Tĩnh.
Du Thản Chi nghe lão thét lên:
- Không được! Không được! Người tôi làm sao vào lọt nhà sám hối?
Vị lão tăng Giới Luật nói:
- Lề luật của bản trì từ ngàn xưa lưu lại, sư sãi phạm tội nặng đều được vào nhà sám hối để xét mình cũng ăn năn. Người vào đi!
Tam Tĩnh vội nói:
- Người tôi to béo thế này làm sao vào lọt được?
Du Thản Chi tuy đang trong lúc hoạn nạn, nghe lão nói mấy câu này, mới nhớ ra Tam Tĩnh người béo chùn béo chụt mà tròn ủm như trái bóng thì không khỏi phì cười.
Bỗng nghe nhà sư già lạnh lùng giục:
- Các ngươi bỏ lão vào đi rồi đóng cửa lại!
Kế tiếp lại vẳng nghe mấy tiếng cựa quậy.
Tam Tĩnh kêu gọi ầm lên nhưng nhà sư già không khoan dung cho bạn đồng môn chút nào nhất định thi hành luật pháp một cách nghiêm chỉnh.
Tam Tĩnh kêu lên:
- Tôi sẽ bẩm bạch phương trượng . Ðại sư ngược đãi đồng môn một cách gắt gao. Người tôi to béo thế này làm sao nhét vào được phòng nhỏ này... Trời ơi! Không được!
Lão tăng giục ban chấp sự:
- Các ngươi ấn mạnh y vào! Gắng sức ấn thật mạnh!
Một nhà sư khác bỗng kêu lên:
- Thúi quá! Y vọt cả... ra rồi!
Lão tăng vẫn giục:
- Ðã nhét được quá nửa rồi, còn non nửa thôi mà! Ðẩy mạnh vào!
Vất vả hồi lâu rồi sau cùng cũng nhét được hết người nhà sư Tam Tĩnh béo chùn béo chụt tròn ủm như quả bóng vào căn nhà nhỏ hẹp.
Tam Tĩnh mất hết khí lực không còn hơi sức đâu tranh luận nữa. Lão nghẹn ngào trong khổ và khóc thút thít.
Du Thản Chi nghĩ thầm:
- Căn nhà đá chật hẹp này đến mình gầy nhỏm gầy nhom còn chẳng đủ chỗ xoay mình. Thế mà họ nhét đưọc "trái bóng thịt" vào kể cũng là kỳ công hạn hữu.
Ðột nhiên Tam Tĩnh la lên:
- Thả tôi ra! Thả tôi ra! Tôi xin nói hết không dám nói sai câu nào.
Nhà sư già nói:
- Người hãy nói trước đi rồi ta sẽ thả ra.
Tam Tĩnh nói:
- Tôi... Tôi ở chùa Mẫn Trung nước Liêu, ăn trộm ba mươi ba lạng bạc, mua rượu uống. Tôi mổ ba con chó và giam cầm nhà sư. bốn người tục... tôi đã... có người bạn gái ở nước Liêu... với đã đánh bạc...
Nhà sư già nói:
- Mi biểu những việc này đều do gã mặt sắt làm trò à?
Tam Tĩnh nói:
- Vâng! Vâng. Ðúng là gã làm cả. Tôi quên đó.
Nhà sư già nói :
- Người chưa suy nghĩ được kỹ càng. Người hãy ở lại trong buồng sám hối một ngày một đêm cho tâm hồn tỉnh táo để suy nghĩ lại.
Tam Tĩnh kêu to hơn nữa:
- Chỉ trong một giờ nữa là tôi đã bị chết ngộp rồi. Tôi xin thú nhận hết. Những vụ đó đều chính tay tôi làm cả.
Nhà sư già nói:
- Thế còn gã mặt sắt làm điều chi sai quấy?
Tam Tĩnh đáp:
- Gã.. gã ăn cắp cái bầu của tôi rồi gã uống trộm rượu nữa.
Nhà sư già hỏi:
- Còn gì nữa không?
Tam Tĩnh nói:
- Tôi.. Tôi không biết. Mau... mau thả tôi ra.
Nhà sư cười lạt nói:
- Ngươi vu oan giá họa cho người.
Rồi quay sang bảo mấy nhà sư chấp sự:
- Các vị thả gã mặt sắt ra!
Mấy vị chấp sự vâng lời mở cửa thạch thất kéo Du Thản Chi ra.
Du Thản Chi nhìn ra căn thạch thất ở bên cạnh thì thấy da thịt Tam Tĩnh lòi ra những kẻ hở nhà đá.
Giả tỷ phòng sám hối này là căn nhà vách gỗ thì đến bật tung.
Nhà sư nhìn Du Thản Chi hỏi:
- Những việc xảy ra ở nhà Mẫn Trung, Tam Tĩnh đã thú nhận cả rồi. Sao mi còn chưa nói rõ tâm tình.
Du Thản Chi đáp:
- Tôi không biết.
Nhà sư nói:
- Rút cuộc mi chưa làm việc gì sai quấy phải không?
Du Thản Chi đáp:
- Kiếp này tôi nhiều tai nạn, chắc là do kiếp trước gây nên tội nghiệp rất nhiều. Kiếp này tuy chưa làm điều sai quấy, nhưng kiếp trước phạm nhiều tội nặng.
Nhà sư nghe gã nói vậy rất vui lòng. Lão nghĩ lại vừa rồi nghi oan cho gã, bây giờ lão rất hối hận.
Nhà sư quay lại bảo Duyên Căn:
- Gã mặt sắt này bản tính thuần hậu nhà sư người Hồ kia mắc bệnh triền miên, ngươi bảo gã sang đó hầu hạ, đừng bắt gã làm việc trong vườn rau.
Duyên Căn nói:
- Vâng!
Tam Tĩnh kêu rầm lên:
- Không xong rồi! Mau buông thả tôi ra!
Tiếp theo là những tiếng "rắc rắc" không ngớt, tựa hồ như tiếng bắp rang.
Nguyên Tam Tĩnh bị nhét chặt quá, xương cốt cọ xát vào nhauphát ra tiếng.
Du Thản Chi nghĩ bụng:
- Xem chừng trong người Tam Tĩnh đã gẫy mất mấy dẻ xương sườn.
Bỗng thấy Tam Tĩnh lại kêu ầm lên:
- Tôi đã cung xưng hết rồi, sao còn chưa thả tôi ra? Ðại sư... nói vậy thì ra đại sư lừa gạt tôi hay sao?
Duyên Căn quay lại bảo Du Thản Chi:
- Mi mau lạy tạ tấm lòng từ bi của chấp pháp đại sư đã cho mi tới làm tại một nơi công việc nhẹ nhàng.
Du Thản Chi từ khi đến nước Liêu bị bao nhiêu nỗi khổ hành hạ, đâm ra mất hết thiện cảm với người ngoại quốc, bất luận là ai. Gã chẳng lấy việc để hầu hạ nhà sư người Hồ kia tên gọi là Ba La Tĩnh làm dễ chịu. Nhưng Duyên Căn đã bảo vậy thì gã cũng quỳ xuống đất lạy tạ.
Duyên Căn lại dẫn Du Thản Chi đến rừng trúc đưa vào phòng Ba La Tĩnh để giới thiệu.
Ba La Tinh vẫn nằm quay mặt vào tường.
Hai người vào phòng lão cũng mặc kệ, không quay ra mà cũng không hỏi han gì.
Ðến bữa ăn, Du Thản Chi lấy cơm đưa vào, thì Ba La Tinh cũng chỉ nói một câu cộc lốc:
- Không ăn cơm!
Lão cũng không thèm nhìn gã.
Sau hai ngày nữa, giọng nói Ba La Tinh tỏ ra rất suy yếu , tân khách trong chùa có người hay tin đến trước hỏi thăm. Sau khi người khách này về, đưa hơn mười vị lão tăng cùng đến thăm hỏi.
Du Thản Chi đứng bên thấy người khách giới thiệu với Ba La Tinh chức vị các lão tăng, nào Thủ Tòa La Hán Ðường, nào Phó tòa Viện Ðạt Ma, nào Thủ tòa Viện Giới Luật, toàn là những vị cao cả.
Gã nghĩ bụng:
- Lão sư người Hồ này chắc cũng là một nhân vật ghê gớm nên lão vừa thọ bệnh đã bao nhiêu nhân vật đầu nảo đến hỏi thăm.
Ba La Tinh bệnh luôn mấy ngày vẫn chưa bớt.
Ngẫu nhiên lão ăn được chút cháo nhưng vẫn chưa dậy được.
Suốt ngày nằm quay mặt vào tường. May mà tính lão ôn hòa không cáu kỉnh gì với Du Thản Chi cả.
Gã ở đây cũng chẳng có việc gì làm, nên suốt ngày nhàn rỗi, tịnh mịch.
Qua hai hôm nữa, vào khoảng nửa đêm, Ba La Tinh đột nhiên rên la ầm ĩ rồi la hét:
- Trời ơi! Nhức đầu! Tôi nhức đầu quá!
Du Thản Chi thắp đèn lên, thấy mặt lão đỏ bừng, gã đưa tay sờ vào trán lão thấy nóng bỏng.
Ba La Tinh vừa nhảy lên nhảy xuống vừa kêu:
- Chết! Ta chết đến nơi rồi! Ði kêu thầy đến chửa cho ta.
Du Thản Chi kinh hãi đáp:
- Vâng! Vâng!
Rồi không biết đi kiếm ai được, gã đành chạy vài vườn rau gọi Duyên Căn.
Duyên Căn đến viện Thanh Kiên mời một nhà sư biết thuốc sang chẩn mạch, vừa cho thuốc uống vừa làm phép châm cứu, vất vả mất nửa đê, mãi đến lúc trời sáng mớ yên lại.
Mấy lần lão lên cơn như vậy, các nhà sư chửa thuốc lắc đầu bảo nhau:
- Vị Hồ tăng này mắc phải thứ bệnh kỳ lạ bên Thiên Trúc, đất Trung Nguyên chưa gặp bao giờ, mình khó lòng chữa khỏi được.
Ba La Tinh càng ngày càng suy nhược.
Một hôm lão dậy đi tiểu, chân nhũn ra té nhào xuống đất. Ngã chúi về đằng trước đầu đập vào viên đá, trán thủng ra một lỗ, máu chảy ra rất nhiều.
Các lão tăng được tin đều đến hỏi thăm.
Bệnh tình nhà sư họ Hồ kéo dài hơn một tháng, mỗi ngày một trầm trọng thêm.
Một hôm Du Thản Chi bị cảm hàn, nửa đêm đau bụng, gã chạy ra rừng đi tiêu. Lúc đang buộc giải quần, dưới ánh trăng sáng, bất thình lình gã thấy một người từ dưới đất nhô lên cách chỗ gã đứng hơn môrt trượng.
Du Thản Chi hồn vía lên mây, suýt nữa gã thất thanh la lên.
Nhưng bóng đen náy chìa lên nửa người sau cùng toàn thân xuất hiện.
Rõ ràng là Ba La Tinh!
Ban ngày gã thấy Ba La Tinh thở hổn hển, muốn ngồi dậy uống chút nước thì xem ra cũng rất khó khăn. Thế mà lúc này lão biến thành con rồng thiêng cọp dữ, từ lòng đất chui lên được.
" Cách" một tiếng lão nhảy lên ngọn cây trúc nhanh như mèo!
Du Thản Chi rất lấy làm kỳ lẩm bẩm:
- Té ra bấy lâu lão này giả vờ mắc bệnh. Lão ở dưới đất chui lên làm gì và bây giờ lão đi đâu?
Bỗng thấy ngọn trúc khẽ lung lay, Ba La Tinh từ cây trúc này nhảy sang cây trúc khác cách đó chừng ba trượng. Ngọn trúc bật lên tiếng rất mạnh. Theo đà của nó Ba La Tinh nhảy được rất xa.
Lão nhảy đã lẹ làng lại nhanh như chớp , nếu Du Thản Chi chưa nhìn thấy lão từ trước thì nhất định không thể biết trên cây trúc có người mà chỉ cho là ngọn gió đêm lay động cành trúc dưới báng trăng tỏ mà thôi.
Du Thản Chi tiếp tục ngó những cành trúc lay động chao thẳng đường tiến về hướng tây bắc. Tuy gã đã lạnh nhạt thế sự, chẳng quan tâm một việc ggì nữa. Nhưng dù sao gã cũng còn trẻ người non dạ thì làm gì đã mất hết tính hiếu kỳ. gã chạy lại chỗ Ba La Tinh ở dưới đất chui lên để ngó xem thì thấy dưới đất có một lỗ tròn bên cạnh đặt một tấm ván. Trên mặt tấm ván có đất bùn và lá trúc, rõ ràng là lúc Ba La Tinh chui vào lỗ rồi sẽ kéo tấm ván đậy lên.
Rừng trúc này vốn ít người qua lại. Dù có người vào rừng mà dẫm chân lên tấm ván thì cũng lấy làm chi lạ.
Du Thản Chi tự hỏi:
- Ðường hầm này đi về đâu? Ta thử xuống xem sao?
Gã thò chân xuống đất chui vào trong hầm.
Không ngờ đường hầm rất ngắn, gã lần mò đi chưa được vài trượng, lại thấy đường đi dốc ngược lên.
Du Thản chi đi đến cuối đường chui ra thi không nhịn được phải phì cười, vì miệng hầm đằng này chính là chỗ Ba La Tinh trải chiếu lên.
Suốt ngày Ba La Tinh nằm trên chiếu này, nên không ai phát giác ra được.
Du Thản Chi tự hỏi:
- Thằng cha Ba La Tinh này thật là kỳ dị, không biết lão đi đâu?
Gã không nén nổi tính hiếu kỳ, lại chạy vào rừng trúc, theo đường Ba La Tinh chạy đi.
Gã biết mong manh rằng lão sư họ Hồ này khéo giả vờ giả vịt ốm đâu bệnh hoạn, tất cả là có cuộc âm mưu rất lớn. Nếu mình đi theo dõi để phát giác ra việc bí mật cuà lão. Lão mà biết ra thì tính mạng của mình đi đời.
Nghĩ vậy lão len lỏi cẩn thận và ở tận đằng xa nhìn thấy Ba La Tinh đang đứng trên một cây trúc, gã liền nằm rạp xuống bụi cỏ rậm, bò đi từng bước.
Gã bò còn cách cây trúc đó còn hơn một trượng thì dừng lại không dám tiến bước.
Du Thản Chi đứng chờ hồi lâu, đưa mắt nhìn ra phía trời Tây một áng mây trôi lảng bảng bay lại, che ánh trăng tỏ, bốn bề tối đen và phẳng lặng như tờ.
Bỗng nghe tiếng gió thổi rào rạt, cánh trúc kia hạ xuống rồi lại bật lên.
Ba La Tinh lượn đà bay vọt ra, nhảy vào giữa đám cây rậm rạp phía trước.
Du Thản Chi thấy lão khinh công cao cường như vậy phải lắc đầu lè lưỡi.
Gã đâm ra sợ quá không dám đi nữa, quay về phòng mình nghĩ.
Trong khoảng thời gian uống cạn tuần trà, Du Thản Chi nghe trong phòng Ba La Tinh có tiếng sột soạt, lão biết rằng lão đã về thì lẩm bẩm:
- Thật là một phen hú hồn! May mà mình về ngay, nếu mình chần chờ thêm một lát nữa tất bị lão khám phá ra.
Sáng hôm sau, Du Thản Chi dậy sớm thấy Ba La Tinh nằm quay mặt vào vách giả vờ bệnh thế cực kỳ nghiêm trọng.
Gã không nói gì cầm cây cuốc ra rừng đào măng.
Gã đi thẳng vào chỗ đám cây rậm rạp mà Ba La Tinh đêm qua đã nhảy vào đó.
Du Thản Chi vừa đi được vài trượng, bỗng thấy sau vòm cây một nhà sư đi ra, lớn tiếng hỏi:
- Mi đến Tàng Kinh Lâu làm gì?
Du Thản Chi đáp:
- Tôi... Tôi đào măng trúc.
Nhà sư vẩy tay nói:
- Ði, đi mau! Mi không có pháp điệp của phương trượng, không được tới gần Tàng Kinh Lâu.
Du Thản Chi nói:
- Vâng, vâng!
Rồi quay vào rừng trúc đào măng.
Gã nghĩ bụng:
- Té ra trong bụi rậm này là Tàng Kinh Lâu, nếu không có pháp điệp của phương trượng thì không thể đến gần. Ðêm qua Ba La Tinh lẻn vào Tàng Kinh Lâu, chẳng lẽ lão đến đây lấy trộm kinh sách về coi? Nhưng lão đã là hoà thượng thì xem kinh sách là việc rất hợp lý. Nam Mô A Di Ðà Phật! Nam Mô A Di Ðà Phật không biết phật có gì mà cất kỹ thế?
Du Thản Chi đã điều tra ra việc Ba La Tinh giả vờ lâm trọng bệnh đào đường hầm để đi lén vào Tàng Kinh Lâu mà htôi. Gã chẳng buồn để tâm đên việc đó nữa, gã đào được một đống măng thật to đem về vườn rau giao cho Duyên Căn.
Duyên Căn Khen rằng:
- Thằng nhỏ này giỏi lắm, làm việc gì cũng chăm chỉ tận tâm. Thật không uổng công ta đề bạt mi lên với đại sư chấp pháp. Mi đem măng xuống giao cho nhà bếp.
Du Thản Chi vâng lời khuân măng xuống bếp.
Trong bếp một nồi canh rau bốc hơi ngùn ngụt, chú tiểu múc một bát canh cho gã ăn, rồi lại múc thêm bát nữa đem về cho Ba La Tinh.
Du Thản Chi bưng bát canh rau về phòng Ba La Tinh vẫn một giọng cộc lốc:
- Không ăn!
Nhưng rồi ngửi thấy mùi bát canh thơm ngon, lão thèm quá bảo:
- Ðược lắm! Ngươi đưa ta thử một miếng xem.
Lão xoay tay ra đón lấy bát canh giả vờ không ngồi dậy được, mặt vẫn quay vào tường nằm húp canh.
Du Thản Chi để ý trông thấy có bóng cuốn sách ánh vào trong bát nước canh. Trong sách toàn chữ ngọng ngoẹo rất kỳ dị.
Gã sực nhớ ra điều gì liền lẩm bẩm:
- Ðây là thứ văn tự ngoại quốc giống kiểu chữ ở trong cuốn sách ta lượm được. Thì ra Ba La Tinh hằng ngày quay mặt vào tường là để xem lén những sách cổ quái này! Chà chà! Nửa đêm lão lén vào Tàng Kinh Lâu cốt là lấy những thứ sách nước ngoài này về coi.
Trước kia Du Thản Chi đã bị hành hạ, nên gã không quan tâm đến sự vật bên ngoài nữa. Mấy bữa nay gã ở chùa Thiếu Lâm không bị ngược đãi, nên gã thấy Ba La Tinh có những hành động kỳ bí mới lại nổi tánh hiếu kỳ.
Nhưng bây gờ thấy Ba La Tinh có những hành động đó, bất quá là để kiếm sách ngoại quốc về đọc, thì nghĩ bụng:
- Làm hòa thượng đương nhiên phải xem kinh. Lão hòa thượng nước ngoài thì phải đọc kinh nước ngoài, cái đó chẳng có chi lạ. Có điều người ngoại quốc tính ưa làm những sự kỳ bí không muốn hỏi mượn mà thờ.
Nghĩ vậy từ đó gã không để ý đến hành động của Ba La Tinh nữa.
Lại hơn một tháng nữa trôi qua. một hôm vào khoảng nữa đêm Du Thản Chi đang ngủ say, đột nhiêu thấy ánh đèn sáng trưng.
Gã mở bừng mắt ra thì ánh sáng này từ phòng Ba La Tinh phát ra rồi lọt qua khe vách ván lọt ra ngoài.
Ánh sáng bữa nay so với những ngáy trước sáng chói gấp mười.
Du Thản Chi lấy làm kỳ dị, gãnghiêng người nhòm qua khe cửa vào trong.
Vừa nhòm vào, gã giật mình kinh hãi vì trong phòng này có năm nhà sư gia đang ngồi xếp bằng. vị nào cũng mặc áo cà sa đai hồng nhắm mắt nhập định.
Trong năm vị lão tăng này thì có ba vị bữa trước đến hỏi thăm bịnh tình Ba La Tinh, gã biết mặt rồi. Ba nhà sư này đều lả những vị cao tăng bản tự giử chức phận rất trọng đại.
Năm vị cao tăng ngồi xung quanh chiếu.
Chiếu đã lật lên thì cái hầm lộ ra Ba La Tinh hiện không ở đây.
Du Thản Chi chắc là hiện giờ lão đang đi lấy trộm sách. Ðây là lần đầu hành vi của lão bị phát giác, rồi bị bắt nữa cũng chưa biết chừng.
Lúc Du Thản Chi để ý nhìn lại năm vị lão tăng thì ai cũng để tay phải lên trước ngực nhưng không phải để lần tràng hạt, mà xoay lòng bàn tay hướng vào đúng cửa hầm do Ba La Tinh đã đào ra.
Gã đối với vị Hồ tăng này tuy không có tình nghĩa gì nhưng từ lúc được phái đến hầu hạ lão, gã không bị hành hạ đánh đập nữa, nên chỉ mong được hầu lão lâu dài cho đỡ thân mà thôi. Bây giờ gã thấy xảy ra vụ này, trong lòng không khỏi băn khoăn và ngấm ngầm lo cho lão.
Ðột nhiên năm vị lão tăng đồng thời phất tay áo một cái đèn đuốc trong nhà bị luồng chưởng phong thổi tắt đi, tối sầm lại, nhưng rồi ngọn lửa lại bùng sáng lên ngay.
Du Thản Chi hoa mắt lên, nhìn lại thì thấy trong nhà thêm một người nữa chính là Ba La Tinh ở dưới đường hầm chui lên.
Vị Hồ tăng tay cầm ba quyển sách vừa nhìn thấy năm vị lão tăng ngồi giữ canh miệng hầm bất giác giật mình đánh thót một cái.
Năm lão tăng đồng thanh cất tiếng niệm:
- A Di Ðà Phật!
Tay phải từ từ vươn ra, năm tay áo nhà tu mầu đỏ phồng lên khác nào năm cái buồm nhỏ.
Ba La Tinh nhào đi một cái, lộn đầu xuống giơ chân lên.
Hai chân nhà sư ngoáy tít mỗi lúc một nhanh trông thành hình tròn như một trái banh.
Năm vị lão hòa thượng đồng thanh quát lên:
- Ái chà!
Năm chưởng nhất tề phóng ra đánh "binh" một tiếng vang lên không khí bị đè ép quá nặng khiến cho Du Thản Chi không thở được phải ngất đi.
Gã mê man hồi lâu, rồi bên tai văng vẳng ngghe tiếng niệm phật. Gã lần lần tỉnh lại định thần, mở mắt nhìn qua khe vách ván thì thấy Ba La Tinh cũng ngồi xếp bằng tuớng mạo rất nghiêm trang.
Năm vị lão hòa thượng ngồi xung quanh nhà sư người Hồ.
Cả sáu vị đang niệm kinh.
Du Thản Chi nghe không hiểu câu nào, song tựa hồ hai bên đã hòa giải xong.
Sáu vị sư tụng kinh hồi lâu rồi năm vị lão tăng đứng dậy chắp tay.
Nhà sư già nhỏ bé gầy gò lên tiếng:
- Ba LaTinh sư huynh! Từ đây sắp tới sư huynh cứ việc đi vào Tàng Kinh Lâu và muốn đọc sách gì tùy ý, bất tất phải lén vào trộm nữa.
Ba La Tinh ngẩng đầu lên, vẻ mặt nghi ngờ, ngây ngây người ra một lúc rồi hỏi:
- Trong một thời gian bao nhiêu?
Nhà sư gầy đáp:
- Vĩnh viễn không kỳ hạn nào, tức là cho đến ngày sư huynh viên tịch thì thôi.
Ba La Tinh hỏi:
- Ý các vị muốn bức bách ta phải tự thiêu chăng?
Nhà sư già đáp:
- A Di Ðà Phật! Sao sư huynh lại nói thế? Sư huuynh từ bên Thiên Trúc là một thượng quốc đến đây chiếu cố tới Trung Thổ chúng tôi. Chúng tôi một lòng thành kính còn chưa đủ, khi nào dám vô lễ?
Ba La Tinh hỏi:
- Chúng ta đều là đệ tử nhà Phật, bất luận việc gì xin nói rõ ra. Trong Tàng Kinh quí tự đây có đầy đủ cả kinh bên tệ quốc.
Mấy trăm năm nay, tệ quốc trãi qua bao nhiêu cuộc chiến tranh loạn lạc, kinh sách mât mát rất nhiều, vì thế mà phải qua bên quý quốc để tìm kiếm. Cửa Phật là cửa từ bi quảng đại, cớ sao tự lại hẹp hòi như vậy?
Nhà sư gầy đáp:
- A Di Ðà Phật! Nếu sư huynh tìm những loại kinh điển cứu nhân độ thế của nhà Phật thì tệ tự quyết không dám giữ làm bí mật. Trước kia tệ tự đã lấy ờ bên Thượng quốc, bây giờ trả về Thượng quốc thì đó là một việc hợp tình hợp lý. Có điều sư huynh lại muốn lấy coi những sách bí mật về võ học của riêng bản tự nên chúng tôi dám để sư huynh tự tiện mà thôi. Những kinh sách về võ học tuy nguồn gốc cũng xuất phát từ thượng quốc, song mấy trăm năm nay những bậc cao tăng bên tệ tự đã chỉnh đốn lại và tăng bổ rất nhiều. Vậy đúng lý ra sư huynh chẳng nên lấy xem.
Ba La Tinh nói:
- Ðại sư vừa biểu từ nay sắp tới cho bần tăng được tự do ra vào Tàng Kinh lâu và tự ý muốn xem kinh sách gì cũng được sao bây giờ lại đổi giọng?
Nhà sư gầy nói:
- Không dám! Ðó là bản ý của tệ tự.
Ba La Tinh nói:
- Các vị đừng nói quanh quẩn nữa, muốn xử trí với bần tăng cách nào xin nói toạc ra.
Nhà sư gầy nói:
- Bên tệ tự suốt từ trên xuống đều kính ngưỡng Phật pháp cao thâm của sư huynh, có ý muốn mời sư huynh ở lại Trung Nguyên giúp tệ tự phổ biến nghĩa Phật, tế độ chúng sinh.
Ba La Tinh run người lên, mặt xám ngắt:
- Ðại sư... Ðại sư nói vậy là có ý... định giữ luôn bản tăng ở đây, vĩnh viễn không cho cho trở về cố hương nữa phải không?
Nhà sư gầy nói:
- Ðối với các vị đại đức bên thượng quốc, tệ tự đâu dám vô lễ? Chỉ thành khẩn xin người lưu lại mong rằng sư huynh ưng thuận lời thỉnh cầu đó.
Nói xong cúi đầu chắp tay thi lễ rồi đi ra.
Bốn nhà sư kia cũng theo gót ra luôn.
Ba La Tinh dàu dàu nét mặt. Biết rằng mấy nhà sư nọ nói vậy là cố ý giam giữ mình suốt đời ở Thiếu Lâm, rồi tha hồ muốn xem bao nhiêu kinh sách thì xem, nhưng không được về Thiên Trúc. Thế thì dù có đọc hết kinh sách trong Tàng Kinh Lâu chùa Thiếu lâm, bao nhiêu bí lục có đọc trơn làu làu, cũng chẳng ích gì.
Lão nghị vậy tức mình lẩm bẩm luôn mồn:
- Giả dối! Thật là quân giả dối! Rõ ràng giam cầm mình ở đây mà mở miệng vẫn nói nhân nghĩa là khẩn cầu mình lưu lại và xin mình đừng phụ lời khẩn cầu đó. Thế là họ đẩy mình vào đất không có lối thoát. Lão càng nghĩ càng bực tức khó chịu, bất giác vung tay lên đánh đầu cồm cộp.
Sở dĩ Ba La Tinh giả vờ mắc trọng bệnh là để đánh lừa các sãi chùa Thiếu Lâm không để ý đề phòng lão cho tiện việc lão lén vào tàng kinh xem sách trộm. Lão vốn là người có trí nhớ khác thường nên vâng lệnh sư phư đến chùa Thiếu Lâm để xem kinh sách. Theo mệnh lệnh của sư phụ thì lão phải học thuộc kỹ rồi về Thiên Trúc đọc lại cho người ghi chép. Không ngờ lúc lão lấy trộm kinh sách để lộ hành tích thành hỏng việc.
Ít lâu nay Ba La Tinh suốt ngày quay mặt vào tường đọc kinh khổ công ghi nhớ đã thuộc được hơn ba mươi bộ, nào ngờ sơ hở một chút đến nỗi cơ mưu bại lộ, bị các nhà sư chùa Thiếu Lâm khám phá ra. Mấy nhà sư này không làm khó dễ gì cho lão, dò xét biết được dụng ý của lão thì không cho lão về nước mà thôi.
Ba La Tinh buồn rầu vô hạn.
Suốt đêm hôm ấy từ chập tối cho đến sáng lão hết thở ngắn than dài thở ngắn lại gắt gỏng Du Thản Chi khiến gã băn khoăn lo lắng.
Qua mấy ngày như vậy, Ba La Tinh quả nhiên phát bệnh thực sự thỉnh thoảng mắt lão trợn ngược lên đăm đăm nhìn về phí trời Tây.
Du Thản Chi trông thấy mà phát khiếp.
Một hôm Du Thản Chi đưa cơm cho Ba La Tinh.
Lão giơ tay ra cầm lấy nắm cơm toan bỏ vào miệng ăn.
Ðột nhiên mặt lão thoáng lộ vẻ vui tươi lẩm bẩm một mình:
- Ðược rồi! Ðược rồi!
Lão ăn vội ăn vàng cho xong rồi nắm lấy tay Du Thản Chi nói:
- Ta dạy ngươi một đoạn sách, rồi ngươi nhớ đọc lại nhé. Nhưng ngươi phải nhớ kỹ rằng đừng tiết lộ cho những nhà sư trong chúa này biết, ngươi làm được chứ?
Du Thản Chi không hiểu ý lão hỏi lại:
- Ðoạn sách gì?
Ba La Tinh nói:
- Ngươi phải hứa hẹn với ta là quyết giữ kín không nói với ai.
Du Thản Chi từ khi ở nước Liêu bị hành hạ cực kỳ khổ sở, sau ai bảo làm sao, y nghe vậy, không hề dám trái ý ai cả.
Bây giờ La Tinh nói vậy, gã gật đầu đáp ngay:
- Sư phụ đã dặn thế, tiểu nhân quyết không dám nói với ai.
Ba La Tinh trầm ngâm một lát rồi nói:
- Còn môt việc nữa là mỗi ngày ta đánh ngươi một trận, đánh cho thịt đổ máu rơi. Ðó là khổ nhục kế khiến người ngoài trông thấy khỏi nghi ngờ ta đồng tình với ngươi. Ngươi đừng tiết lộ với ai nghe.
Du Thản Chi ngần ngừ một lát rồi hỏi lại:
- Tiểu nhân không làm điều gì lầm lỡ sao sư phụ lại đánh đòn?
Ba La Tinh mắt toé hào quang hung dữ nói:
- Mi không nghe ta thì liệu hồn đó!
Lão giơ bàn tay đập xuống đánh "binh" một cái, những mảnh gạch run bắn lên tung toé, vết bàn tay lão in sâu vào viên gạch.
Lão nói:
- Mi quay đầu lại đây cho ta đánh chưởng!
Du Thản Chi cả kinh nói:
- Ðầu tiểu nhân không chịu nổi ba chưởng. Sư phụ... sư phụ có đánh tiểu nhân thì đánh vào mé bên môi.
Ba La Tinh bật cười nói:
- Thôi! Ðây mi nên nhớ lấy! " Hi la cáp tát đắc, ngỏa tư nặc đặc lãng ba, khứ thần, ấn địa, thản lập thốc Tây loại Tư loại Tư nặc sám mả mi phi sâm, đáo ni sơn phu nhi..."
Lão đọc một đoạn dài rồi giục:
- Nào! Mi đọc thử lại ta nghe!
Du Thản Chi nghe tiếng ngoại quốc chẳng hiểu câu gì, không nhớ được nửa chữ.
Gã há hốc miệng ra đọc:
- Hi... Hi... Hi...
Gã chỉ đọc được chữ "hi" rồi không đọc xuống dưới được nữa.
Ba La Tinh cả giận đưa tay đẩy ngực gã một cái.
Du Thản Chi ngã ngửa người ra va vào tường đánh "binh" một cái. Gã đau quá suýt ngất đi.
Ba La Tinh vừa giận vừa càu nhàu:
- Thằng lỏi con! Ta dạy mi chẳng nhớ được chữ gì, mi không chịu để ý mà nghe phải không?
Du Thản Chi xoa lưng nói:
- Tiểu nhân... Tiểu nhân không hiểu sư phụ nói gì , chỉ thấy lí la lí lô con sao hiểu được?
Ba La Tinh suy nghĩ rồi nói:
- Ừ mi nói cũng có lý! Mi không hiểu ta nói gì tất nhiên mi không thể nhớ được, vậy bây giờ ta dạy mi.
Nói xong lão đập tan đống đất khô rãi lên lên mặt đất, rồi lão lấy ngón tay vạch ba chữ ngòng ngoào, nói:
- A Bối nhỉ! Mi đọc đi! A Bối nhỉ, A Bối nhỉ...
Du Thản Chi đọc theo lão:
- A Bối nhỉ! A Bối nhỉ.
Ba La Tinh cả mừng lại dạy gã thêm ba chữ nữa.
Du Thản Chi đọc xong hỏi:
- Thế thì nghĩa gì?
Ba La Tinh nói:
- Ðó là những chữ cái không có nghĩa gì hết. Mi đọc nữa đi.
Lão lại dạy ba chữ cái khác. Nhưng lúc quay lại hỏi ba chữ đầu "a Bối nhỉ" thì Du Thản Chi quên sạch mất rồi.
Ba La Tinh tức quá lão xách ngược Du Thản chi lắc đi lắc lại, thiếu điều gã phải hộc cơm ra, lão càu nhàu nói:
- Ta gặp phải thằng ngu xuẩn này thật là vô phước mất rồi. Mi dốt nát thế này ba mươi sáu bộ kinh sách thì đến đời kiếp nào cho xong?
"Uỳnh" một tiếng, lão xách Du Thản Chi liệng ra ngoài cửa.
Du Thản Chi nằm sóng sượt dưới đất thi gan không dậy nữa.
Ba La Tinh tưởng mình liệng gã chết rồi, sợ quá bồng y vào trong nhà, tìm lời ngon ngọt dỗ dành gã hồi lâu, rồi lại bắt đầu dạy gã nhận mặt chữ.
Du Thản Chi sợ Ba La Tinh đánh đập phải cố công ghi nhớ.
Nhưng chữ Phạn nước Thiên Trúc có chữ như con nòng nọc, có chữ giống con giun.
Tóm lại chẳng có lề lối văn tự nào hết.
Du Thản Chi học chữ trên lại quên chữ dưới, chữ cuối lại quên chữ đầu.
Thành ra một thầy trò hai người cùng kêu khổ om sòm.
-
Hồi 53 - Phép Luyện Dịch Chân Kinh - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 53 - Phép Luyện Dịch Chân Kinh
Ba La Tinh điên tiết lên là đánh Du Thản Chi liền. Lão có nghĩ đâu rằng việc nhận chữ đọc sách có liên quan đến tính tình và khiếu thông minh thiên phó của con người, há phải cứ ép uổng mà làm được.
Ba La Tinh tuy dữ đòn đánh Du Thản Chi, song gã càng mê muội lại càng không nhớ những chữ cái Phạn văn mà lão đang dạy gã.
Việc đời hễ có chí là thành tựu, tuy Du Thản Chi dốt nát tối tăm, song gã cố gắng hơn nữa tháng liền cũng thuộc được hết những mẫu tự Phạn văn.
Ba La Tinh tiếp tục dạy Du Thản Chí đọc từng chữ từng câu.
Phạn văn là một thứ văn tự khó học vào bậc nhất trên thế gian. Văn tự Tây phương phần nhiều chia thành chữ đơn chữ kép. Về Phạn văn ngoài chữ đơn chữ kép ra lại còn song số. Cứ xem một điểm này, đại khái sẽ suy luận ra nhiều điểm khó khăn khác, bao nhiêu chỗ quanh co. biến hoá, cực kỳ phức tạp. Ðến ngay những bậc thông minh tài trí phi thường phải ít ra là một năm hay nữa năm mới phân biệt rành rẽ được cách đọc chữ Phạn.
Du Thản Chi tư chất đã tầm thường lại bị Ba La Tinh thôi thúc cho mau thành tựu. Ðúng là "Dục tốc bất đạt." Thầy không biết cách dạy trò, trò không biết cách học, thành ra việc học chỉ lờ mờ không thấu đáo.
Du Thản Chi suốt ngày bị thành sầu vây hãm, ngoài cái đau đớn về xác thịt, thêm vào tinh thần bị khủng bố. Gã khổ sở về việc học kinh sách Phạn văn.
Nữa đêm nhiều lúc gã tỉnh giấc, gã nghĩ lại thời kỳ còn ở nước Liêu, bất quá chỉ phải ăn đòn, chịu thảm hình về xác thịt mà thôi. Trong đầu óc còn được tự do hơn nhiều. Huống chi thỉnh thoảng lại được thấy mặt A Tử. Cái tươi cười hay cái cáu giận của nàng cũng khiến cho bao nhiêu cái khổ não cả thiên hạ đổ xuống sông xuống biển hết. Gã thấy hiện giờ đầu óc mình bị lão Ba La Tinh nhét đầy những ma kha bắt la nhược "rồi" ban nhược ba yết đề gì vào, so với thân thể bị khổ hình còn tệ hại hơn nhiều.
Lắm lúc gã toan xuống than thở với Duyên Căn, nhưng gã chưa nói câu gì, y thấy gã mình đầy thương tích dường như cũng ra chiều đắc ý.
Du Thản Chi có lần ấp úng kể lể sự tình, nhưng Duyên Căn chẳng thèm để ý hỏi rõ đầu đuôi đã mắng át đi:
- Thằng giặc non! Mi sợ đánh ư? Mi nên nhớ rằng người trên mi bảo mình làm gì thì dù khổ sở đến đâu cũng ráng mà chịu. Ðức Phật Tổ đã dạy rằng: "Ta không vào địa ngục thì còn ai chịu vào?" Ðức Phật vào địa ngục còn không lùi bước mi mới bị đánh một đập mà đã không chịu được ư? Ngày trước Ðức Phật Tổ xả thân để nuôi chim ưng, xả thân cho cọp cắn. Ngài có tinh thần đại nhân đại nghĩa như vậy, sao mi không học lấy?
Du Thản Chi mỗi lần mở miệng than phiền với Duyên Căn là lại được nghe lão thống mạ thêm một hồi.
Sau gã không dám nói gì với lão nữa. Gã đành để cho số phận mình phải học chữ Phạn. Người ta thường nói: "Phúc đáo tâm linh." Có lẽ gã đến thời vận khá!
Tối hôm đó gã cởi áo đi ngủ, sờ vào bọc thấy cuốn sách của mình bọc giấy dầu.
Ðột nhiên gã nghĩ bụng:
- Văn tự trong sách này dường như cũng giống thứ văn tự mà sư phụ đương dạy mình.
Nghĩ vậy gã liền giở sách ra coi, nhận được hai chữ nhất cũng đọc là nhất, và một chữ tam cũng đọc là tam. Thế rồi bắt đầu gả thấy hứng thú trong việc tìm hiểu sách của mình. Gã tự nhủ: Trong sách nói gì mình không hiểu, nhưng nếu mình biết Phạn văn thì sẽ đọc được hết. Dù sao cuốn sách này cũng là bậc cao nhân cứu mạng cho mình. Ngày nọ trong thành Nam Kinh, A Tử cô nương bắt mình đem huyết nuôi trùng độc, nhờ sách này mà biết phép hóa nạn. Như vậy thì phương pháp trong này rất hữu dụng.
Từ lúc Du Thản Chi phát giác ra chuyện này gã không lấy việc học tập Phạn văn là một cực hình nữa, gã cố ghi câu sách cùng những lời thầy dạy, bởi gã cũng hy vọng một ngày kia sẽ đọc được cuốn sách trong bọc mình. Gã có linh cảm rằng cuốn sách đó ghi chép những đặc biệt, không thể cho Ba La Tinh hay biết được. Chỉ những lúc gã đi ngủ mới trùm chăn rồi hé ra xem lén một chút.
Những lúc gã coi văn tự trong sách, đồng thời gã coi cả hình người vẽ bên cạnh và dĩ nhiên gã không quên soi kỹ những đường chỉ vàng trong đồ hình, rồi gã dùng ý tưởng bắt đầu luyện công.
Du Thản Chi có ngờ đâu cuốn sách kinh này là Dịch Cân Kinh của Ðạt Ma Lão Tổ, vị thủy tổ chùa Thiếu Lâm viết ra. Cuốn kinh này là một bảo điển tối cao về võ học. Gã vô tình gã theo kinh sách mà tu luyện.
Kể ra thì tại chùa Thiếu Lâm từ mấy trăm năm nay không thiếu gì các vị cao tăng tu luyện Dịch Cân Linh, song tổn phí bao nhiêu ngày hằng mệt nhọc mà vẫn không được việc gì đặc sắc, nên các nhà sư cho là kinh này không linh nghiệm. Ðến ngày bị A châu lấy cắp đi, các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm tuy có đem lòng căm giận, nhưng vẫn không cho là môt việc quan hệ. Họ có biết đâu rằng sở dĩ những bậc cao tăng tu luyện không thành hiệu quả là vì chưa khám phá ra được hai chữ trước ý. Nếu càng để ý mong mỏi cho công lực chóng tiến bộ thì lại càng không thu lượm được kết quả cao.
Các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm cố tình luyện Dịch Cân Kinh mà chẳng ăn thua gì, còn Du Thản Chi thì trong lúc vô tình gặp nạn mà tu luyện thành hiệu quả.
Thật là:
Cố ý hoa hoa ủ rũ,
Vô tình tiếp liễu, liễu xanh om.
Trong đám tăng lữ chùa Thiếu Lâm hơn một trăm năm trước đây có vị thần tăng. Vị này xuất gia từ thuở nhỏ. Người có tính điên khùng. sư phụ nhà sư này cố tâm luyện Dịch Cân Kinh mà không thành giận quá ngồi viên tịch. Nhà sư vô tình lượm được cuốn kinh ở bên mình sư phụ mình, cười ha hả rồi bắt đầu luyện và sau thành một tay cao thủ phi thường. Nhưng cũng chỉ được một đời, võ công nhà sư đến cao cường thế mà đến lúc ngưồi viên tịch, thủy chung vẫn không nói ra được vì lẽ gì mà thành công. Mọi người chẳng ai hiểu đó là hiệu quả "Dịch Cân Kinh."
Du Thản chi vô tình luyện, gã không biết công lực mình mỗi ngày một tiến bộ, thì ra gã đi đúng con đường của nhà sư điên ngày trước.
Phạn văn rất khó học vì cách biến hóa phức tạp vô cùng.
Một hôm Ba La Tinh dạy Du Thản Chi đọc câu: Na la phạt đại đề" rồi lão cắt nghĩa:
- Có một cô gái tên là Na Phạt. Còn chữ "phạt đại đề" nghĩa là đang nói. Thế là chữ "Lạp" biến thành chữ "La"
Du Thản Chi nhớ kỹ rồi, một lúc sau, Ba La Tinh lại dạy câu: "Na Lạp Hách ba da đề" nghĩa là cô Na Lạp đang nấu cơm. Trong từ ngữ "ba da đề"có thanh âm Ba đứng trước nên chữ na Lạp đổi thành Na Lạp Hách.
Tiếp theo lão dạy đến câu: "Na Lạp Tự đế tư đặc cáp đề" nghĩa là cô Na Lạp đứng đó. Từ ngữ" Ðế tư đặc cáp đề", đứng đầu có âm "đế" nên chữ "Na Lạp" biến thành "Na Lạp Tư."
Du Thản Chi dương đôi mắt thao láo ra mà nghe đến co gân đút thịt vẫn ù ù cạc cạc.
Gã lẩm bẩm:
- Người Trung quốc nói vắn tắt và rõ ràng bằng một chữ "tram" (nghĩa là đúng) là đủ mà người Hồ bên Tâu Vực lại đọc thôi một tràng dài: "Ðề tư mạc cáp đề" gì gì không biết. Thế rồi một cô gái tên là "Na Lạp." Lúc cổ nói ra lại phải đổi thành "Na La", lúc cổ nấu cơm lại thành "Na Lạp Tư." Chà chà! Có cát tên cổ mà lúc nói lúc thổi cơm, lúc đứng lên đều biến đi. Không biết lúc cô ăn, đi ngủ, cô đi đường, cô mắng người, thì danh tự của cô còn biến ra gì gì nữa? ... Phạn văn đã khó nhọc như vậy thì tài trí Du Thản Chi không có cách nào hiểu được văn tự Dịch Cân Kinh?
Gã đành cứ đến tối luyện công theo sợi chỉ vàng xây trên hình người trong bản đồ.
Ban đầu gã chỉ là chơi, nhưng gã luyện được hơn nửa tháng, bất giác gã thấy luồng hơi mát mẽ theo lõi sợi chỉ vàng trong đồ hình mà đi vào thân thể gã. Luồng hơi này đi đến đâu thì các cơ thể trong người gã cực kỳ khoan khoái dễ chịu. Gã chẳng cần hiểu luồng hơi mát chu du lưu trong thân thể có lợi hại gì cho mình? Gã chỉ thấy khoan khoái dễ chịu là gã cứ luyện đều. Luồng hơi mát mẻ về sau đi quen đường, gã không cần xem sách, có cũng tự nhiên đi đúng đường không lầm lỡ.
Từ đó cả những lúc ăn cơm, lúc đi đường, lúc làm công việc hay đọc sách gã cũng vận động luồng hơi không ngớt.
Giả tỉ Du Thản Chi có tài thông minh để đọc sách như Ðoàn Dự, như Vương Ngọc Yến thì pho Dịch Cân Kinh này gã lại không luyện được đến chỗ thành tựu. Vì khi hiểu được ý nghĩa Phạn văn biết cách tu luyện tâm pháp vào hạng võ công cùng thượng thặng, điểm nào cũng để ý cũng cố gắng học đến chỗ tinh vi thì không khỏi phạm vào hai chữ trước ý. Môn này tuy làm cho thân thể người thêm phần cường kiện đẩy lùi được bệnh hoạn, song đối với những người đã có cõ công hạng thượng thặng thì không bổ ích gì.
Cuốn Dịch Cân Kinh này Kiều Phong đánh rớt. Du Thản Chi lượm được. Nhưng nếu Kiều Phong không để thất lạc, rồi ông học thêm chữ Phạn, luyện tập theo đúng phương pháp thì ông có là người khoáng đạt sáng suốt đến đâu, cũng không khỏi đem lòng mong mỏi cho công lực mình một ngày tinh tiến. Nếu luyện Dịch Cân Kinh theo lối đó thì chỉ tốn công vô ích mà thôi. Xem thế đủ biết lẽ cùng thông, họa, phúc, đều do cơ duyên quyết định, chớ không phải cưỡng cầu mà được.
Có luồng hơi mát không vận hành trong người Du Thản Chi theo đường lối trong đồ hình, thế là gã bỏ không luyện nữa.
Mà thật là kỳ quái! Có khi gã để cách mươi ngày hay nửa tháng mới luyện lại luồng hơi vẫn chạy thông đông không vấp váp.
Trong các môn võ học, bất luận môn gì cũng theo đà luyện tập mà tiến bộ thêm. Dù người cần mẩn đến đâu cũng khó có thể luyện qua sáu giờ trong một ngày, chỉ có môn "Dịch Cân Kinh" là không phải vận nội công, cũng không cần chú ý mà có thể vận hành không ngớt được. Nên dù lúc đang ngủ, công lực cũng tăng tiến.
Ðông tàn, Xuân lại Hạ qua, Thu tới, được hơn một năm.
Du Thản Chi ban đầu môn học Phạn văn cho hiểu nghĩa sách, nhưng càng học càng thấy khó. Gã muốn xem chừng muốn học cho thông nghĩa sách thì dù cặm cụi suốt đời cũng không thành công, nên gã bỏ ý niệm đó.
Ba La Tinh, cũng đâm ra chán nản, sau tức mình quá lão đánh đập Du Thản Chi luôn mấy ngày chứ không dạy chữ.
Du Thản Chi lặng lẽ chịu đòn, nhưng gã cảm thấy lão càng đánh nhiều cũng chẳng thấy gì, chỉ thấy hơi ngứa mà không đau đớn. Gã cho là Ba La Tinh đánh chịu đòn, chứ có hiểu đâu rằng công lực mình mỗi ngày mỗi tiến bộ và đã đến lúc tự bảo vệ được cho mình.
Một hôm xế chiều, Ba La Tinh dạy kinh sách một lúc, nhưng Du Thản Chi chẳng hiểu gì ráo. Lão tức quá phóng cả quyền cước hầm hầm đánh gã một hồi.
Nhưng lúc gã chạy rồi thì lão lại tự thương thân mình nét mặt buồn rầu vô hạn. Lão nghĩ mình bị quần tăng chùa Thiếu Lâm giam cầm không cho về cố hương. Lão toan dạy Phạn văn, Du Thản Chi để gã học thuộc kinh sách rồi cho gã về Thiên Trúc đọc lại thế thì mình dù có phải vì theo mệnh lệnh sư phụ mà xương táng quê người cũng đã góp được phần công đức với bản phái, là làm cho những kinh sách bị thất lạc trở về đất cu. Song gã mặt sắt ngu như trâu dốt như bò, cố dạy hơn một năm mà chưa thuộc nổi mười trang. Thế thì đến đời kiếp nào thì gã mới thuộc hết được ba mươi mấy pho kinh, chắc là đến lúc mình chết cũng chưa xong.
Lão bị thương rồi khóc rống lên một hồi thì đột nhiên tự đằng xa có khúc tiêu vọng lại thoang thoảng lọt vào tai lão.
Hiện nay nội công Du Thản Chi đã tiến đến mực mắt tinh, tai thính nên gã thoáng nghe tiếng sáo lọt vào tai. Chùa Thiếu Lâm phòng viện rộng lớn, sư sãi tu hành thanh tĩnh, cấm tiệt tiếng tơ tiếng trúc. Trong vòng mấy dặm, trước nay không nghe thấy tiếng âm nhạc bao giờ, vậy thì tiếng sáo này ở đâu mà ra?
Du Thản Chi không hiểu nhạc luật, song gã nghe rõ tiếng sáo lúc nhát gừng, lúc liên tục khi lên bổng khi xuống trầm, thanh âm cực kì quái dị.
Gã còn đang ngơ ngẩn kinh ngạc, bỗng nghe bên kia vách ngăn trong phòng Ba La Tinh, cũng nổi lên ba hồi sáo lanh lảnh. Gã liền ghé mắt vào kẽ vách để nhìn sang thì thấy Ba La Tinh tay cầm ống sáo ngắn để lên môi đang thổi. Nhưng lão chỉ thổi ba hồi rồi hạ xuống đút vào bọc vẻ mặt tươi cười hớn hở, vùi đầu vào xuống ngủ.
Từ ngày Du Thản Chi đến ở với Ba La Tinh, chưa bao giờ lão thấy gã hí hửng như bữa nay thì tự hỏi:
- Mấy tiếng sáo vừa rồi hẳn là điều gì quan trọng? Phải chăng lão có đồng bạn ở bên Thiên Trúc qua đây đã tiếp ứng cho lão? Mấy tiếng sáo này Ba La Tinh và Du Thản Chi dĩ nhiên đã nghe thấy rồi, vậy chắc trong chùa Thiếu Lâm cũng có mấy vị cao tăng nghe rõ. Quả nhiên chưởng môn phương trượng truyền pháp dụ ra cho các nơi phải gia tâm phòng bị để cản trở địch nhân xông vào chùa Thiếu Lâm đồng thời phải coi chừng Ba La Tinh, đừng để cho lão trốn thoát.
Ngờ đâu nửa tháng trời, tuyệt không có sự gì xảy ra, mà cũng không có động tĩnh nào khác lạ.
Việc đề phòng tại chùa Thiếu Lâm dần dần trở lại sơ thoáng trễ tràng.
Một đêm kia, giữa lúc canh khuya Du Thản Chi đang ngủ say bất thình lình bỗng nghe có tiếng"chí chí"rất khẽ. Một là hiện nay nội công gã tinh tiến, hai là gã thích chơi rắn rết từ thuở nhỏ, nên vừa nge tiếng rắn độc phì phì là gã biết ngay.
Gã ngồi nhỏm dậy lắng tai nghe thì phát giác ra rằng"chí chí"đó ngay ở phòng bên.
Du Thản Chi toan lên tiếng đánh thức Ba La Tinh phải đề phòng có rắn độc bò đến.
Gã chưa kịp mở miệng thì lại nghe mấy tiếng sáo vu vi giống hệt những tiếng mà Ba La Tinh đã thổi trước đây trên nửa tháng.
Du Thản Chi động tánh hiếu kì, lại ghé mắt qua khe vách ván. Thì eo ôi! Ðầy phòng Ba La Tinh toàn là rắn độc cỡ có đến mấy ngàn con. Con nào cũng cất đầu lên ngất ngưỡng nhìn Ba La Tinh, dường như muốn nhảy xổ vào.
Du Thản Chi lẩm bẩm:
- Chí nguy! Thật là chí nguy! Tìm cách nào mà cứu được lão bây giờ?
Gã định thần nhìn thì thây đàn rắn dừng lại xung quanh Ba La Tinh còn cách ngoài ba thước, mặc dầu những con bên ngoài bò đẩy những con trong cũng chỉ đứng lại trước cái vòng tròn vô hình không xê xịch tiến thêm một tấc nào nữa.
Du Thản Chi nhớ lại bữa trước nhà sư Tam Tĩnh dùng thuốc kỵ vạch vòng tròn để ngăn ngừa con tằm kỳ dị không dám tiến qua, gã chắc rằng Ba La Tinh cũng dùng được vật gì khắc chế các loài rắn độc như Tam Tĩnh đã kiềm chế con tằm kỳ dị kia.
Nghĩ vậy, Du Thản Chi cảm thấy trong lòng ổn định được một chút. Gã chỉ còn chưa hiểu rõ một vấn đề:
- Tại sao bao nhiêu rắn độc ùn ùn kéo về đây?
Bỗng thấy Ba La Tinh cầm ống sáo đưa lên miệng thổi.
Nhưng lần này lão thổi một khúc nhạc rất du dương rất êm ái lọt tai.
Trong mấy ngàn con rắn độc này, bỗng có hai con sắc vàng lắc lư theo nhịp của tiếng sáo. Còn ngoài ra cả đàn rắn: xanh có, đen có, sặc sở có, thì chỉ ngếch đầu lên mà nhìn, chứ không nhúc nhích, nên hai con sắc vàng lắc lư cái đầu theo nhịp nhạc trông càng rõ rệt.
Tiếng sáo của Ba La Tinh mỗi lúc một lên cao, mấy con rắn đi lượn vòng vèo ra ngoài nhá chơi, rồi hơn chục con khác cũng theo ra.
Bất thình lình ngoài cửa có tiếng người kinh hải, la lên:
- Rắn độc! Trời ơi! Rắn độc kéo đến đông quá!
Lại có tiếng người khác nói tiếp:
- Vị Hồ tăng bên Thiên Trúc không chừng bị rắn độc cắn chết rồi? Không hiểu tại sao rắn về nhiều thế?
Một người nữa lại nói:
- Hãy khoan đừng nhhốn nháo! Ðể coi cho rõ rồi sẽ báo.
Du Thản Chi biết ngay đây là những nhà sư chùa Thiếu Lâm đến để canh chừng Ba La Tinh.
Ba la Tinh thổi sáo mỗi lúc một lên cao.
Ðàn rắn độc trong phòng mổi lúc ra ngoài một đông, dường như lũ rắn không chịu nổi tiếng sáo bổng và réo rắt, chúng tới tấp chạy đi. Số đông cất đầu lên rất cao, chỉ còn khúc đuôi ở dưới đất chống lấy cái mình ngất ngểu múa lên.
Ba La Tinh thổi sáo một hồi nữa thì dường như hết hơi.
Ðàn rắn độc trong nhà tranh nhau chạy ra.
Bốn nhà sư đứng ngoài cửa la lối om sòm.
- Lạ quá! Suốt đời tôi chưa bao giờ thấy nhiều rắn như bữa nay!
Có vị nói:
- Phải chăng vị hòa thượng Thiên Trúc này nguyên là xà linh xuất thế?
Có vị nói:
- Ta phải mau mau về bảo với Huyền Nạn sư bá!
Hai con rắn vàng sau bò lại rất nhanh khiến cho Du Thản Chi trông thấy phải hoa mắt.
Ðột nhiên đánh"bịch"một tiếng, một con rắn vàng không chống nỗi nữa, ngã lăn ra nằm dãy. Tiếp theo con rắn vàng kia cũng ngã xuống.
Ba La Tinh vương tay ra nắm lấy một con. Lão lấy một miếng vải dày phủ lên đầu nó lật ngửa con rắn lên sờ soạn một lúc rồi lấy lưỡi dao con rạch vào dụng rắn một đường dài chừng nữa tấc. Ðoạn lão nắn đi nắn lại mấy cái rút ra một cái ống dài chừng ba tấc tựa hồ như một khúc ruột non.
Ba La Tinh người run run bốc ra. bên ngoài có một cuộn tròn nhỏ xíu.
Lão mở ra thì là một mảnh giấy rất mỏng có viết chữ nhỏ dày chi chít.
Du Thản Chi rất lấy làm kỳ, tự hỏi:
- Tại sao trong bụng rắn lại có chữ?
Gã ngưng thần coi kỹ lại thì thấy trên chữ trên mãnh giấy này ngoằn ngoèo theo lối chữ Phạn nước Thiên Trúc. Bấy giờ gã mới tỉnh ngộ, lẩm bẩm một mình:
- Phải rồi! Con rắn này là của đồng bọn lão ta cho đến để đưa tin.
Du Thản Chi còn đang ngẫm nghĩ thì thấy Ba La Tinh lại theo cách trước mổ bụng con rắn vàng thứ hai và lấy ra khúc nữa trong cũng có một mảnh giấy.
Lão mở mảnh giấy ra xem.
Du Thản Chi chú ý nhìn trộm thì văn tự trong mảnh giấy này giống hệt mảnh giấy trước.
Ba La Tinh đưa mắt đọc chữ trên mảnh giấy một lượt rồi để sang một bên.
Du Thản Chi lẩm bẩm:
- Ðối phương hành động cực kỳ chu đáo, họ sợ một con rắn đọc dọc đường có thể xảy ra chuyện bất ngờ nên dùng hai con rắn đem tin. Thư tín trong bụng hai con rắn cũng chỉ coi là một.
Bỗng thấy Ba La Tinh lật dưới chiếu lên lấy ra một mảnh giấy mỏng dùng hòn than nhỏ viết mấy hàng chữ rất nhanh rồi cũng cuốn lại cho vào khúc ruột giả ấy nhét vào bụng rắn.
Lão lại xé một mảnh áo buộc vết thương lại cho hai con rắn.
Ðoạn lão mở cửa liệng một con vào đống cỏ rậm. lão toan thả nốt con rắn thứ hai thì đột nhiên đánh"binh"một tiếng ván cửa bị chưởng phong đánh bật ra.
Ðèn lửa trong nhà bị luồng gió tạt đi.
Giữa lúc này trong phòng xuất hiện thêm bốn vị lão tăng.
Nhà sư đứng đầu bên tã phóng chưởng ra trên không vù vù mấy tiếng nhằm đánh vào tay phải Ba La Tinh.
Ba La Tinh cảm thấy tay phải bị tê nhức. Con rắn cầm trong tay này đánh rơi xuống đất.
Nhà sư đầu mé hữu đưa ngón tay ra lách cách mấy tiếng con rắn nhảy lên một cái.
Sau mấy tiếng bật ngón tay, đầu rắn sưng húp lên huyết nhục nhão ra, liền chết tại chỗ.
Du Thản Chi cả kinh nghĩ thầm:
- Thần công vị lão hòa thượng này đến thế là cùng! Bật tay trên không mà đánh chết được con rắn.
Bỗng thấy nhà sư vừa đánh chết con rắn lên tiếng:
- Vị thần phải nể cây da. Tệ tự kính ngưỡng Ðức Phật Tổ nên sư huynh phạm lỗi lớn là lén vào Tàng Kinh Lâu lấy trộm sách cũng bỏ đi không cứu xét. Tệ tự chỉ lưu sư huynh lại để trọn kiếp tu hành. Thế mà sư huynh gọi rắn rết về nơi cửa Phật là chỗ thanh tịnh làm gì? Như vậy há phải hành động của bậc chân tu!
Ba La Tinh chỉ nhắm mắt chắp tay nhưng không nói gì.
Một vị lão tăng khác nói:
- Con rắn này tất có điều chi kỳ lạ. Tam Thông! Ngươi lượm con rắn đó đem ra ngoài xem xét lại coi. Tại sao mình nó lại quấn băng vải.
Ba La Tinh nghe nói vậy biết rằng cơ mưu của mình đã bị bại lộ, liền phóng chưởng ra nhằm đánh vào con rắn.
Một vị lão tăng đứng ngoài cửa, phất tay áo thầy tu một cái, một luồng kình phong phát ra vù vù cản luồng chưởng phong của Ba La Tinh lại.
Ðồng thời đèn lửa trong phòng tắt phụt. Bụi bặm cùng vôi vữa trên nóc nhà rơi xuống lả tả.
Một nhà sư đứng tuổi ở ngoài cửa chính là Tam Thông cúi xuống lượm con rắn chết lên rồi lui ra ngoài.
Bốn vị lão tăng đồng thời cất tiếng niện:
- Nam mô Phật tổ cứu độ chúng sinh!
Ðồng thời phất tay áo một cái, luồng chưởng phong nổi lên cực mạnh, tấm ván cửa bật ra rồi bay đi rất xa lâu lắm mới rớt xuống.
Bốn nhà sư cũng băng mình ra cửa cùng môt lúc, không có kẻ trước người sau.
Kể ra khuôn cửa này chỉ rộng đủ chỗ cho hai nhà sư sóng vai ấy ra.
Ấy thế mà cả bốn vị vừa né lách coi như một phiến liền bay ra lọt mới kỳ.
Du Thản Chi đứng ở phòng bên thấy thế không khỏi sinh hồn động phách, lẩm bẩm:
- Trên thế gian sao lại có hạng võ công ghê gớm đến thế? Kẻ đại cừu của ta là Kiều Phong tự xưng "Thiên hạ vô địch" nhưng đem so với mấy vị cao tăng này chưa chắc thấm vào đâu?
Thật ra bốn vị lão tăng này tuy công lực thâm hậu nhưng so với Kiều Phong một tay thần võ, hãy còn kém xa.
Kể về võ công thì hiện giờ Du Thản Chi cũng đã hơn bốn vị lão tăng nầy rồi. Có điều gã không tự biết mà thôi.
Ba La Tinh thấy bốn nhà sư ra khỏi rồi, ván cửa cũng rời ra.
Những trận gió thu thổi ào ào vào phòng càng tăng thêm vẻ tiêu điều.
Lão nghĩ tới con hoàng xà đã vào tay đối phương, lại chùa Thiếu Lâm thế nào chả có người hiểu Phạn văn và những điều bí mật của mình tất bị họ khám phá. Thế là giấc mộng trở về Thiên Trúc lại tan ra bọt nước.
Lão càng nghĩ càng buồn rầu, rồi đột nhiên nằm phục xuống khóc rống lên.
Du Thản Chi thấy Ba La Tinh khóc lóc cực kỳ thống thiết, trong lòng bất nhẫn lên tiếng an ủi lão:
- Sư phụ! Mới có một con rắn bị họ đánh chết, còn con kia trốn thoát rồi cũng đủ đưa tin đi, hà tất sư phụ phải đau lòng như vậy?
Ba La Tinh nghe lão nói thế, ngừng bật tiếng khóc, bảo:
- Ngươi... Ngươi ra đây!
Du Thản Chi đứng dậy chạy ra phòng lão nói:
- Tiểu nhân đi tìm những tấm ván cửa lấp lại đã!
Ba La Tinh nói:
- Khoan đã! Sao ngươi biết ta còn một con rắn nữa trốn thoát?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân nhìn rõ cả sư phụ nhét một miếng giấy vào bụng nó.
Ba La Tinh đáp:
- Hừ! Không phải tâm ta độc ác với ngươi, nhưng ngươi đã phát giác ra điều bí mật của ta. Vậy ta dung ngươi thế nào được?
Nói xong đột nhiên lão đứng phắt dậy nhảy xổ tới sau lưng Du Thản Chi, giơ hai tay ra bóp chặt cổ gã.
Du Thản Chi bị Ba La Tinh nghẹn cổ muốn hô hoán lên, nhưng không kêu ra tiếng được.
Gã thấy bốn ngón tay lão cứng như sắt mội lúc một ghịt chặt thêm.
Gã bị người đè nén ngược đãi quen rồi, không nghĩ gì đến ra tay kháng cự.
Trong lòng gã những muốn năn nỉ:
- Sư phụ ơi! Xin sư phụ nới tay! Tiểu nhân không dám đưa việc hoàng xà đó nói với ai đâu?
Mà không sao nói ra được.
Ba La Tinh không sao nghe tiếng gã lầm bầm mà dù cho lão có nghe thấy chăng nữa, cũng không chịu dung tha.
Du Thản Chi vừa đau đớn vừa sợ hải quá, quỳ mọp ngay xuống nhưng Ba La Tinh chỉ mỗi lúc một rít chặt tay thêm.
Du Thản Chi thấy tối tăm mặt mũi, nghĩ thầm:
- Phen này ta đành chịu chết rồi!
Bỗng nghe phía sau có người hắng giọng rồi lên tiếng nói:
- Ba La Tinh thấy có hai nhà sư Thiếu lâm đến nơi, đành phải buông Du Thản Chi, giọng xẳng hỏi:
- Các ngươi đến đây có việc chi?
Một nhà sư Thiếu Lâm lùi lại một bước, nấp vào sau nhà sư kia rồi mở mảnh giấy đọc mấy câu li la li lô, đoạn nói tiếp:
- Bức thư gởi cho đại sư đại ý nói: đến đêm trăng tròn sau người sẽ đến chùa để đón đại sư. Ha ha! Ðáng tiếc, thật là đáng tiếc.
Ba La Tinh hỏi:
- Tiếc cái gì?
Nhà sư kia nói:
- Ðáng tiếc không giữ được kín đáo. Phong bì này bị bần tăng khám phá ra được.
Ba La Tinh cáu tiết nói:
- Bọn Hòa Thượng Trung Nguyên các ngươi đều là phường vong ân bội nghĩa. Các ngươi đã qua bên Thiên Trúc lấy kinh về rồi giữ làm của mình. Ta đây bất quá mượn xem lại chỉ vì các kinh này cũng chỉ của Thiên Trúc mà ra. Các ngươi uống nước mà không biết nhớ nguồn. Sao không nghĩ đến chỗ những king sách vì đâu mà có?
Nhà sư kia đáp:
- Nếu sư huynh chỉ coi kinh cũ của Thiên Trúc thì chúng tôi quyết không ngăn trở làm gì. Ðừng nói sư huynh lấy ra đọc, mà có bản sao lại thì chùa Thiếu Lâm chúng tôi cũng xin làm giúp để hoàn thành công đức là đã giữ được những pho kinh cũ quy hoàn bên Thiên Trúc. Nhưng sư huynh lại xem trộm những bí lục về võ học của các vị cao tăng bao nhiêu đời của chùa Thiếu Lâm soạn ra. Như thế thì không thể được.
Ba La Tinh tức giận nói:
- Ta đọc là đọc những kinh sách bằng chữ Phạn của nước Thiên Trúc bọn sư sãi Trung Nguyên các ngươi làm gì có kinh sách bằng chữ Phạn?
Nhà sư kia đáp:
- Ấy chính chỗ đó mới là kỳ dị...
Du Thản Chi nghe hai bên tranh biện, cũng đem lòng suy luận xem ai phải ai trái.
Gã lẩm bẩm:
- Kể ra thì chùa Thiếu Lâm đối xử với nhà sư Thiên Trúc không có gì quá đáng, chỉ giữ lão không cho rời khỏi chùa này mà thôi. Nhưng biết đâu canh khuya tịch mịch, lão không giết mình. Nếu bây giờ không trốn đi, e rằng khó lòng toàn mạng.
Nghĩ vậy gã rảo bước ra khỏi rừng trúc, quanh qua vườn rau, gã nhìn không thấy ai liền co giò chạy tuốt. Gã chạy mỗi lúc một mau thoáng cái đã qua hai ngọn núi. Gã cảm thấy nhẹ nhàng gặp những tảng đá lớn, gã chỉ khoa chân một cái nhảy qua, hay gặp khe lạch, gã chỉ đề thí là nhảy sang bờ bên kia như không?
Du Thản Chi cắm cổ chạy một lèo. Khi ngoảng đầu lại coi thấy chùa Thiếu Lâm ẩn hiện trong đám rừng cây và cách đã xa rồi.
Gã dừng bước lại, trong lòng rất lấy làm quái dị tự hỏi:
- Sao mình chạy được nhiều đường đất đến thế mà không chút mệt nhọc? Sao mình chạy bước lại mau lẹ khác thường? Hay là... có ma đưa lối quỷ đem đường?
Du Thản Chi đang ngẫm nghĩ, bỗng thấy những ngọn khói cuồn cuộn bốc lên trên không ở phía sau chùa, thì khinh sợ lẩm bẩm:
- Chà chà! Trong chùa đang nấu cơm. Lát nữa Ba La Tinh bảo mình đi lấy cơm, lão không thấy tất lên tiếng gọi và bọn thầy chùa tất đuổi theo mình.
Nghĩ tình cảnh bị bắt về chùa, chắc chết mất mạng, gã lại co dò chạy tuốt.
Lần này gã hoang mang quá không phân biệt đường lối cứ nhằm vào đám rừng hoang rậm rạp mà chạy dài, với ý nghĩ xa chùa Thiếu Lâm được chừng nào hay chừng nấy.
Du Thản Chi chạy hồi lâu, quay đầu nhìn lại phía chùa Thiếu Lâm thì thấy rừng núi trùng điệp, không còn thấy mái chùa đâu nữa, gã đã hơi yên dạ. Nhưng gã vẫn chưa hết băn khoăn, lủi vào trong bụi cỏ rậm để nghe ngóng bốn mặt xem có động tịnh gì không.
Trong hang động chim hót líu lo, trùng kêu rộn rã. Giữa cảnh hoang vu u tịch, về góc Tây bắc, đột nhiên có hồi sáo thổi vọng lại.
Du Thản Chi giật mình đánh thót một cái, vì tiếng sáo này giống hệt tiếng sáo Ba La Tinh thổi hôm trước để gọi rắn độc về.
Gã toan đứng dậy chạy trốn mà không hiểu tại sao chân mình tựa hồ đóng đinh xuống đất không sao nhúc nhích được.
Gã lại càng hoảng hốt la thêm "Có ma! Có ma!."
Thực ra chỉ vì gã khiếp sợ quá và cặp giò nhủn ra.
Tiếng sáo mỗi lúc một gần, Du Thản Chi ngồi trong cỏ rậm dương mắt lên nhìn thì thấy trên sườn núi mé Tây Bắc có hơn mười nhà sư người Hồ, mình mặc áo vàng để lộ tay trái ra ngoài.
Người nào mặt cũng đen thui, rõ ràng cùng một chủng tộc với Ba La Tinh.
Bọn Hồ tăng này chạy đến đầu mé núi tả thì xếp bằng ngồi xuống, cứ bốn người một chỗ, cả thảy mười sáu người.
-
Hồi 54 - Cuộc Tỉ Thí Nội Công Giữa Hai Phái Tinh Tú và Hồ Tăng - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 54 - Cuộc Tỉ Thí Nội Công Giữa Hai Phái Tinh Tú và Hồ Tăng
Du Thản Chi rất lấy làm kỳ nghĩ thầm:
- Chốn này hoang sơn tịch mịch, tứ phía không người, mười sáu nhà sư người Hồ giở trò yêu ngoa quỷ quái gì đây? Chẳng lẽ họ đến tìm mình?
Sự thực tuy không phải thế, nhưng gã như con chim phải tên sợ cây cung, gã nấp vào trong bụi cỏ rậm, không dám nhúc nhích.
Bỗng thấy mười sáu vị Hồ tăng ngồi xuống rồi miệng đọc lâm râm. Lúc đầu thanh âm nhỏ như tiếng muỗi vo ve, rồi dần dần một lúc một cao giọng.
Du Thản Chi thấy họ niệm những gì "Mầu ni ha ma hống" dường như là những câu thần chú tiếng Phạn. Mỗi khi gã nghe những từ ngữ đoạn văn là y như nhức đầu, bọn Hồ tăng này lại tụng niệm thanh âm vang dội, cả mười sáu người cùng một giọng giống nhau lúc khoan lúc nhặt, khi ngắn khi dài.
Cả mười sáu người tụng niệm rất đều nhau, khác nào do miệng một người phát ra thanh âm.
Lúc tiếng tụng niệm lên cao đến cùng cực thì góc Ðông Bắc vọng lại mấy tiếng u ú khác nào tiếng quỷ hú lúc canh ba, thanh âm này tuy nhỏ bé mà người nghe không khỏi ớn da gà. Thanh âm vừa vọng đến thì tiếng tụng niệm mười sáu gã Hồ tăng lập tức rối loạn, song chỉ một lát lại đồng đều như trước.
Tiếng u ú như quỷ hồn vang lên hai lượt thì thanh âm tụng niệm Phạn ngữ của Hồ tăng cũng bị nhốn nháo hai lần.
Du Thản Chi để ý nhìn vẻ mặt mười sáu vị Hồ tăng thì thấy có người ra chiều phẫn nộ, có người lộ vẻ kinh hoàng.
Bây giờ mười sáu người này chia làm chia làm hai toán: một toán tám người tụng niệm tiếng Phạn, còn một toán nữa lại tụng niệm lối khác.
Ðồng thời thanh âm bên kia cũng phân làm hai loại rú lên hai thứ tiếng"ú ú""toe toe" khác nhau.
Thanh âm bọn Hồ tăng lại hỗn loạn rồi chia làm bốn tốp, tụng niệm bốn loại thần chú khác nhau.
Du Thản Chi dường như đã đoán ra bảy tám phần. gã tự hỏi:
- Bọn chống đối đám Hồ tăng là ai?
Rồi gã tự trả lời:
- Ðương nhiên là các nhà sư chùa Thiếu Lâm. Chắc hẳn bọn Hồ tăng này đến tiếp viện đón Ba La Tinh về nước và một đằng các nhà ư chùa Thiếu Lâm nhất định giữ lại không buông tha.
Gã suy nghĩ một lát rồi biết mình đoán lầm một phần.
Từ góc Ðông Bắc một toán người từ từ đi đến.
Giữa đám người này có một lão già thân thể cao to lớn vạm vỡ, so với người xung quanh cao hơn nửa cái đầu.
Lão này chúm môi huýt sáo. Mỗi lần huýt sáo lạinphát ra tiếng "vú" như quỷ gào.
Tám người này đều mặc áo đơm bằng vải gai màu vàng và mỗi người đều cầm một cây cương trượng vừa dài vừa lớn.
Ðặc biệt là trong tay lão già cầm một cây quạt lông. Sắc mặt hồng hào tươi đẹp như người còn ít tuổi. Ðầu tóc lão bạc phơ. Dưới cằm ba thước rau bạc. Trông lão khác nào như một vị tiên đồng nhan hạt phát trong tranh vẽ.
Toán người này đi lại còn cách bọn Hồ tăng vài trượng thì dừng bước.
Lão già chúm môi huýt sáo phát ra mấy tiếng rùng rợn.
Bọn Hồ tăng không chống nổi, ba người công lực kém nhất ngã lăn ra trước.
Lão già khẽ phe phẩy quạt lông lại huýt sáo mấy hồi nữa, lão dùng quạt lông quạt một cái tiếng sáo phóng ra xa.
Bốn Hồ tăng khác ngồi đối diện với lão lại ngã lăn ra.
Tình trạng này khiến cho các nhà sư người Hồ tụng niệm Phạn chú hoảng loạn cả lên.
Còn chín lão Hồ tăng gắng gượng chống chọi, đồng thời lộn đầu xuống giơ chân lên, xoay tít người.
Du Thản Chi đã nhìn thấy Ba La Tinh hôm trước đây dùng thân pháp này để kháng cự các nhà sư chùa Thiếu Lâm.
Gã biết rằng đây là một thế võ oai lực rất mạnh của bọn Hồ tăng.
Lão già phe kia lộ vẻ mỉm cười nhằm đúng chỗ sơ hở của đối phương lại huýt sáo "toe toe" lên một tiếng.
Bên Hồ tăng có người té theo, có người nghiêng mình đi tránh được, chỉ lảo đảo mấy cái rồi đứng vững lại.
Tiếng huýt sáo của lão già chẳng khác gì một thứ ám khí hũu chất vô hình lợi hại.
Trong khoảng thời gian chừng hơn cháy hết tuần hương, chín lão Hồ tăng lại có bốn lão ngã xuống.
Bọn người tùy tùng lão già phe kia thi nhau tán tụng lão.
Nào là:
- Công lực sư phụ thật chấn động cổ kim. Bọn Hồ tăng kia chống đối với phái ta phỏng khác gì lùa đom đóm tranh sáng với ánh mặt trời.
Nào là:
- Ðối phương tựa hồ châu chấu đá voi, không biết tự lượng sức mình. Buồn cười quá!
Nào là:
- Sư phụ giởn chơi mà đẩy được bọn yêu ma quỷ quái vào đất chết, khác nào nhổ cỏ khô bẻ cành mục. bọn đồ nhi chẳng những chưa từng mắt thấy mà cũng chưa từng được nghe ai nói đến bao giờ.
Nào là:
- Ðây là một kỳ công vỉ tích không tiền khoáng hậu. Nếu không có sư phụ thì bọn Hồ tăng bên Thiên Trúc này coi Ðông thổ không còn có ai, mà bọn họ hoành hành không còn úy kỵ gì nữa. Nào là; - Có điều đáng tiếc là những nhân sĩ của các phái võ Trung Nguyên chưa được chứng kiến cuộc này, nên dù có kể lại họ nghe thì những người hũ hậu đó chưa chắc đã tin là sự thực.
Bọn đồ đệ xúm vào tán tụng sư phụ chẳng hiểu câu gì.
Nhưng lão già vẫn chúm môi huýt sáo.
Tiếng sáo nhọn như mũi tên bắn ra tuyệt không để làm cho lời ca tụng làm trở ngại.
Tình thế đã rõ rệt! Lão già chỉ thổi mấy hơi nữa là mười sáu lão Hồ Tăng đều bị chế phục, thốt nhiên đến nỗi lên mấy tiếng sáo lanh lãnh do một người trong đám Hồ Tăng thổi lên.
Du Thản Chi chú ý nhìn ra thấy một người trong năm vị Hồ Tăng đứng lộn ngược, đưa ống sáo lên miệng gắng sức thổi. Còn bốn nhà sư kia bày thành hàng chữ nhất xoay chuyển rất mau như đèn kéo quân để hộ vệ cho lão đứng giữa thổi sáo và ngăn ngừa cho tiếng sáo huýt bên địch không xâm nhập.
Du Thản Chi hỏi:
- Y thổi ống sáo làm chi vậy?
Bỗng thấy trong đám cỏ rậm bên cạnh mình có tiếng phì phì. Một con rắn ngũ sắc chiếu ra, Du Thản Chi biết con rắn này cực độc. Gã còn biết rõ rằng dù người có sợ rắn, mà thực ra thì bất luận là rắn độc, hay ác thú vẫn sợ người hơn là người sợ chúng. Miễn là người đừng trêu cho nó tức giận thì không bao giờ nó nhảy vào cắn người.
Nghĩ vậy gã nằm im thin thít trong đống cỏ không dám nhút nhích.
Gã nhìn thấy con rắn độc này đứng thẳng đầu lên ngất ngưởng đi về phía lão già.
Trước khi con rắn chưa ra khỏi bụi rậm, bọn đệ tử đứng bên lão già đã sợ hãi, có kẻ la:
- Rắn độc! Rắn độc!
Tên khác la:
- Chao ôi! Nguy rồi!
Tên khác gọi:
- Sư phụ ơi! Bọn rắn độc dường như xông lại phía chúng ta.
Du Thản Chi ngước mắt nhìn ra ngoài thì thấy mười mấy con rắn đủ cỡ bốn mặt xông vào lão già cùng bọn đệ tử. Bọn này lại kêu loạn lên. Nào là:
- Ðáng tiếc là chiếc Bích Ngọc Vương Ðỉnh kỵ rắn lại không có ở đây!
Nào là:
- Con tiện tỳ A Tử! Phen này bắt được nó thì phải phanh thây làm muôn đoạn!
Nào là:
- Nói lắm vô ích, đánh mau đi, đánh mau đi?
Nào là:
- A Tử không ăn cắp đỉnh ngọc đem đi thì... chao ôi! Nguy rồi!
Du Thản Chi nghe bọn này đề cập đến A Tử, ban đầu gã còn cho là người khác. Sau gã nghe thấy một người nói đến A Tử và đề cập đến đỉnh ngọc là vật chi bảo để chế khắc rắn độc thì trống ngực gã đánh thình thình.
Gã lẩm bẩm:
- Ðúng là bọn chúng nói tới cô nương rồi. Chẳng lẽ cái đỉnh ngọc đó cô nương đã lấy trộm của bọn chúng đem đi.
Bọn đệ tử giơ cương trượng lên nhắm vào chỗ lũ rắn độc bò đến đập xuống.
Chỉ có lão già thần sắc vẫn thản nhiên và chúm chím môi huýt sáo nhắm đối phương tấn công.
Bọn Hồ Tăng đứng đối diện thấy tiếng sáo huýt không ngớt, bốn lão Hồ tăng kia lại càng hồi hộp.
Du Thản Chi nghĩ bụng:
- Khu vực này bát ngát thì mấy con rắn độc kia chỉ một lúc là bị bọn họ dùng cương trượng đánh chết hết, chứ làm cóc gì được?
Nhưng đàn rắn đến mỗi lúc mỗi nhiều.
Chỉ trong khoảnh khắc xung quanh bọn người này đã có đến hàng mấy trăm con tụ tập. Trong đám này lại có đến ba bốn con trăn lớn.
Mấy con rắn lại gần đến nơi hất khúc đuôi lên trước quấn chặt lấy hai tên đồ đệ tiếp theo lại hai tên nữa bị trăn quấn. Kể ra thì khi bọn này vừa thấy rắn mà co giò trốn chạy thì đàn rắn thế nào đuổi kịp được. Nhưng khốn nổi sư phụ còn đang nghinh địch, khi nào đồ đệ dám bỏ đi. Chúng đánh múa tít binh khi 1đập xuống ầm ầm. Họ đập một lúc chết được tám chín chục con, nhưng cũng đến bảy tám tên phải bị rắn cắn bị thương.
Mấy con trăn thực là lợi hại, da to thịt dầy, bị cương trượng đánh mà nó vẫn còn đi được như không việc gì. Khi nó đã quấn được thì mỗi lúc một chặt thêm không không chịu buông tha.
Tiếng sáo thổi mỗi lúc một gay gắt thêm thì đồng thời giống trăn lớn cũng đến nhiều.
Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bửa cơm đã thấy gần hai mươi con bò lại.
Lão già thấy tình thế nguy cấp toan bỏ chạy, không ngờ bị hai con rắn nhỏ bất thình lình nhảy chồm lên cắn vào mặt.
Lão giận quá quát lên một tiếng:
- Gớm thật! Rồi vung quạt lông đánh mạnh ra. hai con rắn nhỏ bị đánh rớt xuống, đột nhiên lão lại thấy một vật nhũn ở gót chân. Lão biết là nguy rồi, liền nhảy vọt lên cao. Bỗng nghe mấy tiếng sáo lanh lảnh, bốn con trăn đồng thời tung khẩu đuôi lên quấn đuôi vào người lão.
Lão già còn đang lơ lửng trên không phóng hai chưởng ra đánh "binh binh."
Lập tức hai con trăn ở trước mặt và bên tả bị hất ra, chúng loạng choạng rồi bắn ra hai trượng.
Giữa lúc ấy hai con trăn lớn khác lại tung khấu đuôi đánh tới.
Trong lúc nguy cấp lão vận kinh lực đoạn đánh ra một chưởng. Chưởng phong cực kỳ mãnh liệt đánh đập nát đầu con trăn. Lúc này lão mãi vận kình lực để chống cự với những con trăn lớn, miệng không huýt sáo được.
Bốn vị Hồ Tăng nhân lúc rãnh tay đều lấy ống sáo ngắn ra thổi lên.
Lúc năm ống sáo cùng lên tiếng thì đàn rắn độc ào ào kéo đến như nước thủy triều. Tuy lão già đã đánh chết được ba bốn con trăn lớn. Nhưng sau lưng cùng trên đùi lại bị hai con khác quấn chặt.
Lão già hết sức bình sinh quát lên một tiếng khiến cho con trăn trên lưng lão bị đứt làm hai đoạn. Máu tươi đã chảy đỏ lòm khắp mình mẩy.
Giống trăn thực là dai sức, tuy nó bị đứt rồi mà không chết ngay. Nó nhịn đau vặn thật mạnh khiến cho xương cốt lão cơ hồ muốn gãy.
Lão già hết sức kháng cự thì lại có hai con trăn lớn khác nhảy lại quấn lấy lão, đồng thời quấn cả hai tay, khiến cho lão không còn cách nào kháng cự được.
Du Thản Chi ở trong đám cỏ rậm ngó thấy tình cảnh kinh hồn động phách này, cũng sợ tán hồn, dường như nghẹt thở.
Bọn Hồ Tăng thấy mọi người bên địch bị rắn trăn cuốn chặt chỉ còn tiếng rên rĩ nhiếc mắng mà không còn kháng cự được, nên hô không thổi sáo nữa. Bọn họ lại cất đầu lên hạ chân xuống đứng dậy.
Lão Hồ tăng thổi sáo trước tiên, đầy mặt râu quặp, rõ ràng là thủ lĩnh bọn họ, lão tiến lại mấy bước dỏng dạc hỏi:
- Tinh Tú Lão Quái! Bọn ngươi và bọn ta đều đến Trung Nguyên, hai bên không can thiệp gì đến nhau, sao ngươi lại bắt con rắn lớn của ta nuôi đem mổ bụng?
Nguyên lão già mặt mũi hồng hào đầu tóc bạc phơ phảng phất như tiên ông kia chính là Tinh Tú Lão Quái tên gọi Ðinh Xuân Thu mà các nhân sĩ trong võ lâm ở Trung Nguyên đều biết tiếng và ghét cay ghét đắng vì môn phái lão chuyên về tà thuật.
Nhân vì chiếc Bích Ngọc Vương Ðỉnh một trong ba vật lớn của phái Tinh Tú, bị nữ đệ tử là A Tử ăn cắp đem đi mất. Ðinh Xuân thu đã phái bọn đệ tử chu du lùng bắt. Thậm chí cả đại đệ tử phái này là Trích Tinh Tử cũng ra đi tầm nã, song lần nào cũng đưa tin về toàn những điều bất lợi cho bản phái mà vẫn chưa lấy lại được Ðỉnh Ngọc.
Sau cùng nghe tin A Tử nương tựa vào thế lực bang chúa Cái Bang là Kiều Phong che chở cho. Trích Tinh Tử bị đánh đập thảm thương thập tử nhất sinh.
Tinh Tú Lão Quái Ðinh Xuân Thu được tin này vừa kinh hải vừa căm hận. Lão biết Cái Bang là một Bang lớn nhất trong các phái võ Trung Nguyê, khó mà đối chọi được nên lão phải thân hành Ðông du một chuyến. Chuyến đi này của lão mục đích thứ nhất là giật lại chiếc Bích Ngọc Vương Ðỉnh. Còn việc tìm Kiều Phong để trả hận và bắt A Tử trị tội thì lão chỉ liệt vào hạng quan hệ tầm thường.
Dọc đường, lão muốn yên phận giữ mình, không có ý gây sự với ai.
Việc luyện "Hoá công đại pháp" của phái này là thời thượng phải kiếm chất độc ở các giống rắn rết tẩm lòng bàn tay cho thấm vào cơ thể. chỉ trong vòng bảy ngày mà không có chất độc mới tẩm vào thì chẳng nhhững công lực bị giảm sút mà những chất độc tích trữ mấy chục năm trời, không được chất độc mới thấm vào khắc chế bớt đi, lại bắt đầu bộc phát dần dần sinh ra tai họa ghê gớm không biết đâu mà lường.
Năm nay một vị trưởng lão trong bản phái đã luyện xong Hóa công đại pháp rồi phạm tội bị sư phụ bắt không cần hành tội chỉ đem giam vào nhà thạch thất, khiến cho trưởng lão đó không có cách nào bắt được trùng độc để tiếp tục lấy nọc độc mới tẩm vào mình. Kết quả lão này bị chất độc trong mình lên cơn cực kỳ khổ sở vì da thịt trong toàn thân bị nát nhừ.
Lão không thể nào chịu lâu được, rên rĩ kêu gào hơn bốn mươi ngày mới chết.
Tinh Tú Lão Quái tuy đã là một tay độc ác vô cùng nhưng nghĩ tới thảm cảnh này không khỏi phát ớn và hổ thẹn.
Bích Ngọc Vương Ðỉnh có tính chất thiên nhiên tiết ra một luồng hơi đặc biệt, mỗi khi đốt hương liệu lên thì chỉ trong khoảnh khắc là dẫn dư rắn rết độc bò về. Trong phạm vi mười dặm, không còn thứ trùng độc nào đã ngửi thấy mùi hương mà chống lại nổi, không tìm đến.
Ðinh Xuân Thu có chiếc Ðỉnh Ngọc trong tay nên việc bắt trùng độc không tốn một chút hơi sức nào mà phép Hóa công đại pháp càng luyện càng thâm.
Luyện phép "Hóa công đại pháp" khác gì người tập uống rượu. Ðã uống được rồi thì mỗi ngày uống nhiều thêm không thể nào bớt đi được.
Chất độc tong người càng ngày càng đầy dẩy có đụng độ với kẻ địch bên ngoài, chất độc trong mình mới bài tiết ra được chút ít vào người bên địch. Nhưng phái Tinh Tú ở vào một khu đảo hẻo lánh bờ biển tinh Tú. Trong phạm vi mấy dặm bất luận người phái võ nào cũng không dám bén mảng đến để cho người phái Tinh Tú có chỗ tiết độc.
Cứ trong bảy ngày lại phải một lần bôi chất độc mới vào. Chất độc chỉ có phần mỗi ngày một tăng gia chứ không bao giờ giảm sút. Hết ngày này sang ngày khác năm này qua năm khác, thì chất độc chứa chất trong cgười phải đấn mức độ nghê hồn.
A Tử mưu mô ghê gớm. một hôm nàng chờ sư phụ bắt trùng độc xong rồi, liền từ giã đi Ðông du.
Ðến lúc Tinh Tú Lão Quái phát giác ra nàng ăn cắp chiếc đỉnh ngọc mang theo thì đã qua bảy ngày và A Tử đã trốn đi xa rồi. Nàng theo những con đường nhỏ hẹp mà đi, nên biệc truy nã rất khó. Bọn sư huynh nàng tuy võ công hơn nàng, nhưng mưu cơ đều kém xa nàng. Nàng dùng cách hư trương thanh thế dương Ðông kích Tây (nhắm bên đông mà đánh bên tây) liên tiếp bày ra bao nhiêu ngụy kế để trốn tránh.
Tinh Tú Lão Quái ở vào khu đất ẩm thấp trong hang núi tối tăm rất có nhiều rắn độc và trùng độc. Tuy lão mất đỉnh ngọc, nhưng việc bắt trùng độc rắn độc để tiếp tục luyện công cũng không khó khăn gì. Có điều sẵn đỉnh ngọc trong mình thì việc bắt rắn dễ hơn và mỗi lần bắt được những thứ trùng độc ghê gớm hơn, hiếm có hơn, kỳ dị hơn. Bây giờ thì bắt được thứ nào dùng thứ ấy không được như ý mình.
Lại còn một điều nữa khiến cho lão quan tâm hơn là lỡ ra bọn cao thủ Trung Nguyên khám phá ra lai lịch chiếc đỉnh ngọc thì bất luận là ai họ cũng đập tan đỉnh ngọc tức khắc. vì thế ngày nào chưa lấy đỉnh nhọc về là lão chưa yên tâm ngày ấy. Thực ra lão chẳng muốn xuống Trung Nguyên chút nào song biết bao nhiêu đệ tử đi tìm mà vẫn không được việc. Cân nhắc đường lợi hại lão đành mạo hiểm một phen.
Ðinh Xuân Thu đi đến giới tỉnh Thiểm Tây thì gặp bọn đồ đệ trong môn phái. Ðại đệ tử là Trích Tinh Tử bị mất hết võ công và đã bị bọn sư đệ đánh đập nhừ tử rồi ngược đãi đến nổi không còn hình người nữa. Nhị đệ tử là gã mũi sư tử chiếm chức vị đại sư huynh.
Bọn đệ tử thấy sư phụ thân hành ra đi thì vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Bọn chúng đều nghĩ rằng vì không hoàn thành được sứ mệnh của sư phụ giao phó và sẽ bị một phen trách phạt cực kỳ thảm khốc khó lòng chịu nổi.
May mà Tinh Tú Lão Quái đang gặp lúc cần người, tạm gác chuyện trách phạt lại, cho chúng đối tội lập công.
Mọi người lên đường nghe ngóng tin tức Cái Bang. Một là bọn chúng bộ dạng kỳ dị cách nói năng và hành động lại càng làm cho người ta ghê tởm chán ghét, không ai muốn nói rõ biết. Hai là Kiều Phong đã sang nước Liêu làm đến Nam Viện Ðại Vương trong võ lâm ít người biết đến, nên khó lòng dò được tin xác thực. Ngay đến việc tổng đà Cái Bang dời đi đâu chúng cũng không điều tra được.
Ðinh Xuân Thu trong lòng nóng nảy, nghĩ thầm:
- Phái Thiếu Lâm được các phái võ Trung Nguyên rất trọng vọng. Bất luận một cử động nào trong võ lâm Trung Nguyên đều không thể qua mắt các vị cao tăng chùa Thiếu lâm được. Chi bằng mình đến chùa Thiếu lâm không gây thù oán với phái này, mình không đến đấy để họ dọ thám mà xin vào ra mắt đàng hoàng để hỏi thăm tin tức thì hẳn Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm cũng nể mặt mình đôi chút.
Nghĩ vậy lão dẫn bọn đệ tử đi về phía núi Thiết Thất Tỉnh Hà Nam. Trong khi đi đường đoàn người này đã thấy chất độc trong mình rục rịch lên cơn. Họ liền bắt rắn độc để lấy nọc bôi vào.
Tinh Tú Lão Quái Ðinh Xuân Thu dẫn đoàn đệ tử vào địa giới tỉnh Hà Nam.
Một hôm đang đi đường, đột nhiên thấy hằng hà sa số rắn độc bò ra, lão mừng quá, lập tức sai đồ đệ bắt thật nhiều để lấy nọc độc đổ gan bàn tay. Việc này rất bổ ích và rất cần thiết cho phép "Hóa công đại pháp" của lão.
Tuy lão biết rằng rắn độc kéo thành đoàn thế này là một điều kỳ lạ không phải tầm thường, nhưng lão đã là người tài nghệ cao siêu lại gan dạ hơn đời. Lão làm một vị chưởng môn trên bờ biển Tinh Tú chẳng khác gì ông vua con. Quyền sinh sát trong tay tha hồ mà làm mưa làm gió, nên lão chẳng thèm quan tâm điều gì. Dè đâu đàn rắn này lại có chủ.
Nguyên phái Hồ Tăng bên nước Thiên Trúc sai Ba La Tinh đến chùa Thiếu Lâm để lấy trộm kinh sách, lâu ngày không thấy tin tức gì nên cho mười sáu nhà sư đến tiếp ứng.
Kể ra thì những vị Hồ Tăng Thiên Trúc này võ công chẳng cao cường gì lắm, nhưng họ có một tuyệt kỳ bí mật là dùng tiếng sáo để sai khiến rắn rết.
Bọn Hồ Tăng từ nước Thiên Trúc trèo đèo lội suối, vừa đi vừa thổi sáo dẫn dắt rắn độc xuống Trung Nguyên. Ðường sá xa xôi diệu vợi, hãy tính trong mười dặm mới có một con rắn độc theo ra cũng đã nhiều lắm rồi. Ðương nhiên là dọc đường chẳng may cũng có một số lớn không chịu nổi đường xa hoặc khơng chống lại được thủy thổ nóng lạnh từng nơi, đã chết đến quá nửa. Thế mà khi tới địa giới tỉnh Hà Nam hãy còn lại một con số ghê người, nhất là mấy chục con trăn lớn dài đến mấy trượng. Những con số này đã từ mấy khu rừng rậm bên nước Thiên Trúc dẫn đến thật là giống vật hiếm thấy ở Trung Nguyên.
Bọn Hồ Tăng này tự biết rằng nếu trông cậy vào nhân số cùng võ công thì quyết không tài nào địch nổi bọn tăng sĩ chùa Thiếu lâm vừa mạnh vừa đông. Huống chi phái Thiếu Lâm lại là lãnh tựu phái võï Trung Nguyên, chẳng chống thì chầy, những tay hào kiệt các phái sẽ kéo đến viện trợ. Nếu tranh đấu đường hoàng thì nhất định sẽ bị đại bại. Nhưng đột nhiên đuổi hàng vạn con rắn độc ồ ạt kéo vào chùa Thiếu Lâm đánh một cách chớp nhoáng khiến họ trở tay không kịp thì tuy chẳng đánh đổ được môn phái này, nhưng việc cứu Ba La Tinh và cướp ít kinh sách đem về cũng không thể làm được.
Bọn Hồ Tăng ngày nghĩ đêm đi để dân cư dọc đường khỏi kinh hãi khi thấy rắn rết. Vào đến địa giới tỉnh Hà Nam chưa bao lâu thì phát giác ra rằng có nhiều rắn độc bị giết.
Sau cuộc điều tra cặn kẽ, bọn Hồ Tăng biết là Tinh Tú Lão Quái đã hạ thủ giết rắn của mình.
Tinh Tú Hải cũng cách Thiên Trúc không xa mấy oai danh cũng hành vi độc ác của Tinh Tú Lão Quái, bọn nhân sĩ võ lâm nước Thiên Trúc đều biết tiếng.
Bọn Hồ Tăng bản tâm không muốn sinh sự với bọn Tinh Tú làm gì. Nhưng Lão Quái càng ngày càng tệ hại, chuyên tìm những con rắn kịch độc để giết khiến cho uy lực của đàn rắn giảm đi rất nhiều. Bọn Hồ Tăng không nhẫn nại được nữa, rồi hai bên đi đến chỗ căm thù nhau gây nên một trường kịch đấu.
Bọn Hồ Tăng dĩ nhiên trông cậy vào đàn rắn độc để thủ thắng Tinh Tú Lão Quái Ðinh Xuân Thu tiếng tăm lừng lẫy bị trăn quấn chặt không nhúc nhích được.
Bọn Hồ Tăng hỏi Ðinh Xuân Thu vì lẽ gì giết rắn thì lão trả lời:
- Rắn độc chuyên hại người và súc vật, bất luận là ai trông thấy cũng có quyền tiêu diệt. Ta biết đâu được là những rắn đó của các ngươi nuôi dưỡng.
Một nhà sư Thiên Trúc nói:
- Bần tăng đã từng đưa thư đến xin các hạ đừng giết những con rắn gia súc này của bần tăng nữa, thế mà các hạ không đếm xỉa đến là nghĩa làm sao?
Ðinh Xuân Thu nói:
- Ðinh mỗ từ thuở nhỏ đến giờ chỉ có hỏi vặn người thì được chứ chưa từng thấy ai dám chất vấn người bao giờ. Ngay chính sư phụ ta ngày nọ buông lời trách mắng ta, ta cũng hạ thủ giết ngay. Bọn ngươi là mấy tên thầy chùa thối tha từ nước ngoài đến đây mà dám giở lý với ta.
Nhà sư Thiên Trúc thấy con trăn to quấn chặt khiến cho Tinh Tú Lão Quái không còn sức kháng cự mà lão nói năng vẫn giữ thói ngạo mạn thì biết rằng phen nầy kết oán đã sâu. Nếu còn tha mạng là để một mối đại họa vô cùng trọng đại, liền tìm lời mạt sát:
- Ðai danh Tinh Tú Lão Quái khét tiếng gầm trời ai ngờ chỉ có danh hão mà thôi, không đối phó nổi với vài con rắn nhỏ xíu.
Ðinh Xuân Thu tủm tỉm cười nói:
- Vì lão phu sơ ý một chút mà bị khốn vào tay mấy đứa súc sinh. Nếu bữa nay ta có hồn về chín suối cũng chẳng qua là số mệnh mà thôi.
Lão chưa dứt lời, thốt nhiên một tên đồ đệ phái Tinh Tú cũng bị trăn quấn kêu lên:
- Ðại sư phụ ơi! Nếu đại sư phụ buông tha tiểu nhân ra thì có nhiều điều rât bổ ích cho đại sư phụ:
Tiểu nhân rất nhiều ngụy kế đại sư phụ dù đề phòng đến đâu cũng không siết được. Ðại sư phụ chỉ sơ tâm một chút là mắc vào cạm bẫy ngay lập tức.
Nhà sư Thiên Trúc lạnh lùng hỏi:
- Tha mi ra thì được lời gì? Gã kia đáp:
- Phái Tinh Tú có ba báu vật gọi là Tinh Tú tam bảo. Tiểu nhân sẽ lấy ra dâng cho đại sư phụ. Nếu đại sư phụ đem tiểu nhân cùng tất cả bạn đồng môn đây giết hết vĩnh viễn không bao giờ đại sư phụ lấy được Tinh Tú bảo nữa.
Du Thản Chi núp trong đám có rậm ngoảnh đầu nhìn ra thì thấy người nói câu vừa rồi là một Ðại Hán thân hính cao lớn tuy hắn con trăn to lớn quấn chặt ma thân hình vẫn tráng kiện, khí vũ vẫn hiên ngang. Gì không ngờ con người như vậy lại hèn mạt đến thế chỉ vì ham sống sợ chết mà muối mặt đi bán đứng sư phụ bao giờ?
Lại một tê đệ tử khác la lên:
- Ðại sư phụ! Ðại sư phụ! Trong tam bảo thì một vật đã bị người lấy cắp đi mất rồi. Ðại sư phụbuông tha tiểu nhân ra hay hơn và chỉ có mình tiểu nhân là kẻhết dạ trung thành với đại sư phụ. Tiểu nhân quyết không lừa dối.
Một lát sau bọn đệ tử phái Tinh Túthi nhau kêu lên.
Có kẻ nói:
- Ðại sư phụ! Ðại sư phụ tha mạng cho tiểu nhân là hay hơn hết, bọn chúng không hết lòng trung thành với đại sư phụ đâu. Chỉ mình tiểu nhân là đến chết cũng không thay đổi lòng dạ quyết vì đại sư phụ ra sức.
Có kẻ nói:
- Tiểu nhân biết rất nhiều tuyệt kỹ bí truyền của phái Tinh Tú sẽ nói cho đại sư phụ biết, không dấu một tí gì.
Co kẻ nói:
- Người bản phái đến Trung Nguyên là có cuộc mưu đồ lớn lao và liên quan không ít đến nước Thiên Trúc. Các đại sư phụ có muốn biết không?
Có kẻ nói:
- Trên bờ biển Tinh Tú có chôn dấu rất nhiều vàng bạc châu báu tiểu nhân biết hết mọi chổ.
Bọn này vì cầu may để tránh cái chết mà nịnh hót đủ điều. Kẻ thì đem lọi nhử mồi, kẻ thì lay chuyển tính hiếu kỳ của đối phương. Có kẻ lại công nhiên nói nhũng chuyện hoang đường.
Mấy tên đệ tử bị rắn độc cắn bị thương, hoặc trăn quấn chặt chỉ còn hơi thở phập phù. Gã nào cũng chỉ sợ mình bị bỏ rơi, nên liên tiếp tranh nhau năn nỉ van lơn.
Bọn nhà sư nước Thiên Trúc, không ngờ những đệ tử phái Tinh Tú lại khốn nạn đến thế được nên đem lòng khinh bỉ. Có lão động tính hiếu kỳ lại gần để nghe ngóng.
Lão Hồ tăng trưởng toán lạnh lùng hỏi:
- Bọn mi đối với sư phụ chẳng còn hết dạ trung thành, thì nói chi đến chuyện trung thành với người chưa quen biết nữa? các ngươi nói vậy chỉ tổ làm trò cười cho bọn ta mà thôi.
Tên đệ tử phái Tinh Tú nói:
- Không phải thế! Tinh Tú Lão Quái võ công kém cỏi. Tiểu nhân theo lão chẳng ăn thua gì, vậy giữ lòng với lão cũng vô ích. Còn đại sư phụ võ công lùng lẫy khắp thiên hạ, đâo đức văn chương cũng khiến cho ai nấy đều phải kính ngưỡng. Tinh Tú Lão Quái bì với đại sư phụ thế nào được?
Một tên nói:
- Phải rồi! đại sư phụ mà thu dụng bọn đệ tử phái Tinh Tú là khiến cho các phái võ Tây Vực cũng như ở Trung Nguyên đều chấn động. Họ sẽ khâm phục các vị cao tăng nước Thiên Trúc không biết đến đâu mà nói.
Một tên nói:
- Cao tăng thôi ư? Sao người còn gọi cao tăng? Hai chữ "cao tăng" không đủ để ca tụng các vị đại sư phụ đây, mà phải kêu bằng "Thánh tăng", "Thân tăng" mới đúng! Giảtỉ tiểu nhân là người đi chu du liệt quốc thì sẽ hết sức tuyên dương đức oai của đại sư phụ để danh vọng của các vị "Thánh tăng" nước Thiên Trúc khét tiếng khắp thiên hạ.
Một tên nói:
- Chà! Tiếng tăm cácvị "Thánh tăng" nước Tây Trúc đã lẩy lừng khắp thiên hạ ai là không biết? Hà tất phải đến ngươi đi khua chuông gõ trống.
Một tên nói:
- Ðại sư phụ! Ðại sư phụ là"Thánh tăng "là" Phật sống"tiểu nhân lả kẻ tuyên bố trước tiên. Còn những gã kia chỉ biết bắt chước chứ ăn thua gì?
Nhà sư trưởng toán chau đôi mày nói:
- Bọn mi toàn là hạng hèn hạ, tiểu nhân, ton hót lắm làm cho người ta rác hại.
Rồi quay sang hỏi Ðinh Xuân Thu:
- Tinh Tú Lão Quái! Tư cách bọn này đê hèn đến thế sao mà ngươi cũng thu dụng được? Thật toàn đồ vô liêm sỉ thì chúng còn làm nên trò trống gì? Thôi ta hóa kiếp cho ngươi trước rồi cho bọn chúng đi theo luôn. Hỡi ơi! Bần tăng lại phạm sát giới rồi đây!
Nói xong phất tay áo một cái phóng chưởng lực ra đánh Ðinh Xuân Thu.
Nhà sư thấy Ðinh Xuân Thu đang phải gắng gượng chống với rắn quấn vào mình chân tay không cử động được thì chưởng thế mãnh liệt của mình chẳng đánh chết cũng làm cho lão bị thương.
Ngờ đâu lúc chưởng lực đánh ra. Ðinh Xuân Thu vẫn thản nhiên như không, mà hai chân nhà sư này lại nhũn ra, ngã lăn xuống đất co rúm lại thành một đống lù lù, lăn lộn mấy cái rồi không nhúc nhích được nữa.
Bọn Hồ tăng cả kinh kêu gọi:
- Sư huynh! Sư huynh!
Hai lão giơ tay ra nâng dậy, nhưng vừa sờ vào mình nhà sư kia thì mặt mũi tối tăm, không đứng vững, cũng té xuống luôn.
Ba nhà sư khác đứng bên vội đưa tay ra nâng dậy. Nhưng vừa chạm vào áo cà sa thì cả ba người lại lăn ra. Mới trong chốc lát đã có sáu nhà sư té xỉu.
Các Hồ tăng khác thấy tình thế bất lợi đều hồn vía lên mây đứng thộn mặt ra, không dám thò tay nâng đỡ nữa, sợ cũng bị ngã như đồng bọn.
Một nhà sư nổi giận quát lên:
- Tinh Tú Lão Quái kia! Ngươi lộng hành tà phát, hãy nếm chưởng lực của ta đây!
Nói xong đánh ra một chưởng.
Ðinh Xuân Thu cười ha hả, dường như chưởng lực chạm vào người lão lại bật trở ra, khiến nhà sư này há hốc miệng ra rồi lập tức ngã lăn đùng.
Còn chín Hồ tăng nữa cũng bị tiếng quát của Ðinh Xuân Thu làm chấn động. Bọn này dùng tiếng Thiên Trúc lí lố bàn với nhau một hồi rồi đồng thanh quát lên một tiếng thật to phất tay áo một cái. Chín ngọn phi đao đồng thời phát ra ánh sáng xanh lè nhằm Ðinh Xuân Thu phóng tới.
Ðinh Xuân Thu lại quát một tiếng thật to, lắc đầu ba cái, tóc bạc phất phơ bay ra, tựa những cây nhuyễn tiên ngắn chạm vào phi đào kêu lên leng keng mấy tiếng. Chín ngọn phi đao đều bị đánh rớt xuống. Chín vị Hồ tăng chân tay co quắp không kịp kêu lên một tiếng lăn ra chết liền.
Du Thản Chi nấp trong đám cỏ rậm, mũi ngửi thấy một luồng hơi tanh tưởi vô cùng xông vào mặt đau quá, nước mắt giàn giụa.
Bốn bề trở lại yên tĩnh.
Mười sáu vị Hồ tăng đều co rúm lại trông chẳng khác gì những trái bóng tròn và rõ ràng chết hết cả.
Gã hoảng hồn không biết Ðinh Xuân Thu dừng thứ võ công gì mà chỉ một cử động đã đánh chết được hết địch.
Những con trăn lớn cùng rắn độc sau khi quấn chặt mọi người phái Tinh Tú rồi không nghe thấy các nhà sư thổi sáo thôi thúc nên chưa cắn chết người.
Mười sáu nhà sư Tây Vực lăn ra chết rồi, những con trăn không biết báo thù cho chủ, chúng chỉ quấn chặt thầy trò Ðinh Xuân Thu, chờ lệnh một lúc.
Một lúc lâu không thấy có tiếng động song những con rắn này là vật vô tri vô giác, vẫn giữ nguyên trạng thái chờ đợi.
Qua một thời gian khá lâu, rắn không công kích người, mà người bị rắn quấn chặt cũng không dám nhúc nhích, sợ chúng nổi hung lên cắn cho thì mất mạng.
Yên lặng hồi lâu, bọn đệ tử Tinh Tú thấy các nhà sư Thiên Trúc chắc chắn chết cả rồi đã hết nỗi lo về bọn này.
Một tên cất tiếng nói trước:
- Sư phụ ôi! Thần công sư phụ đã đến mức thiên hạ vô địch. Giữa lúc cười nói chỉ giơ tay một cái mà mười sáu tên thầy chùa độc ác man rợ đều bị giết sạch...
Tên này chưa dứt lời tên khác đã nóingay:
- Sư phụ! Sư phụ đừng nghe giọng lưỡi thối tha của hắn. Chính hắn vừa ca tụng bọn sư mô rợ Hồ nào "Thánh tăng" nào "thần tăng" nào "Phật sống."
Lại một tên đệ tử khác nói:
- Bọn đệ tử theo đòi sư phụ đã bấy nhiêu năm, còn lạ gì tài năng nghiêng trời lệch đất của sư phụ. Vừa rồi mấy tên thầy chùa man rợ Hồ nói nhăng nói cuội, toàn những lời bịp bợm.
Bỗng có tiếng khóc rống lên:
- Sư phụ hỡi! Sư phụ ơi! đệ tử thật là ngu ngốc:
Chỉ vì tham sống sợ chết mà đầu hàng kẻ thù. Bây giờ hối cũng chẳng kịp nữa. Ðệ tử đành chịu để rắn độc cắn chết, không dám xin sư phụ tha mạng nữa!
Gã này chỉ nói mấy câu đó, bọn đệ tử lập tức tỉnh ngộ .
Tinh Tú Lão Quái rất ghét những kẻ nào lẻo mép mồm miệng, để che lấp tội lỗi:
Chỉ những kẻ tự thố trách mình lầm lỡ đánh chết, đem hết bao nhiêu tội lỗi đổ lên đầu mình thì họa may sư phụ nhhiêu dung cho chăng.
Nghĩ vậy chúng lại tranh nhau kể tội bất lương của mình. Dù phải phân thây muôn đoạn cũng không oán hối; khiến cho Du Thản Chi nằm trong đám cõ cũng phải nhức đầu chói tai.
Bọn đệ tử lãi nhãi, thủy chung Ðinh Xuân Thu vẫn không đếm xỉa đến.
Lão ngấm ngầm vặn kình lực ba lần, định làm cho những con trăn quấn mình phải đứt tung.
Ðinh Xuân Thu vận hết nội lực phóng r a mà chúng chỉ duỗi mình đi một chút chứ không sao cả. Lão biết rằng muốn thoát tai ách này thật khó vô cùng.
Người lão bị con trăn lớn quấn chặt. Những con trăn này trong rừng rậm khí hậu viêm nhiệt nước Tây Trúc. Mình nó cứng rắn vô cùng, thứ gì đập cũng phải bật trở lại.
Ðinh Xuân Thu trãi qua mấy chục năm tu luyện, chất độc trong người lão không biết đâu mà kể. Vì thế mà lão Hồ tăng trưởng toán, vừa phóng chưởng đánh lão đã thúc đẩy chất độc ra ngoài da. Chưởng đối phương đánh tới, lão vận động thần công đem chất độc phóng theo chưởng lực đối phương,
Bọn Hồ tăng sỡ dĩ chết ngay lập tức là do chất đọc truyền nhiễm vào người chứ không phải do tà thuật gì hết.
Da trăn đã dày cứng lại trơn tuột, chất độc trong mình Ðinh Xuân Thu khhông thể thấm vào cơ thể chúng được, lão đành chịu thua.
Lão đang bực mình chưa thoát khỏi mấy con trăn. Bên tai nghe những lời khả ố của bọn đệ tử gã liền nói móc:
- Chúng ta bị rắn độc làm cho khốn đốn. Ai nghĩ ra cách lừa bịp được đàn rắn thì ta sẽ tha mạng cho. Các ngươi còn lạ gì tính khí ta nữa? Kẻ nào được việc cho ta, ta mới không giết. Còn các ngươi chỉ trẻm mép tìm lời xảo trá nói nhăng nói cuội phỏng có ích gì!
Lão vừa dứt lời, bọn đệ tử lâp tức câm mồm.
Hồi lâu mới có một tên lên tiếng:
- Bây giờ chỉ còn cách dùng lửa nóng đốt mình những con trăn lớn này lập tức chúng phải bỏ chạy.
Ðinh Xuân Thu mắng:
- Mẹ kiếp! Thằng này nói thúi lắm! Chỗ này là nơi hoang dã tịch mịch làm gì có thôn trang có nhà ở, làm gì có ai đi lại? Dù có người phải đi qua quãng đường này, nhưng họ thấy nhiều rắn độc thế này tất nhiên hốt hoảng chạy trốn, lấy đâu ra lửa để đốt rắn?
Sau đó những tên đệ tử khác lại đua nhau đứ ra ý kiến, song đều không thể thực hiện được. Bọn này sỡ dĩ nhao lên, chẳng qua tất để lal61y lòng sư phụ ra chuyện ta đây thực lòng thực dạ với thầy, và cố gắng bày mưu tính kế.
Lại một giờ trôi qua, một tên đệ tử bị rắn xiết chặt quá nghẹt thở. Trong lúc mê man, gã thò miệng cắn con trăn một miếng. Trăn bị đau quay lại cắn vào cổ gã, gã chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi chết ngay tức khắc.
Ðinh Xuân Thu trong lòng nóng nảy vô cùng, giả tỉ lão bị địch thân vây hãm khốn đốn thì chỉ trong vài giờ là lão nghĩ được mưu kế xảo nguyệt để lừa bịp đối phương đặng thoát thân, nhưng đối với đàn rắn vô tri vô thức này thì dù có mưu kế tuyệt diệu đến đâu cũng chẳng thua gì. Lão sợ những con trăn đến lúc đói quá sẽ đớp thịt mình mà nuốt.
Ðiều lão lo âu quả nhiên xuất hiện một con trăn lớn đã lâu không nghe thấy tiếng sáo, bụng đói như bào, nó hà miệng to tướng hớp vào người tên đệ tử mà nó đang quấn chặt.
Gã này la hoảng:
- Sư phụ cứu đệ tử với! Sư phụ cứu đệ tử với!
Vừa dứt lời thì cặp giò gã đã bị con trăn nuốt vào miêng rồi. Tấm thân gã không còn tự chủ được nữa, rồi từng khúc một bị nuốt vào bụng trăn. Miệng gã hét cho đến phút cuối cùng.
Hàm răng giống rắn trăn đều bình móc câu. Bất luận giống động vật nào bị nó cắn cũng chỉ dần dần đẩy vào bụng chứ không thể nào thoát ra được. Gã đệ tử phái Tinh Tú bị trăn ngoạm chân nuốt vào bụng rồi dần dần nó nuốt đến lưng, đến ngực. Lúc hắn chưa chết, hắn lớn tiếng kêu rú lên cực kỳ thãm thiết, làm chất động cả một vùng bao la bát ngàn.
Một tên đệ tử thấy Tinh Tú Lão Quái cũng đành chịu bó tay, bất giác lửa giận bốc lên ngùn ngụt, mở miệng thống mạ sư phụ, đổ cho lão làm liên lụy mình. Vì trước kia, hắn đang chăn cừu ở bờ biển Tinh Tú làm kế sinh nhai thị bị lão kiếm lời đường mật, dụ gã vào làm môn hạ phái Tinh Tú. Bữa nay hắn bị chết thảm dưới miệng rắn độc, hắn quyết định chết xuống âm ty sẽ làm cáo trạng kiện thầy trước Diêm Vương.
Một tên bắt đầu mở miệng chửi, những tên kia lập tức không chịu kém nhao nhao cả lên thhống mạ sư phụ theo.
Bọn đồ đệ ngày thường bị Tinh Tú Lão Quái độc ác ngược đãi cực kỳ tàn nhẫn, ai nấy đều căm hận trong lòng mà không dám nói ra miệng. Bữa nay thầy trò đều chết đến nơi chúng đều thóa mạ cho sướng miệng để hả tấm lòng căm tức bấy lâu nay.
Hai tên đệ tử vì lớn tiếng thoáng mạ, mình hắn cử động mạnh khiến cho con trăn đang quấn hắn một miếng.
Hắn lớn tiếng kêu la:
- Úi chao ôi! ai cứu tôi với! Ai cứu tôi với!
Du Thản Chi nghe tiếng kêu cứu, không nhẫn nại được nữa, đang nằm trong bụi cỏ, đứng phắt dậy nói:
- Ta đi phóng hỏa đốt rắn để cứu các ngươi đây!
Gã ôm cỏ khô chất vào thành đống.
Bọn người phái Tinh Tú bất thình lình thấy gã bịt mặt xuất hiện hình thù cổ quái, đều sợ hãi giật nẩy mình lên. Nhưng nghe hắn nói tự nguyện phóng hỏa đốt rắn cứu mình thì khác nào đã xuống đến quỷ môn quan còn được nhìn thấy đường về, liền nhao nhao lên thi nhau ngỏ lời cảm tạ.
Bọn người này có bản lĩnh cao siêu về thóa mạ người, thì tài tán tụng nịnh hót cũng phi thường.
Suốt đời Du Thản Chi chưa từng được ai kêu mình nào là "Ðại anh hùng" "Ðại hào kiệt" nào là "Nhân Nghĩa sỉ" naò là "Hảo hán nhất đời" chẳng thiếu chi danh từ cao đẹp.
Ðại phàm con người ai nghe người tán tụng mình mà không nức lòng hả dạ.
Du Thản Chi thấy bọn này nâng mình lên mây xanh thì trong lòng cũng cảm thấy khoan khoái vô cùng, nếu hắn chẳng quản gì mạo hiểm, cố chi cứu mạng cho chúng.
Gã lấy đá lửa bên mình ra, quẹt lửa lên châm vào đống cỏ khô. Nhưng lúc nhìn thấy những con trăn dữ tợn, nhiều không biết đến đâu mà kể, cũng đâm ra sợ hãi vô cùng. Gã chớ câu chọc ong, ong đốt mình trêu chọc đám rắn nàythì liên lụy ngay đến mình.
Gã suy nghĩ một lát rồi lượm cành cây khô chất đống lên đốt một đống lửa thật to để ngăn trở cho rắn khỏi đến cắn mình trước, rồi mới nhặt một cành cây đang cháy sắn liệng vào con trăn gần nhất, đoạn chạy mau về phía đống lửa ẩn nấp để chờ. hễ thấy rắn bò lại phía mình là lập tức xa chạy cao bay, chẳng thèm làm "đại anh hùng", "đại hiệp sĩ" gì nữa.
Dè đâu giống trăn quả nhiên rất sợ lửa. Lửa mới nóng đến bên mình, lập tức nó buông ngay tên đệ tử phái Tinh Tú ra rồi chui vào đống cỏ rậm.
Du Thản Chi thấy phép hỏa công của mình rất hiệu nghiệm.
Giữa những tiếng hoan hô nhiệt liệt của bọn đệ tử phái Tinh Tú, gã chặt từng cành cây đang cháy liệng vào đống rắn.
Ðàn rắn tới tấp bò cả.
Cả đến những con trăn dài hàng mấy trượng cũng không chịu nổi lửa nóng bỏ chạy ào ào.
Chỉ trong khoảnh khắc, hàng mấy trăm con trăn lớn cùng rắn độc chạy tản đi hết sạch sành sanh, gã lại nghe bọn đệ tử phái Tinh Tú đổi giọng nịnh thầy.
Có kẻ nói:
- Sư phụ mắt thấy xa hàng muôn dặm, thần cơ diệu đoán khôn lường. Quả nhiên phép hỏa công của sư phụ vô cùng linh nghiệm.
Có kẻ nói:
- Sư phụ hồng phúc tày trời, gặp dữ hóa lành. Ðây toàn là trông cậy vào lối chỉ huy của sư phụ mới thoát nạn. Sư phụ thay người phóng hỏa cứu mạng kiến ruồi cho bọn đệ tử chúng tôi.
Bao nhiêu lời tán tụng hoàn toàn hướng về Tinh Tú Lão Quái, còn công lao đốt lửa đuổi rắn của Du Thản Chi thì chẳng ai thèm đếm xỉa đến nửa.
- Bọn mi vừa thóa mạ sư phụ xong, bây giờ lại hết lời tán tụng là nghĩa làm sao?
Du Thản Chi nghe bọn chúng nói vừa ngơ ngác vừa lấy làm lạ rủa thầm:
Gã có biết đâu rằng bọn này sau khi thoát nạn rắn, thì tính mạng chúng lại ở trong tay Tinh Tú Lão Quái. Nếu không nịnh hót cho lão vừa lòng thì lão chỉ giơ tay lên một cái là rồi đời. Còn công cứu mạng Du Thản Chi đến đây là sổ toẹt, chúng coi gã như người đi đường mà thôi.
Ðinh Xuân Thu vẫy tay gọi Du Thản Chi, bảo:
- Thiết đầu tiểu tử! Ngươi lại đây! Tên ngươi là gì?
Du Thản Chi bị người khinh rẽ lấn át quen rồi nên dù thấy đối phương vô lễ cũng không cho là kẻ ngổ ngược.
Gã đáp:
- Tôi là Du Thản Chi.
Nói xong tiến lại mấy bước.
-
Hồi 55 - Tầm A Tử Quái Kiệt Đưa Đường - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 55 - Tầm A Tử Quái Kiệt Đưa Đường
Ðinh Xuân Thu hỏi:
- Ðám Hồ tăng này chết cả chưa? Ngươi lại sờ mũi chúng xem còn thở không?
Du Thản Chi dạ một tiếng rồi cuối xuống để tay lên mũi một nhà sư thì chỉ thấy lạnh ngắt. Nhà sư này đã chết tự bao giờ.
Gã lại xem nhà sư khác thì cũng tắt hơi rồi. Gã nói:
- Họ chết hết cả rồi không còn ai thở nữa.
Gã vừa nói vừa đứng thẳng người lên nhìn vẻ mặt mọi người nhâng nhâng nhao nháo, ra chiều giễu mình. Gã chẳng hiểu ra sao lại nhắc câu vừa nói:
- Họ chết cả rồi không còn thở nữa.
Du Thản Chi thấy bộ mặt nữa ra khinh khỉnh, nữa ra giễu cợt bọn đồ đệ phái Tinh Tú mỗi lúc một tiêu tan để thay dần dần vào những nét mặt kinh dị.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Ngươi coi lại lần nữa xem các nhà sư này còn có thể cứu vãn được nữa không?
Du Thản Chi đáp:
- Vâng.
Rồi gã đi xem xét cẩn thận hết cả mười sáu vị Hồ tăng lại một lần nữa. Ðoạn gã lắc đầu nói:
- Bọn họ chết hết rồi không còn thể nào cứu vãn được nữa. Công lực của lão tiên sinh thật là ghê gớm!
Ðinh Xuân Thu cười lạt nói:
- Bản lãnh chống chất độc của ngươi mới là lợi hại.
Du Thản Chi lấy làm kỳ hỏi:
- Lão tiên sinh bảo... tôi có bản lãnh... tôi có bản lãnh... gì để chống lại chất độc?
Ðinh Xuân Thu ngửa mặt lên trời cả cười nói:
- Giỏi! Giỏi! Giỏi lắm! Ta xem da dẻ và thanh âm ngươi nói thì biết ngươi còn nhỏ tuổi lắm. Thế mà đã có bản lãnh đến như vậy. Thật là hậu sinh khả úy!
Du Thản Chi chẳng hiểu ra sao, không biết lão nói vậy là ý gì? Gã có biết đâu rằng mỗi lần gã sờ vào mũi những nhà sư kia là một lần xuống Quỹ Môn Quan. Gã thử xong mười sáu nhà sư người Hồ tức là đã trải qua mười sáu lần nguy hiểm rất lớn có quan hệ đến mạng sống của gã.
Nguyên Tinh Tú Lão Quái tuy được Du Thản Chi cứu cho thoát chết, song lão đứng địa vị tôn sư một phái võ bị trăn quấn mình không có cách nào gở ra cho khỏi chết mà phải nhờ đến một đứa trẻ nít nhỏ tuổi đến cứu cho. Vụ này mà đồn đại ra chốn giang hồ thì còn chi là thể diện. Vì thế mà sau khi thoát nạn, đàn trăn bỏ đi xa rồi lão nghĩ ngay đến cách giết Du Thản Chi để bịt miệng. Những nhà sư Thiên Trúc bị lão phóng chưởng có chất kịch độc, chỉ trong chốc lát đều bỏ mạng. Lão sai Du Thản Chi sờ mũi họ sự đó là có dụng ý cho tay gã nhiễm phải độc mà chết.
Dè đâu Du Thản Chi bản chất âm dương sai lệch đã nhờ phép luyện Dịch Cân Kinh thành ra nội công ghê gớm. gã lại trải qua mấy tháng trời tập luyện không ngớt đồng thời hút cả chất dịch con Băng Tằm là một loại trùng độc nhất thiên ha. Chất độc con Băng Tằm rất dung hợp với thể chất Du Thản Chi. Trong mình gã đã chứa chất độc này thì bất cứ chất độc nào cũng không làmgì được. Dĩ nhiên là chất độc tự phát ra trong mình Ðinh Xuân Thu đã thấm vào đâu mà làm cho gã chết được?
Thật ra gã không cần đốt lửa để đuổi trăn, chỉ đàng hoàng đi vào giữa đàn trăn là bất cứ giống trăn độc đến đâu cũng không gia hại gì được. Trái lại nếu có con rắn độc nào cắn gã, bị huyết dịch của gã thắm vào mình là nó chết ngay tức khắc. Có điều Du Thản Chi không biết như vậy mà Tinh Tú Lão Quái Ðinh Xuân Thu cũng không bao giờ nghĩ đến điều đó.
Ðinh Xuân Thu cùng bọn đệ tử thấy Du Thản Chi sờ mũi các vị Hồ tăng lần đầu đã chắc mẩm rằng gã sẽ co rúm lại mà chết như những nhà sư kia. Ngờ đâu gã mò mẫm hết cả thân thể mười sáu nhà sư vẫn không sao?
Thầy trò phái Tinh Tú thấy vậy không khỏi nao núng.
Ðinh Xuân Thu lẩm bẩm:
- Thằng nhãi này không hiểu bản lãnh chân chính của hắn ra sao? Ðây chắc là trong mình hắn có để sẵn chất kịch độc như Hùng Hoàng Châu, Tịch Tà Bích chẳng hạn, hay là hắn uống thứ thuốc giải độc rất linh nghiệm gì từ trước nên mới chịu đựng nổi chất kì độc của ta nhiễm vào mình.
Nghĩ vậy lão bảo:
- Du huynh đệ! Ngươi lại đây! Ta có chuyện muốn nói.
Du Thản Chi tuy thấy lão nói có vẻ thành khẩn, nhưng chính mắt gã trông thấy liền một lúc giết luôn mười sáu nhà sư một cách tàn nhẫn, lại nghe thấy giữa tình thầy trò với nhau mà bọn đồ đệ ba hồi thống mạ, ba hồi siểm nịnh thì biết rằng: hạng người này rất khó đối phó, chỉ có cách kính nhi viễn chi là hơn.
Nghĩ vậy gã đáp:
- Tiểu nhân có việc gấp không thể trùng trình được. Xin cáo từ lão tiên, tiểu nhân phải đi ngay bây giờ.
Nói xong gã chấp tay vái chào, rồi trông về ngã đường phía Ðông Bắc dông tuốt.
Gã vừa đi được hai bước, đột nhiên thấy bên mình có luồn gió mát lướt qua. Hai cổ tay gã bỗng nhiên bị nắm chặt. Người nắm tay Du Thản Chi lướt tới nhanh quá khiến cho gã chưa kịp phản kháng thì đã bị nắm tay rồi.
Du Thản Chi quay đầu nhìn lại thì thấy người nắm tay mình chính là một tên đệ tử phái Tinh Tú. Tên này người cao lớn đẩy đà. Gã không hiểu chúng có dụng ý gì, nhưng trông mặt hắn cười một cách hung dữ, rõ ràng không phải chuyện tử tế, thì gã không khỏi giật mình la lên:
- Buông tay tôi ra!
Rồi cựa mạnh một cái. Bỗng nghe trên đầu có tiếng gió vù vù, một bóng người to lớn ở phía sau lưng vút qua đầu gã rồi đánh huỵt một tiếng. Bóng người này đã đập vào vách núi trước mặt, đập mạnh đến nỗi xương thịt tan nát, đầu nhão ra như đất bùn.
Du Thản Chi thấy tên đồ đệ này va vào vách núi mãnh liệt quá chừng, gã không tin tưởng mình lóa mắt.
Gã còn đang kinh ngạc, khi định thần nhìn lại thì Ðại Hán đập vào vách núi mà chết chính là tên đệ tử phái Tinh Tú vừa nắm chặt tay mình.
Gã lại càng kinh ngạc hơn nữa, tự hỏi:
- Thằng cha này rõ ràng vừa nắm tay mình sao hắn lại đâm đầu vào núi mà tự tử một cách bất thình lình?
Gã có biết đâu Ðại Hán này không phải đập đầu vào núi tự tử mà chỉ vì ngã cựa mình một cái, luồng kinh lực của gã tung Ðại Hán lên qua đầu rồi hất mạnh vào núi đến nỗi toi mạng.
Ta nên biết rằng Du Thản Chi tập luyện Dịch Cân Kinh rồi, nội lực gã suốt ngày đêm tăng lên rất nhiều mà gã không hay. Hơn nữa gã chưa từng động thủ với ai, nên không biết công lực của mình đã ghê gớm lắm rồi.
Ngày nọ Ba La Tinh, bóp cổ gã cơ hồ nghẹt thở, gã sợ quá chỉ thộn mặt ra, tuyệt không kháng cự. Thật ra nếu gã cố sức cựa quậy là Ba La Tinh không còn cách nào kiềm chế được gã.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy Du Thản Chi chỉ nhất tay một cái đã giết chết bọn đồng môn đều cả kinh thất sắc la lên một tiếng:
- Ối chao!
Tinh Tú Lão Quái đã giàu kinh nghiệm, lịch duyệt gian hồ vừa thấy gã hất chết đệ tử mình, đã nhìn thủ pháp của gã và cách cử động này không phải người có võ công thượng thặng mà chỉ có sức mạnh dị thường ở nơi cánh tay. Lão cho đó là thần lực thiên nhiên còn về võ công thì gã vào hạng tầm thường. Lão băng mình đi một cái đưa tay nắm lấy cái đầu sắt Du Thản Chi.
Du Thản Chi bị chụp một cách đột ngột, không kịp đề phòng, sức mạnh lão không kém gì một trọng lượng ngàn cân đè xuống gã ngã quỵ xuống đất. Gã thẳng người lên toan đứng dậy thì trên đỉnh đầu dường như có một trái núi vạn cân đè xuống, gã không cử động được nữa mở miệng van lớn:
- Xin lão tiên sinh tha mạng cho.
Ðinh Xuân Thu thấy gã năn nỉ tha mạng mới yên lòng hỏi lại:
- Sư phụ mi là ai! Mi to gan thật! Sao dám đánh chết đồ đệ ta.
Du Thản Chi áp úng:
- Tiểu nhân không có sư phụ. Tiểu nhân cũng... chẳng giết đồ đệ của lão tiên sinh.
Ðinh Xuân Thu nghĩ bụng: Mình đã kiềm chế được gã, chi bằng đánh chết gã để bịt miệng là xong.
Nghĩ vậy, lão buông tay ra, cho Du Thản Chi đứng dậy, liền phóng chưởng đánh vào ngực gã. Du Thản Chi thấy vậy cả kinh, bất giác đưa tay lên gạt chưởng của lão quái. Ðinh Xuân Thu phóng chưởng này rất chậm, lúc Du Thản Chi giơ tay lên gạt thì hai bàn tay vừa chạm nhau.
Chính Ðinh Xuân Thu có dụng ý như vậy, lão để chất độc đã chứa sẵn trong bàn tay theo một luồng nội lực hùng mạnh đẩy ra. Ðó chính là phép "Hóa công đại pháp" của lão từng nổi danh mấy chục năm trời và giết hại không biết bao nhiêu là tay cao thủ võ lâm không ngờ hôm nay lão phải bị một lần thất bại.
Thật ra đối với Du Thản Chi, một đứa hậu sinh nhỏ tuổi, lão không muốn vận dụng "Hóa công đại pháp" vì mỗi lần vận dụng đến nó là một lần tổn hao nguyên khí và giảm bớt chất kịch độc trong mình nhưng vì lão thấy Du Thản Chi đã sờ vào mười sáu vị Hồ tăng mà vẫn không trúng độc nên bất đắc dĩ phải dùng đến tuyệt kĩ này.
Hai chưởng gặp nhau, Du Thản Chi lảo đão người đi lùi lại đến mấy bước.
Gã toan đứng dậy nhưng lại trượt đi ngồi phệt xuống.
Gã ngồi xuống toan chống hai tay ra đằng sau để ngồi cho vững nhưng dư lực đòn chưởng đối phương vẫn còn mãnh liệt.
Du Thản Chi mông vừa tới đất rồi đến lưng đến đầu cũng hạ xuống theo, lộn đi ba vòng mới thôi.
Còn Ðinh Xuân Thu sau khi hai chưởng gặp nhau bổng thấy trước ngực mát lạnh rồi từ trong lòng bàn tay một luồng nội lực tiết ra ngoài thân thể một cách nhanh chóng dị thường.
Lão vội cố sức dừng lại nhưng không tự chủ được, nội lực vẫn thoát ra ngoài.
Lão vội đảo ngược đầu xuống giơ chân lên, chuyển vận luôn mấy lần.
Nhờ phép "Có cơ vận kinh" này của phái Tinh Tú, lão mới ngăn nội lực lại.
Lão nhảy lộn người đứng dậy râu tóc dựng ngược lên, sắc mặt lợt lạt, trong rất đáng sợ.
Lão lại xòe hai bàn tay to tướng như cái quạt toan đánh xuống Du Thản Chi nữa.
Du Thản Chi đập đầu lia lịa kêu van:
- Xin lão tiên sinh tha mạng, xin lão tiên sinh tha mạng!
Ðinh Xuân Thu gặp chưởng Du Thản Chi, lão biết rằng"Hóa công đại pháp' của mình tu luyện đã mấy chục năm nên nội lực còn mạnh hơn đối phương, nhưng về chất độc so với đối phương mình còn kém xa. Nếu hai người tỷ thí tất lão còn thua một bậc.
Giữa thầy trò phái Tinh Tú trước đây thì ai mạnh nấy được, ai yếu nấy thua, không có chút tình nghĩa gì hết. Chẳng những thế, giữa đồng môn với nhau, cách tàn sát càng tệ hại hơn. Vì bị bại về người khác phái thì đối phương còn có phần nhân nhượng, chớ giữa phái Tinh Tú với nhau thì chẳng ai chịu thua ai bao giờ.
Ðinh Xuân Thu tự hỏi:
- Cuộc tỷ thí vừa rồi rõ ràng là Du Thản Chi đã thắng mình mà sao gã vẫn năn nỉ xin tha mạng? Chẳng lẽ gã cố ý trêu cợt mình? Phép "Hóa công đại pháp" này gã đã học ở đâu?
Ðinh Xuân Thu vừa kinh dị vừa bẽn lẽn, nhưng lão vốn là người xảo quyệt, ngoài mặt vẫn thản nhiên. Lão đặt chân trái xuống tung mìh nhảy lại Du Thản Chi rồi hỏi gã:
- Mi thực tình xin tha mạng hay mi giả vờ?
Du Thản Chi dập đầu lia lịa nói:
- Tiểu nhân một tấm lòng xin lão tiên sinh tha cho cái mạng kiến ruồi này.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Mi... mi... mi... Lão nói luôn ba tiếng "mi" rồi thốt nhiên làm mặt giận nói:
- Mi ăn cướp Bích Ngọc Vương Ðỉnh của ta đem giấu đâu?
Lão nghĩ rằng phàm ai học Hóa công đại pháp thì không có Bích Ngọc Vương Ðỉnh là không được và cứ tra hỏi cho ra đỉnh ngọc hoặc giả có thể điều tra được lai lịch của gã cũng nên.
Du Thản Chi nói:
- Tiểu... Tiểu nhân không lấy cắp Ðỉnh Ngọc của lão tiên sinh, mổi lần cô nương dùng xong lại đem cất đi chưa bao giờ cho tiểu nhân mó tay vào...
Ðinh Xuân Thu mới hỏi một câu mà đã lòi ra đầu mối Ðỉnh Ngọc của mình thì mở cờ trong bụng. Lão hỏi tiếp:
- Chà! Mi còn cãi nữa ư? Rõ ràng cô nương bảo mi ăn cắp kia mà!
Du Thản Chi la lên:
- Trời ơi! Thật là oan uổng cho tiểu nhân quá! Từ khi cô nương luyện Băng Tằm rồi tiểu nhân không thấy Ðỉnh Ngọc đâu cả. Sao cô nương lại bảo tiểu nhân ăn cắp? Lão tiên sinh không tin thì xin đi tìm cô nương để đối chất ba mặt một lời.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Ðược lắm! Ðã vậy thì mi đưa ta đi gặp cô nương để hai người đối chất với nhau một phen.
Du Thản Chi nói:
- Vâng! Xin lão tiên sinh đi ngay để gặp cô nương.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Phải rồi! Ta đi ngay bây giờ để tìm thấy mặt nó đặng hỏi cho ra. Mi còn sống được hay phải chịu chết hôm nay sẽ rõ.
Du Thản Chi nói:
- Cô nương ở tận bên thành nước Liêu, đường đi diệu vợi, phải đi hàng nửa tháng hay ít ra là mười ngày mới tới nơi. Hôm nay làm sao đối chất được? Có điều... Có điều...
Ðinh Xuân Thu vô tình mà biết được nơi ở của A Tử thì mừng rỡ vô cùng, lão hỏi ngay:
- Có điều... là sao?
Du Thản Chi nói:
- Nếu lão tiên sinh muốn sang kinh thành nước Liêu, tiểu nhân xin dẫn đường.
Ðinh Xuân Thu là con người hiểu đời, tuy Du Thản Chi đã chụp lồng sắt lão không trông thấy mặt gã, song chỉ nghe tiếng nói lão cũng biết rằng chính gã này cũng muốn gặp A Tử.
Hiếu sắc là thường tình của con người. A Tử là một cô gái dung nhan mỹ lệ, lão chắc Du Thản Chi cũng đem lòng say mê nàng. Muốn thử lòng gã, lão giả vờ đánh trống lảng:
- Ðàng xa hàng ngàn dặm kinh thành nước nước Liêu làm cóc gì? Ðể ta phái mấy tên đệ tử đắc lực qua đó giết quách con tiện tỳ ấy đi, lấy ngọc đỉnh đem về là xong.
Quả nhiên Du Thản Chi thấy lão có ý định giết A Tử thì bồn chồn trong dạ nói ngay:
- Không không! không được! Làm thế không xong...
Ðinh Xuân Thu càng trông rõ ruột gan gã, giả tảng hỏi:
- Làm thế sao lại không được?
Du Thản Chi đỏ mặt nhưng vì gã đeo mặt sắt, nênkhông ai thấy rõ, gã ấp úng:
- Cái đó... cái đó...
Ðinh Xuân thu cười ha hả nói:
- Phải chăng mi muốn che chở cho con tiện tỳ A Tử đó, để rồi lấy nó làm vợ?
Ý nghĩ "lấy A Tử làm vợ", Du Thản Chi đã âm thầm chôn sâu xuống tận đáy lòng. Cả những giấc ngủ ban đêm gã còn chả bao giờ dám mơ ước, huống chi là giữa thanh thiên bạch nhật.
Du Thản chi kính ngưỡng bái thờ A Tử như một vị thần tiên. Hy vọng cao xa tuyệt đích của gã là được hóa thành kiếp trâu ngựa để làm nô lệ cho nàng. Ngẫu nhiên được thấy mặt nàng một lần hay được nghe lời nàng nói là gã đủ mãn nguyện rồi. Khi nào dám để những ý tưởng được yêu ấp con người thần tiên đó vào đầu óc?
Du Thản Chi nghe Ðinh Xuân Thu nói câu này gã thộn mặt ra đầu váng mắt hoa, đứng không vững, người lảo đảo luôn mấy cái gã hấp tấp đáp:
- Không, không phải...
Ðinh Xuân Thu coi bộ dạng gã càng hiểu, quyết định không nghi ngờ gì nữa. Lão lẩm bẩm toan tính:
- Thằng lõi này không hiểu nó luyện theo phương pháp nào hay gặp cơ duyên gì, mà chất độc chứa trong người gã còn nhiều hơn ta? Ta phải thu nạp gã để dò la gã luyện công theo môn phái nào, đoạn rút hết chất độc trong người gã vào mình rồi khi đó hãy đem gã xử cũng chưa muộn. Giờ mình giết gã ngay, há chẳng đáng tiếc lắm ư?
Dưới mắt Tinh Tú lão quái thì mạng con người hay mạng con rắn con rết cũng thế thôi, không hơn không kém. Trong người Du Thản Chi đã chứa chất độc thì gã cũng là vật chí bảo trên thế gian, lão tính cách khai thác lấy chất độc làm của mình, còn cái xác không thì giết bỏ.
Ðinh Xuân Thu nghĩ rằng: bắt rắn rết độc thì dùng Bích Ngọc Vương Ðỉnh, còn thu dụng "con người độc" Du Thản Chi thì phải dùng cái mồi khác, có thế thôi.
Cái mồi tốt nhất đủ làm điên đảo thần hồn Du Thản Chilà A Tử. Cái mồi này nhử được "Con người độc" đồng thời có thể lấy lại được Ðỉnh ngọc về, sau cùng là giết được A Tử nữa. Vậy chuyến đi này được cả ba việc. Thật là tuyệt diệu!
Tính toán đâu đấy rồi lão nói:
- Này này, ta hỏi ngươi: giả tỉ ta đem A Tử gả cho ngươi làm vợ, ngươi có bằng lòng không?
Du Thản Chi đáp:
- Cái đó... cái đó không thể nào thành được. Tiểu nhân chỉ là nô bộc của cô nương mà thôi. Tiểu nhân được cô nương sai khiến, đánh mắng cũng là quá phận rồi. Cô nương là một bậc thần tiên, tiểu nhân suốt đời không dám có ý nghĩ càn rỡ đó. Vậy xin lão tiên đừng nói thế lỡ ra mà... mà đến tai cô nương... thì nguy cho tiểu nhân lắm đó!
Ðinh Xuân Thu nói:
- Việc gì mà nguy? A Tử là đồ đệ của ta. Ðã là đồ đệ thì phải nghe lời sư phụ truyền dạy. Ta biểu gả nó cho ngươi, khi nào nó dám chống cự. Nó lấy cắp Bích Vương đỉnh Ngọc ta không giết nó phải mang ơn sâu tày trời biển, khi nào còn dám cãi lời ta.
Du Thản Chi hỏi:
- Cô nương... cô nương là môn đồ của lão tiên sinh ư?
Ðinh Xuân Thu nói:
- Ngươi không tin ta ư?
Lúc trước Du Thản Chi nấp trong bụi cỏ đã nghe lần thầy trò đối đáp với nhau, biết rằng A Tử là đồ đệ của lão rồi, có điều gã lại không hiểu tại sao con người ngọc nhan sắc nguyệt thẹn hoa nhường, phong tư cao nhã, lại cùng bọn đê tiện bỉ ổi này là bạn đồng môn, chẳng hóa ra cá mè một lứa, mà do đó nàng mất cả phẩm cách con người.
Ðinh Xuân Thu trỏ gã đồ đệ mũi sư tử hỏi:
- Tiểu sư Muội ngươi hình dung như thế nào?
Gã mũi sư tử đáp:
- Năm nay A Tử mười sáu tuổi. Nàng mặt trái xoang, cằm thon, má lúm đồng tiền, thân hình tha thướt, da trắng nõn nà, môi trên hơi cong, mắt đen láy và rất tinh nhanh. Tính nàng ưa mặc áo tía lưng thắt đai vàng.
Du Thản Chi nghe tên đồ đệ mũi sư tử tả đúng hình dáng A Tử Mỗi câu hắn nói ra là mỗi lần trái tim gã đập thình thịch. Khi gã nghe hắn nói hết lời, thì không còn nghi ngờ gì nữa. Gã khẽ nói:
- Hình dáng cô nương quả đúng như thế.
Ðinh Xuân Thu nói tiếp:
- Nếu ngươi muốn lấy A Tử làm vợ cũng dễ dàng thôi. Có điều môn phái ta có những lề luật nhất định là nữ đệ tử, không gả cho người ngoài mà chỉ gả cho đồng môn bản phái. Ngươi tuy hình thù cổ quái nhưng ta cũng đặc biệt thu nhận ngươi làm đồ đệ, nếu ngươi chịu bái ta làm sư phụ.
Du Thản Chi nghe lão nói câu lấy A Tử làm vợ tuy gã không dám mơ tưởng hão huyền. Nhưng gã vẫn hỏi lại: Nếu tiểu nhân lạy lão tiên sinh làm sư phụ thì tiểu nhân cũng là đồng môn của cô nương phải không?
Ðinh Xuân thu vẫn thấy Du Thản Chi có ý trì nghi, chưa tỏ rõ thái độ liền nói:
- Con nhỏ A Tử dễ thương thật đấy, chả trách bao nhiêu gã nam đệ tử đồng môn cứ lăm le chực lấy nó làm vợ. Ta nhớ đến công lao ngươi bữa nay, mà ngươi bái ta làm sư phụ thì ta phải lấy ân tình đặc biệt đối đãi với ngươi cũng là lẽ thường.
Du Thản Chi nghe lão nói vậy, bất giác lòng nóng như lửa, gã lẩm bẩm: Nếu ta để mất cơ hội này thì sẽ phải ân hận suốt đời. Kể ra thì không bao giờ ta tính lớn chuyện lấy cô nương làm vợ. Nhưng mà... Nhưng mà... ta không thể để cô nương lọt vào tay phường chó má, những quân súc sinh đê tiện kia được.
Chớp mắt, bầu máu nóng trào lên trên ngựa gã, gã quỳ xuống lạy nói:
- Sư phụ! Ðệ Tử là Du Thản Chi xin bái kiến sư phụ làm lễ nhập môn, xin sư phụ thu nạp.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Ngươi đã nguyện ý lạy ta là thầy thì được rồi. Nhưng lệ luật của bản môn rất nhiều, ngươi có giữ đúng được không? Sư phụ đã sai bảo việc gì, ngươi phải gắng sức hết lòngtuân theo mệnh lệnh, không được phản kháng nghe chưa?
Du Thản Chi nói:
- Ðệ tử xin tuân theo lề luật, phục tùng sư mệnh.
- Nếu sư phụ bảo ngươi chết, ngươi có cam tâm chịu chết không?
Du Thản Chi ấp úng:
- Cái đó... Cái đó...
Ðinh Xuân Thu nói:
- Ngươi suy nghĩ rồi trả lời cho rõ ràng. Cam tâm thì bảo cam tâm, mà không cam tâm thì bảo rõ không cam tâm.
Du Thản Chi lẩm bẩm:
- Lão muốn giết mình dĩ nhiên mình không cam tâm chút nào. Nhưng nếu xảy ra như vậy thật, lúc đó mình trốn được thì trốn, mà không trốn được thì chịu. Dù chẳng cam tâm cũng chẳng làm gì.
Nghĩ vậy liền đáp:
- Sư phụ đối với đệ tử ơn sâu nghĩa trọng. Sư phụ bắt chết đệ tử cũng cam tâm.
Ðinh Xuân Thu cười ha hả đáp:
- Hay lắm! hay lắm! ngươi thề độc đi. Nếu ngày sau ngươi chẳng chịu tuân lời thì chịu thế nào?
Du Thản Chi nghĩ ngay rồi đáp:
- Ðệ tử Du Thản Chi nếu sau này không tuân lời, xin chịu thảm hình của sư phụ phân thây muôn đoạn, chẳng được chết toàn thi thể.
Ðinh Xuân Thu ngẩn người rồi cười nói:
- Anh chàng đầu sắt này xảo quyệt gớm! Ngươi không tuân theo mệnh lệnh sư phụ, dĩ nhiên là ta sẽ xử tử. Vậy lời thề độc của ngươi chỉ bằng thừa. Nhưng thôi được, ngươi nhớ lấy lời thề đó nghe.
Rồi lão gọi:
- Lại đây lai lịch ngươi thế nào thuật kĩ cho ta nghe!
Du Thản Chi không thể làm thế nào được, đành đem những ngày hoạn nạn, những nỗi cơ cực, thuật lại sơ qua một lượt, có điều gã không muốn kể hết gốc gác làm nhơ nhuốc thanh danh họ Du ở Tụ Hiền Trang, gã chỉ nói mình là con một nông dân bị người Liêu tìm lương thảo bắt đi. Gã được gặp A Tử rồi cùng nàng đi bắt rắn độc, trúng độc.
Lúc Du Thản Chi kể đến chuyện bắt con Băng Tằm, Ðinh Xuân Thu càng để ý nghe một cách rất chăm chú. Lão hỏi kỹ về hình thù con Băng Tằm. Có điều lão vẫn giữ một khuôn mặt thản nhiên tuyệt không lộ vẻ gì khác lạ.
Du Thản Chi nghĩ thầm:
- Vị sư phụ này không phải người tốt, nếu mình nói rõ cho hắn biết cuốn kinh chữ Phạn tất lão đoạt mất. Gã nghĩ vậy, nên Ðinh xuân Thu có hỏi lại phép luyện công cổ quái này, gã cũng không chịu thố lộ hết sự thật.
Ðinh Xuân Thu không biết là công lực mà "Dịch Cân Kinh" mà tưởng đó chỉ là công hiệu con tằm kì diệu. Lão rủa thầm trong bụng: "Thần lực quí báu như vậy mà lọt vào tay thằng quỉ con mặt sắt này để hút lấy chất độc vào trong người thật là đáng tiếc!"
Lúc Du Thản Chi kể đến đoạn con Băng Tằm do nhà sư Tam Tĩnh đem về chùa Thiếu Lâm, Ðinh Xuân Thu vỗ đùi đánh đét một cái rồi nói:
- Nhà sư Tam Tĩnh biết bắt con Hán độc trùng từ núi Côn Luân thì hay lắm. Ở đó đã bắt được một con thì chắc còn hai ba con nữa chứ đâu có một. Có điều là núi Côn Luân rộng kể hàng ngàn dặm, nếu không có người thuộc đường lối chỉ dẫn thì khó lòng mà bắt được Hán độc trung này.
Chính lão đã nhìn thấy chỗ linh diệu của Hán trùng độc thì ắt rằng nó còn quí hơn Bích Vương Ngọc Ðỉnh nhiều. Vậy việc giết A tử để đoạt lại đỉnh ngọc hãy tạm gác lại. Lão hỏi tiếp:
- Nhà sư Tam Tĩnh còn ở chùa Thiếu Lâm chứ? Hay lắm, hay lắm, chúng ta đến bảo ông ta dẫn đến núi Côn Luân để bắt Băng Tằm đi!
Du Thản Chi lắc đầu nói:
- Không được! không được! Nhà sư Tam Tĩnh hung dữ vô cùng, chưa chắc lão đã đưa đi. Hơn nữa y đã vi phạm luật lệ bản môn nên bị đại hòa thượng chùa Thiếu Lâm giam vào nhà đá rồi, có được tự tiện ra đâu.
Ðinh Xuân Thu hung dữ mà không chịu đi ư? Thế thì kì nhỉ? Chúng ta cứ đến chùa Thiếu Lâm coi, tìm cách bắt y ra rồi sẽ liệu.
Du Thản Chi nghĩ bụng:
- Tại chùa Thiếu lâm có biết bao nhiêu hòa thượng võ nghệ cao cường. Lão này muốn đến đó bắt người không phải là chuyện dễ.
Ðinh Xuân Thu thấy Du Thản Chi im lặng không nói liền hỏi:
- Tại sao ngươi không nói? Du Thản Chi đáp:
- Ðệ tử e rằng các vị đại hòa thượng chùa Thiếu Lâm. Vì lão quá nóng lòng đi bắt Băng Tằm, lão nghĩ bụng:
- Ta không cần động thủ với các tên sư mõ chùa Thiếu lâm, chỉ cốt sao lén lút bắt được Tam Tĩnh ra là xong. Họ ở ngoài ánh sáng, mình trong bóng tối. Chẳng lẽ Tinh Tú Lão Quái mà làm cái việc bắt nhà sư béo chùn béo chụt ấy đó không xong?
Nghĩ vậy lão nói:
- Ngươi cứ dẫn đường đến chùa Thiếu Lâm là được.
Du Thản Chi vãn ra chiều sợ sệt. Ðinh Xuân Thu hỏi:
- Ðã có sư phụ đi kèm ngươi còn sợ gì?
Du Thản Chi đáp:
- Tại chùa Thiếu lâm còn có vị sư ở Tây vực. Lão muốn... sát hại đệ tử.
Ðinh Xuân thu hỏi:
- Hồ tăng ở Tây vực ư? Võ công lão như thế nào? Chắc còn cao hơn mười sáu vị sư chứ? Du Thản Chi đáp:
- Ðệ tử không hiểu, chỉ thấy các vị chùa Thiếu Lâm cầm không cho lão về thôi.. Chắc là võ công ghê gớm lắm.
Ðinh Xuân thu cười ha hả nói:
- Ta chỉ mới có giơ tay một cái mà cả mười sáutên Hồ tăng đã chết nhăn răng ra rồi, thì dù có thêm một tên nữa thì phỏng có ích gì? Lại đây mau! Bữa nay ngươi đã bái ta làm sư phụ và ta đã thu nạp ngươi làm đồ đệ rồi. Ngươi ghé tai vào đây cho ta dặn.
Du Thản Chi từ từ lại gần bên đinh Xuân Thu, trong lòng ngấm ngầm sợ hãi.
Ðinh Xuân Thu nói nhỏ vào tai gã:
- Khi ngươi thấy lão Hồ tăng đó thì Khấn thầm trong bụng "Tinh Tú lão tiên! Tinh tú lão tiên, bảo vệ đệ tử. Ðàn áp kẻ địch. Một, ba, năm, bảy, chín!" Rồi giơ tay lên vỗ vào tai trái một cái. Ngươi cứ làm thế thì dù ở bất cứ nơi đâu sư phụ cũng tâm linh cảm ứng được, thì vẫn thần thông để cứu ngươi. Và từ đó trở đi, lão thấy ngươi sẽ đem lòng kính sợ chứ không dám hại ngươi nữa. Ðây là sư phụ mới dạy cho ngươi pháp luật đầu tiên. Ngươi phải hõc thuộc kĩ nghe!
Du Thản Chi giơ tay lên sờ tai bên trái mình rồi hỏi:
- Có phải chỗ này không?
Ðinh Xuân Thu đáp:
- Ðúng rồi! Nhưng ngươi không được tiết lộ cho ai biết cả. Ðấy là một môn pháp thuật thàn diệu của bản phái. Ngươi đã thuộc những câu khẩu quyết chưa?
Du Thản Chi vâng lời đọc khẽ một lượt.
Ðinh Xuân Thu gật đầu nói:
- Hay lắm! Ngươi thuộc lòng thế là được rồi. Ta đi thôi!
Du Thản Chi vâng lời không dám chống đối mệnh lệnh sư phụ, đành dẫn đoàn người đi về phía chùa Thiếu Lâm.
Ðoàn người đi một mạch cho đến lúc hoàng hôn thì đã thấy chùa Thiếu lâm xuất hiện ở đàng xa, mái chùa liên tiếp không biết bao nhiêu là phòng ốc.
Ðinh Xuân Thu quay lại bảo bọn đồ đệ:
- Các ngươi vào cũng không được việc gì. Nhiều người chỉ tổ vướng chân ta. Vậy các ngươi vào bụi cây trong rừng mà ẩn nấp. Chỉ một mình A Du (tức là Du Thản chi) vào chùa với ta là đủ.
Bọn đệ tử vâng lời, chỉ có gã mũi sư tử nói:
- Khi nào giết xong bọn đầu trọc trong Thiếu Lâm, thì sư phụ báo tín hiệu ra ngoài, để bọn đệ tử hoan hô sư phụ.
Ðinh Xuân Thu trợn mắt lên nói:
- Các sư phụ chùa Thiếu Lâm có ai đụng đến phái Tinh Tú mình đâu? Sao ngươi muốn giết người ta?
Gã mũi sư tử bẽn lẽn nói:
- Vâng! Vâng!
Du Thản Chi theo sư phụ vào chùa Thiếu Lâm, gã đi sau thấy lão tay áo phất phơ, chân bước nhẹ nhàng, chẳng khác nào tiên ông trong tranh vẽ, thì sinh lòng kính cẩn nhủ thầm:
- Mình gặp vị sư phụ như vị này chắc kiếp trước đã đầy kiếp tu. Phen này đến chỗ A Tử cô nương chưa biết ra sao, nhưng có sư phụ che chở, binh vực thì ít ra đi đâu cũng khỏi bị người ức hiếp.
Hai người theo đường lớn lên núi, gần đến quán Lương Ðình ngoài cổng chùa Thiếu Lâm, bỗng nghe có tiếng vó câu lộp độp, rồi thấy hai con ngựa chạy như bay sắp tới nơi.
Du Thản Chi bị người hành hạ đã nhiều, nên vừa thấy ngựa đã kêu lên:
- Sư phụ ơi! Cô nương tới!
Rồi gã đứng nép sang một bên đường. Ðinh Xuân Thu vẫn nghiễm nhiên như không có chuyện gì. Lão cứ ung dung giữa đường mà đi, chẳng đẫn đờ mà cũng không hấp tấp. Hai con ngựa một đen một vàng đi song đôi chỉ còn cách Ðinh Xuân Thu một trượng thì rẽ sang hai ben mé đường để lướt qua lão.
Hai người cưỡi ngựa ngoảnh đầu lại nhìn Ðinh, Du một cái. Người cưỡi ngựa đen bé nhỏ và gầy nhom, mình mặc áo đen, hai mắt loang loáng vẻ mặt tinh lanh. Người cưỡi ngựa vàng mặc áo hòang bào, thân hình không gầy lắm, nhưng cao lênh nghênh, lông mày chênh chếch rủ xuống, vẻ mặt bướng bỉnh, nhiều tuổi hơn người áo đen.
Hai người thấy Du Thản Chi đầu bịt thì ra chiều kinh dị nhưng cũng quay đi ngay thẳng tới quán Lương Ðình, xuống ngựa buộc vào cột quen.
Người mặc áo hoàng bào móc trong bọc ra một cái hộp đồ lễ cầm trong tay, lớn tiếng hỏi:
- Chúng tôi đến bái sơn.
Vô hình chung, chùa Thiếu Lâm là đầu não các phái võ Trung Nguyên những giang hồ hiệp khách quanh năm đến bái sơn không ngớt.
Sau quán Lương Ðình có một căn phòng nhỏ. Trong phòng có tăng nhân chuyên đón khách.
Nhà sư nghe tiếng có khách đến bái sơn vội chạy đến chắp tay nói:
- Khách quan từ phương xa đến chắc đi đường mệt mỏi lắm. Tiểu tăng là Hư Phong xin bái kiến.
Người mặc hoàng bào khoanh tay đáp lễ nói:
- Không dám! Tại hạ xin ra mắt đại sư.
Người mặc áo đen cũng chắp tay thi kễ nói:
- Lúc này Ðinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi cũng đãvào tới quán Lương Ðình.
Nhà sư Hư Phong hỏi:
- Xin khách quan cho biết cao tính đại danh?
Người mặc hoàng bào đáp:
- Mộ Dung Phục ở núi Giang Nam xin bái sơn.
Tiếng "Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung" khách võ lâm không ai không biết.
Ðinh Xuân Thu vừa nghe nói "Mộ Dung Phục ở Giang Nam xin bái sơn" trong lòng rung động, nheo mắt nhìn người mặc áo vàng thì thấy nét mặt vàng ửng, thân hình ốm o, bộ dạng không xứng đáng với tên "Giang Nam Mộ Dung" tiếng tăm lừng lẫykhắp thiên hạ chút nào. Lão còn đang ngơ ngẩn ngẫm nghĩ, thì Hư Phong cũng giật mình hỏi lại:
- Các... Các hạ là... Mộ Dung công tử?
Người mặc hoàng bào tủm tỉm cười đáp:
- Tại hạ họ Bao, tên gọi Bao Bất Ðồng.
Y trỏ người áo đen giới thiệu:
- Vị này là anh em tại hạ tên gọi Nhất Trận Phong...
Chưa dứt lời thì Trì khách tăng Hư Phong đã nói:
- Tiểu tăng nghe danh đã lâu. Người là Phong Bá Ác. Phong tứ gia?
Phong Bá Ác nhanh nhẹn cười hỏi luôn:
- Tuệ Thu sư thúc trong quý tự vẫn mạnh giỏi?
- Tuệ Thu sư thúc vẫn bình thường. Người hay nhắc và khen ngợi Phong tứ gia là một tay hảo hán, nóng nảy, gan dạ, võ công cao cường! Người nhớ tứ gia lắm.
Phong Bá Ác cười ha hả:
- Tại hạ bị Tuệ Thu sư phụ đánh cho một quyền đau đến ba tháng mới hết.
Rồi cả ba cùng cười ồ.
Nguyên Lão Phong Bá Ác là người ưa tranh đấu gặp ai cũng muốn giành sự đánh nhau chơi. Mấy năm trước đây, chẳng có chuyện gì cũng vào chùa Thiếu Lâm rồi xảy ra cuộc ác đấu với Tuệ Thu thiền sư. Hai bên kẻ nửa cân, người tám lạng, chẳng ai thua ai.
Hư Phong liếc mắt nhìn Ðinh Xuân thu hỏi:
- Cao tính lão sinh là gì?
Ðinh Xuân Thu đáp:
- Tại hạ họ Ðinh.
Giữa lúc ấy lại có hai người cưỡi ngựa đi lên núi.
Hư Phong vừa nghe có tiếng vó ngựa đưa mắt nhìn ra thấy một con ngựa màu hồng thậm. Lại còn một con ngựa nữa sắc xanh xám, người cưỡi gnựa mặc trường bào màu xanh xám.
Tới nơi hai người xuống ngựa, mọi người nhìn rõ mặt lão mặc áo hồng bào tuổi ngoài năm mươi, mặt vuông tai lớn trông đường vệ như một ông quan. Người mặc áo bào xanh xám có vẻ mặt thầy đồ, tuổi chừng ngót năm chục, cặp mắt đã lờ mờ dường như vì đọc sách nhiều quá nên thị lực kém đi.
Phong Ác Bá giới thiệu:
- Thưa đại ca cùng nhị ca! Vị này là trì khách tăng Hư Phong sư phụ.
Rồi quay sang Hư Phong giới thiệu:
- Ðây là Ðặng đại ca của tại hạ tên là Ðặng Bách Xuyên.
Lại trỏ vào lão thầy đồ nói:
- Vị này là nhị đại ca, tên gọi là Công Dã Càn.
Hư Phong chắp tay thi lễ nói:
- Tiểu tăng từng được nghe các danh Ðặng đại ca cùng Công Dã nhị gia. Bữa nay được hai vị giá lâm thật là vinh hạnh cho tệ tự.
Ðặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn lên tiếng đáp:
- Không dám, sư phụ dạy quá lời.
Hai người mới nói bấy nhiêu tiếng, mà hai người nghe đã chói tai vì thanh âm Ðặng Bách Xuyên xoang xoảng như tiếng chuông đồng. Ðây là lão mới buột miệng nói tự nhiên, chưa dùng sức chút nào, mà đã làm rung động lá nhĩ mọi người.
Công Dã Càn nói tiếp:
- Công tử tôi sắp đến bây giờ, cảm phiền sư phụ báo cho một tiếng.
Hư Phong nói:
- Vâng, xin năm vị ở trong quán chờ một chút, tiểu tăng vào chùa thông báo, mời các sư bá, sư thúc ra nghênh tiếp liệt vị.
Ðặng Bách Xuyên nói:
- Không dám!
Lão quay lại, ngó thấy Ðinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi, không biết là hạng người thế nào.
Hư Phong trở gót lật đật đi vào chùa. Y nhớ lại lần trước quần hào Trung Nguyên đã tụ tập chùa Thiếu Lâm để thương nghị cách đối phó với Mộ Dung công tử, một tay thông suốt hết những tuyệt kĩ của tất cả phái võ khắp thiên hạ.
Sau cuộc hội đàm chưa bao lâu thì phát sinh vụ Kiều Phong lẻn vào chùa Thiếu Lâm, kế tiếp đến cuộc đại hội quần hùng ở TụHiền Trang, các vị anh hùng Trung Nguyên đổ dồn cặp mắt vào "Kiều Phong" còn vụ "Nam Mộ Dung" tự nhiên lắng xuống. Trước kia bao nhiêu tội ác khách giang hồ đổ cả lên đầu "Cô Tô Mộ Dung" nhưng từ đó lại được san sả bớt đi phân nửa cho Kiều Phong gánh đỡ. Không ngờ bửa nay "Mộ Dung công tử" lại xuất hiện một cách đột ngột.
Huyền Từ đại sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm được tin báo một cách bất ngờ, liền phái viện trưởng viện Ðạt Ma là Huyền Nạn đại sư thống lảnh mười lăm vị cao tăng xuống núi nghênh tiếp.
Mọi người hỏi Hư Phong biết rằng Mộ Dung công tử phái bốn tay thuộc hạ theo đúng phép lễ nghi, xem ra không có ác ý gì cả.
Tuệ Thu Hiền Sư lại hết sức khen ngợi Phong Bá Ác là người bạn tốt.
Mọi người đều chân tay không, không cầm binh khí. Vì ai nấy đều biết tiếng tăm Mộ Dung Phục lừng lẫy thiên hạ, dù chàng có ý đến chùa Thiếu Lâm để gây hấn, cũng không đến nỗi vừa gặp nhau đã động thủ ngay.
Lúc Hư Phong trở gót vào chùa thì cặp mắt láo lia của Phong Bá Ác ngó chầm chập vào bộ mặt sắt Du Thản Chi không ngớt. Y càng ngó càng lâu càng thấy hay hay.
Phong Bá Ác lại đi vòng quanh Du Thản Chi ngắm ngía cái đầu kỳ lạ, thấy cái đầu này đúc rất tinh xảo, hàn gắn rất kỹ càng. Gã muốn đưa tay ra gõvào cái đầu này mấy cái.
Bọn Ðặng bách Xuyên biết tính gã hay rắc rối dễ xảy ra chuyện lôi thôi, liền ngăn trở y tránh mọi chuyện xích mích nhỏ mọn có thể gây thành đại sự.
Phong Bá Ác xem ngắm hồi lâu gợi chuyện:
- Này anh bạn! Anh mạnh giỏi chứ?
Du Thản Chi đáp:
- Dạ, tôi... tôi thường. Còn ông bạn thế nào?
Gã thấy Phong BáÁc hình như ngứa chân ngứa tay, vung quyền múa chưởng, càng ngấm ngầm sợ hải.
Phong Bá Ác nói:
- Cái lồng sắt của anh bạn ai làm khéo thế? Phong mỗ đi khắp thiên hạmà chưa thấy ai có cái mặc nạ này.
Du Thản Chi bẽn lẽn, cúi đầu xuống nói khẽ:
- Vì tôi... không có quyền tự chủ được thân mình, nên họ... muốn làm thế nào thì làm. Tôi không có cách nào...
Phong Bá Ác vốn là người đầy lòng nghĩa hiệp, nghe DuThản Chi nói vậy, cũng thương tình liền hỏi:
- Kẻ nào mà ác ôn ghê gớm đến thế? Phong Mỗ muốn thử coi xem cái mặc nó thế nào? Phong Bá Ác vừa nói vừa nói vừa nheo mắt nhìn vào mặt Ðinh xuân Thu vì tưởng lão này đã ức hiếp và chụp lòng sắt vào đầu Du Thản Chi.
Ðinh Xuân Thu, trên mặt thoáng qua nụ cười, dường như có để ý cho Phong Bá Ác trông thấy.
Du Thản Chi vội nói:
- Không... không phải sư phụ tôi đâu.
Phong BáÁc nói:
- Vậy thì ai? Họ chụp lồng sắt vào đầu anh để làm gì? Tôi phải tháo bỏ đi cho anh.
Y nói xong thò tay vào bọc móc lưỡi dao trủy thủy sáng loáng ra. Mới trông cũng biết ngay là một lưỡi dao cực kỳ sắc bén.
Phong Bá Ác định dùng lưỡi dao này để tháo cái lồng sắt cho Du Thản Chi.
Du Thản Chi biết cái lồng sắt này đã dính liền mặt mũi và đầu óc mình, nếu tháo nó ra thì đồng thời rứt cả da thịt mình và có thể nguy đến tính mạng. Gã vội ngăn lại:
- Không! Không thể tháo ra được đâu!
Phong Bá Ác nói:
- Anh đừng sợ gì hết. Anh cứ để tôi tháo ra cho, quyết không tổn thương gì đến da thịt anh đâu.
Du Thản Chi vẫn nằng nặc không chịu, nói:
- Không! Không được mà!
Phong Bá Ác hỏi:
- Phải chăng anh sợ hãi cái con người đã chụp mũ sắt lên đầu anh nên anh không dám để tôi tháo ra cho anh chứ gì? Lần sau anh có gặp hắn hành hạ về tội mất mặt sắt, anh cứ biểu hắn rằng: "Nhất trận Phong này đè anh để tháo ra đó" anh không tự chủ được thì biểu hắn đến tìm tôi mà trả đũa.
Phong Bá Ác nói xong nắm chặt cổ tay trái Du Thản Chi.
Du Thản Chi nhìn thấy lưỡi dao truỷ thủ sáng loáng thì kinh hãi vô cùng, vội la lên:
- Sư phụ! Sư phụ!
Gã vừa gọi vừa quay lại Ðinh Xuân Thu cầu cứu, nhưng thấy lão cứ thản nhiên hai tay chấp để sau lưng đủng đỉnh đi ra phía ngoài quán Lương Ðình để ngắm phong cảnh, vờ như không nghe tiếng Du Thản Chi kêu gọi. Du Thản Chi trong lúc hoang mang, nhớ đến phương pháp sư phụ đã truyền thụ để cự địch. Gã ngầm ngầm niệm khẩu quyết: "TinhTú lão tiên! Bảo vệ đệ tử! Ðánh bại kẻ địch. Một, ba, năm, bảy, chín." Ðoạn gã giơ tay mặt vỗ vào bả vai bên trái Phong Bá Ác. Dè đâu chổ gã đập lại đúng vào huyệt thiên tông một huyệt đạo trọng yếu nơi sau lưng.
Phong Bá Ác lúc đó để hết tinh thần vào việc tháo lồng sắt cho Du Thản Chi, y sợ chỉ trệch mũi dao một chút là có thể làm gã phải sứt mặt vỡ đầu, y còn có đề phòng đâu đến chỗ bị Du Thản Chi tập kích ngấm ngầm một cách bất thình lình.
Hơn nữa kình lực chưỡng thế này rất mạnh không phải tầm thường lại đập vào chỗ hiểm yếu trong người, Phong Bá Ác chỉ kịp rú lên một tiếng rồi ngã chúi về đằng trước. Ấy là Phong Bá Ác đã nhanh chân lẹ tay, nên bị đòn rồi còn gắng gượng chống đỡ được. Tay trái y vừa chống xuống đất, y liền nhảy phắt đứng thẳng người lên được." Ụa một cái, miệng Phong Bá Ác hộc ra máu tươi."
Ðặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Ðồng, ba người thấy Du Thản Chi bất thình lình hạ độc thủ, khiến người anh em bị một đòn nặng thì đều giật mình kinh hãi.
Ðinh Xuân Thu biết Du Thản Chi trong người chứa đầy nọc độc, lão giả vờ bảo Du Thản Chi niệm khẩu quyết rồi vỗ vào bả vai đối phương. Bởi nơi đó là chỗ yếu huyệt của con người, Du Thản Chi chỉ khẽ vỗ là đối phương phải bị trong thương ngay chẳng phải do phù chú pháp thuật gì cả.
Công Dã Càn bắt mạch Phong Bá Ác, thấy mặt cấp xốc, dồn dập dường như bị trúng độc, lão nghĩ ngay ra rồi trỏ vào mặt Du Thản Chi quát mắng:
- Thằng lõi con kia! Té ra mi là môn hạ Tinh Tú Lão Quái, vừa ra tay là dùng đến thủ đoạn thâm độc hại người.
Lão móc trong bọc ra một cái bình nhỏ, mở nắp lấy một viên thuốc giải độc nhét vào mồm Phong Bá Ác. Ðặng Bách Xuyên và Bao Bất Ðồng, lạng người đi một cái đứng chặn trước mặt Ðinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi.
Bao Bất Ðồng tính tình nóng nảy chẳng kém gì Phong Bá Ác, còn có phần nham hiểm hơn. Ngoài ra, y lại có tính câu chấp. Y ngầm vận tiềm lực vào tay trái, năm ngón tay giơ ra như móng vuốt toan chụp xuống ngực Du Thản Chi.
Ðặng Bách Xuyên vội can ngăn:
- Bao tam đệ hãy dừng tay!
Bao Bất Ðồng chuẩn bị chụp xuống nghe Bách Xuyên nói liền quay trở nhìn.
Ðặng Bách Xuyên nói tiếp:
-
Hồi 56 - Chùa Thiếu Lâm Xảy Chuyện Bất Ngờ - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 56 - Chùa Thiếu Lâm Xảy Chuyện Bất Ngờ
Chốn này ở ngay bên ngoài cổng lớn Thiếu Lâm. Những chuyện thị phi, những điều khúc triết xảy ra tại đây, đã có phương trượng cùng các vị cao tăng chùa này phán xét. Nếu chúng ta thiện tiện động thủ thì tỏ ra mình không biết tôn trọng phái Thiếu Lâm.
Bao Bất Ðồng thấy Ðặng đại ca nói đúng lý, nghĩ thầm:
- Mình mà ra tay đáng người ngay ở cổng chùa Thiếu Lâm hòng có khác gì: "Múa rìu qua mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm"và không khỏi có sự hiềm nghi là đã coi thường phái Thiếu Lâm, hơn nữa phái này có sẵn thành kiến coi "Cô Tô Mộ Dung" mình vào hạng tàn ác lại hay sanh sự. Xem chừng tên đệ tử yêu nghiệt phái Tinh Tú kia cũng chẳn có bản lĩnh gì đáng kể mà phải lo hắn trốn thoát. Hơn nữa Ðinh Xuân Thu mặt mũi hồng hào như trẻ nít, mà tóc bạc phơ khác nào một vị thần tiên. Lão có khi độ dung nhan, rõ ra một vị cao nhân đắc đạo. Tuy thấy Du Thản Chi gọi mà lão vẫn thản nhiên như không, mặt mày chính khí. Cứ trông nét mặt cùng cử chỉ kiên quyết của lão không phải là nhân vật phái Tinh Tú. Mặc khác Mộ Dung Công Tử đến đâu là muốn mưu đồ công chuyện lớn lao, mình cũng nên chắc nhặt những chi tiết nhỏ nhen.
Bao Bất Ðồng nghĩ đến đại sự, đành nén giận cho khỏi lỡ việc, rồi từ từ hạ tay xuống. úc đó Công Dã Càn đã đỡ Phong Bá Ác ngồi dậy và thấy gã toàn thân run bắn lên hai hàm răng dập vào nhaucầm cập, tựa hồ như người ngã vào biển tuyết.
Phong Bá Ác vốn là người hiếu thắng, từng trải bách chiến, bị thương không biết bao nhiêu lần, gã vẫn mạnh dạn chịu đựng.
Một nhà sư đứng bên đáp:
- Vâng.
Huyền Nạn Ðại sư giữ địa vị cao cả tại chùa Thiếu Lâm. Trong chùa có rất nhiều hạng người thì biết hết thế nào được. Ðặc biệt Du Thản Chi hình thù cổ quái nên đại sư mới nhớ mà thôi, nhưng cũng không nhớ rõ gã có phận sự gì trong chùa.
Ðang lúc hỗn loạn bỗng nghe có tiếng vó ngựa "lộp cộp" đang lên núi.
Công Dã Càn lộ vẻ mừng rỡ la lên:
- Chắc công tử đến rồi?
Y ngó thấy con ngựa màu xanh phớt thì lại xịu mặt xuống. Các nhà sư Thiếu Lâm nghe tiếng y la"chắc là công tủ"đều tưởng Mộ Dung Phục nên đưa mắt nhìn ra.
Khi ngựa gần đến nơi thì người cỡi lại là một nữ lang.
Nữ lang này người mảnh dẽ phong tư yểu điệu mặc áo lụa màu lục.
Nàng vừa trông thấy mọi người đã vội vàng xuống ngựa hất hàm hỏi ngay:
- Tam ca ơi! A Châu tỉ nương có ở đây không?
Nữ lang này là thị tỳ của Mộ Dung Phục tên gọi A Bích, chủ nhân toà nhà Cầm Vân Tiểu Trúc. Ngày nọ A Châu cải trang vào chùa Thiếu Lâm lấy kinh sách, đã lâu không về.
A Bích rất nóng lòng hàng ngày thôi thúc Mộ Dung Phục đi tìm. Song chàng mắc nhiều việc trọng yếu, không muốn vì một gã thị tỳ điều động binh tướng đến chùa Thiếu Lâm tra xét.
Vụ này Mộ Dung Phục lần chần mãi cho đến ngày nay, và bây giờ một là chính chàng cũng lo đến sự an nguy của A Châu, hai là chàng bị A Bích thúc giục không thể khất lần mãi được, đành phải dẫn bọn thuộc hạ lên chùa Thiếu Lâm"bái sơn."
Công Dã Càn không trả lời về việc A Châu, y hỏi lại bằng một giọng hốt hoảng:
- Công tử đâu? Công tử đâu?
A Bích dắt ngựa rảo bước đến trước quán Lương Ðình nói:
- Dọc đường công tử gặp một nhà sư đang đuổi theo một cô gái để hà hiếp. Công tử lấy làm bất bình muốn ra tay cứu vớt, liền sai tiểu Muội đến trước đây. Chắc công tử cũng sắp tới nơi.
Rồi nàng nhìn Phong Bá Ác:
- Ủa! Tứ ca! Tứ ca làm sao vậy?
Nàng buông dây cương trong tay xuống chạy đến bên Phong Bá Ác. Tóc nàng phủ một lớp sương trắng mỏng. Mớ tóc đen láy đột nhiên biến thành đầu bạc.
Nàng chìa tay ra muốn nắm lấy cổ tay Phong Bá Ác, Công Dã Càn vội giật tay nàng ra nói:
- Tứ đệ trúng chất kịch độc đường chạm vào người y. Bọn thủ hạ Mộ Dung Phục là Ðặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Ðồng, Phong Bá Ác, A Châu, A Bích. Sáu người này vẫn coi nhau như tình anh em.
A Bích nghe nói tứ ca bị trúng độc vừa khinh hãi vừa tức giận. Nàng trừng mắt nhìn các nhà sư Thiếu Lâm hỏi:
- Phải chăng các vị đại hòa thượng đã hại tứ gia! Mau lấy thuốc giải độc để cứu cho tứ ca tôi.
Công Dã Càn lắc đầu nói:
- Không phải mấy vị đây.
Bất thình lình tiếng chuông chùa boong boong khua nhộn lên. các nhà sư cả kinh thất sắc. Tiếng chuông đổ liên hồi ra chiều cấp bách.
Công Dã Càn cùng A Bích tuy không hiểu chuyện gì nhưng cũng đoán là trong chùa đã xảy ra cuộc diễn biến khẩn cấp.
Bỗng thấy hai nhà sư mặc áo tro từ cửa ngách trong chùa hốt hoảng chạy ra.
Khinh công hai nhà sư này vào hạng rầt thuần thục chớp mắt trước quán Lương Ðình.
Nhà sư chạy trước vừa trông thấy Huyền Nạn đại sư đã khom lưng bẩm:
- Bạch sư bá! Sau núi có kẻ địch lẻn vào. Huyền Thống sư bá bị thương rất nặng.
Huyền Nạn gật đầu hỏi:
- Chúng đến mấy người? Hình dạng thế nào?
Huyền Nạn đại sư lúc nào vẻ mặt cũng rất bình tĩnh mà nghe tin Huyền Thống bị thương không khỏi ngạc nhiên. Nguyên Huyền Thống về đường quyền chưởng đã đến mức siêu quần, là một trong những tay cao thủ vào bậc nhất chùa Thiếu Lâm. Kẻ địch dù có võ nghệ cao cường tới đâu cũng phải chiến đấu dai dẳng mới có thể đánh y bị thương được. Thế mà các sư vừa mới ra khỏi cửa chùa, ông đã bị thương ngay là nghĩa làm sao?
Nhà sư báo tin đáp:
- Tiểu điệt không hiểu bên địch có bao nhiêu người và chúng là ai?
Huyền Nạn nhíu cặp lông mày lại liếc mắt nhìn Công Dã Càn. Trong bụng đại sư yên trí là Mộ Dung ở Cô Tô dã sui người đến đột kích, mới đánh Huyền Thống được mau lẹ đến thế, và có lẻ chính Mộ Dung Phục đã ra tay.
Ðại sư lạnh lùng nói móc:
- Cái kế dương Ðông kích Tây gớm thật!
Công Dã Càn để hết tâm trí trông nom Phong Bá Ác, chẳng để ý gì câu nói xói của Huyển Nạn. Nhiều vị cao tăng chùa Thiếu Lâm ra quán Lương Ðình để nghêng tiếp Mộ Phục mà không thấy chàng đâu, đã sinh lòng ngờ vực. Khi nghe chuông chùa báo động, rồi được tin Huyền Thống bị trọng thương, mọi người từ từ dời chỗ bao vây bọn Công Dã Càn vào giữa.
Trong chùa Thiếu Lâm có biết bao nhiêu tay cao thủ, nên những nhà sư đã ra quán Lương Ðình không còn vội vã quay về cứu ứng.
Lát sau dứt tiếng chuông báo động, lại có một nhà sư trong chùa chạy ra bảo:
- Sau chùa có hai người lạ mặt xuất hiện. Một người tự xưng là họ Ðặng thủ hạ của nhà Mộ Dung ở Cô Tô, còn một người nữa cũng bị thương ngã lăn ra đất. Kẻ địch đã tẩu thoát không biết đi về phương nào.
Công Dã càn bực mình vội hỏi:
- Người bị thương là ai? Phải chăng là một hàn tử gầy nhom mặc áo hoàng bào không?
Nhà sư kia không trả lời câu Dã Càn hỏi, mắt lộ vẻ băn khoăn và lưu ý đề phòng coi y như là kẻ địch. Trông vẻ mặt nhà sư, Công Dã Càn cũng biết rõ người bị thương chính là Bao Bất Ðồng.
Công Dã Càn tuy rất nóng lòng, nhưng nghĩ đến tứ đệ bị thương nằm đây, không dám bỏ đi, y đành để tam đệ cho đại ca trông nom, chắc cũng không có điều gì đáng ngạc lắm.
Huyền Nạn thấy Công Dã Càn tuyệt không để ý gì đến chuyện kháng cự, còn A Bích chỉ là một thiếu nữ xinh đẹp yếu đuối, nước mắt ngắn nước mắt dài chẳng làm gì được ai, nhà sư chậm rãi hỏi:
- Mộ Dung Công Tử có đến không? Ðể chúng tôi chờ đây nghênh tiếp đại giá?
A Bích khép nép đáp:
- Công tử tiểu nữ giữa đường gặp một gã ác tăng hiếp đáp một cô gái yếu đuối, người còn đuổi theo gã để giải cứu cho nàng, không dám phiền các đại sư chờ lâu...
Huyền Nạn lộ vẻ không bằng lòng, nói:
- Các tăng sĩ bản tự vốn giữ thanh quy, có lý đâu lại đi hiếp tróc đàn bà con gái? Cô nương ăn nói hồ đồ. Có điều lão tăng thấy cô nương trẻ người non dạ, chẳng thèm chấp trách làm gì.
A Bích vội cãi:
- Ðúng là một nhà sư... có điều nhà sư này chưa chắc đã phải ở chùa Thiếu Lâm.
Huyền Nạn nói:
- Trong phạm vi mấy chục dặm núi Thiếu Thất, tất cả các tăng sĩ khu vực này đều có mối quan hệ với bổn tự, nếu không xuống tóc ở đây thì cũng thời thường trú ngụ. Hừ! Cô nương... Cô nương...
Huyền Nạn vốn nóng tính, toan cho nàng một bài học, nhưng thấy vẻ mặt A Bích khổ sở đáng thương không nỡ nặng lời, nên nói dỡ câu rồi ngưng bặt.
Trầm ngâm một lúc, đại sư ngờ Mộ Phục chẳng có ý gì tử tế với mình, liền nói:
- Xin mời ba vị cùng vào tệ tự nghĩ ngơi để chờ Mộ Dung Công Tử đến đây.
Câu này nhà sư có ý nói muốn giam giữ bọn Công Dã Càn. Nếu Dã Càn không nghe, thì phải đi đến cưỡng ép, còn A Bích cô nương thì chùa không tiên lưu giữ, để tùy ý cô đi đâu thì đi.
Không ngờ Công Dã Càn lại chịu ngay. Y nói:
- Chúng tôi chỉ e quấy nhiễu quý tự nhiều quá!
Rồi cuối xuống ẵm Phong Bá Ác vào lòng rảo bước đi vào phía cửa chùa.
A Bích vừa đi vừa hỏi dò nhà sư ra báo tin sau cùng:
- Ðại sư phụ ơi! Tam ca tiểu nữ bị thương có nặng lắm không? Người mặc áo hoàng bào chính là tam ca tiểu nữ đó. Y... y... bị thương thế nào? Có phải y bị các vị hòa thượng trong qúy tự đánh bị thương không? Các nhà sư rảo bước về chùa rồi, còn nhà sư này thấy có Huyền Nạn đi lên cũng không dám nói nhiều. Nhưng nghe A Bích ăn nói dịu dàng uyển chuyển y không nỡ bỏ qua, khẽ đáp:
- Thằng... Thí Chủ... vị thí chủ đó...
Y toan biểu "Thằng cha đó" nhưng nể mặt A Bích nên nói đổi lại "Vị thí chủ."
Ngừng một lát lại nói tiếp:
- Vị thí chủ đó không hiểu bị ai đánh, chứ không phải nhà chùa chúng tôi và cũng bị thương hệt như thí chủ này!
Y vừa nói vừa trỏ vào Phong Bá Ác.
Huyền Nạn rùng mình hỏi:
- Cả Huyền Thống sư đệ cũng bị rét run lên cầm cập phải không?
Nhà sư kia nói:
- Ðúng vậy.
Huyền Nạn đại sư rất lấy làm kỳ, trầm ngâm một lúc rồi lẩm bẫm:
- Tại sao lại cả ba người cùng bị thương giống nhau?
Nhà sư kia đáp:
- Huyền Thống sư bá da thịt lạnh toát, phương trượng đã đem kim cương chưởng lực để giúp dương khí cho người mà vẫn chưa khỏi.
Huyền Nạn nghe nhà sư nói đến bốn chữ "mà vẫn chưa khỏi" thật là một lối mập mờ, tỏ ra không muốn nói rõ chỗ một mình kém cõi trước mặt người ngoài. Ðáng lý ra phải nói là chẳng ăn thua gì thì mới đúng sự thật.
Huyền Nạn lại nhìn thấy tình trạng Phong Bá Ác ra chiều khổ cực, càng lo cho Huyền Thống sư đệ.
Ðại sư đột nhiên chì bàn chân xuống đất, băng người ra cửa trông tựa hồ một bóng dây đỏ bay qua.
Công Dã Càn rùng mình khen thầm:
- Thân pháp tuyệt dịêu.
Cả đoàn người vào đến phòng tiếp khác bên Ðại Hùng Bảo Ðiện.
Các nhà sư vẫn nhìn nhận bọn Công Dã Càn ba người đều là cừu địch, nên không ai tỏ vẻ niềm nở nhã nhặn, mà chỉ giữ thái độ quảng đại của môn phái lớn, cũng mời ngồi uống trà nhưng ra chiều lạnh nhạt.
Công Dã Càn hỏi ngay:
- Người anh em tại hạ bị thương hiện giờ ở đâu?
Bỗng thấy phía sau nhà có tiếng oang oang như tiếng chuông đồng của Ðặng Bách Xuyên đáp lại:
- Nhị đệ ta ở đây. Nhị đệ cũng bị người ta hạ độc thủ rồi ư?
Ðặng Bách Xuyên ẵm Bao Bất Ðồng chạy vào với vẻ mặt lo âu.
Bách Xuyên đặt Bao Bất Ðồng xuống ghế.
Công Dã Càn móc ba viên thuốc giải độc nhét vào miệng Bao Bất Ðồng.
Bao Bất Ðồng run như cầy sấy, hai hàm răng đập vào nhau lập cập, nói:
- Gã tiểu tử mặt sắt đó là thuộc hạ một phái tà đạo ghê gớm. Tiểu đệ... tiểu đệ...
Gã nói luôn ba tiếng "Tiểu đệ" rồi hàm răng đập lập cập không nói thêm được nữa.
A Bích lấy tấm khăn lau của mình ra lau mồ hôi trán cho vị nghĩa huynh. Nàng thấy những giọt mồ hôi chớt mắt đã đọng lại thành những hạt sương.
Giữa lúc A Bích đang hoảng hốt thì có bốn vị cao tăng ở hậu đường đi ra.
Vị đi dầu nhìn Ðặng Bách Xuyên nói:
- Ðặng thí chủ. Huyền Thống sư huynh ở tệ tự cũng bị gã đầu sắt đánh trọng thương. Tà thuật gã ghê gớm lắm.
Huyền Tử phương trượng nói:
- Xin hai vị thí chủ bị thương hãy uống trước mấy viẽn chính khí lục dương đan của bảo tự rồi lão tăng sẽ dùng thuần dương la hán công để trợ lực cho hai vị.
Ðặng Bách Xuyên nghe nói cả mừng, y biết rằng chính khí lục dương đan là một thứ linh đan hạng nhất, rất nổi tiếng khắp thiên hạ của chùa Thiếu Lâm chữa hàn độc hiệu nghiệm như thần. Y lại biết "Thuần dương la hán công" là một tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Người ta tu luyện môn này phải khởi đầu từ thuở nhỏ và phải cố công rèn luyện ít ra là từ bốn mươi năm trở lên mới hy vọng thành đạt đến mức thượng thặng. Nếu không phải là một vị cao tăng giữ luật thanh tu từ lúc xuất gia và tuyệt đối không gần nữ sắc bốn năm chục năm, thí không tài nào giữ được thân thể tráng kiện của tuổi trẻ cho đến lúc già. Y liền cùng Công Dã Càn khoanh tay tạ ơn.
Vị tăng này lấy ra hai viên thuốc lớn bằng mắt rồng và đỏ tươi như máu nhét vào miệng Bao Bất Ðồng và Phong Bá Ác.
Bốn vị lão tăng lại cha làm hai chỗ, hai vị phục thị cho một người đặt bàn tay vào ngực và bụng Bao bất Ðồng cùng Phong Bá Ác rồi vận nội lực thúc đẩy khí thuần dương trong mình vào người hai gã.
Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bửa cơm. Bao Bất Ðồng cùng Phong Bá Ác mới hết run, nét mặt xám xanh đã biến chuyển dần lại Huyền Tự kéo tay lại không biết nàng là con gái thì còn biết A Châu là gì nữa?
Sau Kiều Phong đưa A Châu đến Tụ hiền trang nhờ Tiết Thần Y điều trị. A Châu lại nói dối là nàng gặp một chàng thanh niên đánh bị thương. Lúc đó các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Tịch, Huyền Nạn đều được mắt thấy.
Nhưng không ai biết đến chổ nàng đã trá hình Trí Thanh hòa thượng để lấy cắp kinh sách của chùa. Vì thế mà A Bích xin phương trượng tha A Châu, mọi người không còn ai biết việc đó. Thực ra trên cõi đời này chỉ có một người biết rõ đầu đuôi vụ ấy là Kiều Phong mà thôi.
Huyền Từ tức mình nói:
- Cô này nói chuyện gì tệ tự giữ người không tha, tất cô nghe lầm rồi. Chùa Thiếu Lâm là nơi thanh tu của những người xuất gia, giới luật cực kỳ nghiêm mật, quyết chẳng ai dám làm điều càn rỡ.
A Bích vội nói:
- Tiểu nữ có dám bảo các vì làm điều càn rỡ đâu. Tiểu nữ biết rằng chị A Châu vốn tính ngang ngạnh và tinh nghịch và nhất định đã gây nên tội lỗi với nhà chùa. Vì vậy mà công tử tiểu nữ bữa nay phải đến đây bồi tội bằng những lời lẽ phải chăng để khẩn cầu các vị, xin các vị phóng xá chị A Châu, tiểu nữ lại xin dập đầu bái tạ.
Nàng thấy vẻ mặt Huyền Từ phương trượng rất hiền lành mà Huyền Nạn đại sư ra chiều nghiêm khắc. Nàng chắc vụ này các vị lão hòa thượng Huyền Nạn, Huyền Tịch có ý làm khó dễ nên nàng bước lại toan lạy lục.
Huyền Nạn phất tay áo một cái để khẽ đẩy nàng lại khiến cho nàng không thể quỳ xuống được.
Thế "Tụ Lý Càn Khô"của Huyền Nạn đại sư là một trong những tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. A Bích thấy một luồng khí lực ngăn cản mình không cho quỳ lạy xuống thì trong lòng lấy làm quái dị.
Huyền Nạn nói:
- Lề luật chùa Thiếu Lâm từ mấy trăm năm nay không đón tiếp nữ thí chủ, tỉ nương cô đừng nói nhà chùa có dám lưu lại, mà dù côta có muốn vào đây, chùa Thiếu Lâm cũng khước từ không dám để cô vào. Chỗ ta đang ngồi đâu đã ra ngoài phạm vi bổn tự và phương trượng đặt biệt nể cô nương mới mời vào đây để tương hội.
A Bích rung rinh hàng lệ muốn khóc hỏi:
- Các vị không lưà gạt tiểu nữ đấy chứ? Vậy thì chị A Châu tiểu nữ đi đâu. Hôm đó rõ ràng tỉ nương bảo tiểu nữ là lên chùa Thiếu Lâm mà.
A Bích người đã xinh đẹp, lại nói năng cử chỉ rất ôn hoà khả ái. Nàng không linh lợi hoạt bát như A Châu mà cũng không điêu xảo cổ quái như A Tử. Các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm đã tu hành đắc đạo mấy chục năn trời, không ai còn nhớ đến dáng điệu nồng nàn của nữ nhi nữa. Thế mà lúc này lời A Bích tha thiết khẩn càu khiến các vị không khỏi động tâm. Các vị coi nàng chẳng khác gì con cháu mình vẻ mặt lộ ra những nét từ ái vô bờ bến.
Huyền Tịch đại sư nói:
- Hư Phong! Ngươi đi kêu Ẩn Nguyệt sư bá ở Thiện Duyên Ðường mở cuộc điều tra xem vị cô nương chị cô này lạc vào nơi nào? Khi điều tra được rồi thì lập tức đưa tin xuống nhà Mộ Dung Công Tử ở Cô Tô.
Bọn Ðặng Bách Xuyên, A Bích đều biết Thiện Duyên Ðường là một cơ quan của Thiếu Lâm chuyên việc liên lạc với các bậc anh hùng trên chốn giang hồ, Huyền Tịch đại sư đã giao phó công việc này cho họ thì rõ ràng đúng là A Châu chưa từng đến đây. Hơn nữa chúa Thiếu Lâm đã phụ trách giúp việc tra xét mà những vị này giao thiệp khắp chốn giang hồ, chắc rằng chẳn bao lâu nữa sẽ biết tin.
Mọi người nghĩ vậy đều ngỏ lời cảm tạ.
Huyền Tịch lại hỏi đến trường hợp Bao Bất Ðồng bị thương ra sao?
Bao Bất Ðồng ngước mắt lên trời nói:
- Tại hạ gặp phải trường hợp đúng hệt như Huyền Thống đại sư. Người nhà Mộ Dung ở Cô Tô bị ẻ mặt, thì vị cao tăng chùa Thiếu Lâm cũng chẳn vẻ vang gì hơn. Thật khó mà phân biệt ai thua ai kém. Ông anh hết tị với ông em. Rúc cuộc cái hạn năm nay đều bất lợi cho cả hai nhà nên xảy đến tai nạn này.
Phong Bá Ác nghiến răng nghiến lợi nói:
- Vụ này không đánh nhau mà bị thương mới tức chứ! Giả tỉ như trận ác đấu ba trăm hiệp mà mình bị thua để gã đầu sắt đánh ngã thì mình cam tâm chẳng chút ân hận.
Mọi người lặng lẽ ngẫm nghĩ về thân thế Du Thản Chi và đều nhận thấy nội lự gã thuộc phái nội gia chân chính song trong bàn tay gã lại khó khí hàn độc tàn nhẫn vô cùng. Cứ thế mà suy thì trong phái tà còn co ùđiểm chính và không thể là đệ tử phái Tinh Tú mới phải.
Bao Bất Ðồng bỗng nhiên lạnh lùng nói:
- Chưởng lực gã tương tự như Ðạt Ma thần chưởng trong quí phái.
Huyền Thống đưa mắt nhìn ba vị Huyền Từ, Huyền Tịch và Huyền Nạn lẳng lặng không nói gì. Mấy vị này đã ngấm ngầm nghĩ trong bụng về vụ này. Gã đầu sắt kia chẳng những đòn chưởng giống như Ðạt Ma thần chưởng mà thôi, có thể chính là Ðạt ma thần chưởng không sai. Có điều trước mặt người ngoài các vị không tiện nói. Bây giờ Bao Bất Ðồng nói ra, các vị cao tăng không tiện phủ nhận, nghĩ thầm trong bụng: "Việc này nội tình còn có nhiều điều rắc rối chứ không phải chỉ có mình yêu nhân phái Tinh Tú đến tập kích mà thôi."
Huyền Nạn không muốn cho Bao Bất Ðồng hỏi vặn thêm về vụ này nữa, đánh trống lãng quay lại hỏi Ðặng Bách Xuyên:
- Ðặng thí chủ! Mộ Dung công tử liệu có đến đây không? Bên quí vị cũng như bên bần tăng đều bị kẻ địch ám toán, ta nên hiệp lực đối phó. Công tử mà đến đây tất có cao kiến để giải quyết những mối nghi ngờ này.
Ðặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn A Bích.
A Bích nói:
- Tiểu nữ đã bạch cùng các vị sư phụ: Công tử tiểu nữ chủ tâm lên đây, nhưng dọc đường ngươiø lại chạy theo để cứu một vị cô nương. Cô nương này mặt mày che tấm mạng đen, thân hình tha thướt mà võ công không phải tầm thường. Nhưng nàng bị một nhà sư bản lĩnh cao rượt theo. Tiểu nữ chỉ trông thấy sau lưng nhà sư này hao hao giống vị Hộ Quốc Pháp Vương nước Thổ Phồn tên gọi Luân Minh Vương Cưu Ma Trí chi chi đó...
Huyền Tịch, Huyền Nạn đều kinh ngạc buột miệng hỏi:
- Ðại Luân Minh Vương nước Thổ Phồn xuống Trung Nguyên?
A Bích đáp:
- Lão tự xưng như vậy chẳng hiểu có đúng hay không? Thân pháp lão mau lẹ quá chừng! Loáng một cái lão đã lướt qua tiểu nữ không kịp nhìn thấy rõ mặt. công tử quay lại bảo tiểu nữ: "ngươi hãy đến chùa Thiếu Lâm trước chờ ta"rồi người đuổi theo nhà sư.
Huyền Tịch cùng Huyền Từ phương trượng đưa mắt nhìn nhau và đều nghĩ thầm: "nếu Ðại Luân Minh Vương nước Thổ phôn Cưu Ma Trí lại xuống Trung Nguyên thì trong võ lâm còn nổi nhiều cơn sóng gió dữ dội. Hay là gã đầu sắt kia có dính líu đến Cưu Ma Trí? Võ công nhà Phật nước Thổ Phôn bắt nguồn ở Thiên Trúc thì bọn họ có hiểu môn"Ðạt ma thần chưởng"cũng chẳng lấy chi làm lạ."
Mấy nhà sư chùa Thiếu Lâm tuy đoán không trúng, nhưng dù sao cũng có chút lý lẽ để tạm thời giải quyết những mối nghi ngờ cho đỡ bận tâm.
Huyền Từ nói:
- Các vị đường xá xa xôi nhọc mệt đến đây. Huyền Tịch sư đệ thay mặt ta khoản đãi các vị. Chờ Mộ công tử đến đây, mới có thể tìm ra kế hoạch lâu dài.
Nói xong đứng dậy. Trong thâm tâm các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm thực ra úy kỵ nhất làanh chàng Mộ Dung công tử, chuyên môn dùng lõi"gậy ông đập lưng ông." Năm ngoái đã tập họp những vị anh hùng trong thiên hạ để bàn kế đối phó với Mộ Dung Cô Tô, rồi xảy ra cuộc đại chiến với Kiều Phong ở Tụ Hiền Trang, nên cuộc đại hội anh hùng ở chùa Thiếu Lâm chưa tổ chức xong. Bây giờ các vị thấy bọn Ðặng Bách Xuyên đến tuy cũng giảm đôi phần hằn học nhưng chưa phải đã cởi hẳn được mối lo này.
Ta nên biết vị cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Bi đại sư bị chết ở chân núi Trung Sơn vì vết thương của môn"kim cương chưởng"môn này chính là tuyệt kỹ của Huyền Bi. Các vị cao tăng trong chùa kvẫn cho cái lối"gậy ông đập lưng ông"ngoài họ Mộ Dung ở Cô Tô không còn ai có thể dùng tuyệt chiêu của Huyền Bi để giết ông được.
Bửa nay nghe nói Mộ Dung công tử dẫn thuộc hạ đấn bái sơn, các nhà sư đã cầm chắt sẽ có một cuộc tử chiến để báo thùcho Huyền Bi. Ngờ đâu xảy tai bay, Mô Dung công tử chưa xuất hiện thì hai tên thủ hạ của chàng cùng Huyền Thống chùa Thiếu Lâm đồng thời bị võ công phái tà đánh bị trọng thương.
Huyền Từ thấy Ðặng Bách Xuyên phong độ ung dung. Công Dã Càn nho nhã thanh kỳ, A Bích mỹ miều khả ái, toàn là những người rất chính đính. Dù Bao Bất Ðồng ương ngạnh nóng nảy, Phong Bá Ác hiếu dũng ưa đánh nhau, nhưng xem ra cũng không phải là hạng gian tà. Theo lẽ thường thì cha nào con nấy, thầy nào trò ấy. Bọn thuộc hạ đã thế chắc chủ nhân cũng không đến nỗi là phường đại gian ác. Nhưng chân tướng ra sao thì phải chờ thấy mặt Mộ Dung công tử mới biết rõ lập trường để định kế hoạch.
Ðặng Bách Xuyên nghe Huyền Từ biểu Huyền Tịch khoản đãi bọn mình để chờ Mộ Dung công tử tới nơi, liền chắp tay nói:
- Như vậy thì bọn tại hạ quấy nhiễu các vị đại sư nhiều quá!
Huyền Từ đại sư chắp tay để trước ngực đáp lễ xong, vừa toan bước ra khỏi nhà đại sảnh thì đột nhiên đánh"huỵch" một tiếng, Phong Bá Ác ngã lăn ra. Công Dã Càn vội vàng đỡ dậy. Bên kia Huyền Thống cùng Bao Bất Ðồng cũng té theo.
Nguyên ba người này đã bị trúng độc giờ lại lên cơn. Trong chùa Thiếu lâm thuốc chũa thương rất nhiều song"chính khí lục dương đan"là thứ thần hiệu hơn hết đã không linh nghiệm, cả môn"Thuần dương La Hán Công"cũng không công hiệu, thì chẳng còn thuốc nào để trị nữa.
Bọn Huyền Thống ba người cứ sau một lát lên cơn. mấy vị cao tăng hết sức cứu chữa cực kỳkhổ sở mà chẳng được bao lâu thương thế lại tái phát. Mọi người vất vả suốt đêm rồi đành chịu bó tay chờ đến khi trời sáng.
Mộ Dung công tử vẫn chưa đến, ba người bị thương về hàn độc tuy không thấy biến chứng gì nguy hiểm hơn, nhưng rõ ràng là chưa bớt được chút nào. Mỗi người đã uống đến ba viên"chính khí lục dương đơn"rồi, dù có uống thêm nữa chưa chắc đã ăn thua gì và chất thuốc này quá mạnh uống nhiều rất có hại.
Tình trạng này kéo dài thêm một ngày nữa, ba người liên tiếp bị hàn độc hành hạ rất là khổ sở. ai cũng biết rằng nếu cứ để nguyên tình trạng này thì rồi họ chịu đựng không nổi nữa.
Ðặng Bách Xuyên nhìn Huyền Nạn cáo từ nói:
- Hai người anh em tại hạ bị thương nặng quácác vị đại sư đã cố gắng hết lòng cứu chữa mà thủy chung chưa khử trừ được hàn độc. Theo ý tại hạ thì cần phải tìm đến Tiết Thần Y để xin điều trị.
Huyền Nạn cũng đồng ý nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Tiết Thần Y cùng lão tăng cũng có cơ duyên gặp mặt mấy lần. Nếu đến cầu, chắc ông không nỡ từ chối. Nhà ông ở thị trấn Liễu Nguyên về phía tây thành Lạc Dương. Từ đây đến đó cũng không xa mấy. Chúng ta nên thượng lộ ngay.
Ðặng Bách Xuyên cả mừng nói:
- Nếu được đại sư hết lòng thì mấy vị hiền đệ của tại hạ có cơ cứu được.
Ðặng Bách Xuyên nói xong lấy bút thảo mấy dòng lưu lại để trao cho Mộ Dung công từ. Nhà chùa chuẩn bị ba cỗ xe lón. Huyền Nạn đại sư thân hành dẫn sáu tay đệ tử, pháp hiệu chữ"Tuệ"đi theo.
Sáu nhà sư sắp hàng chữ"tuệ"tuy tuổi già, song đều tu luyện môn"Thuần dương la hán công"vào hạng cao thủ, được đi theo để tiện dọc đường phục thị cho bệnh nhân. A Bích toan ở ngụ lại trong một ngôi chùa gần để chờ Mộ công tử đến, song nàng thấy vẻ mặt tiền tụy của Bao Bất Ðồng cùng Phong Bá Ác lại không đành lòng, nên cũng theo đi.
Từ chùa Thiếu Lâm đến trấn Liễu Nguyên cách nhau chỉ chừng vài tăm dặm. Tuy đường núi gập ghềnh mà đến trưa hôm thứ ba đã đến nơi. Nhà Diêm Dương Ðịch Tiết Thần Y ở chốn thâm sơn cách trấn Liễu Nguyên hơn ba mươi dặm về phía Bắc. May mà ngày nọ khi ở Tụ Hiền Trang lão đã nói rõ đường lối với Huyền Nạn đại sư nên đoàn người không mất công dò hỏi, đi một mạch đến cửa nhà Tiết Thần Y.
Huyền Nạn cưỡi ngựa đi trước, thấy bên sông có mấy tòa nhà đổ tường trắng ngói đen. Trước nhà có một vườn thuốc. Nhà sư biết là chỗ ở của Tiết Thần Y liền giục ngựa đến nơi.
Trước cửa nhà treo hai chiếc đèn lồng phất giấy trắng rất lớn, Huyền Nạn giật mình tự hỏi:
- Trong nhà Tiết Thần Y chẳng lẽ có người chữa bệnh không khỏi?
-
Hồi 57 - Những Tấn Bi Hài Kịch Tại Tiết Gia Trang - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 57 - Những Tấn Bi Hài Kịch Tại Tiết Gia Trang
Bên cửa cấm một lá cờ chiêu hồn.
Quả trong nhà có đám tang không còn nghi ngờ gì nữa.
Lúc này nhà sư đã nhìn rõ trên đèn lồng có viết hai hàng chữ:
"Tiết Công Mộ Hoa chi tang".
"Hưởng niên lục thập ngũ tế".
(Ðám tang Tiết Công Mộ Hoa, hưởng thọ sáu mươi lăm tuổi).
- Không hiểu Tiết Mộ Hoa có phải là Tiết Thần Y không? Nhưng trạc tuổi muốn đúng rồi. Nếu quả Tiết Thần Y không chữa được cho mình mà chết đi thì hỏng bét!
Lúc nhà sư dừng ngựa trầm ngâm thì Ðặng Bách Xuyên và Công Dã Càn cũng thúc ngựa đến nơi. Ba người ngơ ngác nhìn nhau đều lộ vẻ hoài nghi không nhất quyết.
Bỗng thấy phía trong cửa có tiếng khóc vang lên, tiếng khóc của một người đàn bà:
- Lão gia ơi! Lão gia y thuật như thần, ngờ đâu lại bị cấp chứng bỏ chúng tôi mà đi. Tuy lão gia ngoại hiệulà "Diêm Vương Ðịch" mà rốt cuộc cũng bị tay Diêm Vương lôi đi. Bây giờ xuống Diêm cung chắc bị Diêm Vương hành hạ khổ sở!
Ba cổ xe lớn cùng A Bích và sáu nhà sư chùa Thiếu Lâm pháp hiệu có chữ "Tuệ" cũng đến nơi.
A Bích nghe tiếng người khóc để viếng Tiết Thần Y thì cả kinh thất sắc nói:
- Ðại ca ơi! Chúng mình thật xui quá rồi!
Ðặng Bách Xuyên không trả lời nàng, nhảy xuống ngựa cất tiếng nói to:
- Huyền Nạn đại sư chùa Thiếu Lâm dẫn mấy người bạn đến có việc khẩn cầu Tiết Thần Y.
Tiếng y nói bình thường cũng oang oang như tiếng chuông đồng, lúc này y còn lấy hơi nói to hơn một chút nên vọng đi rất xa.
Tiếng khóc trong nhà bỗng im bặt. Một lúc sau mới thấy một người đàn ông và một người đàn bà già ăn mặc như kẻ nô bộc trong nhà chạy ra nước mắt nước mũi nhể nhãi. Hai người nghẹn ngào trông rất thương tâm.
Lão bộc đấm ngực nói:
- Lão gia chúng tôi mất từ chiều hôm qua. Các vị... các vị không gặp được nữa rồi.
Huyền Nạn chấp tay để trước ngực hỏi:
- Tiên sinh mắc bịnh gì mà tạ thế?
Lão bộc đáp:
- Không hiểu là bệnh gì. Ðột nhiên lão gia nấc lên mấy cái rồi nghẹt thở. Lão gia chúng tôi vốn thân thể tráng liện, tuổi cũng chưa già mấy. Thật là một sự không ngờ! Thật là một sự không ngờ!
Huyền Nạn lại hỏi:
- Trong nhà Tiết Thần Y còn ai không?
Lão bộc đáp:
- Không có ai. Không còn một người nào hết.
Công Dã Càn cùng Ðặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau cả hai người cùng nhận ra rằng khi lão bộc nói mấy câu này giọng nói không có vẻ tự nhiên và thiếu thành thật.
Huyền Nạn thở dài nói:
- Con người ta sống chết có số mạng đã vậy thì cho chúng tôi vào trước linh vị ông bạn già để lạy một lạy.
Lão bộc áp úng:
- Cái đó... Cái đó... Vâng, vâng.
Rồi dẫn mọi người tiến qua cổng lớn vào nhà.
Công Dã Càn lùi lại sau một bước, khẽ bảo Ðặng Bách Xuyên:
- Ðại ca! Tiểu đệ coi điều này dường như có điều gì khuất khúc. Lão bộc này ra chiều lúng túng và có ý mập mờ năm nắm nơm nớp.
Ðặng Bách Xuyên gật đầu, theo lão bộc này vào linh đường thì thấy cách trần thiết rất đơn giản quê mùa, thiếu thốn đủ thứ, rõ ra cách bày trí trong lúc thảng thốt. Trên bài vị có dòng chữ: "Tiết Công Mộ Hoa chi linh vị." Mấy chữ này nét bút sắc sảo gân guốc đúng là của một người có học rộng quyết không phải lão bộc kia viết được thế này.
Công Dã Càn đã để ý đến điều này, nhưng không nói gì.
Mọi người theo thứ tự vào trước linh vị làm lễ điếu tang.
Công Dã Càn ngoảnh đầu nhìn ra ngoài sân thấy trên hai cây sào tre có phơi đến mười mấy bộ quần áo đàn bà có, đàn ông có. trẻ con có, thì tự hỏi:
- Trong nhà Tiết Thần Y rõ ràng có đông đủ gia quyến sao vừa rồi lão bộc nói không còn ai.
Huyền Nạn nói:
- Chúng tôi từ chùa Thiếu Lâm trên núi Trung Sơn tới đây cầu Tiết tiên sinh chữa bệnh cho. Không ngờ đến nơi thì Tiết tiên sinh lại quy tiên rồi. Bâygiờ trời đã xế chiều, đêm nay chúng tôi xin được ngủ trọ tại quý phủ một đêm.
Lão bộc vẻ ngại ngùng áp úng:
- Cái đó... Cái đó... dạ... được... được. Xin chư vị hãy ngồi chơi, trong nhà khách chờ một chút tiểu nhân đi làm cơm.
Huyền Nạn nói:
- Quản gia bất tất phải bận lòng. Cơm hẩm dưa muối cũng được mà.
Lão bộc nói:
- Dạ dạ! Xin các vị ngồi chơi một chút.
Nói xong lão dẫn mọi người ra sảnh đường rồi xoay mình đi vào trong nhà.
Qua một lúc lâu mà chẳng thấy lão bộc mang trà nước ra mời khách chi hết. Huyền Nạn lẩm bẩm:
- Lão bộc này gặp buổi ông chủ qua đời một cách đột ngột thì không khỏi thần hồn điên đảo. Hỡi ơi! Huyền Thống sư đệ bị trúng hàn độc, biết làm thế nào bây giờ?
Mọi người chờ đến nửa giờ vẫn chẳng thấy lão bộc ra nữa.
Bao Bất Ðồng đã bắt đầu nóng nảy nói:
- Tôi đi tìm ngụm nước uống khát quá rồi!
A Bích nói:
- Ðừng! Tam ca hãy ngồi yên nghĩ một chút. Tiểu Muội xuống nhà đun nước giúp lão bộc.
Nói xong nàng đứng dậy đi vào nhà hậu đường.
Công Dã Càn sợ nàng bị người ám toán:
- Ðể ta đi cùng với hiền Muội.
Hai người thẳng vào phía sau. Nhà họ Tiết rất nhiều phòng ốc. Cả trước sau có đến năm dãy, mà khắo trong ngoài tuyệt không một bóng người.
Hai người lầm mò xuống đến nhà bếp thì cả đôi nam nữ lão bộc vừa rồi cũng chẳng thấy đâu nữa.
Công Dã Càn biết là có chuyện khác thường, hấp tấp trở ra nhà sảnh đường nói:
- Tình hình trong nhà này rất dị thường. Không chừng Tiết Thần Y giả chết cũng nên.
Huyền Nạn cũng lấy làm kì đứng bật dậy hỏi:
- Sao?
Công Dã Càn đáp:
- Tại hạ tưởng nên vào xem quan tài ra sao?
Y Lang người đi vào trước linh vị, đưa tay ra toan nhấc quan tài, rồi đột nhiên y nghĩ sao rồi rút tay về, chạy ra ngoài sân lấy một cái áo dài phơi trên sào quấn vào tay.
A Bích hỏi:
- Phải chăng nhị ca sợ trên áo quần có chất độc?
Công Dã Càn đáp:
- Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường, không thể không đề phòng được.
Y vận kinh lực nâng quan tài nhấc xem thì thấy quan tài rất là trầm trọng quyết bên trong không phải đặt xác chết, liền nói:
- Tiết Thần Y quả nhiên trá tử!
Phong Bá Ác rút đơn đao dánh soạt một tiếng noí:
- Cứ mở nắp quan tài ra xem sẽ rõ?
Công Dã Càn nói:
- Lão này ngoại hiệu xưng là Thần Y tất nhiên chuyên dùng thuốc độc. Tứ đệ phải cẩn thận đấy!
Phong Bá Ác nói:
- Tiểu đệ biết rồi.
Y lừa mũi đơn đao vào quan tài nậy lên. Lách cách mấy tiếng nắp quan tài hé mở. Phong Bá Ác bít kín các đường hô hấp vì sợ phấn độc trong quan tài bay ra. Nhà sư chùa Thiếu Lâm pháp danh là Tuệ Ðề thấy Phong Bá Ác chú ý phòng bị, ra chiều sợ sệt cái thây ma thì trong bụng không khỏi có ý nghĩ hoạt kê. Lão không nhịn được phải phì cười.
Bao Bất Ðồng xẵng giọng hỏi:
- Có chuyện chi mà cười?
Rồi lạng người đi một cái, tung mình nhảy vào trong sân, vươn tay ra chụp lấy hai con gà mái đang bắt sâu bọ trên cây quế ăn. Y nhắc tay một cái liệng hai con gà mái qua miệng quan tài.
Hai con gà kêu quang quác mấy tiếng rớt ngay xuống bên quan tài rồi chạy vội ra, nhưng chỉ chạy được mấy bước là ngã lăn ra. Hai con gà dẫy đành đạch mấy cái rồi nằm chết ngay đứ đừ. Lúc này dưới hành lang một cơn gió lạnh buốt thổi qua. Hai con gà chết lông rụng tứ tung bay theo chiều gió.
Mọi người thấy tình trạng này không khỏi khiếp sợ. Ta nên biết rằng những nhà sư chùa Thiếu Lâm pháp hiệu có chữ Tuệ đều đã tiềm tâm tu luyện mấy chục năm trời, ít khi bước chân ra khỏi chùa. Nội công các vị tuy rất thâm hậu, nhưng phần kiến văn và lịch duyệt bì thế nào được với Bao Bất Ðồng, Phong Bá Ác, là những người lăn lộn giang hồ biết nhiều hiểu rộng và thường gặp sự bất trắc.
Trước tình trạng này các nhà sư Tuệ Ðề mới biết trong quan tài có chất kịch độc, nhưng không mùi không sắc, giết người một cách vô sinh. Hai con gà mái vừa mới trúng độc chết mà đã rụng lông lá đủ biết chết độc mãnh liệt là chừng nào, nên chưa ai dám đến bên quan tài.
Huyền Nạn hỏi Ðặng Bách Xuyên:
- Ðặng huynh! Vụ này là thế nào đây? Chẳng lẽ Tiết Thần Y trá tử thật sao?
Ðại Sư vừa nói vừa tung mình nhảy lên tay trái bá lấy xà nhà ngó vào trong quan tài thì thấy trong đựng đầy đá hòn. Giữa có đặt một cái bát lớn chứa đầy nước trong. Dĩ nhiên bát nước này là thuốc độc rồi.
Huyền Nạn lắc đầu nhảy xuống nói:
- Nếu Tiết huynh chẳng chịu chữa thuốc cho chúng ta thì thôi việc cóc gì phải bố trí cơ quan hiểm độc hại người.
Chùa Thiếu Lâm không thù không oán với y. Hán h động này thật là vô lí. Hay là... hay là...
Nhà sư nói câu "Hay là" rồi dừng lại không nói nữa. Trong bụng nhà sư định nói:
Hay là có thâm thù với Mộ Dung ở Cô Tô?
Bao Bất Ðồng nói:
- Ðại sư bất tất phải đón non đón già. Mộ Dung Công Tử cùng Tiết Thần Y chưa biết nhau bao giờ, lại không thù oán, mà có ra chăng nữa thì dù chúng tôi có đau khổ đến đâu cũng cố mà chịu đựng, chứ chẳng thèm quì lụy kẻ cừu thù để xin chữa thuốc. Ðại sư đừng tưởng Bao Bất Ðồng này là hạng vá áo túi cơm.
Huyền Nạn nói:
- Bao huynh nói thế là phải. Lão tăng đoán sai rồi.
Huyền Nạn là một vị cao tăng đắc đạo, trong lòng cũng nghĩ như vậy, nhưng không muốn nói ra, chỉ nhận lỗi mình mà thôi.
Ðặng bách Xuyên nói:
- Nơi đây khí độc rất mạnh không nên đứng lâu, chúng ta ra ngoài sảnh đường ngồi thôi.
Mọi người ra nhà sảnh đường ai cũng bày tỏ ý kiến mà chẳng ai biết rõ Tiết Thần Y giả chết lại còn bố trí cơ quan hãm hại người là vì lẽ gì?
Bao Bất Ðồng nói:
- Lão Tiết quỉ y này thật là khả ố. Chúng ta đem mớ lửa đốt quách cái tổ quỷ này đi! Ðặng Bách Xuyên nói:
- Không được! Dù sao thì Tiết tiên sinh cũng là một người bạn tốt của chùa Thiếu Lâm. Chúng ta phải biết nể mặt Huyền nạn đại sư mà đừng hành động lỗ mảng.
Lúc này trời đã tối mịt. Trong nhà chẳng có đèn lửa chi hết, mọi người đều bụng đói, miệng khát mà không ai dám uống chén nước trong nhà này.
Huyền Nạn nói:
- Hay là chúng ta ra ngoài tìm một nông gia gần đây để kiếm lưng cơm chén nước.
Ðặng Bách Xuyên nói:
- Phải đó! Chúng ta ra khỏi đây mười dặm đường, rồi hãy tìm ăn uống gì cho đỡ khát. Tiên sinh là người rất tâm cơ, chẳng những chỉ bố trí một cái quan tài thế này mà thôi đâu. Nếu xảy ra chuyện gì để liên lụy đến cả các vị đại sư thì trong lòng bọn tại hạ áy náy vô cùng!
Y cùng Công Dã Càn tuy không hiểu rõ nguyên nhân, nhưng cũng nghĩ rằng cái lối "Gậy ông đập lưng ông" của nhà Mộ Dung đã đồn đại khắp nơi và bị khách gian hồ kết oán một cách vu vơ đã nhiều. Y chắc rằng Tiết Thần Y có thân hữu gì đã bị hại rồi đem thù oán đổ lên đầu Cô Tô Mộ để đòi nợ máu.
Mọi người đứng dậy đi ra phía cửa chính thì đột nhiên ở góc Tây Nam trên trời sáng rực lên, tiếp theo là một vùng những tia lửa phun lên trước đỏ sau biến thành màu xanh biếc, khác nào một đám mưa hoa, lưng trời biến ảo bao nhiêu màu sắc huy hoàng trông rất đẹp mắt.
A Bích vỗ tay nói:
- Ðẹp quá! đẹp quá không hiểu ai đốt pháo bông mà đẹp thế?
Lúc này mới vào cạnh một sơ thu, chẳng phải là tiết Nguyên Tiêu hay tiết Trung Thu, sao lại có người đốt pháo bông? Chẳng bao lâu lại có một thứ hoa vàng chói bay vút lên không gian khác nào trăm ngàn vì sao đổi ngôi va chạm vào nhau.
Ðốt pháo bông là một trò vui lúc thiên hạ thái bình. Nhưng hiện giờ mọi người đang ở vào trường hợp nguy hiểm, lại đem theo ba bệnh nhân trúng độc dị thường khó chữa, thì ai còn lòng nào mà ngắm cảnh pháo bông.
A Bích tuy còn nhỏ tuổi, nhưng nàng cũng quan tâm đến bệnh tình tam ca, tứ ca hơn là tấm lòng ngây thơ của trẻ nít thích coi pháo bông.
Nàng buồn rầu nói:
- Ðừng coi nữa! Chúng ta đi thôi!
Công Dã Càn nói:
- Ðây không phải là pháo bông đâu, mà chỉ là tín hiệu để bọn đại địch kéo đến bao vây.
Phong Bá Ác la lớn:
- Thế thì tuyệt! Tuyệt diệu! Mình lại được một phen đâm chép cho sướng tay! Rồi quay trở lại nhà đại sảnh.
Phong Bá Ác vừa trở gót quay lại thì Ðặng Bách Xuyên bảo:
- Tam đệ cùng lục Muội! Các người vào trong đại sảnh để ngăn trở phía trước, nhị đệ chống đỡ phía sau cho...
Ðoạn y quay lại nói với Huyền Nạn đại sư:
- Việc này không liên quan đến chùa Thiếu Lâm xin các vị đừng bàng quang, đừng bênh vực bên nào là nhà Mộ Dung cám ơn đại đức nhiều lắm!
Trong khi Ðặng Bách Xuyên đang nói thì Công Dã Càn, Bao Bất Ðồng, A Bích đều tuân theo phân phối của y, lùi lại phía sau.
Lúc này phe nhà Mộ Dung tuy có năm người, thì hai người đã bị trọng thương lại một cô gái nhỏ tuổi. Trông địch nhân đốt lửa hiệu ngất trời sắp có một số đông người đến công kích, uy thế mảnh liệt ghê gớm không phải tầm thường. Thế mà Ðặng Bách Xuyên tuyệt không sợ hãi gì, cũng không cầu phái Thiếu Lâm giúp sức.
Huyền Nạn nói:
- Sao Ðặng huynh lại nói thế? Dù địch nhân có thù riêng với chư vị mà kéo đến vây đánh, trung gian có điều gì phải trái khuất khúc, bọn bần tăng cũng phải xét đoán theo lẽ công bằng không thể để cho họ nhân lúc người ta đang gặp cơn nguy cấp, cậy nhiều người để thủ thắng được. Giả tỷ họ là đồng đảng của Tiết Thần Y bố trí cơ qua độc địa để hãm hại người một cách vô lí thì các vị cùng chúng tôi đều coi họ là kẻ thù chung có lí đâu lại thõng thõng tay đứng nhìn?
Ðoạn Huyền Nạn quay lại hô các nhà sư:
- Các vị sư đệ! Hãy chuẩn bị đối địch!
Bọn đại tăng vào hàng chữ Tuệ đồng thanh vâng lời.
Huyền Thống nói với Ðặng Bách Xuyên:
- Ðặng huynh! Bần tăng cùng hai vị sư đệ đã vào cánh đồng bệnh tương liên thì tự nhiên phải dắt tay nhau cùng ra sức chống địch.
Ðang lúc nói chuyện lại có hai bông hoa vọt lên trời và lần này càng đến gần hơn. Rồi cứ cách một lúc, lại hai bông hoa xuất hiện cả trước sau có đến sáu lần. Hình dáng cùng màu sắc bông hoa đều khác nhau. Có bông tựa như một nhát búa hoành tạo thiên quân có bông giống như hoa mẫu đơn. Sau khi sáu bông hoa phóng lên hết rồi, bầu trời đen nghịt không còn tín hiệu gì nữa.
Huyền Nạn hạ lệnh cho các đệ tử Thiếu Lâm lo phòng giữ chung quanh nhà đại sảnh để chờ địch nhân đến đánh. Nhưng chờ hồi lâu vẫn chẳng thấy động tĩnh gì.
Mọi người vẫn nín thở chú ý trong một khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, bỗng nghe mé Ðông có thanh âm một cô gái ngâm thơ:
"Mày liều kìa ai biếng điểm trang,
Khăn hồng ố lệ những mơ màng,
Phòng the khắc khoải hồn cô tịch,
Châu ngọc khôn khuây nỗi đoạn trường.
Giọng hát thê lương đầy vẻ thê lương não ruột."
Huyền Nạn cùng Ðặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau trong lòng rất là nghi hoặc.
Thanh âm thán giọng đào xong liền đổi sang vai kép:
- Cha chả! Lâu ngày không thấy mặt, lòng trẫm những thương tình. Hộp trân châu ban tặng cho khanh, chẳng biết có vui lòng bạn ngọc?
Lại chuyển sang vai đào:
- Chao ôi! Bệ hạ có Dương phi kề cận, mãi say mê trong cuộc truy hoan. Châu ban mai phi bỏ cho cam, đâu có lí thương người mệnh bạc.
Nói xong lại lên tiếng khóc thút thít.
Các nhà sư chùa Thiếu Lâm đứng chữ "Tuệ" ít ra ngoài nên chưa hiểu nhân tình thế cô, chẳng biết người kia lúc nói tiếng đàn ông, lúc rệ giọng đàn bà đang làm trò quỉ quái gì, nhưng nghe trong lòng cũng xiết nỗi thê lương!
Bọn Ðặng Bách Xuyên đều biết người này đương diễn tuồng Ðường Minh Hoàng cùng Mai Phi là một tấn tuồng cổ. Y đóng vai Mai phi lại đóng luôn cả vai Ðường Minh Hoàng nữa. Từ thanh âm cho đến kiểu cách tuy hay đến đâu nhưng mọi người đang lúc khẩn trương hồi hợp trông chờ biến chuyển thấy chuyện này trong lòng ai cũng nao núng không hiểu người này có dụng ý gì.
Bỗng nghe người đó lại lên tiếng:
- Thôi khanh khóc lóc làm chi cho phiền lòng trẫm. Mau bày tiệc yến, rồi khanh thổi sáo cho trẫm hát một khúc để giải buồn cho ái khanh. Người đó lại chuyển giọng đào lại nói:
- Dùng nước mắt để rửa mặt những mong được thấy quân vương. Bửa nay đã giáp mặt long nhan, thì tiện thiếp can lòng nhắm mắt.
Nói xong lại khóc ấm ức. Bao Bất Ðồng lớn tiếng nói:
- Cơ gia An Lộc Sơn chính thị. Bớ Ðường Vương Lý thì hồ đồ. Dương ngọc hoàn trao lại cho cô. Thời tránh khỏi sinh linh đồ thán.
Ðặng Bích Xuyên muốn lên tiếng ngăn trở nhưng đã không kịp nữa. Tiếng người khóc giả vờ bên ngoài đã bặt tựa như giật mình hoảng sợ.
Chỉ trong khoảng khắc, bốn bề im lặng như tờ. Sau một lúc nữa mọi người đều ngửi thấy mùi hương thơm ngát.
Huyền Nạn la lên:
- Ðịch nhân thả hơi độc! Mau mau phong bế nguyệt đạo và ngửi thuốc giải đi.
Phía ngoài lại có người nói:
- Thất tỷ! Thất tỷ đã đến đấy ư?
- Trong nhà ngũ ca có một quái nhân tự xưng là An Lộc Sơn!
Mọi người nghe tiếng y nói chuyện thường thì mới biết rõ là đàn ông.
Ai nấy thử hít một hơi không có gì khác lạ, trái lại còn thấy đầu óc sáng suốt, dường trong mùi hương không có chất độc.
Bỗng nghe thanh âm một phụ nữ nói:
- Chỉ có mình đại ca là chưa đến. Vậy nhị ca, tam ca, tứ ca, lục ca, bát đệ nên ra mặt đi thôi.
Câu nói vừa dứt bọn Ðặng Bách Xuyên đột nhiên thấy phía trước mặt sáng rực lên mọi người lóa mắt không mở ra được ngay.
Bỗng thấy cổng lớn có một làn sáng kỳ dị trông rõ có năm trai một gái.
Một người già mặc áo ngắn, râu đen lớn tiếng nói:
- Lão ngũ! Ngươi còn chưa ra ư?
Tay lão cầm tấm ván vuông trông tựa như chiếc bàn cờ. Người đàn bà là một thiếu phụ đứng tuổi rất xinh đẹp. Bốn người kia thì hai người ra dáng học trò, một người là thợ mộc, trong tay cầm một cây búa, còn người sau cùng mặt xanh, răng lồi, tóc đỏ, râu xanh trông rất khủng khiếp chẳng khác một con yêu quái.
Huyền Nạn chú ý nhìn xem thì mặt người này nhồi son thoa phấn như kiểu những người đóng trò sân khấu không phải y có chân tướng kì dị. Gã vừa đóng vai Ðường Minh Hoàng và vừa giả làm Mai phi.
Ðặng Bách Xuyên hỏi bọn người mới đến:
- Tôn tính đại danh các vị là gì? Tại hạ tên gọi Ðặng Bách Xuyên.
Ðối phương chưa kịp trả lời thì trong nhà đại sảnh một bóng đên lù lù nhảy ra, ánh đao lấp loáng, nhằm gã kép hát chém luôn bảy tám đao. Người này chính là Nhất Trận Phong Phong BáÁc.
Phong Bá Ác tần công rất mãnh liệt, gã kép hát lại không kịp đề phòng, tránh tả né hữu, tình thế rất nguy cấp, thế mà gã vẫn lên giọng khôi hài:
- Lúc bạt sơn hề khí cái thế thời bất lợi hề truy bất thề. Truy bất thệ hề... Gã đang hát dỡ câu thứ ba thì bị Phong Bá Ác đánh rát quá không hát thêm được nữa. Sức mạnh nhổ núi anh hùng quán thế nhưng gặp thời bất lợi thành ra ngựa ô truy cũng nản chân bon ngựa ô truy...
Lão già râu đen đứng bên quát mắng Phong Bá Ác:
- Ngươi thật là vô lí, chưa hỏi đầu đuôi đã đánh ngay. Hãy ném một chiếc"Ðại thiết cương"của ta đây! Lão cần trong tay một tấm vuông vắn vun lên nhắm đầu Phong BáÁc đập xuống.
Phong Bá Ác lẩm bẩm:
- Một đời ta bôn tẩu gian hồ, kể cả lớn nhỏ đã giao phong đến mấy trăm trận mà chưa thấy ai dùng thứ binh khí bằng tấm ván gỗ thế này.
Y giơ đòn đao lên chém thẳng vào tấm ván, mà không sứt mẻ chút nào.
Nguyên tấm ván này trông như ván gỗ nhưng thật ra đúc bằng gang thép mà mặt ngoài chỉ phủ nước sơn ván gỗ mà thôi.
Phong Bá Ác cả kinh vận hết kình lực giật thật mạnh một cái, mới rút được ra khỏi tấm ván.
Y quát lên:
- Bọn mi là quân tà đạo dùng thép có chất hút sắt để hút khí giới phải không?
Người kia cười nói:
- Không dám! Ðó là cái mâm để sắp cơm của lão phu.
Phong Bá Ác để ý nhìn thì trên tấm ván có vạch những đường ngang dọc thẳng tấp rõ ra là một bàn cờ vi kì (cờ vây).
Phong Bá Ác vốn hay đánh nhau, nhất là với những người kì dị liền nói:
- Thật là một khí giới cổ quái. Ta đấu với ngươi một lúc nữa chơi.
Dứt lời y múa đao như gió cuộn càng đánh càng lẹ. Có điều không dám để lưỡi đao chạm vào bàn cờ hút sắt của đối phương.
Gã kép hát thở hồng hộc tiếp tục câu hát.
- Truy bất thệ hề khả nại hà Ngu hề. Ngu hề nại nhược hà.
Rồi gã lại đổi sang giọng đào:
- Xin đại vương bất tất phải phiền não. Trận đánh cai hạ bữa nay tuy bất lợi, thiếp xin theo đại vương phá trùng vây ra khỏi nơi này.
Bao Bất Ðồng quát lên:
- Mẹ kiếp! Cả Sở Bá Vương lẫn Ngu Cơ nhà mi! Mau mau tự vẫn đi cho rồi! Mỗ danh xưng Hán Tín (2).
Y vừa rồi sấn lại đưa hai tay theo thế "Cầm long thủ" chụp xuống vai gã kép hát.
Gã kép hát hạ vai xuống tránh khỏi rồi hát thật to:
- Ðại Phong khởi hề vân phi dương (gió to thổi lên là mây bay hết...) Trời ơi ta đây Hán Cao Tổ bắt giết Hán Tín Nói xong tay trái gã đưa về sau lưng rút cây nhuyễn tiên đánh soạt một tiếng nhằm Bao Bất Ðồng vụt tới.
Huyền Nạn thấy mấy gã làm trò hề mà võ công rất lợi hại lại không biết đối phương thì nhíu cặp lông mày lên tiếng:
- Các vị hãy dừng tay, bày tỏ rõ đầu đuôi rồi hãy đánh nhau còn chưa muộn.
Nhà sư muốn Phong Bá Ác dừng tay không đấu nữa nhưng đâu có được? Phong Bá Ác sau khi biết mình nhiễm hàn độc, khí lực kém xa lúc bình thời. Vả lại chất độc bộc phát thất thường không biết lúc nà, rất nguy hiểm. Vì thế múc cây đơn đao như gió táp mưa sa, mong hạ đối phương một cách chóng vánh.
Bốn người đang ham đánh thì trong nhà đại sảnh thêm một người nhảy ra nữa. Hai tay cầm hai lưỡi giới đao đập vào nhau loảng xoảng. Người mới ra, oai phong lẫm liệt chính là Huyền Thống đại sư. Ngựa ô truy không chạy nữa biết tính sao? Ngu Cơ nàng ơi! Bây giờ biết tính thế nào đây? Hán Tín là tướng giỏi của Hán Cao Tổ, đánh bại Sở Hán Vương (tức Hạng Võ)
Nhà sư lớn tiếng nói:
- Các người là bọn giang hồ dùng thuốc độc hại người. Bữa nay lão hòa thượng phải mở sát giới mới được.
Luôn mấy ngày nhà sư bị chất độc hành hạ cực kì đau khổ không có chỗ nào để tiết hận. Nhà sư không hỏi han gì nữa, sầm song công vào hai gă đứng tuổi ra vẻ nhà nho chém tới.
Một gã nho sinh tò tay vào bọc móc ra một thứ khí giới giống cây quán quan bút đấu với Huyền thống. Còn một gã nho sinh nữa lắc đầu lia lịa nói:
- Lạ thật! Người tu hành lại nổi nóng bao giờ? Không biết lão xuất thân theo kinh điển nàa?
Gã đưa tay vào bọc vừa sờ vừa nói:
- Ủa đâu mất?
Rồi gã hết lục túi bên này lại nắn túi bên kia. Lúc nắn lúc vỗ, lẩm bẩm luôn trong miệng:
- Ô hay! Sao kiếm mãi không được?
A Bích tính hiếu kì liền hỏi:
- Tiên sinh tìm chi vậy?
Gã nho sinh đáp:
- Vị hòa thượng kia võ công rất cao cường. Người anh em tôi địch không lại y. Tôi muốn tìm binh khí để giúp cho bạn đồng hành thành thế "Hai người chọi một chẳng chột thì què." Nhưng lạ quá lạ quá! Binh khí của tôi biến đi mất đâu mất.
Gã vỗ đầu vỗ trán ra chiều suy nghĩ. A Bích không nhịn được phải phì cười, nghĩ bụng ra trận mà quên không biết khí giới để đâu mãi không tìm thấy! Thằng cha này thật là buồn cười! Mình chưa từng thấy ai như vậy bao giờ. Coi bộ gã ngớ ngẩn độ gàn thật chứ không phải giả vờ.
Rồi nàng hỏi:
- Tiên sinh dùng thứ khí giới gì?
Gã nho sinh đáp:
- Phàm đã là người dã là người quân tử phải tiên lễ hậu binh tức là dùng lễ nghi giảng giải trước không xong mới đi đến chỗ giao tranh, khí giới đầu tiên của tại hạ là một pho sách.
A Bích cố nhịn cười hỏi:
- Tiên sinh dùng loại sách gì làm binh khí! Phải chăng là sách võ công bí quyết, binh thư đồ trận?
Gã nho sinh đáp:
- Không phải! Không phải! Pho sách luận ngữ. Tại hạ muốn đem lời lẽ thánh hiền để cảm hóa đối phương.
A Bích cười mũi hỏi:
- Tiên sinh đã là người làu thông kinh sử mà sách luẫn ngữ còn chưa thuộc, thế thì tiên sinh đọc những sách gì?
Gã nho sinh đáp:
- Cô nương chỉ biết một điều chứ chưa biết hai. Bất luận là Luận ngữ, Mạnh ngữ, Xuân Thu hay Thi, Thư gì gi đi nữa, tại hạ đều phải thuộc lòng. Nhưng đối phương vị tất đã đọc qua nên cần mở sách đưa cho họ coi thì mới hết đường chối cãi. Không có sách họ cho là mình bịa đặt ra, làm sao thuyết phục được? Nên người ta thường nói rằng: "Nói có sách mách có chứng."
Gã vừa nói vừa lục tìm, sờ soạn khắp người loạn cả lên...
Người ăn mặc theo lối thợ thuyền thấy Huyền Thống xử cặp với đao như gió táp mưa sa chiêu thức cực kì lợi hại. Nếu tiếp tục đánh thêm mấy chiêu nữa thì lo cho gã thư sinh xử cây phán quan bút khó toàn tánh mạng. Gã liền vung búa xông vào trận chiến.
Công Dã Càn liền phóng chưởng ra nhằm đánh gã. Công Dã Càn coi bộ ốm o chẳng khác gì thầy đồ vậy mà chưởng lực rất hậu. Ngày nọ ở trong một tửu lâu tại Giang Nam y đã thi uống rượu và đánh chưởng với Kiều Phong. Tuy y bị thua mà Kiều Phong cũng đem lòng kính trọng y về nội lực, y không phải hạng tầm thường.
Gã thợ mộc né người tránh khỏi chưởng lực của Công Dã Càn rồi vung búa chém tạt ngang.
Gã nho sinh vẫn không tìm ra pho luận ngữ, thấy đồng bọn xử cây phán quan bút chân tay đã luống cuống, địch không nổi cặp đới đao của Huyền Thống đại sư, gã liền nhìn Huyền Thống hỏi móc:
- Ðại hòa thượng! Ðức Khổng Tử đã nói: "Người quân tử không làm điều bất nhân." Ðại sư động thủ toan giết tứ đệ tại hạ. Thế là nhân hay bất nhân!
A Bích khẽ hỏi Ðặng Bách Xuyên:
- Thằng cha này đồn gàn thật hay là giả vờ?
Ðặng Bách Xuyên:
- Trên chốn giang hồ lòng người giả trá rất nhiều. Bất luận lỗi nào họ cũng làm được. Thật là muôn mặt, ta nên phải cẩn thận.
Bỗng nghe Thầy đô gàn lại nói với Huyền Thống:
- Thưa đại hòa thượng! Ðức Khổng Tử đã nói: "Bậc nhân giả tất là người có dũng, mà bậc dũng giả tất có lòng nhân." Ðại sư vì dũng thì có thừa, nhưng về nhân thì chưa đủ. Như vậy chưa phải là bậc quân tử chân chính. Ðức thánh lại dạy rằng: "Ðiều gì mình đi không muốn thì đừng làm cho ai." Chắc đại hòa thượng chẳng muốn ai đến giết mình thì tại sao lại đánh giết người?
Tuy anh đồ đem lời vớ vẩn khuyên cáo Huyền thống mà lạ thay võ công gã cũng không kém cỏi. Huyền Thống đâm trước chém sau đánh tới tấp, mà gã né tả tránh hữu rất tài tình thủy chung vẫn ở cách Huyền Thống ba thước.
Huyền Thống không khỏi e dè nhủ thầm: "Thằng cha này nói trăng nói cuội cốt cho mình phân tâm mà đánh vào. Gã này võ công còn giỏi hơn gã xử phán quan bút nhiều. Mình phải đề phòng mới được."
Nhà sư nghĩ vậy nên sáu phần để ý đề phòng gã "Ðồ gàn" giả vờ mà chỉ dùng bốn phần công phu để đánh với gã thư sinh xử cây phán bút quan. Gã thư sinh kia bị tấn công nhẹ hơn nên tình hình cuộc chiến cũng biến chuyển.
Hai bên lại đánh thêm mươi chiêu nữa, Huyền Thống nổi nóng quát lên:
- Nếu người không tránh ra thì lão tăng không nể đâu.!
Nói xong chuyển mạnh thanh giới đao nhằm chém trước ngực tên "Ðồ gàn."
Gã "Ðồ gàn" né mình tránh khỏi nói:
- Ðức thánh đã dạy: "Những kẻ ngang ngược chết đừng hối hận." Tại hạ thấy đại sư võ công cao cường, phải cùng tứ đệ hợp lực hai người chọi một chưa chắc đã địch nổi đại sư, nên lấy lời lẽ khuyên can đại sư để hai bên bãi chiến là hơn.
Huyền thống cả giận vừa vung đao chém tạt ngang vừa mắng:
- Thôi ngươi câm họng đi, đừng nói đạo đức nhân nghĩa nữa! Các ngươi sao lại dấu thuốc độc trong quan tài để hại người? Nếu bên ta không cẩn thận một chút thì bây giờ đã về thế giới bên kia rồi. Ngươi bảo "Ðiều gì mình đã không muốn thì đừng làm cho người" vậy ngươi có muốn trúng độc để chịu chết không?
Gã đồ gàn lùi lại hai bước nói:
- Lạ nhỉ! Quan tài là đồ dùng để đựng xác chết. Ai lại đem thuốc độc bỏ vào bao giờ? Nếu trong quan tài mà có thuốc độc thì cả thây ma cũng bị thuốc độc hại chết sao? Thế thì không đúng!
A Bích nghe gã khá khôi hài, cũng cười nói xen vào:
- Thây ma đặt trong quan tài dĩ nhiên là chết từ lúc trước rồi. Nhưng các vị lại lắm mưu thần chước quỷ: Trong quan tài không có thây ma mà chỉ có thuốc độc thôi để đánh bẫy chúng ta là những người còn sống nhăn răng ra đây.
Gã "đồ gàn" lắc đầu nói:
- Không phải thế! KHông phải thế! Chỉ có đàn bà, trẻ con là khó chịu mà thôi. Cô đã là phận nữ nhi lại còn nhỏ tuổi, không tránh hay mồm năm miệng mười.
A Bích trỏ thiếu phụ đứng tuổi xinh đẹp hỏi:
- Vị này cũng là đàn bà, vậy tiên sinh bảo y là người hay, hay người dở?
- Gã"đồ gàn"ngẩn người ra lắc đầu đáp:
- Cô đánh trống lảng rồi! Tôi không cần trả lời câu đó nữa.
Gã Ðồ gàn cùng A Bích đối đáp với nhau khiến Huyền Thống không cần để ý mấy vế gã múa tít song đao đánh gã thư sinh kia rất gấp.
Gã thư sinh xử cây phán quan bút lập tức lâm vào tình thế nguy cấp.
Gã Ðồ gàn liền xoay sát lại phía sau Huyền Thống cất tiếng hỏi:
- Con người mà bất nhân thì lễ nhạc ra sao? Ðại hòa thượng là người bất nhân dù có dũng mãnh cũng chẳng ra gì.
Huyền Thống tức giận:
- Ta là người nhà Phật thì bọn nho gia có nói quanh nói quẩn, bất nhân gì gì đi nữa cũng không làm cho ta phải bận tâm.
Gã Ðồ gàn đưa tay lên gõ trán mấy cái nói:
- Phải rồi! Phải rồi! Có thể là người đọc sách thành ra ương dở, không trách bị người ta tặng cho hai chữ "Ðồ gàn" đại hòa thượng rõ ràng là đệ tử nhà Phật. Vậy thì tại hạ có đem nhân, nghĩa, đạo, đức của Khổng Mạnh nói với hòa thượng cũng như nước xao đầu vịt mà thôi!
Phong Bá Ác chiến đấu đã lâu với lão sử dụng chiếc bàn cờ bằng thép mà sao chưa thủ thắng được. Y đánh thêm một chút nữa thì bụng dưới ngầm ngầm đau dường như chất độc lại bắt đầu lên cơn.
Bao Bất Ðồng tỷ thí với gã "kép hát." Y phát giác ra rằng võ công đối phương không lấy gì làm cao cường lắm, có điều chiêu thức biến hóa luôn. Lúc y đóng vai Tây thi, miệng thốt ra những lời ỏn thót, tiếng oanh thỏ thẻ, khiến người nghe phải nao nao lòng dạ. Chân gã di chuyển thướt tha, điệu bộ chẳng khác một giai nhân tuyệt mỹ trên đời. Thế rồi có lúc gã giả làm Lý Thái Bạch, một nhân vật cực phong về thơ, về rượu, với những điệu bộ say sưa túy lúy càn khôn, chân ngang đá chân xiêu.
Gã diễn những điệu bộ này tuyệt diệu ở chổ là đem áp dụng vào đường lối võ công để chiến đấu. Tay gã cầm cây nhuyễn tiên có khi mềm mại như tay áo mỹ nhân, có khi văn vẻ như chàng văn sĩ múa bút, khiến cho Bao Bất Ðồng vừa tức lại vừa buồn cười không biết làm thế nào.
Gã đồ gàn oán trách mình một lúc rồi đột nhiên cất tiếng ngân vang câu:
"Có phế bỏ thất tình,
Mới mong tròn quả phúc.
Tâm thần tân tu hoài,
Chưa thoát vòng trần tục."
Huyền Nạn cùng Huyền Thống thấy gã ngâm vang bốn câu thơ đều giật mình lẩm bẩm:
- Thằng cha đồ gàn này kiến thức rất uyên thông. Gã thuộc cả mấy câu kệ của một vị cao tăng đời Ðông Tấn là Cưu Ma La.
Bỗng gã đồ gàn lãi ngâm tiếp:
Thế sự thành không tưởng,
Còn vui thứ nỗi gì?
Ngâm xong gã hỏi:
- Ðại hòa thượng! Dưới cùng còn hai câu gì nữa? Tại hạ quên mất rồi.
Huyền Thống đọc tiếp:
Hỏi ai người đắc pháp,
Nhân giả phải tinh vi.
Gã đồ gàn cười ha hả nói:
- Ðúng rồi! Ðúng rồi! Ðại sư lo đệ tử nhà Phật chẳng vừa nói đến "Bậc nhân giả" là gì đó? Vậy thì đạo lí khắp thiên hạ đều giống nhau hết. Tại hạ khuyên đại sư nên ra khỏi bến mê quay đầu trở lại, buông lưỡi đaođồ tể.
Huyền Thống trong lòng kinh hãi, đột nhiên thấu triệt lẽ huyền vi và tỉnh ngộ ra nói:
- Nhật pháp vô biên! Cho tròn thiện quả!
Nhà sư niệm hai câu rồi quả nhiên quăng cặp giới đao xuống đất trên mặt thoáng qua một nụ cười nhấm mắt lại không nói gì nữa. Gã thư sinh kia cùng Huyền Thống đang ham chiến, bỗng thấy đối phương thay đổi trạng thái một cách đột ngột không khỏi giật mình, cây bút phán quan trong tay cũng dừng lại không đánh nữa.
Hai nhà sư pháp hiệu có chữ "Tuệ" tưởng Huyền Thống lên cơn đau vội la gọi:
- Sư thúc! Chất hàn độc lại lên cơn rồi sao?
Ðoạn giơ tay ra định vực Huyền Thống dậy thì Huyền Nạn vội quát lên:
- Ðứng yên không được động đậy!
Rồi để tay lên mũi nghe hơi thở của Huyền Thống thì quả nhiên nhà sư này đã tắt thở rồi. Té ra người viên tịch một cách đột ngột. Huyền Nạn hai tay chấp để trước ngực niệm mấy câu chú vãng sinh.
Mấy nhà sư về hàng chữ "Tuệ" thấy sư thúc viên tịch thì khóc rống lên, rồi rút giới đao cùng thuyền trượng để toan liều chết đánh với hai gã thư sinh.
Huyền Nạn nói:
- Không được đông thủ! Sư thúc các ngươi giác ngộ chân lí, về nơi cực lạc, đặng thành chính quả. Các ngươi nên mừng cho sư thúc mới phải.
Mọi người đang chiến đấu kịch liệt đột nhiên thấy cuộc biến diễn li kỳ đều dừng tay nhả ra ngoài vòng chiến.
Anh đồ gàn cất tiếng gọi to:
- Lão ngũ! Tiết ngũ đệ! Mau ra đây mà coi! Có người bị ta nói khích một câu đang chết giấc. Lão ngũ mau ra cứu mạng! Mẹ kiếp! Sau mãi không thấy lão Tiết Thần Y ra đây cứu người? Thế này thì tức thật!
Ðặng Bách Xuyên nói:
- Tiết Thần Y không có trong nhà, tiên sinh đây...
Anh đồ gàn trong lúc cấp bách quá lại gân cổ lên gọi thật to.
- Tiết Mộ Hoa! Tiết ngũ lão! Diêm Vương Ðịch! Tiết thần Y! Có mau ra cứu người không? Tam ca ngươi nói khích để người ta chết rồi. Người ta không để yên đâu?
Bao Bất Ðồng tức giận nói:
- Mi ngươi giết người lại còn giả vờ giả vịt nữa hả?
Nói xong vung chưởng ra đánh, tay trái y luồn qua tay phải ra điệu "Ảo long thảm châu" nắm lấy chòm râu đối phương.
Phong Bá Ác cùng Công Dã Càn đang chiến đấu cao hứng không chịu dừng tay, đều chạy đi tìm đối thủ để đối chiến.
Ðặng Bách Xuyên quát lên:
- Nằm rạp xuống.
Rồi vươn tay trái ra chụp vào lưng gã "kép hát."
Ðặng Bách Xuyên ở Tham Hợp Trang trong khu Yến Tử ở tại Cô Tô. Y là tay thuộc hạ đứng đầu của nhà Mộ Dung.
Ðặng Bách Xuyên võ công tinh thục, nội lực thâm hậu, tuy không lừng lẫy tiếng tâm trong chốn giang hồ nhưng ai đã biết y đều đem lòng kính phục.
Y nắm được gã kép hát rồi thuận tay ném gã xuống đất. Gã này thân pháp rất mau lẹ. Vai bên tả vừa chấm đất, người y liền xoay đi nửa vòng, đưa chân phải ra quyết ngang nhằm đá vào đùi Ðặng Bách Xuyên người lại to béo, chuyển động không được linh hoạt. Y thấy khó lòng tránh khỏi cái đá. Bèn trầm khí xuống hạ bàn cho chân cứng đơ đỡ đòn ấy.
Bỗng nghe đánh rắc một tieếng, rõ ràng trong hai chân chạm nhau có một chiếc bị gãy.
Gã kép hát liên tiếp trằn mình đi mấy vòng ra xa ngoài mấy trượng rồi quát mắng:
- Mi đúng là tên giang tặc Mao Diên Thọ ngầm hại kẻ trung lưu. Chao ôi! Chân ta làm sao rồi đây?
Nguyên lúc hai chân chạm vào nhau, thì chân gã kép hát không chống lại được sức mạnh ở chân Ðạnh Bách Xuyên nên bị gãy xương.
Thiếu phụ đứng tuổi người xinh đẹp, mình mặc áo màu hường, từ nãy giờ vẫn nghiêm trang đứng một bên, chưa nói câu gì mà cũng không cử động. Bây giờ mụ thấy gã kép hát gãy chân, còn ngoài ra đồng bọn đánh nhau đều bị dồn vào thế hiểm nghèo, nên cất tiếng nói:
- Bọn ngươi hành động thế này là nghĩa lý gì? Các ngươi đã chiếm nhà ngũ ca ta, lại chẳng hỏi đầu đuôi câu chuyện đã ra tay đánh người bị thương liền mới thật là kì!
Mụ tuy ra chiều chất vấn đối phương, song lời nói vẫn êm ả dịu dàng.
Gã kép hát nằm lăn xuống đất, ngẩn mặt lên thấy hai đèn lồng treo trên cửa chính, bất giác giật mình la lên:
- Ô hay! Sao trên lồng đen lại viết: "Tiết Mộ Hoa chi tang" Trời ơ i! Tiết ngũ ca hồn xuống suối vàng rồi ư?
Gã xử khí giới như cái bàn cờ, hai gã thư sinh và cả tên thợ mộc xử búa cùng thiếu phụ đứng tuổi đều ngó về tay gã kép hát trỏ, có thấy đèn lồng nhưng dĩa đèn bên trong đều tắt hết nên không rõ.
Những người này vừa đến đã đánh nhau ngay nên không ai để ý mãi đến lúc gã kép hát nằm lăn xuống đất ngửa mặt lên mới chợt thấy đèn lồng.
Gã kép hát rống lên rồi hát:
- Ối ca ca ơi! Chúng ta đã đào viên kết nghĩa, bên cổ thành hò hẹn cùng nhau, qua năm ải, sáu tướng bay đầu, đà xiết nổi oai phong lẫm liệt!
Ðây là mấy câu văn khóc Quan Võ. Lúc bắt câu hát, gã tưởng hát chơi rồi sao gã bị xúc động mạnh, hát không đúng điệu được.
Năm người nhao nhao cả lên. Có người quát hỏi:
- Ai đã giết ngũ đệ?
Người thì hỏi:
- Ai giết ngũ ca?
Lại có người khóc:
- Ngũ ca ơi! Kẻ nào là hung thủ giết ngũ ca?
Một người mặt giận hầm hầm lớn tiếng quát:
- Bữa nay thế nào cũng phải liều mạng với các ngươi mới được!
Huyền Nạn cùng Ðặng Bách Xuyênnhìn cảnh nhốn nháo này đều nghĩ thầm trong bụng: Trong bọn này trừ mụ đàn bà thì gã nào cũng có vẻ điên khùng, tinh thần không tỉnh táo. Nghe giọng nói thì dường như họ là anh em kết nghĩa với Tiết Thần Y.
Ðặng Bách Xuyên lên tiếng giải thích:
- Bọn ta có anh em bị thương đến đây cầu Tiết Thần Y cứu chữa ngờ đâu...
Y chưa dứt lời thì thiếu phụ đứng tuổi đã phất tay áo một cái.
Ðột nhiên mọi người ngửi thấy một mùi thơm ngát xông và mũi rồi lập tức đầu váng mắt hoa, chân đứng không vững.
Thiếu phụ hô lên:
- Này té này!
Ðặng Bách Xuyên cả giận quát mắng:
- Mi là một đứa yêu phụ! Y vừa nói vừa vận kình lực phóng chưởng ra đánh.
Thứ hương "Bách ma hoa tiên" của thiếu phụ sức mạnh kinh người. Ðối phương dù công lực thâm hậu đến đâu hễ trúng phải là lập tức ngã liền.
Mụ thấy Ðặng Bách Xuyên người lảo đảo, tưởng y té xuống ngay không ngờ y còn đủ sức đánh ra một chưởng. Mụ toan né tránh đi nhưng không kịp nữa. Một luồng kinh lực thế dường nghiêng non bốc biển xô đến khiến cho mụ nghẹt thở. Mụ không tự chủ được ngả xuống đất.
Lại nghe tiếng rắc rắc mụ đã mất mấy cái xương sườn. Người mụ chưa ngã lăn xuống đất thì mụ đã chết giấc.
Ðặng Bách Xuyên cũng thấy mặt mày xây xẩm rồi ngã lăn ra. Mỗi bên đều bị một người ngã, còn ngoài ra lại động thủ đánh nhau.
Huyền Nạn nghĩ thầm:
- Trong vụ này còn nhiều chuyện rắc rối. Bây giờ chỉ có cách bắt hết đối phương thì hai bên mới khỏi có người mất mạng.
Nhà sư nghĩ vậy liền gọi đồ đệ phái Thiếu Lâm:
- Lấy cây thiền trượng cho ta!
Một nhà sư vào hàng chữ Tuệ vội lại bên cửa cầm cây thiền trượng đưa cho Huyền Nạn. Gã thư sinh xử phán quan bút tung người lên nhảy xổ đến phóng bút đâm vào ngực nhà sư Thiếu Lâm.
Huyền Nạn đánh chưởng bên trái đánh ra. Tay chưa đến nơi thì nhưỡng lực đã tới sau lưng gã, gã thư sinh té ngay xuống đất.
Huyền Nạn buông một tràng cười lớn, cầm trượng trong tay, bước tạt ngang sang mé bên hai bước, đánh vào gã dùng bàn cờ làm khí giới.
Gã này thấy thế đánh mãnh liệt, thiền trượng chưa đến mà chưởng phong đã chụp đến người mình, liền vận kình lực ra cánh tay rồi cả hai tay giơ bàn cờ lên đỡ.
Một tiếng choảng vang lên, bàn cờ tóe lửa ra bốn mặt.
Gã thấy cánh tay tê nhức, hổ khẩu bị toạc ra. Huyền Nạn đại sư nhấc mạnh cây thiền trượng lên đồng thời lôi theo cả cái bàn cờ.
Nguyên cái bàn cờ này có chất nam châm rất mạnh. Trước nay người sử dụng chuyên dùng nó để hút khí giới bên địch. Bữa nay gặp phải tay kình địch mạnh hơn mình nhiều, nên cái bàn cờ của gã bị cây thiền trượng của Huyền Nạn đại sư hút chặt rồi đoạt mất.
Huyền Nạn dùng thiền trượng hút được bàn cờ lên rồi nhắm đầu gã kia chụp xuống.
Gã vội kêu:
- Ðại sư đánh xuống thì tôi không đỡ nổi đâu.
Gã vội nói vứa chuồn nhanh về phía trước.
Huyền Nạn trở cây thiền trượng quét lên:
- Gã đồ gàn kia chịu nằm xuống đi thôi!
Nói xong cầm thiền trượng quét ngay, thấy mạnh vô cùng! Gả đồ gàn nói:
- Ðức phu tử sở dĩ thành thánh là vì người hiểu thời cơ. Gió thổi tất cả phải lướt theo chiều. Nằm xuống thì nằm chứ sao?
Gã chưa dứt lời, người đã nằm phục xuống đất.
Sáu nhà sư chùa Thiếu Lâm vào hàng chữ "Tuệ" nhảy xổ lên nhanh tay bắt lại.
Viện trưởng viện Ðạt Ma chùa Thiếu Lâm võ công dĩ nhiên phi thường! Nhà sư vừa động thủ đã hại luôn ba tên cao thủ đối phương thế thì được toàn thắng.
Bọn A Bích vì lo thương thế Ðặng Bách Xuyên, còn các nhà sư chùa Thiếu lâm lại đem lòng xót thương Huyền Thống viên tịch nên tuy được toàn thắng mà chẳng ai vui mừng.
Gã xử búa đấu với hai người Bao Bất Ðồng và Phong Bá Ác chống tả đỡ hữu cũng sắp bại trận đến nơi.
Gã xử bàn cờ nói:
- Hỏng rồi! Hỏng rồi! Lục đệ ơi! Chúng ta chịu thua đi thôi đừng đánh nữa!
Rồi gã quay sang hỏi Huyền Nạn:
- Ðại hòa thượng! Tôi xin lỗi:
Ngũ đệ tôi đã phạm lỗi gì, với các vị mà các vị giết chết? Tại sao các vị còn lấy lửa hiệu để lừa chúng tôi đến đây?
Huyền nạn đáp:
- Ðâu có việc ấy? ...
Chưa dứt lời, bỗng nghe tiếng dạo đàn tình tang từ đằng xa vọng lại. Hai tiếng đàn này vừa nổi lên, mọi người cảm thấy trái tim bị xúc động nhảy theo hai cái.
Phong Bá Ác cảm thấy nhức đầu khó chịu, tay phải nới ra rồi đánh "Kẻng" một tiếng thanh đơn đao của y rớt xuống đất. Nếu không được Bao Bất Ðồng vội vàng ra tay hộ vệ thì đã bị đối phương chém trúng bả vai rồi.
Gã đồ gàn hô lớn:
- Ðại ca đến mau lên! Một lũ gian tặc đến giết chết ngũ đệ, rồi lại bắt hết chúng tôi. Thất Muội cũng bị chúng đánh chết. Tình thế thật nguy hiểm vô cùng!
Tiếng đàn trong rừng cây nổi lên liên hồi, mọi người ttrong lòng phiền muộn khó chịu. Trái tim theo nhịp tiếng đàn nhảy lên binh binh.
Huyền Nạn lại càng kinh dị, lẩm bẩm:
- Không hiểu đây là thứ võ công gì của tà phái? Ta đã dùng thử tâm pháp của bổn phái để trấn tĩnh tâm thần mà sao trái tim vẫn đập binh binh theo tiếng đàn vu này thật nguy ngập vô cùng.
Bỗng lại nghe tiếng đàn vang dội mỗi lúc một mau hơn. Trái tim mọi người cũng theo nhịp nhảy rất gấp.
Huyền Nạn, Công Dã Càn, Phong Bá Ác, Bao Bất Ðồng cùng mọi người đều ngồi xuống đất, vận động nội lực thâm hậu để chống lại.
Chỉ có hai người là Huyền Nạn và Công Dã Càn là còn gắng gượng, kiềm chế được trái tim đôi chút, còn sáu nhà sư vào hàng chữ "Tuệ" đã la ầm lên, đau khổ vô cùng!
Sáu nhà sư đưa tay lên bịt tai để khỏi phải nghe tiếng đàn ác nghiệt. Nhưng lạ thay! Bất luận hai tay bịt mạnh đến thế nào, tiếng đàn cũng len lõi vào được lá nhĩ và tâm trạng không tự chủ được, vẫn phải chịu sự cảm ứng của tiếng đàn. Một lúc sau tiếng đàn càng cấp bách, thật là tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa. Trái tim mọi người cũng nhảy theo lộn nhào. Chỉ trong chốc lát nữa là mọi người khó lòng thoát chết.
Huyền Nạn đại sư biết rằng không thể ngôi đây giữ thế thủ để bên địch muốn làm mưa làm gió gì thì làm mà phải sang thế công. Nhà sư liền cầm cây thiền trượng xung về phía có tiếng đàn này tựa hồ như ở dưới đất đưa lên, Huyền Nạn chuyển mình trong rừng cây xục xạo tìm mãi chẳng thấy ai. Nhà sư vừa quay lại thì tiếng đàn lại nổi lên boong boong.
Phong Bá Ác la làng, hai tay cào trước ngực loạn lên rách cả áo. Y vừa cào mạnh vừa kêu gào:
- Trời ới! Dễ phải móc thủng ngực ra để giữ lấy trái tim không cho nó nhảy loạn lên!
Mới trong khoảnh khắc y đã cào rách cả da trước ngực, máu tươi chảy đầm đìa.
Công Dã Càn ôm lấy Phong Bá Ác nói:
- Tứ đệ chớ nóng nảy phải cố gắng sức lờ đi như không nghe thấy tiếng đàn.
Nhưng chính Công Dã Càn chỉ vì phân tâm một chút để chiếu cố Phong Bá Ác thành ra tâm thần mình cũng bị dao động thêm không trấn tĩnh được. Trái tim cũng đập loạn lên.
Gã đồ gàn, gã xử bàn cờ, gã xử búa, gã xử phán quan bút và gã kép hát cũng đều nghe thấy tiếng đàn cả, nhưng tuyệt không ra chiều thống khổ. Hiển nhiên bọn chúng có biện pháp riêng để kháng cự, nên không bị tiếng đàn kiềm chế.
Bao Bất Ðồng bảo A Bích:
- Lục Muội! Lục Muội còn chịu đựng được không? Ngồi lại gần bên tiều huynh này!
Bỗng thấy nhà sư hàng chữ "Tuệ" chùa Thiếu Lâm cũng hai tay ôm chặt lấy ngực, nằm lăn lộn dưới đất, miệng không ngớt la lối.
Bao Bất Ðồng nghĩ rằng:
- A Bích nhỏ tuổi lại kém công lực, nhất định đau khổ hơn mình nên nghĩ tội nghiệp cho nàng, muốn đem sức giúp nàng một chút.
Y cất tiếng hỏi A Bích vẫn xếp hàng ngồi im miệng vẫn nở một nụ cười, tựa hồ như không việc gì?
- Trời! Hay là lục Muội đã bị tiếng đàn làm cho chết rồi! Trước nay lục Muội thích âm nhạc lắm đàn ngọt hát hay nghề cũng giỏi. Lục Muội càng tinh thông âm luật thì đối với tiếng đàn này chắc còn bị cảm xúc mạnh hơn! Bao Bất Ðồng tuy không nhịn được chính trái tim y đang đập mạnh kịch liệt mà y cũng cố gắng lạng người đến bên A Bích để toan sờ lên mũi nàng coi còn thở không. Y chợt thấy A Bích từ từ cử động thì giật nẩy mình lên tự hỏi:
- Sao người chết lại còn cử động được?
Rồi y thấy A Bích đưa tay phải vào trong bọc lấy ra một vật, trời tối mò nên không rõ nàng lấy vật gì?
Bao Bất Ðồng đang kinh ngạc thốt nhiên phải phì cười, y vừa kinh hãi vừa mừng thầm lẩm bẩm:
- Mình rõ thật lẫn thẫn! Lục Muội đã chết đâu mà nàng không cử động!
Tiếp theo lại nghe hai tiếng tình tang từ trước mặt A Bích phát ra.
Hai tiếng đàn này nghe rất ôn hòa, rõ ràng do một thứ nhạc khí bé nhỏ nảy ra. Hai tiếng đàn này vang lên rồi, tiếng đàn ở trong rừng vọng ra đang sôi nổi bỗng từ từ chậm lại... Nhạc khí trong lòng A Bích lại gãy lên hai hồi nữa thì tiếng đàn ở phía đối diện lại càng chậm thêm.
Từ Huyền Nạn trở xuống chẳng ai là không vui mừng và đều lẩm bẩm:
- Không ai ngờ một vị cô nương bé nhỏ là A Bích lại có bản lãnh đem âm nhạc, để đối phó với ca nhạc đem thanh âm nhẹ nhàng chống với tiếng đàn gay gắt mà kiềm chế bớt được đối phương.
Ðột nhiên tiếng đàn trong rừng biến chế lại lên cao, chợt xuống thấp mấy hồi. A Bích cũng đáp lại đối phương bằng những khúc lên bổng xuống trầm một cách đột ngột. Sáu nhà sư hàng chữ Tuệ cùng Phong Bá Ác đang ở trong vòng lẩn quẩn đã được giải thoát, lục đục đứng lên.
Phong Bá Ác thở phào một cái la lên:
- Bọn ác tặc này làm chúng ta phải đau đớn vô cùng. Bây giờ giết chúng hết đi thôi.
Nói xong y cầm đao vào trong rừng.
Công Dã Càn bồng Ðặng Bách Xuyên lên thấy hơi thở y có hòa hoãn, tuy Bách Xuyên bị trúng hơi độc của thiếu phụ xinh đẹp, nhưng tính mạng y chưa có gì đáng lo trong chốc lát. Công Dã Càn sợ bọn địch nhân quá mạnh, mà Phong Bá Ác lại trúng hàn độc bị trọng thương, liền đặt Ðặng Bách Xuyên xuống rồi cùng Bao Bất Ðồng chạy theo Phong Bá Ác.
Sáu nhà sư hàng chữ Tuệ vừa bị tiếng đàn hành hạ khổ sở nỗi lòng căm phẫn vô cùng kẻ xách đao, người cầm trượng chạy vào rừng.
Nhưng lạ thay trong rừng chẳng có một ai!
Tiếng đàn lúc nghe thấy mé tả chợt lại sang mé hữu, có lúc như ở đằng trước, có lúc lại tựa hồ ở phía sau không biết đâu mà mò. Ai nấy đều cảm tưởng là đối phương có bảy tám người nấp ở trên cây, thay phiên nhau mổi người gãy một lúc. Có điều lúc này đàn lại du dương êm ả nghe rất lọt tai, không làm cho người nghe phải khó chịu, bực dọc, tim đập loạn lên. Trái lại nó khiến cho mọi người thư thái, dễ chịu.
Phong Bá Ác bật ngón tay vừa nhảy loạn lên, vừa lớn tiếng mắng chửi một hồi rồi đành lại trở ra. Tiếng đàn của A Bích phối hợp với tiếng đàn của đối phương thành một khúc nhạc hài hòa.
Huyền Nạn cùng Công Dã Càn đều hiểu rằng: Bọn võ lâm Trung Nguyên có người nột công thâm hậu biết dùng thanh âm để áp bức tâm hồn kẻ khác hoặc để giết người.
Nếu hai bên đối lập đều dùng kĩ thuật này và cùng tấu nhạc cũng chỉ là cách tranh đấu nội lực. Khi cuộc tranh đấu đến chỗ kịch liệt thì sự nguy hiểm thì chẳng kém gì khí giới quyền cước. Bên nào sơ sót hoặc công lực kém sức tất bị bên mạnh đàn áp, tâm trí mê man đối phương muốn làm gì thì làm có khi phải thế ngay lập tức. Song mọi người nhìn nét mặt A Bích và nghe tiếng đàn hai bên thì rõ ra không phải cuộc tranh đấu kịch liệt. Có điều trên chốn giang hồ chẳng thiếu chi trò quỷ quái bí mật, nên mọi người vẫn chẳng được yên tâm. Bao Bất Ðồng cùng Phong Bá Ác đứng trước mặt A Bích đề phòng địch nhân đến tập kích.
Huyền Nạn dứng phía sau lưng nàng ngầm vận nội công vào trong tay chỉ chờ hễ thấy có điều gì khác lạ là lập tức dùng nội lực hùng mạnh của mình truyền vào lưng cho nàng để chống với cường địch. Sau một khoảng thời gian khá lâu, tiếng đàn trong rừng dần dần mỗi lúc một nhanh. Ban đầu A Bích còn gắng gượng theo kịp, nhưng chỉ trong khoảnh khắc là không đuổi được đối phương.
Gã đồ gàn cười ha hả nói:
- Tiểu cô nương! Cô nương đấu cành với đại ca ta là một bậc cầm tiên là không khác gì múa rìu qua mắt thợ sớm chuốc lấy cái khổ vào mình. Cô mau mau quảng đàn hàng đi thôi. Ðại ca ta thấy ngươi nhỏ tuổi có khi cũng buông tha cho mạng nhỏ bé của cô.
Bọn Công Dã Càn nhận ra tiếng đàn A Bích đã không mau lẹ bằng đối phương lại còn kém cả về thanh âm rắn rỏi, rõ rệt nữa. Ðối phương gãy đàn càng mau, tiết tấu càng phân minh. Cuộc đấu đàn thắng bại đã rõ rệt, không còn cách nào vãn hồi được nữa, mọi người ngơ ngác nhìn nhau cả kinh hết sức.
Huyền Nạn thấy rõ cái thất bại của A Bích là do kĩ thuật kém người chứ chẳng phải vì nội lực không đủ. Giả tỷ mình có đem chân lực giúp nàng thì cũng chẳng ăn thua gì, có khi làm hại thêm nữa là khác, gia tăng nội lực tất làm cho nàng giật mình cảm xúc mà tiếng đàn càng tán loạn thêm cũng chưa biết chừng.
Sau một lúc nữa, bất luận cách nào A Bích cũng không thể theo kịp đối phương.
Ðột nhiên năm ngón tay nàng vuốt dây đánh xòe một tiếng rồi hạ đàn xuống, cười nói:
- Sư phụ! Tiểu tử không theo kịp nữa rồi!
Tiếng đàn trong rừng cũng lập tức im bặt, tiếp theo là tràng cười ha hả của một ông già nổi lên làm vang động cả khu rừng rậm.
Rồi ông già lên tiếng:
- Tiểu ni tử! Con đã học đến mức này cũng không phải là chuyện dễ!
-
Hồi 58 - Lo Vạ Lớn Quần Hùng Táng Đảm - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 58 - Lo Vạ Lớn Quần Hùng Táng Đảm
Mọi người vừa kinh ngạc vừa mừng thầm. Nghe hai bên đối đáp thì dường như người gãy đàn trong rừng là sư phụ A Bích.
Chẳng những Huyền Nạn, bọn Công Dã Càn kinh ngạc mà cả bọn đồ gàn bên đối phương lại càng kinh ngạc hơn.
Bỗng thấy một lão già tay áo thùng thình phất phới ở trong rừng bước ra. Ông trán cao hầu lộ, tướng mạo kỳ dị nét mặt tươi cười hì hì, ra vẻ hòa nhã.
Con người cốt cách thanh kỳ vùa xuất hiện.
A Bích vui mừng hớn hở reo lên:
- A ha! Sư phụ! Sư phụ mạnh đấy ạ?
Gã "đồ gàn"cùng cả bọn đồng thanh hô:
- Ðại ca!
A Bích chạy lẹ đi truớc bọn này lão già mới đến giang hai tay ra nắm lấy bàn tay A Bích tươi cười nói:
- A Bích hả! A Bích! Ngươi càng lớn càng xinh đẹp!
A Bích đôi má ửng hồng chưa kịp trả lời thì lão đã quay về phía Huyền Nạn đại sư chắp tay thi lễ hỏi:
- Ðại hòa thượng đây là một vị cao tănh chùa Thiếu Lâm? Tiểu lão thật là vô lễ!
Huyền Nạn chắp tay để trước ngực đáp:
- Bần tăng là Huyền Nạn!
Lão mới đến reo lên:
- Trơi ơi! Thế ra đây là Huyền Nạn sư huynh! Huyền Khổ đại sư là sư huynh hay sư sư đệ với Ðại hòa thượng? Tiểu lão cùng người đã được có duyên hội ngộ mấy lần, thật là ý hiệp tâm đầu. Lâu nay người vẫn mạnh giỏi chứ?
Huyền Nạn buồn rầu nói:
- Huyền Khổ sư huynh bần tăng chẳng may gặp phải tên nghịch đồ ám toán nên đã viên tịch rồi.
Lão kia nghe tin thộn mặt ra một lúc. Ðột nhiên lão nhảy vọt lên cao hơn một trương. Lúc người lão chưa hạ xuống đất còn đang lơ lửng trên không đà cả tiếng khóc rống lên một cách rất bi ai.
Huyền Nạn cùng bọn Công Dã Càn đều giật mình, không ai ngờ đến con người già nua tuổi tác ấy lại khóc lóc thảm thiết như tuồng trẻ nít.
Hai chân vừa chấm đất, lão ngồi phệt xuống. Tay nắm lấy từng chòm râu mà giựt thật mạnh. Hai chân lão nện xuống đất thình thịch như người rung trống.
Lão vừa khóc vừa kể lể:
- Huyền Khổ lão huynh ơi! Bao lão huynh chẳng dặn dò tiểu đệ một câu nào đã bỏ đi ngay? Lão huynh ơi! Lão huynh làm thế sao cho hợp lý? Khúc "Phạn âm phổ tấu" kia của tiểu đệ đã biết bao nhiêu người nghe rồi mà chẳng ai hiểu gì ráo. Chỉ mình lão huynh biết trong khúc đó bao hàm lý tưởng nhà Phật và có thể khiến cho công lực lão huynh tinh tiến thêm lên. Lão huynh nghe đi nghe lại hết lần này sang lần khác mà không biết chán. Cái ông Huyền Nạn sư đệ của lão huynh đây vị tất đã có tính tình giác ngộ được như huynh. Tiểu đệ e rằng tấu khúc này cho ông ta nghe, không khác gì đàn gãy tai trâu!. Trời ơi! Trâu thì biết nghe đàn làm sao được mà gãy? Hỡi ơi! Số mệnh tiểu đệ sao mà đau khổ đến nổi nước này?
Ban đầu Huyền Nạn nghe lão khóc lóc cũng tưởng lão là người chí tình với Huyền Khổ, vì xót thương cái chết của một vị sư huynh không cầm lòng được, mà bật tiếng kêu gào khóc lóc.
Nhưng nhà sư nghe lâu mới rõ là không phải thế. Lão khóc đây là khóc trên đời không tìm ra bạn tri âm.
Sau cùng nhà sư nghe lão lại bảo đánh đàn cho mình nghe chẳng khác gì đàn gãy tai trâu.
Huyền Nạn vốn là một bậc cao tăng đắc đạo, tuy nghe trong tiếng khóc lão già có ý châm chọc mình, nhưng vẫn không tức giận, mà chỉ tủm tỉm cười nghĩ thầm:
- Bọn này ai cũng có tính dở điên dở khùng, chẳng nên lý luận với họ làm gì. Tuy nội lực lão thâm hậu hơn người, song tính khí gàn dở chẳng khác gì mấy người đàn em mà có lẽ lão còn dở hơi hơn cả cũ, không trách người ta thường nói rằng: "Ngưu tầm ngưu mã tầm mã" là phải lắm.
Bỗng thấy lão kia lại vừa khóc vừa nói:
- Huyền Khổ sư huynh ơi! Ðể đền ơn tri ngộ, tiểu đệ đã khổ tâm sáng chế ra khúc nhạc mới là "Nhất vi ngâm" tặng lão huynh. Khúc nhạc này tuyên dương công đức Ðạt Ma lão tổ là đức thủy tổ chùa Thiếu Lâm đã thả bè lau qua sông. Sao sư huynh chẳng sống mà nghe! Ðột nhiên lão quay lại nhìn Huyền Nạn hỏi:
- Mộ phần Huyền Khổ sư huynh an táng ở đâu? Ðại sư mau dẫn tiểu đệ đến đó. Lẹ lên! Lẹ lên! Càng lẹ càng tốt! Tiểu đệ sẽ gãy khúc đàn này cho y nghe. Biết đâu y nghe rồi chẳng khích động tâm thần mà sống lại!
Huyền Nạn đáp:
- Thí chủ sao lại hồ đồ đến thế? Sau khi sư huynh bần tăng viên tịch đã đem di thể người hỏa táng đốt thành nắm tro tàn, làm gì có mộ phàn?
Lão kia nghe nói vậy đứng thộn mặt ra một lúc rồi đột nhiên nhảy nhót reo mừng, la lên:
- Hay lắm! Như thế càng hay! Ðại sư đưa tại hạ đi lấy một nắm tro này. Tại hạ sẽ dùng keo hỏa để dán vào dây cây đàn Dao cầm. Rồi từ đây trở đi mỗi khi tại hạ tấu khúc nhạc là y lại được nghe. Ðại sư tính thế có tuyệt diệu không? Ha ha! Cái sáng kiến của tại hạ thật là tuyệt vời!
Lão càng nói càng cao hứng rồi vỗ tay cười rộ như người điên.
Ðột nhiên Lão trông thấy thiếu nữ xinh đẹp nằm lăn một bên thì thất kinh hỏi:
- Ồ! Lục Muội làm sao thế. Ai đã đánh Lục Muội bị thương?
A Bích nói:
- Sư phụ! Vụ này bên trong có chỗ hiểu lầm. Có sư phụ đến đây thật là khéo quá!
Lão kia hỏi:
- Hiểu lầm cái gì? Ai hiểu lầm? Dù sao kẻ đánh Lục Muội bị thương vẫn là kẻ chẳng ra gì. Chao ôi! Bát đệ cũng bị thương ư? Kẻ đánh Bát đệ bị thương tất không phải là người tốt. Nào ai là thủ phạm hãy báo danh đi! Công nghị phân xử thì không kêu ca vào đâu được nữa! A Bích! Ngươi ra ngoài kia lấy cây đàn về đây cho ta.
A Bích"dạ"một tiếng rồi nàng không nghe sư phụ nói ba hoa nữa, nàng băng mình chạy ra gốc cây.
Mọi người nhìn xa xa thấy bóng xanh nhảy lên cây tay cầm vật gì rồi nhảy xuống đất. Nàng lại qua gốc khác nhảy vọt lên: Huyền Nạn cùng Công Dã Càn bây giờ mới biết rõ thì ra lão già kia đã để mấy cây đàn trên ngọn cây, và dùng nội lực rất thâm hậu để đánh đàn. Vì thế mà tiếng đàn khi ở mé tả lúc qua mé hữu không biết đâu mà mò. Lúc trước bao nhiêu người chạy xục tìm trong rừng mấy lần mà thủy chung vẫn không tìm thấy người đánh đàn ở chỗ nào, là vì lẽ này.
Mọi người lại nhìn thấy A Bích hết chạy ở mé Ðông lại nhảy sang mé Tây mà cách xa nhau đến hơn mười trượng, thì nghĩ bụng chẳng lẽ lão già kia nội công thâm hậu chuyển từ cây nọ sang cây kia cách nhau có đến hơn mười trượng. Tiếng đàn của lão cực kỳ thần diệu không ai đến mức độ đó được.
Mọi người còn đang ngẫm nghĩ thì thấy A Bích ôm bảy tám cây Dao Cầm từ trong rừng chạy về. Nàng chạy được nửa đường, thốt nhiên người nàng lạng đi một cái rồi té lăn xuống đất. Cái ngã của A Bích khiến cho lão gãy đàn cùng cả bọn Công Dã Càn đều thất kinh.
Công Dã Càn hốt hoảng chạy ra bỗng cảm thấy mé tả có một cơn gió nhẹ nhàng vừa lướt qua mà lão gia đã bồng A Bích trên tay rồi.
Công Dã Càn lẩm bẩm:
- Lão tiên sinh này khinh công ghê thật!
Gã nhô lên thụt xuống ba cái, nhảy đến trước mặt hai người.
Công Dã Càn vừa ngó vào mặt A Bích thì lòng đã hết lo ngay, vì mặt nàng tươi như ánh nắng ban mai, tinh thần rất mạnh mẽ bên môi hé một nụ cười.
Công Dã Càn liền cười hỏi:
- Lục Muội! Lục Muội muốn làm nũng với sư phụ chăng? Lục Muội làm cho ta sợ muốn chết.
A Bích không đáp. Ðột nhiên mấy hạt nước mắt rớt xuống khuôn mặt tươi như hoa đào của nàng. Công Dã Càn giật mình liếc mắt ra nhìn thấy mặt lão gia xám ngắt nước mắt đang tong tong nhỏ xuống.
Công Dã Càn rất lấy làm kỳ tự hỏi:
- Lão già này điên rồi sao?
Lão kia nhìn Công Dã Càn đưa mắt ra hiệu khẽ hỏi:
- Ðừng có lên tiếng.
Lão ôm A Bích hấp tấp chạy về trước mặt mọi người.
Phong Bá Ác hỏi:
- Lục Muội! Lục Muội làm sao vậy?
Gã chưa dứt lời thì lão nói ngay:
- Vạ lớn đến nơi rồi! Vạ lớn đến nơi rồi! Lão hốt hoảng nhìn tả ngó hữu vẻ mặt cực kỳ sợ hãy, hoang mang giục luôn miệng:
- Phải trốn mau kẻo không kịp mất rồi! Xin toàn thể quý vị vào nhà đi! Lẹ lên! Lẹ lên!
Bao Bất Ðồng vốn tính ưa phản đối người. Gã thấy lão già hoảng sợ giọng nói run, gã liền lớn tiếng hỏi:
- Cái gì mà vạ lớn đến nơi? Trời sập hay sao?
Lão già vẫn hối hả giục:
- Lẹ lên! Lẹ lên! Vào nhà đi!
Bao Bất Ðồng nói:
- Xin lão tiên sinh tùy tiện. Bao Bất Ðồng này không vào đâu. Lục muộ!...
Lão già tay trái ẵm A Bích, tay phải đột nhiên vươn ra phía trước nắm trúng huyệt đạo trước ngực Bao Bất Ðồng. Lão ra tay mau lẹ vô cùng.
Bao Bất Ðồng không kịp đề phòng nên bị lão kiềm chế được ngay.
Lão nhắc bỗng người Bao Bất Ðồng lên. Hai chân gã lên khỏi mặt đất gã không tự chủ được, lão kia liền cứ nắm lấy như vậy chạy qua cổng lớn vào nhà.
Huyền Nạn cùng Công Dã Càn đều rất lấy làm kinh ngạc toan lên tiếng hỏi, thì gã đứng tuổi làm bàn cờ khia giới khẽ nói:
- Ðại sư phụ cùng mọi người vào nhà lẹ lên có lão đại ma đầu cực kỳ lợi hại chớp mắt sẽ đến đây.
Huyền Nạn là một nhà sư nổi tiếng về thần công, khắp võ lâm ít có đối thủ được thì còn sợ gì đại ma với tiểu ma đầu.
Nhà sư liền hỏi lại:
- Ðại ma đầu nào vậy? Kiều Phong phải không?
Gã này lắc đầu đáp:
- Không phải! Không phải! Lão này còn lợi hại gấp mấy Kiều Phong chính là Tinh Tú Lão Quái đó!
Huyền Nạn ngừng một lát rồi hỏi:
- Tưởng ai chứ Tinh Tú Lão Quái thì hay quá rồi. Lão tăng đang muốn tìm y đây!
Gã nói:
- Thần công của đại sư tuy cao cường, dĩ nhiên chẳng có sợ y nhưng mấy người ở đây nếu bị y ám toán là chết hết có chăng chỉ một mình đại sư là sống được thôi. Như vậy mới thật từ bi! Gã nói mấy câu móc họng này quả nhiên rất công hiệu.
Huyền Nạn vừa nghe vừa rùng mình nghĩ bụng. Gã này nói có lý lắm, liền gật đầu:
- Ðược rồi! Vậy thì chúng ta vào nhà hết.
Lúc này sư phụ A Bích đã đem nàng cùng Bao Bất Ðồng đặt xuống rồi chạy ra.
Lão gịuc luôn miệng:
- Lẹ lên! Lẹ lên! Còn đợi gì nữa?
Lão đưa mắt nhìn thấy trong đám người này có Phong Bá Ác ra chiều bướng bỉnh, liền xoay tay trái qua mé hữu quét ngang cổ gã.
Phong Bá Ác tuy là tay háo chiến, nhưng lão không ngờ đến lão sư phụ của Lục Muội nói đánh là đánh luôn. Lúc này khí hàn độc trong người gã lại bắt đầu lên cơn, nên lại càng khó chống. Gã vừa trông thấy tay lão đánh lại vội vàng cúi đầu xuống né tránh. khôn gngơi tay tráo lão không phóng chưởng ra , đột nhhiên vòng về bên hữu rồi chụp xuống nắm được sau gáy Phong Bá Ác, miệng lão vẫn giục:
- Lẹ lên! Lẹ lên vào nhà đi! Lão xách Phong Bá Ác chẳng khác xách con gà chạy ngay vào nhà.
Công Dã Càn trong lòng rất khó chịu vì hai người anh em mình bị lão già chỉ ra một chiêu đã tóm cổ xách đi. Tuy lão là sư phụ A Bích chứ không phải người dưng, nhưng tiếng tăm Mộ Dung Cô Tô bấy lâu lừng lẫy giang hồ. Thanh danh Mộ Dung công tử là thế mà bọn thuộc hạ lại kém cỏi như vậy, nhất là ở trước mặt chư tăng chùa Thiếu Lâm thì thật là mất thể diện rất nhiều.
Huyền Nạn nhìn vẻ mặt Công Dã Càn liền đoán biết ngay tâm sự gã. Chính nhà sư thấy lão kia liên tiếp chế phục Bao Bất Ðồng bằng một thủ pháp mau lẹ vô cùng thì biết rằng bản lãnh lão này chẳng kém gì mình. Thế mà lão phải sợ Tinh Tú lão quái như vậy, chắc là lão quái kia phải là tay ghê gớm vô cùng, mình không thể coi thường được.
Nhà sư liền bảo Công Dã Càn:
- Công Dã Càn thí chủ! Chúng ta hãy vào nhà rồi sẽ bàn định kế họach lâu dài.
Sáu nhà sư hàng chữ Tuệ khiêng thi thể Huyền Thống lên, Công Dã Càn thì ẵm Ðặng Bách Xuyên chạy lẹ vào nhà.
Sư phụ A Bích lại chạy ra lần nữa để túc giục ngưng thấy mọi người đã chạy vào nhà cả rồi vội đóng sập cửa lại, và toan đóng cổng cài then, thì gã sử bàn cờ nói:
- Ðại ca! Ta cứ để ngỏ cổng hay hơn. Ðó là kế: "Thực giả tư chi, hư giả thực chi." Chắc địch không biết thực hư ra sao không dám hiên ngang sấn vào. Lão kia đáp thế cũng phải. Ta nghe lời ngươi. Tuy lão nói vậy nhưng giọng nói không có vẻ gì tự tin ở minh.
Huyền Nạn cùng Công Dã Càn đưa mắt nhìn nhau và đều tự hỏi:
- Lão này võ công cao cường đến thế sao lúc lâm sự lại hoang mang cuống quýt lên như vậy? Lão không còn chút chi bình tĩnh để xét đoán. Cái cửa mỏng manh này đối với quân đạo tặc tầm thường còn chưa giữ nổi, huống chi đối với Tinh Tú Lão Quái, một lão ma đầu khét tiếng, thì dù cửa có đóng hay không phỏng ăn thua gì? Xem thế đủ biết lão này đã bị Tinh Tú Lão Quái làm nhiều phen thất điên bác đảo, chẳng khác gì con chim phải tên sợ làn cây cung, nên lão mới được tin Tinh Tú Lão Quái đến gần đã kinh hồn táng đởm.
Hai người còn đanh ngẫm nghĩ bỗng nghe lão gãy đàn giục luôn miệng:
- Lục đệ! lục đệ tính sao đây?
Huyền Nạn tuy là một vị cao tăng đăc đạo đã tu tâm dưỡng tính cực kỳ trầm tĩnh, nhưng thấy lão này hoảng sợ cuống cuồng thì không khỏi nổi nóng lên tiếng hỏi:
- Lão trượng ơi! Người ta thường nói:
nước chảy ùa vào thì lấy đất đắp ngăn lại mà quân giặc đến thì tướng ra kháng cự. Dù Tinh Tú Lão Quái độc ác lợi hại đến đâu, tất cả mọi người chúng ta hợp sức lại cự địch vị tất thua hắn cả. Sao lão trượng phải... hoang mang và... quá lo xa đến thế?
Nên biết rằng trên chốn giang hồ, người ngoài dùng đến chữ sợ hãi nhát gan là một điều tối kỵ. vì vậy mà nhà sư phải đổi lại là quá lo xa.
Lúc này trên nhà khách sảnh đã thắp đèn sáng. Huyền Nạn đưa mắt nhìn mọi người thì chẳng những lão gãy đàn là tỏ vẻ sợ sẹt mà cả đến gã bàn cờ, gã đồ gàn, gã phan quan bút ai nấy đều run lên bần bật.
Huyền Nạn đã được mục kích bọn người này động thủvà biết bản lãnh không phải tầm thường, Hơn nữa bọn này ai cũng giở điên giở khùng, bất luận việc gì cũng cho là thường, họ nhìn tấn tuồng đó như những trò chơi tiêu khiển. Thế mà đột nhiên biến thành những con người hoang mang, lo lắng khác nào những kẻ hèn nhát vô dụng tầm thường không biết đâu mà nói.
Bỗng thấy gã thợ mộc xử búa gật đầu, lấy trong bọc ra một cái thước gấp cầm tay đo góc nhà đại sảnh, mọi người cũng theo sau để coi gã làm gì, thì thấy gã để ý nhìn bốn góc. Ðột nhiên gã tung người nhảy lên đo hoành nhà xong rồi lại lắc đầu nhảy xuống.
Gã chạy vào nhà trong đến trươc cổ quan tài hờ của Tiết Thần Y. Gã đưa mắt nhìn mấy lần rồi nói:
- Ðáng tiếc! Thực là đáng tiếc!
Lão gãy đàn hỏi:
- Không... không dùng được việc gì ư?
Gã sử búa đáp:
- Không được rồi, nhất định sư thúc sẽ nhận ra.
lão gãy đàn tức mình nói:
- Ngươi... Ngươi còn gọi y là sư thúc ư?
Lão sử búa lắc đầu rồi không nói nữa. Ðoạn đi sâu mãi phía sau nhà.
Công Dã Càn lẩm bẩm:
- Thằng cha này ngoài cái nghề lắc đầu ra tựa hồ như hắn không con làm được trò trống gì nữa?
Gã xử búa lại đo goác tường phía sau rồi vừa đi vừa đếm bước chân, trông chẳng khác gì người thợ đang tính toán để xay nhà cửa phòng ốc.
Gã vào vườn sau tay cầm cây đèn nến, ngưng thần suy nghĩ hồi lâu rồi đi vào dãy hành lang có đặt năm cái cối đá. Gã trầm ngâm một lúc đặt cây đèn cầy xuống đất, đến bên cái cối thứ hai ở mé tả. Gã lấy một ít trầu và mấy nắm đất bỏ vào trong cối đá. gã cầm một cái chày đá lớn ở bên cạnh để giã vào lòng cối boong boong. Cái chày đá này rất nặng, mỗi lần giáng xuống sức mạnh vô cùng.
Công Dã Càn khẽ thở dài một tếng lẩm bẩm:
- Chuyến này mình thật xúi quẩy gặp phải bọn điên rồ. Lúc này chúng còn đi giã gạo được mới kỳ. Nếu quả trong cối có gạo thì chẳng nói làm chi nhưng mình thấy rõ ràng họ bỏ trấu cùng đất vào cối giả chơi! Hỡi ơi may mà Ðặng Bách Xuyên sau khi trúng độc mạch vẫn điều hòa chỉ tựa như người say rượu ngủ li bì, không có gì là nguy hiểm.
Boong! Boong! Boong tiếng giã gạo vang lên đều đặn và không ngớt.
Giả chừng mấy chục chày thì đột nhiền về góc Ðông nam trong vườn hoa cách độ bảy tám trượng bỗng phát ra tiếng lách cách.
Tiếng này rất nhỏ nhẹ song Huuyền Nạn và Công Dã Càn tai thính vô cùng hơi có tiếng gì lạ là nghe thấy ngay.
Mọi người đảo mắt nhìn ra thì thanh âm này từ bốn gốc quế vọng lại.
Boong! Boong! Gã xử búa vẫn liên tiếp giã gạo. Một điều kỳ dị xảy ra:
Gốc quế thứ nhì ở mé đông tựa hồ như chuyển động nhích ra dần. Một lúc nữa mọi người đều nhìn rõ, thì ra gã xử búa cứ mỗi chày nện xuống cối thì một lần cây quế lại chuyển động nhích đi một tấc hay nửa tấc.
Lão gãy đàn khẽ cất tiếng hoan hô rồi trông về phía cây quế đó chạy ra. Lão khẽ nói:
- Ðúng rồi! Ðúng rồi!
Mọi người cũng theo đi, thì thấy chỗ gốc quế dời đi, lộ ra một phiến đá lớn. Trên phiến đá này có một cái vòng sắt để cầm.
Công Dã Càn xiết bao kinh ngạc, bội phục gã xử búa và tự lấy làm xấu hổ, Y tự nhủ:
- Cơ quan ở dưới đất này an bài một cách tuyệt diệu, thật là mình không ngờ họ tinh vi đến thế gã xử búa mới trong khoảnh khắc mà đã phát giác ra được chỗ then chốt cơ quan. Thế thì gã thông minh tài trí chẳng kém gì cái người đã bố trí ra cơ quan này.
Gã xử búa lại giã mười mấy chày nữa thì cả phiến đá hoàn toàn lộ ra.
Lão gãy đàn nắm lấy vòng sắt kéo mạnh lên, nhưng không nhúc nhích được tí nào. Lão toan vận động hết nội lực để kéo lần thứ hai tì gã xử búa la lên:
- Ðại ca! Hãy dừng tay!
Gã tung người, mình nhảy đến bên một chiếc cối đá khác, vạch quần ra tiểu vào trong cối này. Ðồng thời gã hô lớn:
- Xin các vị mau lại đi tiểu vào đây!
Lão gãy đàn kinh ngạc, vội bỏ ngay vòng sắt ra chạy đến.
Chớp mắt gã xử bàn cờ, gã đồ hàn gã xử phán quan bút và lão gãy đàn cùng lão xử búa nhất tề đi tiểu vào trong cối đá.
Giả tỷ ở vào hoàn cảnh khác mà bọn Công Dã Càn thấy năm người này đi tiểu vào cối như lũ điên rồ thì không thể nhịn được phải cười đến nẻ ruột.
Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, mọi người đều ngửi thấy có mùi thuốc súng xông lên.
Gã xử búa mừng rỡ nói:
- Hay lắm không còn gì nguy hiểm nữa rồi!
Riệng mình lão gãy đàn là bọng đái lớn hơn cả. Lão đi tiểu mãi không hết nước, miệng lão nói lảm nhảm:
- Chết chưa! Chết chưa! Thế thì phá xong một cơ quan. Lục đệ! Nếu không có lục đệ điều tra ra cơ quan một cách nhanh chóng thì hết thảy chúng ta đều bị nổ nát như cám.
Bọn Công Dã Càn cũng bất giác sợ run. Sau ngửi thấy mùi thuốc súng khét lẹt ai cũng hiểu rằng trong giây phút vừa rồi, mọi người đã trải qua cơn đại nạn.
Hiển nhiên dưới vòng sắt họ đã để thuốc nổ và tra ngòi sẵn. Chỉ cần châm cái ngòi cháy lên, thuốc súng sẽ nổ tung. Thật là một thủ đoạn cực kỳ lợi hại do đối phương bố trí để hại người. May mà gã xử búa mau trí khôn kêu mọi người đi tiểu làm ướt nhòi súng nên mới thoát khỏi tai nạn.
Lại thấy gã xử búa đi tới cái cối đá đầu tiên ở bên hữu... Gã vận nội lực vần cái cối đá chuyển về mé hữu ba vòng. Gã ngẩng mặt trông trời, miệng lẩm bẩm khẩu quyết, lặng lẽ tính toán một lúc. Ðoạn gã lùi dần cái cối đá này về mé tả chuyển đi sái nửa vòng, thì bỗng nghe thấy những tiếng lách cách.
Tảng đá lớn trụt xuống để hở ra một cửa động.
Lần này lão gãy đàn không dám hấp tấp chui vào ngay. Lão nhìn gã xử búa vẫy tay ra hiệu nhờ dẫn đường.
Gã xử búa quỳ xuống đất để ý nhìn cái cối đá ở mé tả thì đột nhiên trong lòng đất có thanh âm phát ra và rõ ràng là lời thóa mạ:
- Tinh Tú Lão Quái! Mẹ nó đồ con chó! Nếu mi mà tìm thấy thì ta cho mi là giỏi!
Mi quen làm những trò độc ác, tất nhiên sẽ có ngày chịu quả báo. Vào đây! Vào đây mà giết ta đi!
Huyền Nạn nghe rõ là thanh âm Tiết Thần Y thì mững thầm trong bụng.
Bỗng nghe Lão gãy đàn gọi:
- Ngũ đệ! Chúng ta đến cả rồi!
Thanh âm trong lòng đất ngưng một lát hỏi lại:
- Có thật đại ca đó chăng?
Lão gãy đàn đáp:
- Nếu không có Lục đệ thì không tài nào mở được cơ quan này.
Bỗng nghe vèo một tiếng. Từ trong thach động một người nhảy vọt ra chính là Diêm Dương Ðịch Tiết Thần Y!
Tiết Thần Y không ngờ ngoài lão gãy đàn cùng mấy người anh em kết nghĩa, lại còn có vô số người ngoài, thì không khỏi giật mình.
Lão gãy đàn nói:
- Bây giờ không nói nhiều lời nữa. Ngươi đem ngay thất Muội cùng đồ đệ ta vào hầm để chữa cho chúng. Trong đó có đủ chỗ không?
Lão vừa nói vừa đưa tay trỏ vào cửa động.
Tiết Thần Y nhìn Huyền Nạn hỏi:
- Ðại sư! Ðại sư đã đến đây ư? Mấy vị này là ban hữu cả đấy chứ? Huyền Nạn ngần ngừ một lát rồi đáp:
- Phải rồi cùng bạn bè cả đấy mà.
Nguyên là chùa Thiếu Lâm đã nhận định rằng là Huyền Bi đại sư chết về tay họ Mộ Dung ở Cô Tô. Như vậy thì bè lũ Mộ Dung đều là những kẻ cừu địch. Nhưng lần này nhà sư đi với bọn Ðặng Bách Xuyên đến đây để xin chữa thuốc, dọc đường Ðặng Bách Xuyên và Công Dã Càn đã hết sức trần tình Huyền Bi đại sư quyết không phải bị Mộ Dung công tử hạ sát. Vì thế mà Huyền Nạn đại sư đã tin họ đến sáu bảy phần. Hơn nữa, chuyến này bọn họ cũng gặp tai nạn như bọn mình thì cũng là cùng hội cùng thuyền với nhau, nên nhà sư nhìn nhận bọn Ðặng Bách Xuyên cũng là bạn bè với mình. Công Dã Càn nghe Huyền Nạn nói vậy thì nhìn nhà sư gật đầu tỏ ý đồng tình chứ không nói gì.
Tiết Thần Y nói:
- Dưới này có chỗ rộng, xin các vị xuống cả đây. Nào mời Huyền Nạn đại sư đi trước cho!
Tuy y nói vậy nhưng y tiến vào trong hầm trước tiên. Nên biết rằng đường hầm tối mò này rõ là một nơi nguy hiểm vô cùng mà người trên chốn giang hồ thường xảo trá khôn lường, chẳng ai tin được ai. Chính mình vào trước mới đúng lề đón khách.
Tiết Thần Y vào rồi, Huyền Nạn không tỏ vẻ gì ngần ngại, theo sau đi xuống luôn.
Mọi người lục tục theo sau Huyền Nạn đại sư. Cả thi hài Huyền Thống đại sư cũng khiêng xuống hầm.
Tiết Thần Y bấm nút cơ quan, phiến đá tự nhiên đóng lại. Y còn chuyển động cơ quan cho các cây quế đã di chuyển ra chỗ khác lại chuyển về chỗ cũ ngay trên phiến đá.
Bên trong là một đường hầm đá mơi khoét ra mọi người phải cúi lom khom đi mới khỏi đụng đầu.
Ðoàn người đi trong khoảnh khắc thì đường hầm cao lên dần dần và đi tới quãng đường địa đạo thiên nhiên.
Ði chừng được hai mươi trượng thì đến một thạch động rộng rãi. Trong góc thạch động gần ánh lửa sáng đã có đến hơn hai mươi người ngồi đó, đủ cả trai gái già trẻ.
Những người này nghe có tiếng bước chân đi vào đều ngoảnh đầu nhìn ra.
Tiết Thàn Y giới thiẹu:
- Ðây là những người nhà tại ha, . Gặp lúc nguy nan không ai dám ra ngoài làm lễ bái kiến. Ðại ca! Nhị ca! Hai vị đến có việc chi?
Y vẫn giữ bản sắc thầy lang không chờ lão gãy đàn đã lại coi thương thế mọi người ngay.
Tiết Thần Y coi người đầu tiên là Huyền Thống đại sư rồi nói:
- Vị đại sư này giác ngộ mà viên tịch. Thật là một việc đáng cung hỉ!
Y tới xem Ðặng Bách Xuyên rồi mỉm cười:
- Thất Muội tại hạ có thứ phấn hương khiến cho người hít phải sảy rồi ngã lăn ra. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc là tỉnh lại chứ không có chất độc gì cả.
Thiếu phụ đứng tuổi xinh đẹp cùng gã kép hát đều bị ngoại thương. Tuy thương thế trầm trọng nhưng Tiết Thần Y côi rồi cho là tầm thường.
Khi xem đến A Bích thì la hoảng:
- Quả nhiên Tinh Tú Lão Quái... đã đến đây! Chất độc này của lão... lợi hại vô cùng! Tại hạ không thể chữa được rồi!
Công Dã Càn la lên một tiếng ủa rồi nói:
- Dù sao cũng xin Tiết Thần Y cứu giùm cho!
Bỗng nghe tiếng lão gảy đàn tru lên khóc nức nở Gã đồ gàn nói:
- Ðại ca! Thầy Trang Tử có câu: "Những bậc chân nhân đời xưa không ưa sống mà cũng không ghét chết." Ðồ đệ đại ca trúng phải chất độc của sư thúc. Nếu quả nhiên không thể chữa cho y khỏi được thì cũng là tới số. Can chi đại ca phải khóc ròng?
Lão gãy đàn tức giận nói:
- Tên đồ đệ ngoan ngoãn của ta đã cách biệt ta trong tám năm trời, bữa nay mới đưọc trùng phùng. Nếu nó chết đi lẽ nào ta lại không đau xót? A Bích con ơi! Con Ðừng chết, muôn ngàn lần con không nên chết!
Công Dã Càn cùng Bao Bất Ðồng nhìn A Bích thì chỉ thấy sắc mặt nàng đỏ hồng song vẻ hồng hào trông rất đáng buồn vì da thịt dường như rướm máu tươi.
Công Dã Càn hỏi:
- Tiết thần Y! Người nghĩa Muội của tại hạ đây bị trúng chất độc gì vậy?
Gã đồ gàn tiếp lời:
- Tiểu cô nương đây là đồ đệ đại ca ta. Ta là sư thúc nàng. Người mới là nghĩa huynh nàng kể về tình nghĩa kết giao thì người còn là vai dưới chúng ta một bậc. Ðức Khổng Tử đã nói: "Danh có chính thì ngôn mới thuận" ngươi phải kêu ta là sư thúc mới hợp lý. Thế mà mi đem gọi xách mé một điều Tiết Thần Y hai điều Tiết Thần Y như người ngang hàng. Sao không biết kêu bằng Tiết sư thúc?
Lúc này Tiết Thần Y đã coi mạch cho Bao Bất Ðồng cùng Phong Bá Ác. Lão nhắm mắt ngoẹo cổ, suy nghĩ mong lung. Người ngoài không ai dám kinh động luồng tư tưởng của y. Nên gã gãy đàn muốn khóc thế nào thì khóc, gã đồ gàn muốn nói ba hoa thế nào thì ba hoa chẳng ai thèm đếm xỉa gì đến.
Tiết Thần Y ngẫm nghĩ hồi lâu rồi lắc đầu nói:
- Lạ thật! Lạ thật! không hiểu kẻ nào đã đánh hai vị huynh đài đến nổi bị thương thế này?
Công Dã Càn đáp:
- Ðó là một gã thiếu niên đầu chụp lồng sắt.
Tiết Thần Y lắc đầu nói:
- Thiếu niên cóc gì? Có lý nào lại là thiếu niên được? Người này võ công gồm đủ những sở trường của hai phe chính tà. Nội lực y mới lại càng thâm hậu? Ít ra là phải rèn luyện ba mươi năm trở lên. Thế thì sao gọi là thiếu niên được?
Huyền Nạn nói:
- Gã này đã từng đến nằm vùng trong chùa Thiếu Lâm, thế mà bọn bần tăng chưa phát giác ra, nên hễ ngĩ đến là mắc cỡ chết đi được!
Tiết thần Y nói:
- Mắc cỡ ư? Các vị thì việc móc gì mà mắc cỡ? Hai vị huynh đài đây mắc phải chất hàn độc, lão phu không chữa được mới tức chứ? Hai chữ "Thần Y" từ nay không dám dương danh với thiên hạ nữa!
Thốn nhiên một thanh âm oang oang như tiếng chuông đồng nói:
- Tiết tiên sinh! Nếu vậy thì chúng tôi xin cáo từ thôi!
Người nói đó chính là Ðặng Bách Xuyên. Y bị trúng phấn hương chỉ ngã ra rồi mê man bất tỉnh. Nhưng nội lực rất thâm hậu, bây giờ y đã tỉnh lại rồi.
Bao Bất Ðồng tiếp theo:
- Phải rồi! Phải bậc đại trượng phu coi cái sống chết là do mệnh trời. Chui rúc ở dưới hầm này làm cóc gì? Chẳng lẽ làm người cũng học thói con rùa đen hay con chuột đồng, ẩn nấp vào trong hang trong hốc?
Tiết Thần Y nghe Bao Bất Ðồng nói móc, cườilạt hỏi:
- Coi bộ thí chủ ăn nói trường ba khoát bảy ra vẻ anh hùng lắm. Thí chủ có biết ai ngoài kia không?
Phong Bá Ác đáp thay:
- Các vị sợ Tinh Tú Lão Quái, chớ tại hạ sợ cóc gì lão? Các vị bản lĩnh cao cường thật là uổng quá! Mới nghe cái tên Tinh Tú Lão Quái đã kinh hồn tán đởm!
Lão gãy đàn khẽ vỗ vai A Bích vừa khóc vừa nói:
- A Bích con ơi! Có ngờ đâu người sát hại con chính là sư thúc con? Sư phụ con không đủ bản lãnh để báo thù cho con rồi!
Công Dã Càn nghe bọn này đều kêu Tinh Tú Lão Quái là sư thúc thì lấy làm quái dị, nghĩ thầm: Trước khi rời khỏi nơi đây cần phải điều tra cho biết rõ lai lịch bọn này. Có thế mới mong tìm cách cứu chữa được Lục Muội.
Công Dã Càn nghị vậy liền hỏi:
- Các vị ai cũng xưng hô Tinh Tú lão Quái bằng sư thúc. Vậy các vị đây là những nhân vật thế nào?
Nguyên A Bích tuy ở trong phủ Mộ Dung lâu năm cùng Công Dã Càn kết nghĩa anh em, nhưng y chưa từng hỏi đến lai lịch sư môn nàng bao giờ. Nàng không nói ra nên y cũng không biết.
Huyền Nạn nói vào:
- Những điều lão tăng mắt thấy tai nghe bữa nay thật là nhiều chỗ không hiểu, lão tăng cũng đang muốn thỉnh giáo.
Tiết Thần Y nói:
- Bọn sư huynh, sư đệ chúng tôi có tám người gọi đùa là "Hàm Cốc Bát Hữu."
Y trỏ lão gảy đàn nói tiếp:
- Vị này là sư huynh chúng tôi. Tại hạ đứng hàng thứ năm nên gọi là lão Ngũ, còn những điều khkác thì câu chuyện quá dài lại không tiện nói với người ngoài. Mong rằng cac vị...
Y nói tơi đây thì đột nhiên có thanh âm rất nhỏ gọi:
- Tiết Mộ Hoa! Sao ngươi không ra yết kiến ta? Khang Quảng Lăng! Ngươi đang làm gì mà không gảy đàn cho ta nghe? Tiếng nói rất nhỏ thấp thoáng như có như không. Nhưng những người trong động đều nghe rõ mồn một. Người ta cảm giác tưởng chừng thanh âm này như một sợi dây vàng nhỏ li ti xỏ qua lớp đất dày đến hơn mười trượng, hoặc như dây kim tuyến luồn theo những khúc đường hầm quanh co để chui vào lỗ tai mọi người.
Lão gảy đàn la lên một tiếng:
- Ui da!
Rồi nhảy lên chồm chồm nói:
- Ðúng Tinh Tú Lão Quái rồi.
Phong Bá Ác cũng đứng phắt dậy lớn tiếng nói:
- Ðại ca! Nhị ca! Tam ca! Chúng ta quyết một trận tử chiến với hắn đi!
Lão gãy đàn vội can:
- Không được đâu! Không được đâu! Các ngươi mà ra bây giờ là uổng mạng đó! Các ngươi chết toi chẳng đáng kể gì nhưng làm tiếc lộ nhà thạch thất bí mật nàt thì tính mạng mấy chục người đây cũng bị giết lây vì tay một đứa thất phu như ngươi hay sao?
Bao Bất Ðồng nói xỏ lại:
- Tiếng hắn nói đã lọt vào được. Có lý đâu hắn lại không biết chỗ mình ngồi đây hay sao? Ngươi đúng là "Con rùa" chỉ quen lẫn lút. Nhưng thế nào hắn chẳng tìm vào tới nơi dù muốn ẩn lánh cũng không được đâu!
Lão gãy đàn nói:
- Y có tìm ra ít nhất cũng mất ba khắc hay một giờ chưa chắc đã vào được. Mình lợi dụng thời gian để lo liệu kế phải hơn.
Gãxử búa vẫn nín thinh từ nảy, bây giờ mới lên tiếng mới xen vào:
- Tuy sư thúc bản lĩnh cao cường, nhưng muốn khám cơ quan dưới hầm này, ít ra cũng mất hai giờ, lại phải tìm cách tậân thiện cũng mất hai giờ nữa.
Lão gãy đàn hỏi:
- Cứ như lời hiền điệt nói thì chúng ta còn được những bốn giờ để tìm ra kế hoạch vững chảy phải không?
Gã xử búa đáp:
- Còn được bốn giờ rưỡi nữa.
Lão gãy đàn lại hỏi:
- Sao giờ lại thêm nữa giờ nửa!
Gã xử búa đáp:
- Trong vòng bốn giờ ta bố trí được thêm ba cơ quan và còn ngăn trở đối phương thêm nửa giờ nữa.
Gã gãy đàn nói:
- Vậy thì hay lắm! Huyền Nạn đại sư! Khi lão đại ma đầu mà tới đây, bọn sư huynh, sư đệ tại hạ quyết nhiên khó lòng trốn thoát độc thủ của lão. Còn các vị là người ngoài thì không lo lắm, vì lão đại ma đầu tới đây sẽ chuyên tâm để ý đối phó với bọn tôi mà thôi. Các vị có rất nhiều hy vọng trố ra được. Có điều tôi dặn các vị nên nhớ là đừng có giở trò anh hùng hảo hán tranh đấu với lão. Ai đã gặp tay Tinh Tú Lão Quái mà còn trốn tránh được toàn mạng là anh hùng hảo hán lắm rồi!
Bao Bất Ðồng tự nhiên kêu lên:
- Thúi quá! Thúi quá!
Nghe y la hoảng như vậy mọi ngươìhít hơi mạnh để ngửi xem mà chẳng thấy mùi chi hôi thối, đều có vẻ nghi ngờ, nhìn Bao Bất Ðồng chòng chọc.
Bao Bất Ðồng trỏ lão gãy đàn nói:
- Lão này thúi quá không ngửi được.
Y vừa bị lão gãy đàn ra một chiêu đã kiềm chế được mình, trong lòng rất căm phẫn. Bản tính y là con người quật cường không biết sợ trời sợ đất là gì. Nhưng y biết rõ bản lĩnh lão này giỏi hơn mình nhiều không thể địch lại. Bây giờ y vớ được cơ hội liền buông lời chửi đỏng.
Gã xử bàn cờ lườm Bao Bất Ðồng nói:
- Ngươi đã không thoát khỏi bàn tay đại sư huynh ta thì còn nói gì đến chuyện đối phó với sư thúc ta. Bản lĩnh lão còn hơn gấp mười đại sư huynh ta. Vậy thì đứa nào thúi miệng?
Ðặng Bách Xuyên nghĩ thầm: Ngươì này nói rất có lý mà Bao tam đệ nhà mình chuyên nói bướng hoài làm mất cả thời giờ qúy báu:
- Lai lịch các vị tại hạ chưa được nghe qua nên vừa rồi có sự hiểu lầm làm bị thương nương tử đây. Tại hạ rất lấy làm ái náy. Bây giờ như người một nhà. Có điều lúc nữa cường địch vào đây thì bọn thủ hạ dưới trướng Cô Tô Mộ Dung chúng tôi đây quyết không chịu trốn tránh. Nếu cường địch ghê gớm quá mình không chống lại được thì chịu chết cả với nhau là xong.
Huyền Nạn gọi:
- Tuệ Kinh! Tuệ Thụ! Khinh công hai người đã khá. Nếu có cơ hội thì các ngươi phải ráng tìm cách trốn thoát chạy về chùa Thiếu Lâm báo tin lên phương trượng sư bá hay, đừng để cho loài yêu quái giết một mẻ hết sạch, thậm chí đến nỗi không có người đưa tin về chùa.
Hai nhà sư Tuệ Kinh Tuệ Thụ chắp tay bẩm:
- Bọn tiểu đệ xin tuân pháp chỉ của sư bá.
Lão gãy đàn cùng bọn Ðặng Bách Xuyên nghe Huyền Nạn nói phải biết rằng nhà sư đã quyết liều chết chống đối với Tinh Tú lão ma. Sở dĩ nhà sư sai Tuệ Kinh Tuệ Thụ đi báo tin là để cho chùa Thiếu Lâm biết kẻ thù là ai đặng sau này có ngày báo thù rửa hận.
Lão gãy đàn ngẩn ngơ một hồi đột nhiên vỗ tay cười nói:
- Hết thảy mọi người đều muốn chết, thì A Bích có trúng độc cũng đến chết là cùng. Ta còn thương tâm nổi gì? Hỡi ôi! Ở đời có người bảo Khang Quảng Lăng này là một lão gan toẹt. Trước nay ta vẫn tức mãi, nhưng giờ xem ra thì dẫu mình chẳng gan toẹt cũng là hạng dỡ hơi.
Bao Bất Ðồng nói:
- Ngươi đúng là đồ tồi, đồ gàn toẹt, đồ ngu xuẩn!
Lão gãy đàn tức Khang Quảng Lăng cả giận nói:
- Ta gan cũng chưa bằng ngươi.
Bao Bất Ðồng cãi:
- Ngươi gàn gấp mười ta.
Khang Quẳng Lăng quắc mắt lên nói:
- Mi còn gàn bằng vạn ta.
Bao Bất Ðồng không chịu thua cũng lớn tiếng:
- Ngươi gàn gấp mười vạn lần, trăm vạn lần, ngàn vạn lần, vạn vạn lần...! Thần Y Tiết Mộ Hoa nói:
- Thôi hai vị đừng tranh hơi cãi nhau một cách vô vị nữa. Tuệ Kinh, Tuệ Thụ hai vị sư huynh về chùa Thiếu Lâm, nếu phương trượng đại sư có hỏi đến tiền nhân hậu quả, tại hạ e rằng hai vị không biết đường mà trả lời. Việc này chẳng qua là một điều bỉ ổi trong bản phái chúng tôi, lẽ ra không nên nói với người ngoài. Nhưng nói về việc trừ diệt mối đại họa cho các bạn võ lâm mà không được những vị cao tăng chùa Thiếu Lâm chủ trương đại cuộc thì khó bề thành công được. Tại hạ xin nói rõ là rất mong hai vị chỉ bẩm vụ này riêng với một mình phương trượng quý tự mà thôi, đừng tiết lộ cho người khác biết.
Tiết Mộ Hoa quay lại bảo Khang Quảng Lăng:
- Ðại sư huynh! Tiểu đệ muốn đem đầu đuôi vụ này nói rõ cho các đại sư hay.
Khang Quảng Lăng tuy bậc huynh trưởng mấy người kia, bản lãnh cũng là hay hơn hết, nhưng lại kém về quyết đáp mọi việc. Sở dĩ Tiết Mộ Hoa hỏi qua một tiếng như vậy là cốt giữ thể diện cho y trước mặt người ngoài.
Khang Quảng Lăng không hiểu ý Tiết Mộ Hoa, nói ngay:
- Lão ngũ nói gì mà kỳ vậy? Ngươi có miệng lưỡi muốn nói gì thì nói, hà tất phải hỏi ta?
Tiết Mộ Hoa nói:
- Huyền Nạn đại sư! Ðặng sư phụ! Vị ân sư mà chúng tôi theo nghiệp, anh em võ lâm kêu bằng Thông Biện tiên sinh!...
Huyền Nạn cùng Ðặng Bách Xuyên sửng sốt đồng thanh hỏi:
- Sao?
-
Hồi 59 - Tiết Thần Y Kể Chuyện Đồng Môn - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 59 - Tiết Thần Y Kể Chuyện Đồng Môn
Nguyên Thông Biện tiên sinh tức là Lung Ác lão nhân (ông già câm điếc) tai lão điếc lòi, miệng lão câm đặc, lão lấy danh hiệu là Thông Biện tiên sinh. Bọn đồ đệ trong môn phái lão đều bị lão chọc thủng lá nhỉ cho điếc, cắt đầu lưỡi cho câm. Chuyện này trên chốn giang hồ ai cũng biết rõ. Ðã là đệ tử lão quyết không có một người nào là không câm điếc. Thế mà bọn Khang Quảng Lăng ai cũng tinh mắt tai thính nói năng hoạt bát hơn cả người thường nhiều nên mọi người rất lấy làm kỳ!
Tiết Mộ Hoa nói:
- Các đệ tử dưới trướng gia sư thảy đều câm điếc nhưng chỉ những người nhập môn sau trong vòng ba mươi năm nay mà thôi, còn trước kia gia sư không điếc mà cũng không câm. Số là gia sư bị sư đệ người là Tinh Tú lão quái Ðinh Xuân Thu khiêu khích mà biến thành câm điếc.
Bọn Huyền Nạn bấy giờ mới vỡ lẽ đồng thanh nói:
- À ra thế đấy.
Tiết Mộ Hoa lại nói:
- Tổ sư tại hạ thu nạp hai vị đồ đệ: Ðại đệ tử họ Tô tên gọi Tinh Hà. Vị này là gia sư. Nhị đệ là Ðinh Xuân Thu. Ban đầu võ công cả hai vị xuýt soát nhau. Nhưng về sau thì có kẻ hơn người kém.
Bao Bất Ðồng nói xen vào:
- Hà hà! Nhất định sư thúc tiên sinh là Ðinh Xuân Thu bản lãnh giỏi hơn sư phụ tiên sinh rồi. Ðiều đó tiên sinh chả cần nói chúng tôi cũng đã biết.
Tiết Mộ Hoa nói:
- Nói đúng ra thì không phải vậy. Nguyên tổ sư tại hạ học hỏi cả về trên trời cho đến nhân gian. Sở học của người thật là bao la bát ngát...
Bao Bất Ðồng nói:
- Tiên sinh nói thì chúng tôi cũng biết vậy thôi, chứ chẳng lấy gì làm tang chứng làlão học rộng.
Tiết Mộ Dung biết tính Bao Bất Ðồng là hay bắt bẽ bài báo nên lão không cãi lẽ với y, lão liền kể tiếp:
- Ban đầu sư phụ tại hạ cùng Ðinh Xuân Thu đều học chuyên về võ công. Nhưng về sau sư phụ tại hạ phân tâm học thêm ngón đàn của tổ sư nữa.
Bao Bất Ðồng nhìn Khang Quảng Lăng nói:
- Ha ha! Té ra tiếng đàn của Khang tiên sinh học được ở quỷ môn tà đạo.
Tiết Mộ Hoa nói:
- Giả tỉ sư phụ tại hạ chỉ học thêm ngón đàn nữa thì cũng không có gì đáng ngại lắm. Nhưng tổ sư tại hạ học rộng đủ thứ cầm kỳ thi họa, bốc tướng số cùng các công nghệ tạp nhạp, chẳng món gì là không biết, chẳng nghề nào là không tinh. Sư phụ tại hạ bắt đầu học đánh đàn chẳng bao lâu lại học đến đánh cờ, rồi quay ra học thủ pháp (phép viết chữ) cùng hội họa. Các vị thử tưởng xem: Những môn học này môn nào chả tốn phí rất nhiều tâm lực cùng ngày giờ?
Ngừng một lát Tiết Mộ Hoa lại kể tiếp: Lúc ban đầu Ðinh Xuân Thu cũng giả vờ học tập môn ngoại lệ đó, nhưng môn nào y cũng chỉ học mười ngày hoặc nửa tháng rồi nói thoái thát là ngu độn không thể học được và bảo chỉ chuyên tâm về võ công mà thôi. Tình trạng này kéo dài mãi đến tám năm, mười năm rốt cuộc thời gian càng lâu thì võ công hai vị sư huynh, sư đệ càng phân rõ cao thấp.
Huyền Nạn đại sư gật đầu nói:
- Nguyên một môn đàn cùng đánh cờ cũng đã hao tổn đến nửa phần tĩnh lực của con người rồi còn gì. Thế mà Thông Biện tiên sinh kiêm thông được bấy nhiêu thứ thì quả là hiếm có. Còn Ðinh Xuân Thu chỉ nhất tâm chuyên về võ công nên lão có bản lãnh trội hơn sư huynh cũng chẳng lấy chi làm kỳ.
Khang Quảng Lăng nói:
- Lão ngũ! Còn có một điều rất khẩn yếu, sao không nói ra? Kể nốt đi! Mau lên!
Tiết Mộ Hoa nói:
- Ðinh Xuân Thu chỉ chuyên vào môn võ học cũng là một chuyện hay. Nhưng mà... Hỡi ôi! Chuyện này nói ra là vạch áo cho người xem lưng chẳng tốt đẹp gì cho sư môn. Tóm tắt là Ðinh Xuân Thu còn chuyên đi học những thủ đoạn đê hèn của mấy môn tà phép cực kỳ lợi hại của mấy phái bỉ ổi. Thế rồi đột nhiên lão quay về đánh tổ sư tại hạ đến bị trọng thương. Lão cố ý muốn giết tổ sư song tổ sư tại hạ là một bậc kỳ nhân, bản lãnh hơn người dù người không kịp đề phòng, bị đệ tử đánh bất ngờ cướp mất thượng phong song Ðinh Xuân Thu muốn hạ sát không phải chuyện dễ.
Ngừng một lát Tiết Mộ Hoa kể tiếp:
- Ðinh Xuân Thu đánh tổ sư bị trọng thương rồi. Tổ sư phải vất vả lắm mới chống đỡ được. Cũng may là sư phụ tại hạ đến cứu kịp thời.
Nhưng lúc Ðinh Xuân Thu khởi sự, lão đã bố trí rất cẩn mật huống chi sư phụ tại hạ bản lãnh không bằng lão. Sau một lúc ác chiến sư phụ tại hạ cũng bị thương còn tổ sư lăn xuống vượt thẳm không hiểu sống chết thế nào?
Ngừng một lát như nén xúc động Tiết Mộ Hoa lại nói:
- Sư phụ tại hạ vì tham học nhiều môn quá mà chểnh mãng võ công. Nhưng những môn khác kẻ ra cũng không hoàn toàn vô dụng. Gặp lúc nguy nan đó, sư phụ tại hạ lại giở thuật ngũhành bát quái cùng kỳ môn độn giác dùng cát đá làm loạn tai mắt Ðinh Xuân Thu rồi trốn thoát được.
Tiết Mộ Hoa ngẫm nghĩ một lát rồi nói tiếp:
- Ðinh Xuân Thu lại lừa bip tiểu sư phụ tại hạ:
- Nếu đừng mở miệng nói một câu gì nữa thì về sau lão không tìm đến rửa hận nữa. Hồi đó dưới trướng sư phụ tại hạcó thảy tám người chúng tôi là đệ tử chưa thành tài. Gia sư viết giấy giải tán chúng tôi không nhận làm độ đệ nữa. Từ đó quả nhiên người giả vờ làm câm làm điếc không nói gì nữa và ai nói gì cũng không nghe. Về sau gia sư có thu nạp đệ tử nhưng đều chọc tai cắt lưỡi hết để lập ra một môn phái riêng là tên là "Lung Á Môn." Chắc sư phụ chúng tôi cũng hối hận về chuyện mình đã phân tâm đi học những nghề tạp nhạp khác để đến nỗi võ công không bằng Ðinh Xuân Thu.
Sau khi câm điếc dĩ nhiên bao nhiêu môn tạp nhạp đều bỏ hết.
Tiết Mộ Hoa thở dài rồi kể tiếp:
- Bọn sư huynh, sư đệ chúng tôi tám người khi còn thụ nghiệp ân sư thì ngoài việc luyện võ, mỗi người đều học thêm một môn khác nữa. Ðây là nói về trước khi Ðinh Xuanâ Thu phản thầy, gia sư chưa trông rõ cái hại lớn về chuyện phân tâm đi học những môn khác. Chẳng những người không ngăn cấm lại còn khuyến khích võ gia công chỉ điểm cho Khang Quảng Lăng là đại sư huynh bắt đầu học ngón đàn.
Tiết Mộ Hoa lại trỏ gã sử dụng bàn cơ nói:
- Nhị sư huynh là Phạm Bách Linh đây thì học đánh cờ vây, và đã trở thành một tay quốc thủ vô địch. Hiện nay y là tay kỳ thủ giỏi nhất thiên hạ.
Bao Bất Ðồng đảo mắt ngó Phạm Bách Linh rồi nói:
- Không trách tiên sinh dùng bàn cờ làm binh khí. Có điều bàn cờ của tiên sinh lại đúc bằng thứ thép có chất nam châm chuyên môn dùng để hút binh khí của người ta. Như vậy tưởng cũng chỉ là thứ khôn vặt, không phải hành vi của bậc chính nhân quân tử.
Phạm Bách Linh cãi:
- Về thuật đánh cờ có thế trân đường hoàng, có binh tướng hẳn hoi, nó chỉ diệu ở chỗ kỳ bí, nên không cấm kỳ những cơ mưu thần bí giả tà như phép dùng binh vậy...
Tiết Mộ Hoa cũng nói hùa theo:
- Cái bàn cờ của Phạm nhị ca sở dĩ đúc bằng thép có nam châm, nguyên là để áp dụng vào thuật đánh cờ. Sau một thời gian nguyên cứu rồi là bất luận là đang đi đường hay nằm ngồi, đột nhiên y tưởng đến một thế cờ, là bày quân đen, quân trắng ra bàn cờ có chất nam châm. Con cờ đúc bằng sắt thì dù là đang xe hay đi ngựa, chuyển động mạnh cũng không rơi mất quân cờ vì đá nam châm hút sắt chặt vào đấy. Tiến thêm một bước nữa, y thấy dùng bàn cờ làm binh khí lại càng thuận tiện. Lúc mãi nghĩ nước cờ để làm ám khí thì thật tiện cả mọi bề. Thực ra không phải bản tâm đúc bàn cờ để chiếm đoạt tiện nghi của người khác.
Bao Bất Ðồng là người có tư tưởng kỳ khôi. Y nghe câu chuyện này lấy làm thú vị và trong lòng cũng rất đồng tình nhưng ngoài miệng vẫn bài bác y nói:
- Về vụ này lý lẽ vẫn chua xuôi thật là lời biện bác miễn cưỡng Phạm lão nhị bản lãnh đã cao cường lại như vậy. Nếu lão nhị dùng bàn cờ gỗ rồi lấy quân cờ sắt chỉ sâu xuống khác nào người khảm quân vào bàn cờ thì quân cờ còn rớt ra thế nào được.
Tiết Mộ Hoa nói:
- Làm như vậy không tiện bằng bàn sắt quân sắt.
Rồi lão lại kể tiếp:
- Tam sư huynh! Tại hạ là Tuân Tản Tinh thích đọc sách. Bách gia chu tử không sách nào là không qua mắt thật là một vị túc nho học vấn rất uyên thâm, tưởng các vị cũng đã biết rồi.
Bao Bất Ðồng nhớ đến câu chuyện Gia Cát thiện chiến quần nho ở Ðông Ngô, liền nói móc:
- Cái nho của kẻ tiểu có chi là đáng kể.
Tuân Tản tức giận hỏi:
- Sao? Ngươi bảo ta hạng nho sinh tiểu nhân. Chẳng lẽ ngươi tự nhận là nho quân tử ư?
Bao Bất Ðồng nói:
- Tại hạ không dám đâu, không dám đâu?
Tiết Mộ Hoa sợ hai người đi đến chỗ cải lý thì e rằng đến ba ngày ba đêm cũng không xong, liền cắt ngang câu chuyện. Lão trỏ gã xử phán quan bút nói:
- Vị này là tứ sư huynh tại hạ, một tay nho nhã ung dung, chuyên về hội họa, thích du sơn ngoạn thủy, nghiên cứu rất tinh vi các thứ hoa cỏ. Y họ Ngô, trước khi nhập môn đã làm đến chức tướng quân tại triều đình nhà Ðại Tống. Vì vậy mà mọi người kêu y bằng Ngô Lãnh Quân.
Bao Bất Ðồng nói:
- Chỉ sợ lãnh quân là đánh đâu thua đấy. Còn môn hội họa của y thì e rằng vẽ người chẳng ra người, quỷ chẳng ra quỷ!
Tiết Mộ Hoa nói:
- Bao tiên sinh lại nói giỡn rồi! Tại hạ đứng hàng thứ năm học về nghề thuốc, kể cũng có chút hư danh trên chốn giang hồ nên không bao giờ quên được ơn nghĩa sư phụ truyền dạy cho mình.
Bao Bất Ðồng liền chặn họng ngay:
- Cảm mạo phong hàn mà bị ho hắng thì tiên sinh còn gắng gượng chữa được. Tại hạ vừa trúng phải chứng hàn độc đã đành chịu bó tay. Thế tiên sinh chỉ xứng với câu: "Bệnh nặng chữa không nổi, bệnh nhẹ chữa không chết!" Ha há! Cái ngoại hiệu "Thần Y" quả nhiên danh bất hư truyền.
Khang Quảng Lăng vuốt chòm râu dài, ngước mắt lên nhìn rồi nói:
- Lão huynh đây có tính kỳ cục, quả nhiên đặc biệt khác người.
Bao Bất Ðồng cười ha hả nói:
- Tại hạ họ Bao tên gọi Bất Ðồng, dĩ nhiên không giống người ta được.
Khang Quảng Lăng cười ha hả nói:
- Có phải tiên sinh đúng họ Bao và thực tên là Bất Ðồng không?
Bao Bất Ðồng đáp:
- Chẳng lẽ cái đó giả được nữa sao? Chà cha! Lão huynh này chuyên về chế tạo các cơ quan. Ðại khái lão huynh tinh thông về cái học công nghệ cùng thổ mộc và hẳn là đồ đệ Lỗ Ban tiên sư?
Tiết Mộ Hoa:
- Chính thị! Lục sư đệ tại hạ là Trương A Tam nguyên là tay thợ thuyền xuất thân. Trước khi nhập môn học võ đã là một tay thợ khéo tuyệt. Sau đến thụ nghiệp gia sư, nghề thợ đã khéo lại càng khéo thêm. Thất sư Muội tai hạ họ Thạch. Nàng rất tinh về các hoa cỏ. Bao nhiêu kỳ hoa dị thảo trong thiên hạ nàng đều trồng qua, mà thứ gì nàng trồng tỉa cũng tốt tươi...
Ðặng Bách Xuyên nói:
- Thạch cô nương dùng dược vật làm cho tại hạ mê đi té xỉu, chắc dược vật đó cô nương chỉ lấy ở phấn hoa mà thôi, chứ không có chất độc?
Cô họ Thạch tên gọi Thanh Lộ người rất xinh đẹp, tủm tỉm cười nói:
- Mới rồi tôi có đắc tội với Ðặng lão gia, mong được lão gia tha thứ cho.
Ðặng Bách Xuyên nói:
- Tại hạ là người lỗ mãng, cũng xin cô nương lượng cả bao dung.
Tiết Mộ Hoa lại trỏ đến anh hề, hễ mở miệng là lớn tiếng hát, nói:
- Bát đệ tại hạ đây là Lý Quỷ Lổi suốt đời thíùch nghề vẻ mặt diễn trò, dở điên dở dại, về đường võ học y không khỏi chểnh mảng.
Lý Quỷ Lổi đang nằm lăn dưới đất đột nhiên lên tiếng:
- Tài kiêu dũng quần hùng khiếp vía. Tôn Úc chính thị cô vương. Chẳng thích giang sơn thích điên cuồng cho phỉ chí con người tuấn kiệt...
Tiết Mộ Hoa nói:
- Bọn sư huynh đệ chúng tôi tám người tuy bị ra khỏi cửa nhưng đâu dám quên công sư phụ đã rèn luyện bấy lâu. Chúng tôi tự mệnh danh"Hàm cốc bát bửu"để kỷ niệm ơn đức ngày trước sư phụ truyền nghệ cho mình tại ải Hàm Cốc. Người ngoài chỉ cho rằng chúng tôi thanh khí tương cầu, chứ có biết đâu rằng chúng tôiquả là sư huynh sư đệ. Chúng tôi vì phải đề phòng Tinh Tu ùLão Quái trở lại Trung Nguyên chăng lưới một mẻ quét hết, nên năm năm mới hội họp một lần, còn bình thời tản đi mỗi người ở mỗi nơi. Vì thế mà A Bích cô nương đây đã được sư huynh tại hạ thu làm đồ đệ, mà mấy anh em chúng tôi chẳng ai biết gì. Không thì làm gì xảy ra sự hiểu lầm quý vị rồi, tranh đấu như bữa nay.
Bọn Huyền Nạn, Ðặng Bách Xuyên nghe Tiết Mộ Hoa thuật chuyện lai lịch tám anh em xong, thì tấm lòng ngờ vực đã bớt đi một nửa.
Công Dã Càn nói:
- Tiết tiên sinh trá tử rồi bố trí thuốc độc bên trong quan tài phài chăng là đối phó Tinh Tú Lão Quái? Sao Tiết tiên sinh biết lão sắp đến đây?
- Về vụ này kể ra cũng kỳ! Trước hai hôm, tại hạ đang ngồi rỗi. Trong nhà đóng cửa thì đột nhiên bốn người cưỡi ngựa đến xin chữa thuốc. Chữa bệnh cứu người nguyên là phận sự của thầy lang chứ chẳng có chi khác thường. Nhưng lạ chỗ một bệnh nhân là một vị hòa thường béo chùn béo chụt, xương trước ngực cũng như gân cốt sau lưng bị gãy nát. cái thân thể tròn trặn biến thành con người vuông, tựa hồ như nhà sư này bị nhét vào trong quan tài đã chật cứng rồi bị gò ép theo cái khuôn vuông vặn của nó.
Huyền Nạn nói:
- Thật là mắc cỡ! Thật là mắc cỡ! Ðó chính là Tam Tĩnh hòa thượng chùa Thiếu Lâm. Nhà sư này không giữ quy luật tu hành bị giam vào viện gới luật để sám hối. Người y to béo quá nên tòa thạch đình gò ép y biến thành hình thù như vậy. Ai đã đứa y đến đây để xin chữa thuốc?
Tiết Thần Y đáp:
- Y cùng đi với một bệnh nhân này càng kỳ dị hơn nữa. Ðầu gã đội một cái lồng sắt...
Nghe tới đây Bao Bất Ðồng cùng Phong Bá Ác đồng thời nhảy lên lớn tiếng chửi mắng:
- Mẹ nó! Ðúng thằng lỏi đó rồi! Trời xuôi đất khiến cho gã mắc bệnh. Nhưng hiểu gã bị bệnh gì?
Tiết Thần Y đáp:
- Gã muốn tháo cái đầu sắt ra, nhưng tại hạ xem kỹ cái lồng này gã gắn liền vào đầu gã không thể lấy ra được.
Bao Bất Ðồng vỗ tay nói; - Ký tuyệt! Kỳ tuyệt! Chẳng lẽ cái đầu sắt đã có sẵn từ lúc gã còn là cái bào thai mới sinh ra đã như vậy rồi phải không?
Tiết Thần Y lắc đầu đáp:
- Không phải thế! Cái lồng sắt lúc chụp vào đầu gã hãy còn nung lên nóng bỏng làm cho da thịt gã nhũn ra. Ðến khi huyết ngưng lại và những vết thương đóng thành sẹo, thì cái lồng dính liền vào đầu ót cùng mặt mũi gã, nên không tài nào tháo ra được nữa. Nếu cứ miễn cưỡng giật mạnh cái lồng sắt thì đờng thời lột luôn cả da mặt gã và mặt mũi không còn ra hình thù gì nữa.
Bao Bất Ðồng lạnh lùng hỏi:
- Gã đã cầu tiên sinh tháo lồng sắt, sao tiên sinh không tháo ra cho gã. Dù ngũ quan cùng mặt mũi gã có biï lột đi hết, gã cũng không trách được tiên sinh kia mà?
Tiết Thần Y nói:
- Về cái bệnh co gân gãy xương của Tam Tĩnh hòa thượng thì chữa chẳng khó khăn gì. Nhưng chắc chùa Thiếu Lâm khi đã trừng phạt nhà sư, hẳn có phương pháp để chữa thương thế cho y, bất tất phải cần đến Tiết mổ ra tay.
Nhưng còn gã đầu sắt kia thì không phải dễ dàng gì mà tháo ra được. Lúc tại hạ còn đang ngẫm nghĩ thì hai người bạn đưa gã đến phát cáu, lớn tiếng quát tháo, giục tại hạ phải ra tay lập tức. Tiết mổ bình sinh phải cái tật khó chịu la hễ ai muốn đến chữa thuốc trị bệnh phải có lời nói cử chỉ tử tế khẩn cầu, tại hạ mới chịu chữa. Bằng ai cậy thế áp bức thì tại hạ thà chịu chết dưới mũi đao lưỡi kiếm, quyết không khi nào chịu chữa. Tại hạ nhớ lại ngày ở Tụ Hiền Trang có cuộc anh hùng đại hội, gã Kiều Phong liều mình xông pha nơi hiểm nguy vạn tử nhất sinh đưa một vị tiểu cô nương đến cầu tại hạ chữa thuốc. Con người đó thật là dã man hung hăng đến cực điểm, nhưng y đã đến khẩn cầu tại hạ và nói năng rất mực lễ độ, tuyệt không dám hỗn xược chút nào.
Lão nói tới đây nhớ lại về sau bị mắc lừa A Châu để nàng điểm trúng huyệt đạo cắt mất cả râu ria, thật là một cái nhục lớn trong đời lão, nên lão im không nói nữa.
Lúc này A Bích trúng độc mê man, tâm thần bất tỉnh. Nếu không thì khi nàng nghe nói tới Kiều Phong đưa một thiếu nữ tới cầu Tiết ThầnY chữa thuốc, nàng đã truy vấn rối rít để dò la tông tích A Châu rồi.
Bao Bất Ðồng nói:
- Tiên sinh nói gì làm phách vậy? Bao mỗ trái lại có cái tính rất kỳ khôi là kẻ nào muốn được chữa bệnh cho Bao mỗ thì phải van xin nói ngọt, Bao mỗ mới để cho mà chữa. Bằng đối phương cậy thế áp chế thì thà rằng Bao mỗ đeo bệnh suốt đời hay chết đi còn hơn chứ quyết không để cho họ chữa.
Khang Quảng lăng cười ha hả nói:
- Bao tiên sinh làm như mình là một thứ bảo bối, người ta mất công trị bệnh cho tiên sinh mà lại phải hết lời năn nỉ, thì trừ khi là...
Bao Bất Ðồng nói tiếp:
- Trừ khi người đó là con ta!
Khang Quảng Lăng tức quá ngẩn người ra nhưng trong lòng y lại nghĩ rằng:
Gã nói thế cũng phải. Giả tỉ phụthân mình mắc bệnh mà gàn dở không chịu uống thuốc thì mình chỉ còn cách năn nỉ ông già mà thôi.
Khang Quảng Lăng là người ưa lý luận, không ngờ lại bị Bao Bất Ðồng nói xỏ liền đáp:
- Phải rồi! Nhưng ta không phải con ngươi.
Bao Bất Ðồng nói:
- Ngươi có phải là con ta hay không điều đó chỉ có má ngươi mới biết rõ mà thôi, chứ ngươi biết thế nào được?
Khang Quảng lăng nghe Bao Bất Ðồng nói xỏ tức quá run lên, nhưng rồi gật đầu nói:
- Quả đúng thế thật!
Bao Bất Ðồng vổ tay cười ha hả, nghĩ thầm: Sư phụ lục Muội thật ngốc quá xá!
Công Dã Càn khỏi Tiết Thần Y:
- Tiết tiên sinh! Có phải hai người đó ăn nói vô lễ rồi bị tiên sinh cự tuyệt không chữa nữa chăng?
Tiết Thần Y gật đầu nói:
- Ðúng thế! Lúc mỗ trả lời họ rằng: Tại hạ y thuật kém cỏi không chữa nổi, xin các vị đi kiếm người nào cao minh hơn mới xong. Gã đầu sắt thì đối với tại hạ thì rất mực khiêm cung! Gã nói; Tiết tiên sinh! Y đạo của tiên sinh đã đến mức tuyệt vời khắp chốn giang hồ đã tặng tiên sinh cái ngoại hiệu Diêm Vương Ðịch. Biết bao nhiêu phải nhờ tiên sinh mới thoát chết. Người trong võ lâm ai mà chẳng kính phục? Gia phụ lại cùng tiên sinh có một mối liên kết sâu xa. Tiểu tử khẩn cầu tiên sinh mở lượng từ bi ra tay cứu vớt cho đứa con của người bạn cũ.
Mọi người chăm chú nghe muốn hiểu lai lịch gã đầu sắt Du Thản Chi, khi thấy Tiết Thần Y biểu gã tự xưng là con người bạn cũ lão nên đồng thanh hỏi:
- Phụ thân gã là ai?
Lý Quỷ Lổi thốt nhiên nói vào:
- Gã là con ai chỉ mình má gã là hiểu rõ mà thôi, chứ gã biết thế nào được?
Anh kép hát đã học lóm câu Bao Bất Ðồng vừa nói để trả lời lại một cách rất buồn cười và đúng lúc.
Bao Bất Ðồng cười nói:
- Giỏi lắm! ngươi họa lóm lời ta mà giống như hệt. Ta e rằng người ngoài không thể học được mà phải kẻ thừa kế chân truyền của ta.
Tiết Thần Y tủm tỉm cười nói:
- Bát đệ! Bao tiên sinh đây ưa tính nói giỡn, bát đệ chẳng nên để vào lòng.
Lý Quỷ Lổi lại lên điệu hát võ:
Trăm hiệu xưng Hoàng Ðế,
Quyền hoa hạ vào tay.
Muôn dân đội nước cao dày,
Trăm họ là con là cháu.
Gã đã tra đóng vai cố nhân, nên khi trong bụng nghĩ đến nhân vật nào là thốt ra lời đúng điệu nhân vật đó ngay lập tức.
Bao Bất Ðồng muốn nói xỏ gã là hàng đệ tử mình, gã liền đóng đức Hoàng đế là một vị vua tổ nước Trung Nguyên để xỏ lại.
Tiết Thần Y tiếp tục kể:
- Tại hạ nghe gã đầu sắt tự giới thiệu mình là con cố nhân, liền hỏi phụ thân gã là ai thì gã đáp: "Tiểu nhân gặp chuyện không may làm nhục đến tiền nhân, nên không dám nêu tên tuổi phụ thân ra. Có điều chắc chắn là tiên phụ ngày trước có mối thâm giao với tiên sinh. Việc này đúng cả trăm phần trăm. Tiểu nhân không bao giờdám đem tiên phụra để gạt."
Tại hạ nghe gã nói rất thành khẩn, quyết không phải chuyện bịa. Có điều tại hạ giao du rất rộng, bạn bè không biết bao nhiêu mà kể. Nghe gã nói thân phụ đã qua đời rồi, trong lúc bất ngờ tại hạ chưa đoán được thân phụ gã là ai.
Tiết Thần Y ngẫm nghĩ một lúc rồi kể tiếp:
- Lúc tại hạ còn đang trầm ngâm thì người cùng đi với gã nói ngay: "Theo pháp chỉ của sư phụ việc khẩn yếu đầu tiên phải chữa thương cho Tam Tinh hòa thượng. Còn gã đầu sắt này tháo lồng sắt ra hay không cũng chẳng can hệ gì." Tại hạ vừa nghe liền lộn ruột, liền hỏi lại: "Tôn sư là ai? Pháp chỉ của ngươi chỉ ràng buộc người chứ ràng buộc ta thế nào được?" Bộ mặt gã này rất hung dữ gã nói: "Nếu ta nói tên ra thì lại e irằng ngươi phải sợ vỡ mật. Người dặn ta bảo ngươi phải chữa thương cho vị hòa thượng này ngay lập tức. Nếu ngươi cố ý trùng trình làm lỡ việc của người thì lập tức cho ngươi xuống chầu Diêm Vương.
Ngừng một lão tiếp:
- Ban đầu tại nghe y nói hổn xược thì căm giận vô cùng. Nhưng sau thấy thanh âm gã quen tai, dường như giọng nói của người Hồ cởi Tây Vực. Tại hạ coi kỹ lại tướng mạo gã thấy tóc quăn, mắt sâu hoẵm không giống người Trung Nguyên ta. Tại hạ chợt nhớ ra một người, liền hỏi: "Phải chăng ngươi ở Tinh Tú Hải đến đây?" Người đó lập tức biến sắc nói: Hừ! Nhãn quang ngươi thật nhìn nhận không lầm. Ðúng ta ở Tinh Tú Hải đến đây. Ngươi đã đoán trúng vậy phải tận tâm kiệt lực chữa mau đi!
Lão ngẩn mặt nhìn lên rồi kể tiếp:
- Tại hạ thấy gã tự nhận lá Tinh Tú Lão Quái thì nghĩ thầm: "Mối thù sâu cay môn phái lẽ nào không báo." Tại hạ liền giả bộ khiếp sợ hỏi lại gã: Lâu nay tại hạ vẫn ngưỡng mộ thần thông quảng đại của Ðinh lão tiên ở Tinh Tú Hải, đem lòng kính ngưỡng vô cùng. Tại hạ giận mi vô duyên không được bái kiến, chẳng hiểu lão tiên có đến Trung Nguyên không?
Bao Bất Ðồng ngắt lời:
- Bêu bêu! Tiên sinh kêu lão bằng Tinh Tú Lão Quái hay Tinh Tú Lão Ma thì phải hơn. Sao lại cam chịu hạ mình kêu lão bằng "lão tiên." Nhục nhã ôi nhục nhã!
Ðặng Bách Xuyên vội giảng hòa:
- Tam đệ! Ðây là Tiết tiên sinh cố ý trịnh trọng để dọ thám mà thôi. Khi người ta cân dò la cho hiểu rõ những điều mình chưa biết thì tất nhiên phải xưng hô cho họ vừa lòng, nên tiên sinh kêu bằng"lão tiên"là phải.
Bao Bất Ðồng cãi:
- Cái đó tiểu đệ đã biết rồi! Nhưng nếu tiểu đệ có dò la thì lại kêu lão bằng"lão yêu"hay"lão tặc"để khiêu khích cho gã nổi hung gầm thét lên như sấm. Tất rồi lòi đuôi.
Tiết Thần Y nói:
- Lão tiên sinh nói rất có lý. Tại hạ không quen lừa bịp, miệng kêu bằng "Lão tiên" mà không dấu được vẻ bất bình. Gã yêu nhân kia là tay giảo quyệt, vừa thấy thế gã đã đem lòng ngờ vực vươn tay ra nắm lấy huyệt mạch môn của tại hạ rồi quát hỏi: "Ngươi dò la hành tung sư phụ ta là có ý gì?" Tại hạ thấy sự tình bại lộ, liền xoay tay phóng chỉ điểm vào tử huyệt là gã chết ngay.
Ngừng một lát Tiết Thần Y kể tiếp:
- Gã yêu nhân thứ hai móc trong bọc ra một lưỡi đao trủy thủy đâm tại hạ. Trong tay tại hạ đã không có khí giới mà võ công gã yêu nhân lại không vừa. Lúc đó tại hạ bị nguy cấp thì gã đầu sắt đột nhiên vươn tay ra đoạt lấy lưỡi đao trủy thủy nói: "Sư phụ biểu chúng ta đến đây để xin chữa thuốc chứ có biểu đến đây giết người đâu?" Gã yêu nhân tức mình nói: "Thập nhị sư đệ bị y giết chết đó ngươi không thấy hay sao? Ngươi... ngươi... là con cố nhân của y, nên bây giờ về hùa với ngươi ngoài." Gã đầu sắt lại nói: "Ngươi giết chết Thần Y đây thì mặc kệ ngươi. Nhưng còn nhà sư béo chùn béo chụt này không chữa được khỏi để lão chết thì lấy ai dẫn đường đi tìm băng tằm? Bấy giờ sư phụ sẽ hỏi tội ngươi đó!"
Bao Bất Ðồng hỏi xen vào:
- Gã đầu sắt cũng là đệ tử Tinh Tú Lão Quái. Bọn chúng yêu cầu Tam Tĩnh hòa thượng dẫn đường đi tìm băng tằm là cái khỉ gì vậy?
Tiết Thần Y đáp:
- Tại hạ cũng nghe nói vậy thôi, còn cứu cánh ra sao cũng không biết. Tại hạ thừa cơ lúc hai gã cãi nhau, liền lấy khí giới cầm tay. Gã yêu nhân kia nhận thấy giết tại hạ cũng chẳng dễ dàng gì, lại nghĩ tới gã đầu sắt nói cũng không phải là vô lý. Gã liền bảo gã đầu sắt: "Ðã thế thì ngươi bắt lão y sinh quỷ quái này dẫn đi yết kiến sư phụ."
Tiết Thần Y hăng giọng kể tiếp:
- Gã đầu sắt nói: "Ðược lắm!" Rồi gã xoay tay phóng chưởng ra trúng ngực gã kia chết ngay lập tức!
Mọi người nghe Tiết Thần Y kể đến đây sửng sốt la lên một tiếng:
- Ủa!
Bao Bất Ðồng nói:
- Cái đó có chi là lạ? Gã đầu sắt có việc cần đến tiên sinh nên gã đánh bạn đồng môn để tâng công tiên sinh chớ có gì đâu?
Tiết Mộ Hoa thở dài nói:
- Trong lúc thảng thốt tại hạ cũng không hiểu rõ chân tâm gã vì tình nghĩa tại hạ là chỗ chí thân với tiên phụ gã, hay vì muốn làm công làm cán với tại hạ. tại hạ đang định hỏi lại cho biết, bất thình lình xa xa có tiếng hú vọng lại. Gã đầu sắt nhớn nhác nói: "Sư phụ tiểu nhân thúc giục tiểu nhân phải về ngay. Tiết bá phụ nên đem chữa thương cho nhà sư béo này khỏi đi. Sư phụ tại hạ vui lòng may ra người bỏ qua việc giết đến hai tên đồ đệ không nghĩ đến chuyện báo thù nữa." Nói xong gã lật đật đi ngay, để nhà sư báo ở lại.
Huyền Nạn đại sư nói:
- Hiện giờ để ngịch đồ Tam Tĩnh ở đâu?
Tiết Mộ Hoa trỏ vào gốc động đáp:
- Y nằm điều dưỡng trong đó. Chỉ chừng nửa tháng nữa là khỏi hẳn.
Huyền Nạn nói:
- Tiết tiên sinh bố trí cái quan tài để đó, phải chăng là để đối phó với lệnh sư thúc?
Tiết Mộ Hoa nói:
- Ðúng thế! Tinh Tú lão tặc đã đến Trung Nguyên. Lão lại có hai tên đệ tử bị chết trong nhà tại hạ. Sớm muộn thế nào gã cũng tìm đến đây. Gã đầu sắt dù có muốn dối trá tử và vấn thuốc độc trong quan tài với hy vọng lừa lão vào bẫy. Cả già trẻ lớn bé trong nhà tại hạ ẩn nấp trong huyệt động này vừa được hai ngày thì ngẫu nhiên gặp kỳ họp mặt trong hạn năm năm của tám anh em đồng môn chúng tôi. Mọi người còn tụ tập khu phu cận ải Hàm Cốc thì liệt vị vừa kéo đến nhà. Người lão bộc tại hạ tuy tính nết rất trung thành, nhưng rất đỗi ngu ngốc. Lão tưởng lầm các vị là bọn đối đầu ghê gớm kia tới...
Bao Bất Ðồng cười khanh khách ngắt lời:
- Ha ha! Chắc lão bộc tưởng Huyền Nạn đại sư là Tinh Tú Lão Quái! Còn chúng tôi là đồ tử đồ tôn lão. Bạn đồng hành với lão mỗ người ngợm và tính nết đều kỳ dị, bảo, là bọn tiểu yêu phái Tinh Tú còn có lý giống được phần nào, chứ Huyền Nạn đại sư là một nhân vật thanh nhã hiền hòa, đạo khí lồ lộ mà nhận lầm là Tinh Tú Lão Quái hóa chẳng ra hỗn xược quá ư? Mọi người nghe nói đều cười ồ.
Tiết Thần Y cũng cười nói:
- Cái lầm đó quả đáng đánh đòn. lão bộc lúc nào cũng nơm nớp lo sợ toàn gia tại hạ mắc phải độc thủ Tinh Tú Lão Quái, lão hốt hoảng quá quên cả lời tại hạ dặn dò cặn kẻ, đốt ngay lưu tinh hỏa pháo liền để báo tin cho các bạn đồng môn.
Ngừng một lát Tiết Thần Y lại kể tiếp:
- Thứ lưu tinh hỏa pháo này do lục sư đệ tại hạ chế ra một cách rất khôn khéo. Hễ đất hỏa pháo lên, ánh sáng tỏa ra đến mấy dặm. Bọn anh em đồng môn chúng tôi tám người, mỗi người dùng một thứ Lưu tinh hỏa pháo khác nhau đôi chút để dễ phân biệt, cứ trông thấy hiệu hỏa pháo là biết ngay người nào đã đến. Kể ra thứ lưu tinh hỏa pháo này có lợi mà cũng có hại. Lợi ở chỗ bọn "Hàm cốc bát hữu" chúng tôi mỗi khi gặp cơn nguy biến có thể báo tin cho nhau đến tụ hội một chỗ đồng tâm hiệp lực kháng địch. Nhưng trong trường hợp này chẳng hạn, lại khiến cho Tinh Tú Lão Quái biết mà quét sạch thì đó lại là một điều rất tai hại.
Bao Bất Ðồng nói:
- Bản lãnh Tinh Tú lão quái dù lợi hại đến đâu vị tất đã hơn được Huyền Nạn đại sư, một vị cao tăng chùa Thiếu Lâm, hơn nữa còn bọn ta là một đám quân "tôm, cua" khá đông đứng ngoài reo hò trợ giúp, nếu muốn sống mái một trận, hồ dễ đã biết ai thắng ai bại? Sao phải... phải...
Gã chưa nói hết thì hai hàm răng run cầm cập chạm vào nhau canh cách. Chừng độc trong người gã đã lên cơn không nói hết được nữa.
Lý Quỷ Lổi lại cất giọng làm tuồng:
Mỗ Kinh Kha chính thị,
Sang thích khách Tần Hoàng.
Ngọn gió heo thổi buốt can trường,
Khiến tráng sĩ khôn đường mở miệng.
Bất thình lình một bóng người từ dưới đất bật tung lên hất đầu vào ngự Lý Quỷ Lổi.
Lý Quỷ Lổi rú lên một tiếng.
- Ui chao!
Rồi ngã ngửa về sau. Người kia tóm lấy gã đánh đấm túi bụi. Mọi người nhìn lại chính là Nhất trận Phong Bá Ác.
Ðặng Bách Xuyê vội chạy lại can:
- Tứ đệ không được lỗ mãng!
Rồi vươn tay kéo Phong Bá Ác ra. Giữa lúc ấy một âm thanh nhỏ li ti truyền vào trong sơn động:
- Bọn đồ tử đồ tôn Tô Tinh Hà! Mau mau ra đầu hàng hoặc giả còn có thể bảo toàn tính mạng! Nến còn trùng trình không chịu ra ngay thì đừng trách lão gia không đếm xỉa đến tình nghĩa đồng môn nữa!
Khang Quảng Lăng nói:
- Chà chà! Lão mặt dày còn nói đến tình nghĩa đồng môn nữa ư?
Lão nhị Phạm Bách Linh là kẻ thâm mưu nói:
- Lục đệ! Nếu chúng ta cứ mặc kệ lão liệu lão có đánh vào đây được không?
Trương A Tam không đáp lời Phạm Bách Linh quay sang hỏi Tiết Mộ Hoa:
- Ngũ ca! Những phiến đá vân gỗ trong động này dường như biến trúc đã ba năm nay, không biết do tay thợ nào mà khéo thế?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Ðây là cơ nghiệp tổ tiên truyền lại cho để xây sơn động này để làm nơi lánh nạn khi cần. Không hiểu ai đã xây nên?
Khang Quảng Lăng nói:
- Hay lắm! Lão ngũ đã có cái"động rùa"này mà vẫn giữ được bí mật, không ai thông tỏ ngõ đàng thì tuyệt quá!
Tiết Mộ Hoa ra chiều bẻn lẻn nói:
- Ðại ca lượng cho! Cái hầm này chẳng vẻ vang gì xin miễn nói đến nữa...!
Chưa dứt lời bỗng nghe đánh sầm một tiếng rung chiếm cả nhà hầm. Dưới chân mọi người đều cảm thấy mặt đất rung động không ngừng.
Trương A Tam cả kinh thất sắc nói:
- Nguy đến nơi rồi! Ðinh lão quái dùng thuốc nổ phá hầm thì chỉ trong chốc lát là tấn công vào đây.
Khang Quảng Lăng tức mình nói:
- Thực là quân hèn hạ quân vô sỉ đến cùng cực! Tổ sư cùng sư phụ tại hạ chuyên về môn học thổ mộc. Những cơ quan biến hóa này là bản lãnh của bản môn thế mà Tinh Tú Lão Quái khhông thay đổi lòng dạ đem chất nổ đem phá vỡ cơ quan. Vậy thì còn xứng đáng bản môn thế nào được?
Bao Bất Ðồng nói:
- Lão đã giết sư phụ, đánh sư phụ bị thương chẳng lẽ tiên sinh còn nhìn nhận lão làm sư thúc nữa hay sao.
Khang Quảng Lăng chưa kịp trả lời đột nhiên lại nghe một tiếng nổ vang trời. Trong động cát bụi bay mịt mù khiến cho mọi người không mở mắt ra được. Sơn động cửa đóng kín không có lối thông hơi. Sức rung động quá mạnh không khí dạt dào mọi người cảm thấy lá nhĩ đau nhói lên.
Huyền Nạn nói:
- Nếu để Lão dùng chất nổ phá hầm đánh ùa vào thì thà rằng chúng ta ra đi còn hơn.
Ðặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Ðồng, Phong Bá Ác bốn người đều khen phải.
Bọn Tiết Mộ Hoa biết Huyền Nạn là một vị cao tăng nhà chùa Thiếu Lâm mà phải chui rúc ở trong địa huyệt để trốn tránh địch nhân là một việc rất tổn thương đến oai danh tông phái. Nhưng cuộc chiến đấu một sống một chết này, xét cho cùng thì ẩn nấp trong hầm cũng không yên được liền nói:
- Phải đó! Chúng ta ra hết để cùng lão quái quyết một trận sống mất.
Phạm Bách Linh lại nói:
- Huyền Nạn đại sư cùng Lão quái kia vốn không thù oán mà bị lôi cuốn vào trận hổn độn này chắc là các vị đại sư phái Thiếu Lâm không chịu thõng tay đứng nhìn.
Huyền Nạn nói:
- Mọi việc liên quan đến các phái võ Trung Nguyên phái Thiếu Lâm đều nhúng tay vào. Xin các hạ miển trách cho tệ phái hay can thiệp vào việc ngoài.
Trương A Tam nói:
- Ðại sư đã cólòng nghĩa hiệp giúp cho, anh em tôi cảm kích muôn phần! Chúng ta cứ theo đường cũ tiến ra để cho lão quái một phen khiếp vía.
Mọi ngườu gật đầu khen phải.
Trương A Tam nói:
- Gia quyến Tiết ngũ ca cùng hai vị Bao, Phong trưởng cứ nén ở lại đây, chắc là lão quái không tìm thấy đâu.
Bao Bất Ðồng mắt hoằm hoằm nhìn A Lục nói:
- Ngươi ở lại phải hơn.
Trương A Tam vội nói:
- Thực tình tại hạ không dám coi thường nhị vị. Nhưng nhị vị đang bị thương mà cũng phải ra tay e có điều bất tiện.
Trương A Tam phát động cơ quan nhảy lẹ ra ngoài.
Hán h động của gã cực kỳ mau lẹ. Vừa nghe tiếng lách cách vai tiếng cửa động đã hở ra một lỗ nhỏ.
Trương A Tam ném ba quả pháo.
Ðùng! Ðùng! Ðùng!
Ba tiếng nổ vang lê, khói trắng mù mịt.
Gã ném trước hỏa pháo ra là để ngăn ngừa bọn Tinh Tú Lão Quái đến gần. Gã sợ bên địch đứng rình ngoài cửa động thì người nào chuồn ra ngoài là bị bắt mất người ấy.
Ba tiếng pháo vừa nổ, phiến đá đóng cử động mở ra một đường đủ lọt một người đi.
Trương A Tam lại ném luôn ba quả pháo nữa, đồng thời nhảy ra theo.
Chân gã chưa chấm đất thì trong làn khói trắng mờ mịt đã thấy bóng người đã nhảy đến bên mình. Chân trái người này vừa chí xuống đất đã nhảy phóc ra ngoài giữa đám đông la lên:
- Ai là Tinh Tú Lão Quái! Phong mổ muốn gặp lão.
Người đó chính là Phong Bá Ác. Gã thấy trước mặt đứng sững một Ðại Hán mặc áo vải liền quát ta:
- Ngươi tuy không là Tinh Tú Lão Quái nhưng hãy nếm một liền của ta đây.
"Bịch"một tiếng. gã ra tay rất nhanh đánh trúng vào ngực Ðại Hán.
Ðại Hán là đệ tử thứ chín phái Tinh Tú Lão Quái, bị đánh bất thình lình không kịp đề phòng nên trúng một quyền khá nặng. Nhưng công lự Ðại Hán rất thâm hậu, chỉ lạng người đi một cái rồi lại vung quyền đánh trả luôn. Thoi quyền này trúng Phong Bá Ác"chát"một tiếng. Thế rồi quyền qua chưởng lại va chạm nhau"binh, binh"dường như quyền chưởng đều đánh trúng vào người đối phương, nhưng không trầm trọng lắm nên không ai đến nỗi chí mạng. Bỗng nghe những tiếng vù vù lên nhanh bất tuyệt, Huyền Nạn, Ðặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng, mọi người trong động liền tiếp nhảy ra.
Trong đám cây rậm giữa làn khói trắng mờ mịt, về góc Tây Nam nhìn rõ một lão già thân thể to lớn. Xung quanh lão lũ hán tử đứng thành hàng có kẻ cao người thấp không đều nhau. Khang Quảng Lăng la lên; - Ðinh lão tặc! Ngươi vẫn chưa chết ư"? Có nhận được ta không?
Lão già này chính là Tinh Tú Lão Quái Ðinh Xuân Thu! Lão thoáng nhhìn một lượt đã nhần rõ mọi người đối phương.
Ðinh Xuân Thu không trả lời Khang Quảng Lăng lại hỏi Tiết Thần Y:
- Tiết Mộ Hoa hiền điệt! Ngươi đã chữa khỏi nhà sư béo chùn béo chụt phái Thiếu Lâm chưa? Ta đã tha chết cho ngươi với điều kiện là ngươi phải nhập môn phái Tinh Tú ta.
Tinh Tú lão quái chỉ nhất tâm mong Tiết Mộ Hoa chữa khõi nhà sư Tam TĩnH đặng dẫn lão lên đỉnh núi Côn Lôn tìm kiếm băng tằm.
Tiết Mộ Hoa nghe giọng lưỡi lão này dường như không để ý gì đến người khác. Sư sống chết của những người này lá tùy ý lão muốn xử trí ra sao sẽ được như vậy.
Tiết Mộ Hoa đã biết rõ vị sư thúc ghê gớm này, trong lòng sợ hãi vô cùng nhưng ngoài miệng vẫn nói cứng:
- Ðinh lão tặc. Trên cõi đời này ta chỉ nghe theo mệnh lệnh một người mà thôi. Ngươi có bảo ta chữa cho oai là ta cứ ngay. Ngươi muốn giết ta thật dễ như trở bàn tay, nhưng muốn ta trị bệnh cứu người ngươi phải đến cầu người ta bảo ta mới được.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Chắc mi chỉ nghe lịnh Tô Tinh Hà mà thôi! Có phải thế không. Tiết Mộ Hoa đáp:
- Chỉ có hạng ác ôn không bằng loài cầm thú mới sinh lòng phản thầy diệt tổ.
Mộ Hoa dứt lời thì bọn Khang Quảng Lăng, Phạm Bách Linh cho đến Lý Quỷ Lổi, mọi người lớn tiếng hoan hô rầm rĩ.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Bọn mi đều là đồ đệ Tô Tinh Hà. Xong lão Tô phái người đến báo tin cho ta hay là đã trục xuất bọn mi ra khỏi môn phái rồi, không kể là đệ tử lão nữa. Chẳng lẽ lời nói của lão Tô lại không đáng đếm xỉa? Chẳng lẽ lão còn ngấm ngầm lưu bọn mi vào hàng đồ đệ hay sao?
Phạm Bách Linh đáp:
- Một ngày là thầy suốt đời phải gọi bằng cha. Sư phụ bọn ta quả đã đuổi chúng ra khỏi môn phái. Trong bấy nhiêu năm chưa được gặp lão sư, bọn ta có đến nhà bái yết mà cũng không được gặp người. Tuy nhiên tấm lòng kính yêu sư phụ của chúng ta quyết không giảm sút mảy may. Lão tặc họ Ðinh kia! Ta nói thiệt cho ngươi hay. Sở dĩ bọn ta biến thành cô hồn dã quỷ không có sư môn nào để nương tựa hoàn toàn là do ngươi mà ra cả.
Ðinh Xuân Thu mỉm cười đáp:
- Mi nói thế là đúng sự thật. Tô Tinh Hà sợ ta ra tay tiêu diệt bọn mi, nên mới đuổi bọn mi ra khỏi môn phái là có ý bảo tồn những cái mạng kiến ruồi của bọn mi đó! Ha ha! Hay lắm! Hay lắm! Chính miệng các ngươi hãy nói đi! Hiện nay bọn mi còn là đồ đệ Tô Tinh Hà và Tô Tinh Hà còn là sư phụ bọn mi nữa không?
Bọn Khang Quảng Lăng vừa nghe lão nói vậy đã biết ngay nếu bọn mình tự thừa nhận là đệ tử Tô Tinh Hà là lập tức Ðinh Xuân Thu ra tay sát hại. Nhưng một là không thể vì lúc lâm nguy mà bỏ nghĩa thầy trò, hai là lão quái này tàn ác không lường! Bữa nay mình đã đối đầu với lão thì cũng chẳng còn mong lão tha thứ nữa.
Bọn tám người "Hàm Cốt Bát Hữu." Trừ thiếu phụ bị trọng thương nằm lại trong động, còn bảy người đồng thanh la lên:
- Bọn ta tuy bị sư phụ trục xuất ra khỏi môn phái, song tình nghĩa thầy trò không mảy may sức mẻ.
Lý Quỷ Lôi lớn tiếng nói:
- Ta là "Thiên Tiên Ðồng Mỗ" ngươi là một dòng súc sinh nhỏ xíu. Ta chỉ đánh một trượng là cái đùi con chó của ngươi sẽ gãy ngay lập tức.
Gã học tiếng nói của một bà già, giọng khàn khàn nhưng rất vang dội.
Bọn Khang Quảng Lăng nghe đến bốn chữ "Thiên Tiên Ðồng Mỗ" đều giật mình đánh thót một cái, Ðinh Xuân Thu vốn là bình tĩnh ung dung, mà nghe đến tên đó không khỏi biến sắc mặt, hai mắt chiếu ra những ta sáng kì dị. Lão phất tay áo bên trái một cái đột nhiên một tia lửa xanh lè vọt ra lẹ hơn sao đôi ngôi bắn vào mình Lý Quỷ Lôi.
Lý Quỷ Lôi né tránh nhưng không kịp.
"Xèo"một tiếng quần áo gã bốc chắc. Gã vội nằm lăn xuống đất nhưng càng lăn người đi bao nhiêu lửa càng bốc lên to bấy nhiêu.
Phạm Bách Linh hai tay hốt đất cát hất lên mình gã.
Giữa lúc ấy Ðinh Xuân Thu phất tay áo luôn năm cái, năm tia lửa bắn về phía năm người bọn Khang Quảng Lăng, chỉ còn Tiết Mộ Hoa là không bị bắn vào.
Khang Quảng Lăng phóng hai chưởng ra định đẩy ngọn lửa trở lại. Nhưng chưởng lực phóng ra chỉ làm cho ngọn lửa lung lay một chút.
Huyền Nạn đại sư cũng phóng chưởng ra để hất cả hai ngọn lửa tạt ra chỗ khác. Còn Trương A Tam và Phạm Bách Linh thì đã bị lửa bám vào mình.
Tinh Tú Lão Quái phát độâng long Hoa còn lợi hại hơn đệ tử lão là Trích Tinh Tử nhiều.
Chỉ trong khoảnh khắc, trong vườn sau đầy mùi khét lẹt. Bọn Trương A Tam ba gã kêu la ầm ĩ!
Bọn đệ tử Ðinh Xuân Thu thấy vậy thi nhau tâng bốc sư phụ. Có kẻ nói:
- Sư phụ ra một kỹ thuật nhỏ mọn đã đốt bọn chúng như heo quay mà sao chúng chưa chịu quỳ xuống xin đầu hàng?
Có gã bảo:
- Sư phụ có tài nghiêng trời lệch đất, đời trước chưa có ai bằng mà sau này cũng không ai bì kịp. Thật là thần thông quảng đại xuất quỷ nhập thần, không tiền khoáng hậu. Nay ta cho bọn chó lợn Trung Nguyên biết thủ đoạn phái Tinh Tú ta.
Có gã nói với Ðinh Xuân Thu:
- Sư phụ lão gia đã thần thông quảng đại như thế thì đánh đâu mà chẳng được. Các bậc anh hùng hảo hán bốn phương Ðông, Tây, Nam, Bắc ai mà không phải quy thuận như gió theo chiều?
Bao Bất Ðồng hét lên:
- Thúi lắm! Thúi lắm! Chao ôi! Da thịt ta tê rồi. Ðinh lão tặc kia! Ngươi là một đứa mặt dày!
Ðặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn đã vận kình lực vào bàn tay. Bao Bất Ðồng chưa dứt lời thì thấy hai tia lửa đã bắn tới rất lẹ.
Ðặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn đều phóng chưởng ra. Cả hai luồng chưởng đều đánh vào một chỗ, bật hai tia lửa đi. Nhưng hai người ruột đau như dùi đâm, rú lên hai tiếng thất thanh rồi lùi lại ba bước.
Nguyên Ðinh Xuân Thu dùng nội lực rất thâm hậu để phóng hỏa tinh, có nội lực của Huyền Nạn đại sư là chống lại được, đánh bật hỏa tinh ra ngoài và không bị tổn thương gì cả. Còn Ðặng Bách Xuyên và Công Dã Càn thì nội lực hãy còn kém xa Tinh Tú Lão Quái nên hai người bị nội lực đối phương đàn áp, cảm thấy đau đớn không chịu nổi.
Huyền Nán đại sư tiến đến trước Lý Quỳ Lôi phóng ra một chưởng. Chưởng lực này đi thấp là là lướt qua mình Lý Quỷ Lôi, vang lên những tiếng xì xì xé rách áo gã ra. Ðồng thời vùng lửa xanh lè cũng bị chưởng phong quạt tắt ngấm.
Một tên đệ tử Tinh Tú Lão Quái nói:
- Chưởng lực lão trọc kia khá đấy có thể bằng một phần mười chưởng lực sư phụ ta.
Một tên khác nói:
- Chà! Có chăng chỉ bằng một phần trăm chưởng lực sư phụ ta là cùng.
Huyền Nạn dùng chưởng lực quạt tắt làn hỏa trên mình Lý Quỷ Lổi, rồi trở tay quạt tiếp hai cái để dập tắt luôn cả lửa đang đốt Phạm Bách Linh và Trương A Tam.
Ðinh Xuân Thu vuốt chòm râu dài nói:
- Vị cao tăng chùa Thiếu Lâm quả nhiên công lực phi thường bữa nay lão phu xin đến lãnh giáo đây.
Nói xong lão bước tới rồi lẹ làng phóng chưởng ra đánh Huyền Nạn.
Huyền Nạn đại sư tuy chưa từng giao đấu với phái Tinh Tú nhưng nhà sư cũng biết phép "Hóa công đại pháp" của Ðinh Xuân Thu lợi hại vô cùng! Nhà sư còn nghe người đồn từ lâu Tinh Tú Lão Quái có thể dùng tà thuật làm cho đối phương tiêu tan một cách vô hình, nên rất thận trọng không dám sơ hở chút nào.
Huyền Nạn để tụ chân khí phóng song chưởng ra đánh tới tấp vào Ðinh Xuân Thu liền một lúc mười tám chiêu theo thế liên hoàn, tay trái chưa thu về, tay phải đã phóng ra đột ngột mau lẹ dị thường.
Ðinh Xuân Thu thấy chưởng lực đối phương liên tiếp đánh tới, dù muốn dùng tà pháp để phá công lực đối phương cũng không có lúc nào rãnh tay.
Quả nhiên phép khoái chưởng của phái Thiếu Lâm cực kỳ lợi hại, dồn Ðinh Xuân Thu phải lùi lại.
Huyền Nạn phóng ra mười tám chưởng liên hoàn. Ðinh Xuân Thu phải lùi lại mười tám bước để tránh.
Huyền Nạn đánh xong mười tám chưởng liền rồi phóng Uyên Ương cước đá nhanh như gió liền một lúc ba mươi sáu cước. Bóng chân đá mịt mờ người ngoài không phân biệt rõ được phát đá nào chân phải hay chân trái.
Ðinh Xuân Thu thi triển thân pháp, né tránh cực kỳ mau lẹ. Lão vừa trành xong ba mươi sấu cước, bỗng nghe hai tiếng chát chát, thì ra bả vai lão đã bị Huyền Nạn đánh trúng hai quyền.
Nguyên trong phép liên hoàn tam thập lục cước, Huyền Nạn đá hai cước sau cùng đồng htời vung quyền đánh ra. Ðinh Xuân Thu chỉ tránh được cước mà không tránh được quyền.
Ðinh Xuân Thu bị trúng hai quyền la lên:
- Thật là lợi hại!
Người lão lạng đi hai cái. Nhưng Huyền Nạn cũng cảm thấy trong ngực hồi hộp, dường như người bị mất thứ gì thì biết ngay rằng có điều khác lạ.
Nhà sư hít mạnh một hơi dài rồi phóng quyền ra đánh Ðinh Xuân Thu. Ðinh Xuân Thu xoay người lại đưa lưng ra đỡ lấy quyền. Lão giơ năm ngón tay như lưỡi câu chụp vào sau gáy Huyền Nạn đại sư.
Cuộc chiến đấu lúc này, hai tay cao thủ đã đén chỗ tỉ thí nội lực. Huyền Nạn cả kinh lẩm bẩm: "Ta quyết không thể tỉ thí chân lực với gã được!"
Tuy nhà sư tính như thế nhưng không vận động chân lực để phóng quyền ra đỡ thì chân lực đối phương đánh tới phủ tạng mình sẽ bị tan nát. Thế là đại sư biết rõ không nên thi đua chân lực với đối phương mà không vận động chânlực cũng không được.
Huyền Nạn vận động nội kình, cảm thấy chân khí cuồn cuộn tuôn ra ngoài khônh ngớt, muốn ngưng tụ lại cũng không được nữa.
Sau khoảng thời gian uống cạn tuần trà Ðinh Xuân Thu cười hà hà, nhún vai đập mạnh một cái, Huyền Nạn lập tức ngã ra. Chân khí trong người thoát đi hết nhà sư cố gượng ngồi dậy cũng không được nữa.
Ðinh Xuân Thu đánh ngã Huyền Nạn rồi đảo mắt nhìn chung quanh chỉ thấy Công Dã Can nằm dưới đất run lên bần bật vì trúng phải hàn độc chưởng của Du Thản Chi. Ngoài ra Ðặng Bách Xuyên, Tiết Mộ Hoa đang chiến đấu ác liệt với bọn đồ đệ mình.
Bên phái Tinh Tú cũng có người bị thương nằm lăn ra đó, Ðinh Xuân Thu nổi lên một tràng cười phất tay áo một cái nhảy sổ tơi sau lưng Ðặng Bách Xuyên phóng chưởng đánh ra, rồi thuận lại đá Bao Bất Ðồng một cước. Ðăng Bách Xuyên cũng phóng chưởng ra đánh Ðinh Xuân Thu, nhưng người y tựa hồ đã mắc trọng bệnh, toan hô hấp chân khí ngưng thần điều dưỡng thì Ðinh Xuân Thu lại phóng ra một chưởng nữa.
Ðặng Bách Xuyên bất đắc dĩ phải phóng chưởng ra nghinh địch. Bàn tay y cảm thây mát lạnh rồi lập tức sinh lực trong ngươi tiêu tan. Trước mắt chỉ thấy một vùng lờ mờ như sương trắng.
Một tên đệ tử phái Tinh Tú chạy tới giơ tay ra gạt. Ðặng Bách Xuyên ngã lăn ra.
Mới trong khoảnh khắc bọn thủ hạ Mộ Dung, những nhà sư chùa Thiếu Lâm do Huyền Nạn thống lĩnh cùng bọn thủ hạ hàm cốc bát hữu do Khang Quảng Lăng dẫn dạy đều bị Ðinh Xuân Thu cùng Du Thản Chí chia nhau đánh ngã.
Du Thản Chi nội lực rất thâm hậu nhưng võ nghệ hãy còn tầm thường.
Mấy bữa nay gã được Ðinh Xuân Thu chỉ điểm cách vận chưởng phóng quyền đã tiến bộ rất nhiều. Nhưng dù sao vẫn chưa được thuần thục tinh diệu. Có điều gã phát huy chất hàn độc băng tằm thì có thừa.
Bọn Công Dã Càn đối chưởng vói gã, kể ra thì chưởng lực của bọn này hơn gã nhiều, song chỉ chiến đấu một lúc là đều bị thương ngã lăn ra.
Bên này chỉ còn một mình Tiết Mộ Hoa chưa bị thương. Tiên sinh cũng có xung kích, nhưng bọn đệ tử phái Tinh Tú đều mỉm dười né tránh chứ không trả đòn.
Ðinh Xuân Thu cười nói:
- Tiết hiền điệt! Trong bọn đồng môn chỉ có mình ngươi là võ công cao hon cả. Ngươi có muốn cùng sư thúc tỉ thí một phen không?
Tiết Mộ Hoa thấy bọn sư huynh sư đệ đồng môn đều nằm lăn hdưới đất chỉ có mỗi mình là chưa việc gì. Thì việc rằng bọnh thủ hạ Ðinh Xuân Thu không có ý hại mình là để mình chữa thuốc ccho nhà sư béo kia.
Tiên sinh thở dài đáp:
- Ðinh lão tặc! Ngươi toan dùng lối đem mỡ dử mèo để bức ta trì bệnh cứu người. Nhưng ngươi nghĩ thế là lầm, không ăn thua gì đâu.
-
Hồi 60 - Sợ Oai Thần Hộ Hoa Đành Khuất Phục - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 60 - Sợ Oai Thần Hộ Hoa Đành Khuất Phục
Ðinh Xuân Thu vẩy tay nói:
- Tiết hiền điệt! Lại đây!
Tiết Mộ Hoa muốn bướng không lại, song tiên sinh lại nghĩ rằng nếu lão muốn giết cũng như trở bàn tay, đành phải tiến đến còn chừng ba bước thì đứng lại.
Ðinh Xuân Thu vươn tay trái ra vịn vào Tiết Thần Y tủm tỉm cười hỏi:
- Tiết hiền điệt! Hiền điệt tập luyện võ công đã bao lâu?
Tiết Mộ Hoa đáp buông thỏng:
- Ba mươi lăm năm.
Ðinh Xuân Thu thở dài nói:
- Công trình vất vả ba mươi lăn năm trời không phải là ít! Ta nghe hiền điệt dùng y thuật chữa bệnh cho người để đổi lấy võ công. Bao nhiêu môn phái đem những tuyệt nghệ truyền lại cho hiền điệt nên hiền điệt biết rất nhiều chiêu thức tinh diệu, có đúng thế không?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Những cái vật đó phỏng có chi đáng kể, nhất là đối với con mắt ngươi lại càng không ăn thua gì.
Ðinh Xuân Thu lắc đầu nói:
- Không phải thế! Không phải thế! Có điều con người ta phải lấy nội lực làm căn bản, chiêu thức làm ngọn ngành. Nhưng nói thế không phải là chiêu thức kém bề quan trọng. Tỉ như gã đệ tử ta đây...
Lão trò Du Thản Chi nói tiêp:
- Nội lực gã thật là hùng hậu, nếu gã lại biết đủ những chiêu thức như Tiết hiền điệt thì chẳng khác gì hổ thêm cánh tha hồ tung hoành ở đất Trung Nguyên. thành thực mà nói về nội lực tiết hiền điệt hơi kém môt chút, cho nên chiêu thức dù tinh diệu đến đâu cũng không bổ túc được. Giả tỉ nội lực Tiết hiền điệt bị tiêu tan hết không còn được chút nào trong mình thì dù có chiêu thức tuyệt diệu cũng thành phế nhân. Khi đó chẳng những mất hết võ công mà đến trí não cũng bị tổn thương rất nhiều, dù hiền điệt có muốn làm nghề trị bệnh cho người cũng không thể được nữa.
Tiết Mộ Hoa nghe nói toát mồ hôi trán ra. Tiên sinh hiểu rằng mỗi câu nói lão quái đều nhằm mục đích uy hiếp mình.
Tiết Mộ Hoa lại thấy bàn tay lão đặt trên vai mình từ từ phát ra luồng nhiệt khí, nếu mình chỉ phân tâm nghĩ sang chuyện khác, sơ hở một chút không đề phòng mà lão đem "Hóa công đại pháp" để hại mình thì công trình rèn luyện vất vả ba mươi lăm năm trời bị tan ra mây khói.
Ðinh Xuân Thu lại hỏi:
- Ta nói vậy hiền điệt có tin chăng?
Bao Bất Ðồng đang nằm dưới đất lơn tiếng mắng:
- Ngươi nói thúi lắm ai mà tin được?
Ðinh Xuân Thu cặp mắt loang loáng vẫn nhìn Tiết Mộ Hoa chòng chọc để chờ tiên sinh trả lời.
Tiết Mộ Hoa ngiến răng đáp:
- Ngươi đã là kẽ mặt người dạ thú, hạ sát cả sư huynh thì bây giờ ngươi hạ sát bọn anh em ta tám người có chi là đáng kể? Công trình ba mươi lăm năm tu luyện vất vả bị tiêu tan dĩ nhiên đáng tiếc. Nhưng tính mạng còn chẳng giữ được thì kể gì đến công trình vất vả?
Bao Bất Ðồng reo lên khen ngợi:
- Mẹ nó! Tiết tiên sinh nói mấy câu này thật đáng mặt con người có khí phách.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Tiết hiền điệt! Ta hãy tạm tha mạng cho hiền điệt và chỉ hỏi hiền điệt tám câu:
Hiền điệt có chữa cho nhà sư béo kia không?
Ngừng một lát lão nói tiếp:
- Câu thứ nhất hiền điệt trả lời không chịu thì ta lập tức hạ sát đại sư huynh của hiền điệt là Khang Quảng Lăng. Câu thứ hai hiền điệt lại trả lời không chữa thì ta giết nhị sư huynh hiền điệt là Phạm Bách Linh. Rồi tuần tự như thế cho đến câu thứ bảy ta giết bát sư đệ hiền điệt là Lý Quỷ Lổi.
Lão tủm tỉm cười hỏi tiếp:
- Ðến câu thứ tám hiền điệt vẫn không chịu chữa thì đoán thử coi ta sẽ làm gì nào?
Tiết Mộ Hoa nghe lão nói dùng đến cách thảm khốc như vậy thì sắc mặt xám ngắt đáp:
- Bấy giờ ngươi sẽ giết ta chứ có chi quan trọng.
Ðinh Xuân Thu cười hề hề nói:
- Ta đâu giết đâu giết hiền điệt một cách vội vàng như vậy. Nếu tới câu thứ tám mà hiền điệt vẫn trả lời không chữa thì ta sẽ hạ sát một người tự xưng là Thông Biện tiên sinh tên gọi Tô Tinh Hà!
Tiết Mộ Hoa gầm lên:
- Ðinh lão tặc! Ngươi cả gan dám động đến chân lông của sư phụ ta ư?
Ðinh Xuân Thu lạnh lùng đáp:
- Có gì không dám? Trước nay Tinh Tú tiên sinh đã làm việc gì cũng tự ý mình, không biết sợ ai. Lời ta nói bữa nay, sáng mai ta lại quên cũng không sao. Tuy ta đã hứa với Tô Tinh Hà là nếu y ngậm miệng lại không nói gì nữa ta tha chết cho. Nhưng nếu hiền điệt chọc giận ta thì đồ đệ phạm lỗi ta đổ lên đầu sư phụ chứ sao? Ta muốn giết y là ta giết thiên hạ còn ai làm gì nổi ta?
Tiết Mộ Hoa ruột như mớ bòng bong, tiên sinh biết rõ lão sư thúc này bất luận việc gì tàn ác đến đâu cũng làm được. Nếu mình nhất định không chữa cho nhà sư Tam Tĩnh thì sư phụ mình là Thông Biện tiên sinh cũng chết về tay lão. Nhưng tiên sinh lại e rằng, nếu chữa cho nhà sư kia thì biết đâu cái dụng ý của lão còn hiểm độc gấp mười, mình chữa cho nhà sư là giúp cho kẻ ác làm điều tàn bạo.
Tiết Mộ Hoa trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Thôi được! Ta đành chịu khuất phục ngươi. Với điều kiện là sau khi ta chữa cho vị hóa thượng đó rồi, ngươi không được làm khó dễ các bạn bè của ta đây cũng như sư phụ, sư huynh và sư đệ ta.
Ðinh Xuân Thu cả mừng đáp:
- Ðược lắm! Ta tha cái mạng kiến ruồi cho họ.
Ðặng Bách Xuyên nói:
- Ai cần ngươi tha mạng. Bậc đại trương phu bữa nay chẳng may trúng phải gian kế của ngươi chết thì đành chết chứ sao? Nhưng ta chắc rằng đời ngươi sẽ gặp kết quả tàn khốc hơn.
Nguyên thanh âm Ðặng Bách Xuyên oang oang như tiếng chuông đồng, song lúc này chân khí bị tiêu tan nên tuy lời nói khẳng khái mà thanh âm chỉ phều phào không có khí lực như trước.
Bao Bất Ðồng nói:
- Mẹ kiếp! Tiết Mộ Hoa đừng mắc vào cạm bẫy của nó. Thằng chó chết này vừa mới biểu lời nói của nó không có gì đáng tin cậy má!
Ðinh Xuân Thu nói:
- Tiết hiền điệt! Ðây ta bắt đầu hỏi câu thứ nhất: Hiền điệt có chịu chữa cho nhà sư béo không?
Lão vừa nói vừa đưa chân phải ra. Ðầu bàn chân nhằm huyệt thái dương Khang Quảng Lăng tựa hồ như để chờ Tiết Mộ Hoa đáp lại câu không chữa là lão phóng chân đánh chết Khang Quảng Lăng lập tức.
Ai nấy trống ngực đánh thình thịch thì nghe có tiếng la lớn:
- Không chữa!
Người thốt ra hai tiếng không chữa không phải là Tiết Mộ Hoa mà lại là Khang Quảng Lăng.
Ðinh Xuân Thu cười lạt nói:
- Mi tưởng chỉ nói vậy là ta đá chết ngươi ngay ư? Sự việc không phải dễ dàng thế đâu.
Lão quay lại nhìn Tiết Mộ Hoa hỏi tiếp:
- Phải chăng hiền điệt muốn mượn ta để giết chết đại sư huynh?
Tiết Mộ Hoa thở dài nói:
- Thôi ta đành ưng thuận lời ngươi, chữa cho nhà sư kia là xong!
Khang Quảng Lăng liền mắng Tiết Thần Y:
- Tiết ngũ lão! Ngươi thật chẳng ra trò gì cả. Ðinh lão tặc là đại thù của sư môn ta mà ngươi chịu khuất phục dưới sự uy hiếp của lão ư? Tiết Mộ Hoa đáp:
- Lão giết bọn sư huynh, sư đệ chúng ta chẳng có chi quan hệ. Nhưng đại ca không nghe thấy lão biểu là xúc phạm sư phụ hay sao? Bọn Khang Quảng Lăng nghĩ đến mối an nguy của sư phụ không dám nói gì nữa.
Bao Bất Ðồng lên tiếng:
- Bọn ngươi toàn là...
Gã định mắng:
Toàn là đồ hèn nhát. Nhưng đang nói dở câu thì Ðặng Bách Xuyên đã đưa tay ra bịt miệng gã lại.
Bao Bất Ðồng bình sinh vẫn đem lòng kính nể đại sư huynh nên đành nuốt giận không mắng nữa.
Tiết Mộ Hoa nói:
- Lão họ Ðinh kia! Ta đã phải chịu khuất theo lời ngươi chữa cho nhà sư béo. Vậy ngươi phải đối đãi với bạn hữu ta cho lịch sự.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Nhất quyết ta theo lời ngươi.
Thế rồi Tiết Mộ Hoa vào nhà hầm sai gia nhân khiêng những người bị thương ra.
Nhà sư Tam Tĩnh co rúm lại thành đống thịt lù lù tựa hồ quả bóng khổng lồ. Lão vừa trông thấy Huyền Nạn thì hồn vía lên mây.
Tiết Mộ Hoa không nhiều lời nữa bắt tay vào việc cứu chữa bệnh nhân:
nào tiếp xương, nào chữa thương, bận rộn cho đên lúc trời sáng tỏ mới xong việc.
Những người bị thương đều có chỗ riêng biệt:
Người nằm giường, kẻ nằm trên cánh cửa nghĩ ngơi điều dưỡng.
Gia nhân nhà họ Tiết làm thức ăn cho mọi người điểm tâm.
Ðinh Xuân Thu ăn hai bát miến rồi quay lại cười hỉ hả với Tiết Thần Y:
- Hiền điệt quả là người biết thời vụ không bỏ thuốc độc vào thức ăn.
Tiết Mộ Hoa nói:
- Về cách dùng thuốc độc thì khắp thiên hạ có ai bằng ngươi. Dù ta có muốn vậy nhưng e câu: "Múa rìu qua mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm."
Ðinh Xuân Thu cười ha hả nói:
- Hiền điệt kêu giai nhân đi thuê cho ta mười cổ xe lừa về đây.
Tiết Mộ Hoa nói:
- Ngươi dùng mười cổ xe lừa làm gì?
Ðinh Xuân Thu trợn mắt lên nói:
- Việc của ta sao hiền điệt được hỏi?
- Hiền điệt có quen với nhiều người tưởng thuê mười cổ xe lừa cũng chẳng khó khăn gì?
Tiết Mộ Hoa không nói sao được, đành kêu người nhà đi thuê xe.
Vào giờ ngọ, mười cổ xe lừa lục tục kéo đến.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Bao nhiêu phu xe giết hết đi!
Tiết Mộ Hoa cả kinh hỏi:
- Sao?
Bỗng thấy bọn đệ tử phái Tinh Tú phóng chưởng ra một loạt. Cả mười tên phu xe ngã chết nằm ngổn ngang dưới đất.
Tiết Mộ Hoa cả giận nói; - Ðinh lão tặc! Bọn phu xe có thù oán gì với ngươi mà ngươi giết họ? Ngươi... ngươi... thật là độc ác!
Ðinh Xuân Thu nói:
- Phái Tinh Tú muốn giết mấy mạng người chẳng lẽ còn tính đến chuyện phải quấy, bàn đến lý lẽ nữa hay sao?
Bọn ngươi bấy nhiêu người ai nấy lên xe hết cả đi, không lưu lại một người nào!
Lão lại giục Tiết Thần Y:
- Tiết hiền điệt! Hiền điệt có bao nhiêu sách vở cùng thuốc men và những đồ tùy thân lấy hết đem đi! Ta đốt nhà này bây giờ!
Tiết Thần Y lại càng kinh hãi. Nhưng tiên sinh biết lão này nói chẳng có điều gì tàn ác nào là lão không dám làm, nói lắm cũng chẳng vô ích. Bao nhiêu sách thuốc tiên sinh đã thuộc lòng cả rồi không cần đem đi nữa. Nhưng bao nhiêu thứ cao đơn hoàn tán, tiên sinh đã mất bao nhiêu tâm lực đều là những vật hiếm có đều gói ghém lại. Tiên sinh tức quá không làm sao được chỉ rủa thầm con người độc ác.
Tiết Thần Y thu nhặt hết dược liệu ra rồi thì bọn đệ tử phái Tinh Tú phóng hỏa đốt nhà!
Bọn Huyền Nạn, Khang Quảng Lăng, Ðặng Bách Xuyên đều là những tay bản lĩnh không vừa, song người thì bị "Hóa công đại pháp" của Ðinh Xuân Thu làm cho biến thành phế nhân, kẻ thì trúng phải chất hàn độc con Băng Tằm trong người Du Thản Chi.
Trong sáu nhà sư phái Thiếu Lâm vào hành chữ Tuệ có hai người là Tuệ Kinh, Tuệ Thu đã vâng lệnh Huyền Nạn đại sư muốn trốn về chùa Thiếu Lâm báo tin. Nhưng có ngờ đâu Ðinh Xuân Thu bố trí cực kỳ nghiêm mật, hai nhà sư đã chia nhau hai ngã mà đều bị đối phương túm được bắt trở lại.
Bọn Huyền Nạn phái Thiếu Lâm cả thảy bảy nhà sư, bọn Ðặng Bách Xuyên thủ hạ Mộ Dung công tử có năm người, bọn "Hàm Cốc bát Hữu" là sư huynh, sư đệ Khang Quảng Lăng cả thảy tám người. Tất cả cộng được hai mươi người thì chỉ có mình Tiết Mộ Hoa là chưa tổn thương chút nào, còn ngoài ra mười chín người bị trọng thương, không sao tự chủ được. Trong đám này có A Bích trúng độc nặng hơn cả. Ðinh Xuân Thu không muốn để nàng chết ngay liền cho nàng uống một viên thuốc giải khiến cho chất độc trong người nàng giảm bớt đi và lâm vào hoàn cảnh sống dở chết dở.
Cả đoàn hai mươi người thêm vào đó người nhà Tiết Mộ Hoa cũng đến mấy chục người đều bị bọn đệ tử phái Tinh Tú quẳng lên mười cổ xe lừa. Bọn đệ tử này tự đánh xe lấy còn ngoài ra đều cỡi ngựa áp giải đi.
Bọn Huyền Nạn trong lòng nảy ra không biết bao nhiêu nghi vấn và đều tự hỏi:
- Tên lão tặc này dẫn bọn ta đi đâu?
Nhưng ai cũng hiểu rằng mình có dò hỏi chỉ tổ lão mắng cho nhục nhã chứ quyết lão không trả lời.
Rồi ai nấy đều kết luận:
- Mình đành tạm nhẩn nại chờ đến nơi sẽ biết.
Mọi người lên xe cả rồi, bọn đệ tử phái Tinh Tú liền buông rèm xuống dùng dây thừng buộc chặt rèm lại để những người ngồi trong xe không nhìm thấy cảnh vật bên ngoài.
Xe đi lộc cộc suốt ngày đêm, bọn Huyền Nạn, Ðặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng đều là những tay hào kiệt võ lâm hiện thời, nhưng bây giờ võ công mất hết biến thành những tù nhân mặc người bố trí.
Ban đầu mọi người còn theo dõi phương hướng xe đi, hoặc theo dõi ánh mặt trời để tìm hiểu phương vị hầu suy đoán xem bọn họ đưa mình đi đâu. Nhưng mỗi khi trời tối Ðinh Xuân Thu liền chỉ huy đoàn xe đi vòng vèo lúc Nam lúc Bắc, thoắt Ðông thoát Tây. Người trong xe không còn cách nào tìm hiểu được hiện mình ở khu vực nào và đi về phương hướng nào.
Mỗi khi đi qua một thị trấn, phái Tinh Tú lại mua lừa, ngựa để đổi những con nào yếu quá và mệt nhọc.
Mọi người chỉ phỏng đoán được là mình đang đi về phía Ðông Nam.
Ðoàn xe đi như vậy đã được tám ngày, đến ngày thứ chín, đoàn xe chạy lẹn đèo núi, đường xá ghập ghềnh. Người trong xe bị tung lên hất xuống, xương cốt mỏi nhừ, đau nhức, cực kỳ khó chịu.
Bọn Huyền Nạn chỉ mới một nội lực thì còn khá, còn Bao Bất Ðồng, Phong Bá Ác, những người bị chất độc của con Băng Tầm hành hạ thì những lúc này, thật khốn khổ vô cùng, cơ hồ chịu không nỗi.
Ð ến giờ ngọ đường lên núi mội lúc một dốc thêm. Sau cùng đến một nơi cao quá, đoàn xe không tài nào đi lên được.
Bọn đồ đệ phái Tinh Tú đành gọi bọn Huyền Nạn xuống xe.
Nơi này toàn rừng trúc âm u, phong cảnh rất là u nhã tịch mịch. Bên đường người ta đã chặt những cây trúc lớn, dựng lên một cái trạm này rất tinh xảo bằng những tay thợ tuyệt khéo.
Trương A Tam nhìn thấy cách kiến trúc, trong lòng thán phục vô cùng. Gã nhìn kỹ xung quanh hồi lâu trong lòng nảy ra nhiều mối nghi ngờ.
Mọi người vào quán Lương Ðình ngồi ngó ra thì thấy bốn người ở trên đỉnh núi chạy xuống dốc, mọi người nhìn kỷ lại thì hai người đi đầu chính là đệ tử Ðinh Xuân Thu.
Trước khi đoàn xe dừng lại, chúng đã chạy lên núi hoặc để dò đường hoặc để báo tin. Hai người đi sau là hai thanh niên ăn mặc theo kiểu nông thôn, chạy đến trước mặt Ðinh Xuân Thu thi lễ rồi cầm phong thơ đưa lên.
Dinh Xuân Thu mở thơ xem rồi cười lạt nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi chưa chịu thua còn muốn quyết một trận sinh tử thì lý đương nhiên ta phải bồi tiếp.
Chàng thanh niên hán tử hơi biến sắc lấy trong bọc ra một cái pháo ống lệnh, quệt lửa lên đốt.
Ðùng một tiếng. Ống lệnh vọt lên không trung.
Những ống pháo lệnh thôg thường chỉ nổ đùng một tiếng bắn lên không trung nổ đoàng một tiếng nữa rồi vỡ tan tành. Nhưng pháo ống lên này bắn lên không rồi còn nổ lên ba tiếng "đoàng, đoàng, đoàng." Tiếng sau càng nở lớn hơn.
Trương A Tam nghe tiếng pháo ống lệnh này có vẻ khác thường gã không nghi ngờ gì nữa, nhìn Khang Quảng Lăng khẽ nói:
- Ðại ca! Thứ pháo này chính là của bản môn chế ra.
Pháo nổ xong, chẳng mấy chốc, bỗng thấy xuất hiện hơn ba mươi người đều ăn mặc theo kiểu nông thôn từ trên đỉnh núi đi xuống. Những người này đều cầm những binh khí dài.
Khi bọn họ xuống gần tới nơi, mọi người mới nhìn rỏthì những thứ họ cầm tay không phải là binh khí mà những đon khiêng bằng tre trúc.
Cứ hai cái đòn trúc thì quãng giữa lại buộc dây lưới. người có thể ngồi vào đó được.
Ðinh Xuân Thu mỉm cười nói:
- Chủ nhân mời quý vị chẳng nên khách khí, xin ngồi vào võng đi!
Bọn Huyền Nạn nhất nhất lên võng ngồi.
Cứ hai Ðại Hán thanh niên lại khiêng một người rồi chạy nhanh như bay theo dốc lên núi.
Ðinh Xuân Thu tay áo rộng thùng thình bay phất phới đi trước để hướng dẫn. Lão không ra vẻ gì hấp tấp. Nhưng lão vượt dốc núi như cơn gió. Chân lão tựa hồ không chấm đất và chỉ trong khoảng khắc lão đã biến hút vào trong khu rừng trúc ở trước mặt.
Bôn Huyền Nạn, Ðặng Bách Xuyên trúng phải hóa công đại pháp mấy bữa nay trong lòng vẫn ân hận tự cho mình lầm mắt tay yêu tà đến nỗi bị thương, chứ không phải mình kém sức chiến đấu. Ðến bây giờ thấy khinh công của lão phi thường như vậy, mới biết rằng bản lãnh lão lại càng khủng khiếp, bất giác khâm phục vô cùng lẩm bẩm một mình:
- Giả tỉ lão không dùng yêu thuật mình cũng không địch nỗi lão.
Phong Bá Ác dạ thẳng lòng ngay buột miệng khen luôn:
- Khinh công lão yêu này thật là tuyệt dịu, ta bội phục vô cùng!
-
Hồi 61 - Đoàn Dự Cùng Vương Ngọc Yến Lại Xuất Hiện - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 61 - Đoàn Dự Cùng Vương Ngọc Yến Lại Xuất Hiện
Phong Bá Ác vừa thốt lời khen thì những tên đệ tử phái Tinh Tú đi bên áp giải cũng tranh nhau lên tiếng tán tụng sư phụ. Chúng biểu võ công Ðinh Xuân Thu hiện thời khắp thiên hạkhông có người bì kịp, cả từ xưa đến nay những tay võ học đại sư như Ðạt Ma lão tổ gì gì đi nữa cũng không thể bằng được.
Chúng tuôn ra những câu xiểng nịnh quá mức mọi người chưa từng nghe thấy.
Bao Bất Ðồng nói:
- Này các vị lão huynh! Tuyệt nghệ phái Tinh Tú thật là chưa có một môn phái nào bì kịp, có thể nói là những tuyệt nghệ độc đáo, không tiền khóng hậu!
Bọn đệ tử khoái quá đồng thanh hỏi:
- Theo ý kiến của hảo hán thì võ công của bản phái, môn nào lợi hại hơn nhất?
Bao Bất Ðồng đáp:
- Há phải chỉ có một môn, ít ra là ba môn.
Bọn đệ tử cao hứng hỏi lại:
- Ba môn là những môn gì?
Bao Bất Ðồng nói:
- Môn thứ nhất là "Mã thí công"! Nếu không luyện tinh htục môn này thì e rằng ở trong quý môn thúi quá không còn chỗ nào dong thân. Môn thứ hai là "Pháp luân công" nếu không thổi phồng võ công cùng đức hạnh quý phái thì chẳng những bị sư phụ ghét, mà giữa bạn đồng môn với nhau cũng khuynh loát tiêu diệt nhau không còn đất đứng. Còn môn thứ ba nữa là Hậu nhan công. Nếu không mặt dày chẳng còn biết liêm sỉ là gì thì làm sao luyện nổi được hai môn đặng kỳ công nói trên, tức là Mã thí công và Pháp loa công.
Bao Bất Ðồng nói vậy ai cũng tưởng bị bọn đệ tử phái Tinh Tú nổi giận và nhất tề lên chân xuống tay đánh gã. Nhưng sự thật lại khác hẳn, bọn đệ tử Tinh Tú Lão Quái nghe Bao Bất Ðồng nói xong ai ai cũng lẳng lặng gật đầu:
- Lão huyng thật là thông minh, hiểu bản phái rất sâu sa. Có điều ba loại thần công Mã thí, Pháp hoa và Hậu nhan luyện tập rất khó, người thế tục có kiến thức sâu sa mới biết được cái hay của nó, còn thì đều cho là hư hỏng. Chỉ bao giờ trong tâm không còn những ý niệm coi thường cả mọi sự thì việc tu luyện Hậu nhan công mới có tiến bộ và gặp những trường hợp khẩn yếu mới khỏi thất bại.
Bao Bất Ðồng vốn tính ưa nói trào phúng gã không bao giờ tưởng đến bọn này lại có những mưu hay kế giỏi, chẳng nghi ngờ gì, trong lòng gã bất giác lấy làm kinh dị. Gã cười nói tiếp:
- Thần công của quý phái vi diệu không biết đến đâu mà lường. Tại hạ khôn xiết ngưỡng mộ, muốn xin đại tiên mở dẫn dụ thêm cho.
Tên nọ thấy Bao Bất Ðồng kêu mình bằng đại tiên thì tưởng mình bay bổng lên từng mây, nói:
- Lão huynh không phải là người bản phái thì những thần công bí hiểm đó không thể đem truyền thụ cho lão huynh được. Bí quyết quan hệ nhất là phụng sự sư phụ coi như một vị thần minh thì lão gia mới phóng ra một phát... thúi thúi!
Bao Bất Ðồng cướp lời:
- Cái đó bảo là thơm chứ!
Người kia gật đầu nói:
- Ðúng lắm! Tư chất lão huynh thật là giỏi. Nếu có nhập môn vào bổn phái phải có bản lĩnh vi diệu như thế được. Có điều đáng tiếc là đi lạc đường tiến vào bàng môn tả đạo. Tuyệt nghệ của bản môn tuy biến hóa thiên hình vạn trạng, song bí quyết căn bản không phiền phức lắm đâu. Chỉ cần nhớ bốn chữ "mạt sát lương tâm" là gần đủ rồi đó.
Bao Bất Ðồng gật đầu lia lịa nói:
- Nghe đại tiên nói một lúc còn hơn đọc sách mười năm. Chả trách người xưa có câu rằng: "Ban sáng được nghe lời đạo đức, ban tối chết ngay cũng không có gì đáng tiếc nữa." Tại hạ hâm hộ quí phái vô cùng! Giận mình không được vào môn hạ. Chẳng hay đại tiên có tiện dẫn được chăng?
Người kia đáp:
- Muốn quy đầu bản phái đâu phải là chuyện dễ? Ta xem chừng lã lão huynh không chịu nổi bao nhiêu lần thử thách cực kỳ gian nan khốn khổ?
Một tên đệ tử khác nói:
- Chổ này có nhiều tai mắt, không nên nói chuyện nhiều. Gã họ Bao kia! Nếu ngươi thực tâm muốn quy đầu bản phái, ta sẽ bịa và bẫm giúp với sư phụ cho, tưởng cũng không có điều gì đáng ngại lắm.
Nên biết rằng phái Tinh Tú muốn thu rất ngiều môn đệ khắp nơi. Tên đồ đệ nào bắt được người có căn cốt quy đầu, đều được kể là có công với môn phái.
Bọn Ðặng Bách Xuyên, Công Dã Càn nghe Bao Bất Ðồng thỉnh thác tên đệ tử phái Tinh Tú thì không khỏi vừa tức mình vừa buồn cười, nghĩ thầm trong bụng:
Trên đời sao còn có hạng người vô liêm sĩ, lấy chuyện nịnh bợ làm vinh, thật là trên đòi rất hiếm vậy.
Trong khi nói chuyện, đoàn người đã tiến vào một cái hang núi.
Trong khe núi này mọc toàn một thứ thông reo.
Gió thổi thông reo rào rạt khác nào sóng vỗ bi bõm.
Ðoàn người tiến vào trong khu rừng thông này một lúc nữa thì đến trước ba gian nhà gỗ. Trước cửa nhà này dưới một gốc cây lớn có hai người ngồi đánh cờ và hai người ngồi coi.
Ðoàn người dần dần tiến vào gần đến nơi.
Bao Bất Ðồng thốt nhiên nghe thấy Lý Quỷ Lổi ngồi ở trên võng sau mình hắng giọng lấy hơi dường như sắp lên tiếng, nhưng rồi lại thôi.
Bao Bất Ðồng quay lại nhìn gã thì thấy sắc mặt lợt lạt, vẻ cực kỳ sợ hãi.
Bao Bất Ðồng chợt hiểu nguyên do, chợt thấy trong hai người xem đáng cờ thì một người là Ðinh Xuân Thu và người nữa là một thiếu nữ đẹp.
Hai người ngồi đáng cờ thì gã bên hữu là một lão già gầy khẳng gầy kheo, còn người ngồi mé tả là một thiếu niên công tử xinh tươi.
Bao Bất Ðồng vừa nhận ra công tử và nữ lang, buột miệng la lên:
- Vương cô nương! Sao cô nương lại ở đây? Cô nương cùng đi với gã họ Ðoàn này đến đây phải không?
Nguyên nữ lang khuynh quốc đó là Vương Ngọc Yến còn chàng thanh niên tử là Ðoàn Dự.
Bao Bất Ðồng khi ở Thính Hương Tịnh Xá của A Châu đã Ðoàn Dự một lần. Chẳng những gã gặp mặt mà còn nắm cổ tay chàng cơ hồ muốn gãy xương cốt.
Vương Ngọc Yến là biểu muội của Mộ công tử, Bao Bất Ðồng thấy nàng cứ lè kè với Ðoàn Dự trong lòng bất mãn vô cùng!
Vương Ngọc Yến chỉ ậm ừ chứ không quay đầu lại. Nàng để hết tinh thần vào xem đánh cờ.
Bàn cờ vẽ trên phiến đá xanh. Quân trắng, quân đen đều bóng lọng lấp loáng. Hai bên đã bắt đến hơn trăm quân.
Ðinh Xuân Thu ngồi tựa vào lão già khẳng kheo, mắt cũng không trông ra ngoài mà chỉ chăm chú nhìn vào bàn cờ.
Ðoàn Dự trong tay cầm một quân cờ đen, trầm ngâm chưa đặt xuống.
Bao Bất Ðồng la lên:
- Ô kia lão tiên sinh! nhà có khách đến, lão tiên sinh chẳng ra tiếp khách, chỉ chúi đầu vào xem đánh cờ là nghĩa làm sao?
Bỗng thấy bọn Khang Quảng Lăng, Phạm Bách Linh, tất cả tám người "Hàm cốc bát hữu" còn ngồi trong võng khiêng đã hấp tấp nhảy xuống chạy đến trước bàn cờ đá xanh còn chừng một trượng đều quỳ cả xuống.
Bao Bất Ðồng kinh ngạc hỏi:
- Các ngươi làm trò khỉ gì thế?
Nhưng gã vừa dứt lời, gã tỉnh ngộ ngay đoán biết lão già gầy khẳng kheo kia là "Thông Biện Tiên Sinh" mà khắp thiên hạ kêu bằng Lung Á Lão nhân và tức là sư phụ "Hàm Cốt Bát Hữu" nhưng có điều là lão lấy làm kỳ là lão đang chạm trán với kẻ thù là Tinh Tú Lão Quái Ðinh Xuân Thu mà sao ngồi còn rỗi đánh cờ được?
Hơn nữa kẻ đối thủ với lão lại không phải một tay trọng yếu, mà chỉ là một anh đồ gàn không hiểu võ công.
Bỗng thầy Khang Quảng Lăng lên tiếng:
- Vãn bối xem chừng lão tiền bối bây giờ lại khoẻ mạnh hơn trước. Tám người anh em chúng tôi thật vui mừng khôn xiết.
Bọn "Hàm Cốt Bát Quái" đã bị Thông Biện Tinh Sinh Tô Tinh Hà đuổi ra khỏi môn phái, nên bọn này đến bái kiến không dám dùng hai tiến sư phụ để xưng hô mà kêu bằng lão tiền bối.
Khang Quảng Lăng lại nói tiếp:
- Huyền Nạn đại sư chùa Thiếu Lâm cũng tới đây.
Nên biết rằng Huyền Nạn là sư đệ Huyền Từ đại sư phương trượng chùa Thiếu Lâm, ở vào vị trí cao cả trong vỏ lâm. Tô Tinh Hà không ra nghênh tiếp đã là thất lễ rồi. Thế mà Huyền Nạn vào tới nơi, lão vẫn ngồi nghiễm nhiên đánh cờ, thì càng phạm tội đại bất kính.
Tô Tinh Hà nghe nói Huyền Nạn đến cũng hơi giật mình. Lão đứng dậy nhìn mọi người xá dài một cái rồi nói:
- Pháp giá Huyền Nạn đai sư tới nơi mà lão phu không ra nghêng tiếp thật là đắc tội!
Lão nói vài câu lấy lệ, chẳng buồn nhìn Huyền Nạn đại sư, vội quay ngay vào nhìn bàn cờ.
Mọi người thấy "Lung Á Lão Nhân" này chẳng những tai nghe rất tinh mà miệng vẫn còn nói năng như thường, thì ra lão chẳng câm chẳng điếc gì hết, nên ai nấy đều kinh ngạc.
Huyền Nạn đáp lễ nói:
- Tiên sinh lại quá lời!
Nhà sư thấy Tô Tinh Hà coi cuộc cờ một cách quan trọng thì nghĩ bụng:
- Lão này ôm đồm đủ thứ: cầm, kỳ, thi, họa chẳng món nào là không giỏi. Chả trách võ công lão thua kém sư đệ là phải lắm.
Giữa lúc im lặng, thốt nhiên Ðoàn Dự lên tiếng:
- Hay lắm! Cứ đi thế này là được!
Nói xong đặt con cờ đen xuống bàn.
Tô Tinh Hà không cần nghĩ ngợi gì cầm quân cờ trắng đi ngay.
Ðoàn Dự đã đi được hơn mười nước rất cao. Ðến nước này chàng vừa đặt con cờ đen xuống thì Tô Tinh Hà cũng cầm con cờ trắng đặt xuống ngay.
Hai bên đi được mười mấy nước.
Ðoàn Dự bỗng thở dài nói:
- Ký lý tiên sinh tinh diệu vô cùng, vãn bối không tài gì phá nổi.
Kể thế là Tô Tinh Hà được cuộc, vậy mà lão lại tỏ ra vẽ buồn rầu nói:
- Nước cờ của công tử rất sâu sắc kín đáo. Mười mấy nước trước thật là cao đến tột độ. Có điều công tử chưa chịu nghĩ kỹ hơn một chút. Ðáng tiếc, đáng tiếc! Hỡi ơi! Thật là đáng tiếc.
Lão nói liền bốn câu đáng tiếc tỏ vẻ thành thật băn khoăn.
Ðoàn Dự lượm mấy quân cờ đen bên mình lên bỏ vào chiếc hộp gỗ.
Tô Tinh Hà cũng lượm mười mấy quân cờ trắng cuả mình.
Nhị đệ tử trong "Hàm Cốc Bát Hữu" là Phạm Bách Linh cũng là tay mê cờ. Gã quỳ ở đằng xa xem cuộc cờ này không phải là cuộc đấu cờ chơi giữa sư phụ và chàng thanh niên công tử kia, mà là một thế cờ do sư phụ mình bày ra để chàng công tử kia phá giải, nhưng chàng lại không phá nổi.
Về cờ thế vi kỳ (cờ vây) có nhiều vấn đề rất nan giải. Thế cờ có sinh, tử, kiếp, phải tính toán nát óc và khó lòng phá được.
Phạm Bách Linh quỳ mọp xuống đất nhìn không được, gã phải nghễnh lên mới nhìn thấy.
Tô Tinh Hà nói:
- Các người đứng cả lên! Phạm Bách Linh! Thế cờ này quan hệ phi thường! Ngươi lại đây để coi cho rõ. Ngươi phá được là một điều tuyệt diệu.
Phạm Bách Linh mừng quá vâng ngay, rồi đứng dậy tiến lại bên bàn cờ chú ý nhìn.
Về thế cờ vây thông thường. Thế nhỏ chỉ mười mấy con mà nhiều ra là bốn năm chục con. Nhưng thế cờ này đặt biệt có đến dư hai trăm con. Bàn cờ đã đến lúc sắp kết thúc, trong hai bên đen, trắng hiện ra những thế biến ảo vô cùng phức tạp.
Phạm Bách Linh đã nghiên cứu vi kỳ đến mấy chục năm và đã thành một tay cao thủ nổi tiếng bậc nhất trong miền này. Thế mà gã vừa trông vào bàn cờ đã phải đầu nhức mắt hoa. Gã cố tính toán gốc phiá hữu bên đen và thế sinh, tử đã đủ làm cho khí huyết chạy lộn nhào rồi.
Gã định thần tính toán lần thứ hai lại phát giác ra rằng, mình tính lần trước thế cờ đen thuộc về tử mà thực ra vẫn còn có đường lối vào chỗ sinh. Khi gã tính đến bên cờ trắng thì biến diễn càng phức tạp. Gã suy nghĩ một lúc nữa thì thấy mắt mũi tối sẫm lại, trong cổ ọc ra một tiêng rồi miệng thổ máu tươi ra.
Tô TInh Hà lạnh lùng nhìn Phạm Bách Linh, nói:
- Thế cờ này cực kỳ khó phá. Bữa nay gặp ngày mở thế cờ ra phá, cứ mười năm mới một lần. Trời xui đất khiến ngươi tới đây vừa đúng lúc. Ta biết rằng tư chất ngươi có hạn, nên hai mươi năm trước ta không để ngươi tham dự cuộc này. Bữa nay thật là số trời định trước, ngươi đến vừa gặp dịp, vậy ngươi có phá không?
Phạm Bách Linh đáp:
- Ta mong cho ngươi được thành công.
Phạm Bách Linh nhìn thế cờ hồi lâu rồi người lảo đảo, lại hộc máu tươi ra.
Ðinh Xuân Thu cười lạt nói:
- Gã này đến chết oan mất thôi! Không hiểu gã mang lấy nghiệp khổ ải vào thân làm gì? Lão tặc kia (tức sư tổ) bày ra chuyện rắc rối này cốt để hành hạ người, giết chết người. Có thể biểu những kẻ muốn phá thế cờ này là tự chui vào tròng vậy.
Tô Tinh Hà đưa mắt lườm Ðinh Xuân Thu hỏi:
- Ngươi kêu sư phụ bằng gì?
Ðinh Xuân Thu đáp:
- Y là một tên lão tặc, ta kêu y bằng lão tặc chứ sao?
Tô Tinh Hà nói:
- Lung Á lão nhân bữa nay không câm không điếc nữa, chắc ngươi phải biết lý do tại sao chớ?
Ðinh Xuân Thu nói:
- Hay lắm! Người nói lời rồi lại ăn lời. Ðó là tự ngươi tìm lấy cái chết, đừng có trách ta tàn ác.
Bọn Khang Quảng Lăng ngơ ngác nhìn nhau nghĩ thầm:
- Ngày trước lão quái này bức bách sư phụ mình giả câm giả điếc mới chịu lời không giết. Bữa nay sư phụ đột nhiên mở miệng nói năng, chắc là quyết ý liều mạng với lão rồi! Trong lòng mọi người vừa nao núng lại vừa phấn khởi.
Tô Tinh Hà tiện tay cầm một phiến đá lớn ở bên mình đặt lại cạnh Huyền Nạn, nói:
- Xin mời đại sư phụ ngồi xuống đây!
Huyền Nạn thấy phiến đá lớn nặng ít ra cũng năm sáu trăm cân, thế mà Tô Tinh Hà tuổi già, người lại gầy khẳng gầy kheo, thân hình chua chắc đã chục tám chục cân thế mà lão cất nhắc vật nặng lẹ như chơi, tuyệt không phải dùng sức.
Nhà sư lẩm bẩm:
- Cứ coi một việc nhắc tảng đá lên cũng đủ biết công lực lão thâm hậu vô cùng! Chính mình lúc chưa bị mất võ công muốn cất tảng đá nay lên cũng phải chật vật, đâu có được dễ dàng ung dung như lão.
Nhà sư chấp tay để trước ngực nói:
- Ða tạ lão tiên sinh!
Tô Tinh Hà lại nói:
- Thế cờ này do tiên sư lão bày ra. Người đã đem hết tâm huyết ròng rã ba năm trời mới nghĩ ra được thế cờ này. Người đã bày ra thế cờ tất mong trên đời có kẻ sỉ tri kỷ phá giải được. Tại hạ khổ công nghiên cứu trong ba mươi năm trời...
Nói tới đây lão đảo mắt nhìn bọn Huyền Nạn, Ðoàn Dự, Phạm Bách Linh một lượt rồi nói tiếp:
- Huyền Nạn đại sư tinh thông về khoa thần học, đã hiểu bí quyết thần công chắc đã nghiệm ra rằng, mình tốn công khổ luyện bao nhiêu năm trời mà phần giác ngộ chưa chắc đã kịp người thường, có người chỉ mất rất ít thời gian mà thấu thiệt. Về kỳ lý cũng vậy, có khi đứa nhỏ chừng tám chín tuổi đấu cờ với tay cao thủ mà thắng được. Tại hạ biết rằng mình nghiên cứu chưa được thấu đáo, nhưng những bậc anh tài trong thiên hạ rất nhiều, biết đâu chả có người phá được thế cờ này?
Ngừng một lát, Tô Tinh Hà lại nói tiếp:
- Lúc tiên sư qua đời còn để lại chút tâm nguyện này. Giả tỷ có người phá được thế cờ tức là hoàn thành tâm nguyện cho tiên sư. Thì tiên sư ở dưới suối vàng cũng mỉm cười khoan khoái.
Huyền Nạn nghĩ thầm:
- Thầy trò Thông Biện tiên sinh truyền thụ cho nhau các môn cầm kỳ thi họa cùng tạp nghệ, bất luận môn gì cũng đến chỗ tinh diệu. Họ đem hết thông minh tài trí suốt đời chuyên chú vào bấy nhiêu nghề chơi, để đến nổi Ðinh Xuân Thu hoành hành trong bản môn không còn uy kỵ gì nữa, vì không còn ai cấm đoán nổi lão. Như vậy thật là đáng buồn!
Bỗng lại nghe Tô Tinh Hà nói:
- Vị sư đệ tại hạ đây...
Lão trỏ Ðinh Xuân Thu nói tiếp:
- Ngày trước y phản bội sư môn, hạ sát tiên sư và đánh tại hạ không sao trả đòn được. Lẽ ra tại hạ đành một chết cho vẹn nghĩa với thầy. Nhưng chưa hoàn thành được chút tâm nguyện của sư phụ nếu mình cũng chết theo, không còn ai tìm được người phá thế cờ thì có xuống suối vàng cũng chẳng dám nhìn mặt sư phụ. Vì lẽ đó mà phải nhẩn nhục cho đến ngày nay.
Lão thở dài nói tiếp:
- Tại hạ phải giữ lời ước với Ðinh sư đệ là bưng kín miệng bình không nói năng gì nữa. Chẳng những một mình tại hạ thành người câm điếc, mà cả các đồ đệ mới thu nạp sau này cũng bắt buộc họ phải phải cắt lưỡi chọc tai cho thành câm điếc. Hỡi ôi! ròng rã ba mươi năm trời vẫn chưa được gì. Thế cờ của tiên sư để lại vẫn không có người nào phá nổi. Vị công tử đây hạ được mười mấy con đầu, đều là những nước cực kỳ tinh diệu. Tại hạ đang hy vọng tràn trề, ngờ đâu cơ sai một nước đến nổi sau cùng lại bí thua.
Ðoàn Dự có vẻ thẹn thùng nói:
- Tại hạ tư chất ngu độn để phụ lòng kỳ vọng của lão trượng thật xấu hổ vô cùng...
Chưa dứt lời, bỗng nghe Phạm Bách Linh kêu lên một tiếng thật to, miệng ọc máu tươi ra như suối rồi ngã ngửa về đằng sau.
Tô Tinh Hà khẽ nghiêng người đi.
Vèo vèo vèo!
Lão búng ba con cờ ra đánh trúng vào huyệt đạo trước ngực Bách Linh và ngăn được gã thôi thổ huyết.
Mọi người còn đang kinh ngạc, bỗng nghe đánh"cách" một tiếng, từ trên không bay xuống một vật đen trúng vào bàn cờ.
Tô Tinh Hà nhìn lại thì là một miếng vỏ cây tùng rớt đúng vào góc trên bên phải bàn cờ chổ đường thứ tám và thứ chín gặp nhau. Ðó là nước mấu chốt để phá thế cờ.
Lão ngẩng đầu lên nhìn xem thì thấy thấp thoáng mảnh áo trường bào lộ ra ở trên cây tùng cách xa năm trượng về mé tả. Rõ ràng có người nấp trên đó.
Tô Tinh Hà vừa kinh hãi vừa mừng thầm, lẩm bẩm:
- Có người phục ở đây mà mình chẳng biết gì. Võ công người này thật đã đến bực ghê hồn. Tuy chỗ đó cách đây khá xa, mình đang để tâm vào bàn cờ nên không biết.
Nhưng người này ở ngoài năm trượng lấy miếng vỏ cây làm con cờ bắn xuống đúng chỗ thì thật là thần diệu. Nếu quả thế cờ của sư phụ được phá xong thì thật đáng cảm tạ ơn trời đất.
Ðoàn Dự cũng hạ con cờ thứ nhất vào hàng số tám và số chín giao nhau về góc trên bên phải.
Tô Tinh Hà cầm con cờ trắng lên toan đi thì bên tai đột nhiên lại nghe tiếng vù vù nhỏ nhẹ một hạt gì sắc trắng đi qua sau lưng mình bay tới rớt xuống chỗ hai giòng số tám giao nhau về góc trên bên phải, và chính là chỗ Tô Tinh Hà muốn đặt cờ xuống.
Mọi người đều la lên một tiếng kinh ngạc, quay đầu nhìn ra thì không thấy bóng một người nào cả. Cây tùng ở mé hữu cũng không cao mấy. Nếu có người nấp ở đó thì trông thấy ngay, không hiểu người này nấp chỗ nào?
Tô Tinh Hà rất làm ký, nhìn lại hạt trắng này thì là mẩu gỗ cây tùng vừa mới nậy ra.
Hạt trắng vừa liệng xuống thì trên cây tùng mé tả lại bắn xuống một hạt đen rớt vào điểm hàng năm và cột mười giao nhau ở góc trên bên phải bàn cờ.
Mọi người mắt đổ dồn trông về mé hữu để chờ xem con cờ trắng sẽ từ đâu phát ra.
-
Hồi 62 - Mộ Dung Công Tử Cùng Cưu Ma Trí - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 62 - Mộ Dung Công Tử Cùng Cưu Ma Trí
đấu bàn cờ thế sự
Bỗng nghe tiếng vù vù vang lên, một hạt tròn tròn sắc trắng bay vòng trên không gian xoáy trôn ốc rồi rớt thẳng xuống bàn cờ trúng vào điểm tứ ngũ (chỗ đường ngang số bốn và dường dọc số năm gặp nhau) ở góc khứ (góc trên về phía bên tay phải).
Con cờ bay xoáy thành hình trôn ốc, nên không biết nó phát ra từ đâu? Xem nó từ trên không rớt xuống rất đúng chỗ thì đủ biết người phóng con cờ này công phu về phòng ám khí thật là khủng khiếp mọi người bàng quan khâm phục vô cùng, hoan hỉ rầm rộ.
Tiếng hoan hô chưa dứt, bỗng nghe từ trong đám lá cây tùng, giọng ra một âm thanh sang sảng:
- Tuyệt kỷ về phóng ám khí của Mộ công tử quả nhiên thiên hạ vô song, thật là đáng bội phục.
Vương Ngọc Yến nghe đến bốn chữ "Mộ công tử" vội la lên:
- Biểu ca! Biểu ca ở chỗ nào vậy?
Bất thình lình ở trên bàn cờ xuất hiện thêm một người.
Người này mình mặc áo tăng màu sắc tro ra kiểu một nhà sư đứng tuổi, mắt sáng như sao, tướng mạo nghiêm trang hé cười nửa miệng. Không ai nhìn rõ nhà sư này ở trên cây thông nhảy xuống lúc nào.
Ðoàn Dự vừa nhìn thấy nhà sư thì giật mình kinh sợ, lẩm bẩm:
- Lão ma đầu Cưu Ma Trí lại đến rồi!
Hai tay lão chắp trước ngưc nhìn Tô Tinh Hà, Ðinh Xuân Thu, Huyền Nạn đại sư thi lễ.
Cưu Ma Trí thò tay vào hộp cầm lấy một con cờ đen đặt xuống bàn.
Vương Ngọc Yến hai má ửng hồng, rồi nàng nhất quyết đứng lên dời gót, chạy ra mé hữu sau cây tùng và những tảng đá lớn để tìm Mộ Dung công tử. Miệng nàng không ngớt gọi.
Mộ Dung Phục nghe Cưu Ma Trí nói mấy câu này không khỏi giật mình, Chàng thừa biết những câu nói của lão bao hàm ý nghĩ sâu xa. Trong đầu óc chàng nảy ra nhiều mối cảm xúc. Bao nhiêu làn sóng tư tưởng nhào lộn trong tâm khảm chàng trước hai câu nói của Cưu Ma Trí: "Công tử cùng tôi lẩn quẩn với nhau trong một góc biên cương còn chưa gỡ ra được thì nghĩ làm gì đến việc đuổi hươu ở Trung Nguyên cho mệt."
Trước mắt chàng cảnh vật dần dần hóa ra lờ mờ. Những quân cờ đen, trắng trên bàn tựa hồ biến ra những dũng tướng, binh lính, bên Ðông một đoàn người ngựa, bên Tây một khu doanh trại. Bên địch vây mình. mình cũng vây lại bên địch thành một thế trận, chém giết nhau lung tung không phân rõ thắng bại.
Mộ Dung Phục dương cặp mắt lên tường chừng như binh mã nước Ðại Yên nhà mình đương bị địch bao vây, phải tả xung hữu đột mà thủy chung vẫn không thoát ra khỏi vòng vây. Rồi chàng nghĩ đến mình tận tâm kiệt lực cũng không có cách nào dẫn binh mã ra được.
Từ lúc Mộ Dung công tử thộn mặt ra không nói gì tinh thần mê loạn.
Vương Ngọc Yến cùng Ðoàn Dự và bọn Ðặng Bách Xuyên, Công Dã Càn đều chăm chú nhìn không chớp mắt.
Chàng càng ngĩ càng nóng ruột, chàng la hoảng:
- Nước Ðại Yên ta vận mệnh đã hết rồi, khó lòng phục quốc được! Mấy đời nay hao tổn biết bao nhiêu tâm cơ mưu đồ việc lớn mà rút cuộc biến thành một trường ảo mộng. Ôi thời vận! Ôi số mệnh! Biết nói sao bây giờ?
Rồi đột nhiên chàng kêu to lên một tiếng, rút kiếm đâm cổ tự vận.
Mọi người thấy Mộ Dung Phục đột nhiên rút kiếm ra tự vận một cách bất ngờ không ai tưởng đến, thì bọn Ðặng Bách Xuyên nhất tề nhảy lại toan giải cứu, song công lực đã mất hết, thàng ra chậm mất một bước.
Ðoàn Dự vừa phóng ngón tay trỏ ra điểm, vừa hốt hoảng kêu lên:
- Không nên làm thế!
Vừa nghe"véo"một cái, thanh trường kiếm trong tay Mộ Dung Phục bật ra rớt xuống đất đánh"choang"một tiếng.
Cưu Ma Trí nói:
- Thật là tuyệt diệu! Ðoàn công tử phóng ra một chiêu Lục Mạch Thần Kiếm kỳ tuyệt!
Mộ Dung Phục thấy thanh trường kiếm rời khỏi tay thì giật nảy mình lên như người mơ mộng choàng tỉnh giấc.
Vương Ngọc Yến nắm lấy tay Mộ Dung Phục lắc qua lắc lại vừa khóc vừa nói:
- Biểu ca biểu ca! Thế cờ phá được hay không phỏng có chi là quan hệ mà biểu ca phải khổ não đến thế?
Mộ Dung Phục hoang mang đáp:
- Ta bị ma quỷ ám ảnh hay sao vậy?
Vương Ngọc Yến nói:
- May mà Ðoàn công tử đánh rớt được thanh trường kiếm trong tay biểu ca, không thì... không thì...
Công Dã Càn nói:
- Thế cờ này làm mê mẩn làng người, xem ra dường như có ảo thuật bên trong. Công tử chẳng nên lao tâm khổ trí nghĩ tới làm gì nữa!
Mộ Dung Phục quay lại nhìn Ðoàn Dự hỏi:
- Các hạ, chiêu vừa rồi phải chăng đúng là một kiếm chiêu trong Lục Mạch Thần Kiếm? Ðáng tiếc tại hạ chưa trông rõ! Các hạ có thể thi triển lại chiêu đó cho tại hạ coi đặng mở tầm con mắt?
Ðoàn Dự hỏi:
- Vừa rồi công tử không trông thấy ư?
Mộ Dung Phục bộ mặt bẽn lẽn đáp:
- Tại hạ trong lúc tâm thần mê man dường như có ma quỷ gì ám ảnh nên không biết gì hết.
Bao Bất Ðồng lớn tiếng nói xen vào:
- Phải rồi! Ðúng là Tinh Tú Lão Quái đứng bên thi triển tà pháp! Công tử phải cẩn thận mới được!
Bất thình lình có tiếng phụ nữ đàng xa vọng lại:
- Xuân Thu ca ơi! Tôi tìm ca ca khổ chết được, thì ra ca ca đa vào Trung Nguyên rồi. Ca ca đi tìm tôi phải không? Nếu vậy ca tôi sung sướng biết chừng nào!
Thanh âm này nói nhát gừng theo chiều gió đưa lại nhưng nghe rất rõ.
Ðoàn Dự bỗng la lên:
- Úi chà! Ðúng là "Vô Ác Bất Tác" nhị Nương rồi!
Ðinh Xuân Thu nghe Diệp Nhị Nương gọi, bộ mặt thật ra chiều bẻn lẻn, cặp mắt lão láo liên đảo nhìn rất nhanh và thoáng lộ một vầng sát khí!
Bỗng thấy Diệp Nhị nương lại la lên:
- Xuân Thu ca ca ơi! Sao ca ca không đáp lời tôi? Chẳng lẽ ca ca bỏ tôi rồi, không tìm tôi nữa?
Tuy tiếng mụ kêu gọi thiết tha cảm động, nhưng thanh âm mụ sặc lẳng lơ khiến người nghe thấy phải khó chịu.
Bao Bất Ðồng lên giọng ỏn ẻn nói:
- Muội Muội yêu qquý ơi! Ca là Ðinh Xuân thu đây! Ca ca nghĩ đến Muội Muội như đứt từng khúc ruột!
Bỗng một âm thanh khác lên tiếng ồm ồm:
- Ồ lão Ðinh Xuân Thu cũng ở đây ư? Thế thì ta chả vào nữa!
Ðoàn Dự lẩm bẩm một mình:
- Ủa! đồ đệ ta là nam hải Ngạc thần Nhạc lão Tam cũng đến đó rồi!
Lại nghe tiếng Diệp Nhị Nương nói:
- Sợ cóc gì? Y ăn thịt ngươi được đâu?
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Mỗi lần ta gặp lão là y như rằng ta khó chịu hàng nữa năm trời. Ta chả muốn thấy mặt hắn làm gì?
Diệp Nhị nương nói:
- Lần này có đại ca ở đây, ngươi bất tất phải sợ Xuân Thu ca ca!
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Ðại ca ư! Liệu người có bảo giá được không?
Ðoàn Dự nghĩ thầm:
- Té ra thái tử Diên Khánh cũng tới đây. Ðồ đệ ta trước đây chẳng biết sợ trời sợ đất gì, mà sao lão sợ Ðinh Xuân Thu đến thế? Thật là một sự không ngờ.
Bỗng có tiếng người khác nói:
- Ðinh Xuân Thu đâu có phải ba đầu sáu tay. Ðoàn Diên Khánh này đang muốn gặp lão đây!
Giữa lúc tiếng người nói qua nói lại, đồng thời bốn người ở dưới chân núi đi lên.
Người đi đầu là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương.
Người thứ hai mình mặc áo xanh dùng cây gậy chống đất đi. Chính là Ác Quán Mãn Doanh Ðoàn Diên Khánh.
Còn Nam Hải Ngạc Thần thì đi sau mãi ở đàng xa, xem chừng lão theo bọn này ra chiều miễn cưỡng.
Ðoàn Dự đoán chắc người thứ tư là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc, nhưng không phải, người này là một nhà sư trọc đầu.
Khi bốn người tới gần nhìn thấy rõ nhà sư thân hình vừa phải, trạc tuổi hai mươi ba, hai mươi bốn. Cặp mắt loang loang sắc như dao. Chỉ có bộ mặt xưng vếu lên và đỏ nhừ. Áo tăng bào rách mướp. Trên trán đầy nét xanh xám, chân đi tập tễnh, rõ ra nhà sư đã bị người đánh bị thương, và thương thế trầm trọng.
Diệp Nhị Nương chạy mỗi lúc mỗi một lẹ thêm .
Mụ vẫn lên tiếng gọi nheo nhéo:
- Ca ca ơi! Ca ca vẫn phong độ như xưa. Lần này đã gặp đây, tôi không buông tha ca ca nữa đâu.
Mụnói xong chạy lại gần Ðinh Xuân Thu.
Mọi người xem dáng điệu cùng lời nói yêu mị của mụ đã tưởng rằng mụ sẽ nhảy xổ vào lòng Ðinh Xuân Thu để ôm cổ gã. Dè đâu mụ còn cách Ðinh Xuân Thu chừng một trượng thì dừng chân lại cười nói:
- Oan gia ơi! Ta muốn đến cùng oan gia ôn lại mối tình nồng nhiệt! Oan gia có giận ta không?
Ðinh Xuân Thu vẫn giữ bộ mặt nghiêm trang ra vẻ tỉnh phong đạo cốt, không có gì xâm phạm vào mình được.
Lão húng hắng ho rồi nói:
- Bữa nay Thông Biện Tiên sinh mời các vị cao nhân đương thời đến đây phá thế cờ. Ðoàn tiên sinh! Diệp cô nương! Nhạc huynh! Mấy vị đều chiếu cố thật là may mắn vô cùng! Còn vị này là ai!
Lão vừa nói vừa đưa mắt nhìn nhà sư trẻ tuổi mà chưa quen biết.
Nhà sư kia bỗng la lên:
- Sư bá tổ! Lão gia cũng đến đây ư?
Nhà sư nói xong chạy đến trước mặt Huyền Nạn đại sư lạy phục xuống đất.
Huyền Nạn nhìn nhà sư nhận ra y là đệ tử vào hàng Tam Ðại (ba đời, tức hàng cháu). Những đệ tử này tại chùa Thiếu lâm có đến dư trăm người, mà Huyền Nạn vị cao vọng trọng, rất ít khi giao thiệp với họ, trừ ra hơn mười tên tùy tùng hàng tam đại nhưng đã lớn tuổi hay là có bản lãnh xuất sắc hơn cả đám thì đại sư mới nhớ được mà thôi, chứ không biết hết được.
Nhà sư tuổi trẻ này, tướng mạo không có gì khác biệt, kỹ thuật không có gì khác thường, Huyền Nạn chỉ biết y là đệ tử chùa Thiếu Lâm, nhưng không biết pháp hiệu là gì, liền hỏi trống không:
- Ngươi đến đây làm chi?
Nhà sư kia đáp:
- Ðệ tử là Hư Trúc, vâng lệnh sư phụ mang một phong thơ đến chùa Thanh Lương tại Ngũ Ðài Sơn. Trên đường về, đệ tử gặp ba vị thí chủ đây, thì vị này...
Y trỏ Diệp Nhị Nương nói tiếp:
- Vị thí chủ này đang nắm lấy một đứa nhỏ, sắp móc tim gan ra ăn.
Huyền Nạn hừ lên một tiếng, cặp lông mày nhíu lại, dáng điệu oai nghiêm nhìn thẳng vào mặt Diệp Nhị Nương.
Diệp Nhị Nương nói:
- Người đời đều khen tim gan trẻ nít là bảo bối, vả lại còn gì ngon hơn món đó, khắp thiên hạ đều công nhận như vậy. Các nhà sư chùa Thiếu Lâm nhất định được ăn đã nhiều rồi!
Huyền Nạn run lên nói:
- Tội nghiệp! Tội nghiệp!
Trong lòng nhà sư tức giận vô cùng. Giả tỉ công lực chưa bị tiêu tan thì có lẽ đã vung chưởng ra đánh yêu phụ rồi.
Diệp Nhị Nưong cười nói:
- Gã đệ tử của đại sư đây còn nhỏ tuổi mà đã thích lên mặt giả đạo đức, giả chính kinh đến khuyên tiểu muội buông tha đứa nhỏ ra. Tiểu Muội hỏi lại gã: "sao lại can thiệp vào việc người ngoài" nhưng gã không nói rõ lai lịch mình. Thế rồi tam đệ tiểu muội (tức Nam Hải Ngạc Thần) điên tiết lên tát cho gã mấy cái. Gã cũng không vừa, dám động thủ trả đòn. Tam đệ toan moi tim gã ra ngay tức khắc, nhưng đại lão ca (tức thái tử Diên Khánh) nhận ra gã là đệ tử chùa Thiếu Lâm liền ngăn lại không cho tam đệ giết gã mà chỉ đánh gã một trận rồi đem theo đi.
Hư Trúc nói:
- Ðệ tử tư chất ngu muội, học nghề không tinh, làm tổn thương đến oai danh Thiếu Lâm, cam đành lãnh phạt. Sư bá tổ! Nữ thí chủ đây móc vào bụng một đứa trẻ khôi ngô kháu khỉnh, lấy gan tim ra ăn. Xin sư bá tổ ra tay trừ diệt một cái hại cho đời.
Ðoàn Diên Khánh, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần trông tướng mạo Huyền Nạn đại sư, lại nghe Hư Trúc gọi lão bằng sư bá tổ thì biết rằng lão là một tay cao thủ chùa Thiếu Lâm, nên cả ba người ngấm ngầm phòng bị.
Họ chưa biết lúc này Huyền Nạn đã mất hết công lực, vỏ công thua cả người thường.
Diệp Nhị Nương cười nói:
- Xuân Thu ca ca! Chú tiểu này quên ơn phụ nghĩa. Chúng tôi đã tha mạng không giết mà gã còn thêu dệt nên chuyện thị phi.
Ðột nhiên nghe đánh vèo một tiếng rồi tiếp theo một tiếng roạc.
Trước mắt quần hùng lấp loáng một bóng người. Chẳng ai bảo ai đều đồng thanh la hoảng:
- Úi chà!
Vương Ngọc Yến thẹn quá mặt đỏ bừng bừng lên gọi rối rít:
- Biểu ca! Biểu ca!...
Vạt áo trước của Diệp Nhị Nương rách toạt một tiếng, để lộ cả da ngực trắng như tuyết ra.
Nguyên Mộ Dung Phục nghe Hư Trúc biểu mụ đàn bà móc tim con nít ra mà ăn, y thấy Huyền Nạn chần chừ không chịu ra tay thì cơn lửa giận bốc lên ngùn ngụt, không tài nào dằn lòng được, lập tức thi triển "Hổ Trảo Công."
Năm ngón tay phải biến thành móng vuốt chụp vào ngực Diệp Nhị Nương một cách rất mau lẹ.
Họ Mộ Dung đã nổi tiếng toàn chơi lối "gậy ông đập lưng ông" Diệp Nhị Nương không thể né tránh mà cũng không kịp đón đỡ, đáng lý mụ đã bị rạch bụng và tim gan bị móc ra máu chảy đầm đìa rồi. Không ngờ Ðinh Xuân Thu cử động cũng thần tốc ghê hồn. Lão vung chưởng ra nhằm đánh vào cổ tay Mộ Dung Phục.
Giả tỉ Mộ Dung Phục ra chiêu này thật sự thì cố nhiên giết chết Diệp Nhị Nương rồi. Nhưng chàng ra chiêu dở dang lại biến thế trảo thành thế chưởng để đối phó với thế chưởng của Ðinh Xuân Thu.
Hai người cùng rùng mình, đồng thời lui lại một bước.
Lúc Mộ Dung Phục đang biến thế chưởng, năm ngón tay vô tình trúng vào vạt áo trước Diệp Nhị Nương làm rách toạc một miếng lớn.
Ðinh Xuân Thu trong khi thảng thốt không kịp thi triển phép hóa công đại pháp nên hấp tấp phóng chưởng ra.
Chưởng hai bên vừa chạm nhau thì cả hai cùng biết rằng công lực đối rất ghê gớm và cùng lẩm bẩm:
- Quả nhiên danh bất hư truyền!
Mộ Dung Phục đánh một đòn không trúng, rồi trong khi vô ý lại làm rách áo Diệp Nhị Nương thì trong lòng thấy hổ thẹn, ngỏ lời xin lỗi:
- Tại hạ thật là đắc tội!
Mọi người ai cũng nghĩ rằng Diệp Nhị Nương bị rách áo tất phải thẹn thùng e lệ và lập tức tìm cách che đậy. Ngờ đâu mụ vẫn thản nhiên như không, lại còn dương dương tự đắc, rất quyến rũ nói:
- Bọn thanh niên này toàn là đồ háo sắc! Ai lại giữa chỗ đông người thế này mà gã kia dám vô lễ với lão nương! Xuân Thu ca ca! Ca ca không việc gì phải ghen tuông! Trái tim này bao giờ cũng hướng về ca ca. Có làm chi cái hạng trẻ con đó? Ca ca đừng thấy gã mặt mũi phương phi mà hờn giận. Tôi chả có lòng dạ gì với gã đâu!
Vương Ngọc Yến tức quá đỏ mặt như gấc chín, lên tiếng:
- Ngươi nói vậy mà không biết nhục! Ðâu lại có hạng đàn bà ăn nói sỗ sàng đến thế.
Diệp Nhị Nương hai vai cựa mạnh một cái cho chỗ áo rách rộng thêm ra, da thịt càng hở hang nhiều.
Mụ cười nói:
- Tiểu cô nương kia! Cô chưa hiểu chuyện phong tình, ta nói cho cô hay. Chàng phong lưu công tử đó không thích cô đâu. Bằng chứng là trước mặt cô mà gã vươn tay ra sờ vào trước ngực ta!
Vương Ngọc Yến cả giận nói:
- Không phải thế! Không phải thế! Ðừng có nói quàng!
-
Hồi 63 - Thế Cờ Bí Hiểm - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 63 - Thế Cờ Bí Hiểm
Một bên là Diệp Nhị Nương mồm năm miệng mười nói toàn một giọng phong tình, một bên Vương Ngọc Yến nét mặt đỏ gay, vừa tức vừa thẹn.
Ðoàn Dự muốn nói mấy câu an ủi nàng, nhưng không biết nói thế nào cho phải.
Mộ Dung Phục vẫn giữ vẻ mặt lạnh lùng, đưa mặt lườm Diệp nhị Nương một cái, nhưng không nói gì đến mụ, Y để hết tinh thần vào Ðoàn Diên Khánh.
Bọn Huyền Nạn, Cưu Ma Trí, Ðinh Xuân Thu, Tô Tinh Hà, Khang Quảng Lăng cũng chú ý theo dõi hành động của Ðoãn Diên Khánh.
Ðoàn Diên Khánh mắt vẫn đăm đăm nhìn bàn cờ. Lão ngưng thần suy nghĩ hồi lâu, lâu lắm rồi cây trúc trựơng bên tay trái lão thò vào hộp con cờ. Ðầu gậy của lão thò vào hộp con cờ. Ðầu gậy của lão tựa hồ như có hấp lực hút chặt lấy một con cờ đen đặt lên bàn.
Huyền Nạn khen rằng:
- Võ công họ Ðoàn nước Ðại Lý quả là thứ võ công độc đáo cõi Thiên Nam. Tiếng đồn thật đã không ngoa.
Ðoàn Dự đã được xem thái tử Diên Khánh ngày trước đấu cờ với Huỳnh Mi Tăng, nên biết rõ: chẳng những lão nội công thâm hậu mà lại rất cao cờ. Có khi lão phá được thế cờ này cũng chưa biết chừng.
Tô Tinh Hà vốn biết là một thế cờ thiên biến vạn hóa, mọi bước đi lão thuộc hết, nên vừa thấy thái tử Diên Khánh hạ cờ xuống đi, lập tức lão lấy một con cờ trắng đi luôn. Ðoàn Diên Khánh lại nghĩ một lúc rồi đi nước khác.
Tô Tinh Hà khen rằng:
- Các hạ đi nước cờ này thật là cao minh. Nhưng để còn xem những nước sau liệu có phá được quan ải tìm ra lối thoát chăng?
Nói xong lão đặt con cờ trắng xuống để cản đường.
Ðoàn Diên Khánh lại hạ con cờ khác xuống.
Nhà sư trẻ tuổi chùa Thiếu Lâm là Hư Trúc bỗng kêu lên:
- Nước này e rằng hỏng mất!
Nam Hải Ngạc Thần cả giận la lên:
- Nhà sư nhóc con này! Mi dám biểu đại ca đi nước đó không được!
Lão nắm lấy lưng nhà sư nhắc lên.
Ðoàn Dự thấy vậy nói ngay:
- Ðồ đệ ơi! Ðừng hại vị tiểu sư phụ đó!
Nam Hải Ngạc Thần từ lúc mới đã nhìn thấy Ðoàn Dự trong lòng lão hổ thẹn. Lão tính rằng hay hơn hết là đừng nói gì với chàng. Ngờ đâu chàng lại gọi lão, lão tức quá nhưng không làm sao được, đàng hậm hực đáp trống không:
- Ðừng hại thì thôi chứ sao? Cái đó có gì quan hệ?
Mọi người thấy Nam Hải Ngạc Thần chịu nghe lời Ðoàn Dự và chàng kêu lão bằng đồ đệ cũng không cãi lại, thì đều thì đều lấy làm ngạc nhiên.
Ðoàn Diên Khánh đi mỗi nước cờ lại phải nghĩ một hồi mới đi được nước khác càng về sau càng nghĩ lâu. Khi lão đi được hơn hai mươi nước thì mặt trời đã xế về Tây.
Mọi người đều thấy đói bụng.
Huyền Nạn thốt nhiên cất tiếng nói:
- Ðoàn thí chù! Mười nước thí chủ đi theo đường chính. Nhưng từ nước thứ mười một trở đi lại rẽ sang đường chếch, càng về sau càng lệch lạc mất đi, không còn cách nào cứu vãn được nữa!
Ðoàn Diên Khánh mặt trơ như xác chết trôi, không tỏ vẻ gì khác lạ, chỉ có trong cổ họng phát ra thanh âm:
- Ðại sư phái Thiếu Lâm là một chính tông, vậy theo tôn ý thì nói đường chính đạo làm thế nào để phá vỡ được thế cờ này?
Huyền Nạn thở dài nói:
- Thế cờ này chính không, tà không ra tà. Dùng chính đạo phá không xong, mà theo tà phá cũng không được!
Ðoàn Diên Khánh giơ đầu gậy trúc lên rồi dừng lại ở trên không. Người lão run lên, nghĩ mãi không đi được.
Hồi lâu lão lên tiếng:
- Phía trước không có đường đi, mặt sau lại có quân đuổi theo. Ði ngay thẳng không được, theo nẻo tà không xong. Thế mới khổ chứ!
Ðoàn Diên Khánh nguyên là phái võ chính tông họ Ðoàn nước Ðại Lý, nhưng về sau lão đi vào tà đạo. Huyền Nạn nói câu vừa rồi khiến cho lão xúc động can tường. Hoàn cảnh lão cũng tương tự như Mộ Dung công tử, dần dần lạc lõng vào cõi tà ma.
Thế cờ này biến ảo trăm chiều. Nó tùy theo bản ngã của con người mà thay đổi. Kẻ tham tài thì vì lòng tham mà sai lầm. Người hay nóng giận thì lại vì nóng giận mà lỡ nước.
Ðoàn Diên Khánh có cái hận suốt đời là sau khi thành người tàn phế, không bỏ chính tông không được, nên đành học pháp thuật bàng môn tả đạo. Mỗi khi lão phải để hết tâm thần vào việc gì thì ngoại tà xâm nhập khiến cho đầu óc lão đâm ra hoang mang hỗn loạn.
Ðinh Xuân Thu cười hề hề nói:
- Phải rồi! Con người ta ở đường chính đi vào nẻo tà thì dễ, chứ cải tà qui chánh thì khó lắm. Trời ơi! Cái cuộc đời này hỏng rồi, hỏng rồi! Ôi! Tiếc cho mình: Lỡ bước gây thành thiên cổ hận, hơi đâu trở lại cũng không xong!
Lão thốt ra những câu này đầy vẻ tiếc thương hối hận!
Bọn Huyền Nạn cùng những tay cao thủ đều biết rõ Tinh Tú Lão Quái nói những câu đó chẳng tử tế gì còn chứa chất bao nỗi nham hiểm.
Ðoàn Diên Khánh nghe lão, quả nhiên ngồi thộn mặt ra, nói bằng một giọng thê thảm:
- Lão phu đang ở ngôi cao cả là một vị hoàng tử trong nước Ðại Lý, thế mà nay phải lạc lõng chốn giang hồ, chìm đắm vào cảnh thân tàn ma dại này, thực xấu hổ với tiền nhân.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Các hạ chết xuống cửa tuyền còn mặt mũi nào trông thấy tiền nhân họ Ðoàn nửa? Nếu các hạ còn biết liêm sỉ thì bằng tự vận quách cho rồi. Như thế cũng đáng kể là hành vi của bậc anh hùng hào kiệt. Ôi Thôi! Các hạ nên tự tử đi thôi, nên tự tử đi thôi!
Lão nói bằng một âm điệu ôn tồn uyển chuyển khiến người nghe phải động tâm. Nếu là hạng công lực tầm thường thì nghe lời lão, tinh thần phải mê man buồn ngủ.
Ðoàn Diên Khánh lẩm bẩm một mình:
- Tự tử đi là hơn!
Lão cầm cây trúc trượng giơ lên từ từ điểm vào trước ngực mình. Nhưng công lực lão rất thâm hậu, lão ngấm ngầm hiểu rằng không được, tựa hồ trong thâm tâm lão có thanh âm phát ra:
- Không được! Không được! Nếu điểm mạnh thì hỏng bét!
Nhưng cây trượng ở tay trái cứ dần dần tiến vào từng tắc một.
Huyền Nạn lẩm bẩm:
- Chao ôi! Hỏng bét rồi!
Nhà sư có ý muốn nói để lão tỉnh lại. Nhưng muốn thốt ra lời cho có hiệu quả thì cần có nội lực tương đương. Nếu không thì chẳng ích gì mà còn tai hại nữa. Những tay cao thủ xung quay thì có Huyền Nạn lấy đạo từ bi làm gố và có ý muốn cứu viện, nhưng công lực đã bị mất hết không làm gì được.
Tô Tinh Hà nhớ lại lệ luật của sư phụ ngày trước dựng ra, không dám cứu viện.
Mộ Dung Phục biết Ðoàn Diên Khánh không phải là người tốt. Nếu lão có chết đi thì bớt cho thiên hạ được mối hại lớn có phải hay hơn không?
Cưu Ma Trí là con người ưa gieo tai rắc họa, lão chỉ cười hì hì rồi thỏng tay ngồi nhìn. Ðoàn Dự cùng Du Thản Chi tuy công lực thâm hậu nhưng lại không hiểu biết xâu xa hậu quả thế nào.
Vương Ngọc Yến tuy biết nhiều những môn võ công các phái, song công lực lại bình thường. Ðối với những công phu các bàng môn tả đạo nàng chỉ hiểu đôi chút. Tuy trông thấy hoàn cảnh xày ra trước mắt, má lại không hiểu tại sao có hoàn cảnh đó.
Diệp Nhị Nương thì nhất tâm muốn lấy lòng Ðinh Xuân Thu dĩ nhiên mụ không phá hoại những cuộc mưu đồ của lão. Bọn Ðặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng chẳng những mất hết công lực, mà họ cũng chẳng nghĩ gì đến chuyện cứu viện.
Tựu trung chỉ còn Nam Hải Ngạc Thần là ra chiều sốt sắng, lão thấy đầu trượng Ðoàn Diên Khánh chỉ còn cách trước ngực chừng vài tất. Nếu chần chừ giây lát đầu gậy sẽ đưa vào tử huyệt là hết đời.
Lão liền nghĩ tới Hư Trúc, liền la lên:
- Lão đại ca! Hãy đón lấy nhà sư này!
Nói xong liền xách nhà sư tuổi trẻ liệng tới trước mặt Ðoàn Diên Khánh.
Hư Trúc người cao lênh khênh đang bị ném về phía Ðoàn Diên Khánh thì Ðinh Xuân Thu phóng chưởng ra la lên:
- Cút đi! Ðừng đâm vào rắc rối câu chuyện!
Nam Hải Ngạc Thần đã dùng sức rất hùng hậu để liệng Hư Trúc mà vẩn bị phát chưởng mềm mại của Ðinh Xuân Thu hất nhà sư bật ngược trở lại về phía Nam Hải Ngạc Thần.
Nam Hải Ngạc Thần đưa hai tay đón lấy Hư Trúc toan liệng lại lần thứ hai về phía Ðoàn Diên Khánh. Lão không ngờ chưởng lực của Ðinh Xuân Thu rất mạnh, nên vừa mó vào Hư Trúc, đột nhiên hai mắt lão trợn tròn xoe, loạng choạng lùi lại ba bước, lão sắp đứng vững thì luồng hậu lực thứ hai lại đến khiến cho hai chân lão nhũn ra ngồi phệt xuống.
Nam Hải Ngạc Thần đã tưởng đến đây là hết. Không ngờ lại còn luồng hậu lực thứ ba dồn tới khiến cho lão ngồi không vững phải ngã lăn ra lộn đi một vòng. Hai tay lão đang nắm lấy Hư Trúc.
Hư Trúc bị lão đè lên một lần rồi lão lăn người y lại trật ra ngoài.
Nam Hải Ngạc Thần như con chim sợ cung tưởng cường lực Ðinh lão quái còn luồng hậu kình thứ tư, Hư Trúc thoát khỏi bàn tay Nam Hải Ngạc Thần liền đưa mắt nhìn Huyền Nạn để xem sư bá tổ xử trí ra sao, thì thấy Huyền Nạn lộ vẻ u buồn tỏ ra không làm gì được.
Tại phái Thiếu Lâm những đệ tử vào hạng tam đại hay tứ đại đều coi những vị cao tăng vào hàng chữ "Huyền" như những vị bồ tát. Bất luận vấn đề khó khăn đến đâu cũng trông vào những bậc này giải quyết cho. Thế mà bay Huyền Nạn đành chịu bó tay không có chước gì, kiên cho Hư Trúc cảm thấy sợ sệt vô cùng.
Hư Trúc tuy võ công bình thường nhưng thiền sư rất mực thông minh tuy y biết Huyền Nạn bị mất hết công lực, nhưng y biết ý Huyền Nạn rất muốn cứu tính mạng Ðoàn Diên Khánh, trong lòng thì xúc động, liền nói:
- Thưa sư bá tổ! Bệnh quỷ quái phải có thuốc tiên! Ðoàn tiền bối nhân thế cờ đã miên man, vậy mình phải dùng thế cờ này để giải trừ cho tiền bối.
Ðinh Xuân Thu vội nói:
- Không kịp nữa rồi! Diên Khánh Thái tử! Lão phu khuyên thái tử nên tự vận đi là hơn! Nên tự vận đi là phải!
Ðoàn Diên Khánh nói:
- Phải rồi sống ở trên đời cũng chẳng ích chi thà chết đi còn hơn!
Lão nói câu này thì đầu thần trượng chỉ còn cách vạt áo trước ngực hai tấc.
Dọc đường Hư Trúc đã bị Ðoàn Diên Khánh, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần ba người áp chế, y phải chịu bao nhiêu nỗi thống khổ. Nhưng y là người rộng lượng, không nghĩ gì đến thù cũ mà chỉ hoài báo tấm lòng từ bi của kẻ xuất gia.
Y lại nghĩ rằng:
- Sư bá tổ ra chiều muốn cứu người, thì y cũng không muốn Ðoàn Diên Khánh bất đắc kỳ tử. Có điều muốn giải trừ ma chưởng ám ảnh Ðoàn Diên Khánh thì cần giải quyết thế cờ vô cùng phức tạp này.
Y nghĩ đi nghĩ lại chưa ra được kế gì thì thấy Ðoàn Diên Khánh cặp mắt vẫn đăm đăm nhìn bàn cờ không chớp và nguy cơ sắp đến nơi rồi!
Ðột nhiên tâm linh Hư Trúc rung động, y nghĩ thầm:
- Dù ta không phá được thế cờ nhưng cứ đi loạn lên một lúc để cho lão phân tâm, tinh thần tỉnh lại là cứu được.
Nghĩ vậy liền nói:
- Vãn bối lại phá thế cờ đây!
Y lại bên Tô Tinh Hà, thò tay vào hộp lấy một quân cờ đen. Y nhắm mắt đặt quân cờ xuống bàn rồi nổi lên tràn cười ha hả.
Hư Trúc vẫn không mở mắt ra, bỗng nghe Tô Tinh Hà nổi giận nói:
- Ngươi vào đây phá quấy! Làm gì có lối cờ kiểu này?
Hư Trúc mở bừng mắt ra không khỏi tự thẹn, mặt đỏ bừng lên, vì y nhắm mắt đặt con cờ xuống bàn, thế nào đúng vào chỗ những con cờ trắng bao vây.
Bên cờ đen chỉ còn có một điểm đó để làm chỗ thở. Tuy bên cờ trắng có bắt hết. Nhưng nếu đi sai một nước thì lại còn cơ sống sót, phép đánh cờ vây là phải tranh giành đất sống. Thế mà Hư Trúc lại tự đem con cờ đen của mình đặt xuống để chẹn họng không khác gì tự tử. Bên cờ đen mà chết con này nữa là thua cuộc.
Bọn Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Ðoàn Dự thấy vậy bất giác cười ha hả.
Phạm Bách Linh tuy còn mệt nhọc đau đớn cũng không nhịn được cười reo lên:
- Thế này thì quả là thú tuyệt!
Tô Tinh Hà nói:
- Tiên sư lão phụ đã có di mệnh: Thế cờ này công bố với khắp thiên hạ, bất luận là ai cũng có thể vào cuộc phá giải. Hư Trúc tiểu sư phụ tuy đi được nước cờ lạ với lề lối thông thường nhưng vẫn là một nước cờ.
Lão vừa nói vừa nhặt bỏ những quân cờ đen thuộc về loại đã bị bắt bỏ ra ngoài bàn cờ.
Ðoàn Diên Khánh la lên một tiếng thật to, rồi như người đang mơ mộng choàng tỉnh giấc.
Lão đưa mắt nhìn Ðinh Xuân Thu nói:
- Tinh Tú Lão Quái! Ngươi thừa cơ người ta đang gặp lúc nguy nan mà ngấm ngầm thi hành độc kế. Việc này chúng ta không thể bỏ qua được.
Ðinh Xuân Thu quay lại nhìn Hư Trúc bằng con mắt đầy căm tức, oán giận.
Ðoàn Diên Khánh xem thế cờ biến hóa, lão tự biết rằng đáng lý mình chết rồi mà còn sống sót là nhờ ở Hư Trúc cứu viện. Trong lòng lão đâm ra có thiện cảm với nhà sư trẻ tuổi. Lão biết rằng thế nào Ðinh Xuân Thu cũng ôm mối hờn giận và nghĩ kế báo thù nhà sư Hư Trúc. Lão lặng lẽ không nói gì chỉ ngồi bên theo rồi để chiếu cố cho nhà sư.
Lão nghĩ thầm:
- Huyền Nạn đại sư là một vị cao tăng chùa Thiếu Lâm hiện có mặt tại đây, chắc là Tinh Tú Lão Quái cũng không làm gì nổi môn tử môn tôn phái Thiếu Lâm. Nhưng nếu Huyền Nạn cũng bị hôn mê không che chở cho y thì ta ra tay cứu viện, chớ không thể để y vì ta mà uổng mạng.
Bỗng nghe Tô Tinh Hà quay lại hỏi Hư Trúc:
- Tiểu sư phụ! Tiểu sư phụ đã tự giết một lũ quân cờ của mình, bây giờ bên trắng lại áp bức thêm một bước nữa, tiểu sư phụ đối phó thế nào đây?
Hư Trúc tươi cười đáp:
- Tiểu tăng rất kém cỏi về kỳ lý, đi nhăng một nước cốt để cứu người. Thế cờ này bây giờ tiểu tăng không biết đi nước nào nữa. Xin lão tiền bối lượng thứ cho.
Tô Tinh Hà sa sầm nét mặt nói:
- Tiên sư ta bày ra thế cờ này cốt để mời những tay cao thủ khắp thiên hạ đến phá giải. Phá giải không được cũng không sao. Còn nếu để ra tai vạ về sau là lỗi tự mình. Tỷ như ngươi đến phá quấy có ý khinh mạn đến tâm huyết của sư phụ lão phu. Dù người nhiều thế mạnh đến đâu, lão phu tuy vừa câm vừa điếc cũng liều chết để bảo vệ oai nghiêm của tiên sư.
Tuy lão là Lung Á lão nhân (ông già câm điếc) mà thực ra lão chẳng câm chẳng điếc chút nào. Bây giờ lão đang vểnh tai nghe, thế mà lão tự xưng là người vừa câm vừa điếc mới thật buồn cười. Có điều lão nói râu chồng ngược lên, thanh âm choang choảng như tiếng lệnh vỡ, vẻ mặt cực kỳ hung dữ, nên chẳng ai dám bật lên tiếng cười lão.
Hư Trúc chắp tay để trước ngực thi lễ nói:
- Lão tiền bối...
Tô Tinh Hà quát lớn:
- Ðánh cờ thì phải cầm quân đi, nói nhiều làm gì vô ích! Tâm huyết Tiên sư lão phu há để cho người ta đến phá khuấy làm trò tiêu khiển.
Nói xong vung tay phải lên phóng ra một chưởng đánh"sầm"một tiếng.
Cát bụi bay mù, chổ đất trước mặt Hư Trúc thụt xuống thàng một cái hố sâu rộng đến vài thước.
Chưởng lực này mãnh liệt vô cùng, nếu chỉ đánh xích thêm lên thêm một thước nữa thì xương cốt Hư Trúc đã nát như cám, chết uổng mạng rồi.
Hư Trúc sợ quá, trống ngực đánh thình thịch, dương mắt nhìn Huyền Nạn để cầu cứu sư bá tổ đứng ra cứu mình thoát khỏi cơn nguy cấp này.
Huyền Nạn về kỹ thuật đã tầm thường mà võ công lại mất hết thì còn cách nào cứu được y?
Nhà sư đã toan mặt dạn mày dày năn nỷ Tô Tinh Hà tha cho Hư Trúc thì bổng thấy Hư Trúc thò tay vào hộp lấy ra một con cờ đen đặt xuống bàn. Chỗ này ở quảng trống phía sau những con cờ đen đã bị bắt rồi.
Nhà sư trẻ tuổi hạ con cờ này rất đúng phép.
Suốt ba mươi năm trời Tô Tinh Hà đã nghiên cứu thế cờ này rất kỹ, biến ra thành hàng ngàn hàng vạn cuộc, nên bất cứ lối nào nước nào, diễn biến ra sao, hậu quả đi đến đâu, lão đã thuộc lòng. Nhưng chưa bao giờ và cũng chưa có một ai lại đi nước cờ để tự sát bao nhiêu quân của mình. Chỉ có mình Hư Trúc nhắm mắt đi liều một nước kỳ cục như vậy. Nước cờ trái khoáy này thì dù chỉ là người hơi biết cờ một chút, cũng không đi ngớ ngẩn đến thế, chẳng khác gì ngưới học võ bao giờ lại học cầm kiếm để tự giết một khối quân rồi cục diện biến thành sáng sủa hơn.
Bên trắng tuy chiếm được ưu thế, nhưng bên đen cũng rộng đường xoay sở không giống người bị trói chân trói tay như trước, giữ được chỗ nọ bỏ mất chỗ kia.
Cục diện tân kỳ này thì dù Tô Tinh Hà có nằm mơ chăng nữa cũng không nghĩ ra.
Lão tỏ vẻ sửng sốt, suy tính hồi lâu rồi mới cầm cờ trắng đi một nước.
Nguyên Hư Trúc thấy Tô Tinh Hà phóng chưởng ra hâm dọa mà sư bá tổ cũng chẳng nói chẳng rằng hoặc tìm cách gì cứu nguy cho mình, nhà sư trẻ đang lúc hồi hộp luống cuống, bỗng một thanh âm nhỏ xíu lọt vào tai mình:
- Ðặt cờ xuống điểm tam cửu (chỗ hàng ngang thứ ba và hàng dọc thứ chín gặp nhau) ở vị"bình"(góc dưới về mé bên trái).
Hư Trúc chẳng hiểu câu này là ai mách nước, cũng chẳng biết nước này đúng hay sai, cứ cầm quân cờ đen y theo lời mách bảo đặt xuống điểm tam cửu ở vị bình.
Tô Tinh Hà cầm cờ trắng đi rồi, thanh âm nhỏ nhẹ lại lọt vào tai Hư Trúc:
- Ðiểm nhị bát ở vị bình.
Hư Trúc lại đặt cờ vào điểm nhị bát vị bình theo đúng lời mách bảo.
Nước cờ này vừa đặt xuống bọn Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Ðoàn Dự đều reo lên một tiếng kinh ngạc:
- Uí chà!
Hư Trúc ngẩng đầu lên nhìn thì thấy nét mặt người nào cũng ra chiều khâm phục và kinh hãi mình. Nhà sư biết ngay đó là một nước cờ tuyệt diệu.
Chính Tô Tinh Hà cũng vừa khen ngợi vui mừng, vừa tỏ vẻ bồn chồn lo lắng. Cặp lông mày của lão luôn nhíu lại.
Hư Trúc thấy Tô Tinh Hà lộ vẻ vừa thích thú vừa kinh hãi thì trong lòng sinh nghi tự hỏi:
- Làm sao lão lại lộ vẻ thích thú? Hay là ta đi nước này lố mất rồi?
Nhưng rồi y lại nghĩ:
- Bất luận ta đi trúng hay trật, thì cốt sao đánh thêm được với lão mười nước trở lên để tỏ ra ta cũng là người biết đánh cờ chứ không phải đi liều lĩnh phá quấy làm nhục tiên sư lão, thì lão không trách mình vào đâu được nữa.
Tô Tinh Hà ngẫm nghĩ hồi lâu đặt con cờ trắng xuống, y lại nghe thấy thanh âm chỉ thị, liền theo đúng nước đặt cờ đen xuống.
Hư Trúc vừa đi cờ vừa cứ để ý quan sát xem phải chăng là sư bá tổ đã ngấm ngầm chỉ thị cho mình? Nhưng thấy Huyền Nạn vẫn lộ vẻ bồn chồn, huống chi Huyền Nạn thủy chung vẫn không mở miệng.
Thanh âm lọt vào tai Hư Trúc rõ ràng là phép "Truyền Âm Nhập Mật" của người có võ công thượng thừa và nội lực thâm hậu. Lời nói lọt vào tai ai thì chỉ mình người đó nghe thấy, còn người ngoài tuy ngồi ngay ben cạnh cũng không có cách nào nghe rõ. Nhưng bất luận là nói to hay nói nhỏ thì cũng phải có nói mới ra lời.
Hư Trúc để mắt ngó trộm môi miệng mọi người chẳng thấy một ai máy miệng, mà vẫn tiếp tục nghe tiếng mách nước:
- Hạ cờ xuống điểm ngũ lục ở vị khứ.
Hư Trúc nghe rõ, đặt cờ xuống y chỗ rồi tự nhủ:
- Người mách nước cho ta quyết là sư bá tổ chứ không còn ai nữa. Vì những người ngồi đây ngoài sư bá tổ ra, chẳng ai là người thân tình hay quen biết ta từ trước, thì khi nào họ còn dạy ta đi cờ?
Hư Trúc kết luận:
- Chỉ có mình sư bá tổ là chưa nhập cuộc, còn ngoài ra ai nấy đều đã thử qua và đều thất bại. Sư bá tổ mình thần công thật là phi thường! Người dùng phép "Truyền âm nhập mật" mà không cần mở miệng máy môi. Không biết đến bao giờ mình mới tu luyện được đến mức này?
Ðoàn Diên Khánh thấy Tô Tinh Hà ngỏ lời thống trách Hư Trúc và quyết ý hạ sát nhà sư trẻ tuổi, nên ngấm ngầm mách nước để cứu nguy với mục đích là kéo dài thêm mấy nước đặng cho y có đường rút lui.
Lão thiện về thuật phúc ngữ (nói bằng bụng), đã nói năng không cần máy miệng, lại dùng nồi công thâm hậu để thi triển phép "Truyền âm nhập mật" khiến cho những người ngồi bên tuy toàn là cao thủ mà không ai nhìn thấy cơ quan.
Sau khi đi được mấy nước, thế cờ biến đổi rất nhiều.
Nguyên thế cờ này chổ bí mật nhiệm mầu là bên đen phải tự mình hy sinh đi một số quân lớn ngay nước đầu, thì về sau mới biến ra được những nước kỳ diệu. Có điều lối tự mình ra tay để giết quân mình là một đường lối trong cờ vây từ ngàn xưa chưa ai nghĩ tới, dù là những tay cao thủ đánh cờ đã đến mức siêu việt nhập thần.
Ngàn người như một ai cũng chỉ nghĩ đến phương pháp độc nhất là tím cách thoát khỏi nơi bị vây hãm để tìm đường sống, chứ cổ kim chưa ai nghĩ đến đi vào tử lộ.
Giả tỷ Hư Trúc không nhắm mắt đi bừa một nước cờ này thì e rằng đến ngàn năm sau cũng không một ai phá nổi thế đó.
Ðoàn Diên Khánh vốn là tay cao cờ đặc biệt. Năm trước đã thi đấu với Huỳnh Mi Tăng ở nước Ðại Lý. Huỳnh Mi Tăng bị thua xiểng liểng. Nhưng cuộc cờ ngày đó là lấy ra một số quân cờ đen rồi đem đặt xuống dần dần không giống như thế này, quân đen chỗ nào cũng bị vây hãm.
Bọn Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Ðoàn Dự không biết Ðoàn Diên Khánh ngấm ngầm mách nước, chỉ thấy Hư Trúc đi những nước cờ tuyệt diệu ăn luôn hai đám quân cờ trắng thì không nhịn được, reo lên khen ngợi.
Ban đầu Ðoàn Dự chú ý đến cuộc cờ rồi sau chỉ nhìn Vương Ngọc Yến chằm chặp. Chàng càng nhìn càng đau lòng vì Vương Ngọc Yến thủy chung chỉ để ý nhìn Mộ Dung Phục.
Ðoàn Dự than thầm:
- Về đi thôi! về đi thôi! nếu còn ngồi nữa chỉ tổ rước cái đau khổ váo mình, không chừng tức điên học máu ra mất.
Tuy than vậy thì than nhưng dời khỏi Vương Ngọc Yến mà đi thế nào được? Chàng lẩm bẩm:
- Ta hãy chờ Vương cô nương quay lại để nói với nàng mốt câu: "Vương cô nương! Cô nương đã tìm thấy Biểu ca rồi, tại hạ xin đi thôi!" Nếu nàng biểu: "Vâng! Xin công tử tùy tiện." Bấy giờ sẽ ra đi. Nếu nàng biểu: "Việc chi mà gấp vậy? Tôi còn có điều muốn nói với công tử", thì ta hãy chờ lại xem nàng có dặn gì không?
Thực ra Ðoàn Dự nghĩ như vậy là lòng lại dối lòng để có cớ mà ngồi lại. Chàng biết rõ rằng từ lúc Vương Ngọc Yến thấy biểu ca nàng rồi, nàng chưa từng quay đầu lại nhìn chàng lấy một lần.
Ðột nhiên, mớ tóc mềm mại phía sau gáy Vương Ngọc Yến hơi động đậy, trống ngực Ðoàn Dự đánh thình thình. Chàng lẩm bẩm:
- Nàng sắp quay đầu lại rồi!
Nhưng chỉ nghe thấy Vương Ngọc Yến thở dài, khẽ gọi:
- Biểu ca!
Mộ Dung Phục chú ý nhìn bàn cờ, thấy bên đen đã có vẻ thắng thế, mỗi nước lại dồn bên trắng vào thế bí. Y lẩm bẩm một mình:
- Mấy nước cờ sau này, mình cũng có thể nghĩ ra. Nhưng vạn sự khởi đầu nan. Nước đầu tiên mới thật quái gở, dù mình có nghĩ suốt đời cũng không ra.
Bao nhiêu tâm thần Mộ Dung Phục để hết vào thế cờ nên Vương Ngọc Yến lên tiếng khẽ gọi, y không nghe thấy.
Vương Ngọc Yến lại buông một tiếng thở dài từ từ ngoảnh đầu lại.
Ðoàn Dự thấy vậy, trái tim dường như muốn nhẩy ra khỏi lồng ngực.
Chàng tự nhủ:
- Nàng quay đầu lại rồi! Nàng quay đầu lại rồi!
-
Hồi 64 - Một Cuộc Gặp Gỡ Ly Kỳ - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 64 - Một Cuộc Gặp Gỡ Ly Kỳ
Bộ mặt khuynh quốc của Vương Ngọc Yến quả nhiên quay lại. Ðoàn Dự thấy trên má nàng thoáng qua một mối sầu man mác và trong khóe mắt tựa hồ như có vẻ oán hờn. Từ lúc nàng gặp Mộ Dung Phục đến giờ lúc nào nàng cũng vui tươi vô hạn mà sao đột nhiên mất hết cao hứng?
Ðoàn Dự còn đang ngẫm nghĩ, bỗng thấy Vương Ngọc Yến đảo mắt nhìn sang mé hữu và chạm vào luồng nhãn quang của chàng.
Ðoàn Dự tiến lên một bước toan nói:
- Vương cô nương! Cô có chuyện chi dạy bảo?
Nhưng Vương Ngọc Yến lại từ từ đưa mắt qua phía khác, lơ đãng nhìn ra phương trời xa thẳm một hồi, rồi quay lại nhìn Mộ Dung Phục.
Trái tim Ðoàn Dự dường như chìm hẳn xuống, nỗi đau buồn kể sao cho siết!
Chàng chua xót trong lòng, tự nhủ:
- Nàng không phải là không nhìn ta, nhưng nhìn kiểu này thì thà rằng đừng nhìn nữa thì hơn. Nàng ngó ta mà dường như không nhìn thấy. Cặp mắt nàng để vào ta, xong hình ảnh ta không vào đến trong tim nàng. Thủy chung tâm trí nàng vẫn để ý vào biểu ca nàng chứ có nghĩ gì đến Ðoàn Dự này. Hỡi ôi! về đi thôi, về đi thôi!
Bên này Hư Trúc nghe Ðoàn Diên Khánh chỉ điểm để đi cờ. Cuộc cờ đã gần đến lúc kết thúc. Bất luận bên cờ trắng đối phó cách nào thì cũng mất một đám quân lớn. Nếu mở một đường thoát thì lại sợ bên cờ đen xông ra khỏi vòng vây. Thật là sơn cùng thủy tận khó bề thoát.
Tô Tinh Hà ngẫm nghĩ hồi lâu rồi cười hì hì đi một nước nữa.
Ðoàn Diên Khánh lại dùng phép Truyền Âm Nhập Mật nói:
- Hạ cờ xuống điểm thất bát ở góc trên về bên trái.
Hư Trúc hạ cờ xuống đúng vào điểm đó. Tuy nhà sư rất kém về cờ, nhưng vừa đi nước đó cũng hiểu rằng như vậy là phá xong thế cờ, liền vỗ tay cười nói:
- Cuộc cờ nào có thể kết liễu rồi đây!
Tô Tinh Hà hớn hở tươi cười chấp tay nói:
- Tiểu thần tăng được trời phó cho tài cao quán thế, thật là đáng mừng!
Hư Trúc vội đáp lễ nói:
- Không dám! Không dám! Không phải tiểu tăng...
Nhà sư muốn nói mình được sư bá tổ chỉ điểm thì tiếng "Truyển Âm Nhập Mật" lọt vào tai:
- Cuộc đời bí mật này phải giữ thật kín chớ có tiết lộ! Chưa thoát nguy hiểm đâu! Ngươi phải cẩn thẩn lắm mới được.
Hư Trúc chỉ tưởng là Huyền Nạn chỉ thị cho mình.
Liền cúi đầu đáp:
- Vâng, vâng!
Bỗng thấy Tô Tinh Hà đứng lên nói:
- Tiên sư lão phu bày ra thế cờ này đã ba mươi năm không ai phá được, Tiểu thần tăng nay đã phá xong. Lão phu cảm kích vô cùng!
Tô Tinh Hà đi tới trước ba gian nhà gỗ dơ tay đón khách nói:
- Xin mời Tiểu Thần Tăng tiến vào.
Hư Trúc thấy ba gian nhà gỗ này cách kiến trúc thật là kỳ dị, không có cửa vào chi hết. Nhà sư không biết tiến vào lối nào và vào để làm gì? Cứ đứng ngây người ra mãi, ngơ ngẩn không biết làm thế nào?
Bỗng nghe thấy thanh âm trước lại lọt vào tai:
- Thế cờ đã phải phá một đường để thoát. Ðó là lối đánh trí mạng để tìm đường sống. Vậy căn nhà gỗ này không có cửa. Ngươi phải dùng võ công Thiếu Lâm phá nhà ta mà vào.
Hư Trúc liền lên tiếng:
- Thế thì vô lễ quá! Rồi đứng de chân chéo dơ tay phải lên đánh một chưởng vào ván gỗ. Những người có mặt tại đây đều là những tay cao thủ thấy chưởng lực rất tầm thường, may mà ván bưng không bền cứng, Hư Trúc vừa phóng chưởng ra đánh roạc một tiếng, ván gỗ hở ra một khe. Y lại đánh ra hai chưởng mới phá vỡ được tấm ván vách ra và bàn tay y đã cảm thấy đau ngầm.
Nam Hải Ngạc Thần bật lên tiếng cười ha hả nói:
- Võ công phái Thiếu Lâm sao lại tầm thường thế?
Hư Trúc quay lại đáp:
- Tiểu tăng chỉ là hạng bét trong phái Thiếu Lâm, nên bản lãnh chẳng ra gì. Tuyệt học bản môn đâu phải như vậy.
Bỗng nghe thanh âm "Truyền Âm Nhập Mật" nói:
- Ngươi vào ngay đi và nhớ đừng quay đầu lại, cũng đừng tranh hơi với một ai.
Hư Trúc nói:
- Vâng! Rồi cất bước tiến vào.
Bỗng Ðinh Xuân Thu lên tiếng gọi:
- Ðó không phải cửa vào nhà gỗ. Sao nhà sư nhỏ kia dám tự tiện đi vào.
Tiếp theo vang lên hai tiếng ầm ầm.
Hư Trúc cảm thấy một luồng kinh phong vù vù tựa hồ như muốn hất mình ra, thì lại thấy hai luồng sinh lực khác đẩy về phía sau lưng cùng dưới hông mình. Nhà sư không tự chủ được người lăn vào trong.
Vừa rồi Ðinh Xuân Thu ngấm ngầm tập kích định đánh chết Hư Trúc. Một mặt Cưu Ma Trí dùng phép "Khốn hạt công" cũng muốn đẩy y ra.
Nhưng Ðoàn Diên Khánh vẫn ám kình vào đầu gậy làm cho chưởng lực của Ðinh Xuân Thu bị tiêu tan.
Tô Tinh Hà ở gần Cưu Ma Trí liền phóng chưởng ra để giải khai "Khốn hạt công" rồi vung tay phải ra phóng luôn hai chưởng đẩy Hư Trúc vào.
Nhưng hai chưởng lực này quá mạnh. Hư Trúc không đứng vững bị hất vào tấm ván sau, trán y đập đánh "binh" một tiếng vào một tấm ván khác.
Nhà sư tối tăm mặt mũi suýt nữa ngất đi, hồi lâu mới đứng vững được.
Nhà sư sờ lên trán thấy bưu một chỗ. Hư Trúc định thần nhìn lại thì thấy mình hiện đang đứng ở trong một căn nhà trống rỗng đã không có một vật gì bên trong, lại chẳng có cửa sổ cửa vào chi hết, chỉ có một lỗ thủng trên ván do mình vừa phá vỡ ra để vào. Y đứng thộn mặt ra nhìn quanh quẩn một hồi rồi lại muốn chun qua lỗ trống ra ngoài.
Hư Trúc vừa xoay mình thì thấy bên kia vách ván có thanh âm lão già vọng vào hỏi:
- Ngươi vào đây sao lại muốn ra?
Hư Trúc vội quay đầu lại nói:
- Tiểu tăng hoàn toàn trông vào tiền bối chỉ điểm chọn đường lối.
Thanh âm đó lại nói:
- Ðường lối là do tự ngươi tìm ra, không ai chỉ bảo được. Thế cờ nảy ta bày ra đã ba mươi năm không ai phá nổi, thế mà bữa nay ngươi đã tìm ra lối phá. Sao không lại đây? Hư Trúc nghe đến câu: "thế cờ này ta bày ra..." bất giác hồn vía lên mây, sởn gai ốc, hốt hoảng nói:
- Tiền bối... Tiền bối...
Nguyên nhà sư đã nghe Tô Tinh Hà nhắc đi nhắc lại thế cờ đó do tiên sư lão bày ra. Thế thì thanh âm này người hay ma nói?
Bỗng nghe tiếng người giả đáp lại:
- Thời cơ đã đến không chụp lấy nó sẽ đi ngay! Ta chờ đây đã ba mươi năm, không còn thời giờ để chờ thêm đươc nữa. Chú kia! lại đây mau!
Hư Trúc Nghe thanh âm đầy vẻ ôn hòa từ ái liền không nghĩ ngợi nhiều nữa. Y ghé vai vào tấm vách đẩy mạnh lên. Ván vách đã lâu ngày mục nát.
Một tiếng"cách"vang lên ván gãy hỡ ra một lỗ.
Hư Trúc thò đầu nhìn vào trong, bất giác giật mình. Vì phía trong cũng là một căn phòng trống rỗng, một người lơ lửng trên không!
Nhà sư ngỡ là ma quỷ, sợ quá toan xoay mình trốn chạy, thì lại thấy người đó nói:
- Chao ôi! Té ra là một tiểu hòa thượng, mà lại là tiểu hoà thượng mặt mũi xấu xa. Trời ơi! khó quá! khó quá! khó quá! Hư Trúc nghe lão thở dài nói luôn một tràng khó quá. Nhà sư định thần nhìn kỹ lại mới thấy rõ người lão bị cột bằng một sợi dây đen, một đầu dây buộc lên xà nhà, nên người lão bị treo lơ lửng.
Vì ván vách phía sau lão cũng đen nhẻm. Màu đen sợi dây cột cùng một màu với ván vách nên trông thoáng qua không nhìn rõ sợi dây này mà tưỡng là lão ngồi lơ lửng trên không.
Tướng mạo Hư Trúc đã rất xấu xa: mày rậm, mắt to, lỗ mũi huếch lên, hai tia cúp xuống môi dài như quả chuối măn. Hơn nữa, dọc đường y bị Nam Hải Ngạc Thần đánh lên đánh xuống. Vừa rồi trán đập vào vách ván mặt mũi sưng vếu lên, lại càng khó coi.
Hư Trúc từ thuở nhỏ cha mẹ mất sớm, được một nhà sư chùa Thiếu Lâm lòng dạ từ bi đem về chùa nuôi. Các nhà sư chùa Thiếu Lâm nếu không để chí vào việc thanh tu thì lại chuyên tâm học võ, nên chẳng ai để ý tướng mạo Hư Trúc tuấn nhã hay xấu xa.
Nhà phật đã nói: Thể xác con người chỉ là một cái túi da dơ dáy. Cái túi da dơ dáy" này đẹp hay xấu có gì đáng bận lòng? Nếu ai để ý đến nó nhiều tức là bị tà ma cám dỗ.
Hư Trúc vừa nghe lão nói: "một tiểu hòa thượng xấu xa" đây mới là lấn thứ nhất.
Kể ra thì ngay sau khi y bị Nam Hải Ngạc Thần bắt, Diệp Nhị Nương đã kêu bằng "tiểu quỷ", hay bằng nhà sư đầu lợn. Nhưng lúc đó Hư Trúc bị hai người này đánh cho mặt mũi sưng húp lên, khắp mình đau đớn, nên tuy có bị họ mắng nhiếc hoặc là tướng mạo xấu xa, y chẳng quan tâm.
Bây giờ lão này biểu y xấu xa, bất giác động lòng lẩm bẩm:
- Lão chê mình xấu thử xem lão có đẹp không?
Nghĩ vậy Hư Trúc khẽ ngẩng đầu nhìn lên thì thấy lão này râu dài tới ba thước mà sợi nào cũng đen nhánh, tuyệt không một sợi nào bạc.
Mặt lão quả đẹp như ngọc, da dẻ mịn màng không có lấy một nếp nhăn nhỏ xíu. Rõ ràng lão đã cao niên mà vẻ mặt rất tươi tắn, phong độ nhàn nhã.
Hư Trúc ngắm lão già rồi trong bụng thấy tự thẹn, nghĩ thầm:
- Kể về tướng mạo thì mình so với lão khác nhau một trời một vực.
Bây giờ nhà sư đã biết sợ hãi, cúi mình thi lễ nói:
- Tiểu tăng xin bái kiến lão tiển bối!
Lão kia gật đầu nói:
- Tên họ ngươi là gì ?
Hư Trúc sững sờ đáp:
- Tiểu tăng xuất gia không cần biết đến tên họ nữa.
Lão kia đáp:
- Trước khi xuất gia tên họ ngươi là gì?
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng xuất thân từ thuở nhỏ nên không rõ tên họ.
Lão kia nhìn tướng mạo Hư Trúc rồi thở dài nói:
- Ngươi đã phá được thế cờ của ta thì thông minh tài trí không phải tầm thường. Nhưng tướng mạo ngươi xấu thế thì không được rồi! Khó quá! Trời ơi! Thật là khó quá! Ta xem thế này thì uổng công mất rồi, mà lại uổng cả tính mạng của ngươi nữa. Nhà sư nhỏ tuổi kia! Ta cho nhà sư một chút lễ vật để nhà sư về đi!
Hư Trúc vốn không phải con người cao ngạo.
Lão già chê tướng mạo y xấu xa, y cũng chẳng lấy thế làm bực tức. Nhưng y có tính cương nghị kiên nhẫn, không sợ khó khăn.
Y nghe lão nói đi nói lại câu "khó quá" thì hào khí khích động, liền nói:
- Tiểu tăng về kỹ thuật hãy còn kém cỏi. Thế cờ vừa rồi của lão tiền bối không phải tiểu tăng tự ý phá được, nhưng lão tiền bối có việc gì khó khăn cần phải giải quyết thì dù tiểu tăng bản lãnh kém hèn cũng xin cố gắng mà làm cho bằng được! Còn lão tiền bối có ban cho lễ vật gì tiểu tăng không dám lãnh.
Lão già nói:
- Nếu ngươi có lòng dạ nghĩa hiệp như vậy lại càng hay lắm. Dù ngươi chẳng cao cờ võ nghệ hèn kém cũng chẳng can gì. Ngươi đã vào tới đây tức là có tiền duyên với ta. Có điều tướng mạo ngươi... khó coi quá.
Hư Trúc tủm tỉm cười nói:
- Tướng mạo xấu xa là tại trời sinh. Chẳng những mình không được tự chủ, mà cả cha mẹ cũng không thể làm cho đẹp. Tướng mạo tiểu tăng đã làm phiền lòng tiền bối thì tiểu tăng xin cáo từ vậy.
Nói xong lùi lại phía sau hai bước.
Hư Trúc toan trở gót thì lão già nói:
- Khoan đã! Rồi thấy lão già phất nhẹ một cái vào vai bên phải y. Tay áo là vật mềm mại, thế mà vừa chạm vào vai Hư Trúc đã khiến người y phải dần dần hạ thấp xuống. Lão già cười nói:
- Con người tuổi trẻ đã có ý chí kiêu ngạo như vậy là hay lắm!
Hư Trúc nói:
- Tiểu tăng thực không dám có tư tưởng kiêu ngạo điên cuồng, vì sợ tiền bối nổi lôi đình, nên xin rút lui sớm đi là hơn.
Lão già gật đầu hỏi:
- Bữa nay ngươi đến phá thế cờ còn có ai nữa không?
Hư Trúc nhất nhất kể hết mọi người.
Lão già trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Những tay cao thủ thiên hạ mười phần có đến sáu bảy đều tụ tập ở đây rồi. Không hiểu Khổ Vinh đại sư chùa Thiên Long nước Ðại Lý có đến đây không?
Hư Trúc đáp:
- Trừ nhà sư tệ tự, không còn thấy một vị tăng lữ nào khác.
Lão già thở dài lẩm bẩm một mình:
- Ta đã chờ đây ba mươi năm, dù có chờ thêm ba mươi năm nữa vị tất đã gặp được người tận thiện tận mỹ cả bề trong lẫn bề ngoài. Việc đời trong mười phần thì tám chín không được như ý. Thôi cũng đành chịu vậy chứ biết làm sao?
Dường như tâm ý lão già đã quyết định, lão đã hỏi lại:
- Ngươi vừa biểu thế cờ này không phải tự ngươi giải quyết được, thế thì tại sao Tô Tinh Hà lại đưa ngươi vào đây?
Hư Trúc đáp:
- Con cờ đầu tiên, tiểu tăng chẳng biết đi thế nào cho phải, nhắm mắt đặt liều xuống. Còn những nước về sau thì tiểu tăng được sư bá tổ pháp húy là Huyền Nạn đại sư dùng thuật "Truyền Âm Nhập Mật" ngấm ngầm chỉ điểm cho.
Rồi nhà sư thuật rõ tình hình phá giải cờ thế nào kể hết một lượt.
Lão già nói:
- Ðó là lòng trời! Ðó là lòng trời!
Ðột nhiên nét mặt sầu bi của lão tự nhiên tươi lên rồi cười nói:
- Ðã là lòng trời muốn vậy, nên ngươi mới nhắm mắt đi liều mà đúng vào nước phá được thế cờ của ta, thì đủ biết phúc duyên ngươi rất thâm hậu, có thể làm được việc lớn cho ta cũng chưa biết chừng. Hay lắm! hay lắm! Hài tử! Ngươi quỳ xuống lạy ta đi.
Hư Trúc bảng tính khiêm hòa. Hằng ngày ở chùa Thiếu Lâm, trước mắt y chẳng là sư phụ, sư bá, sư thúc, thì cũng là sư bá tổ, sư thúc tổ, toàn những bậc tiền bối. Còn nói về bậc ngang hàng thì hoặc hơn tuổi hoặc bản lãnh cao hơn, y vẫn gọi bằng sư huynh, cũng không biết bao mà kể, vì thế mà đầu óc phục tùng đã quen từ thuở nhỏ.
Bây giờ y nghe lão này bảo mình dập đầu, dù y chẳng hiểu ra sao, nhưng y nghĩ rằng lão này cũng là một bậc tiền bối trong võ lâm thì dù có dập đầu lạy mấy lạy cũng là lẽ thường.
Hư Trúc nghĩ vậy nên chẳng đắn đo gì nữa quỳ hai chân xuống rồi dập đầu "binh binh" lạy bốn lạy.
Nhà sư toan đứng lên thì lão già cười nói:
- Ngươi phải lạy thêm năm lạy nữa, vì đó là lề luật của bản phái.
Hư Trúc chỉ: "vâng" một tiếng rồi lạy thêm năm lạy nữa .
Lão già nói:
- Chú nhỏ này hay lắm! ngươi lại đây! Hư Trúc đứng dậy tiến đến trước mặt lão già. Lão già nắm lấy cổ tay nhà sư xem ngắm thân hình.
Hư Trúc đột nhiên cảm thấy huyệt mạch môn nóng ran.
Một luồng nội lực xong vào tâm mạch y mau lẹ vô cùng.
Hư trúc không tự chủ được, liền dùng tâm pháp của phái Thiếu Lâm chống lại.
Nội lực lão già vừa đụng phải liền lui ngay và lập tức nhà sư được an nhiên vô sự.
Hư Trúc biết rằng lão muốn thí nghiệm xem nội lực mình sâu rộng thế nào, bất giác y thẹn quá mặt đỏ bừng lên, nhăn nhó gượng cười nói:
- Ngày thường tiểu tăng phần nhiều chỉ đọc kinh Phật. Lúc còn nhỏ tính ưa giỡn cợt nên không để ý đến việc tu luyện nội công mà sư phụ đã truyền thụ cho, đến nổi tiền bối phải chê cười.
Không ngờ Hư Trúc nói câu này khiến cho lão già vui vô cùng.
Lão cười nói:
- Càng hay! Nội công ngươi tập phái Thiếu lâm càng ít bao nhiêu càng đỡ công phu cho ta bấy nhiêu.
Lúc lão nói như vậy , Hư Trúc cảm thấy toàn thân mềm nhũng tưởng chừng như mình đang ngồi trong một cái chậu nước nóng. Từ trong những lổ chân lông khắp mình dường như tiết ra một luồng nhiệt khí, và y cảm thấy dễ chịu vô cùng.
Sau một lúc lão già buông cổ tay Hư Trúc ra cười nói:
- Xong rồi! Ta đã dùng phép"Hóa Công Ðại Pháp"của bản môn trừ bỏ hết nội lực của phái Thiếu Lâm trong mình ngươi rồi đó.
Hư Trúc cả kinh la lên hỏi:
- Tiền bối... nói sao? ...
Y nhảy lên một cái, cặp giò vừa chấm đất đầu gối đã nhủn ra ngồi phệt xuống đất. Y cảm thấy toàn thân không còn chút khí lực nào đầu óc hôn mê, tưởng chừng như trời đất quay cuồng. Y biết rằng lão đã nói thực.
Hư Trúc từ thuở nhỏ ở chùa Thiếu Lâm, đây là lần đầu tiên y ra khỏi chùa xuống núi. Y đã hiểu đâu cơn sóng gió trên chốn giang hồ cùng lòng người hiểm ác ở thế gian? Tuy nội công y chưa được thâm hậu bằng ai nhưng cũng đã phải mất mười năm khổ công luyện tập. Y từng nghe sư phụ đề cập đến phép "Hóa Công Ðại Pháp" của phái Tinh Tú cực kỳ lợi hại, chỉ cần chạm vào người ai là nội công người đó dù luyện tập vất vả mấy chục năm trời cũng sẽ bị tiêu tan trong khoảnh khắc.
Hư Trúc tự trách mình:
- Rõ ràng lão này là một tay tổ phái Tinh Tú, sao mình lại bất cẩn đến thế? Lúc còn trốn thoát sao không chạy ngay đi để mắc phải độc thủ của lão.
Nhà sư trẻ tuổi càng nghĩ càng thống thiết trong lòng, bất giác hai hàng châu lệ tuôn rơi, vừa khóc vừa nói:
- Tiểu tăng.. cùng tiền bối.. vốn không thù oán lại không có điều gì đắc tội. Tại sao tiền bối lại hại tiểu tăng thế này?
Lão kia cười nói:
- Sao ngươi ăn nói vô lễ thế? Ngươi không kêu ta bằng sư phụ tự xưng mình là đệ tử, mà lại kêu ta bằng tiền bối rồi tự xưng là tiểu tăng, thì còn ra thể thống gì nữa?
Hư Trúc cả kinh nói:
- Sao? Tiền bối đâu có phải là sư phụ tiểu tăng?
Lão kia đáp:
- Ngươi vừa dập đầu lạy ta tám lạy. Ðó chính là nghi lễ bái sư.
Hư trúc vội nói:
- Không! không! Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, lẽ đâu còn thờ người khác làm thầy. Tiền bối có những tà thuật hại người, tiểu tăng nhất quyết không học.
Lão kia cười hỏi:
- Có thực ngươi không học chăng? Nói xong lão phất hai tay áo cho dài ra để lên vai Hư Trúc.
Hư Trúc tưởng chừng như trên vai mình bị một vật nặng vô cùng đè lên. Nhà sư không đứng vững được nữa, hai chân nhủn ra, ngồi phệt xuống đất.
Song miệng không ngớt la:
- Dù tiền bối đánh chết tiểu tăng cũng không học.
Lão kia cười hả hả, đột nhiên co người lên lộn mình đi một cái chiếc khăn đội trên đầu lão đã rớt ra bay vào góc nhà. Chân trái lão bám vào tường nhà, lộn ngược đầu xuống chân dơ lên trên. Lão lộn người cho đúng vào Hư Trúc. Ðầu lão đặt trên đỉnh đầu nhà sư.
Hư Trúc cả kinh hỏi:
- Tiền bối... làm trò gì thế?
Rồi nhà sư đảo đi đảo lại để gỡ đầu mình ra.
Nhưng lạ thay! đầu lão kia từ lúc chạm vào đầu Hư Trúc không khác gì đóng đinh chặt với nhau. Bất luận Hư Trúc cựa quậy hay ngoái đầu thế nào, thủy chung vẫn không gỡ ra thoát. Ðầu Hư Trúc đảo về mé đông thì người lão kia cũng xiêu về mé đông.
Hư trúc đảo qua mé Tây thì người lão lại xiêu qua mé Tây. Hai đầu cứ dính chặt vào nhau và đu qua đu lại tựa như cây lao trước gió, không lúc nào ngừng.
Hư Trúc rất đổi kinh ngạc dơ hai tay lên: tay trái đẩy mạnh, tay phải kéo lôi người lão xuống.
Nhưng nhà sư vừa đẩy, liền cảm thấy tay mình mềm xèo không còn chút khí lực nào, thì trong dạ bồn chồn nghĩ thầm:
- Mình trúng phải "Hóa Công Ðại Pháp" của lão rồi, chẳng những vỏ công mất hết mà không còn đủ sức để mặc áo nhai cơm nữa. ừ đây mình sẽ thành người tàn tật, một kẻ phế nhân, biết làm thế nào!
Hư Trúc còn đang khiếp sợ thì đột nhiên cảm thấy huyệt Bách hội trên đỉnh đầu bị những tia nhiệt khí xông vào trong óc.
Nhà sư la thầm:
- Nguy rồi! Ðời ta đến đây là hết!
Hư Trúc cảm thấy trong đầu óc mỗi lúc mỗi nóng thêm rồi chỉ trong chốc lát mắt hoa đầu váng, tưởng chừng như khối óc mình sắp vỡ tung! Luồng nhiệt khí này từ trên đầu chạy xuống khắp thân thể.
Chỉ trong khoảnh khắc, nhà sư không chịu nổi nữa ngất đi lúc nào không biết. Tuy Hư Trúc ngất đi rồi, song chỉ như người mê man. Trong đầu óc nhà sư hiện ra vô số ảo ảnh: Có lúc tưởng chừng như mình đang đằng vân giá vũ ngao du trên trời, có lúc tưởng chừng như mình đang ngụp lặn xuống biển sâu, đùa giỡn với tôm cá: có lúc như mình ở chùa Thiếu Lâm tụng kinh giữa đêm khuya: có lúc tựa hồ như đang luyện võ công luyện đi luyện lại nhưng thủy chung vẫn không thành tựu.
Hư Trúc không biết mình ngất đi đã bao lâu, đột nhiên tỉnh lại bỗng thấy trời mưa, nước mưa nhỏ giọt xuống người...
Hư Trúc mở bừng mắt ra quả nhiên thấy vô số giọt nước thật sự từ trên má mình nhỏ xuống. Nhà sư định thần nhìn lại thì những giọt nầy không phải nước mưa mà từ mồ hôi lão kia.
Hư Trúc nhìn lão già thì thấy mặt lão đầy những giọt mồ hôi đang nhỏ xuống tong tong. Mặt mũi, đầu óc chân tóc lão, chổ nào cũng ra mồ hôi ra.
Lúc này Hư Trúc mới nhìn nhận tới mình thì ra mình đã nằm khoèo dưới đất, còn lão kia ngồi bên cạnh. Hai cái đầu đã rời nhau từ lúc nào không biết.
Hư trúc ngồi nhỏm dậy ngơ ngác hỏi:
- Tiền bối!...
Nhà sư vừa buột miệng nói được hai tiếng "tiền bối" bất giác giật mình không thốt nên lời được nữa, vì nhà sư phát giác ra lão già tựa hồ như đã biến thành một người khác! Bộ mặt đẹp như ngọc lúc trước bây giờ đột nhiên phát hiện đầy nét nhăn nheo.
Kỳ lạ hơn nữa đầu lão trước kia tóc rậm và đen nhánh thì bây giờ rụng hết thành đầu trọc lóc. Bộ râu dài đen đã thành bạc hết.
Hư Trúc lấy làm kỳ, tự hỏi:
- Hay là mình ngất đi đến ba bốn chục năm, năm chục năm. Sao lão này đột nhiên biến thành già đến thế? Cứ coi người lão bây giờ trở nên già lụ khụ, không được trăm hai chục tuổi tuổi thì cũng phải đến trăm tuổi không ít.
Lão già cặp mắt lờ mờ dường như mất hết khí lực.
Trên bộ mặt nhăn nheo thoáng lộ một nụ cười.
Lão nói:
- Ðại công thế là xong rồi! Hài nhi! Phúc trạch ngươi thật là thâm hậu hơn cả kỳ vọng của ta. Ngươi thử phóng chưởng vào vách ván mà coi!
Hư Trúc không hiểu gì cả nhưng cũng nghe lời phóng chưởng ra chỗ không.
Bỗng nghe mấy tiếng "lắc cắc" cả nửa bức vách ván lập tức gãy ra. Giả tỉ nhà sư dùng toàn lực phóng chưởng thì sức mạnh còn ghê gớm hơn nhiều.
Hư Trúc kinh hãi ngẩn người ra hỏi:
- Thế này nghĩa làm sao?
Lão già cười hiếp mắt tỏ vẻ hoan hỉ nói:
- Ừ nhỉ! Ngươi biết tại sao không?
Hư Trúc hỏi:
- Tại sao... Tiểu tăng thốt nhiên công lực lại mạnh đến thế?
Lão già mỉm cười đáp:
- Nếu cứ một mình ngươi tự học thì suốt đời nội lực chưa được phần nào. Ngươi nên biết rằng sư phục ngươi cần khổ tu luyện bảy mươi năm trời há phải chuyện tầm thường?
Hư Trúc thầm nghĩ trong bụng:
- Ðại cuộc hỏng mất.
Ðoạn kêu lên:
- Tiền bối... nói cái gì bảy mươi năm khổ công tu luyện?
Lão già mỉm cười nói:
- Chẳng lẽ đến lúc này mà ngươi còn chưa hiểu? Có thật ngươi chứa hiểu không? Trong lòng Hư Trúc đã cảm thấy ý nghĩa câu nói của lão già, có điều ra quá đột ngột khiến nhà sư ấp úng đáp:
- Lão tiền bối đã truyền cho tiểu tăng một môn thần công... phải không?
Lão già cười hỏi:
- Ngươi vẫn không kêu ta bằng sư phụ ư?
Hư Trúc cúi đầu đáp:
- Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm. Khi nào dám khinh tổ diệt tông, đi theo phái khác? Lão già nói:
- Trong mình ngươi hiện giờ không còn lấy một chút công lực của phái Thiếu Lâm thì gọi là đệ tử phái Thiếu Lâm sao được? Trái lại trong người ngươi hiện giờ đã súc tích bảy mươi năm thần công của phái "Tiêu Dao" thì sao không phải đệ tử bản phái?
Hư Trúc trước nay chưa từng nghe thấy ai nói đến phái Tiêu Dao là gì, buột miệng hỏi lại:
- Phái Tiêu Dao...
Lão già mỉm cười cướp lời:
- Theo chính đạo của trời đất, phân rõ lục khí của vũ trụ để đi đến chỗ vô cùng ngao du. Ðó là Tiêu Dao. Ngươi thử nhảy lên một cái mà coi.
Hư Trúc động tính hiếu kỳ nhún hai đầu gối, đạp mạnh xuống đất, nhẹ nhàng nhảy lên. Ðột nhiên nghe binh một tiếng, đầu nhà sư đụng vào mái nhà đau thốc lên, trước mắt sáng lòa. Nửa người nhà sư đã xuyên qua mái nhà ra ngoài. Thế nhảy này còn đang tung lên, nhà sư sợ mình không biết tung người đi tới đâu, vội thò tay ra giữ chặt lấy mái nhà cho khỏi lên cao nữa.
Rồi nhà sư từ từ hạ mình xuống đất mà vẫn còn phải nhảy bong lên mấy cái nữa mới đứng vững lại được.
Lão già hỏi:
- Ngươi thấy thế nào?
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng... đã đi vào con đường ma quỷ gì đây?
Lão già nói:
- Ngươi hãy ngồi xuống để ta thuật rõ cho mà nghe. Không còn nhiều thời giờ để nói rườm rà mà cần đi vào vấn đề thiết yếu ngay. Ngươi đã không chịu ta làm sư phụ đặng giữ nguyên môn phái, ta cũng không bắt ép.
Rồi lão đổi giọng:
- Tiểu sư phụ ơi! Ta thỉnh cầu tiểu sư phụ giúp ta một việc rất gấp, liệu tiểu sư phụ có ưng lời chăng?
Hư Trúc nhận thấy rằng dù sao mình cũng đã chịu ơn rất lớn của lão. Có điều lão cần mình làm một việc hiện giờ chưa rõ là họa hay phúc. Nhưng lão đã mở miệng cầu khẩn, thì bất luận bằng cách nào mình cũng phải làm cho đến nơi.
Nghĩ như vậy nhà sư liền đáp:
- Tiền bối có mệnh lệnh, tiểu tăng đương nhiên phải gắng sức hết lòng!
Nhà sư vừa nói tới đây, chợt nghĩ đến lão này chuyên dùng"Hóa công đại pháp"tựa hồ cùng một bè phái tả đạo bàng môn, liền nói thêm:
- Nhưng nếu tiền bối tiểu tăng làm việc mờ ám thì tiểu tăng không dám vâng mệnh.
Lão già nhăn nhó cười hỏi:
- Việc như thế nào là mờ ám?
Hư Trúc chưng hửng đáp:
- Tiểu tăng là đệ tử nhà Phật. Việc gì có tổn hại cho người khác thì tiểu tăng nhất định không làm.
Lão già hỏi:
- Giả tỉ trên đời có kẻ chuyên việc hại người, giết người không biết bao nhiêu mà kể, hắn đã càn rõ như vậy ta nhờ ngươi trừ diệt hắn đi, ngươi có thuận chăng?
Hư Trúc khẳng khái đáp:
- Ðối với hạng người ấy, tiểu tăng cố tìm lời khuyên giải họ sửa đổi lỗi lầm quay về hướng thiện.
Lão kia đáp:
- Nếu hắn cứ mê muội không biết tỉnh ngộ thì sao?
Hư Trúc đứng thẳng người lên nói:
- Hàng phục ma quái để trừ hại cho đời, nguyên là việc nên làm của bọn vãn bối. Có điều tiểu tăng bản lãnh tầm thường e rằng không làm nổi mà thôi.
Lão già hỏi:
- Vậy ngươi ưng chịu lời ta rồi chứ?
Hư Trúc gật đầu đáp:
- Tiểu tăng ưng chịu rồi!
Lão già tỏ vẻ vui mừng nói:
- Hay lắm! hay lắm! Ta nhờ ngươi đi giết một người, một người đại ác. Người đó lại chính là đệ tử ta tên gọi Ðinh Xuân Thu. Hiện nay trong giới võ lâm đều kêu hắn là Tinh Tú Lão Quái.
Hư Trúc thở phào một cái tưởng chừng như trút được mối lo ngại. Nhà sư từng nghe Tinh Tú Lão Quái nổi tiếng độc ác từ lâu. Nhiều lần ngay tại chùa Thiếu Lâm, các bậc trưởng bối cũng đã đề cập đến lão quái này. Nhà sư cho việc trừ diệt Tinh Tú Lão Quái là một việc phải làm được mới hả.
Nghĩ vậy liền nói:
- Trừ diệt Tinh Tú Lão Quái là một việc bất cứ ai trong võ lâm cũng nên làm. Chỉ e rằng tiểu tăng bản lãnh tầm thường không làm nổi thôi...
Nhà sư nói tới đây ngẩng lên nhìn lão già thì bốn mắt gặp nhau.
Mắt lão lộ ra vẻ trào lộng.
Nhà sư nghĩ ngay đến bốn chữ "bản lãnh tầm thường" tựa hồ không ổn toan đổi giọng. Lão già nói:
- Hiện giờ bản lãnh ngươi ngươi tuy còn tầm thường nhưng cũng chẳng kém gì Tinh Tú Lão Quái. Có điều muốn trừ hắn thì đúng là chưa đủ. Nhưng ngươi khỏi lo mọi sự có ta xếp đặt.
Hư Trúc hỏi:
- Lão tiền bối là sư phụ Tinh Tú Lão Quái sao còn để y hoành hành?
-
Hồi 65 - Lục Mạch Thần Kiếm Xuất Thủ Không Linh Nghiệm - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 65 - Lục Mạch Thần Kiếm Xuất Thủ Không Linh Nghiệm
Hư Trúc nghe lão nói đến người thông minh tuấn tú thì nghĩ thầm:
- Mình cũng không phải hạng ngu dốt gì cho cam nhưng còn hai chữ tuấn tú thì quả mình không đương nổi.
Nhà sư nghĩ vậy cúi đầu xuống nói:
- Những nhân vật tuấn nhã trên thế gian thực ra chẳng thiếu gì, Ngay ngoài kia cũng có hai người: một người Mộ Dung công tử còn một người nữa là công tử họ Ðoàn. Tiểu tăng xin đưa họ vào đã, để tiền bối coi xem?
Lão già cười ha hả nói:
- Phái Tiêu Dao làm việc gì cũng nhất thiết lấy duyên kiếp làm yếu tố căn bản. Ngay việc tên nghịch đồ Ðinh Xuân Thu phản sư phạm thượng cũng có tiền nhân. Nay lão phu đã đem thần công tu luyện bảy mươi năm trời truyền vào thân thể ngươi. Có lý đâu còn đi truyền cho người thứ hai nữa?
Hư Trúc hỏi:
- Tiền bối!... Có thật tiền bối đã đem công phu rèn luyện suốt đời truyền hết vào cho tiểu tăng? Như vậy... tiểu tăng làm sao tiêu thụ được ơn đức cao dày đó?
Lão già nói:
- Việc này đối với ngươi là hoạ hay là phúc khó mà nói trước được. Võ công cao cường chưa hẳn đã phúc. Ngươi coi biết bao nhiêu người trên thế gian chẳng hiểu chút võ công nào, chỉ biết cặm cụi làm việc, không phải bận tâm lo nghĩ điều gì, tránh hết mọi chuyện cạnh tranh đồng thời khỏi phiền não? Hồi trước ta chỉ học cầm, kỳ, thi, hoạ không theo đuổi cho đến cùng môn võ học thì đó là một giai đoạn sung sướng nhất trong đời ta. Hài tử! Ðinh Xuân Thu chắc mẩm ta đã chết dưới bàn tay của hắn rồi, nên hắn làm việc càn rỡ không còn uý kỵ gì nữa.
Ngừng một lúc, lão nói tiếp:
- Tấm đồ hình này nữa trên vẽ lại nơi ta hưởng phúc thanh nhàn. Còn trong núi Thiên Sơn ở cõi Tây Vực ta đã cất giấu những sách vở về võ học thì ngươi ráng mà tìm lấy. Ngươi cứ theo đó mà rèn luyện. Chỉ trong vòng một năm thì võ công ngươi tiến đến mức ngang bằng với Ðinh Xuân Thu.
Nói xong lão thò tay vào bọc lấy ra một cuộn nho nhỏ nhét vào tay Hư Trúc.
Hư Trúc trong lòng lấy làm khó nghĩ nói:
- Tiểu tăng võ học chưa thành, chuyến này vâng mệnh sư phụ xuống núi đưa tin rồi lập tức phải về chùa phục mệnh của sư phụ. Việc gì mà phương trượng bản tự cùng sư phụ không chuẩn cho thì dù có lời dặn của tiền bối, tiểu tăng cũng không tuân theo được.
Lão già nhăn nhó cười nói:
- Nếu lòng trời đã định như thế, muốn để cho ác nhân làm càn thì cũng đành chịu chớ biết làm sao? Ngươi... Ngươi...
Lão vừa nói được hai tiếng ngươi thì đột nhiên toàn thân run bắn lên, từ từ cúi xuống, hai tay chống đất, rõ ràng tinh thần lão suy nhược vô cùng!
Hư Trúc cả kinh, vội đưa tay ra nâng dậy nói:
- Lão... lão tiền bối! Tiền bối làm sao vậy?
Lão già đáp:
- Ba mươi năm trời ta chịu đau khổ. Bảy mươi năm tu luyện cực nhọc đã truyền hết cho ngươi rồi. Bữa nay mệnh trời đã hết. Hài tử! Ngươi không chịu kêu ta một lần bằng sư phụ hay sao?
Lão nói xong mấy câu này chỉ còn thoi thóp thở.
Hư Trúc bản tính vốn thuần hậu, nhìn lão già rất tội nghiệp, thấy rõ ràng lão chỉ còn sống trong khoảnh khắc. Cặp mắt lão lộ ra những sự khẩn cầu trông rất thảm hại, khiến cho nhà sư phải mềm lòng, bất thần buộc miệng gọi lên hai tiếng:
- Sư phụ!
Lão già cả mừng, gắng sức rút một ngón tay bên trái ra một cái vòng sắt đen, toan lắp vào tay Hư Trúc, nhưng vì kiệt lực quá, nắm tay Hư Trúc không chặt.
Hư Trúc vội la gọi:
- Sư phụ!
Rồi cầm lấy vòng đeo vào tay mình.
Lão già nói:
- Hay! Hay lắm!... hài tử... ngươi là đệ tam đệ tử của ta... khi gặp Tô Tinh Hà, ngươi... ngươi kêu y bằng đại sư ca!... ngươi họ gì?
Hư Trúc đáp:
- Ðệ tử thật không biết.
Lão già nói:
- Có điều đáng tiếc là tướng mạo ngươi khó coi! Trung gian tất còn bị nhiều phen điêu đứng. Thôi đành phó mặc thiên công! Ðáng tiếc... thật là đáng tiếc.
Thanh âm lão mỗi lúc một yếu đi.
Lão nói đến câu đáng tiếc thứ hai thì cơ hồ không rõ nữa.
Ðột nhiên người lão xô về phía trước. Trán dập xuống đất đáng binh một tiếng, rồi không nhúc nhích được nữa.
Hư Trúc lay gọi:
- Sư phụ! Sư phụ!
Nhà sư nâng lão dậy, để tay lên mũi thì lão tắt hơi rồi.
Hư Trúc cùng lão ở với nhau chưa đầy một giờ. Kể ra, cũng chưa có tình nghĩa gì sâu sắc cho lắm. Nhưng nhà sư nghĩ mình đang thừa hưởng bảy mươi năm thần công của lão. Hơn nữa lão đối với nhà sư như người rất thân cận.
Tóm lại có thể nói rằng một bộ phận ở trong mình lão đã biến vào mình và ngược lại một phần bộ phận của mình đã biến vào nội thể lão. Ðột nhiên lão chết đi, nhà sư nghĩ lại không khỏi xúc động can trường, buông một tiếng khóc.
Hư Trúc khóc một hồi rồi gạt nước mắt nghĩ thầm:
- Ta phải đem tin này báo cho Tô Tinh Hà biết mới được. Lão tiên sinh đây cứ đòi ta kêu bằng sư phụ thì chết mới nhắm mắt được. Mình cũng miễn cưỡng kêu mấy tiếng để gọi là an ủi tấm lòng người trong lúc lâm chung. Ta đã là đệ tử phái Thiếu Lâm có lý đâu còn đi theo phái khác? May ở chỗ chuyện này chỉ có hai người biết thì lão tiên sinh đã chết rồi. Trên đời chẳng một ai hay.
Nhà sư quỳ phục xuống đất hướng về di thể lão già lạy mấy lạy lâm râm khấn khứa:
- Lão tiền bối ơi! Tiểu tăng kêu lão tiền bối bằng sư phụ là giả đó chứ không phải thật. Lão tiền bối ở dưới suối vàng có linh thiêng xin đừng trách tiểu tăng!
Khấn xong nhà sư trở gót đi ra, vẫn chuồn qua lỗ thủng trên vách ra ngoài.
Bây giờ thân thể nhà sư lẹ làng như con chim én xuyên qua hai bên vách ván ra khỏi căn nhà một cách rất nhanh nhẹn.
Hư Trúc ra khỏi nhà gỗ rồi bỗng giật nẩy mình vì chỗ nào cũng thấy những cây tùng đổ xuống nằm ngổn ngang. Dưới đất lại có một cái huyệt rất sâu. Nhà sư không ngờ mới vào căn nhà gỗ chưa đầy một giờ mà cảnh tượng bên ngoài đã biến cải đến trời long đất lở.
Nhà sư nghĩ lại chắc những cây tùng này bị người đánh đổ xuống lúc mình ngất đi cho nên không hay biết gì cả.
Hư Trúc lại thấy mọi người bên ngoài nhà đã phân thành hai bọn.
Bọn Lung á lão nhân Tô Tinh Hà ngồi ở đầu mé hữu.
Bọn Huyền Nạn, Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa..., đều đứng đằng sau lão.
Tinh Tú Lão Quái Ðinh Xuân Thu ngồi đầu mé tả.
Diệp Nhị Nương, Thiết Diện Nhân (người mặt sắt) Du Thản Chi cùng bọn đệ tử Tinh Tú Lão Quái đều đứng đằng sau Ðinh Xuân Thu.
Mộ Dung Phục, Vương Ngọc Yến, Ðoàn Dự, Cưu Ma Trí, Ðoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần thì nhởn nhơ đứng ở xa xa, xem chừng không muốn về bè với phe nào.
Giữa Tô Tinh Hà cùng Ðinh Xuân Thu đốt một cây cột lửa cháy rất to.
Tô, Ðinh hai lão đang vận động chưởng lực để đẩy cây hỏa trụ sang đối phương. Cây hỏa trụ chênh chếch đi lấn dần về mé hữu.
Rõ ràng Ðinh Xuân Thu đang chiếm được thượng phong.
Mọi người đều hai mắt đổ dồn vào cây hỏa trụ nên Hư Trúc ở trong nhà ra không ai để ý đến.
Ðương nhiên Vương Ngọc Yến chỉ quan tâm đến biểu ca là Mộ Dung Phục mà Ðoàn Dự thì để hết tâm trí vào Vương Ngọc Yến.
Hai người này chẳng thèm nhìn đến cây hỏa trụ mà cũng chẳng đưa mắt ngó Hư Trúc lấy một lần.
Hư Trúc từ đằng xa đi sau mọi người qua sang mé hữu đứng bên sư bá Huyền Nạn. Nhà sư tuổi trẻ thấy cây hỏa trụ lớn mỗi lúc một nhích lại gần mé hữu.
Tô Tinh Hà vận động chân khí, áo lão phùng lên trông tựa hồ như một cánh buồm thuận gió, hai tay lão không ngớt phóng chưởng ra.
Ðinh Xuân Thu vẫn cười nói tự nhiên, tay áo phe phẩy nhẹ nhàng dường như không để ý gì.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú đang thi nhau tán tụng sư phụ.
Nào là:
- Tinh Tú lão tiên cất nhắc vật nặng coi nhẹ như không. Thần thông lão tiên trên đời có một. Bữa nay các ngươi sẽ được mở rộng tầm mắt.
Nào là:
- Sư phụ ta còn có ý giáo huấn cho kẻ khác, nên chỉ từ từ thúc đẩy thần công. Nếu không thì chỉ ra tay một cái là lão họ Tô kia lập tức bị tru diệt.
Nào là:
- Nếu còn kẻ nào chưa chịu khuất phục thì cứ lấy một chọi một nếm thử mùi thần công của phái Tinh Tú.
Nào là:
- Dĩ nhiên chẳng ai muốn liệt vào hàng võ sĩ hạ lưu dù họ có hợp lực tiến ra, bọn mình cũng chẳng coi vào đâu.
Nào là:
- Tinh Tú là một phái võ thiên hạ vô địch! ý trời đã định rõ như vậy. Kẻ nào lớn mật đem giở trò châu chấu đá xe thì chẳng qua tự rước lấy cái hoạ diệt vong mà thôi.
Giả tỷ bọn Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Ðoàn Diên Khánh lúc này nghe chúng khoác lác đồng thời ra tay quay lại vây đánh Ðinh Xuân Thu thì Tinh Tú Lão Quái tuy bản lãnh cực kỳ lợi hại cũng khó lòng chống lại được mấy tay cao thủ hợp lực liên công.
Song bọn Cưu Ma Trí trước nay cũng chẳng có thiện cảm gì với Lung á lão Nhân Tô Tinh Hà, nên họ chẳng buồn ra giải cứu lão trong cơn nguy khốn. Hơn nữa ai cũng còn điều uý kỵ là sợ người ngoài nhân chỗ mình sơ hở mà hạ thủ. Vì vậy nên nghe bọn đệ tử phái Tinh Tú thổi sư phụ chúng lên mây xanh, bọn Cưu Ma Trí chỉ tủm tỉm cười chứ không nói gì.
Ðột nhiên cây hỏa trụ lướt đến phía trước trèm vào người Tô Tinh Hà, mùi khét lẹt bay ra. Mấy chòm râu dài của họ Tô bị đốt cháy sạch cả.
Tô Tinh Hà phải cố sức chống cự mới đẩy được cây hỏa trụ ra. Nhưng cây hỏa trụ ra xa người lão không đầy hai thước. Ngọn lửa loé ra co lại chẳng khác gì con trăn lớn há miệng toan đớp người...
Hư Trúc ngấm ngầm hơi sợ, lẩm bẩm:
- Tuy ta không nhìn nhận lão họ Tô kia là sư huynh, nhưng chăng ít nhiều cũng có mối dây dưa với nhau. Bây giờ mình trông thấy lão sắp bị cây hỏa trụ đốt chết biết làm thế nào cho phải?
Bỗng nghe hai tiếng beng beng vang lên tiếp theo là hai tiếng tùng tùng
Ðó là tiếng trống và tiếng thanh la nổi hiệu.
Nguyên bọn đệ tử phái Tinh Tú đều mang theo nào trống, nào đồng la, não bạt dấu kín trong bọc.
Bây giờ mới đem ra khua nhộn lên để tuyên dương oai phong của sư phụ. Lại mấy gã phất cờ xanh, cờ vàng, cờ đỏ, cờ tím, lớn tiếng reo hò.
Trong võ lâm khi hai người đấu nội lực với nhau, từ thuở khai thiên lập địa, chưa ai dùng đến thanh la, tiếng trống để oai trợ bao giờ. Vụ này đáng kể là một vụ hi hữu.
Cưu Ma Trí cười ha hả nói:
- Tinh Tú Lão Quái thật là một kẻ mặt dày cổ kim hiếm thấy!
Giữa những tiếng thanh la, tiếng trống khua huyên náo om sòm, một tên đệ tử phái Tinh Tú lấy ra một mảnh giấy, lớn tiếng đọc một đoạn biền ngẫu để ca ngợi Tinh Tú lão tiên dương oai ở Trung Nguyên.
Không hiểu tên này đã mượn được tay đồ gàn nào soạn cho bài này để tán tụng công đức của Tinh Tú Lão Quái. Thật là một tràng bẻ ngô bẻ dừa, tiếng loa pha lẫn tiếng trống.
Ta hãy gác những lời ca tụng của bọn võ sĩ kia ra. Thực tình mà nói thì nội lực Tinh Tú Lão Quái quả là dào dạt như sóng cồn.
Giữa lúc tiếng thanh la tiếng trống vang lừng và tiếng xưng tụng om sòm, cây hỏa trụ cháy to tiến lên nửa thước.
Ðột nhiên có tiếng bước chân vang lên, hơn hai chục Ðại Hán tử sau nhà im lặng chạy ra đứng trước mặt Tô Tinh Hà.
Ðây là những gã câm điếc đã khiêng Huyền Nạn lên núi lúc trước và đều là đệ tử Tô Tinh Hà.
Ðinh Xuân Thu phóng chưởng lực ra đẩy cây hỏa trụ đến đốt hơn hai mươi Ðại Hán đó. Lập tức da thịt cháy xèo xèo mà cả hai mươi tên vẫn đứng điềm nhiên giữa vùng lửa cháy. Mặc dù toàn thân họ bị lửa đốt họ vẫn đứng yên không nhúc nhích. Họ lại câm không lên tiếng, thành ra một tấn kịch bi tráng.
Những người bàng quan nhìn thảm kịch này không khỏi động lòng.
Cả Vương Ngọc Yến lẫn Ðoàn Dự cũng phải đảo mắt nhìn ra thì thấy ngọn lửa ở cây hỏa trụ đương đốt đến hơn hai mươi Ðại Hán câm điếc. Gã nào cũng bị lửa cháy đùng đùng. Chỉ trong khoảnh khắc, mấy gã cháy đen như cục than.
Ðoàn Dự bỗng la lên:
- Không được tàn nhẫn đến thế!
Chàng vung tay phải ra toan dùng Lục mạch Thần kiếm để đánh Ðinh Xuân Thu. Nhưng chàng vận kiếm không đúng phép nên nội lực đầy rẫy mà chỉ chuyển qua chuyển lại chứ không theo đầu ngón tay phóng ra ngoài được, trán chàng toát đầy mồ hôi, chàng cất tiếng gọi:
- Mộ Dung huynh! Mộ Dung huynh mau mau ra tay ngăn trở bọn tàn ác kia đi.
Vừa nãy Mộ Dung Phục, tinh thần lâm vào cuộc hôn mê toan tự vẫn. May nhờ được công phu Lục mạch Thần kiếm của Ðoàn Dự đánh rớt thanh trường kiếm ở tay y xuống. Nhưng lúc đó tinh thần y đang hoảng hốt chưa nhìn thấy phép phóng Lục mạch Thần kiếm ra sao. Sau y đã biểu Ðoàn Dự diễn lại cho xem, nhưng Ðoàn Dự vẫn chưa tái diễn.
Mộ Dung Phục nghe Ðoàn Dự kêu mình ra tay liền nói:
- Ðoàn huynh hiện ở đây, tiểu đệ đâu dám múa rìu qua mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm? Xin Ðoàn huynh lại thử ra chiêu Lục mạch Thần kiếm đi!
Ðoàn Diên Khánh đến sau, chưa nhìn thấy Ðoàn Dự phóng Lục mạch Thần kiếm. Nhưng lão là chính phái họ Ðoàn nước Ðại Lý thì thứ thần công đặc biệt trong nhà lão nay dĩ nhiên là lão đã được nghe qua. Lão vừa nghe Mộ Dung Phục nói bất giác run lên, liếc mắt nhìn Ðoàn Dự để hiểu xem chàng có hiểu môn thần công đó thật không. Nhưng lão thấy chàng đưa ngón trỏ bên phải ra, nào điểm, nào vạch, xuất thủ rất phương pháp song nội lực tuyệt không phát huy được chút nào. Lão không hiểu Ðoàn Dự đã học qua môn này chưa mà sao không sử dụng theo ý muốn mình được.
Lão lẩm bẩm nhủ thầm:
- Nào thấy Lục mạch Thần kiếm gì đâu mà mình đã sợ cuống lên? Chẳng qua thằng lỏi này hư trương thanh thế để lừa gạt người ngoài. Môn Lục mạch Thần kiếm của họ Ðoàn ta tuy các bậc cố lão có truyền lại cái tên này, mà thực ra đã có người nào luyện được đâu?
Mộ Dung Phục thấy Ðoàn Dự không chịu ra tay thì cho là chàng có ý giấu diếm. Y là người rất sâu sắc, không chịu hành động một cách khinh xuất chỉ đứng nguyên một bên để xem biến diện.
Sau một lúc nữa, hơn hai chục tên Ðại Hán câm điếc đứng dưới làn lửa đỏ của cây hỏa trụ đã bị cháy thành than chết đến một nửa, còn một nửa đều bị trọng thương.
Bỗng nghe tiếng trống nhộn nhịp.
Ðinh Xuân Thu phất tay áo bào luôn hai cái, cây hỏa trụ vượt qua đám Ðại Hán câm điếc, trườn đến Tô Tinh Hà.
Tiết Mộ Hoa kêu lên:
- Không được hại sư phụ ta!
Rồi toan tung mình nhảy đến trước cây hỏa trụ.
Tô Tinh Hà phóng ra một chưởng đẩy Tiết Mộ Hoa ra rồi bảo:
- Ngươi làm thế chết cũng vô ích.
Ðoạn lão ngưng tụ hết toàn lực vào tay trái đánh đến cây hỏa trụ.
Nhưng lúc này nội lực của lão bị hao tổn rất nhiều. Chưởng lực của lão chỉ tạm thời ngăn cản được một chút. Lão thấy toàn thân nóng bỏng, trước mắt ngọn lửa cháy đỏ rực.
Năm trước lão phát thệ giả câm giả điếc để đánh đổi lấy cuộc sống thêm ba mươi năm. Trong khoảng thời gian ba mươi năm nay, công lực của lão tuy tiến triển rất nhiều song Ðinh Xuân Thu cũng tiến triển mau lẹ hơn.
So với ba mươi năm trước hai người đã tỉ thí thì lần này võ công lại càng cách xa hơn trước nhiều.
Lúc này chân khí trong mình Tô Tinh Hà khác nào ngọn đèn hết dầu và chắc chắn không còn lối nào thoát khỏi độc thủ của Ðinh Lão Quái.
Tô Tinh Hà nghĩ đến sư phụ giả chết ba mươi năm nay, bây giờ Ðinh Xuân Thu giết xong mình rồi tất nhiên sẽ sấn vào nhà sư phụ cũng không chống nổi. Người lão bị cây hỏa trụ bức bách mà trong dạ lại càng bồn chồn.
Hư Trúc thấy Tô Tinh Hà đang lúc cực kỳ nguy cấp mà vẫn đứng nguyên chỗ không chịu lùi nửa bước. Nhà sư không nhịn được nữa tiến lại nắm lấy sau lưng Tô Tinh Hà nói:
- Chết thế cũng vô ích, tránh đi cho mau!
Thật là cơ duyên gặp thời.
Lúc này Tô Tinh Hà phóng chưởng ra nhưng chưởng lực rất suy yếu tưởng chẳng còn công hiệu gì nữa, đành một dạ tử chiến cho đến lúc cuối cùng, chẳng lẽ bó tay chịu chết mà thôi...
Ngờ đâu lão cảm thấy sau lưng đột nhiên có luồng nội lực hùng hậu vô cùng truyền vào trong người mình. Nội lực này lại đúng như luồng nội lực trong người lão. Chưởng vừa phóng ra, chưởng lực tăng gia không biết mấy lần.
Bỗng nghe những tiếng tù và vang lên: cây hỏa trụ chạy ngược trở lại đến đốt Ðinh Xuân Thu, dư thế tràn cả đến bọn đệ tử phái Tinh Tú đến bị vây trong vòng lửa đỏ.
Chỉ trong giây lát tiếng thanh la, tiếng trống, tiếng não bạt loạn xạ cả lên, lẫn với những câu chúc tụng:
- Uy thế phái Tinh Tú làm chẤn Ðộng Trung Nguyên. Ân sư ta là tay thiên hạ vô địch.
Tiếng chúc tụng xen lẫn với những tiếng chửi bới tục tằn, tiếng gọi nhau ơi ới chạy trốn mong thoát nạn.
Ðinh Xuân Thu giật mình kinh sợ. Thực ra thì nội lực Hư Trúc có hợp với chưởng phong của Tô Tinh Hà cũng chưa chắc đã thắng nổi Ðinh Xuân Thu. Có điều Tinh Tú lão quái đang lúc nắm vững phần thắng thì gặp cuộc phản kích một cách bất thình lình. Vì lão bị vố bất ngờ nên sợ hãi cuống quýt, chân tay bủn rủn. Ðồng thời lão quái phát giác ra chưởng phong của đối phương bao hàm một thứ nội lực vô cùng mãnh liệt, cao xa hơn sư huynh Tô Tinh Hà nhiều, mà hiển nhiên là công phu của bản phái.
Lão tự hỏi:
- Hay là sư phụ bị ta sát hại, đột nhiên hiển linh? Linh hồn sư phụ nhập vào sư huynh để đòi nợ mình chăng?
Nghĩ đến đây bất giác lão run lên, không ngưng tụ nội lực được nữa.
Cây hỏa trụ bị đẩy đến bên mình mà không còn sức đẩy ra.
Trước diễn biến đột ngột này Tô Tinh Hà cùng Ðinh Xuân Thu tất nhiên là không ngờ đến, chính Hư Trúc cũng chẳng hiểu gì hết.
Cây hỏa trụ lần về phía Ðinh Xuân Thu cháy rất dữ dội.
Ðinh Xuân Thu la lên:
- Thiết diện đồ nhi! Mau ra tay đi!
Du Thản Chi trong lúc thảng thốt, không kịp suy nghĩ gì nữa vùng mình nhảy ra, phóng cả song chưởng để đẩy cây hỏa trụ.
Bỗng nghe tiếng xèo xèo vang lên.
Cây hỏa trụ gặp luồng chưởng phong khí lạnh phi thường, chỉ trong chớp mắt ngọn lửa đỏ rực tắt ngấm, cả luồng khói xanh cũng tiêu tan rất mau. Dưới đất, chỉ còn lại những khúc cành thông to lớn đã cháy thành than.
Ðinh Xuân Thu bị cháy hết cả mày râu. áo quần cháy rách tả tơi. Vẻ mặt lão cũng cực kỳ hoảng hốt. Trong lòng lão vẫn nơm nớp lo sợ âm hồn sư phụ linh, lão không dám ngang ngược nữa, cất tiếng gọi bọn đồ đệ:
- Ði thôi!
Lão lạng người đi một cái đã ra xa đến bảy tám trượng.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú cũng cúp đuôi chạy theo thầy.
Chẳng ai kịp lượm nào trống, nào thanh la, não bạt bỏ ngổn ngang dưới đất.
Bài từ ca tụng Tinh Tú oai danh trẤn Ðộng Trung Nguyên cũng chưa đọc xong đã bị lửa cháy một miếng lớn, mảnh còn lại bay đi bay lại trên mặt đất, tựa hồ như chế nhạo công cuộc dương oai của Tinh Tú Lão Quái tại Trung Nguyên là chuyện đầu voi đuôi chuột.
Thầy trò phái Tinh Tú bỏ chạy một cách đột ngột khiến mọi người đều sửng sốt.
Diệp Nhị Nương gọi giựt lại:
- Ðinh ca ca! Ðinh ca ca bỏ tôi mà đi? Chẳng gì với nhau hết?
Dứt lời mụ cũng chạy như bay đuổi theo Ðinh Xuân Thu.
Bọn Ðoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần, Cưu Ma Trí đều cho Lung á lão nhân Tô Tinh Hà dụ địch bằng kế khổ nhục, nhử cho Ðinh Xuân Thu công lực để đốt cháy bọn đồ đệ câm điếc của mình, rồi đòn đánh bất thình lình như sét nổ lưng trời khiến cho đối phương không kịp đề phòng, cúp đuôi chạy.
Lung á lão nhân là tay bản lãnh phi thường lắm mưu nhiều trí từng nổi danh lừng lẫy trên chốn giang hồ. Vừa rồi lão cùng Tinh Tú Lão Quái mở đầu đã đánh bật một cây tùng rất lớn đường kính đến hơn một thước.
Mọi người đều phải kinh hồn động phách. Sau cùng lão thần công khiến Tinh Tú lão quái phải cắm đầu chạy dài. Vì yên trí như vậy, quần hùng không lấy làm lạ.
Hư Trúc chỉ là một tên đệ tử vào hàng tam đại phái Thiếu Lâm bản lãnh y rất tầm thường ai cũng biết rồi, nên không ngờ vì y đã ám trợ Ngô Tinh Hà. Chính Hư Trúc cũng chẳng hiểu gì ráo.
Chỉ Tô Tinh Hà liếc mắt nhìn thấy chiếc vòng sắt đeo ở ngón tay Hư Trúc đúng là chiếc vòng của sư phụ là biết rõ ngay.
Lòng lão vừa xót thương lại vừa mừng thầm.
Mộ Dung Phục nói:
- Lão tiền bối công lực uyên thâm, đuổi được lão quái chạy dài, chắc là sau trận ác đấu kinh hồn này lão phải táng đởm kinh hồn không dám dòm rỏ Trung Nguyên nữa. Thế là lão tiền bối đã được một việc phúc đức cho võ lâm vậy!
Tô Tinh Hà thấy mười phần đệ tử của mình bị chết đến tám chín, còn vài phần thì bị trọng thương, nên lòng lão rất đau thương.
Tô Tinh Hà sực nhớ ngay đến sự an nguy của sư phụ, quay lại nói với bọn Huyền Nạn, Mộ Dung Phục mấy câu khách sáo, rồi cầm tay Hư Trúc nói:
- Tiểu sư phụ! Mời tiểu sư phụ đi với lão sư vào trong này!
Hư Trúc đưa mắt nhìn Huyền Nạn để hỏi ý kiến.
Huyền Nạn nói:
- Tô tiền bối là bậc cao nhân trong võ lâm. Nếu người có điều chi dạy bảo, ngươi phải nhất nhất tuân theo lệnh mới được!
Hư Trúc đáp gọn một tiếng:
- Vâng.
Rồi theo Tô Tinh Hà chui cửa động đi vào.
Tô Tinh Hà thuận tay kéo tấm ván gỗ, chắn ngang cửa động.
Mọi người bên ngoài đều là những tay biết nhiều hiểu rộng trên chốn giang hồ, thấy cử động này, biết ngay Tô Tinh Hà không muốn người ngoài tiến vào thám thính, nên đều giữ ý không ai thóc mách đến việc của lão.
Người ít lịch duyệt trong đám này thì lại chỉ chăm chú để ý vào Vương Ngọc Yến.
Tô Tinh Hà cùng Hư Trúc vào trong nhà lúc nào chàng cũng không hay, chàng chẳng còn lòng nào mà để ý đến việc hai người nữa.
Tô Tinh Hà dắt tay Hư Trúc vào nhà trong.
Sau khi chuồn qua hai lổ hổng hai tầng vách ván vào đến nơi, thì thấy lão già nằm phục dưới đất, Tinh Hà đưa tay ra sờ sư phụ thấy lão chết rồi.
Vụ này tuy mười phần họ Tô đã biết được tám, chín, nhưng không nhịn nổi mối bi ai từ đáy lòng phát ra, ông phục xuống lạy trước thi hài sư phụ, vừa khóc vừa nói:
- Sư phụ ơi sư phụ! Sư phụ bỏ đệ tử ra đi vĩnh viễn không trở lại nữa. Từ đây bọn đệ tử không còn bao giờ được nghe lời giáo huấn của sư phụ nữa!
Hư Trúc nghĩ thầm:
- Lão già này đúng là sư phụ Tô tiền bối. Quả nhiên lão đã nói thật, chứ không phải lừa gạt ta.
Tô Tinh Hà gạt nước mắt đứng dậy nâng thi thể sư phụ lên đặt tựa vào vách ván để ngồi ngay ngắn.
Tô lại dắt Hư Trúc cùng đến ngồi tựa vào vách ngang vai với lão sư phụ.
Hư Trúc tự hỏi:
- Tô tiền bối đặt mình ngồi ngang bên xác chết lão sư phụ y để làm gì? Chẳng lẽ... ông này cũng bắt ta phải chết theo sư phụ?
Nghĩ vậy nhà sư trẻ tuổi cảm thấy ớn gáy. Y muốn đứng dậy nhưng không dám. một là y vẫn kính sợ Tô Tinh Hà, không dám trái ý, hai là sư bá tổ Huyền Nạn đã bảo nhất nhất tuân theo lệnh.
Tô Tinh Hà kéo ngay ngắn lại cái vạt áo của ông đã bị một nửa, rồi đột nhiên ông quỳ xuống trước mặt mình, Hư Trúc sửng sốt!
Tô Tinh Hà dập đầu lạy, nói:
- Kẻ đệ tử bất tiếu phái Tiêu Dao là Tô Tinh Hà xin làm lễ bái kiến chưởng môn bản phái!
Hư Trúc sợ quá.
Chân tay luống cuống, y lẩm bẩm một mình:
- Cha này điên mất rồi! Cha này điên mất rồi!
Nhà sư hấp tấp quỳ lên dập đầu mà lạy Tô Tinh Hà vừa nói:
- Lão tiền bối thi hành đại lễ thế này, tiểu tăng phải tổn thọ mất!
Tô Tinh Hà nghiêm sắc mặt nói:
- Sư đệ! Sư đệ đã được sư phụ ta thu nạp làm đệ tử truyền, tức là chưởng môn của bản phái. Ta tuy là sư huynh, nhưng ta thi đại lễ đây là tỏ lòng chí thành với bản phái và là lễ ra mắt chưởng môn đương nhiên là dập đậu lạy tám lạy!
Hư Trúc ấp úng:
- Cái này... cái này...
Bây giờ nhà sư biết rõ Tô Tinh Hà không phải phát điên, nhưng ông không điên thì mình lại càng lâm vào tình trạng khó xử.
Tô Tinh Hà nói:
- Sư đệ ơi! Tính mạng ta mà còn sống được là nhờ ở sư đệ cứu cho. Chắc chắn sư phụ đã hoàn thành cho sư đệ rồi, vậy sư đệ nhận mấy lạy của ta là đáng lắm. Sư phụ đã bảo sư đệ bái cho trọn vẹn lễ thầy trò. Phải chăng người bảo sư đệ khấu đầu chín cái? Sư đệ đã dập đầu lạy chưa?
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng dập đầu lạy rồi, nhưng lúc ấy chưa biết là lễ bái sư. Tiểu tăng đã là đệ tử phái Thiếu Lâm, không thể biến cải để gia nhập phái khác được.
Tô Tinh Hà nói:
- Dĩ nhiên sư phụ đã hiểu sư đệ là đồ đệ phái Thiếu Lâm nên nhất định người hóa giải võ công trước của sư đệ rồi mới truyền võ công bản phái sau. Phải chăng sư phụ đã trút hết công lực suốt đời của người vào nội thể sư đệ?
Hư Trúc gật đầu nói:
- Ðúng thế!
Tô Tinh Hà lại nói:
- Tiêu biểu của bản phái là cái nhẫn sắt kia. Phải chăng cũng do sư phụ đeo vào ngón tay cho sư đệ?
Hư Trúc đáp:
- Chính thế! Có điều... tiểu tăng hoàn toàn không hiểu đó là tiêu biểu của chưởng môn nhân gì gì hết...!
Tô Tinh Hà ngồi xếp bằng xuống đất nói:
- Sư đệ! Phúc trạch sư đệ cực kỳ thâm hậu! Ta cùng Ðinh Xuân Thu mấy chục năm trời, mong mỏi cái nhẫn sắt đó, chung thủy vẫn không được! Vậy mà sư đệ mới gần gũi sư phụ trong vòng một giờ sư phụ đã trao nhẫn cho.
Hư Trúc vội nói:
- Vậy tiền bối lấy đi thôi! Cái nhẫn này tiểu tăng không dùng làm gì được!
Hư Trúc vừa nói vừa rút nhẫn ra. Nhưng không ngờ cái nhẫn bên trong có nhiều nấc nhà sư ráng sức giật mạnh song chỉ tổ làm cho tay đau nhức mà chung thủy vẫn không sao rút nhẫn ra được.
Tô Tinh Hà nghiêm sắc mặt nói:
- Sư đệ! Sư đệ đã chịu lời trọng thác của sư phụ lúc lâm chung. Có lý đâu lại từ chối trách nhiệm? Sư phụ đã trao nhẫn cho sư đệ, phải chăng là để trừ diệt Ðinh Xuân Thu?
Hư Trúc nói:
- Chính thế! Nhưng tiểu tăng đạo hạnh kém, làm sao làm nổi trọng trách đó?
Tô Tinh Hà nói:
- Lúc nãy chính sư đệ mới ra tay làm cho Ðinh Xuân Thu xém mặt cháy mày, thất điên bát đảo, rồi ù té chạy. Sự thật rành rành ra đó chẳng lẽ còn giả mạo được ư?
Hư Trúc ngạc nhiên nói:
- Tiểu tăng có ra tay đâu mà tiền bối cứ đổ cho tiểu tăng?
Tô Tinh Hà thở dài nói:
- Sư đệ! Vụ này bên trong còn nhiều điểm khuất khúc, sư đệ chưa biết đấy thôi! Ðể rồi ta nói cho sư đệ nghe.
Ngừng một lát Tô Tinh Hà lại nói tiếp:
- Tiêu Dao phái trước đây đã có lệ: Khi chưởng môn tịch đi thì không nhất định do đại đệ tử lên kế vị. Trong bọn đệ tử bản phái hễ ai là người có võ công cao cường nhất sẽ được lên làm chức Chưởng Môn. Sư phụ chúng ta trước có ba vị sư huynh, còn người là sư đệ nhỏ nhất. Khi thái sư phụ lâm chung, ba vị đồ đệ tỉ thí hơn thua, thì sư phụ chúng ta đoạt được chức Chưởng Môn. Hai vị sư bá chúng ta có lẽ trong lòng không được hoan hỉ, nên viễn tẩu phương xa.
Ngừng một lát Tô Tinh Hà kể tiếp:
- Sư phụ thu hai người đồ đệ là ta và Ðinh Xuân Thu, những điều sở học của sư phụ rất phức tạp: ai muốn làm Chưởng Môn thì phải trội hết cả các môn. Không những tỷ võ mà thôi, mà còn tỷ cả cầm, kỳ, thi, hoạ nữa. Ðinh Xuân Thu ngoài võ công ra, các môn khác y đều chẳng biết tý gì. Y tự lượng không có hy vọng tranh giành được chức Chưởng Môn, nên y hạ thủ trước: đánh sư phụ tung xuống vực thẳm, lại đánh ta bị trọng thương!
Hư Trúc hỏi:
- Sao Ðinh Xuân Thu lại không giết tiền bối đi?
Tô Tinh Hà đáp:
- Sư đệ đừng tưởng y nhân nghĩa đâu nhé! Sở dĩ y để ta sống là cũng có mục đích đó. Lúc đó ta bảo y: "Này Ðinh Xuân Thu! Tuy võ công ngươi thắng được cả sư phụ lẫn sư huynh, song những môn huyền diệu của phái Tiêu Dao ngươi chưa làm được đến nơi, là bộ" Tiêu Dao Ngự Phong. Ngươi có muốn coi không?
Tô Tinh Hà thở phào một cái rồi kể tiếp:
- Sư đệ! Sở dĩ bản phái mệnh danh là Tiêu Dao phái Tiêu Dao Ngự Phong đó ghi chép những võ công sâu rộng không biết đâu mà lường!
Pho sách này trước nay đều để chưởng môn nhân giữ. Mấy đời chưởng môn bản phái chỉ lĩnh hội được một vài phần trong đó mà thôi.
Tô Tinh Hà ngừng một lát rồi kể tiếp:
- Ðinh Xuân Thu nghe ta đề cập đến pho sách này liền bảo ta: "Sư huynh cho tiểu đệ biết vậy hay lắm. Vậy sư huynh giao sách lại cho tiểu đệ thì tiểu đệ sẽ tha mạng sư huynh". Ta trả lời y: "Ta không phải là chưởng môn bản phái, đâu có quyền giữ pho sách này mà đưa cho người? Có điều ta biết nơi sư phụ cất giấu mà thôi. Ngươi muốn giết ta thì cứ hạ thủ đi!" .
Ðinh Xuân Thu lại nói:
- Dĩ nhiên pho sách này cất giấu ở bờ biển Tinh Tú, làm gì tiểu đệ không biết?
Ta nói:
- Ðúng thế? Pho sách quả cất ở bờ biển Tinh Tú nếu ngươi biết vậy thì tự mình cố mà tìm lấy!
Y nghĩ thầm một lúc, biết rằng bờ biển Tinh Tú dài đến mấy trăm dặm thì việc tìm pho sách nhỏ xíu há phải dễ dàng?
Y liền bảo:
- Ðược rồi! Tiểu đệ không giết sư huynh, nhưng từ đây trở đi sư huynh phải giả câm điếc, không được tiết lộ bí mật bản phái đối với người ngoài.
Sở dĩ Ðinh Xuân Thu không giết ta là cốt ý muốn bức bách ta có ngày phải cung xưng cho y biết nơi dấu sách.
Y ra bờ biển Tinh Tú và có lẽ đã lật từng phiến đá để lục tìm song chung thủy vẫn không thấy pho kỳ thư Tiêu Dao Ngự Phong.
Cứ mười năm một lần y lại đến quấy rầy ta bằng đủ cách cương có nhu có, để tra hỏi ta. Phen này y lại đến vặn hỏi ta một lần nữa, y thấy không có hy vọng điều tra được. Mặt khác ta lại phá bỏ lời thề mở miệng nói năng. Y muốn giết ta để rửa hận.
-
Hồi 66 - Bức Hoạt Họa Ly Kỳ Bí Hiểm - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 66 - Bức Hoạt Họa Ly Kỳ Bí Hiểm
Hư Trúc nói:
- May mà tiền bối...
Tô Tinh Hà ngắt lời:
- Sư đệ là chưởng môn của bản phái, sao lại kêu biểu huynh là tiền bối? Nên gọi bằng sư ca mới phải chứ!
Hư Trúc nghĩ thầm trong bụng:
- Vụ này thật rắc rối cho mình! Biết bao giờ mới nói huỵch toẹt ra được?
Nhà sư nghĩ vậy liền đáp:
- Tiền bối có phải sư huynh tiểu tăng hay không, chưa bàn đến vội. Giả tỷ tiền bối đúng là sư huynh thì cũng là tiền bối chứ sao?
Tô Tinh Hà gật đầu nói:
- Sư đệ nói vậy cũng có lý. Vừa rồi sư đệ biểu: may mà...
Hư Trúc nói:
- May mà tiền bối kín đáo không chịu lộ chuyện, dấu nhẹm công lực tinh nhuệ của mình, chờ cho đến lúc cuối cùng, tiền bối mới đột nhiên đem kỳ chiêu ra đánh bật lại, khiến cho Tinh Tú lão quái bị thua liểng xiểng phải bỏ chạy.
Tô Tinh Hà khoát tay lia lịa nói:
- Sư đệ! Cái đó chính là tự sư đệ mà ra còn gì nữa. Rõ ràng sư đệ dùng thần công của tôn sư truyền cho chuyển vào giúp sức mới cứu được tính mạng cho ta. Sao còn khiêm tốn không chịu nhận? Sư đệ với ta tuy là sư huynh, sư đệ trong một môn phái, song ngôi chưởng môn đã định rồi. Huống chi mạng ta lại được sư đệ cứu cho, nên dù sao thì ta cũng phải trọng chức chưởng môn tức là trọng vọng sư đệ vậy. Từ đây sư đệ đừng coi ta như người ngoài nữa.
Hư Trúc lấy làm lạ hỏi:
- Tiểu tăng đã giúp tiền bối bao giờ? Việc cứu mạng đó không nên nói đến nữa.
Tô Tinh Hà ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Hoặc giả đó là sư đệ vô tâm không chừng. Nhưng rút lại nhờ có bàn tay sư đệ đặt lên lưng ta thì thần công của bản môn mới truyền vào được, và mới có thể chuyển bại thành thắng.
Hư Trúc nói:
- À ra thế đấy! Nếu vậy thì lại là lệnh sư phụ đã cứu mạng tiền bối, chứ không phải tiểu tăng đâu.
Tô Tinh Hà nói:
- Ta cũng bảo sư tôn mượn bàn tay sư đệ cứu mạng ta. Vậy sư đệ chịu rồi chứ?
Hư Trúc không còn chối cãi vào đâu được, gật đầu nói:
- Cái đó là đúng lý. Tiền bối nói tiểu tăng không nhận cũng không được.
Tô Tinh Hà lại nói:
- Ðinh Xuân Thu định bụng sau khi hạ sư phụ rồi, đoạt lấy thiết giới chỉ (cái nhẫn sắt đeo tay) rồi nhờ người cho biết về công phu Tiêu Dao Ngự Phong. Hắn không ngờ lúc chiến đấu lại hất văng sư phụ xuống vực sâu để mất tích.
Hắn lại không ngờ sư phụ tuy bị trọng thương, hai chân đứt từ đầu gối mà người chưa chết. Mấy năm sau sư phụ cùng ta lại được gặp nhau. Ta vẫn ngấm ngầm tính toán: nếu muốn hạ được Ðinh Xuân Thu thì cần tìm một tay thiếu niên anh tuấn, thông tuệ phi thường, tư cách phong lưu hơn người...
Hư Trúc nghe Tô Tinh Hà nói đến tay thiếu niên anh tuấn thì không khỏi chau mày tự hỏi:
- Luyện võ công thì cần gì đến bộ mặt đẹp hay xấu? Hai thầy trò lão này mỗi khi đề cập đến việc tìm người truyền võ công bao giờ cũng tìm tướng mạo tốt đẹp nghĩa là làm sao? Hẳn bên trong có duyên cớ nào khác.
Tô Tinh Hà liếc mắt nhìn nhà sư khẽ thở dài.
Hư Trúc nói:
- Tiểu tăng mặt mũi xấu xa, quyết không hợp tư cách làm truyền nhân của tôn sư. Vậy lão tiền bối đi tìm một vị thiếu niên anh tuấn, tư cách phong lưu về, tiểu tăng sẽ truyền lại thần công của sư tôn cho chàng thế là yên chuyện.
Tô Tinh Hà sửng sốt nói:
- Thần công bản phái có liên quan đến khí quyết cùng tâm mạch. Thần công còn thì người còn mà thần công mất thì người phải chết. Sư phụ truyền thần công cho sư đệ rồi quy tiên ngay! Chẳng lẽ sư đệ không thấy hay sao?
Hư Trúc dậm chân liền mấy cái rồi nói:
- Như vậy thì biết làm thế nào? Thế là tiểu tăng đã làm lỡ đại sự của tôn sư cùng tiền bối rồi!
Tô Tinh Hà nói:
- Sư đệ ơi! Trách nhiệm đã trút lên vai sư đệ rồi. Sư phụ đặt ra thế cờ đó cốt để khảo tra tính tình ngộ nghĩnh của những người đến đây phá giải. Người từng nói với ta: "Tinh Hà! Ngươi theo ta đã lâu năm, ta biết ngươi không phải là người đúng tư cách. Nhưng ta đã coi ngươi vào hạng đồng nhân. Chỉ cần ngươi giải khai được thế cờ là ta đem thiết giới chỉ cùng thần công truyền lại cho ngươi". Ta khổ công lo nghĩ mấy chục năm trời mà không sao phá được thế cờ. Sư đệ, chỉ có mình sư đệ giải khai được mà thôi. Vậy thì thiên tư đĩnh ngộ của sư đệ là hợp thức rồi.
Hư Trúc nhăn nhó cười nói:
- Sự thực thì không hợp thức. Thế cờ đó không phải tiểu tăng phá được đâu.
Rồi nhà sư đem việc sư bá tổ Huyền Nạn dùng phép truyền âm nhập mật ngấm ngầm cho biết thuật lại.
Tô Tinh Hà bán tín bán nghi nói:
- Huyền Nạn đại sư mắc phải độc thủ của Ðinh Xuân Thu, công lực toàn thân đã bị mất hết rồi thì làm sao còn thi triển được phép truyền âm nhập mật nữa?
Lão ngừng một lát rồi nói tiếp:
- Nhưng phái Thiếu Lâm là một phái võ chính tông đứng đầu thiên hạ. Hoặc giả Huyền Nạn đại sư giả trang như vậy cũng chưa biết chừng. Ta đây chỉ như con ếch nằm đáy giếng thì hiểu sao được? Sư đệ ơi! Về vụ tìm người phá thế cờ, ta đã bày ra trăm phương ngàn kế để dẫn dụ bao nhiêu nhân vật đến đây. Mộ Dung công tử ở Cô Tô mặt đẹp như ngọc, lại giỏi về các môn sở trường những phái võ khắp thiên hạ. Y chính là một nhân vật tốt nhất, đủ tư cách về vụ này, nhưng khốn nỗi lại không phá được thế cờ.
Hư Trúc nói:
- Ðúng rồi! Mộ Dung công tử quả là mạnh gấp trăm lần tiểu tăng. Lại còn vị Ðoàn công tử nước Ðại Lý cũng là tay phong lưu tuyệt vời!
Tô Tinh Hà nói:
- Hỡi ơi! Gã này không nên đề cập đến. Ta từng nghe Trấn Nam Vương nước Ðại Lý là Ðoàn Chính Thuần rất tinh thâm về thần kỹ Nhất Dương chỉ. Ông ta là một tay phong lưu trên đời hiếm có. Bất luận là khuê nữ nơi gác tía lầu son hay thiếu phụ nạ dòng trong võ lâm một khi đã thấy mặt y là thần hồn điên đảo, không sao tự ngăn chặn được mối tình bồng bột. Ta cũng tốn bao nhiêu tâm huyết, sai đệ tử đi mời y đến đây và biểu cho y biết Cô Tô Mộ Dung muốn phá phép Nhất Dương Chỉ của Ðoàn gia, ngờ đâu y chẳng chịu đến chỉ có cậu con trai quý hóa ngớ ngớ ngẩn ngẩn đến đây mà thôi.
Hư Trúc mỉm cười nói:
- Tiểu tăng cũng không để ý nhìn chàng song dường như chàng ta cặp mắt lúc nào cũng đăm đăm để ý đến Vương cô nương!
Tô Tinh Hà lắc đầu nói:
- Thật tội nghiệp cho gã! Phụ thân gã là Ðoàn Chính Thuần thì ong bướm vật vờ, nổi danh là tay phong lưu đệ nhất võ lâm lại có được cậu con trai chẳng giống cha chút nào, làm mất cả mặt. Gã thục mạng cố gần cạnh Vương cô nương, song Vương cô nương lại không thèm để ý gì đến gã thật là tức cười chết đi được.
Hư Trúc nói:
- Vị công tử đó là kẻ thâm tình, đúng lý là tư cách còn hơn kẻ phong lưu. Sao tiền bối lại chê chàng?
Tô Tinh Hà đáp:
- Gã là anh chàng ngù ngờ, không hiểu việc tán gái, chúng ta không thể dùng gã được.
Hư Trúc đáp:
- Vâng.
Nhà sư lòng riêng vui mừng mừng thầm, nghĩ bụng:
- Té ra bọn này muốn kiếm một chàng thiếu niên anh tuấn là để đối phó với đàn bà, con gái. Nếu vậy thì hay lắm! Không bao giờ họ dùng đến kẻ trọc đầu xấu xa này!
Tô Tinh Hà lại hỏi:
- Sư đệ! Sư phụ có cho biết cho sư đệ đi kiếm một người nào không?
Hư Trúc sửng sốt biết rằng vụ này có chuyện rắc rối, toan nói dối. Nhưng nhà sư đã được các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm giáo huấn ngay từ nhỏ. Có bao giờ lại nói dối. Nhà sư ấp úng:
- Cái đó... cái đó...
Tô Tinh Hà đáp:
- Bây giờ sư đệ đã là chưởng môn nhân bản phái nếu sư đệ bảo làm gì, ta nhất định phải trả lời. Nếu không thì sư đệ có thể dùng chưởng môn mà xử tử ta lúc nào. Còn ta hỏi sư đệ điều gì, sư đệ nếu muốn trả lời cũng được, mà không muốn trả lời thì có thể cấm ta không được lắm mồm hỏi vặn.
Tô Tinh Hà nói vậy, song Hư Trúc không giấu diếm, liền khoát tay nói:
- Tiểu tăng khi nào dám ngông cuồng, tự đại với tiền bối? Lệnh sư đã giao cái này cho tiểu tăng.
Nói xong rút cuốn trục trong bọc ra thì thấy người Tô Tinh Hà co rúm lại, vẻ mặt cực kỳ cung kính, không dám thò tay ra đụng cuốn trục.
Nhà sư liền từ từ mở ra.
Cuốn trục vừa mở, cả hai người đồng thời thộn mặt ra và cùng la lên một tiếng kinh ngạc.
Nguyên cuốn trục này không vẽ đồ hình địa lý mà cũng không vẽ phong cảnh sơn thủy nào cả, chỉ vẽ một thiếu nữ nhan sắc khuynh thành ăn mặc ra kiểu cung phi.
Hư Trúc nói:
- Té ra đây là hình dung Vương cô nương ở ngoài kia.
Cuốn trục này bằng lụa vàng đã lâu ngày ít ra cũng đến ba bốn chục năm. Nét vẽ trong đồ hình đã phai màu, rõ ràng là một bức cổ hoạ về nhân vật đời trước. Thế nào thì người trong đồ hình cũng hơn tuổi Vương cô nương nhiều lắm rồi mới phải. Chẳng lẽ người vẽ mấy chục hay mấy trăm năm trước đã tưởng tượng để vẽ ra dung mạo Vương cô nương ngày nay thật là một việc không thể ngờ đến.
Nét vẽ trong đồ hình lại càng linh hoạt phi thường. Hình trong bức vẽ hoạt động trông như người thật, giống hệt như Vương Ngọc Yến co nhỏ người lại rồi đặt vào đó.
Hư Trúc ngấm ngầm kinh dị đưa mắt ngó Tô Tinh Hà thì thấy lão đang thò ngón tay ra vẽ vẽ, vạch vạch dường như nét nào cũng cố bắt chước nét vẽ trong bức hoạ. Lão vừa vẽ vừa khen, hồi lâu rồi đột nhiên như người đang mơ mộng choàng tỉnh giấc, cất tiếng nói:
- Sư đệ! Sư đệ đừng lấy làm lạ và cũng đừng trách biểu huynh. Ðây là phút xuất thần, biểu huynh nhìn nét vẽ tuyệt diệu của sư phụ bất giác lại ngứa nghề, muốn học vẽ một phen. Hỡi ơi! Người ta thường nói: ăn lắm thì nhai không được kỹ, ôm nhiều thì nặng bụng. Cái gì ta cũng muốn học, thành ra không được việc gì đến nơi đến chốn, nên mới bị Ðinh Xuân Thu đánh cho bại hoại.
Tô Tinh Hà vừa nói vừa vội vàng cuộn cuốn trục lại đưa trả cho Hư Trúc vì lão sợ coi thêm một chút nữa sẽ bị nét bút quyến rũ làm cho mê mẩn.
Tô Tinh Hà nhắm mắt dưỡng thần, lại miễn cưỡng lắc đầu, tựa hồ như để xua đuổi những nét vẽ trong đồ hình ra ngoài bộ óc. Hồi lâu lão mới dương cặp mắt lên hỏi:
- Khi sư phụ trao cuốn trục này cho sư đệ, người bảo sao?
Hư Trúc đáp:
- Lệnh sư bảo: "Bây giờ công phu của tiểu tăng chưa đủ tru diệt Ðinh Xuân Thu, phải theo cuốn trục này đi đến Thiên Sơn tại Tây Vực, tìm kiếm những sách vở võ học lúc đương thời để luyện thêm". Có điều theo lời tôn sư thì người đây là nơi người đã hưởng phúc thanh nhàn hồi trước mà vẽ ra đồ hình này. Tiểu tăng tưởng trong đồ hình vẽ một khu danh sơn kỳ thủy hoặc một phong cảnh thanh tịch u nhã, ngờ đâu lại là tượng hình Vương cô nương. Hay là lệnh tôn sư đã đưa lầm cuốn trục?
Tô Tinh Hà nói:
- Những hành động của sư phụ khó mà lường được. Thiên tư đĩnh ngộ của sư đệ rất cao xa, lúc đến việc sẽ hiểu rõ. Sư đệ phải chăm chú vào việc tuân theo lệnh của sư phụ, tìm cách học thêm để trừ diệt Ðinh Xuân Thu cho toại lòng sư phụ.
Hư Trúc ấp úng:
- Cái này... cái này... tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, cần phải về chùa phục mệnh ngay. Khi đã về chùa rồi thì không biết còn ra nữa không.
Tô Tinh Hà giật mình kinh sợ nhảy lên, rồi buông tiếng khóc ròng. Huỵch một tiếng, lão quỳ mọp trước mặt Hư Trúc như tế sao, cầu khẩn:
- Chưởng Môn nhân! Trời ơi! Chưởng Môn nhân không tuân theo lời di huấn của sư phụ chết uổng hay sao?
Hư Trúc cũng quỳ xuống vừa lạy vừa nói:
- Tiểu tăng đã vào cửa Không một lòng giới sân giới sát. Trước đây tiểu tăng có vâng lệnh tôn sư đi trừ khử Ðinh Xuân Thu. Nhưng lúc này nghĩ lại hối hận vô cùng. Lề luật bản phái cực kỳ nghiêm minh. Bất luận thế nào tiểu tăng cũng không dám thay đổi lòng dạ gia nhập môn phái khác, làm điều càn rỡ.
Bất luận Tô Tinh Hà khóc lóc, van vỉ thế nào, dỗ ngon dỗ ngọt đến đâu thậm chí dùng đến cách uy hiếp cưỡng bách thế nào mặc lòng, Hư Trúc vẫn một mực không chịu.
Tô Tinh Hà không biết làm thế nào được.
Lão thương tâm tuyệt vọng quá đỗi, nhìn thi thể sư phụ vừa khóc vừa nói:
- Sư phụ ơi! Chưởng Môn nhân không chịu tuân lời di mệnh của sư phụ. Tiểu đồ lại kém cỏi không làm gì được, quyết định đi theo sư phụ thôi!
Lão nói xong nhảy tung người, lộn cổ xuống, giơ chân lên định đập đầu xuống thềm đá.
Hư Trúc hốt hoảng la lên:
- Không làm thế được!
Ðoạn nhảy ra ôm chặt lấy Tô Tinh Hà. Hiện giờ nhà sư chẳng những nội lực thâm hậu mà chân tay lại mau lẹ hơn trước nhiều lắm.
Tô Tinh Hà bị Hư Trúc ôm chặt không nhúc nhích được.
Lão hỏi:
- Tại sao sư đệ không cho biểu huynh tự tận?
Hư Trúc đáp:
- Kẻ xuất gia lấy từ bi làm gốc, tiểu tăng dĩ nhiên không nỡ nhìn thấy tiền bối hủy mình.
Tô Tinh Hà nói:
- Sư đệ buông biểu huynh ra. Biểu huynh đã nhất quyết không muốn sống nữa!
Hư Trúc nói:
- Tiểu tăng nhất định không buông.
Tô Tinh Hà nói:
- Chẳng lẽ sư đệ cứ giữ thế này mãi được chăng?
Hư Trúc cho là lão nói đúng, liền đảo người lão lại, đầu lên trên chân xuống dưới rồi buông ra nói:
- Ðược rồi! Tiểu tăng đành chịu buông tiền bối, nhưng nhất quyết không cho tiền bối tự tận.
Tô Tinh Hà chợt động tâm linh nói ngay:
- Sư đệ không cho tiểu huynh tự tận ư? Vâng! Dĩ nhiên tiểu huynh phải tuân theo lệnh của chưởng môn nhân. Hay lắm! Thưa chưởng môn nhân! Chưởng Môn nhân đã ưng chịu làm chưởng môn bản phái rồi!
Hư Trúc lắc đầu mãi:
- Tiểu tăng không... không dám đâu! Tiểu tăng ưng chịu làm chưởng môn nhân bao giờ?
Tô Tinh Hà cười ha hả nói:
- Chưởng Môn nhân! Bây giờ chưởng môn nhân lại muốn cãi ư? Nhưng không được nữa rồi! Chưởng Môn nhân đã ra lệnh cho tại hạ và tại hạ đã tuân lệnh từ giờ không dám tự tận nữa.
Ngừng giây lát, Tô Tinh Hà nói tiếp:
- Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà này là hạng người nào? Trừ chưởng môn nhân bản phái nói sao phải nghe vậy, còn ngoài ra ai dám ra lệnh cho tại hạ nữa? Chưởng Môn nhân không tin thì thử hỏi Huyền Nạn đại sư phái Thiếu Lâm xem có đúng thế không? Ngay phương trượng chùa Thiếu Lâm cũng không dám ra lệnh cho tại hạ.
Thông Biện tiên sinh Lung á lão nhân oai danh lừng lẫy giang hồ, chính Hư Trúc cũng biết vậy. Lão biểu không ai dám ra lệnh cho lão là đúng sự thực.
Nhà sư nói:
- Tiểu tăng khi nào dám ra lệnh cho tiền bối. Sở dĩ tiểu tăng nói vậy là để khuyến cáo tiền bối giữ gìn tính mệnh không nên hủy hoại. Ðó chẳng qua là hảo ý của tiểu tăng mà thôi.
Tô Tinh Hà nói:
- Tại hạ không đủ tư cách chất vấn chưởng môn nhân có bảo hay không. Chưởng Môn nhân bảo tại hạ chết là tại hạ phải chết liền, bảo tại hạ không được chết là tại hạ không dám chết nữa. Mệnh lệnh để sống hay bắt phải chết là một quyền hành lớn nhất ở đời. Nếu sư đệ không phải là chưởng môn nhân thì đâu có quyền bảo tiểu huynh phải sống.
Hư Trúc đuối lý quay ra năn nỉ:
- Nếu vậy thì tiểu tăng lỡ lời, bây giờ xin thủ tiêu lời nói đó vậy.
Tô Tinh Hà nói:
- Chưởng Môn nhân đã thủ tiêu lệnh không cho tại hạ tự tận, tức là có ý bảo tại hạ phải tự tận đi! Tại hạ xin tuân lệnh và lập tức tự tận ngay bây giờ.
Cái cách tự vận của lão thật là kỳ. Dứt lời lão lại nhảy tung mình một cái, dơ chân lên, đầu chúc xuống toan đập vào thềm đã!
Hư Trúc lại giơ tay ra ôm chặt lấy nói:
- Không được, không thể làm thế được! Tiểu tăng có biểu tiền bối tự tận đâu!
Tô Tinh Hà lại nói:
- Vâng! Chưởng Môn nhân không cho tự tận, tại hạ xin kính cẩn tuân theo lệnh của chưởng môn nhân!
Hư Trúc hạ người Tô Tinh Hà xuống, vò cái đầu trọc lóc không biết nói sao.
Nguyên Tô Tinh Hà sở dĩ có ngoại hiệu là Thông Biện tiên sinh vì lão là một tay biện bác rất giỏi. Sau ba mươi năm trời giả câm giả điếc không hề mở miệng, phen này lại vận dụng khẩu thiệt tài dường thông reo nước không , Hư Trúc đã nhỏ tuổi lại kém mồm miệng thì đối thủ với lão thế nào được? Thực ra Hư Trúc bảo không cho lão tự tận không phải là một lệnh. Có điều tài biện luận hùng hồn của Tô Tinh Hà nói đâu ra đấy, mà Hư Trúc không biết biện bạch thế nào đành đứng thộn mặt ra hồi lâu rồi thở dài nói:
- Tiền bối! Tài biện luận của tiểu tăng không thể nào theo kịp được tiền bối. Có điều tiền bối bảo tiểu tăng đổi dạ gia nhập quý phái thì dù sao tiểu tăng cũng không tuân mệnh được.
Tô Tinh Hà vặn nói:
- Lúc chúng ta vào đây, Huyền Nạn đại sư đã căn dặn sư đệ điều gì? Lời nói của Huyền Nạn đại sư, sư đệ có nên nghe theo hay không?
Hư Trúc chưng hửng, ấp úng đáp:
- Sư bá tổ bảo tiểu tăng... phải... nghe lời... lão tiền bối.
Tô Tinh Hà ra chiều đắc ý cười ha hả nói:
- Phải rồi! Huyền Nạn đại sư biểu sư đệ phải nghe lời tiểu huynh. Tiểu huynh đã nói sư đệ nên tuân theo di mệnh của sư phụ và làm chưởng môn nhân bản phái. Nhưng khi sư đệ đã lên địa vị chưởng môn nhân phái Tiêu Dao, thì bất tất phải nghe lời các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm nữa. Sư đệ tuân lời của Huyền Nạn đại sư có lý đâu lại không làm chưởng môn nhân phái Tiêu Dao. Trong trường hợp sư đệ không tuân theo lời Huyền Nạn đại sư cũng vẫn hợp lý vì chưởng môn nhân phái Tiêu Dao có thể không nghe lời Huyền Nạn đại sư được.
Tô Tinh Hà đưa ra luận chứng này.
Hư Trúc nghe câu nào cũng có lý, nhà sư lúng túng không biết nói sao thì Tô Tinh Hà lại nói tiếp:
- Sư đệ! Huyền Nạn đại sư cùng các vị cao tăng khác của chùa Thiếu Lâm đều trúng phải độc thủ của Ðinh Xuân Thu. Nếu không tìm cách cứu chữa thì tính mạng các vị đó nguy trong sớm tối. Hiện nay trên thế gian chỉ có một mình sư đệ là cứu được các vị đó. Nhưng ta nói vậy thôi, còn muốn hay không là tuỳ ý sư đệ.
Hư Trúc cả kinh hỏi:
- Sư bá tổ tiểu tăng cũng mắc phải độc thủ của Ðinh Xuân Thu rồi ư?
Tô Tinh Hà trịnh trọng đáp:
- Khi nào tại hạ dám lừa gạt chưởng môn nhân? Nếu chưởng môn nhân không tin thì ra hỏi lại người sẽ rõ.
Hư Trúc đáp:
- Không phải là tiểu tăng không tin lời lão tiền bối. Tiểu tăng nghĩ rằng, Sư bá tổ thần công tuyệt thế. Hiện nay trên đời ít có tay đối thủ nào mà sư bá tổ lại bị hại về tay Ðinh Xuân Thu?
Tô Tinh Hà đáp:
- Huyền Nạn đại sư quả là một bậc cao tăng đời nay, nhưng vẫn bị Ðinh Xuân Thu áp bức, tính mệnh người như trứng để đầu gậy. Thực ra Huyền Nạn đại sư rất có thiện chí muốn ra tay viện trợ cho tiểu huynh song vì công lực mất hết thôi đành chịu. Dù sao tiểu huynh cũng rất cảm kích thịnh tình của đại sư.
-
Hồi 67 - Tiểu Tướng Công Trong Phạm Điếm Là Ai - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 67 - Tiểu Tướng Công Trong Phạm Điếm Là Ai
Hư Trúc nghĩ lại lời Tô Tinh Hà quả đã không sai. Vừa nãy gặp lúc nguy cấp như vậy, không có lý nào sư bá tổ lại khoanh tay đứng nhìn, thấy người khác sắp chết đến nơi mà không cứu cấp, trừ Tô Tinh Hà thật tình dùng kế dụ địch mà sư bá tổ biết rõ thì không kể. Còn điều sư bá tổ mất hết công lực hay không, lát nữa sẽ rõ. Nhưng xem Tô Tinh Hà không thể nói lăng nhăng một cách công nhiên như thế.
Nhà sư nghĩ vậy liền hỏi:
- Lão tiền bối bảo tiểu tăng có thể cứu được sư bá tổ? Vậy làm thế nào mà cứu?
Tô Tinh Hà tủm tỉm cười nói:
- Sư đệ! Bản phái trước nay chẳng những chỉ sở trường về võ học mà các nghề: y, bốc, tướng, số, sĩ, nông, công, thương bất luận nghề gì cũng bao quát hết. Sư đệ hiện có gã sư điệt là Tiết Mộ Hoa, y thuật gã đã tinh vi đến chỗ cùng cực. Chả thế mà người trên chốn giang hồ đều kêu gã bằng Tiết Thần Y. Gã lại còn được người ta tặng cho cái ngoại hiệu là Diêm vương địch nghĩ thật buồn cười đến nẻ ruột. Huyền Nạn đại sư trúng phải thuật Hoá công đại pháp của Ðinh Xuân Thu, vị sư mặt vuông kia thì gã đầu sắt dùng Băng tằm chưởng đánh bị thương, còn vị sư phụ người cao nghễu mà gầy khẳng gầy kheo thì bị Ðinh Xuân Thu đá vào cạnh sườn bên tả cách ba tấc, làm tổn thương kinh mạch.
Tô Tinh Hà nói thao thao bất tuyệt kể rõ nguyên do và thương thế từng người.
Hư Trúc nghe vừa kinh ngạc vừa bội phục nói:
- Tiền bối! Tiểu tăng nghe nói tiền bối chỉ chuyên tâm về kỹ thuật chứ không chẩn mạch chữa thương cho ai mà sao hiểu rõ như vậy?
Tô Tinh Hà đáp:
- Người trong võ lâm chân chính chiến đấu mà bị thương thì chỉ trông qua là biết và nếu hiểu cách chữa thì chẳng có gì khó khăn. Chỉ những bệnh thiên nhiên như hư nhược, phong tà hay thương hàn đau nhức, thì mới khó đoán bệnh mà thôi. Sư đệ! Trong mình sư đệ đã có bảy mươi năm thần công phái Tiêu Dao của sư phụ luyện được và truyền cho, nếu đem ra chữa trị bệnh rất có thể công hiệu. Nhưng muốn khôi phục lại công lực cho Huyền Nạn đại sư đã bị tiêu tan thì dĩ nhiên không phải là chuyện dễ. Còn muốn chữa thương bảo toàn sinh mạng cho đại sư thì chỉ giơ tay một cái là xong.
Dứt lời, Tô Tinh Hà đem cách vận khí thúc vào huyệt đạo cùng phép tiêu trừ hàn độc dạy cho Hư Trúc.
Hư Trúc nhất tâm muốn cứu sư bá tổ cùng liệt vị sư bá, sư thúc nên có ý học thuộc lòng những thủ pháp mà Tô Tinh Hà truyền thụ cho. Có điều nhà sư chỉ biết cách chữa mà không hiểu đến nguyên lý của nó.
Tô Tinh Hà thấy Hư Trúc diễn lại vài lần không sai lầm nữa, liền tươi cười khen rằng:
- Chưởng Môn nhân quả nhiên thiên tư đĩnh ngộ cao thâm hơn đời, vừa học đã hiểu ngay.
Hư Trúc thấy điệu cười của Tô Tinh Hà có vẻ bí mật, dường như có ẩn ý không hay, bất giác sinh lòng ngờ vực liền hỏi:
- Tại sao tiền bối lại cười?
Tô Tinh Hà không cười nữa giữ vẻ mặt nghiêm trang kính cẩn nói:
- Tiểu huynh vô lễ! Xin chưởng môn nhân tha tội cho!
Hư Trúc nóng lòng trị thương cho Huyền Nạn, cũng không để ý đến nữa, liền bảo:
- Chúng ta ra ngoài kia xem sao?
Tô Tinh Hà dạ một tiếng rồi theo sau Hư Trúc ra khỏi căn nhà bí mật.
Hai người ra khỏi cửa thì đến khu đất trống, thấy những người bị thương đang ngồi xếp bằng nhắm mắt dưỡng thần.
Mộ Dung Phục ngấm ngầm vận dụng nội lực và đang tiếp sức cho Phong Ba ác đỡ đau khổ.
A Bích dĩ nhiên đã tỉnh lại rồi, nhưng nàng rên rỉ không ngớt. Từ lúc nàng tỉnh lại thì thân thể đau đớn vô cùng, so với lúc nàng mê man đau khổ hơn nhiều.
Cầm tiên Khang Quảng Lăng ngồi bên A Bích để an ủi nàng bằng những lời lẽ êm đềm, Tiết Mộ Hoa mặt mũi đầy mồ hôi mồ kê hết chạy chữa người này lại cứu đến người kia. Chỗ này yên được một chút thì chỗ khác lại la gọi. Y thấy Tô Tinh Hà trở ra thì trong lòng an ủi rất nhiều chạy ngay đến hỏi:
- Sư phụ ơi! Sư phụ mau tìm cách nào để cấp cứu bọn họ đây?
Hư Trúc đến bên Huyền Nạn thấy đại sư hai mắt nhắm nghiền, liền thõng tay đứng chờ, không dám mở miệng.
Huyền Nạn từ từ mở mắt ra, khẽ thở dài một tiếng rồi nói:
- Sư bá tổ ngươi bất tài làm mất hết uy danh bản phái, nghĩ thật đáng thẹn vô cùng! Ngươi về bẩm với phương trượng nói là ta... ta cùng sư thúc tổ ngươi là Huyền Thống... không còn mặt mũi nào trở về chùa nữa!
Hư Trúc trước nay thấy sư bá tỏ việc trang nghiêm, không giận mà cũng có oai, nhà sư trẻ không dám nhìn thẳng mặt bao giờ. Nhưng lúc này y thấy sư bá tổ buồn rầu, khác nào vẻ mặt thê lương của bậc anh hùng đã đến bước đường cùng, lại nghe những lời nói đầy vẻ chán nản dường như có ý muốn tự tuyệt, rõ ràng lời Tô Tinh Hà quả là không sai.
Hư Trúc muốn ra tay trị thương cho sư bá tổ. Song chợt nghĩ đến nụ cười bí mật của Tô Tinh Hà thì trong lòng không khỏi kinh nghi, tự hỏi:
- Lão dạy ta giơ tay đánh vào yếu huyệt đỉnh đầu sư bá tổ, biết đâu lão chẳng có ý hại người? Vạn nhất ta giáng chưởng xuống mà sư bá tổ công lực đã mất hết, lỡ ra người chết vì nhát chưởng này thì làm thế nào?
Huyền Nạn thấy Hư Trúc lộ vẻ phân vân khó nghĩ liền nói:
- Ngươi về bẩm phương trượng là bản tự sắp xảy ra đại nạn đó, cần phải gia tăng đề phòng.
Hư Trúc nói:
- Thưa sư bá tổ! Nếu bản tự sắp gặp tai vạ cực kỳ nguy hiểm, thì sư bá tổ càng nên bảo trọng tấm thân, về chùa hiệp lực với phương trượng để ngăn đại địch!
Huyền Nạn nhăn nhó cười nói:
- Ta... ta trúng phải Hoá công đại pháp của Ðinh Xuân Thu đã thành phế nhân rồi, còn nói chi đến chuyện hiệp lực với phương trượng để chống lại địch nữa?
Lại một lần nữa Hư Trúc nhận thấy lời Tô Tinh Hà quả đúng sự thực.
Nhà sư trẻ thay đổi ý kiến rồi nói:
- Thưa sư bá tổ! Thông Biện tiên sinh có truyền cho đệ tử những cách chữa thương. Ðệ tử chưa biết tự lượng sức mình, muốn đem ra thử chữa cho Tuệ Phương sư bá. Xin sư bá tổ dạy cho, nên chăng?
Hư Trúc nói mấy câu này âm thanh dõng dạc, các nhà sư vào hàng chữ Tuệ đều nghe rõ.
Trong bụng Hư Trúc tính rằng: Mình hãy trị thương cho sư bá Tuệ Phương mà được sư bá tổ thuận cho thì dù có xảy ra sự gì lầm lỗi cũng không đến nỗi bị người hiểu lầm mình là kẻ phản bạn phạm thượng.
Huyền Nạn đại sư cũng chẳng cảm thấy có gì kinh dị. Ðại sư vốn biết Lung á lão nhân Tô Tinh Hà là một nhân vật tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm là sư huynh Ðinh Xuân Thu, Diêm vương địch Tiết Thần Y lại là đệ tử lão nếu lão đã truyền phép trị bệnh Hư Trúc thì tất nhiên phải hợp lý. Nhưng đại sư không hiểu tại sao lão chẳng tự mình ra tay, hay kêu Tiết Mộ Hoa động thủ.
Ðại sư nghĩ vậy, liền bảo Hư Trúc:
- Nếu ngươi được Thông Biện tiên sinh truyền thụ cho tất là những phương pháp rất cao minh.
Huyền Nạn vừa nói vừa liếc mắt nhìn Tô Tinh Hà.
Hư Trúc chạy lại chỗ Tuệ Phương khom lưng nói:
- Thưa sư bá! Ðệ tử vâng lời huấn dụ của sư bá tổ đến chữa thương cho sư bá đây.
Dứt lời, Hư Trúc bước xéo sang bên tả một bước, xoay tay lại phóng ra một chưởng, đánh vào cạnh sườn bên tả Tuệ Phương.
Tuệ Phương rú lên một tiếng, lảo đảo người, cảm thấy cạnh sườn tựa hồ bị đục thủng ra một lỗ. Máu tươi cùng tinh khí khắp thân thể cuồn cuộn theo lỗ đó thông ra không ngớt.
Chỉ trong khoảnh khắc, tuy Tuệ Phương cảm thấy trong người suy nhược vô cùng nhưng cái đau khổ gây nên do Hàn băng độc chưởng của Du Thản Chi đánh vào, dần dần tiêu tan trong nháy mắt.
Nguyên phép trị thương của Hư Trúc không phải bằng cách dùng nội lực bản thân để giúp sức vào việc khu trừ khí hàn độc trong người bị thương, mà lại dùng thần công bảy mươi năm của phái Tiêu Dao đánh vào dưới cạnh sườn một chưởng mở đường tiết khí hàn độc ra ngoài. Lối chữa này cũng như cách chữa người bị rắn cắn, khoét chỗ bị thương để nặn hết chất độc ra.
Có điều cách dùng khí đao cát thể (lưỡi dao bằng hơi cắt vào thân thế) này rất khó, vì nếu chệch bộ vị thì cố nhiên chất độc không tiết ra được. Hai nữa là người không đủ nội lực đánh thấu vào đến kinh mạch thì chẳng những khí độc không tiết ra ngoài mà lại dồn ngược vào phủ tạng, khiến cho bệnh nhân chết ngay lập tức.
Hư Trúc phóng chưởng ra rồi, trong dạ kinh nghi nao núng. Nhà sư thấy người Tuệ Phương lảo đảo một cái rồi ngồi tỉnh lại. Tuệ Phương nhăn mặt chau mày ra chiều thống khổ rồi lại biến sang vẻ mặt khoan khoái dễ chịu. Thực ra biến chuyển này chỉ trong khoảnh khắc mà Hư Trúc coi lâu bằng mấy giờ.
Sau một lúc nữa, Tuệ Phương thở phào một cái, tủm tỉm cười nói:
- Hay lắm! Sư điệt ơi, công lực trong phát chưởng vừa rồi của ngươi thật là ghê gớm.
Hư Trúc nói:
- Ðệ tử không dám!
Rồi quay sang hỏi Huyền Nạn:
- Thưa sư bá tổ! Còn mấy vị sư bá, sư thúc nữa đệ tử xin đi cứu trị được chăng?
Huyền Nạn đại sư lắc đầu đáp:
- Không được! Ngươi phải đi cứu trị cho những bậc tiền bối bên ngoài trước rồi hãy trị cho những người trong nhà.
Hư Trúc rùng mình đáp:
- Vâng!
Nhà sư trẻ lẩm bẩm một mình:
- Bản tự được coi như núi Thái Sơn như sao Bắc Ðẩu trong võ lâm. Bất luận làm việc gì cũng nhường người ngoài trước rồi mới đến mình. Ðó đúng là bản sắc của bậc đại trượng phu.
Huyền Nạn chỉ nói có một câu bảo Hư Trúc đi cứu trị các bậc võ lâm phái ngoài trước mà Hư Trúc do đó hiểu rộng ra: "Bất luận việc gì cũng nên nhường cho người ngoài trước rồi mới đến mình".
Mới trong nháy mắt nhà sư trẻ tuổi chùa Thiếu Lâm đã lĩnh hội được đạo lý thế nào là đại anh hùng, đại trượng phu.
Nhà sư hiên ngang bước đi, lại càng tăng thêm lòng tự tin, dõng dạc nói:
- Thưa các vị anh hùng! Thông Biện tiên sinh truyền cho tiểu tăng phương pháp trị thương, bữa nay là bước đầu của tiểu tăng, dĩ nhiên chưa được tinh thục mà cả gan dám đem ra cứu trị, các vị lượng thứ cho chỗ thất kính đó.
Mọi người đều chăm chú nhìn mặt nhà sư, trong lòng bán tín bán nghi.
Hư Trúc phất tay áo bào đến bên Bao Bất Ðồng đánh binh một quyền vào trước ngực.
Bao Bất Ðồng lớn tiếng mắng:
- Xú hòa...
Còn chữ thượng chưa nói ra được thì đột nhiên khí hàn độc quanh quẩn trong mình hơn hai mươi ngày tiết ra vừa đúng lúc, và mau chóng dị thường.
Hư Trúc chữa hàn độc cho mọi người tiết ra, rồi quay lại cứu trị cho những người bị độc thủ của Ðinh Xuân Thu.
Những người bị thương về Ðinh Xuân Thu đều không giống nhau. Người bị Hoá công đại pháp làm tiêu tan công lực thì Hư Trúc phóng chưởng hoặc vào huyệt bách hội trên đỉnh đầu hoặc vào huyệt linh đài ở trước ngực để giữ vững nội lực bồi bổ nguyên khí. Người nào bị thương về nội công phái Tinh Tú thì Hư Trúc dùng ngón tay đâm vào để hóa giải công lực của phái Tinh Tú.
Hư Trúc thật là một người cường ký, vừa được Tô Tinh Hà truyền cho cách chữa, thương thế mỗi người ra sao, trị bằng cách nào y nhớ rất rành mạch.
Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, mọi người đang đau đớn khổ sở đều được Hư Trúc giải trừ cho hết.
Sau cùng Hư Trúc đến trước mặt Huyền Nạn cúi đầu nói:
- Thưa sư bá tổ! Ðệ tử lớn mật xin phóng chưởng đánh vào huyệt bách hội trên đỉnh đầu sư bá tổ.
Huyền Nạn đại sư tủm tỉm cười nói:
- Ngươi được lọt vào mắt xanh Thông Biện tiên sinh, người dạy cho cách trị thương tuyệt diệu thế này là dày phúc đức lắm đó. Ngươi cứ việc phóng chưởng vào huyệt bách hội trên đầu ta đi.
Hư Trúc khom lưng nói:
- Thế này thì đệ tử thực càn rỡ!
Nguyên Hư Trúc khi ở chùa Thiếu Lâm, mỗi lần muốn gặp Huyền Nạn đều phải đứng ở xa trông vào, hay ngẫu nhiên gặp buổi Huyền Nạn hội họp chúng tăng để giảng giải tâm pháp các võ phái Thiếu Lâm, Hư Trúc cũng phải đứng sau các vị khác, chứ chưa được đứng gần nhìn Huyền Nạn mà nói bao giờ. Lần này nhà sư trẻ phóng chưởng đánh vào đầu sư bá tổ, tuy là vì việc chữa thương song không khỏi hồi hộp.
Y trấn tinh thần lại rồi nói thêm:
- Ðệ tử mạo phạm sư bá tổ, xin sư bá tổ tha tội cho.
Rồi mới tiến lên một bước nhằm đúng huyệt bách hội trên đỉnh đầu Huyền Nạn từ từ phóng chưởng ra, không dám hấp tấp mà cũng không thong thả quá. Phát chưởng nhà sư phóng ra không nhẹ mà cũng không nặng.
Chưởng vừa mới phóng đến đầu Huyền Nạn thì đại sư thốt nhiên la lên một tiếng Ui chao! rồi người bị hất về phía trước đánh bịch một tiếng rớt xuống ngoài ba trượng.
Huyền Nạn cựa quậy được vài cái rồi nằm phục xuống đất không nhúc nhích nữa.
Mọi người có mặt tại đó đều la lên những tiếng kinh hoảng.
Hư Trúc sợ hãi quá, trống ngực đánh thình thịch.
Các nhà sư hàng chữ Tuệ nhất tề chạy đến xem sao thì Huyền Nạn dương cặp mắt tròn xoe, lộ vẻ tức giận nhưng đã ngừng thở rồi.
Hư Trúc hốt hoảng líu lưỡi la gọi:
- Sư bá tổ!... Sư bá tổ!... Sư bá tổ làm sao vậy?
Ðột nhiên thấy bóng người lấp loáng, Tô Tinh Hà từ góc Ðông Nam nhảy vụt đến, nét mặt lộ vẻ sợ hãi nói:
- Dường như có người ở phía sau ám toán đại sư. Nhưng thân pháp y mau lẹ phi thường không trông rõ bóng người.
Tô Tinh Hà cầm tay Huyền Nạn xem mạch, rồi chau mày nói:
- Công lực Huyền Nạn đại sư đã bị mất hết, lại bị người ngoài ám toán, không còn sức để chống đỡ nên người tịch rồi!
Hư Trúc nhớ lại Tô Tinh Hà lúc còn ở trong nhà ván gỗ đã có điệu cười bí mật tức giận hỏi:
- Thông Biện tiên sinh! Tại sao sư bá tổ lại chết? Tiên sinh phải nói thực đi? Phải chăng là tiên sinh có ý hãm hại?
Tô Tinh Hà quỳ mọp xuống đất nói:
- Thưa chưởng môn! Tô Tinh Hà này quyết không khi nào dám hãm chưởng môn vào việc bất nghĩa. Huyền Nạn đại sư viên tịch một cách đột ngột đúng là có người ám toán gia hại.
Hư Trúc hỏi:
- Lúc tiên sinh ở trong nhà gỗ đã có những điệu cười rất cổ quái, đó là vì duyên cớ gì vậy?
Tô Tinh Hà cả kinh hỏi lại:
- Tại hạ đã cười ư? Tại hạ đã cười ư? Chưởng Môn nhân! Phải cẩn thận lắm đấy có người...
Lão chưa nói dứt lời đột nhiên ngừng lại, nét mặt lại lộ ra vẻ cười cợt rất bí mật.
Tiết Mộ Hoa lớn tiếng gọi:
- Sư phụ!
Rồi vội lấy trong bọc ra một bình thuốc giải độc, mở nút móc ba viên nhét vào miệng Tô Tinh Hà. Nhưng Tô Tinh Hà đã tắt hơi rồi. Mấy viên thuốc giải độc hãy còn ứ ở trong miệng chưa nuốt xuống được.
Tiết Mộ Hoa khóc rống lên nói:
- Sư phụ bị Ðinh Xuân Thu đánh thuốc độc chết rồi. Lão tặc Ðinh Xuân Thu...!
Nói đến đây lão khóc nấc lên thốt không ra lời nữa.
Khang Quảng Lăng nhảy chồm lại toan ôm lấy Tô Tinh Hà:
- Tiết Mộ Hoa vội đưa tay ra nắm lấy sau lưng đại sư huynh kéo lại vừa khóc vừa nói:
- Ðừng có... đụng vào người sư phụ!
Võ công Khang Quảng Lăng kể ra còn cao hơn Tiết Mộ Hoa nhiều. Nhưng trong bọn Hàm cốc bát hữu chỉ còn mình Tiết Mộ Hoa là bình yên vô sự, nên y vừa kéo một cái, Khang Quảng Lăng không kháng cự được.
Phạm Bách Linh, Lý Quý Lỗi, A Bích cùng mọi người trong Hàm cốc bát hữu đều xúm lại quanh mình Tô Tinh Hà, ai nấy vừa khóc bi ai vừa lộ vẻ căm hờn.
Khang Quảng Lăng theo Tô Tinh Hà đã lâu ngày nên biết rõ lề luật bản môn hơn. Lúc y thấy sư phụ mình quỳ xuống trước mặt Hư Trúc và miệng kêu nhà sư trẻ bằng chưởng môn nhân thì mười phần đã đoán ra đến tám chín. Y lại chú ý nhìn trên ngón tay Hư Trúc, quả nhiên thấy cái nhẫn sắt đen liền nói:
- Các vị huynh đệ cùng A Bích hiền đồ theo ta lại tham kiến chưởng môn sư thúc của bản phái người vừa mới nhận chức đó.
Nói xong y quỳ xuống trước mặt Hư Trúc, dập đầu lạy.
Bọn Phạm Bách Linh bấy giờ mới tỉnh ngộ liền nhất nhất quỳ xuống dập đầu lạy.
Hư Trúc ruột rối như mớ bòng bong.
Nhà sư nói:
- Lão gian tặc đó đã gia hại sư bá tổ ta, lại làm chết cả sư phụ các ngươi!
Khang Quảng Lăng nói:
- Công cuộc tru diệt kẻ gian ác để báo cừu tuyệt hận hoàn toàn trông vào chưởng môn sư thúc lo mưu thiết kế cho.
Hư Trúc nguyên là một nhà sư trẻ tuổi chưa hiểu qua việc đời. Nhất là kiến thức về võ công cùng danh vọng trên chốn giang hồ, thì những người này còn hơn y nhiều. Bây giờ tai vạ xảy ra một cách đột ngột, nhà sư không kể gì đến địa vị chưởng môn nhân nữa. Cái chết của Tô Tinh Hà cố nhiên đã khiến cho nhà sư xót xa. Huyền Nạn đại sư viên tịch một cách đột ngột càng làm cho nhà sư bàng hoàng, luống cuống. Kẻ gian ác lại hạ thủ đúng lúc nhà sư phóng chưởng vào đầu sư bá tổ, không chậm không nhanh một giây phút nào mới thật là kỳ!
Hư Trúc lẩm bẩm: Nếu mình không tra ra được manh mối vụ này thì còn làm thế nào được?
Ðầu óc nhà sư lại chuyển sang quyết định khác:
- Không báo thù cho sư bá tổ không được, không báo thù cho Thông Biện tiên sinh không được. Không báo thù cho lão tiền bối trong nhà gỗ cũng không được.
Rồi nhà sư lớn tiếng la lên:
- Không giết chết lão tặc Ðinh Xuân Thu không được.
Khang Quảng Lăng dập đầu lạy nói:
- Chưởng Môn sư thúc đã đáp lời kêu gọi báo thù cho sư phụ bọn sư điệt. Như vậy bọn sư điệt rất đội ơn đức của sư thúc chưởng môn.
Bọn Phạm Bách Linh, Tiết Mộ Hoa đều dập đầu lạy theo.
Hư Trúc vội quỳ xuống đáp lễ nói:
- Không dám, không dám! Xin các vị đứng dậy.
Khang Quảng Lăng nói:
- Thưa sư thúc! Tiểu điệt có việc muốn bẩm sư thúc. Nhưng ở đây đông người không tiên xin mời sư thúc vào trong nhà để tiểu đệ được trình bày.
Hư Trúc nói:
- Ðược lắm!
Rồi đứng dậy.
Mọi người cũng đứng dậy theo.
Hư Trúc theo Khang Quảng Lăng muốn đi vào trong nhà.
Phạm Bách Linh vội nói:
- Khoan đã! Khoan đã! Sư phụ vừa bị độc thủ của lão Ðinh Xuân Thu tại nhà trong. Vậy chưởng môn sư thúc cùng đại huynh chớ nên vào đó, Ðinh lão tặc rất nhiều quỷ kế chẳng nên không đề phòng.
Khang Quảng Lăng gật đầu nói:
- Phạm sư đệ nói đúng đó! Chưởng Môn sư thúc thân trọng thiên kim, không nên dấn mình vào nơi nguy hiểm.
- Hai vị nói phải lắm. Chúng tôi đi xem xét bốn mặt để đề phòng Ðinh lão tặc lại dở nguỵ kế gì nữa chăng?
Nói xong y chạy đi luôn. Ngoài ra bọn Trương A Tam, Lý Quý Lỗi cũng đều ra xa đến ngoài mười trượng.
Nghĩ thật tội nghiệp cho bọn này!
Chỉ mình Tiết Mộ Hoa là chưa việc gì , còn đều bị mất hết công lực, hoặc bị trọng thương. Giả tỉ Ðinh Xuân Thu quay lại tập kích, trừ phi lên tiếng cảnh giới, thực ra không còn sức đâu mà phòng ngự.
Bọn Mộ Dung Phục, Ðặng Bách Xuyên đều là những tay giang hồ lão luyện đã hiểu lề luật võ lâm, thấy bọn họ bỏ đi rồi, đương nhiên không muốn nghe chuyện bí mật của người, nên đều lảng ra chỗ khác.
Khang Quảng Lăng lại nói:
- Thưa sư thúc!...
Hư Trúc ngắt lời:
- Ta không phải là sư thúc các ngươi, mà cũng chẳng phải chưởng môn nhân gì ráo. Ta chỉ là một nhà sư chùa Thiếu Lâm không có liên can gì đến phái Tiêu Dao của các ngươi cả.
Khang Quảng Lăng hỏi:
- Thưa sư thúc! Sao sư thúc lại không nhìn nhận phái Tiêu Dao? Nếu không phải cùng trong môn phái thì người ngoài quyết không được nghe. Người ngoài vô tình hay hữu ý nghe chuyện thì theo luật bản môn là phải hạ sát ngay không thể tha được. Dù có phải đuổi theo đến góc biển chân trời cũng cần phải giết cho kỳ được để bịt miệng.
Hư Trúc ngấm ngầm sợ hãi run lên nghĩ thầm:
- Lề luật như vậy thì không phải là chính phái. Theo lời chúng thì nếu ta không chịu gia nhập môn phái họ, tất họ giết ta chắc?
Khang Quảng Lăng lại nói:
- Sư thúc vừa mới dùng thủ pháp trị thương cho mọi người chính là môn nội công chính thống của bản phái. Nếu sư thúc không gia nhập bản phái đời nào sư tổ lại truyền thụ môn đó cho sư thúc? Tiểu điệt không dám hỏi nhiều. Hoặc giả gia sư đã đại diện sư tổ thu đồ đệ truyền chức vụ chưởng môn nhân thay mình cũng chưa biết chừng. Nói tóm lại, chiếc nhẫn Tiêu Dao thần tiên hoàn đã đeo ở trên ngón tay của sư thúc, hơn nữa gia sư lúc lâm tử lại gọi sư thúc bằng chưởng môn nhân, thì sư thúc chẳng nên từ chối nữa.
Cứ như ý nghĩ của Khang Quảng Lăng thì ba mươi năm trước đây tổ sư đã bị Ðinh Xuân Thu gia hại và chết rồi...
Hư Trúc bất quá năm nay mới độ hai mươi mốt hai mươi hai tuổi thì không thể chính tổ sư hồi sinh tiền đã thu y làm đệ tử được. Không chừng trước tổ sư đã đặt ra điều lệ: hễ ai phá được thế cờ của người sẽ được kể là đệ tử bản phái. Không thế thì Tô Tinh Hà đã thay thế tổ sư để thu đồ đệ. Trong võ lâm thường đã có tiền lệ như vậy. Bất luận Hư Trúc đã nhập môn phái trong trường hợp nào Khang Quảng Lăng đã vào hàng tiền bối, nên không dám hỏi nhiều.
Hư Trúc ngó về bên tả thấy bọn Tuệ Phương đã khiêng thi thể Huyền Nạn đặt ra một bên, lại thấy Tô Tinh Hà vẫn quỳ dưới đất, nét mặt vẫn còn in một nụ cười bí mật, thì chua xót trong lòng, nói:
- Câu chuyện này không thể một lúc mà nói rõ được. Việc cấp bách hiện giờ là làm thế nào giết được Ðinh Xuân Thu để báo thù cho sư phụ ngươi và sư bá tổ ta, đồng thời trừ một mối hại lớn cho võ lâm. Tiền bối!...
Khang Quảng Lăng thấy Hư Trúc bây giờ lại kêu mình bằng lão tiền bối, vội quỳ ngay xuống nói:
- Sư thúc không nên xưng hô như vậy, làm tổn thọ cho tiểu điệt rất nhiều.
Hư Trúc chau mày nói:
- Thôi được! Ngươi đứng dậy đi!
Khang Quảng Lăng vâng lời đứng dậy.
Hư Trúc nghĩ thầm trong bụng:
- Muốn tru diệt Ðinh Xuân Thu mà dùng võ công phái Thiếu Lâm thì quyết không thể nào thành công được. Chính mình có vùi đầu cố công rèn luyện suốt đời vị tất đã được đến mực sư bá tổ Huyền Nạn. Dù cho có bằng người chăng nữa cũng không thể nào chống lại được Ðinh Xuân Thu. Huống chi mình tập đến mức đó còn phải bằng năm sáu chục năm trời. Bấy giờ Ðinh Xuân Thu đã chết ngủm rồi còn đâu mà tính chuyện báo thù rửa hận. Như vậy muốn giết được Ðinh Xuân Thu thì chỉ còn cách luyện võ công phái Tiêu Dao mà thôi.
Hư Trúc nghĩ thế liền nói:
- Tiền bối!....
Hai chữ tiền bối vừa thốt ra khỏi cửa miệng, Khang Quảng Lăng lại quỳ mọp xuống đất.
Hư Trúc nói:
- Ta quên mất. Bây giờ không xưng hô thế nữa. Thôi dậy đi!
Hư Trúc lấy cuốn trục mà Tiêu Dao lão nhân đã đưa cho lúc trước mở ra nói:
- Sư phụ ngươi bảo ta dùng cuốn trục này để tìm cách học võ công đặng trừ khử Ðinh Xuân Thu.
Khang Quảng Lăng nhìn thấy trong cuốn trục vẽ hình một mỹ nữ cung trang thì lắc đầu nói:
- Tiểu điệt không hiểu được đạo lý trong bức vẽ này. Sư thúc hãy cất đi đừng để cho người ngoài trông thấy. Hồi gia sư còn sống đã biểu vậy, tiểu điệt xin sư thúc nhình cảnh gia sư bị thảm tử rồi theo lời người mà hành động cho. Tiểu điệt xin thưa để sư thúc rõ: gia sư trúng phải chất độc gọi là Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, chất độc này không có hình sắc gì, lúc đầu mới trúng phải thì nét mặt tựa như mỉm cười một cách cổ quái. Người trúng độc không hay biết gì hết. Cười đến cơn thứ ba là tắt thở mà chết.
Hư Trúc cúi đầu xuống nói:
- Nói ra lại mắc cỡ. Lúc đầu lệnh tôn sư trúng độc, trên mặt lộ ra nụ cười bí mật khó hiểu. Tại hạ lại đem lòng tiểu nhân đoán càn, nghi lệnh tôn sư có tâm địa không tốt. Nếu lúc ấy mà hỏi ngay, thì chắc rằng còn cứu chữa không đến nỗi xảy ra vụ thảm hại như bây giờ.
Khang Quảng Lăng nói:
- Tam Tiếu Tiêu Dao Tán một khi đã trúng vào người thì khó thể giải cứu. Sở dĩ Ðinh lão tặc hoành hành trong võ lâm mà không uý kỵ gì, một phần là trông vào Tam Tiếu Tiêu Dao Tán. Người ta đều đã biết đến phép Hoá công đại pháp, nhưng khi trúng Hoá công đại pháp rồi tuy mất hết công lực nhưng người không chết lại thêm mang tiếng xấu đồn đại đi. Một khi đã trúng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán thì đừng hòng sống nữa.
Hư Trúc gật đầu hỏi:
- Thế thì thứ thuốc này độc vô cùng. Nhưng lúc đó, tiểu tăng cũng đứng bên tôn sư mà sao không phát giác ra được Ðinh lão tặc đã hạ độc cách nào. Hơn nữa võ công tiểu tăng kém cỏi, kiến thức hẹp hòi, sao Ðinh lão tặc không hạ độc thủ giết chết tiểu tăng còn không dung cái mạng nhỏ bé này làm gì?
Khang Quảng Lăng nói:
- Có lẽ lão thấy võ công sư thúc hãy còn bình thường, không cần hạ độc.
Trong đám Hàm cốc bát hữu thì Khang Quảng Lăng là người lớn tuổi hơn hết, nhưng không hiểu trò đời cho lắm. Tuy Hư Trúc là chưởng môn sư thúc mà y vẫn thẳng thắn nghĩ sao nói vậy, không biết lựa lời.
Ngừng một lát, y nói tiếp:
- Chưởng Môn sư thúc, tiểu điệt xem sư thúc hãy còn nhỏ tuổi, bản lĩnh chưa có gì cao thâm. Phép trị độc của sư thúc có giỏi là vì được sư phụ truyền thụ cho, nhưng so với Ðinh Xuân Thu thì chưa vào đâu. Ðinh lão quái có lẽ vì thế mà không để ý gia hại sư thúc.
Thốt nhiên y nghĩ ra mình nói không được lịch sự, vội nói thêm:
- Thưa chưởng môn sư thúc! Tiểu điệt thực tình nói vậy, sư thúc muốn trách phạt tiểu điệt cũng xin chịu. Sự thực tiểu điệt biết võ công sư thúc chưa được cao thâm cho lắm.
Hư Trúc nói:
- Ngươi nói không sai chút nào. Võ công ta quả rất là kém Ðinh lão tặc...
Rồi nhà sư vội chữa:
- Thật là tội nghiệp! Tiểu tăng nói câu đó khinh bạc quá, không xứng đáng làm đệ tử nhà Phật. Ðinh Xuân Thu quả là không muốn giết tiểu tăng.
Khang Quảng Lăng nói:
- Sư thúc! Ðó không phải là lỗi của sư thúc. Phái Tiêu Dao không theo Phật mà cũng chẳng theo đạo, muốn làm gì thì làm, đi đâu thì đi, có phải tiêu dao tự tại biết chừng nào không? Sư thúc là chưởng môn bản phái, nên sớm cởi bỏ áo cà sa, để tóc dài, lấy cô vợ mười bẩy mười tám. Như thế có hơn không, cần gì phải là Phật môn đệ tử, mặc kệ các thuyết mơ hồ sắc sắc không không.
Nghe y nói câu này, Hư Trúc liền niệm:
- A di đà Phật!
Nhưng nhà sư chờ cho y nói hết lời rồi mới nói:
- Trước mặt ta ngươi đừng nói những câu tiết mạn đến Phật gia đó nữa. Ngươi có điều gì muốn nói với ta thì nói đi!
Khang Quảng Lăng nói:
- Trời ơi! Tiểu điệt thật hồ đồ quá. Nói hằng nửa ngày mà chưa đi vào chính đề. Thưa chưởng môn sư thúc! Sau này sư thúc nhiều tuổi xin chớ bắt chước cái bệnh nói nhảm của tiểu điệt. Thiên Sơn Ðồng Mỗ trong bức vẽ đó không ưa kẻ mồm năm miệng mười. Năm trước tổ sư... chao ôi! Việc này nói ra không tiện. Tiểu điệt hay buột miệng nói càn, suýt nữa để tiết lộ ra ngoài. May mà sư thúc là chưởng môn bản phái, không có gì đáng ngại. Nếu nói với người ngoài thì thật là hỏng bét!
Hư Trúc hỏi:
- Ngươi nói cái gì Thiên Sơn Ðồng Mỗ? Trong bức vẽ là một vị mỹ nhân, không phải Vương cô nương hay sao?
Khang Quảng Lăng đáp:
- Chưởng Môn đã hỏi đến, sư điệt không dám dấu diếm, vị mỹ nhân trong bức vẽ này nguyên là họ Ðồng, dĩ nhiên không phải Vương cô nương. Ðồng Mỗ đây có thấy sư điệt chỉ gọi bằng thằng nhỏ kia!. Còn ngoài ra xin chưởng môn sư thúc đừng hỏi nữa. Vì sư thúc đã cất lời hỏi, tiểu điệt không thể không trả lời được, mà trả lời về vụ này là lỗi to lắm không phải tầm thường!
Hư Trúc nói:
- Ðược rồi! Thế thì ta không hỏi nữa là xong. Ngươi còn điều chi muốn nói nữa không?
Khang Quảng Lăng lại la lên:
- Hỏng bét! Thật là hỏng bét, nói đến bây giờ vẫn chưa đi vào chính đề, thế có chết không? Thưa chưởng môn sư thúc! Tiểu điệt thỉnh cầu sư thúc hai việc xin sư thúc gia ơn cho.
Hư Trúc đáp:
- Ngươi có việc gì muốn ta chuẩn cho? Ta không dám đâu!
Khang Quảng Lăng nói:
- Hỡi ôi! Việc lớn trong bản môn nếu không cần được chưởng môn nhân chuẩn cho còn cầu ai nữa? Ðiều thứ nhất là bọn sư huynh sư đệ tiểu điệt cả thảy tám người, trước kia đã bị sư phụ đuổi ra khỏi môn phái. Ðó không phải là bọn tiểu điệt phạm lỗi gì, chỉ vì sư phụ sợ Ðinh lão tặc để ý gia hại đến bọn tiểu điệt mà thôi. Sư phụ lại không nỡ chọc màng tai, cắt đầu lưỡi cho bọn tiểu điệt thành những người câm điếc, nên đành phải dùng đến hạ sách này. Bây giờ sư phụ đã thu hồi lệnh trước rồi, lại kêu bọn tiểu điệt gia nhập trở lại sư môn nhưng chưa bẩm rõ với chưởng môn nhân để cử hành đại lễ. Như thế vẫn chưa được kể là đệ tử chính thức trong bản môn. Vậy bọn tiểu điệt thỉnh cầu chưởng môn chu toàn cho. Nếu không được, thì bọn sư điệt tám người vẫn là những người vô môn vô phái, lúc chết sẽ thành những cô hồn dã quỷ vật vờ lại không ngóc đầu lên được tại chốn võ lâm. Như vậy thì đau khổ cho bọn tiểu điệt biết chừng nào?
Hư Trúc nghĩ thầm trong bụng:
- Nếu mình không chịu thừa nhận làm chưởng môn, thì lão già này còn quấy rầy mãi không biết đến bao giờ xong. Âu là mình cứ ừ hữ cho xong chuyện rồi sẽ tính
Nghĩ vậy nhà sư liền nói:
- Lệnh tôn sư đã bằng lòng có các người trả lại môn đường thì tự nhiên các người sẽ thành đệ tử trong môn phái, còn quan tâm làm chi.
Khang Quảng Lăng cả mừng quay lại lớn tiếng gọi:
- Này các vị sư đệ, sư Muội. Chưởng Môn sư thúc đã ưng thuận cho chúng ta trở về bản môn rồi đó!
Bảy người trong bọn Hàm cốc bát hữu vừa nghe Khang Quảng Lăng gọi, đều hoan hô rầm rĩ!
Lão nhị con người mê cờ là Phạm Bách Linh. Lão tam một anh đồ gàn là Chu Ðộc, lão tứ một tay hội hoạ là Ngô Lãnh Quân. Lão ngũ là Diêm Vương địch Tiết Mộ Hoa. Lão lục một tay thợ khéo là Trương A Tam, lão thất là thiếu phụ Thạch Thanh Lệ. Lão bát con người ưa hát bội là Lý Quý Lỗi. Cả bọn nhất tề đến trước mặt chưởng môn sư thúc khấu đầu lạy tạ!
Hư Trúc lại càng băn khoăn. Nhà sư thấy mọi việc xảy ra lại hãm mình vào danh vị chưởng môn sư thúc thêm sâu một nấc, khác nào người lôi xuống bùn, mỗi lần rút chân lên định bước ra khỏi là một lần dấn sâu thêm vào đống bùn, khó lòng thoát ra được.
Hư Trúc lẩm bẩm:
- Bọn Tuệ Kinh, Tuệ Thu, Tuệ Phương, Tuệ Văn, sáu vị vừa sư bá vừa sư thúc đều ở gần đây, mình là đệ tử phái Thiếu Lâm, một danh môn chính phái trong võ lâm mà lại đi làm chưởng môn nhân một tà môn ngoại đạo thì còn ra thế nào?
Nhà sư thấy bọn Phạm Bách Linh mừng rỡ cảm động đến không cầm nước mắt, nếu mình lại đưa ra những dị nghị về danh vị, chưởng môn nhân chẳng hóa ra tàn nhẫn quá ư?
Nhà sư nghĩ vậy không làm thế nào được, đành lắc đầu nở một nụ cười buồn rầu.
Khang Quảng Lăng cũng vẫy tay nói:
- A Bích! Ngươi lại khấu đầu tạ ơn sư thúc tổ đi!
A Bích chạy gần đến nơi phủ phục ngay xuống quỳ lạy.
Hư Trúc xua tay nói:
- Cô nương bất tất phải giữ lễ nghi phiền phức.
Khang Quảng Lăng nói,
- Thưa sư thúc! Bây giờ tiểu điệt xin khẩn cầu với sư thúc việc thứ hai là đại diện tiểu điệt lãnh con nhỏ này về cho.
Hư Trúc lấy làm kỳ hỏi:
- Sao lại lãnh cô nương đó về?
Khang Quảng Lăng đáp:
- Thị là tiểu đồ của tiểu điệt, chịu lễ bái sư chưa được bao lâu, rồi phải đi lẩn tránh kẻ thù đem ký thác bên Mộ Dung Phục ở Cô Tô làm một tên nha hoàn đã mấy năm nay. Như vậy thật tội nghiệp cho y thị. Hiện giờ một là y thị đã lớn rồi, hai là anh em tiểu điệt tám người hội họp đi theo sư thúc lo việc báo cừu tuyết hận cho sư phụ. A Bích cũng giúp được một phần nào trong công cuộc này. Hơn nữa kẻ cừu địch dù có tìm đến bọn tiểu điệt bây giờ cũng không còn lo để di luỵ đến sư phụ, có thể yên tâm hợp lực quyết tranh đấu với cừu nhân. Vì thế mà tiểu điệt thỉnh cầu sư thúc nói với Mộ Dung công tử một tiếng xin cho y thị về.
Hư Trúc ngần ngừ hỏi:
- Tiểu tăng không nói không xong hay sao?
Khang Quảng Lăng đáp:
- Chưởng Môn sư thúc rất có bề thế, nói ra một câu là Mộ Dung công tử không tiện chối từ.
Hư Trúc quay sang hỏi A Bích:
- Ý cô nương nghĩ thế nào?
A Bích lấy làm lạ nói:
- Sư phụ tiểu nữ đã nói vậy dĩ nhiên tiểu nữ phải tuân theo sư mệnh. Mộ Dung công tử trước nay đối đãi với tiểu nữ rất tử tế, không coi tiểu nữ như một đứa nha hoàn đâu. Chỉ cần sư thúc tổ đem ra đề nghị là Mộ Dung công tử ưng ngay.
Hư Trúc nói:
- Ðược rồi!
Nhà sư ngoảnh đầu toan đi nói với Mộ Dung Phục, nhưng chẳng thấy Mộ Dung Phục, Ðoàn Dự, Vương Ngọc Yến.
Sáu nhà sư chữ Tuệ cho chí thi thể Huyền Nạn đều không thấy đâu nữa.
Trên rừng tùng, chỉ còn lại tám người kể cả tam đại trong phái Tiêu Dao mà thôi.
Hư Trúc ngạc nhiên hỏi:
- Ô hay! Các vị đó đi đâu hết rồi?
Ngô Linh Quân đáp:
- Mộ Dung công tử cùng liệt vị cao tăng phái Thiếu Lâm ngồi chờ chúng ta bàn luận đã lâu, đều bỏ đi hết rồi.
Hư Trúc nói:
- Ui chao!
Rồi co cẳng chạy đi đuổi theo ngay, nhà sư định đuổi theo cho kịp bọn Tuệ Kính để cùng về chùa Thiếu Lâm xin chỉ thị sư phụ xem có nên đi nữa không.
Hư Trúc trong lòng nóng nẩy, chạy rất lẹ.
Nhà sư chạy chừng nửa giờ, về sau càng chạy lẹ hơn mà chung thủy vẫn không thấy sáu tăng nhân hàng chữ Tuệ đâu. Hư Trúc càng hoảng hốt chạy càng mau. Không ai ngờ y Tiêu Dao lão nhân truyền thần công bảy mươi năm cho nên khinh công mau lẹ phi thường, mau hơn cả tuấn mã.
Hư Trúc vừa xuống núi đã chạy xa hơn sáu nhà sư hàng chữ Tuệ. Y cho rằng sáu nhà sư kia vẫn ở phía trước nên cố sức rượt theo. Ngờ đâu trong lúc hốt hoảng, lại đến chỗ quanh, một khu thung lũng nên không nhìn thấy sáu nhà sư kia, Hư Trúc chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã bỏ sáu nhà sư lại phía sau khá xa mà không hay biết.
Nguyên sáu nhà sư hàng chữ Tuệ đang khiêng thi thể Huyền Nạn đi có trông thấy bóng sau lưng Hư Trúc thấp thoáng một cái vụt qua và chạy mau lẹ vô cùng.
Sáu nhà sư nhìn nhau kinh hãi không hiểu tại sao đành tiếp tục hộ tống pháp thể Huyền Nạn đại sư xuống núi định tìm đến sau một toà miếu cũ nào đem thi thể hỏa tang, thì lại đến đúng nhà Tiết thần y ở Trấn hiền thôn.
Hoả táng xong thi thể Huyền Nạn hai vị cao tăng đưa tro về chùa Thiếu Lâm.
Hư Trúc chạy một mạch đến chiều tối chẳng thấy tung tích sau nhà sư đâu, trong lòng rất lấy làm kỳ và cho là chạy lạc đường, liền quay đầu chạy trở lại, chừng được hai mươi dặm.
Hư Trúc vừa đi vừa hỏi dò những người qua đường nhưng chẳng ai gặp sáu nhà sư đâu.
Ðến lúc trời tối, nhà sư bụng đói meo liền chạy đến thị trấn tìm vào phạm điếm, ngồi xuống bảo nhà hàng lấy cho hay bát miến chay.
Lúc miến nấu chưa chín Hư Trúc nóng ruột, cặp mắt không ngớt đưa nhìn ra ngoài điếm, trông đông ngó tây.
Thốt nhiên Hư Trúc nghe thấy có tiếng người trong trẻo và dõng dạc hỏi:
- Ðại sư phụ! Phải chăng đại sư phụ muốn kiếm ai?
Hư Trúc ngoảnh đầu lại coi thì thấy về mé tây có một chàng thiếu niên mặc áo xanh ngồi tựa cửa sổ.
Thiếu niên này mày thanh mắt sáng, nước da trắng mịn, tướng mạo tuyệt đẹp đang cười hì hì nhìn mình. Thiếu niên mới chừng mười bảy mười tám tuổi.
Hư Trúc nói:
- Phải rồi! Tiểu tướng công! Tiểu tướng công có thấy sáu nhà sư qua đây không?
Thiếu niên đáp:
- Sáu nhà sư thì không thấy chỉ thấy một vị hòa thượng thôi!
Hư Trúc hỏi:
- Vậy ư? Tướng công thấy vị hòa thượng đó ở đâu?
Thiếu niên đáp:
- Thấy y ở trong phạm điếm này.
Hư Trúc nghĩ thầm:
- Y nói một nhà sư thì rất không phải, bọn Tuệ Phương sư bá đi cả đoàn, chứ đâu phải một người. Nhưng đã là nhà sư thì ta thử hỏi xem may ra có được tin tức gì chăng?
Nhà sư nghĩ vậy liền hỏi:
- Không hiểu vị hòa thượng đó người thế nào? Chừng bao nhiêu tuổi và định đi đâu? Tiểu tướng công có hiểu không?
Chàng thiếu niên mỉm cười đáp:
- Ðại sư phụ đó trán cao tai lớn, miệng rộng môi dày, lỗ mũi huyếch lên trời, ước chừng hai mươi ba hai mươi bốn tuổi. Ðại sư phụ đó hiện còn đang ở trong phạm điếm này để chờ ăn hai bát miến chứ chưa ra đi!
Hư Trúc cười ha hả đáp:
- Té ra tiểu tướng công nói chính bần tăng đây rồi.
Chàng thiếu niên nói:
- Tướng công là tướng công, sao còn thêm chữ tiểu vào? Tôi đây kêu ông bằng hòa thượng, có gọi bằng tiểu hòa thượng đâu?
Chàng thiếu niên này giọng nói trong trẻo và uyển chuyển lọt tai.
Hư Trúc cười nói:
- Phải rồi! Kêu bằng tướng công đúng hơn!
Hai người đang đối đáp thì tiểu nhị bưng hai bát miến lên, Hư Trúc cười nói:
- Tướng công! Tiểu tăng xin thất lễ.
Thiếu niên nói:
- Ăn chay như vậy không có chút dầu mỡ gì nuốt thế nào được? Lại đây! Hoà thượng qua đây xơi thịt béo gà quay với tôi.
Hư Trúc nói:
- Tội nghiệp! Tội nghiệp! Suốt đời tiểu tăng chưa bao giờ đụng đến thịt cá, xin tướng công tuỳ tiện cho.
Nói xong nhà sư quay đi ăn miến, không muốn nhìn thấy chàng thiếu niên ăn thịt gà thịt vịt.
Nhà sư trong bụng đói meo, loáng cái đã ăn hết nửa bát miến, bỗng nghe thiếu niên la lên:
- Trời ơi! Cái gì thế này?
Hư Trúc ngoảnh đầu lại xem thì thấy thiếu niên tay phải cầm chiếc thìa canh toan đưa vào miệng, dường như đột nhiên trông thấy một vật gì kỳ dị. Thìa canh đưa lên cách miệng chừng nửa thước thì dừng lại. Chàng thò tay trái ra nhặt lấy một vật gì trên bàn rồi đứng dậy, một tay vẫn cầm thìa canh một tay cầm vật kia đến bên Hư Trúc hỏi:
- Hoà thượng! Hoà thượng thử coi con sâu này có lạ không?
Hư Trúc nhìn xem thì thấy tay chàng cầm một con cuống chiếu bé nhỏ. Thứ sâu này ở đâu cũng có, nào phải là một vật kỳ dị?
Nhà sư nghĩ bụng:
- Chàng thiếu niên này có lẽ mới ra khỏi cửa lần này là lần đầu. Ngày thường chàng được ở nơi cao sang, sạch sẽ, nên mới thấy con cuống chiếu đã cho là kỳ dị.
Nghĩ vậy nhà sư hỏi lại:
- Tiểu tăng không hiểu tướng công biểu nó kỳ dị ở chỗ nào?
Chàng thiếu niên đáp:
- Hoà thượng coi đi, vỏ nó rắn chắc đen sì mà sáng bóng láng tựa hồ như quang dầu.
Hư Trúc nói:
- Hà hà! Ðó là con cuống chiếu và con nào cũng vậy.
Thiếu niên ngơ ngẩn nói:
- Vậy ư?
Rồi quăng con cuống chiếu xuống đất, dẫm chân lên dí cho nó chết, rồi quay về bàn mình.
Hư Trúc thở dài nói:
- Tội nghiệp! Tội nghiệp!
Rồi lại cúi đầu xuống ăn miến.
Tưởng chừng như nhà sư đã mấy ngày chưa được ăn uống gì, nên ăn ra vẻ rất ngon lành, húp luôn cả nước, chỉ còn lại bát không.
Hư Trúc lại bưng bát miến thứ hai lên cầm đũa gắp ăn, đột nhiên nghe thiếu niên cười ha hả nói:
- Hoà thượng! Tôi tưởng hòa thượng nghiêm cẩn giữ thanh quy nhà Phật. Ngờ đâu cũng là hạng khẩu thị tâm phi, bề ngoài giả bộ tu hành mà thôi!
Hư Trúc bình tĩnh hỏi:
- Bần tăng khẩu thị tâm phi ở chỗ nào?
Thiếu niên đáp:
- Hoà thượng nói suốt đời không bao giờ ăn thịt cá, thế mà bát thang gà lại ăn hết sạch một cách rất ngon lành!
Hư Trúc nói:
- Tướng công khéo nói giỡn! Rõ ràng là một bát canh miến suông nấu với rau xanh, sao lại bảo là thang gà? Bần tăng đã dặn quán chủ đừng cho một giọt dầu mỡ gì vào.
Thiếu niên mỉm cười nói:
- Hoà thượng miệng nói không dùng được đồ thịt cá tanh tưởi. Thế mà ăn cả bát thang gà cũng không biết mùi, bây giờ tôi thìa mỡ gà đổ vào bát canh miến đó cho hòa thượng ăn nhé!
Chàng nói xong múc một thìa mỡ gà quay rồi đứng lên.
Hư Trúc thấy vậy cả kinh nói:
- Tướng công! Vừa rồi tướng công đã...
Thiếu niên cười đáp:
- Phải rồi! Vừa rồi tôi cũng múc một thìa mỡ gà cho vào bát miến của hòa thượng. Chẳng lẽ hòa thượng không thấy hay sao? Chà chà! Hoà thượng nhắm mắt lại đi, vờ như không biết để tôi đổ nước gà vào bát miến cho. Như thế hòa thượng vừa ăn được nhiều mà lại không phải tự mình cho mỡ vào. Ðức Phật Như Lai trách phạt hòa thượng thế nào được?
Hư Trúc vừa kinh hãi vừa tức giận. Bấy giờ nhà sư mới vỡ lẽ ra rằng chàng thiếu niên giả vờ cho mình xem con cuống chiếu là cố gạt mình chăm chú nhìn vào con sâu đó để y thừa cơ đổ thìa mỡ gà vào bát miến của mình.
Nhà sư nghĩ lại lúc ăn bát canh miến quả thấy thơm ngon hơn. Vì suốt đời nhà sư chưa từng ăn đến mỡ gà nên không biết mùi ra sao.
Hư Trúc tự hỏi:
- Bây giờ mỡ gà đã nuốt vào bụng rồi biết làm thế nào? Liệu có nên nôn ra không?
Nhà sư bàng hoàng hồi lâu chưa biết tính sau thì chàng thiếu niên lại hỏi:
- Hoà thượng! Phải chăng hòa thượng đang tìm ba nhà sư. Có phải các vị đang đi ngoài kia không?
Hư Trúc mừng thầm bước ra cửa nhìn đông ngó tây thì chẳng thấy một bóng người nào. Nhà sư biết là lại bị chàng thiếu niên lừa gạt thì trong lòng tức bực, nhưng đã là người xuất gia không nên oán giận.
Nhà sư cố nhẫn nại không nói năng gì, lại quay vào ăn miến.
Hư Trúc nghĩ thầm trong bụng:
- Tiểu tướng công này còn nhỏ tuổi mà ưa tinh nghịch toàn trò ác nghiệt.
Nhà sư vừa nghĩ lại cầm đũa ăn như gió cuốn mây một lúc hơn nửa bát.
Ðột nhiên răng nhà sư ngoạm phải vật gì trơn tuột, nhưng ăn lẹ quá, nuốt trôi luôn cả vào bụng.
Hư Trúc giật mình vội nhìn vào bát miến, thấy những sợi miến có lẫn một miếng thịt lớn thì biết ngay vừa rồi mình đã nuốt phải một miếng thịt.
Hư Trúc cầm đũa đập xuống bàn kêu lên:
- Khổ rồi! Khổ rồi!
Chàng thiếu niên cười nói:
- Hoà thượng! Miếng thịt béo thế mà ăn không ngon ư lại còn kêu khổ?
Hư Trúc tức giận nói:
- Ngươi gạt ta chạy ra cửa ngõ, rồi ở trong này bỏ thịt vào miến của ta. Ta... ta đã hai mươi ba tuổi đầu, chưa từng ăn qua một chút tanh tưởi... ta bị hại vì tay ngươi rồi!
Chàng thiếu niên tủm tỉm cười hỏi:
- Mùi thịt béo đó há chẳng ngon gấp mười rau xanh cũng đậu hũ ư? Trước nay hòa thượng chưa từng ăn cá thịt, thế thì ngốc thật.
Hư Trúc đứng lên, trong lúc thảng thốt chẳng biết làm thế nào cho phải, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng nhốn nháo.
Một lũ đông người đang đi vào phạn điếm.
Hư Trúc nhìn ra thì thấy bọn này là đệ tử phái Tinh Tú, bất giác kinh hãi than thầm:
- Trời ơi! Nguy rồi! Nếu ta bị bọn chúng bắt thì còn chi là sinh mạng?
Nhà sư vội vàng chạy vào phía sau để toan lẩn trốn.
Ngờ đâu vừa đạp được cửa phòng ra tiến vào thì đây là một buồng ngủ.
Nên biết rằng trong quán cơm nhỏ tại tiểu thị trấn có rất ít phòng ốc. Thường thường phòng ngủ của chủ nhân liền với phòng khách ngồi.
Hư Trúc toan rút chân trở ra, bỗng nghe thấy phía sau có tiếng người gọi:
- Ðiếm chủ! Mau lấy rượu thịt ra đây!
Bọn đệ tử phái Tinh Tú đã vào đến phòng khách.
Hư Trúc không dám lùi ra, đứng nguyên trong phòng khép cửa lại.
Bỗng nghe thanh âm một người nói:
- Kiếm cho nhà sư mập này một chỗ nằm!
Người nói đó chính là Ðinh Xuân Thu.
Một đệ tử phái Tinh Tú đáp:
- Vâng!
Rồi tiếng chân bước nặng chịch đi lại phía phòng ngủ.
Hư Trúc cả kinh, không biết làm thế nào. Cúi mình xuống chui vào gầm giường đụng phải một vật gì rồi có tiếng la khẽ:
- Úi chà!
Té ra dưới gầm giường trước đã có một người nằm ẩn tại đó.
Hư Trúc giật mình muốn trở ra thì một tên đệ tử phái Tinh Tú đang bồng nhà sư Tam Tĩnh tiến vào buồng ngủ. Gã đặt tấm thân nặng nề của Tam Tĩnh lên giường rồi lui ra.
Hư Trúc lại nghe người nằm bên cạnh mình rỉ tai hỏi:
- Này hòa thượng! Thịt béo có ngon không? Hoà thượng sợ cóc gì?
Hư Trúc nghĩ thầm:
- Thằng cha này chân tay cũng rất mau lẹ. Gã vào ẩn trong gầm giường này trước mình từ lúc nào mà mình không biết.
Nghĩ vậy nhà sư nói:
- Ngoài kia có một lũ ác nhân đã đến. Tướng công chớ có lên tiếng.
Thiếu niên hỏi:
- Sao hòa thượng biết bọn chúng là ác nhân?
Hư Trúc đáp:
- Bần tăng có biết bọn này, chúng giết người không gớm tay, và coi như một trò đùa.
Chàng thiếu niên toan bảo Hư Trúc phải kín tiếng thì đột nhiên Tam Tĩnh nằm trên giường la hoảng:
- Gầm giường có người! Gầm giường có người!
Hư Trúc cùng thiếu niên cả kinh đồng thời chui ra, thì thấy Ðinh Xuân Thu đứng sừng sững trước cửa phòng cười lạt. Vẻ mặt lão ra chiều vừa đắc ý vừa thâm độc.
Chàng thiếu niên biến sắc quỳ mọp ngay xuống nói:
- Sư phụ!
Ðinh Xuân Thu cười nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Ðưa đây, đưa đây!
Thiếu niên đáp:
- Ðệ tử không dắt bên mình.
Ðinh Xuân Thu hỏi:
- Vậy thì để đâu?
Thiếu niên đáp:
Ở trong thành Nam Kinh nước Liêu.
Cặp mắt Ðinh Xuân Thu chiếu ra những tia nóng hung dữ nói:
- Ðến bây giờ mà mi còn dám gạt ta ư? Ta sẽ cho mi sống không sống nổi, chết chẳng chết cho!
Thiếu niên đáp:
- Ðệ tử không dám lừa gạt sư phụ!
Ðinh Xuân Thu đảo mắt nhìn Hư Trúc, hỏi thiếu niên:
- Sao mi lại cùng đi với hắn?
Thiếu niên đáp:
- Ðệ tử vừa gặp vị hòa thượng đây ở trong phạn điếm này.
Ðinh Xuân Thu gằn giọng quát:
- Mi nói láo!
Hai mắt lão hầm hầm nhìn hai người rồi quay trở ra.
Bốn tên đệ tử phái Tinh Tú tiến lại gần vây lấy hai người.
Hư Trúc vừa kinh hãi vừa hối hận hỏi:
- Ồ! Té ra ngươi cũng là đệ tử phái Tinh Tú ư?
Thiếu niên tức mình đáp:
- Chỉ tại hòa thượng mà ra còn hỏi gì tôi?
Một tên đệ tử phái Tinh Tú thân hình cao lớn hỏi:
- Sư Muội! Lâu nay vẫn bình yên chứ?
Ðiệu nói gã ra chiều mai mỉa với bộ mặt gieo tai rắc hoạ.
Hư Trúc lấy làm kỳ hỏi:
- Sao? Ngươi... ngươi...
Thiếu niên hằn học nói:
- Ngươi là một nhà sư ngu ngốc, thối tha! Cố nhiên ta là con gái. Chẳng lẽ ngươi không nhận ra hay sao?
Nguyên thiếu niên này chính là A Tử cải trang. Nàng ở trong thành Nam Kinh đã lâu, tuy hưởng hết những mùi vinh hoa phú quý nhưng bản tính hiếu động, ở lâu đâm chán. Tiêu Phong thì công việc bận rộn, không thể ngày nào cũng đưa nàng đi săn bắn du ngoạn được.
Một hôm nàng thấy trong lòng buồn phiền, liền không từ biệt Tiêu Phong, lại đi xuống Trung Nguyên. Nàng đi đến đâu la cà ở đó. Hôm nay ma đưa lối quỷ đem đường thế nào lại gặp cả Hư Trúc cùng Ðinh Xuân Thu.
A Tử tưởng sư phụ nàng cứ ở lỳ bờ biển Tinh Tú để di dưỡng tuổi già, không bước chân đến Trung Nguyên. Nào ngờ oan gia gặp mặt ở trong quán cơm nhỏ nơi tiểu thị trấn này.
Tuy ngoài mặt A Tử tỏ ra thản nhiên vô sự, mà thực tình nàng sợ hãi không còn hồn vía nào nữa. Nàng to tiếng mạt sát Hư Trúc chẳng qua là để hư trương thanh thế. Lời nói của nàng đã run lên, dù cố gượng trấn tĩnh cũng không được nữa.
A Tử ngồi xuống mép giường, ngấm ngầm nghĩ kế thoát thân.
Nàng tính thầm trong bụng:
- Trừ phi gặp tỷ phu ta hoặc giả còn có thể cứu được mình, còn người khác thì bất luận là ai cũng không địch nổi sư phụ. Bây giờ chỉ còn kế lừa gạt sư phụ đến Nam Kinh để mượn tay tỷ phu giết phắt lão đi. Ðó là con đường sống duy nhất. Cũng may mà chiếc Bích Ngọc vương đỉnh mình còn để lại Nam Kinh, chắc sư phụ không thể bỏ qua bảo bối đó được.
Nàng nghĩ vậy, đã cảm thấy hơi yên dạ, nhưng rồi lại nghĩ:
- Nếu sư phụ đánh mình thành kẻ tàn phế, mất hết võ công rồi mới giải đến Nam Kinh, thì cái khổ đó còn khó chịu gấp mười lần bị giết chết ngay.
Nghĩ vậy nàng sợ quá, mặt cắt không còn hột máu.
Giữa lúc ấy, một tên đệ tử phái Tinh Tú đi đến cửa phòng cười hì hì nói móc:
- Ðại sư tỷ! Sư phụ mời đại sư tỷ ra đó.
Hư Trúc nghĩ thầm trong bụng:
- Té ra cô gái này chẳng những là đệ tử phái Tinh Tú mà còn là đại đồ đệ của Ðinh Xuân Thu. Chao ôi! Hỏng bét rồi! ả cho ta uống thang gà, ăn thịt béo để hại ta! Không chừng còn hòa lẫn thứ thuốc độc gì cổ quái nữa cũng nên?
Thực ra A Tử lừa cho nhà sư ăn thịt cho phạm sát giới chỉ là trò nghịch ác để cười chơi. Bản tính nàng hễ làm được cho ai sợ hãi, đau khổ, tức giận là lại lấy làm thú vị, ngoài ra không có ý gì khác.
Lúc đó A Tử nghe lệnh sư phụ truyền gọi, chẳng khác gì như chuột nghe tiếng mèo thì hoảng hồn vía lên. Nàng theo tên đệ tử phái Tinh Tú ra nhà khách.
A Tử thấy Ðinh Xuân Thu ngồi mình một bàn. Trên bàn đã bầy rượu thịt ra rồi. Bọn đệ tử thóng tay đứng xa xa, thái độ cực kỳ cung kính, không ai dám thở mạnh và lên tiếng.
A Tử chạy đến trước mặt cất tiếng gọi:
- Sư phụ!
Rồi quỳ mọp ngay xuống.
Ðinh Xuân Thu hỏi:
- Thực tình hiện mi để ở đâu?
A Tử đáp:
- Ðệ tử không dám lừa dối sư phụ. Vật đó quả còn ở trong thành Nam Kinh nước Liêu.
Ðinh Xuân Thu lại hỏi:
- Ở nơi nào trong thành Nam Kinh?
A Tử đáp:
- Ở trong vương phủ Tiêu đại vương nước Liêu.
Ðinh Xuân Thu chau mày hỏi:
- Tại sao lại để lọt vào tay bọn chó má Khất Ðan đó?
A Tử đáp:
- Không phải để lọt vào tay chúng đâu. Sau khi đệ tử qua miền Bắc chỉ sợ làm thất lạc mất bảo bối của sư phụ lại sợ lỡ tay đánh rơi làm xây sát đỉnh ngọc, đệ tử liền vào trong vườn hoa phía sau vương phủ Tiêu đại vương đào lỗ chôn dấu. Nơi đó rất là hẻo lánh. Hoa viên của Tiêu đại vương rộng bát ngát đến sáu ngàn mẫu, không có ai tìm thấy vương đỉnh được, xin sư phụ cứ yên tâm.
Ðinh Xuân Thu cười lạt nói:
- Chỉ có mi mới tìm được đến nơi phải không? Chà! Con này đáo để thật. Mi dùng kế ném chuột sợ vỡ đồ để ta không dám giết mi, vì mi chết rồi không còn ai tìm ra vương đỉnh nữa.
A Tử toàn thân run lên bần bật, ấp úng nói:
- Nếu sư phụ không chịu dung tha cho đứa trò nhỏ tinh nghịch này mà đem tiêu hủy công lực, cắt đứt gân mạch, hoặc chặt một chân một tay, hoặc chặt cả hai chân hai tay thì đệ tử thà chết ngay còn hơn, quyết không thổ lộ vương đỉnh... hiện đang cất giấu ở đâu nữa.
Mấy câu cuối nàng sợ quá nói không ra tiếng.
Ðinh Xuân Thu tủm tỉm cười nói:
- Con lỏi này! Mi lớn mật dám trả giá với ta ư! Trong môn hạ phái Tinh Tú chỉ có mi là lợi hại hơn cả. Chỉ vì ta không phòng bị trước mà mi qua mặt được Tinh Tú lão tiên!
Một đệ tử đứng ở chân tường đột nhiên lớn tiếng nói:
- Minh kiến của Tinh Tú lão tiên quả thấu xa hàng vạn dặm, người biết rõ cái kiếp của Bích Ngọc vương đỉnh phải như vậy nên mượn tay A Tử để cho bảo bối từng trải thêm những cuộc gian hiểm, tức là gia công giũa mài cho nó.
Một tên đệ tử khác nói:
- Sự vật khắp thiên hạ còn có vật gì ra khỏi được vòng thần toán của lão tiên? Lời lão tiên khiêm nhường, thực chúng đệ tử không thể nào theo kịp.
Một tên khác lại nói:
- Bữa nay Tinh Tú lão tiên mới sơ trổ tài nhỏ mọn đã hạ sát được một tay cao thủ phái Thiếu Lâm là Huyền Nạn đại sư, đồng thời tru diệt mười mấy tên đệ tử của Lung á lão nhân. Từ cổ chí kim chưa có một nhân vật nào tài cao hơn cả Ðại La kim tiên đến như vậy! Tiểu A Tử! Bất chấp mi giảo quyệt đến đâu cũng không tài nào ra khỏi sự trù tính của lão tiên được đâu! Dù mi van vỉ hay kháng cự, hai phương pháp đều vô ích.
Tiếng gã này dõng dạc, Ðinh Xuân Thu ngồi tủm tỉm cười vuốt râu nghe ra chiều thích thú.
Hư Trúc đứng trong phòng ngủ nghe rõ mồn một nghĩ thầm:
- Sư bá tổ cùng Thông Biện tiên sinh quả nhiên đều bị lão sát hại. Hỡi ôi! Nói chi đến chuyện báo thù rửa hận? Chính cái mạng nhỏ xíu của mình cũng khó giữ nổi.
Bỗng nghe bọn đệ tử phái Tinh Tú mỗi tên nói mấy câu đều ngụ ý khuyên A Tử phải mau mau tuân theo mà cung xưng thực tình ra. Trong lời lẽ của chúng vừa có ý sợ hãi, vừa ra vẻ tán dương oai đức của Ðinh Xuân Thu. Cả những câu nói cho A Tử nghe cũng đều có ý xu nịnh Ðinh Xuân Thu ở trong.
-
Hồi 68 - Cuộc Tỷ Thí Giữa Ðinh Xuân Thu và Mộ Dung Phục - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 68 - Cuộc Tỷ Thí Giữa Ðinh Xuân Thu và Mộ Dung Phục
Bình sinh Ðinh Xuân Thu phải cái tật là rất ưa nghe những lời phỉnh nịnh. Người ngoài nói khéo chẳng khác nào gãi trúng vào chỗ ngữa, lão lại càng thích phổng mũi lên. Bọn đồ đệ này đã theo lão mấy chục năm trời. Lão yên trí rằng chúng khoa trương công đức mình là thật. Nếu có kẻ nào không biết thổi phồng lão lên thì lão lại ngờ hắn là không có dạ trung thành.
Bọn đệ tử hiểu biết sâu xa tính nết lão, hễ cứ gặp được dịp là chúng chụp ngay lấy để tán dương một cách rất ngộ nghĩnh .
Nên biết rằng đối với Ðinh Xuân Thu kẻ đệ tử nào kém khoa nịnh hót để mất lòng sư phụ hãy còn là việc nhỏ, song không giờ phút nào quên được mối lo âu về tính mạng mới là việc lớn hơn.
Tình thực mà nói thì không phải bọn đệ tử phái Tinh Tú hết thảy đều là hạng mặt dày vô sỉ cả đâu, nhưng một là vì tình thế bắt buộc không xu nịnh sư phụ quyết không thể tồn tại được, hai là chúng đi theo thầy lâu ngày, câu chuyện nịnh bợ đã thành thói quen rồi cứ thuận miệng tuôn ra, chẳng lấy thế làm điều đáng thẹn nữa.
Ðinh Xuân Thu vuốt râu mỉm cười nghe bọn đệ tử ca tụng khoái chí vô cùng? Bộ râu của lão lúc đấu phép cùng sư huynh là Lung á lão nhân Tô Tinh Hà đã bị cháy mất một mảng lớn, nhưng thưa thớt còn lại được một ít cũng tạm đủ để vuốt chơi.
Về sau lão lại ngấm ngầm tung thuốc kịch độc tam tiếu tiêu dao tán làm cho Tô Tinh Hà mất mạng. Vậy cuộc đấu đó cuối cùng vẫn là lão thắng thì dù có mất một ít râu cũng chẳng đáng kể gì.
Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, những lời tán dương đã nhạt đi dần dần. Còn gã nào muốn nói trường giang đại hải, Ðinh Xuân Thu cũng dơ tay lên ra hiệu cho họ đừng nói nữa.
Lời tán tụng chấm dứt thì lại thấy bọn đệ tử đồng thanh nói:
- Công đức sư phụ trùm trời lấp đất. Bọn đệ tử chúng con ngu dốt, muôn phần không biểu dương được một.
Ðinh Xuân Thu gật đầu mỉm cười quay ra hỏi A Tử:
- A Tử! Mi còn điều chi muốn nói nữa không?
A Tử nghĩ ngay:
- Trước kia sư phụ vốn thiên ái mình hơn ai hết ma cũng chỉ vì chỗ mình khéo ca tụng lão ở nhiều điểm đặc biệt, đưa ra những lời tán dương mà bọn sư huynh không đề cập đến, vì họ kém thông minh, chỉ nhai đi nhai lại những câu thông thường có cả trăm năm rồi.
Nghĩ vậy nàng liền lên tiếng:
- Sư phụ! Sở dĩ đệ tử lấy cắp Bích Ngọc vương đỉnh của sư phụ cũng là vì có quan niệm riêng.
Ðinh Xuân Thu cặp mắt long lên hỏi:
- Quan niệm của mi thế nào?
A Tử thưa:
- Thời kỳ sư phụ còn ít tuổi, công lực chưa đến tột độ như ngày nay, mới cần mượn Bích Ngọc vương đỉnh để cung ứng vào việc luyện công. Nhưng từ hai năm nay, bất luận là ai có mắt để trông, đều hiểu biết thần thông sư phụ lệch đất nghiêng trời, thần sầu quỷ khốc. Cái Bích Ngọc vương đỉnh kia chẳng qua mới có khả năng quy tụ được những trùng độc, nhưng đem so với thủ pháp của sư phụ thì nó chỉ là đom đóm so với ánh sáng mặt trăng mặt trời. Sự việc biến chuyển cũng như nghệ thuật của sư phụ tiến triển vô bờ bến, thì làm sao còn đem chuyện năm xửa năm xưa ra mà nói. Nếu quả sư phụ không muốn rời bỏ cái đỉnh ngọc đó thì chẳng qua là tấm lòng nhớ đến vật cũ mà thôi. Thế mà các vị sư huynh hoảng hốt vô cùng, cho là sư phụ không có cái đỉnh đó không xong nói những là bản môn trọng bảo, đỉnh ngọc thần thông trời đất gì, tưởng chừng như mất nó có thể xảy đến những việc vô cùng trọng đại. Thế thì các vị thật ngu xuẩn không biết đến đâu mà kể! Và gián tiếp các vị coi thần thông của sư phụ ta không vào đâu hay sao.
Ðinh Xuân Thu nghe nàng nói, ruột nở lên lồng bồng, lão gật đầu lia lịa nói:
- Ừ! ừ! Con này nói cũng có lý!
A Tử lại nói tiếp
- Ðệ tử còn nghĩ rằng: Võ công phái Tinh Tú ta đã cao cường đến mực khắp thiên hạ không còn môn phái nào sánh kịp, mà sư phụ là bậc đại nhân đại lượng không muốn chấp nhất với bọn võ lâm ở Trung Nguyên, vì bản lãnh của chúng chẳng đáng để sư phụ bận tâm dời gót ngọc đến Trung Nguyên. Cũng vì thế mà những hạng ngu xuẩn khác nào ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung, rồi chẳng thiếu gì môn phái tự tôn tự đại. Họ biết rằng sư phụ không thèm đến so bì với họ, họ lại càng làm già, nêu lên những nhãn hiệu kỳ khôi nào là võ học danh gia, nào là đương thế cao nhân chẳng còn uý kỵ gì nữa. Tuy họ giễu võ dương oai ở Trung Nguyên nhưng chẳng một tên nào dám bén mảng đến phái Tinh Tú ta để lĩnh giáo mấy chiêu. Hết thảy đều biết võ công sư phụ đã cao thâm đến mực không biết đâu mà lường. Họ chỉ đem bốn chữ thâm bất khả trắc (sâu thẳm không lường) bàn đi tán lại, nhưng thực ra họ chẳng biết cao minh đến mức độ nào mà chỉ nói một cách hàm hồ như vậy thôi.
Ngừng một lát để lấy hơi, A Tử lại nói tiếp:
- Thề rồi họ Mộ Dung ở Cô Tô lên mặt phi thường, phái Thiếu Lâm ở Hà Nam cũng tự xưng là Thái Sơn, Bắc Ðẩu trong võ lâm. Còn nữa nào Lung á tiên sinh, nào họ Ðoàn nước Ðại Lý đều nghiễm nhiên khoe mình là những nhân vật phi thường. Sư phụ thử tưởng tượng xem có đáng buồn cười không?
Thanh âm nàng trong trẻo, uyển chuyển dễ nghe, câu nào cũng đánh trúng vào tâm khảm Ðinh Xuân Thu, so với kiểu xưng tụng to tiếng của bọn đệ tử kia lão nghe lọt tai hơn nhiều. Bộ mặt Ðinh Xuân Thu mỗi lúc một thêm tươi cười hơn hớn. Lão sướng đến lờ đờ cả mặt.
A Tử lại nói:
- Ðệ tử nảy ra một ý nghĩ con nít: Thần thông của sư phụ như vậy mà không đến Trung Nguyên để trổ một hai ngón cho chúng mở rộng tầm mắt ngu xuẩn ra, đồng thời dạy cho chúng biết rằng ngoài bầu trời này còn có bầu trời khác, trên loài người còn có hạng người mà chúng chưa biết đến. Nên đệ tử có ý mời sư phụ xuống Trung Nguyên cho bọn đệ tử kia được kiến thức hơn một chút. Nhưng nếu cung thỉnh sư phụ một cách bình thường thì không xứng đáng với một người thứ nhất không tiền khoáng hậu. Ðịa vị của sư phụ khác với người thường thì dĩ nhiên cách mời sư phụ xuống Trung Nguyên cũng phải đặc biệt. Vì thế mà đệ tử mượn chiếc Bích Ngọc vương đỉnh là cố ý thôi thúc đại giá sư phụ đến Trung Nguyên.
Ðinh Xuân Thu khoái quá không nhịn được nữa nổi lên một tràng cười ha hả nói:
- Như lời con nói thì ra con lấy đỉnh ngọc cũng chỉ vì một niềm hiếu thuận.
A Tử đáp:
- Ðó là một điều con không dám chối cãi. Nhưng ngoài tấm lòng hiếu thuận, bên trong còn có chút tư tâm.
Ðinh Xuân Thu chau mày hỏi:
- Con còn tư tâm gì nữa?
A Tử tủm tỉm cười đáp:
- Xin sư phụ tha thứ cho. Con nghĩ rằng mình đã là đệ tử phái Tinh Tú, không khỏi có ý muốn cho oai danh mình vang lừng thiên hạ, mà con đi đâu cũng được mọi người kính nể cho tỏ mặt với đời. Cái tư tâm nhỏ mọn của đệ tử là ở chỗ đó.
Ðinh Xuân Thu cười ha hả khen:
- Nói phải, nói phải! Trong môn phái ta biết bao nhiêu là đệ tử mà chưa thấy gã nào có tâm cơ linh mẫn như con. Té ra con lấy cắp Bích Ngọc vương đỉnh với mục đích để làm nổi danh cho ta. Ha ha! Con là đứa nhỏ lẻo bẻo mồm miệng, giết đi kể cũng đáng tiếc, vì mình ta thiếu mất một đứa có tài nói năng để giải buồn. Nhưng nếu muốn ta bỏ việc này đi không xét nữa...
A Tử vội cướp lời:
- Sư phụ có lòng tiện nghi cho đệ tử, nhưng bản môn từ trên xuống dưới chẳng ai là không cảm kích tấm lòng khoan hồng đại lượng của sư phụ, và từ đây sắp đến, ai nấy càng tận tâm tận lực phụng sự sư môn, dù có phải tan xương nát thịt cũng cam lòng.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Ngươi nói thế để đánh lừa người khác còn có thể được, nhưng đối với ta thì vô ích. Ta đâu có hồ đồ đến thế? Hừ! Theo lời ngươi nói nếu ta tước hết công lực ngươi, cắt đứt gân mạch ngươi...
Lão vừa nói đến đây, bỗng nghe thấy một thanh âm dõng dạc vang lên:
- Ðiếm gia! Sắp chỗ ngồi cho ta!
Ðinh Xuân Thu liếc mắt ngó ra thì thấy một chàng thanh niên mình mặc hoàng bào lưng đeo trường kiếm ngồi nay cái bàn bên cạnh, không biết chàng đã vào điếm từ lúc nào? Chàng chính là Mộ Dung Phục mà lão đã tiếp qua một chưởng.
Ðinh Xuân Thu tuy mải nghe A Tử tán dương, nhưng lão đang ngồi trong nhà khách sạn mà bên mình thốt nhiên có thêm người, lão không để ý đến thì cũng là một chỗ sơ hở lớn. Giả tỉ Mộ Dung Phục nhiên ám toán thì e rằng bị nguy rồi.
Ðinh Xuân Thu giật mình đánh thót một cái, hơi biến sắc mặt. Nhưng lão là người thâm độc dị thường, trấn tĩnh được ngay.
A Tử chưa từng gặp mặt Mộ Dung Phục bây giờ nàng thấy một chàng thanh niên công tử, trong lòng không khỏi nao nao, khen thầm:
- Người này cực kỳ phong lưu tuấn nhã! Một nhân vật thế mà sao ta chưa biết qua bao giờ?
Bỗng thấy Mộ Dung Phục dơ tay vẫy Ðinh Xuân Thu nói:
- Xin chào lão tiền bối. Thế mới biết người ta trong vòng luẩn quẩn, chạm trán nhau hoài. Vừa mới có duyên kỳ ngộ chia tay chưa mấy chốc bây giờ lại gặp tiên sinh đây!
Ðinh Xuân Thu đáp:
- Ðó là lão phu có duyên với công tử.
Lúc ấy điếm tiểu nhị chạy đến trước bàn Mộ Dung Phục hỏi:
- Thưa công tử! Công tử xơi cơm hay là ăn bánh?
Mộ Dung Phục đáp:
- Hãy lấy một cân rượu ngon và thức nhắm, còn ăn gì sẽ lấy sau.
Ðiếm tiểu nhị vâng dạ, trở gót vào trong.
Ðinh Xuân Thu vừa cùng chàng đối một chưởng. Trong lúc thảng thốt lão chưa kịp thi triển phép Hoá công đại pháp, lão thấy chưởng lực chàng không những hùng hậu mà còn biến ảo tuyệt diệu. Lão chưa chiếm được ưu thế chút nào, mà tấm lòng tự phụ là không ai bằng, thì khi nào chịu để người khác ngang hàng với mình?
Lão lẩm bẩm:
- Ta phải lập tức cùng gã động thủ để quyết thắng bại. Bây giờ hãy xử trí cho xong A Tử rồi sẽ tính. Ta thường nghe đồn công lực họ Mộ Dung ở Cô Tô đã đi đến mức siêu quần nhập hóa, các giới võ lâm đều khoa trương gã rất nhiều, chắc lời đồn không phải là vô lý. Nay Tinh Tú lão tiên đã đến Trung Nguyên mà để thằng lỏi này làm nhụt nhuệ khí há chẳng đáng hận ư?
Ðinh Xuân Thu là người tâm cơ thâm hiểm, lão không nắm chắc phần thắng bằng võ công liền nghĩ cách ám toán.
Lão quay sang bảo A Tử:
- Ngươi bảo giả tỷ ta phế trừ võ công của ngươi, cắt đứt gân cốt ngươi, chặt một tay một chân ngươi, hoặc chặt cả hai chân hai tay, ngươi cũng đành chịu chết chứ không chịu thổ lộ cái đó ở đâu? Có phải thế không?
A Tử sợ hãi vô cùng, run run đáp:
- Sư phụ là bậc đại tượng, chẳng nên để những câu nói hồ đồ của đệ tử vào tai.
Mộ Dung Phục cười nói:
- Ðinh tiên sinh! Tiên sinh đã bấy nhiêu tuổi đầu, sao còn chấp nhặt với đứa con nít làm chi? Mời tiên sinh qua đây, chúng ta uống mấy chén rồi đàm luận võ với nhau có phải hay hơn không? Trước những người ngoài mà đem việc trong nhà ra thanh toán, như vậy thì sao tiện?
Bỗng nghe có tiếng quát lên:
- Nếu ngươi biết kính cẩn dập đầu lạy sư phụ ta là Tinh Tú lão tiên để thỉnh giáo, thì Tinh Tú lão tiên bản tính rất ưa dắt díu bọn hậu bối may ra được người cho biết cho một hai điều. Mi dám nói đàm luận võ với Tinh Tú lão tiên há chẳng khiến cho người ta phải cười nẻ ruột.
Gã cười lên mấy tiếng, vẻ mặt cực kỳ bí hiểm cổ quái. Sau một lúc gã lại cười ha hả, tiếng cười nghe rất khô khan. Sau trận cười này mồm miệng há hốc ra mà không nói được tiếng nào. Vẻ mặt vẫn bí hiểm, và vẫn giống như người đang cười.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú biết gã đã trúng phải Tam tiếu Tiêu Dao tán đều không khỏi kinh hãi lo sợ. Chúng nhìn gã đồng môn trúng Tam Tiếu Tiêu Dao tán tắt hơi rồi, không ai dám hé răng hé lợi, đã cúi đầu xuống không dám ngó sư phụ nữa.
Bọn chúng tự hỏi:
- Không hiểu gã tiểu tử đó nói năng xúc phạm thế nào làm sư phụ u uất, đến nỗi người thi hành thủ đoạn ghê gớm để giết y?
Ðinh Xuân Thu trong lòng vừa tức giận vừa sợ hãi. Nguyên khi đang đối thoại với A Tử khẽ giơ tay áo lên ngấm ngầm vận nội lực dùng phấn Ðộc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán vào Mộ Dung Phục. Thứ phấn Ðộc này không hương không sắc, lại cực kỳ vi tế, khách ngồi trong tửu điếm không tài nào nhìn rõ được.
Lão chắc mẩm dù võ công Mộ Dung Phục cao đến đâu cũng không thể phát giác ra được.
Nào ngờ Mộ Dung dùng thủ đoạn gì hất Tam Tiếu Tiêu Dao Tán vào người đệ tử mà lão cũng không hay. Chết mất một gã đệ tử chẳng có gì đáng tiếc xong Mộ Dung Phục đang lúc cười nói mà chẳng thấy gã dơ tay áo lên mà hất được phấn độc qua người khác, thì công lực này còn quá phi thường, quá sức tưởng tượng của mọi người.
Ðinh Xuân Thu là người kiến văn quảng bác, trong lúc đột ngột lão chẳng nghĩ ra thứ công phu gì. Lão nhớ lại chính sách gậy ông đập lưng ông biết rõ là một thủ pháp mà Mộ Dung Phục chuyên dùng. Thủ pháp này tương tự như thủ pháp đón lấy ám khí để đánh lại, đón lấy mũi phi tiêu, mũi tên để phóng lại, bây giờ gã lại đón lấy phấn Ðộc để tung ra. Nhưng phấn Ðộc nhỏ li ti không hình không sắc mà sao gã cũng không để cho thấm vào người, lại hất ra ngoài được?
Ðinh Xuân Thu lại nghĩ:
- Nếu là thủ đoạn gậy ông đập lưng ông thì Tam Tiếu Tiêu Dao Tán do mình phóng ra, sao gã lại không hất trở về mình. Thôi phải rồi! Chắc là thằng lỏi con này uý kỵ lão tiên, nên không dám vuốt râu hùm.
Lão nghĩ đến ba chữ vuốt râu hùm, tiện tay đưa lên vuốt râu thì đụng ngay phải bảy tám sợi râu bị cháy dở chỉ còn ngắn chưn. Trong lòng lão không lấy thế làm buồn mà lại mừng thầm, lẩm bẩm:
- Công lực Tô Tinh Hà cao thâm biết là chừng nào, rút cục vẫn bị chết về tay lão tiên thì thằng lỏi Mộ Dung Phục miệng còn hơi sữa có chi đáng kể?
Ðinh Xuân Thu nghĩ nhiều lắm, nhưng dù sao lão không muốn tỏ ra mình kém cỏi trước mặt bọn đệ tử.
Lão nói:
- Mộ Dung công tử! Công tử cùng ta thật có duyên với nhau. Lại đây mau! Ðể ta mời công tử một chén rượu.
Nói xong lão lấy ngón tay gẩy một cái, chén rượu đặt trên bàn mình bay sang trước Mộ Dung Phục. Cái búng tay của lão thật là tuyệt diệu! Chén rượu bay đi bằng bặn không chút nghiêng ngửa, nên không rớt ra ngoài nửa giọt.
Giá vào lúc khác thì bọn đệ tử đã thi nhau tán tụng. Nhưng vừa rồi một gã đồng môn lên tiếng nói mấy câu đã bị chết một cách quái dị, nên chúng sợ hãi quá, không hiểu sư phụ có dụng ý gì, nên chẳng ai dám mở miệng tán dương. Song ít ra cũng phải reo lên một tiếng tán thưởng nên điềm nhiên như không tất bị sư phụ thi hành những hình phạt không thể chịu nổi.
Chén rượu vừa hạ xuống trước mặt Mộ Dung Phục, bọn đệ tử reo một tiếng: "Tuyệt diệu!" như sấm vang.
Trong bọn đệ tử có ba tên đặc biệt nhát gan không dám hoan hô. Khi ba gã này thấy bọn đồng môn reo hò, mới sực nhớ ra mình chưa lên tiếng. Chúng vội kêu lên tuyệt diệu! nhưng ba tiếng tuyệt diệu này chậm mất một chút, rõ ràng không được tề chỉnh.
Ba gã thấy bọn đồng môn quở trách thì vừa bẽn lẽn vừa sợ hãi vô cùng!
Mộ Dung Phục nói:
- Ðinh tiên sinh là bậc tiền bối. Có lý đâu tiền bối lại kính mới rượu vãn bối trước bao giờ. Chén rượu này vãn sinh không dám bái, để vãn bối chuyển sang kính mời lệnh cao đồ vậy!
Nói xong chàng thổi phù một cái, chén rượu đột nhiên lại bay truyền đến trước mặt một tên đệ tử phái Tinh Tú ngồi ở mé tả.
Ðinh Xuân Thu thấy Mộ Dung Phục thổi chén rượu thì biết ngay chàng đã dùng phép Tứ lạng bát thiên cân. Lão tự biết: Tay mình cùng chén rượu là hai vật hữu hình chạm vào nhau, tuy lực đạo cực kỳ diệu, nhưng cũng chưa ly kỳ bằng gã lấy hơi thổi chén rượu cho bay đi. Ðem so ra tuy khó phân biệt được ai hơn ai kém. Nhưng ngoài thì người không biết võ công cũng đều nhìn nhận cách chuyển chén rượu của Mộ Dung Phục như vậy đủ chứng tỏ Ðinh Xuân Thu đã bị thua chiêu này.
Thực ra Mộ Dung Phục thổi cho chén rượu bay đi cùng với Ðinh Xuân Thu búng tay một cái thì cũng chưa thể phân biệt được nội lực hơn kém. Có điều Mộ Dung Phục khôn khéo hơn cách Ðinh Xuân Thu phải dùng tay khiến cho người ngoài trông thấy tưởng chừng như dùng hơi thổi chén rượu vừa có vẻ tài tình hơn và nội lực cũng mạnh hơn Ðinh Xuân Thu.
Gã đệ tử phái Tinh Tú thấy chén rượu bay đến, hốt hoảng không biết làm thế nào, chẳng hiểu nên tránh đi hay là dơ tay ra đón lấy.
Gã còn đang ngẫm nghĩ thì chén rượu đã bay đến nơi. Gã không kịp nghĩ nhiều hơn nữa, tự nhiên dơ tay trái ra đón lấy chén rượu nói:
- Chén rượu này của sư phụ tại hạ kính khen thưởng tử!
Gã định dùng chưởng lực đẩy chén rượu trở lại đến trước mặt Mộ Dung Phục thì đột nhiên một tiếng rú thê thảm úi chao! vang lên. Gã ngã ngửa về phía sau rồi không thấy nhúc nhích gì được nữa.
Bọn đệ tử trông thấy hiểu ngay rằng sư phụ lúc búng chén rượu đã để thuốc kịch đôc trong móng tay rồi, thuốc độc này đã bám vào xung quanh cái chén. Mộ Dung Phục chỉ cần cầm đến chén, bất tất phải uống rượu, cũng đủ mất mạng như gã đệ tử này rồi.
Ðinh Xuân Thu biến sắc, trong lòng căm giận vô cùng! Lão biết rằng mình vố này nữa thì không thể che mắt được bọn đệ tử và chúng đều biết mình lấy phấn độc để ám hại Mộ Dung Phục, không ngờ lại bị gã gieo vạ làm mất mạng đệ tử phái Tinh Tú.
Lần đầu gặp Mộ Dung Phục, lão đã đối một chưởng với chàng và biết rõ chưởng lực đối phương ghê gớm. Nếu dùng thực lực tranh đấu vị tất mình đã ăn đứt gã.
Với ý nghi như vậy, lão quyết định dùng Hoá công đại pháp để đối phó với Mộ Dung Phục. Nhưng diễn biến xảy ra nhường này, lão không thể yên tâm được. Lão hai tay bưng chén rượu từ từ đứng lên nói:
- Mộ Dung công tử! Lão phu mời công tử một chén này!
Lão vừa nói vừa đi lại trước mặt Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục vừa ngó vào thấy trong chén rượu trắng có ẩn hiện ánh sáng xanh lè, rõ ràng có pha thuốc kịch độc. Chàng ngó lại thì không còn cách nào để tránh được nữa.
Ðinh Xuân Thu đi đến trước mặt Mộ Dung Phục chỉ còn cách một cái bàn bát tiên. Mộ Dung Phục liền hít mạnh một hơi. Rượu ở trong chén Ðinh Xuân Thu đang cầm đột nhiên bay lên thành một sợi dây nước xanh lè.
Ðinh Xuân Thu la thầm:
- Lợi hại quá!
Lão biết rằng đối phương hít hơi vào cho rượu vọt lên rồi lại thở ra để rượu bắn về phía mình. Tuy rượu bắn vào mình cũng chẳng có gì đáng ngại nhưng khắp người rượu ướt đầm đìa thật khó coi.
Nghĩ vậy lão vận nội lực nhắm vào dây rượu thổi mạnh.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú đã nhiều lần được thấy sư phụ đấu phép người, tỷ như cùng Tô Tinh Hà đấu nội lực. Nhưng hai bên đều huy động võ công thượng thừa để đẩy cây cột lửa, bên nào mạnh là thắng bên nào yếu là thua. Sự việc biến diễn rõ ràng trước mắt.
Lần này chỉ thấy một dây lửa xanh biếc từ trong chén rượu bay lên, chúng biết là sư phụ lại cùng đối phương tỉ thí công lực. Gã nào cũng đều nghĩ đến những câu tán tụng mới mẻ để tâng bốc sư phụ lên.
Không ngờ Ðinh Xuân Thu phóng nội lực ra mà Mộ Dung Phục không chống lại. Dây lửa cứ tiến thẳng đến trước mặt y.
Bọn đệ tử đều ồ lên một tiếng. Chúng không ngờ sư phụ lại thắng đối phương một cách dễ dàng đến thế! Ðầu óc chúng không được linh mẫn mà Ðinh Xuân Thu lại thắng địch quá mau chóng khiến chúng không kịp nghĩ ra câu gì tán tụng hay ho. Trong đầu óc chúng chỉ lảng vảng những danh từ cũ mèm như: "Võ công cái thế", thiên hạ vô song... đều không ăn nhập gì đến diễn biến này.
A Tử lúc đầu đã tưởng sư phụ mình gặp phải tay kình địch, lòng này đương vui mừng mừng thầm, nàng tạm tìm dịp để thoát thân. Nàng không ngờ đối phương không chịu nổi một đòn, đâm ra thất vọng.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú vừa há miệng ra sắp reo hò thì dây lửa đã lại gần đến mũi Mộ Dung Phục chỉ còn cách độ nửa thước.
Ðột nhiên dây lửa đi chênh chếch về mé tả thành vòng đường hình cung vọt qua bên mé đầu Mộ Dung Phục ra phía sau mau lẹ vô cùng, chui ngay vào trong miệng một tên đệ tử phái Tinh Tú.
Nguyên tên này đã há miệng ra sắp reo hò nhưng chưa kịp lên tiếng thì dây lửa ở chén rượu độc đã bắn vọt vào miệng gã rồi chui xuống bụng.
Dây lửa đi lẹ quá, gã đang cao hứng bật lên một tiếng:
- Tuyệt quá!
Rồi gã mới giật mình phát giác ra kêu lên:
- Chết rồi!
Gã ngã gục ngay xuống đất, mặt mũi chân tay gã chỉ trong chớp mắt đã nát ra rồi quần áo cũng bị cháy sạch, chỉ còn lại một đống xương trắng.
Mộ Dung Phục thấy thuốc độc ghê gớm như vậy không khỏi rùng mình, la thầm:
- Mình bôn tẩu giang hồ bấy lâu, mà chưa từng thấy chất độc nào ghê gớm thế này mà cũng chưa thấy ai có hành động bá đạo như vậy.
Cuộc tỉ đấu giữa hai người chưa rõ ai cao, ai thấp, mà phái Tinh Tú đã chết luôn mất ba tên đệ tử. Như vậy cũng đã hơi rõ phần thắng về ai rồi.
Ðinh Xuân Thu căm hận vô cùng. Lão đặt chén rượu xuống bàn rồi phóng chưởng ra đánh Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục từng nghe tiếng Hoá công đại pháp của phái này đã lâu. Y gia tâm đề phòng rất cẩn thận. Vừa thấy Ðinh Xuân Thu phóng chưởng ra, liền lạng người đi một cái, tay phải phóng chưởng ra phản kích.
Ðinh Xuân Thu phóng liền ba chưởng veo véo, Mộ Dung Phục đều dùng thân pháp để né tránh không để cho tay lão chạm vào.
Hai người đánh nhau ra chiều mỗi lúc một mau. Trong quán rượu nhỏ bé bàn ghế ngổn ngang, lối đi chật hẹp, tiến thoái bất tiện. Hai người chỉ tiến lui ở khe những bàn ghế mà không một tiếng động. Quyền chưởng hai bên không chạm nhau, bàn ghế cũng không bị xô đẩy chút nào.
Bon đệ tử phái Tinh Tú thấy hai bên kịch đấu thì sợ hãi, đứng sát cả vào tường không dám trốn ra ngoài. Vì thế là phạm tội đại bất đối với sư phụ và sau việc này chúng tất bị nghiêm trị. Bọn chúng biết rõ tình thế nguy hiểm vô cùng, chỉ chạm phải một chút chưởng phong là có thể nguy hại đến tính mạng, trừ phi người chúng có thể biến thành tờ giấy mỏng để dán vào tường được, ngoài ra không còn cách nào nữa.
Mộ Dung Phục thủ nhiều công ít. Chưởng pháp của y tuy rất tinh, nhưng không dám đối chưởng thật sự với Ðinh Xuân Thu thành ra như người bị trói chân trói tay, lâm vào thế kém. Tinh Tú Lão Quái từng gặp đại địch, kinh nghiệm rất phong phú, nên lão vừa trao đổi mấy chiêu, đã biết ngay Mộ Dung Phục không dám đối chưởng thật sự. Rõ ra y sợ mắc phải Hoá công đại pháp của mình.
Ðinh Xuân Thu thấy đối phương sợ tuyệt kỹ đó, liền dùng ngay yếu điểm này để áp chế y. Nhưng Mộ Dung Phục thân pháp kỳ diệu phóng chưởng vừa mau lẹ vừa khó đoán được phương hướng chiêu lực nên tuy muốn đối chưởng với y cũng không phải chuyện dễ.
Hai bên đấu thêm mấy chưởng nữa. Ðinh Xuân Thu quyết định đổi ý. Lão dùng tay phải tung hoành như vũ bão để uy hiếp đối phương, còn tay trái lão giả vờ sử dụng không được tinh nhuệ. Lão cố ý che đậy để Mộ Dung Phục khỏi khám phá ra.
Mộ Dung Phục là một tay võ học gia truyền nổi tiếng, đối phương có nhược điểm gì, lẽ nào y lại không nhìn ra? Y nghiêng người, quyền đi nửa vòng rồi đột nhiên phóng hai chưởng ra, uy thế cực kỳ mãnh liệt nhằm đánh vào cạnh sườn bên tả Ðinh Xuân Thu.
Ðinh Xuân Thu khẽ rú lên một tiếng, lùi lại môt bước, nhưng không dám đưa tay trái ra đón chiêu.
Mộ Dung Phục tự hỏi:
- Không hiểu ngực và cạnh sườn bên tả lão quái này đã bị nội thương gì?
Tuy thế công y nhằm vào mé hữu mà thực ra y lại vận dụng nội công để cốt đánh vào mé tả.
Hai bên đấu hơn hai chục chiêu nữa. Ðinh Xuân Thu rút tay trái về thủ vào trong tay áo. Chưởng bên phải đổi thành thế trảo nhằm chụp xuống Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục nghiêng người lách qua phóng quyền đánh thẳng vào cạnh sườn mé tả.
Ðinh Xuân Thu lúc này chỉ chờ có vậy, thấy đối phương quả nhiên đánh đến, bất giác trong bụng mừng thầm.
Bỗng nghe tay áo lão nổi gió lên vù vù. Ðinh Xuân Thu đã phất tay áo bên trái để cuốn lấy tay phải bên địch.
Mộ Dung Phục lẩm bẩm:
- Dù tụ phong của ngươi có lợi hại gấp mười đã làm gì nổi ta?
Thôi quyền chàng phóng ra không chịu thu về, chỉ vận thêm kình lực vào cánh tay để tiếp nhận tay áo đối phương.
Bỗng nghe đánh soạt một tiếng. Tay áo bên phải Mộ Dung Phục bị tụ phong của Ðinh Xuân Thu đánh rách toạc một miếng, hở cả da thịt trắng nõ ra. Da cánh tay trên đỏ ửng.
Nguyên tụ phong của Ðinh Xuân Thu ác liệt vô cùng, cứng như thanh sắt đập vào cổ tay Mộ Dung Phục. Nếu chàng không vận thêm công lực đẻ đề phòng thì cánh tay này đã thành tàn phế rồi.
Mộ Dung Phục trong lòng kinh hãi, thoi quyền đang đánh ra rất ác liệt, đột nhiên đầu quyền bị giật một cái đã bị bàn tay Ðinh Xuân Thu nắm được.
Chiêu thức này đã ra ngoài sự ước đoán của Mộ Dung Phục. Y biết ngay là lão giả vờ bị thương mé tả để làm kế dụ địch, nên mình mắc mưu lão.
Lúc này nếu y vận động chân khí thì kình lực về thì thuốc độc trong người Ðinh Xuân Thu sẽ thừa cơ theo đường nội lực thu về mà thấm vào trong thân thể y.
Lúc này thật nguy hiểm vô cùng. Mộ Dung Phục có ý hối hận nghĩ thầm:
- Mình tự cao tự đại coi Tinh Tú Lão Quái không vào đâu, không chịu trù liệu kế hoạch vẹn toàn từ trước, một mình mạo hiểm khiêu chiến với lão.
Mộ Dung Phục đã lâm vào tình trạng muốn thôi cũng không được nữa, y liền vận dụng nội lực toàn thân phóng ra đầu quyền đầy sức mạnh.
Bàn tay Ðinh Xuân Thu rất lớn nắm trọn được cả đầu quyền Mộ Dung Phục vào lòng bàn tay, nhưng đối phương phản ứng mau lẹ phi thường, lão cảm thấy toàn thân run bắn lên, các huyệt mạch đều căng cứng. Cánh tay bên tả ngâm ngẩm đâu, xem chừng không nắm chặt được quyền của đối phương.
Ðinh Xuân Thu đã vận Hoá công đại pháp cần ơhải được chạm vào thân thể đối phương. Nhưng nếu nội lực mình kém đi tất bị nội lực đối phương đẩy ra thì công lực không hóa vào đâu được. Trong lúc lão sợ hãi, lập tức vận thêm kình lực và việc đầu tiên là phải tóm chặt được đầu quyền của đối phương. Nhưng lúc này Mộ Dung Phục nội lực gia tăng rất nhiều và đã giựt được tay ra rồi.
Nên biết rằng Ðinh Xuân Thu trước đây đã dùng Hoá công đại pháp để đối phó với Huyền Nạn đại sư. Kể về nội lực thì Huyền Nạn cũng chẳng kém gì Mộ Dung Phục. Nhưng Huyền Nạn đối song song với Ðinh Xuân Thu, chưởng lực nhà sư mạnh bao nhiêu thì chưởng lực của lão quái cũng tăng lên bấy nhiêu. Lúc lão phóng chiêu, hai tay lão liền chặt với nhau nên thủ thắng được.
Bây giờ lão dùng bàn tay nắm lấy đầu quyền Mộ Dung Phục thì chỉ có sức ép một bên, nên Mộ Dung Phục giựt mạnh một cái Ðinh Xuân Thu không thể giữ chặt được nữa, phải buông ra.
Quyền chưởng hai bên vừa rời nhau trong chớp mắt, bàn tay Ðinh Xuân Thu vừa bị hất ra, lại nắm ngay được đầu quyền đối phương.
Mộ Dung Phục hừ lên một tiếng lại vận nội kinh. Nhưng lần này nội kinh vừa vận ra đã cảm thấy chìm xuống đáy biển, không hiểu tiêu tan đi đâu mất hết.
Mộ Dung Phục ngấm ngầm kêu lên một tiếng: "Úi chao!"
Trước khi y đến gây sự với Ðinh Xuân Thu đã định bụng phải làm cách nào không để cho Hoá công đại pháp của lão chạm vào mình được. Nhưng lúc lâm sự lại không tránh khỏi.
Lúc này Mộ Dung Phục ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu tiếp tục vận nội kình để kháng cự, thì dù nội lực có mạnh đến đâu đi nữa cũng bị hóa tán đi và như thế thì chỉ trong khoảnh khắc, bao nhiêu công lực mất hết thành ra phế nhân.
Nếu dùng phép Bảo nguyên thủ nhất thu nội lực về thì Ðinh Xuân Thu lại là một tay dùng thuốc độc ghê gớm. Thuốc độc của lão không ai biết đâu mà lường được, nó vẫn có thể theo đường chân khí rút về mà luồn vào người rồi xâm nhập đến tạng phủ. Rút cục vẫn không chống cự lại được.
Mộ Dung Phục đang ở vào tình thế nguy ngập, vô kế khả thi. Bỗng sau lưng y có người lớn tiếng nói:
- Sư phụ khéo xếp đặt cơ mưu khiến cho thằng lỏi này bị hãm vào tuyệt địa.
Mộ Dung Phục vừa xoay tay trái vừa lùi về phía sau hai bước. Chàng không quay đầu lại chỉ nghe tiếng nói, mà thò tay ra nắm trúng ngực tên đệ tử phái Tinh Tú.
Cô Tô Mộ Dung có phép cầm nã tuyệt diệu. Ðó cũng là một kỹ thuật mượn sức người để đánh người và kêu bằng Ðẩu chuyển tinh di
Người ngoài không biết rõ ngọn ngành nên cho cái lối gậy ông đập lưng ông của nhà Mộ Dung là thần diệu khôn lường. Bao nhiêu những tuyệt kỹ các môn phái khắp thiên hạ nhà Mộ Dung ở Cô Tô không sót một môn nào mà lại hiểu biết một cách rất sâu xa. Khi nào muốn hạ sát ai lại dùng môn tuyệt kỹ nổi tiếng của người đó để hạ sát.
Thực ra những môn tuyệt kỹ trong các phái võ khắp thiên hạ kể có hàng ngàn hàng vạn thì dù Mộ Dung có thông minh đến đâu cũng không thể học hỏi hết được. Huống chi đã là một môn tuyệt kỹ thì đâu phải một sớm một chiều mà thành. Ðúng ra nhà Mộ Dung chỉ có thuật Ðẩu chuyển tinh di là xảo diệu vô cùng. Bất luận đối phương thi triển tuyệt kỹ nào, nhà này cũng chuyển phương hướng để phản kích vào chính những người đã ra chiêu.
Tỷ như người giỏi chiêu Toả hầu Thương phóng thương đâm vào yết hầu nhà Mộ Dung thì y lại dùng thuật Ðẩu chuyển tinh di khiến mũi thương quay trở lại đâm vào cổ mình.
Người nào giỏi về Ðoạn tỵ đao đao phóng ra lại đi đến kết quả tự chém đứt cánh tay mình. Cũng binh khí ấy cùng chiêu thức ây, nhưng mắt không trông thấy nhà Mộ Dung dùng thuật đẩu chuyển tinh di nên không ai đoán được là chính người đó lại mất mạng về chiêu thức của mình, mà thực ra là họ đã tự sát.
Người ra tay võ công càng cao thâm thì cái chết lại càng ly kỳ.
Có điều nhà Mộ Dung Phục nếu không lấy một chọi một hay không nắm được phần thắng đối phương thì không bao giờ dùng đến thuật Ðẩu chuyển tinh di cả. Nhà Mộ Dung ở Cô Tô sở dĩ tiếng tăm vang lừng khắp giang hồ thực ra là nhờ ở Ðẩu chuyển tinh di mà không ai biết đến.
Có điều thuật Ðẩu chuyển tinh di nếu áp dụng vào việc di chuyển phương hướng những vật hữu hình như khí giới quyền cước thì còn dễ, chứ đến di chuyển những thứ vô hình như nội lực, khí công thì thật là khó.
Mộ Dung Phục tuy đã luyện thuật này lâu năm mà vẫn chưa đạt đến mức cao siêu tột độ. Y phải gặp Ðinh Xuân Thu là tay cao thủ vào bậc nhất, tự biết mình không thể dùng phép Ðẩu chuyển tinh di để quay lại hại chính mình đối phương được. Nên bao lần chàng đã thi triển thuật Ðẩu chuyển tinh di mà kẻ chịu thất bại là những đệ tử phái Tinh Tú. Cách di chuyển của chàng chỉ sang được người thứ ba.
Ðinh Xuân Thu ngấm ngầm dùng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán quăng chén để tung hơi độc và phóng tia rượu độc, lần nào Mộ Dung Phục cũng đổi được kẻ chết thay cho mình một cách dễ dàng. Bây giờ Ðinh Xuân Thu dùng Hoá công đại pháp, Mộ Dung Phục không còn cách nào di chuyển được thì vừa gặp lúc một tên đệ tử phái Tinh Tú muốn tâng công sư phụ há miệng đứng hô ở ngay bên y.
Mộ Dung Phục trong lúc cấp bách, không kịp nghĩ nhiều, liền nắm ngay lấy tên này để thay thế cho mình. Cuộc mạo hiểm này chàng thật không ngờ cũng phát sinh hiệu lực.
Bản ý Tinh Tú Lão Quái là hóa giải công lực của Mộ Dung Phục nhưng ngờ đâu lại hóa giải công lực của tên đệ tử của mình.
Mộ Dung Phục khác nào người được cải tử hoàn sinh. Y thấy cuộc thử thách của mình thành công, dĩ nhiên nắm lấy dịp quyết không để Ðinh Xuân Thu kịp suy nghĩ. Y liền đẩy tên đệ tử này cho người gã chạm vào mình một tên đệ tử khác.
Tên đệ tử thứ hai công lực cũng bị hóa giải vì phép hóa công đại pháp của Ðinh Xuân Thu.
Ðinh Xuân Thu thấy mình nắm được đầu quyền của Mộ Dung Phục mà lại thấy y dùng lối mượn sức người để đánh người làm hại đệ tử của mình lão căm hận vô cùng. Nhưng lão nghĩ rằng:
- Nếu mình muốn bảo toàn sinh mạng cho mấy tên đệ tử vô dụng này mà buông tha đối phương thì không biết bao giờ nắm lại được dịp này nữa. Thực là thiên nan vạn nan. Thằng lỏi này mà chạy thoát thì mình bị thiệt những năm tên đệ tử mà chỉ vớ được nửa cái tay áo của hắn. Thế là phái Tinh Tú đại bại rồi. Tinh Tú lão tiên còn có mặt mũi nào để diễu võ dương oai ở Trung Nguyên nữa?
Nghĩ vậy lão quyết định không buông đầu quyền Mộ Dung Phục ra. Mộ Dung Phục lại lùi mấy bước để dính tên đệ tử này vào tên đệ tử khác cho Ðinh Xuân Thu hóa giải công lực.
Chỉ trong khoảnh khắc ba tên đệ tử phái Tinh Tú đã bị kiệt quệ chân khí, khác nào như người bị ma quỷ hút máu, thân thể khô kiệt tinh huyết, dính vào với nhau không sao gỡ ra được. Những tên đồ đệ kia thấy vậy cả kinh, lại thấy Mộ Dung Phục lùi dần về phía mình bất giác chúng đều thất thanh la hoảng.
-
Hồi 69 - Dùng Hoá Công Đệ Tử Bị Tai Ương - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 69 - Dùng Hoá Công Đệ Tử Bị Tai Ương
Mộ Dung Phục rung tay một cái, ba tên đệ tử phái Tinh Tú dính liền vào nhau hất tung lên lại trúng vào một tên khác. Tên này la hoảng chưa dứt lời thì người đã mềm nhũn ra. Thế là bốn người dính liền nhau như một xâu cá.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú chưa bị dính vào đều nhìn ra, chỉ mong Ðinh Xuân Thu buông tha Mộ Dung Phục. Bấy nhiêu tên đều bị Mộ Dung Phục mượn sức người để hại người. Cô lực của chúng đều bị Ðinh Xuân Thu hoá tán hết.
Ðinh Xuân Thu thi triển Hoá công đại pháp thần kinh quỷ khốc, nhưng những người bị hại toàn là đệ tử phái Tinh Tú. Những gã này ngày thường rất khéo xu nịnh sư phụ mà bây giờ lại bị phép Hoá công đại pháp của sư phụ làm tiêu tan nội lực.
Những tên còn ở ngoài chỉ lo đến lượt mình bị nạn, nhưng chúng chỉ khiếp sợ chứ không dám chạy ra ngoài cửa, mà chỉ quanh quẩn ở trong phạn điếm, chạy lui chạy tới né tránh để khỏi mắc vào độc thủ.
Căn nhà nhỏ hẹp, Mộ Dung Phục cứ vung tay một cái là lại chạm vào một tên đệ tử phái Tinh Tú.
Mới trong chớp mắt mà số người bị dính liền vào nhau đã lên tới bảy tám tên.
Mộ Dung Phục trong tay bây giờ đã cầm cây khí giới người vừa lớn vừa dài như vậy, mà muốn tìm kẻ chết thay cho mình thật dễ như chơi.
Lúc này xem chừng Mộ Dung Phục đã chiếm được thượng phong, nhưng trong lòng y vẫn chưa hết lo ngại, vì bọn đệ tử phái Tinh Tú nhiều thật nhưng dùng mãi cũng phải hết. Ðến lúc bọn chúng hết thảy đều bị Ðinh Xuân Thu hoá giải công lực rồi thì mình biết thi triển cái lối gậy ông đập lưng ông vào đâu được? Y luôn luôn phát động nội lực mong thoát khỏi tay Ðinh Xuân Thu.
Ðinh Xuân Thu thấy bọn môn đồ mình cứ từng tên một dính mãi vào, chẳng khác gì một cành liễu xâu đàn cá.
Bấy giờ những tên còn ở ngoài vòng chẳng ai hoan hô Ðinh Xuân Thu nữa mà chỉ lo tìm đường né tránh.
Ðinh Xuân Thu vừa hổ thẹn vừa căm tức, trong lòng nhất quyết nắm giữ đầu quyền Mộ Dung Phục không buông.
Lão nghĩ thầm:
- Dù có mất hết lũ đệ tử vô dụng này cũng đành. Mình chỉ cần tước hết công lực của Mộ Dung Phục tức là Tinh Tú Lão tiên thắng được Cô Tô Mộ Dung và việc này sẽ chấn động thiên hạ.
Nghĩ vậy lão không ra chiều căm giận nữa, mà lại tỏ vẻ rất ung dung.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú chỉ mong sư phụ ném chuột sợ vỡ đồ, buông tha Mộ Dung Phục để bọn chúng khỏi chết oan.
Bây giờ thấy Ðinh Xuân Thu vẻ mặt vẫn thản nhiên thì biết rằng không còn hy vọng gì nữa. Gã nào cũng la ó rầm trời, nhưng không gã nào dám chạy trốn hoặc van xin Ðinh Xuân Thu buông tha Mộ Dung Phục ra.
Ðinh Xuân Thu liếc mắt nhìn quanh một lượt thì trong bọn đệ tử chỉ có hai gã là không lẩn tránh.
Một là Du Thản Chi đang ngồi ủ rũ trong góc nhà, hai tay ôm lấy cái đầu sắt. Nhưng cứ trong tình hình thì dường như gã sợ hãi vô cùng mà cũng tựa như kẻ chán đời không cần trốn tránh.
Một tên nữa là A Tử, sắc mặt lợt lạt cũng ngồi co ro trong góc nhà bên này. Nàng không ngớt nhìn Mộ Dung Phục.
Ðinh Xuân Thu trong lòng căm tức cất tiếng gọi:
- A Tử!
A Tử đang mải nhìn những bạn đồng môn liên tiếp nhau bị nạn, còn Mộ Dung Phục tuy bị Ðinh Xuân Thu nắm giữ mà người y rất linh động, vẻ mặt ung dung, dường như chẳng coi Ðinh Xuân Thu vào đâu. Nàng đột nhiên nghe tiếng sư phụ gọi, ngơ ngác nhìn lão rồi nói:
- Sư phụ! Sư phụ đại triển thần oai...
Nàng chỉ nói được nửa câu rồi ngượng nghịu gượng cười không nói thêm được nữa.
Ðinh Xuân Thu lúc này quả nhiên đang thi triển thần oai, nhưng người bị hại lại toàn là đệ tử mình. A Tử dù có thông minh lanh lợi đến đâu tưởng muốn nói đôi lời ca tụng cũng khó thốt ra miệng được.
Ðinh Xuân Thu trầm giọng hỏi:
- Thế nào Tinh Tú lão tiên liệu có dương oai ở Trung Nguyên được không?
A Tử nghe lão hỏi vậy không khỏi toát mồ hôi ra. Nàng nghĩ rằng:
- Bây giờ mà không nói ra cho vừa lòng lão thì có khi lão không tìm Bích Ngọc vương đỉnh nữa, mà giết mình ngay.
Nghĩ vậy nàng liền đáp:
- Dĩ nhiên là có thể lắm! Gã Mộ Dung tiểu tử này đã bị sư phụ dùng làm cây khí giới sống mà gã chưa biết, mặt vẫn nhơn nhơn.
Mộ Dung Phục khẽ chuyển mình đi, huy động cánh tay. Trong lúc y đã dính một dãy hơn mười người nhất tề chuyển động nhằm A Tử quét vào.
A Tử thấy Mộ Dung Phục vẫy cây roi người để quất mình, bất giác cả kinh, vội đề khí nhảy sang bên né tránh.
Thuật Hoá công đại pháp của Ðinh Xuân Thu cực kỳ lợi hại. Mộ Dung Phục vung cây roi người không chạm được vào A Tử, lập tức y cảm thấy chân lực mình bị hút mất một ít, trong lòng y không khỏi kinh hãi. Y liền kiếm một tên đệ tử để thế mạng rồi hãy đuổi theo A Tử.
A Tử xám ngắt như con gà cắt tiết la lên:
- Sư phụ! Sư phụ có muốn nghe đệ tử nói hết lời không?
Ðinh Xuân Thu tay trái nắm đầu quyền Mộ Dung Phục, tay phải đưa lên vuốt râu nói:
- Ngươi thử nói!
A Tử vừa trốn tránh vừa kêu:
- Ðệ tử! Ðệ tử không trốn tránh được...
Ðinh Xuân Thu phất tay áo một cái một luồng kình phong mãnh liệt đẩy A Tử ra khỏi cây roi người thì nó lại chạm phải hai gã đệ tử khác.
Hai gã này cũng lập tức dính vào với bọn kia.
A Tử thở phào một cái rồi nói:
- Sư phụ! Gã tiểu tử Mộ Dung Phục vì ăn nói vô lễ mà sư phụ dùng gã làm khí giới. Ðồng thời sư phụ lại diệt trừ những tên đệ tử bất hảo để thanh trừng môn phái. Gã Mộ Dung Phục chỉ... là hạng hèn kém mà sư phụ lại là một bậc cao nhân có tài lệch đất nghiêng trời...
Ðinh Xuân Thu trong lòng đang căm hận A Tử, vừa nghe nàng nói bất giác cười ha hả.
Mộ Dung Phục lại vung tay đi, cả một xâu mười mấy người, khác nào một lũ say rượu, không tự chủ được, lảo đảo lướt về phía A Tử
A Tử người đã co rúm lại ngồi trong góc nhà, không còn đất tránh.
Ðinh Xuân Thu lại phất tay áo bên phải ra, nhưng chậm mất một chút. Gã đệ tử ở đầu roi người đã chạm vào A Tử.
A Tử kinh hãi vô cùng đành nhắm mắt chờ chết. Nàng nghe Mộ Dung Phục đang cười ha hả, độ nhiên gã đệ tử đầu dây ngã lăn ra đâm vào một tên đệ tử khác.
A Tử thoát chết, mồ hôi ra như tắm. Nàng ngẩng đầu trông ra thì thấy mặt Mộ Dung Phục thoáng lộ một nụ cười nói:
- Tiểu cô nương! Cô nói dễ nghe quá.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú cứ mất đi một người là bản thân Mộ Dung Phục lại tăng thêm một phần nguy hiểm. Tuy đứng trước một nguy cơ cấp bách, song y vẫn ung dung trấn tĩnh.
A Tử vừa hoàn hồn, nàng biết rằng Mộ Dung Phục không có ý hại mình, bất giác nàng nhìn y mỉm cười.
Ðinh Xuân Thu ngó thấy lửa giận lại bốc lên đùng đùng lớn tiếng quát hỏi:
- A Tử! Sao thằng lỏi Mộ Dung lại không hại mi?
A Tử run lên, biết rằng Ðinh Xuân Thu đã có ý nghi kỵ mình. Nàng cố gắng nghĩ ra một câu để nói lấy lòng Ðinh Xuân Thu mà nghĩ mãi không ra. Dù tâm cơ nàng linh mẫn đến đâu, trong lúc hốt hoảng cũng không biết đáp thế nào cho phải.
Ðinh Xuân Thu cười ha hả nói:
- Mi còn ở bên mình ta thì ta còn thấy vui lòng, ta không giết mi đâu.
A Tử vội nói:
- Xin đa tạ sư phụ.
Ðinh Xuân Thu lạnh lùng nói:
- Mi chớ mừng vội. Ta...
Lão chưa dứt lời đã phất tay áo một cái, đầu tay áo khác nào lưỡi kiếm nhằm trước mặt A Tử vung lại.
Lão ra tay rất mau, A Tử chỉ thấy một luồng gió mát lạnh qua mắt, đã thấy đau đớn đến ruột gan và mắt tối sầm lại. Hai bên má có hai dòng nước trông giống như nước mắt mà không phải nhỏ xuống.
Ðinh Xuân Thu phóng nội kình ra đầu tay áo và trong thời gian chớp nhoáng này đã đâm vào mắt A Tử.
Mộ Dung Phục thấy Ðinh Xuân Thu dơ tay áo lên quét vào mặt A Tử y biết ngay lão dùng thủ đoạn thâm độc. Tuy biết A Tử là môn hạ phái Tinh Tú, nhưng nàng dung nhan thoát tục, khác hẳn người thường nên trong lòng y đối với nàng rất thương xót. Y toan ra tay giải cứu, nhưng Ðinh Xuân Thu động thủ mau quá, không sao cứu kịp.
Lúc này A Tử đứng tựa vào tường. Mắt nàng vẫn tuôn ra hai dòng lệ như máu tươi.
Mộ Dung Phục tuy lăn lộn giang hồ, thấy nhiều hiểu rộng, nhưng y chưa từng thấy ai lại nhẫn tâm coi tính mạng đệ tử không vào đâu như Ðinh Xuân Thu. Trong lòng y kinh hãi vô cùng, chàng đứng ngẩn người một lát liền cảm thấy chân lực trong mình lại thoát ra ngoài.
Ðinh Xuân Thu ra tay làm mù mắt A Tử rồi nói:
- Ta để mi sống nhưng không cho mi nhìn thấy sự vật gì nữa để mi khỏi thay lòng đổi dạ đối với sư môn, mi đã biết chưa?
A Tử sắc mặt lợt lạt, người run lẩy bẩy không nói ra lời.
Ðinh Xuân Thu toan hỏi lại thì trong góc nhà đột nhiên vang lên một tiếng hú quái gở. Tiếp theo là một luồng hàn phong cực kỳ mãnh liệt quét tới.
Mọi người trong nhà không ai tự chủ được đều run lên bần bật.
Ðó chính là gã Du Thản Chi đang ngồi co ro trong góc nhà nhảy vọt ra bên mình A Tử. Gã đưa tay nắm lấy hai tay nàng rồi kéo chạy tuột ra ngoài.
Ðinh Xuân Thu lớn tiếng quát rồi nhắm Du Thản Chi phóng chưởng ra.
Du Thản Chi khi nào dám đối chưởng với Ðinh Xuân Thu, nhưng trong lúc cấp bách gã phải phóng chưởng ra, nhưng chẳng qua là để chưởng lực Ðinh Xuân Thu đánh xéo về phía gã khỏi đập vào A Tử mà thôi.
Ðinh Xuân Thu thấy Du Thản Chi dám phóng chưởng ra đỡ. Lão lại thét lớn và phóng phát chưởng ra rất mau, đồng thời bao nhiêu chất độc vẫn dự trữ sẵn cũng theo kình lực phóng ra. Hai chưởng chạm nhau. Du Thản Chi và A Tử đã bị hất tung ra.
Du Thản Chi thấy sắp va vào tường liền vung chưởng ra đẩy mạnh đánh sầm một tiếng. Tường thủng ra một lỗ hổng. Gã liền cắp A Tử chui vô lỗ hổng ra ngoài.
Ðinh Xuân Thu cũng bị hất lùi ba bước mới đứng vững được. Lão cảm thấy trước ngực rét lạnh và chưởng lực vừa phóng ra đã bị hoá giải không còn thấy tăm hơi chi nữa.
Mộ Dung Phục nhân lúc Ðinh Xuân Thu đối chưởng cùng Du Thản Chi, chàng lập tức vận kình giật mạnh một cái, đầu quyền thoát khỏi năm ngón tay lão. Người y lạng đi một cái lùi lại phía sau. Ðồng thời tay trái y thừa thế đẩy mạnh một cái khiến cho mười bảy mười tám gã đệ tử phái Tinh Tú nối tiếp nhau xô vào Ðinh Xuân Thu.
Ðinh Xuân Thu sau khi đối chưởng cùng Du Thản Chi, lão vẫn thấy một luồng nội lực tiết ra ngoài thân thể mau lẹ dị thường. Lão đã lộn ngược người xuống: đầu bên dưới, chân bên trên xoay đi mấy cái theo phép vận động của bản môn, mới giữ được nội lực không tiết ra nữa.
Giữa lúc gã sắp đảo ngược người thì mười bảy mười tám tên đệ tử ngã xổ tới nên không ra tay ngăn chặn được.
Những tiếng binh binh liên tiếp vang lên. Bọn đệ tử phái Tinh Tú va vào người Ðinh Xuân Thu rồi từng gã một bị hất văng lại, không gẫy chân gẫy tay thì cũng vỡ đầu phọt óc.
Bấy nhiêu tên bị Mộ Dung Phục dùng làm vật hy sinh thay cho mình, nội lực chúng đều bị phép Hoá công đại pháp của Ðinh Xuân Thu hoá giải, mất hết võ công thành ra phế nhân, tuy chưa đến nỗi chết ngay nhưng cũng không một tên nào có thể bảo toàn được tính mạng.
Ðinh Xuân Thu giận như điên, thét một tiếng thật to, đảo người lại. Râu tóc lão dựng cả lên, sắc mặt lợt lạt. Tướng mạo lão trông rất hung dữ. Bọn đệ tử của lão chết mất quá nửa, mà Mộ Dung Phục chẳng tồn tại tí gì. Du Thản Chi lại cứu A Tử đem đi mất. Tinh Tú lão tiên bị vố liểng xiểng này há chẳng để bọn võ lâm cười cho mất mặt?
Ðinh Xuân Thu bình sinh là người vẫn ưa nghe lời phỉnh nịnh, dĩ nhiên lão là hạng người rất thích vẻ vang, không những cho những sự xấu xa của mình đồn đại ra ngoài.
Bữa trước ở địa giới tỉnh Hà Nam, phái Tinh Tú đã bị khốn đốn vì bọn Hồ tăng nước Thiên Trúc đuổi rắn độc ra uy hiếp. Khi đó Du Thản Chi phóng hoả đốt rắn cứu bọn họ thoát ra khỏi hiểm nghèo. Ðinh Xuân Thu lập tức sai Du Thản Chi những xác chết bọn Hồ tăng là có ý muốn đưa gã vào đất chết để bịt miệng gã khỏi tiếng đồn xấu ra ngoài. Giả tỷ trong người Du Thản Chi không chứa sẵn chất kỳ độc của con Băng Tằm thì gã đã mất mạng rồi.
Lúc này Ðinh Xuân Thu thấy Mộ Dung Phục đứng bên đang nhìn những thi thể tàn tạ dưới đất, trên mặt y lại thoáng lộ một nụ cười khó hiểu. Lão biết rằng nếu để Mộ Dung Phục rời khỏi nơi đây thì oai danh Tinh Tú lão tiên sẽ bị thương tổn nặng nề.
Lão nhìn Mộ Dung Phục bằng đôi mắt căm hờn đồng thời ngấm ngầm dùng nội lực âm nhu phóng ba thứ phấn kịch độc vô cùng ra.
Bẩy tám tên đệ tử còn sống sót thấy vẻ mặt sư phụ căm phẫn lại thi nhau buông ra lời tán tụng. Có kẻ nói:
- Tinh Tú lão tiên đâu phải người thường! Gã tiểu tử Mộ Dung Phục kia sao không trốn mau đi?
Có kẻ nói:
- Thằng lỏi Mộ Dung Phục! Mi không chạy ngay đi. Tinh Tú lão tiên mà giận lên thì không mở đường cho mi chạy thoát đâu và nhà Mộ Dung ở Cô Tô sẽ bị tuyệt tự!
Có kẻ hỏi:
- Mộ Dung Phục! Sao mi chưa cắp đuôi trốn chạy?
Thực ra bọn đệ tử này cũng biết hôm nay phái Tinh Tú một mặt chẳng còn gì đáng khoa trương nữa. Sở dĩ chúng quay ra thét mắng Mộ Dung Phục là chỉ mong cho y dời khỏi nơi đây. Y còn đứng lại lúc nào là còn nguy hiểm lúc ấy. Vạn nhất mà Ðinh Xuân Thu lại nắm được đầu quyền, sự việc vừa rồi lại tái diễn thì tính mạng chúng khó lòng bảo toàn được.
Mộ Dung Phục chỉ tủm tỉm cười chứ không nói gì.
Ðinh Xuân Thu nhắm Mộ Dung Phục ngấm ngầm tung ra ba thứ thuốc độc. Mộ Dung Phục vẫn không tỏ vẻ cử động gì mà thuốc độc lại chuyển sang bọn đệ tử phái Tinh Tú.
Bỗng nghe thấy những tiếng úi chao, mấy tên mở miệng thoá mạ Mộ Dung Phục đều bị mắc vạ một cách rất kỳ dị. Bọn đệ tử chưa bị sao muốn ca tụng sư phụ cũng không biết nói thế nào được, chỉ đứng ngây người ra.
Ðinh Xuân Thu thấy bọn đệ tử câm miệng lại càng tức giận. Lão buông một tiếng cười quái dị hỏi:
- Mộ Dung Phục! Chúng ta chưa phân cao thấp, sao ngươi đã dừng tay?
Mộ Dung Phục toan trả lời thì đột nhiên nhìn đằng xa thấy một cái bàn vuông từ từ bay lên.
Trong phạm điếm lúc bọn đệ tử Tinh Tú đánh đòn đã xô đẩy bàn ghế xiêu vẹo gãy nát ngổn ngang, chỉ còn một chiếc bàn vuông trong góc là chưa ai động đến, lúc này đột nhiên cũng bay lên không. Thực là một sự quái dị, khiến cho ai nấy đều đổ dồn cặp mắt nhìn vào biến diễn này.
Mộ Dung Phục thấy vậy bật lên tiếng cười trước tiên.
Nguyên dưới gậm bàn này có một người ẩn núp. Ai cũng tưởng người này lúc trước sợ hãi quá phải ẩn vào đó. Bây giờ gã đứng lên quên mất chưa chui ra, cứ đội cái bàn lên đầu.
Người này chân đứng thẳng, hai mắt nhắm nghiền, hai tay chắp để trước ngực. Người y vẫn run bần bật không ngớt. Miệng y niệm:
- A di đà Phật! Tội nghiệp! Thôi đừng đánh nhau nữa!
Người đó chính là Hư Trúc hoà thượng.
Ðinh Xuân Thu thấy ngoài Mộ Dung Phục ra lại còn một người khác thì trong lòng càng căm giận quát lên:
- Gã trọc kia! Ngươi nấp vào đó tự bao giờ?
Nguyên Hư Trúc vẫn ở dưới gậm bàn chưa ra khỏi. Bình sinh nhà sư chưa từng được coi cuộc chiến đấu nào. Ngay lúc luyện công với đồng môn cũng không đánh nhau và chưa thấy cảnh thịt nát máu rơi. Y là đệ tử nhà Phật, lòng dạ từ bi, thấy bọn đệ tử phái Tinh Tú chết quay ra, không khỏi đem lòng ái ngại. Tiếp theo y lại thấy người Thiếu niên công tử bị quạt mù mắt, y càng run lên cầm cập, miệng không ngớt niệm Phật.
Bản tâm nhà sư là đình chờ cho Ðinh Xuân Thu đi khỏi mới ló mặt ra. Nhưng lúc này nghe Ðinh Xuân Thu cùng Mộ Dung Phục lại động thủ đến nơi liền vội đứng lên khoát tay ngăn cản lại thì nghe Ðinh Xuân Thu lớn tiếng quát, nhà sư mới biết rằng hỏng rồi, biến sắc nói:
- Bần tăng... ở đây đã lâu rồi...
Ðinh Xuân Thu khẽ vung tay áo lên, một luồng kình phong nhỏ bay về phía Hư Trúc.
Luồng kình phong đi rất mau. Mộ Dung Phục muốn cứu Hư Trúc song không kịp nữa. Chàng nghĩ bụng:
- Nhà sư nhỏ này tất bị nguy mất!
Hư Trúc bị Ðinh Xuân Thu phát chưởng đánh vào cạnh sườn. Người y run lên một cái, nhưng không thương tổn chút nào.
Nhà sư quay lại nhìn Ðinh Xuân Thu thấy bộ mặt lão thật là khủng khiếp. Y sợ quá cứ để cái bàn trên đầu chạy ra ngoài.
Ðinh Xuân Thu phóng chưởng ra tới tấp khiến cho cái bàn vỡ ra tan tành.
Hư Trúc vẫn trông về phía trước chạy ra ngoài.
Ðinh Xuân Thu quát lên:
- Ðứng lại!
Hư Trúc nào chịu nghe cứ đi thẳng.
Một gã đệ tử phái Tinh Tú chạy tạt ngang ra phóng năm ngón tay như lưỡi câu chụp xuống vai Hư Trúc, miệng lớn tiếng quát:
- Tinh Tú lão tiên kêu ngươi quay lại, sao ngươi còn dám...
Hư Trúc cảm thấy trên vai có luồng gió quạt vào mát rượi, vội co vai lại. Gã đệ tử phái Tinh Tú chụp xuống cảm thấy vai Hư Trúc phóng ra một luồng kình lực phản ứng rất mãnh liệt. Gã nói chưa hết thì người đã bị văng ra trúng vào Ðinh Xuân Thu.
Ðinh Xuân Thu đưa tay ra nắm lấy gáy tên đệ tử phái Tinh Tú, lo nghĩ thầm:
- Gã tiểu hoà thượng này thật là cổ quái, nhưng y có bay lên trời cũng không thoát được. Hiện giờ phải đối phó với Mộ Dung Phục nhiều hơn.
Nghĩ vậy lão nắm tên đệ tử liệng về phía Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục thấy tên đệ tử vừa bị Ðinh Xuân Thu nắm lấy, sắc mặt gã đã xám ngắt, mắt ứa máu ra rõ ràng lão chuẩn bị ném gã về phía mình, tất hẳn có ác ý gì đây.
Y mới nghĩ vậy nhưng người không nhúc nhích chỉ khẽ dơ bàn tay ra về phía trước.
Một luồng kình lực rất hùng hậu phóng ra ngăn cản xác chết tên đệ tử phái Tinh Tú lại.
Tên này tuy đã chết rồi, nhưng người đang lơ lửng trên không thì bị hai sức mạnh đè ép, cứ đứng nguyên chỗ trông rất kỳ lạ.
Ðinh Xuân Thu quát lên hai tiếng. Ðột nhiên hai tay gã đệ tử này bị gãy rời vang đi nhằm chụp mặt Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục không dám coi thường, hít luồng hơi vào rồi thở mạnh ra.
Hai cánh tay bị gẫy lại quay lộn ngược trở lại. Phát chưởng ở tay gãy phóng ra không trung đánh véo một tiếng, rồi văng đi trúng vào người hai tên đệ tử phái Tinh Tú hãy còn sống sót.
Hai gã đệ tử này thốt nhiên ôm bụng cười rộ như người điên. Tiếng cười mỗi lúc một to. Rồi sau tiếng cười ngưng lại mà hai gã vẫn ôm bụng đứng đờ ra trông chẳng khác gì quỷ nhập tràng.
-
Hồi 70 - Tủi Phần Mình Ðoàn Dự Bỏ Đi - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 70 - Tủi Phần Mình Ðoàn Dự Bỏ Đi
Ðinh Xuân Thu đã tưởng mình tài tình hóa ra lại hỏng. Thuật "Hóa công đại pháp" của lão chẳng làm gì được Mộ Phục mà lại hại đến bao nhiêu đệ tử của mình. Lão thấy thây đệ tử mình nằm chết ngổn ngang mà Mộ Dung Phục lại không thương tổn chút nào thì lão căm tức không biết đến đâu mà kể. Lão xám mặt lại bật lên tiếng cười lạt, phất tay áo rộng thùng thình. Người lão chuyển sang mé bên. Chưởng lực của lão vừa rung động thì mấy tên đệ tử chết đứng cũng lăn ra nốt. Mộ Dung Phục chuyển mình một cái, đột nhiên đã trở ra khỏi phạn điếm.
Ðinh Xuân Thu quát lên:
- Ngươi chạy đi đâu?
Lão vừa quát vừa nhảy xổ ra ngoài cửa.
Trong điếm mấy tên đệ tử còn sống sót lại lên tiếng ca tụng:
- Tinh Tú lão quái quả nhiên có tài lệch đất nghiêng trời, đánh cho Cô Tô Mộ Dung phải ôm đầu chạy trốn.
Mấy câu ca tụng này cũng thất là miễn cưỡng. Chính Ðinh Xuân Thu cũng cảm thấy vô vị. Lão ra ngoài cửa phạn điếm thấy Mộ Dung Phục vẫn còn đứng cách ngoài hai trượng. Vạt áo vàng rung động, coi phong độ cực kỳ nhàn nhã.
Ðinh Xuân Thu tức giận quát lên:
- Thằng lỏi kia đừng chạy nữa!
Mộ Dung Phục lạnh lùng đáp:
- Ta có thèm chạy đâu? Ðinh Xuân Thu toan nhảy xổ ra, bầng thấy một chàng thiếu niên từ đâu chạy vào, miệng lẩm bẩm nói gì không rõ. Mộ Phục đã trông thấy từ đằng xa, thì ra là một chàng công tử tuấn tú. Y chính là Ðoàn Dự.
Mộ Dung Phục trông thấy Ðoàn Dự, song chàng mải nghĩ gì, tựa như không nhìn thấy y, cứ cắm đầu cắm cổ đi xồng xộc vào phía Ðinh Xuân Thu.
Mộ Dung Phục tuy chưa quen biết Ðoàn Dự, nhưng bữa trước chàng ngồi bên xem đánh cờ đã ra chiêu Lục mạch thần kiếm để hất thanh trường kiếm ở trong tay y rớt xuống, rồi từ đó y có cảm tình với chàng.
Mộ Dung Phục nghĩ thầm:
- Nếu Ðoàn Dự cứ đi bừa vào trước mặt Ðinh Xuân Thu mà hắn lại đang cơn tức giận thì không khéo chàng bị hại mất.
Y thấy Ðoàn Dự dường như mê mải tâm thần không biết gì, liền thức tỉnh chàng, cất tiếng gọi to:
- Ðoàn công tử! Phải cẩn thận đó!
Ðoàn Dự như người đang mơ mộng bừng tỉnh, đột nhiên đứng lại. Chàng ngẩng đầu nhìn về phía trước thì thấy Ðinh Xuân Thu vẻ mặt hung dữ chỉ còn cách mình năm sáu thước. Chàng giật mình kinh hãi, vội lùi lại phía sau. Chàng trỏ vào mặt Ðinh Xuân Thu líu lưỡi:
- Ngươi... ngươi...
Tay chàng dơ ra trỏ, vì trong lòng chàng kinh hãi quá mà phát sinh phản ứng tự nhiên, nội lực vận dụng đúng chổ.
Bỗng nghe mấy tiếng"veo véo"của kiếm khí Lục mạch thần kiếm bắn ra.
Ðinh Xuân Thu vội dơ tay phải lên, bỗng nghe đánh"roạc"một tiếng.
Tay áo lão thủng ra một lổ. Dư thế của Lục mạch thần kiếm vẫn còn mãnh liệt phóng tới làm bật lên một tiếng"choang".
Ðinh Xuân Thu phải lùi lại một bước, một cái bình đồng ở trong bọc lão lõm vào một chầu rớt xuống.
Chiêu Lục mạch thần kiếm của Ðoàn Dự đã phóng trúng vào chiếc bình đồng, nên Tinh Tú lão quái mới thoát chết.
Mộ Dung Phục thấy thế reo lên:
- Chiêu Lục mạch thần kiếm thật là tuyệt diệu!
Ðoàn Dự toát mồ hôi ra. Chàng tuyệt không có ý phóng Lục mạch thần kiếm mà chiêu số tự nhiên vọt ra.
Trong binh pháp đã nói: Biết mình biết người, trăm trận đánh thắng cả trăm.
Ðoàn Dự chẳng những không biết người mà ngay chính mình ra chiêu cũng không nắm vững, thế là chàng chẳng biết người mà cũng không biết người, trách nào chàng chẳng kinh hãi cuống cuồng?
Ðinh Xuân Thu nhờ chiếc bình đồng hộ thân, may mà thoát chết nhưng trong bụng vẫn ngấm ngầm đau.
Lão tức giận vô cùng, lớn tiếng quát hỏi:
- Mi có biết đã đắc tội với Tinh Tú tiên sinh thì sẽ bị xử tử thế nào không?
Ðoàn Dự khoát tay lia lịa nói:
- Lão tiên sinh đừng nói rỡn. Ðức Khổng Tử đã dạy rằng: "Sống còn chẳng biết thì biết chết thế nào được!" Tiền bối hỏi vậy thì vãn sinh biết đáp thế nào?
Ðinh Xuân Thu trong lòng nghi hoặc, lão tự hỏi:
- Thằng lỏi này đúng là vừa xử chiêu Lục mạch thần kiếm vô thượng của nhà họ Ðoàn nước Lý, thì chắc gã phải là con cháu Ðoàn Gia, mà sao ngôn ngữ cử chỉ gã lại như anh đồ gàn? Nếu mình lợi dụng được gã thì không nên để lỡ cơ hội này.
Lão sa sầm nét mặt, mắt phóng ra những tia sáng hung dữ, trông mà phát khiếp.
Ðoàn Dự không tự chủ được lùi lại một bước.
Ðinh Xuân Thu quát hỏi:
- Thằng lỏi kia! Mi có sợ ta không?
Ðoàn Dự nhăn nhó cười hỏi lại:
- Sợ tiền bối ư? Ðã là người quân tử thì còn biết lo sợ là gì? Vãn sinh không sợ gì tiền bối hết.
Ðinh Xuân Thu bật cười, nhưng vẻ mặt rất hung dữ, đột nhiên dơ tay ra chụp tới.
Ðoàn Dự sợ hãi lùi lại thêm, vội vàng dơ tay ra trỏ.
Ðinh Xuân Thu vừa thấy chàng phóng Lục Mạch Thần Kiếm ra rất lợi hại. Bây giờ lão thấy chàng lại dơ ngón tay ra, cũng vội thu trảo về lui lại phía sau.
Nhưng lúc này Ðoàn Dự hốt hoảng quá. Chàng định tâm phóng Lục Mạch Thần Kiếm ra để đẩy lui đối phương, nhưng trỏ luôn bảy tám cái mà không phóng ra một chút chỉ lực nào.
Ðinh Xuân Thu là một tay cáo già, tuy lão thấy Ðoàn Dự không làm gì được, nhưng càn sợ y giả vờ, chưa dám tiến gần lại. Sau lão thấy vẻ mặt chàng mỗi lúc một thêm sợ hãi cuống cuồng mà vẫn không phát huy được kiếm khí.
Bấy giờ lão mới cất tiếng lạnh lùng hỏi:
- Mi làm sao vậy?
Ðoàn Dự kêu lên:
- Úi chao! Hỏng rồi! Nếu mình không chạy thì chết không có đất mà chôn!
Rồi chàng trở gót chạy đi luôn.
Ðinh Xuân Thu phất tay áo một cái. Ðầu tay áo văng vào huyệt Linh đài sau lưng chàng một cách rất mau lẹ.
Mộ Dung Phục đứng bên thấy lúc đầu Ðoàn Dự đã ra chiêu Lục Mạch Thần Kiếm để đẩy lui Ðinh Xuân Thu thì trong lòng y khâm phục vô cùng. Y vẫn ngưỡng mộ tiếng Lục mạch thần kiếm và nghe tuyệt nghệ này đã thất truyền rồi, trong lòng y hối tiếc vô cùng.
Ðoàn Dự lần thứ nhất đã phóng Lục mạch thần kiếm ra đánh rớt thanh trường kiếm trong tay y xuống. Nhưng lúc đó y thần trí hôn mê nên không nhìn được rõ. Lần này y mới mở rộng nhãn quang. Y chắc Ðoàn Dự còn có những chiêu thức tinh diệu phát ra nữa. Ngờ đâu chàng trỏ tay dẫm chân một lúc rồi cắm đầu chạy.
Mộ Dung Phục tự hỏi:
- Chẳng lẽ chàng còn có ý trêu cợt Ðinh Xuân Thu? Ðinh Xuân Thu tuy đã bị một đòn, nhưng lão không phải là hạng bất tài, có lý đâu lão không mắc mưu chàng được?
Sau Mộ Dung Phục càng nhận xét càng thấy không đúng.
Ðinh Xuân Thu nhằm đánh vào những yếu huyệt sau lưng Ðoàn Dự. Ðoàn Dự vẫn không né tránh.
Mộ Dung Phục la thầm:
- Thôi hỏng rồi! Rồi nhảy vọt ra phóng chưởng đánh vào cạnh sườn Ðinh Xuân Thu. Ðinh Xuân Thu xoay tay trái lại để đón chưởng của Mộ Dung Phục, mà tay áo lão đánh về phía trước cũng không giảm sức.
Mộ Dung Phục lún người xuống tránh khỏi phát chưởng của Ðinh Xuân Thu. Y lại phóng năm ngón tay ra nhằm chụp xuống tay áo Ðinh Xuân Thu.
Tay áo Ðinh Xuân Thu bị Mộ Dung Phục dồn nội lực vào đè lên nặng như phiến đá.
Mộ Dương Phục đưa ngón tay ra chụp xuống.
Hai luồng nội lực chạm nhau.
Mộ Dung Phục không chụp được vào người đối phương. Nhưng y phóng nội lực rất trầm trọng khiến cho tay áo Ðinh Xuân Thu bị đứt một quãng chừng một thước.
Giữa lúc ấy Ðoàn Dự quay lại thật lẹ, thấy Mộ Dung Phục và Ðinh Xuân Thu đứng cách nhau rất gần thì trong lòng không khỏi kinh hãi.
Chàng nghĩ thầm:
- Nếu Mộ Dung Phục bị hại về tay Ðinh Xuân Thu thì Vương Ngọc Yến sẽ bị thương tâm đến cực điểm. Có lý đâu mình lại ngồi coi giai nhân bị thương tâm mà không ra tay viện trợ? Nghĩ tới đây, thốt nhiên chàng vung ngón tay giữa ra.
Vừa rồi chàng muốn tự cứu mình nên thi triển đủ các lối mà chẳng có một chút nội lực nào phát ra. Lúc này chàng nghĩ đến Vương Ngọc Yến, vừa vung tay ra một cái đã một tiếng"véo"vang lên.
Một chiêu Lục mạch thần kiếm lại phóng ra!
Mộ Dung Phục cùng Ðinh Xuân Thu đứng liền nhau tỷ đấu. Y đang lo sợ, thì nghe kiếm khí Lục mạch thần kiếm rít lên không gian, vội chênh chếch người đi lùi lại phía sau.
Ðinh Xuân Thu giật mình kinh hãi, dơ hai tay áo lên phóng kình lực vào đó để chống lại chiêu Lục mạch thần kiếm của Ðoàn Dự.
Bỗng nghe đánh"binh"một tiếng, lão phải lùi lại phía sau một bước.
Ðoàn Dự thấy phóng một chiêu thành công, liền phóng ra chiêu thứ hai nhưng lại chẳng thấy phát huy một chút nội lực nào hết.
Mộ Dung Phục dắt tay chàng nói:
- Ðoàn huynh! Mau chạy đi thôi!
Rồi không chờ chàng trả lời cứ lôi bừa đi.
Ðinh Xuân Thu quát lên một tiếng quái gở, dương hai tay ra trông như con quái điểu nhảy xổ tới.
Ðoàn Dự kêu lên:
- Lão đến nơi rồi!
Mộ Dung Phục nói:
- Không sợ đâu! Ðã có người đối phó với lão.
Mộ Dung Phục vừa dứt lời đã nghe thấy tiếng cười quái dị the thé vang lên tự đằng xa vọng lại.
Tiếng cười lúc mới bật lên hãy còn ở đằng xa. Thế mà tiếng cười vừa dứt đã thấy Ðoàn Diên Khánh mình mặc áo bào xanh hiện ra trước mắt.
Ðoàn Dự vừa thấy Ác quán mãn doanh Ðoàn Diên Khánh thì trong lòng lại kinh hãi bội phần, vội ngoảnh đầu đi.
Mộ Dung Phục trông về phía Ðoàn Diên Khánh chắp tay nói:
- Ðoàn tiên sinh! Ðinh Xuân Thu vừa bị tại hạ chơi cho một vố cay đắng. Nhưng dư oai lão hãy còn. Ðoàn tiên sinh cẩn thận lắm mới được.
Y vừa nói vừa kéo Ðoàn Dự về phía sau.
Ðinh Xuân Thu vào Trung Nguyên diễu võ dương oai, ngờ đâu bị mấy phen thảm bại. Bọn đồ đệ bị thương quá nửa mà chính mình cũng chưa chiếm được một chút thượng phong nào. Trong lòng lão đang căm hận Mộ Dung Phục thấu xương. Lão phi thân muốn nhảy xổ tới đánh Mộ Dung Phục thì Ðoàn Diên Khánh giơ cây trượng và lạnh lùng nói:
- Tinh tú lão quái! Ðừng đuổi nữa! Ngươi nhân lúc người ta lâm nguy mà toan bài ám tóan thì khi nào ta chịu để yên.
Ðinh Xuân Thu bị Ðoàn Diên Khánh cản trở, biết rằng không thể làm khó dễ Mộ Dung Phục được nữa. Lão là một tay giảo quyệt, cười lên ha hả nói:
- Ðoàn Diên Khánh! Kiếp này ngươi không cải tà qui chánh được nữa rồi! Nói về công phu tà phái thì ngươi chưa gia nhập môn phái nào. Sao bằng bây giờ ngươi chịu làm môn hạ ta thì Tinh Tú lão tiên này sẽ thành toàn cho ngươi.
Ðoàn Diên Khánh cầm ngang cây trượng trước ngực, ngăn trở lối đi của Ðinh Xuân Thu. Nghe Ðinh Xuân Thu dứt lời, từ trong bụng lão bật ra một tiếng cười quái dị khô khan, đồng thời lão phóng cây trượng điểm vào bụng dưới Ðinh Xuân Thu.
Ðinh Xuân Thu hạ thấp tay xuống, búng ngón tay giữa ra chạm vào đầu trượng của đối phương.
Cây trượng trúc của Ðoàn Diên Khánh màu xanh biếc bị ngón tay Ðinh Xuân Thu búng vào bỗng nổi lên một tia đỏ chạy rất nhanh từ đầu gậy chạy vào.
Ðoàn Diên Khánh rung tay một cái, muốn ra chiêu thứ hai thì đột nhiên thấy trên cây gậy trúc của mình hiện ra một tia đỏ rất nhỏ theo cây gậy trúc chạy nhanh lên và sắp chuyển vào tới tay mình. Lão nghĩ tới Tinh Tú lão quái Ðinh Xuân Thu biết cách dùng độc ghê gớm thì không khỏi kinh hãi. Lão vung tay liệng cây trúc trượng ra ngoài đánh "véo" một tiếng.
Ðinh Xuân Thu cười ha hả, dơ tay ra đón lấy cây trượng.
Nhưng Ðoàn Diên Khánh cũng không phải tay vừa, lão bị bức bách phải liệng gậy đi, nhưng lão đã vận kình lực vào cây gậy.
Ðinh Xuân Thu vừa cầm được cây trượng thì đột nhiên mấy tiếng"rắc rắc"vang lên. Cây trượng gẫy thành mấy khúc bay ra tứ tung. Nếu Ðinh Xuân Thu không vung tay áo ra kịp để cuốn lấy những khúc trượng gẫy này thì tất nó sẽ đập vào mình đến bị thương.
Mộ Dung Phục cùng Ðoàn Dự hai người đứng đằng xa trông thấy cây trượng rời khỏi tay Ðoàn Diên Khánh, Ðoàn Dự thất thanh kêu lên:
- Nguy rồi! Diên Khánh thái tử mới ra một chiêu mà đã bị mất trượng.
Mộ Dung Phục cũng nói:
- Ðinh Xuân Thu quả nhiên không phải là hạng tầm thường!
Y chưa dứt lời, cây trượng đã gẫy làm mấy đoạn.
Ðinh Xuân Thu phải lùi lại vung tay áo ra cuốn trượng về vẻ mặt cực kỳ sợ hãi.
Mộ Dung Phục cười ha hả nói:
- Không can gì! Ác quán mãn doanh không ác lắm đâu!
Ðoàn Dự tuy vừa mới ngẫu nhiên phóng ra được hai chiêu Lục mạch thần kiếm, đẩy lui Tinh Tú lão quái hai lần, nhưng chàng chẳng hiểu một chút gì về võ công. Chàng nghe Mộ Dung Phục nói vậy thì biết rằng Ðoàn Diên Khánh cùng Ðinh Xuân Thu hai người chưa thể trong chớp mắt mà phân thắng bại được. Càng nghĩ bụng nhân cơ hội này mà chạy ngay.
Chàng liền nói:
- Mộ Dung huynh! Tiểu đệ đi thôi!
Mộ Dung Phục nói:
- Tại hạ cũng không có việc gì. Chúng ta cùng đi với nhau!
Mộ Dung Phục cùng Ðoàn Dự trở gót đi luôn, chạy về phía trước chừng năm dặm thì thấy hai người đang chạy như bay về phía mình. Người đi trước chính là Nhất trận phong Phong bá ác và người đi sau là Bao Bất Ðồng.
Hai gã này vừa trông thấy Mộ Dung Phục liền dừng lại buông tay xuốn đứng yên vẻ mặt rất là cung kính.
Mộ Dung Phục hỏi:
- Có việc chi không?
Phong ba ác xoa tay đáp:
- Tại hạ vừa thấy gã đầu sắt cắp một vị tiểu cô nương chạy đi, liền lập tức đuổi theo.
Mộ Dung Phục buông tầm mắt ngó về phía trước hỏi:
- Trước mặt có thấy ai đâu?
Phong bá ác mặt đỏ bừng lên đáp:
- Thằng lỏi đầu sắt chạy nhanh quá, bọn tại hạ không đuổi kịp.
Mộ Dung Phục đang nói chuyện với Phong bá ác thì Ðoàn Dự lùi lại mấy bước. Chàng nhìn Mộ Dung Phục thấy dáng điệu và cử chỉ của y thiệt là một tay thiếu niên anh tuấn, ra vẻ con người quí phái, bất giác chàng tự thẹn cho mình.
Chàng nghĩ thầm:
- Phong bá ác và Bao Bất Ðồng đã đến tất Vương cô nương cũng sắp tới nơi. Trong đầu óc nàng không để ý gì đến mình. Biểu ca nàng đi vắng thì nàng còn nói chuyện với ta một đôi câu. Nay biểu ca nàng đã về, trong con mắt nàng chỉ có một mình y mà thôi. Mình còn len lỏi vào bên họ làm gì cho lơ láo!
Chàng càng nghĩ càng buồn rầu rồi trở gót cắm đầu đi thẳng và lầm bầm một mình:
- Mình chỉ mong cho Vương cô nương được vui vẻ, dù mình phải đau đớn đến chết cũng chẳng oán hận gì.
Chàng muốn nở một nụ cười, nhưng da thịt cứng ngắc không cười được.
Mộ Dung Phục thấy Ðoàn Dự bỏ đi, vội cất tiếng gọi:
- Ðoàn huynh! Chúng ta đã có duyên tương ngộ, sao không nói chuyện với nhau cho thoả, mà Ðoàn huynh đã vội bỏ đi như vậy?
Ðoàn Dự đang lúc xuất thần, Mộ Dung Phục la gọi mà chàng không nghe thấy, cứ cắm đầu lầm lũi bước đi.
Mộ Dung Phục gọi luôn mấy câu không thấy Ðoàn Dự trả lời, bất giác buông một tiếng thở dài.
Phong Ba ác lớn tiếng nói:
- Công tử! Tôi đi bắt gã lại đây!
Mộ Dung Phục khóat tay nói:
- Không được vô lễ! Y là Ðoàn công tử nước Ðại Lý. Từ đây sắp tới các ngươi có thấy y cũng phải coi như ta vậy.
Phong Bá ác cùng Bao Bất Ðồng hai người đưa mắt nhìn nhau mà không dám lên tiếng.
Mộ Dung Phục lại nói:
- Gã đầu sắt đã cứu vị tiểu cô nương đó. Nàng chính là đệ tử của Ðinh Xuân Thu, không liên quan gì đến bọn ta. Các ngươi chẳng nên đa sự xen vào việc người khác làm chi.
Phong Bác ác cùng Bao Bất Ðồng liếc mắt nhìn nhau rồi nói:
- Công tử! Vương cô nương đang ở phía sau chờ công tử. Sao công tử không đi hội diện với nàng? Mộ Dung Phục nở một nụ cười lạnh nhạt hỏi:
- Phải chăng các ngươi còn muốn đuổi theo gã đầu sắt?
Phong Ba ác ấp úng nói:
- Cái đó...
Bao Bất Ðồng lớn tiếng nói:
- Còn việc gì dối được công tử nữa? Ngươi nói thực đi cho rồi!
Phong Bá ác cười nói:
- Bọn tại hạ mỗi người đều đã bị y đánh một chưởng có khí hàn độc và bị khổ sở bao nhiêu ngày. Trong lòng vẫn còn căm tức, chỉ muốn lột cái đầu sắt của gã ra xem gã là hạng người nào?
Mộ Dung Phục ngẩng mặt nhìn trời trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Võ công của gã đầu sắt đó thiệt lò quái dị! Các người phải cẩn thận lắm mới được!
Phong Bá ác xoa hai tay vào nhau nói:
- Ðúng thế!
Rồi gã tung mình nhảy đi trông về phái trước chạy ngay.
Bao Bất Ðồng cũng chạy theo Phong Bá ác.
Mộ Dung Phục quay đầu nhìn lại thì Ðoàn Dự đã đi xa rồi. Dĩ nhiên y có thể đuổi kịp chàng, nhưng thấy Ðoàn Dự vừa rồi không đáp lời la gọi, nên y cũng không đuổi theo nữa và trong lòng vẫn có ý hối tiếc.
Phong Bá ác cùng Bao Bất Ðồng hai người chạy như bay, thẳng một mạch đến bảy tám dặm mà vẫn chưa thấy bóng gã đầu sắt đâu.
Hai gã này trong mình đầy nhựa sống tràn trề, chỉ sợ thiên hạ hết loạn lạc thì mình hết quấy phá. Hai gã đuổi không kịp mà vẫn đuổi theo hoài. Chúng có biết đâu rằng Du Thản Chi chạy nhanh như bay và hiện giờ đã xa chúng ít ra là hai mươi dặm đường.
Du Thản Chi liều lĩnh đến nầi chẳng sợ gì oai hùm của Ðinh Xuân Thu. Gã bồng A Tử chui qua chầu tường thủng mà ra, rồi cắm cổ chạy tuốt. Gã chạy nhanh không thể tưởng tượng được.
Lúc đầu gã chỉ mong sao chạy xa được một ít để A Tử thoát khỏi bàn tay Ðinh Xuân Thu mà thôi, ngoài ra không nghĩ gì đến hậu quả nào khác. Gã chạy được hơn mười dặm, chợt nghĩ tới lòng dạ lão quái cực kỳ tàn nhẫn, bấy giờ trong lòng gã mới cảm thấy run sợ. Không phải gã sợ Ðinh Xuân Thu hạ độc cho mình mà lại sợ lão quái căm phẫn A Tử rồi hành hạ nàng cực khổ.
Du Thản Chi càng nghĩ càng kinh hãi. Gã quay đầu nhìn lại xem Ðinh Xuân Thu có đuổi theo không? Nhưng vừa quay đầu nhìn lại thì thấy cặp giò mình nhủn ra rồi. Gã không bao giờ tưởng tượng mình có thể chạy nhanh được đến thế. Gã vừa chạy vừa nhìn lại phía sau thì thấy mọi vật như giật lùi trở lại.
Du Thản Chi kinh hãi chạy dài, lúc gã quay đầu lại thì chợt thấy một cây lớn mình sắp vập mặt vào. Gã muốn dừng chân nhưng không sao thu kịp cước bộ. Trong lúc hốt hoảng gã vung tay lên một cái, lẳng A Tử ra vừa xong thì người gã đập vào gốc cây đến"binh"một tiếng. Bấy giờ gã mới đưa hai tay ôm lấy cây lớn. Lúc định thần lại gã thấy là cây rụng tơi bời. Chớp mắt là trút xuống mặt đất một lớp khá dày.
Du Thản Chi lẩm bẩm:
- Hiện nay không phải là mùa lá rụng. Chính cây này lá đang xanh rờn mà sao chớp mắt đã cành khô lá rụng? Gã có biết đâu rằng từ lúc gã ôm vào thân cây, khí âm hàn trong thân thể gã tiết ra khiến nhựa cây đông đặc lại chết ngay.
Du Thản Chỉ ngảnh đầu nhìn lại thấy A Tử ngồi dưới đất, tay bưng mắt khóc lóc thảm hại.
Bốn bề tịch mịch chẳng có một ai.
Tiếng A Tử khóc tuy nhỏ, mà Du Thản Chi nghe rất rõ.
Lúc động thủ cứu A Tử, gã chỉ nghĩ tới cứu nàng thoát ra khỏi độc thủ của Ðinh Xuân Thu mà thôi, chớ tuyệt không nghĩ đến tình sau này sẽ ra sao.
Ga khiếp sợ cất tiếng gọi:
- Cô nương...
A Tử đột nhiên đứng dậy vung quyền đấm trúng ngực Du Thản Chi đánh "bình" một tiếng.
Du Thản Chi không đề phòng, bị trúng quyền, người gã lảo đảo suýt ngã lăn ra.
A Tử thét lên lanh lảnh:
- Sao ngươi lại cứu ta đem ra đây?
Du Thản Chi đáp:
- Cô nương! Lúc đó... mà tại hạ không ra tay thì cô còn khổ nữa.
A Tử hỏi:
- Ta chịu khổ thì việc gì đến ngươi?
Du Thản Chi ngẩn mặt ra hồi lâu rồi ấp úng đáp:
- Cô nương! Tại hạ... chỉ muốn cho cô... không phải khổ sở. Tuyệt không có ác ý gì. Cô nương trách mắng tại hạ... Hỡi ôi! Nếu tại hạ biết thế thì không ra tay giải cứu nữa.
A Tử vừa khóc vừa nói:
- Di nhiên là ta đau khổ. Tỉ như ngươi mà đột nhiên bị mù hai mắt trong lòng ngươi có vui sướng được không?
Du Thản Chi nhăn nhó cười đáp:
- Nếu cặp mắt cô nương sáng lại được thì dù tại hạ có phải đui mù cũng rất cam tâm.
A Tử ngẩn người ra một lúc.
Hồi lâu nàng im tiếng khóc, hỏi:
- Ngươi là ai?
Du Thản Chi nghe nàng hỏi vậy thì không khỏi ớn lạnh. Nguyên gã vốn kính mộ A Tử, sùng bái A Tử. Lúc người gã không gần nàng, trái tim gã không giờ phút nào là không nghĩ tới nàng. Gã tưởng nàng nghe thanh âm cũng biết gã rồi. Cớ sao nàng còn hỏi câu này? Hay là lâu ngày nàng đã quên mình? A Tử ở Nam Kinh nước Liêu hưởng mùi phú quí, thiếu gì những cuộc vui chơi. Gã đầu sắt đi rồi thì lại có trà khác để nàng giải muộn, nên nàng đã quên sạch không nhớ gì đến mặt mũi tiếng tăm Du Thản Chi nữa. Vả lại, nàng vừa được cứu thóat khỏi tay Ðinh Xuân Thu, nàng đaán chắc là một tay cao thủ võ lâm nào, chứ đâu có ngờ là Du Thản Chi?
-
Hồi 71 - Những Phút Mê Ly Của Gã Si Tình - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 71 - Những Phút Mê Ly Của Gã Si Tình
Du Thản Chi thộn mặt ra hồi lâu không trả lời.
Bỗng nghe A Tử lên tiếng hỏi nữa:
- Ngươi có phải là Mộ Dung công tử không?
Du Thản Chi lẩm nhẩm đáp lại:
- Mộ Dung công tử? Mộ Dung công tử?
Rồi bóng dáng chàng Mộ Dung Phục tuấn tú như hiển hiện ra trước mặt gã. Dù gã chưa bịt cái đầu sắt đem so với Mộ Dung Phục cũng trăm phần chưa được một. Huống chi bây giờ gã đã thành nửa người nửa quỉ trông rất quái dị.
Gã tự thẹn hình thù xấu xa của mình khẽ đáp:
- Không! Không phải! Tại hạ không phải là Mộ Dung công tử!
A Tử vênh mặt lên nghĩ một lát rồi hỏi:
- Nghe thanh âm ngươi dường như hãy còn nhỏ tuổi. Ngươi có phải là bạn Mộ Dung công tử không?
Tướng mạo Mộ Dung Phục đã in sâu vào óc A Tử. Bây giờ tuy hai mắt đui mù, nàng vẫn tưởng người cứu mình tất nhiên là một trang thiếu niên tuấn tú mặt mũi xinh tươi, nên nàng mới hỏi có quen biết Mộ Dung Phục không?
Du Thản Chi thấy tinh thần A Tử dường như rất minh mẫn mau lẹ. Gã liền đáp theo chiều:
- Vâng! Tại hạ với Mộ Dung công tử là chỗ quen biết.
A Tử hơi ngẩng đầu lên hỏi:
- Sao? Ngươi cũng giống Mộ Dung công tử và cũng tuấn tú như chàng ư? Mặt nàng đương lợt lạt mà hỏi mấy câu này có ẩn hiện mấy tia ửng hồng. A Tử nhắm mắt lại rồi lau khô những huyết tích đi, trông bề ngoài dường như không phải cô gái đui mù, nét mặt ửng hồng, dong nhan càng thêm diễm lệ.
Du Thản Chi đứng thộn mặt ra mà nhìn không nói lên lời.
Hồi lâu A Tử lại hỏi:
- Ngươi ở đây làm chi?
Du Thản Chi đáp:
- Tại hạ trông nom cho cô nương.
A Tử hỏi:
- Trông nom cho ta? Sao ngươi lại trông nom cho ta?
Du Thản Chi đáp:
- Cô nương xinh đẹp quá, tại hạ chẳng muốn làm gì hết, chỉ muốn nhìn cô thôi. Nét mặt A Tử đỏ tươi hơn lên, nàng hỏi:
- Ngươi biểu ta xinh đẹp lắm ư?
Du Thản Chi thở dài đáp:
- Ðúng thế! Tại hạ chưa từng thấy trên trần gian có người nào đẹp bằng cô. A Tử bị Ðinh Xuân Thu đánh mù mắt, lòng nàng khô héo lại. Nhưng nàng làm môn hạ phái Tinh Tú đã lâu ngày và đã được mục kích không biết bao nhiêu là hình phạt thảm khốc. Nàng lấy cắp báu vật của bản môn phạm tội phản thầy là nặng lắm. Thế mà chỉ bị Tinh Tú lão quái chọc mù đôi mắt kể ra là nhẹ lắm rồi. Tuy trong lòng nàng lấy làm bực dọc, nhưng chỉ là cái bực dọc của người tự nhiên bị mù mắt mà thôi. Lúc này nàng tưởng người cứu mình là một chàng thiếu niên anh tuấn, một vị công tử võ nghệ cao cường, trong lòng cũng cảm thấy vui vui. Nhất là nghe đối phương nói vậy, trái tim nàng đập loạn lên. Lúc nàng còn học võ nghệ ở phái Tinh Tú, bọn sư huynh đều cho nàng là một cô gái ngang ngạnh. Ðến khi nàng đi theo Tiêu Phong thì cũng chưa từng chú ý đến nàng đẹp hay xấu. Cũng trong thời gian này, chỉ có Du Thản Chi là khen nàng đẹp. Nhưng Du Thản Chi thân phận đê hèn, lời khen của gã không khiến cho lòng nàng xúc động. Bây giờ nàng chẳng hiểu người cứu mình là ai, và lời khen lại lọt vào tai thì cái phản ứng trong tâm trạng nàng khác hẳn hồi trước. nàng sung sướng không thốt ra lời được.
Hồi lâu A Tử mới hỏi lại:
- Ngươi bảo ta xinh đẹp, và chưa từng thấy vị cô nương nào xinh đẹp bằng ta ư?
Du Thản Chi đáp:
- Ðúng thế! A Tử hỏi:
- Phải chăng ngươi nói vậy để chiều lòng ta?
Du Thản Chi đáp:
- Nếu lời tại hạ nói là trá ngụy thì chẳng được chết yên lành.
Trong lòng gã sùng bái A Tử không biết đến đâu mà kể. Gã nói câu này với cả tấm lòng thành thực. Nhưng một ý nghĩ về chữ"tình"và chữ"ý"làm mặt gã nóng bừng, tưởng chừng như mình phạm tội tiết mạn A Tử.
A Tử ngẩn người ra hồi lâu, xịu mặt lại nói:
- Ta biết là ngươi dối ta... Ta đã đui cả hai mắt thì dù có xinh đẹp cũng không đến mức độ như ngươi vừa nói. Trừ phi hết thảy các thiếu nữ khắp thiên hạ đều mù mắt mà ngươi biểu ta là người đẹp nhất trong những người đẹp thì còn có thể nghe được.
Du Thản Chi nghe nàng nói vậy không khỏi sợ run.
Dĩ nhiên là trên đời chẳng ai có đủ lực lượng để làm mù mắt hết thảy các cô gái trong thiên hạ. Nhưng giả tỉ A Tử mà có năng lực đó thì nàng quyết làm thẳng tay chẳng chút do dự.
Du Thản Chi vội nói:
- Cô nương! Tuy cô nương bị đui mù mà vẫn xinh đẹp như trước. Cô chẳng nên nghĩ ngợi làm gì cho mệt trí.
A Tử lặng lẽ hồi lâu không nói gì.
Du Thản Chi lại hỏi:
- Cô nương! Trước tại hạ tất nhiên cũng có nhiều người ca tụng cô rồi chứ?
A Tử trầm ngâm một lát rồi đáp:
- Có đấy! Có một gã cũng khen ta xinh đẹp.
Trống ngực Du Thản Chi càng đánh mạnh hơn, gã hồi hộp hỏi:
- Người đó là ai?
A Tử đột nhiên phì cười đáp:
- Giả tỉ ngươi mà thấy gã thì nhất định phải cười đến chết ngất. Gã là một đứa ngu xuẩn, ta đã cho bịt đầu gã bằng một cái lồng sắt, và kêu gã bằng Thiết Sửu (thằng hề bằng sắt). Cứ mỗi khi ta buồn thì lại sai người đem đánh gã để giải muộn.
Du Thản Chi có ý khơi mào để A Tử bàn đến chuyện mình, thử xem trong lòng nàng có ấn tượng gì về mình không để tuỳ cơ thổ lộ chân tướng. Bây giờ gã nghe nàng nói vậy, bất giác ớn lạnh nửa người. Té ra trong con mắt nàng, mình chỉ là một đồ chơi không hơn không kém. Nếu bây giờ mình nói rõ thân phận, tất nhiên nàng phải thất vọng vô cùng. Nghĩ vậy bất giác gã buông một tiếng thở dài não nuột.
A Tử hỏi ngay:
- Sao ngươi lại thở dài?
Du Thản Chi đáp:
- Tại hạ nghĩ tội nghiệp cho gã đầu sắt đó!
A Tử nói:
- Gã chết rồi! Giả tỉ gã còn sống ta muốn đập cái đầu sắt ra coi chắc là thú vị lắm!
Du Thản Chi nghe A Tử nói vậy, bất giác run lên, lùi lại một bước. Gã đưa tay lên sờ cái đầu sắt đã dính liền vào da thịt gã. Nếu cứ để vậy lôi ra chắc phải mất mạng hoặc đau đớn không chịu nổi.
Du Thản Chi tự hỏi:
- Mình tội tình gì mà nàng ngược đãi mình đến thế, vẫn chưa chịu buông tha? Mấy năm nay Du Thản Chi bị hành hạ đủ điều, quen chịu đựng những minh oan khuất ngược đãi. Gã chỉ nghỉ mệt chút xíu rồi lại nói hùa theo A Tử:
- Phải đó! Tại hạ cũng nghĩ cái trò đó rất thú vị! A Tử lại càng cao hứng, đột nhiên nàng thò tay ra nắm lấy tay Du Thản Chi nói:
- Té ra ngươi cũng đồng ý như ta, thích những trò tinh nghịch cổ quái này.
Du Thản Chi bị bàn tay nhỏ nhắn của A Tử nắm lấy, người gã run run bần bật.
Gã nói lắp bắp luôn miệng:
- Gã đầu sắt đó... Gã đầu sắt đó...
A Tử hỏi:
- Gã đầu sắt đó làm sao?
Du Thản Chi đáp:
- Sao cô nương không đưa gã đầu sắt đó vào miệng cọp hay trước hàm sư tử để xem những răng sắc nhọn của nanh thú ngoạm cái đầu sắt đó có thú không?
A Tử vỗ tay cười nói:
- Hay quá! Sao mà ý nghĩ của ngươi lại giống ta đến thế! Ta đã thử qua rồi. Nước Ðại Tự cõi Tây Vực đã ngoạm đầu sắt đó nhưng không thủng.
A Tử trong lòng khoan khoái, nàng vừa nói vừa múa chân tay loạn lên. Nàng vô tình đã chạm ngón tay vào đầu sắt của Du Thản Chi đánh keng một tiếng.
Du Thản Chi kinh hãi quá, vội lộn người đi, lùi ra xa.
A Tử hỏi:
- Chà! Ngón tay ta chạm vào cái gì vậy?
Du Thản Chi đáp:
- Trước ngực tại hạ có mang miếng hộ tâm kính.
A Tử gật đầu hỏi:
- Ðó chắc là một báu vật hãn hữu trên thế gian?
Du Thản Chi biết rằng không nên bộc lộ thân phận, gã thở một cái rồi đáp:
- Miếng hộ tâm kính này đúng bằng vàng lấy ở đỉnh núi Thiên Sơn. Ðao kiếm chém không thủng, những tà khí cũng không xâm nhập vào được.
A Tử khen thầm rồi hỏi:
- Tên ngươi là gì?
Du Thản Chi buột miệng đáp:
- Tại hạ họ Vương tên gọi Tinh Thiên.
Gã nói quanh mà A Tử không nghi ngờ gì hết. Nàng hỏi:
- Võ công ngươi thuộc môn phái nào?
Du Thản Chi đáp:
- Võ công tại hạ lai lịch không phải tầm thường. Chính là từ Ðạt Ma lão tổ thân hành truyền dạy. Môn đó kêu bằng...
Gã nghĩ bụng:
- Nếu mình muốn được ở liền với A Tử thì thật vui sướng vô cùng!
Gã liền buột miệng nói luôn:
- Võ công bản môn kêu bằng"Cực lạc phái", và tại hạ chính là chưởng môn nhân phái Cực lạc.
A Tử cất tiếng khen:
- Ngươi còn nhỏ tuổi, thế mà đã là chưởng môn một phái, trách nào mà ngươi chẳng cứu ta ra khỏi tay Ðinh Xuân Thu một cách dễ dàng. Du Thản Chi lúc cứu A Tử, gã tuyệt đối không nghĩ gì đến hành động của mình. Giả tỉ gã nghĩ trước nghĩ sau thì không bao giờ dám động thủ.
Gã nhăn mặt lại mà cười, nhưng miệng vẫn đáp:
- Ðúng thế! Ðinh Xuân Thu thì đã là cái thá gì? Ai sợ lão thì sợ chứ tại hạ quyết không sợ lão!
A Tử tiến lên một bước ngửng đầu đứng trước mắt Du Thản Chi.
Du Thản Chi thấy làn hơi thơm ngào ngạt thấm vào phế phủ, tim gã đập loạn lên, tâm thần rung động hồi hộp.
A Tử lại từ từ dơ tay ra sờ vào cổ tay Du Thản Chi rồi thuận tay đưa xuống nắm lấy lưng bàn tay gã.
Du Thản Chi nín thở quay lại nhìn A Tử thấy con người trong ngọc trắng ngà, nước da mịn màng và mềm như nhung lụa, bất giác gã thộn mặt ra.
A Tử hỏi:
- Sao ngươi không hỏi họ tên ta?
Du Thản Chi ngây ngô hỏi:
- Tên họ cô nương là gì?
A Tử đáp:
- Ta họ Ðoàn tên gọi A Tử.
Du Thản Chi máy môi lắp bắp một hồi rồi gọi lên bằng một thanh âm lí nhí.
- A Tử!
Trên mặt A Tử thoáng qua một nụ cười, nàng nói:
- Ta thích ngươi gọi đến tên ta. Vậy ngươi gọi một tiếng nữa cho ta nghe thử.
Du Thản Chi lại gọi:
- A Tử!
Du Thản Chi vốn coi A Tử như một tiên nữ trên trời. Gã có ngờ đâu ngày nay được gọi đến tên A Tử mà nàng lại thích cho gã gọi là khác.
Nét mặt A Tử tươi cười hớn hở hỏi:
- Ngươi có chịu làm bạn với ta không?
Du Thản Chi tâm thần chấn động. Dĩ nhiên là gã nguyện ý được kề cận A Tử. Nhưng gã lại sợ ở với nàng lâu tất bị nàng phát giác ra mình là Du Thản Chi.
Ðột nhiên gã lùi lại một bước. Hai tay ôm lấy cái đầu sắt lắc thật mạnh tưởng chừng như gã lắc cho cái đầu sắt bật ra.
A Tử cảm thấy Du Thản Chi đột nhiên lùi lại phía sau thì lòng nàng không khỏi khó chịu. Nàng nói:
- Té ra ngươi không có ý nguyện muốn ở với ta một nơi.
Du Thản Chi vội nói:
- Không... không! Tại hạ chỉ lo...
A Tử hỏi:
- Lo gì?
Du Thản Chi đáp:
- Lo rằng ở với cô nương mà không làm cho cô nương được vui lòng.
A Tử nói:
- Thế thì ngươi lầm to. Ta chỉ muốn có ngươi ở luôn bên ta là ta đủ vui rồi. Tinh Tú lão quái không chịu tha ta, nếu không có ngươi kề cận, lão đuổi đến nơi thì làm thế nào?
Du Thản Chi nghe A Tử nói vậy, gã biết rõ đó là câu nàng nói với Vương Tinh Thiên chớ không phải nói với Du Thản Chi. Nhưng trong lòng gã cũng cảm thấy ấm cúng dị thường. Từ khi nhà gã gặp cơn biến cố đến nay, lênh đênh trôi dạt, nếm đủ mùi cay đắng. Không bao giờ gã ngờ đến có lúc êm ấm như bữa nay.
A Tử hơi ngửa đầu lên hỏi:
- Sao? Ngươi có nhận lời ta không?
Du Thản Chi đáp:
- Dĩ nhiên là tại hạ ưng thuận nhưng...
A Tử vội gạt đi:
- Ta không muốn ngươi nói nhưng gì nữa. Vẻ mặt nàng hờn mát khiến cho trong lòng Du Thản Chi tựa hờ như bay bổng lên lưng trời.
Gã nói:
- Cô nương đã không muốn nghe thì tại hạ không nói nữa.
A Tử nở một nụ cười nói:
- Ngươi hãy đưa ta ra bờ sông đã!
Du Thản Chi sửng sốt hỏi:
- Ra bờ sông làm chi?
A Tử nói:
- Mặt mũi ta chắc lem luốc, cần phải đi rửa.
Du Thản Chi nói:
- Mặt cô nương tuy có vết máu nhưng chẳng có gì khó coi hết.
A Tử cũng thoáng qua một nụ cười nhưng là một nụ cười thê lương ảm đạm.
Du Thản Chi dơ cánh tay ra, cánh tay gã run bần bật.
Gã nói:
- Cô nương!... Bám vào tay tại hạ để tại hạ dắt đi.
A Tử vươn tay ra bám lấy tay Du Thản Chi.
Du Thản Chi toàn thân như bị điện giật, run lên không ngớt. Không bao giờ gã tưởng đến dù là trong giấc mơ, có ngày A Tử bám vào tay mình.
A Tử tựa vào gã đi từng bước một, vừa đi vừa nói những câu rất êm tai khiến cho tâm thần Du Thản Chi phải bàng hoàng.
A Tử hỏi:
- Chỗ này không có con sông nhỏ nào ư?
Du Thản Chi như người mơ mộng tỉnh giấc, bên tai gã nghe tiếng nước chảy róc rách vội đáp:
- Dường như phía trước có sông thì phải?
Hai ngươi lẹ bước chừng vài chục bước thì xuyên vào một đám vườn đào, quả thấy một con sông nhỏ nước trong vắt.
Những khúc quanh nước đổi chiều chảy bật lên những tiếng xoe xoé.
Du Thản Chi đưa A Tử đến bờ sông nói:
- A Tử! Chỗ cô nương đứng đây là bờ sông rồi đó!
A Tử cúi xuống, thò tay vào nớưc sông, nàng nói:
- Ngươi hãy lui ra xa, bao giờ ta gọi sẽ quay lại.
Du Thản Chi thấy A Tử bảo mình đi xa ra thì bàng hoàng hỏi lại:
- Sao?
A Tử dậm chân nói:
- Ta bảo ngươi đi xa ra thì ngươi đi đi, hỏi gì nữa?
Nguyên nàng vẫn được nuông chiều thành ra tính khí cực kỳ ương ngạnh. Nhất là một năm nay ở phủ Nam Viện đại vương trong thành Nam Kinh, nàng tha hồ mà quát tháo, mà làm oai, làm phước. Bây giờ tính khí này bất giác lại nổi lên. Nhưng nàng vừa buột miệng nói ra thì sực nhớ lại hiện nay mình không thể làm oai làm phách được. Gã mà tức giận bỏ mình đây thì làm thế nào?
Nghĩ thế nàng vội đứng dậy ôn tồn nói:
- Trong lòng ta đang phiền muộn, thành ra nóng tính hay gắt. Ngươi đừng giận ta nghe! Du Thản Chi lúc ở với A Tử đã bị đòn vọt hành hạ mà gã vẫn lấy làm dễ chịu, còn lớn tiếng mắng mỏ đối với gã đã vào mùi gì? Huống chi gã không ngờ được A Tử xin mình đừng giận, thế là được nàng sủng ái lắm rồi.
Gã sung sướng quá hấp tấp đáp ngay:
- Không... không hề chi! Chỉ cần sao cho cô nương đặng vui lòng còn đối với tại hạ thì cô nương muốn nói năng hay quát mắng thế nào cũng được hết.
A Tử rất lấy làm kỳ, nàng tự hỏi:
- Tại sao anh chàng Vương công tử này là một gã thiếu niên đắc chí mà đối với mình lại ngoan ngoãn, bảo sao nghe vậy? Chẳng lẽ mình có ngôi sao chiếu mệnh được hưởng phúc phận này chăng?
Nghĩ vậy, bất giác nàng khoái chí nói:
- Vậy thì ngươi đi xa ra, đừng có nhòm trộm nghe!
Du Thản Chi lắc đầu nói:
- Cô nương bảo tại hạ rời xa ra, tại hạ chẳng an tâm chút nào.
A Tử cười nói:
- Thôi đi đi! Du Thản Chi vẫn quyến luyến không muốn rời xa. Gã đi mỗi bước lại quay đầu lại. Khá lâu mới đi ra xa được vài ba chục bước rồi dừng chân lại.
Hồi lâu gã nghe tiếng A Tử gọi:
- Vương công tử! Ngươi ở đâu đó?
Du Thản Chi chờ lâu nóng ruột, vừa nghe tiếng A Tử đã chạy nhanh lại.
A Tử rửa mặt mũi sạch sẽ. Nàng cởi bỏ bộ đồ nam trang, mặc một tấm áo màu tía lợt vừa khít vào mình. Hai mắt hé mở, miệng tủm tỉm cười, con người đẹp lồ lộ đứng ở bờ sông.
Du Thản Chi đứng thộn mặt ra không nhúc nhích và cũng không thốt ra lời được.
A Tử hỏi:
- Vương công tử! Ngươi nhìn xem bây giờ còn có chỗ nào khó coi không?
Du Thản Chi vẫn đứng ỳ ra không nói được.
A Tử đột nhiên lộ vẻ bồn chồn, hốt hoảng hỏi:
- Ngươi... không ở trước mặt ta ư?
Du Thản Chi hồi lâu mới bật ta tiếng:
- Có tại hạ đây.
A Tử hỏi:
- Thế mà sao ngươi không trả lời ta?
Du Thản Chi nói:
- Tại hạ... không biết nói thế nào cho phải.
A Tử tiến về phía trước hai bước. Nàng dơ tay lên đột nhiên quờ trúng cái đầu sắt của Du Thản Chi.
Du Thản Chi run lên vội lùi lại.
Mặt A Tử lộ vẻ nghi ngờ hỏi:
- Ðầu ngươi đội thứ mũ gì vậy?
Du Thản Chi mồ hôi toát ra như tắm đáp:
- Không có chi hết..., đó chỉ là cái mũ thường.
A Tử hỏi:
- Sao ta đụng phải như một tấm sắt?
Du Thản Chi chẳng hiểu A Tử có trông rõ không, gã lắc đầu lia lịa đáp:
- Không, không! Ðó là trên mũ có mảnh ngọc bội mà thôi.
Gã vừa nói vừa lùi lại.
Gã nghĩ thầm trong bụng:
- Mình có ở cùng A Tử một chỗ cũng không thể để nàng biết mình là gã đầu sắt Du Thản Chi. Cái lồng sắt con chụp đầu thì thế bào cũng có một ngày bị nàng khám phá ra. Khi đó nàng sẽ hết cả tử tế với mình.
Gã hai tay ôm đầu rồi lẩm bẩm:
- Ta phải bỏ cái đầu này đi! Nhất định phải trừ khử mi đi! Rồi gã trở gót đi luôn.
A Tử nghe có tiếng chân bước, kinh hãi hỏi:
- Vương công tử! Ngươi đi đấy ư? Ði đâu bây giờ?
Du Thản Chi dừng bước đáp:
- A Tử! Tại hạ chợt nhớ đến một việc phải làm ngay. Cô nương đứng đây chờ tại hạ. Tại hạ làm xong sẽ trở lại liền.
A Tử vẻ mặt thê thảm hỏi:
- Ngươi phải làm việc gì? Có gấp rút lắm không?
Du Thản Chi nhăn nhó cười đáp:
- Nếu việc này không làm xong thì tại hạ khó lòng ở với cô nương một chỗ được.
A Tử nghĩ thầm:
- Thằng cha này tuổi trẻ lãng mạn, lý nào không có tình nhân. Gã đi gấp rút thế này chắc là để đến từ biệt người tình cũ rồi đến với mình.
Nghĩ đến đây nàng khoái chí hỏi:
- Ðược rồi! Ta ở đây chờ ngươi. Ngươi đi chừng bao lâu sẽ trở lại?
Du Thản Chi cần rời A Tử để quyết tâm trừ khử cái đầu sắt. Nhưng cái đầu này đã liền vào da thịt, trừ khử nó đâu phải là chuyện dễ. Có khi mất mạng như chơi. Nếu mình chết đi thì còn đâu mà trở lại với A Tử? Gã nghĩ vậy, thộn mặt ra không biết đáp thế nào?
A Tử lại nghĩ bụng:
- Thằng cha này chắc nhiều nhân tình lắm. Gã đi từ biệt phải mất nhiều thì giờ. Nghĩ vậy, nàng liền nói tiếp:
- Ngươi muốn đi bao lâu cũng được. Ta ở đây chờ ngươi. Sấn chấp lâu mau, ngươi cứ trở lạ là được.
Du Thản Chi nói:
- Tại hạ nhất định xong việc sẽ trở lại ngay.
A Tử khẽ thở dài nói:
- Thôi ngươi đi đi!
Du Thản Chi đi vài bước rồi quay lại nói:
- A Tử chỉ có mình cô nương...
A Tử ngắt lời:
- Ta ở đây không đi đâu hết. Chắc cũng chẳng có điều gì đáng ngại. Ngươi đi mau rồi trở lại đây!
Du Thản Chi nghĩ bụng:
- Sau khi mình bỏ được cái đầu sắt ra rồi, A Tử đã đui mắt, không nhận ra được mình nữa. Từ đó trở đi mình yên chí ở với nàng lâu dài không còn lo sợ gì nữa, thì trên đời này còn có gì khoái lạc hơn?
Du Thản Chi nghĩ vậy, trở gót chạy như bay về phía trước.
-
Hồi 72 - Gặp Xuân Thu Lại Được Buông Tha - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 72 - Gặp Xuân Thu Lại Được Buông Tha
Du Thản Chi định tìm vào một thị trấn kiếm thợ sắt để tháo đầu. Gã nghĩ đến chuyện tháo đầu sắt mà rùng mình. Nhưng hy vọng được ở với A Tử và để nàng nhận mình là chưởng môn phái Cực Lạc thì dù đau đớn đến đâu gã cũng cố mà chịu đựng. Du Thản Chi chạy được mấy dặm trước mắt chỉ thấy một cánh đồng bát ngát hoang vu tịch mịch, không biết phương nào đi về thị trấn. Trong lòng rất xao xuyến, gã vội chạy lên trên gò đất cao để nhìn ra bốn mặt. Gã thấy về phía Ðông Bắc dường như có khói lửa bốc lên liền theo về phía đó chạy đi.
Ði chừng được hơn một dặm, bỗng nghe có thanh âm phụ nữ gọi:
- Xuân Thu ca ca! Ca ca giận ai mà không nhìn nhận gì đến tiểu muội nữa?
Tiếng nói rất rành rọt. Du Thản Chi nghe thấy run lên, vối tiến vào ẩn trong đám cỏ rậm bên đường, trong lòng lo lắng vô cùng.
Tiếp theo gã lại nghe tiếng Ðinh Xuân Thu quát tháo:
- Bước ngay!
Tiếng quát nghe rất gần, Du Thản Chi lại càng bở vía, không dám thở mạnh. Gã ngó ra ngoài xa thì thấy tay áo Ðinh Xuân Thu đứt cụt một miếng, sắc mặt hắn xám đen đang tiến lại. Phía sau lão là mụ Diệp Nhị Nương lẳng lơ đang rượt theo.
Du Thản Chi thấy Ðinh Xuân Thu, gã sợ quá nhắm mắt lại, chỉ mong lão đi lướt qua, may ra mình nấp trong đám cỏ rậm không bị lão nhìn thấy.
Gã có ngờ đâu mình đã hấp thụ chất kịch độc của con Băng tầm. Những chất độc chứa chất trong mình gã còn nhiều hơn cả Ðinh Xuân Thu, và gã thành"con người độc". Ðinh Xuân Thu suốt đời nghiên cứu và sử dụng chất độc, lão chỉ liếc qua bụi cỏ mà trong đó có con trùng độc ẩn nấp lão cũng biết ngay, huống chi trong người Du Thản Chi lại chứa chất kịch độc của con Băng tầm.
Ðinh Xuân Thu đi tới gần chỗ gã nấp liền dừng lại, mặt lộ vẻ ngờ vực.
Lúc đó Ðinh Xuân Thu chưa biết là Du Thản Chi ẩn mình trong bụi cỏ. Lão vừa thấy có vật âm hàn lạnh lẽo ở phía trước nên tiến lại mà thôi. Lão còn sợ mình kinh động làm cho vật đó chạy mất, mà trong mình không có Bích ngọc vương đỉnh để bắt những loài có nọc độc. Vì thế lão lộ vẻ trì nghi không quyết đoán.
Du Thản Chi lặng nghe một lúc không thấy động tĩnh gì lại mở mắt ra... Du Thản Chi vừa mở mắt, đã nhìn thấy Tinh Tú lão quái đứng cách mình không đầy năm thước. Gã sợ quá bất giác run lên bần bật. Vì gã run mà bụi cỏ cũng lung lay.
Ðinh Xuân Thu trong lòng rất kinh hãi. Lão cho đó là một giống kỳ độc to lớn, nên không dám hành động khinh xuất.
Diệp Nhị Nương thấy Ðinh Xuân Thu đứng lại, mụ cũng dừng bước hỏi:
- Xuân Thu ca ca! Ca ca có muốn đem lại hoà khí với tiểu Muội không? Oan gia ơi! Oan gia có biết người ta đêm thương ngày nhớ đến thế nào không?
Ðinh Xuân Thu không thèm quay đầu lại. Mắt lão chiếu ra những tia sáng âm u nhìn chằm chặp vào đám cỏ rậm.
Hồi lâu, đột nhiên Ðinh Xuân Thu dơ ngón tay lên búng ba cái.
Ba viên sắc vàng lợt to bằng đầu ngón tay bay vào đám cỏ rậm.
Diệp Nhị Nương thấy Ðinh Xuân Thu búng ba viên đó, xám mặt lại. Mụ muốn nói mà cứng lưỡi không nói ra lời, lùi lại luôn mấy bước.
Du Thản Chi ở trong bụi cỏ trông rất rõ ràng. Tuy gã không biết ba viên sắc đó là gì nhưng cũng chắc là vật rất độc. Trong lòng gã càng kinh hãi và càng run mạnh hơn trước.
Ba viên thuốc vàng nối đuôi nhau rớt xuống.
Một viên chính trúng vào đầu sắt Du Thản Chi đánh cách một cái rồi bốc lửa cháy biến thành một thứ khói vàng.
Lập tức gã ngửi thấy một mùi khác lạ, nhưng không có cảm giác thấy gì hết.
Viên thứ hai rớt xuống bên mình cũng nổ cháy lên. Làn khói vàng loang dần ra và đi tới đâu là đám cỏ xanh biếc lập tức héo khô.
Du Thản Chi không biết làm thế nào thì viên thứ ba rớt xuống trúng mu bàn tay gã. Gã sợ quá run lên, viên thuốc cũng rớt đi. Nhưng gã thấy trên bàn tay mát rượi, ngoài ra không có cảm giác chi hết, gã mới yên tâm. Gã ngoảnh đầu lại nhìn ra ngoài thì lại thấy vẻ mặt Ðinh Xuân Thu cực kỳ kinh hãi.
Ðồng thời gã nghe Diệp Nhị Nương hỏi bằng một giọng run run:
- Xuân Thu ca ca! Trong bụi cỏ có quái vật gì vậy? Sao ca ca bắn luôn ra ba viên "Diêm Vương hoá cốt hoàn" mà chỉ như viên đá chìm xuống đáy biển mất tăm chẳng ăn thua gì?
Ðinh Xuân Thu quay lại, vẻ mặt tức giận, trừng mắt nhìn Diệp Nhị Nương hỏi:
- Ngươi dám biểu "Diêm Vương hoá cốt hoàn" của ta không lợi hại ư?
Diệp Nhị Nương lùi lại luôn mấy bước nói:
- Xuân Thu ca ca! Ðừng nói đùa nữa!
Ðinh Xuân Thu bắn ra ba viên Hoá cốt hoàn không thấy hiệu quả gì chính lão cũng phải kinh hãi nghi ngờ. Nguyên nhưng viên hoá cốt hoàn này nổ ra tan thành một đám khói vàng cực độc, nó chạm vào người là nóng như lửa đốt. Loài vật dù ghê gớm đến đâu cũng không chịu nổi.
Không ngờ rớt xuống người Du Thản Chi, trong mình gã đầy rẫy chất âm hàn kịch độc. Chất độc trong mình gã bao trùm hết cả những chất độc khác trên thế gian, nên bất luận chất độc nào cũng không làm gì được gã nữa.
Ðinh Xuân Thu không dám đến gần đám cỏ xem, trái lại gã lùi về phía sau một bước. Lão vung tay một cái, từ trong tay áo vọt ra hai điểm lửa xanh biếc.
Hai chấm lửa này chia ra hai bên tả hữu bắn vào chỗ Du Thản Chi.
Ðinh Xuân Thu đột nhiên dơ ngón tay ra điểm. Hai chấm lửa bị chỉ lực thúc đẩy, thốt nhiên bốc lên ngọn lửa xanh lè rồi rớt xuống đất. Hai ngọn lửa bay nhanh về phía trước. Chớp mắt hai ngọn lửa hợp lại thành một cái vòng tròn rộng đến một trượng. Vòng lửa xanh biếc này chi cao hơn một tấc, nhưng cháy rất mau và chớp mắt lại thu nhỏ lại.
Diệp Nhị Nương đứng đằng xa trông thấy nói:
- Xuân Thu ca ca! Phép "Ðộc diễm sưu hình" này không ngờ thần diệu đến thế! Bữa nay tiểu Muội này rộng nhỡn giới thêm ra được một chút.
Ðinh Xuân Thu lộ vẻ đắc ý nói:
- Dù con vật nấp trong bụi cỏ kia mình nó có bọc kim cương thì gặp lửa độc diễm này cháy vào cũng biến thành tro bụi.
Du Thản Chi núp trong bụi cỏ thấy ngọn lửa xanh biếc mỗi lúc một gần lại đã sợ hãi vô cùng! Gã nghe Ðinh Xuân Thu nói vậy lại càng khiếp sợ hơn, hai hàm răng đập vào nhau cầm cập.
Ðinh Xuân Thu nghe biết là người, lập tức quát hỏi:
- Ai? Sao không ra đi?
Du Thản Chi nghĩ bụng:
- Ðã đến nước này dù trốn tránh cũng vô dụng. Nếu bị lửa đốt thành tro, há chẳng để A Tử vĩnh viễn chờ mình trong rừng đào đến mòn con mắt?
Nghĩ vậy, gã đành đứng dậy, run sợ bước ra nói:
- Sư phụ! Ðệ tử đây! Xin sư phụ dẹp trận lôi đình, đệ tử...
Ðinh Xuân Thu đột nhiên thấy Du Thản Chi vừa kinh hãi vừa mừng thầm vội hỏi:
- A Tử đâu?
Du Thản Chi lắc đầu đáp ấp úng:
- A Tử... Ðệ tử không biết nàng... đi đâu.
Ðinh Xuân Thu vung chưởng đánh ra. Chưởng lực đẩy Du Thản Chi ra xa vòng lửa.
Giữa lúc ấy, vòng lửa độc co nhỏ lại rồi nổ đùng một tiếng, bốc cháy lên thành một cái cột lửa cao năm sáu thước cực kỳ mãnh liệt rồi tắt phụt đi.
Lửa tắt rồi mà còn rít lên những tiếng kinh người.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Lẽ ra ta đốt ngươi cháy thành tro bụi, nhưng ta tha chết cho. Sao ngươi không khấu đầu tạ ơn?
Du Thản Chi thấy cột lửa mãnh liệt thì trong lòng sợ hãi vô cùng, vội sụp lạy nói:
- Ða ta sư phụ cho được sống sót!
Ðinh Xuân Thu thừa lúc Du Thản Chi lạy xuống, thò tay ra nắm huyệt mạch môn gã.
Du Thản Chi thất kinh la lên:
- Sư phụ!
Ðinh Xuân Thu nắm được gã rồi. Chính ra gã không thể cựa quậy, nhưng lúc hốt hoảng vừa bị nắm tay, gã co người lại một cái, một luồng chân khí từ huyệt mạch môn xông ra.
Ðinh Xuân Thu cảm thấy lòng bàn tay đột nhiên giá lạnh tựa hồ như một luồng khí độc trút vào người lão.
Lão sợ quá vội buông tay ra lùi lại một bước.
Du Thản Chi cũng sợ hãi nhủn cả chân tay, lại quì mọp xuống.
Ðinh Xuân Thu lúc mới gặp Du Thản Chi lần đầu đã biết trong mình gã chứa nhiều chất độc rất ghê gớm.
Lúc này lão vừa động thủ cùng Mộ Dung Phục và Ðoàn Diên Khánh là hai đại cao thủ tuyệt thế, liên tiếp sử dụng thuật Hoá công đại pháp.
Mỗi lần vận dụng Hoá công đại pháp là một lần hao tổn nguyên khí và chất độc trong mình cũng giảm bớt đi. Vì thế nên chất độc chứa trong người lão hiện nay giờ lại càng kém Du Thản Chi hơn trước. Lão lập tức buông tay vì sợ hãi quá.
Du Thản Chi quì dưới đất đập đầu binh binh kêu van:
- Sư phụ tha mạng! Sư phụ tha mạng!
Ðinh Xuân Thu trong lòng trầm tĩnh, tuy lão sợ hãi mà không lộ ra ngoài mặt. Lão điểm chân trái một cái tung người lại trước Du Thản Chi nói:
- Lúc ngươi bái sư đã có lời tuyên thệ. Thế mà nay dám phản bội sư môn trốn đi, lại dụ dỗ luôn cả sư Muội đem đi, mà ngươi còn xin tha mạng nữa ư? Du Thản Chi vẫn sì xụp lạy hoài.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Thôi được! Ta tha mạng cho ngươi cũng không sao. Nhưng từ nay trở đi, ngươi không được thay lòng đổi dạ.
Du Thản Chi nói:
- Ðệ tử không dám thế nữa.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Ngươi thú thật đi! A Tử hiện ở đâu? Giả tỉ Ðinh Xuân Thu hỏi việc khác thì Du Thản Chi nhất định nói thiệt, nhưng lão hỏi A Tử ở đâu, thì khi nào gã chịu nói! Gã chỉ cúi đầu lặng lẽ.
Ðinh Xuân Thu tức giận hỏi:
- Ngươi có muốn ta tha mạng không? Lão co chân lên đạp vào đầu sắt của Du Thản Chi.
Du Thản Chi bị lão lấy bàn chân dí đầu xuống, miệng không thể nói ra được.
Diệp Nhị Nương đứng đằng xa thấy "Ðộc điểm sưu hình" của Ðinh Xuân Thu đốt lên mà chẳng thấy con quái vật nào bò ra, chỉ thấy một gã đầu sắt hình thù cổ quái thì trong lòng khôn xiết kinh hãi. Mụ chưa nhìn thấy Ðinh Xuân Thu đánh một cái không trúng, lùi lại phía sau mà chỉ nhìn thấy Du Thản Chi quì mọp khấu đầu, năn nỉ xin tha.
Mụ liền tiến đến gần lại hỏi:
- Xuân Thu ca ca! Ca ca thu gã đầu sắt này làm đệ tử từ bao giờ?
Ðinh Xuân Thu ho lên hai tiếng chứ không trả lời.
Diệp Nhị Nương đã đến trước mặt Du Thản Chi. Mụ đưa ngón tay ra gõ vào cái đầu sắt cốc cốc mấy tiếng.
Du Thản Chi đầu đã bị chân Ðinh Xuân Thu đạp xuống như trái núi nhỏ nặng trăm cân đè lên. Gã tưởng chừng như sắp gẫy xương sống, lại bị Diệp Nhị Nương gõ mạnh hai cái làm cho mắt gã hoa, rồi bất giác chân khí chạy ngược đườmg.
Diệp Nhị Nương không biết gã còn sống hay chết, đưa tay ra sờ vào cái đầu sắt. Không ngờ lúc này chân khí trong người gã tuân ra thấm vào cái đầu sắt rất nhiều và đóng lại thành một làn băng mỏng. Tay mụ vừa đặt vào thấy lạnh toát, lập tức rút tay về đánh"soạt"một tiếng. Da lòng bàn tay mụ bị khí lạnh ở cái đầu sắt dính chặt. Mụ giựt mạnh quá đứt mất một mảng da.
Diệp Nhị Nương đau đớn vô cùng, nổi giận đùng đùng quát lên:
- Thằng lỏi đầu sắt này! Mi dùng tà pháp gì đây?
Mụ xoay tay đánh xéo ra một chưởng.
Ðinh Xuân Thu thấy Diệp Nhị Nương động thủ, vội rút chân về. Vật nặng đè lên đầu Du Thản Chi đột nhiên cất ra, người gã bật ngửa lên, vật lưng xuống đát. Cái đầu sắt đập vào tảng đá đánh "choang" một tiếng. Cái lật này khéo sao tránh được chưởng của Diệp Nhị Nương.
Diệp Nhị Nương đánh một chưởng không trúng, lại tiến lên một bước phóng chưởng thứ hai ra.
Du Thản Chi thấy mụ yêu tinh này kêu Ðinh Xuân Thu bằng ca ca nên không dám hất tay chống đỡ.
Gã chỉ dùng hai tay để che những yếu huyệt rồi kêu lên:
- Sư phụ! Ðệ tử quả không biết A Tử ở đâu, thật tình là thế!
Ga vừa nói dứt lời, đã bị Diệp Nhị Nương đánh trúng luôn ba chưởng. Người gã như cái hồ lô lăn đi mấy vòng.
Diệp Nhị Nương thấy đầu sắt gã này giá lạnh như băng. Chưởng lực mụ đánh ra, chớp mắt đã tiếu tan. Diệp Nhị Nương đánh ba chưởng rồi, mụ vụt nhớ ra gã đầu sắt là đồ đệ Ðinh Xuân Thu, mụ tự hỏi:
- Chưởng lực của mình bị tiêu tan một cách ly kỳ như vậy, phải chăng cũng nằm trong thuật Hoá công đại pháp? Mụ vừa kinh hãi vừa tức giận không dám động thủ nữa.
Du Thản Chi thở hồng hộc nói:
- Sư phụ! A Tử lạc lõng nơi đâu? Ðệ tử thực tình không biết.
Ðinh Xuân Thu cười lạt nói:
- A Tử được ngươi đi, giờ nó ở đâu sao ngươi lại không biết?
Du Thản Chi bị Ðinh Xuân Thu chất vấn mấy câu này cứng họng không nói được nữa. Gã lại thấy sư phụ dơ tay lên rồi từ từ chụp xuống thì chẳng còn hồn vía nào nữa, vội nói:
- Xin sư phụ tha mạng, đệ tử thực tình không biết A Tử lạc lõng nơi đâu?
Ðinh Xuân Thu từ từ hạ thấp tay xuống còn cách đỉnh đầu Du Thản Chi chừng ba bốn tấc, lão đột nhiên xoay cổ tay phóng chưởng ra ngoài đánh"sầm"một tiếng. Chưởng phong phóng ra làm cho mọi cây nhỏ cách đó bảy tám thước bị gãy.
Ðinh Xuân Thu quát hỏi:
- Chưởng này của ta nếu đánh vào đầu ngươi thì sẽ ra sao?
Du Thản Chi sợ hãi cứng lưỡi ấp úng nói:
- Ðệ tử làm sao chịu nổi được... chưởng lực của sư phụ?
Ðinh Xuân Thu cười lạt nói:
- Ta e rằng ca cái đầu sắt của ngươi cũng sẽ bị bẹp dúm.
Du Thản Chi nói:
- Ða ta sư phụ đã mở lòng nhơn đạo không đánh chết đệ tử.
Ðinh Xuân Thu hỏi:
- Mi không chịu nói A Tử hiện ở đâu thì ta tha thế nào được?
Du Thản Chi thở dài nói:
- Sư phụ! Xem chừng tính mạng của đệ tử đã chưa rõ là chết dưới bàn tay sư phụ. Ðệ tử... không còn biết nói sao được nữa.
Ðinh Xuân Thu sửng sốt nhưng lão cười nói:
- Gã đầu sắt kia! Mi vốn người thành thực, chắc mi không lừa gạt ta.
Du Thản Chi nghe lão nói biết rằng có cơ sống sót, liền dập đầu lạy nói:
- Khi nào đệ tử dám lừa dối sư phụ.
Ðinh Xuân Thu hỏi:
- Lúc ngươi làm lễ bái sư ta đã biểu A Tử gả cho mi làm vợ. Nay thị đã mù mắt, mi còn muốn lấy thị nữa không?
Du Thản Chi vội đáp:
- A Tử là một bậc thần tiên, đệ tử đâu dám mơ ước hão huyền.
Ðinh Xuân Thu cười nói:
- Mi đừng giả vờ nữa. Tuy mi đối với ta đã bất trung, nhưng ta vẫn tha cho mi. Vậy mi phải đưa ta gặp A Tử, nhất định đem thị gả cho mi. Du Thản Chi biết rõ tấm lòng A Tử chỉ thích vị công tử giống Mộ Dung Phục. Nếu nàng biết người cứu nàng chỉ là thằng hề đầu sắt để cho nàng đánh mắng trước kia, tất nàng phải thất vọng, khi nào chịu cam tâm lấy mình?
Nghĩ vậy gã liền đáp:
- Thiệt tình đệ tử không biết A Tử ở đâu. Dù sư phụ có căn vặn cũng vô ích mà thôi.
Ðinh Xuân Thu tức quá! Giả tỉ mà lão không cần tìm ra chiếc Bích Ngọc Vương Ðỉnh thì lúc này Du Thản Chi đã bị lão hạ độc thủ rồi. Mặt lão sa sầm, nhưng chỉ chớp mắt lão lại đổi giận làm vui cười:
- Thôi mi đứng dậy đi!
Du Thản Chi ngẩng đầu trông sư phụ vânc ngần ngừ không dám dưng dậy.
Ðinh Xuân Thu lại giục:
- Ta đã bảo mi dậy thôi!
Bấy giờ gã mới đứng dậy.
Ðinh Xuân Thu phất tay áo một cái rồi nói:
- Mi đi đi! Mi đã là kẻ bất trung, ta không cần đến hạng đệ tử như mi nữa. Chưa dứt lời, người lão đã xẹt đi một cái rồi chớp mắt không trông thấy tung tích đâu nữa.
Du Thản Chi đứng ngẩn người ra một lúc rồi lắc đầu dương hai mắt nhìn về phía trước, quả không thấy Ðinh Xuân Thu đâu nữa.
Cả Diệp Nhị Nương cũng mất tăm.
Gã nghĩ bụng:
- Hay là ta nằm mơ?
Gã ngảnh đầu thấy ngay bên có một tảng đá lớn liền đập mạnh đến"binh"một cái. Gã thấy tay đau nhói mới biết không phải nằm mơ.
Gã chạy theo mấy bước, gọi to:
- Sư phụ! Sư phụ!
Nhưng bốn bề vắng ngắt làm gì có người?
Gã lại nói:
- Sư phụ! Ðệ tử xin nói để sư phụ hay chỗ A Tử ở. Gã nói vậy là để thử xem, nếu Ðinh Xuân Thu còn quanh quẩn gần đó tất nhiên xuất hiện. Gã nhìn bốn phía vẫn chẳng thấy ai, tự cho là diệu kế, liền gọi luôn mấy lần nữa vẫn chẳng thấy hồi âm.
Bấy giờ gã mới yên tâm, lẩm bẩm một mình:
- Thật trời thương ta mới khiến cho Ðinh Xuân Thu mở lòng từ thiện để ta còn được đến với A Tử. Gã chỉ mong chóng tìm vào một thị trấn kiếm cách trừ khử cái đầu sắt, nên đi luôn một mạch hơn năm dặm đường, thì phía trước đã thấp thoáng một toà thị trấn.
Du Thản Chi cởi bỏ áo ra quấn lên đầu, chỉ để lộ ra hai con mắt rồi lại chạy đi chừng hơn nửa dặm nữa thì thấy phía trước có hai người chạy tới.
Du Thản Chi nhận ra hai người này chính là Phong Ba ác cùng Bao Bất Ðồng, thủ hạ của Mộ Dung công tử. Gã giật mình kinh hãi, không tự chủ được, liền dừng chân lại. Phong Ba ác cùng Bao Bất Ðồng lướt qua như một dây khói.
Du Thản Chi tưởng thoát rồi thở phào một cái thì thốt nhiên có người vỗ vai hỏi:
- Ồ! Làm sao ngươi phải quấn kín cả đầu thế?
Du Thản Chi ấp úng đáp:
- Tại hạ... mắc chứng sợ gió.
Phong Ba ác nói:
- Tam ca! Hỏi đến gã làm chi? Chúng ta phải rượt theo mau lên chứ!
Bao Bất Ðồng nói:
- Không phải đâu là không phải đâu! Gã lấy áo bịt đầu mà cước bộ coi chừng gấp rút, đâu phải người có bệnh. Ðúng là thằng lỏi đầu sắt.
Du Thản Chi hai tay xua loạn lên, gã mở chiếc áo quấn quanh đầu để lộ cái đầu sắt ra.
Bao Bất Ðồng cười ha hả vỗ tay nói:
- Tứ đệ xem nhỡn lực của Tam ca thế nào?
Phong Ba ác đưa tay gạt Bao Bất Ðồng ra nói:
- Tam ca phải cẩn thận!
Bao Bất Ðồng tuy không sợ hãi gì, nhưng gã đã bị độc chưởng của Du Thản Chi làm cho khổ sở. Nghe Phong Ba ác nói, gã có ý bẽn lẽn, thuận thế lùi lại sau.
Du Thản Chi lại muốn che áo lên đầu thì Bao Bất Ðồng kêu lên?
- Thằng lỏi đầu sắt kia! Mi là "thần thánh" nơi đâu?
Du Thản Chi nhăn nhó cười đáp:
- Hai vị đại gia! Tại hạ chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt chẳng có chi đáng kể, sao hai vị còn nói giỡn hoài?
Bao Bất Ðồng nói:
- Không phải đâu là không phải đâu! Tuyệt kỹ độc chưởng của mi đến Huyền Thông đại sư phái Thiếu Lâm còn không chịu nổi. Hai anh em ta đây khâm phục mi lắm. Lão Ðinh Xuân Thu tuy võ học cao thâm, nhưng thiệt ra không đủ làm sư phụ mi. Vậy lai lịch mi thế nào nói cho chúng ta nghe đi.
Du Thản Chi đáp:
- Tại hạ có lai lịch gì đâu?
Bao Bất Ðồng tiến về phía trước một bước.
Phong Ba ác rút trong ống giầy ra một lưỡi dao truỷ thủ, ánh sáng xanh lè. Gã cũng tiến lên một bước.
Du Thản Chi thấy trong tay Phong Ba ác có lưỡi đao truỷ thủ thì trong bụng mừng thầm, vội nói:
- Ðại gia! Tại hạ muốn mượn đại gia cái đó một chút có được không?
Phong Ba ác nghe gã nói vậy đột nhiên biến sắc. Y nghĩ rằng:
- Trên chốn giang hồ biết bao nhiêu là luận điệu khách sáo mà ngụ ý toàn là phản lại. Tỉ như câu: "Xin các hạ tứ giáo", xin lãnh giáo mấy tuyệt chiêu của các hạ đều đưa đến chỗ đánh nhau chí mạng. Gã này lại dùng chữ mượn thì cái vật mượn hoặc là một cánh tay một cái chân, có khi cả cái đầu nữa.
Y nghĩ vậy trong lòng không khỏi kinh hãi liền hỏi lại:
- Mi muốn mượn cái gì? Du Thản Chi dơ tay trỏ vào Phong Ba ác.
Phong Ba ác lại càng sợ hơn, lùi lại một bước.
Bao Bất Ðồng lên giọng the thé hỏi:
- Mi mượn cái gì, nói rõ ra?
Bao chưa dứt lời hai chân đột nhiên đã nhảy xéo sang một bên chạy vào trong đám cỏ rậm.
Bỗng thấy trong đám cỏ vọng ra hai tiếng kêu quái gở.
Bao Bất Ðồng laị nhảy vọt ra, mỗi tay xách một người.
Cả hai người bị Bao Bất Ðồng lôi ra đều gắng sức cựa quậy, nhưng họ bị hai tay y nắm chặt chẳng khác gì những cái lưỡi câu bằng thép bám chặt lấy, thì còn cựa quậy sao cho thoát được.
Bao Bất Ðồng chạy ra trước mặt Phong Ba ác rồi buông tay liệng hai người đó ra. Thân hình chúng đã vừa lăn xuống đất thì lập tức chân y đã đạp lên lưng họ.
-
Hồi 73 - Kết Bạn Hiền Ba Ác Tặng Đao - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 73 - Kết Bạn Hiền Ba Ác Tặng Đao
Hai người này ngẩng đầu lên kêu gọi:
- Sư đệ! Ðộng thủ mau đi!
Du Thản Chi chưa rõ hai người đó là ai. Bây giờ thấy họ kêu mình bằng sư đệ mới biết họ là sư huynh mình.
Bao Bất Ðồng cười ha hả nói:
- Té ra các ngươi là môn hạ phái Tinh Tú. Bọn ngươi lén lút làm trò gì đó?
Hai người kia đáp:
- Bao anh hùng! Bọn chúng tôi vâng mệnh sư phụ theo giám sát hành động gã đầu sắt này, không liên quan gì đến lão gia, mong rằng lão gia"nhẹ gót"cho!
Thường thường người ta nói nhẹ tay, nhưng hiện giờ Bao Bất Ðồng đạp chân lên bọn họ, nên hai gã này dùng hai chữ"nhẹ gót"để xin Bao Bất Ðồng nhấc chân ra.
Bao Bất Ðồng cười ha hả nhấc chân lên. Gã quả có tính cách anh hùng, thực tình không muốn chấp nhật với hạng vô liêm sỉ, mở miệng ra van xin như bọn này.
Du Thản Chi cả kinh nói:
- Bao anh hùng! Tha chúng không được đâu!
Hai gã đệ tử phái Tinh Tú vừa đứng dậy, lập tức vươn tay ra.
Du Thản Chi còn đang kinh hãi ngơ ngẩn thì hai tay đều bị chúng nắm chặt.
Hai gã này nắm được Du Thản Chi liền quát:
- Mau theo chúng ta về ra mắt sư phụ!
Du Thản Chi năn nỉ:
- Sao hai vị sư huynh lại cố tình làm khó dễ tiểu đệ? Nếu hại vị chịu buông tha thì tiểu đệ suốt đời không quên ơn đức.
Hai gã lớn tiếng quát:
- Không được!
Rồi kéo Du Thản Chi về phía trước.
Du Thản Chi cựa mạnh hai tay một cái. Gã chỉ mong thoát khỏi bàn tay hai người sư huynh. Ngờ đâu gã vừa dựt tay một cái hai gã kia đã văng xa ra hai bên tả hữu cách mấy trượng. Lúc rớt xuống cả hai gã đều bị gẫy xương đứt gân chết ngay lập tức.
Du Thản Chi thộn mặt ra một lúc rồi xoay mình trốn chạy.
Phong Ba ác và Bao Bất Ðồng cùng kinh hãi vô cùng đồng thanh la lên:
- Khoan đã!
Du Thản Chi thấy hai vị sư huynh thốt nhiên bay đi rồi té chết thì cho là tại hai gã Phong, Bao ám toán nên gã cả sợ cũng định trốn luôn.
Bây giờ thấy Phong, Bao la gọi lại càng kinh hãi muốn chạy lẹ hơn.
Du Thản Chi sợ quá chân tay cuống quýt, té huỵch ngay xuống.
Phong Ba ác nhảy xổ lại như một cơn gió thoảng.
Gã hỏi:
- Lúc nãy ngươi hỏi mượn gì ta?
Du Thản Chi đáp:
- Tại hạ... tại hạ không dám nghĩ đến việc quá cao xa ấy nữa.
Tuy nói vậy nhưng mắt gã vẫn đăm đăm nhìn ra vẻ thèm muốn lưỡi đao truỷ thủ trong tay Phong Ba ác và nhếch mép gượng cười.
Phong Ba ác thấy Du Thản Chi nhìn chằm chặp lưỡi dao truỷ thủ của mình liền tỉnh ngộ ngay hỏi:
- Có phải ngươi muốn mượn lưỡi truỷ thủ của ta không?
Du Thản Chi đáp:
- Tại hạ quả có ý ấy, nhưng nếu các hạ không bằng lòng cho thì thôi.
Phong Ba ác hỏi:
- Lưỡi truỷ thủ của ta cắt sắt như cắt bùn, phải chăng ngươi định mượn để tháo bỏ cái đầu sắt đi?
Du Thản Chi đáp:
- Chính thế!
Phong Ba ác cười lạt nói:
- Lúc ta còn ở trước cửa chùa Thiếu Lâm đã muốn tháo cái đầu sắt cho ngươi. Ngươi chẳng những không chịu còn đánh ta một chưởng, khiến cho ta phải đau khổ bao nhiêu ngày. Sao nay ngươi lại...
Du Thản Chi kinh hãi vô cùng cãi ngay:
- Phong đại gia, đại gia lầm rồi. Tại hạ có bản lãnh gì mà phóng chưởng đánh đại gia?
Phong Ba ác là người thẳng thắn nóng nảy, thấy Du Thản Chi chối bây bẩy thì tức giận quát lên:
- Giỏi lắm! Ngươi đánh người mà không chịu nhận. Vậy ta hỏi ngươi: Khi trước ở chùa Thiếu Lâm một chưởng đánh vào vai ta chẳng lẽ là tay con chó ư?
Bao Bất Ðồng lại pha trò:
- Không phải đâu là không phải đâu! Ðó là móng chân con rùa đen đấy.
Du Thản Chi đỏ mặt lên đáp:
- Ðấy là thần thông của Tinh Tú lão tiên, chứ không liên quan gì đến tại hạ.
Phong Ba ác cùng Bao Bất Ðồng rất là nghi hoặc. Vì rõ ràng họ trúng độc chưởng của Du Thản Chi nên mới bị khổ sở đến nỗi thần y Tiết Mộ Hoa cũng đành bó tay không chữa được. Nếu không có tiểu hoà thượng kia ra tay cứu thì không biết số phận họ sẽ ra sao? Thế mà gã đầu sắt này không chịu nhận là nghĩa gì? Và coi bộ hắn cũng không phải là một kẻ giảo quyệt.
Hai người đồng thanh hỏi:
- Lão quái đó có môn thần thông gì?
Du Thản Chi ngần ngừ đáp:
- Tinh Tú lão tiên bảo đó là một pháp thuật thần kỳ của phái Tinh Tú, không thể nói cho người ngoài nghe được.
Bao Bất Ðồng cùng Phong Ba ác càng nghe càng lấy làm kỳ, hỏi ngay:
- Pháp thuật ư? Phái Tinh Tú còn hiểu cả pháp thuật nữa kia à?
Du Thản Chi vẫn nhìn chằm chặp lưỡi đao truỷ thủ trong tay Phong Ba ác. Gã nghĩ đến lúc sư phụ truyền dạy pháp thuật đã dặn mình chỉ lẩm bẩm đọc một câu khẩu quyết là tự nhiên tâm linh lão cảm ứng, dù ở xa cũng có thể thi triển pháp thuật để giúp đỡ cho. Nhưng nay mình đem A Tử trốn đi làm cho sư phụ đang căm hận. Pháp thuật chả biết có ứng nghiệm nữa không. Chỉ sợ niệm khẩu quyết lên, sư phụ biết mình ở đây thì nguy to.
Gã ngẫm nghĩ mãi không quyết đoán được.
Phong Ba ác kéo Bao Bất Ðồng ra nói:
- Tam ca! Chúng ta đi thôi! Gã đầu sắt này là kẻ thù của chúng ta, cho gã mượn đao truỷ thủ làm chi?
Du Thản Chi bản tâm muốn vào một thị trấn để kiếm thợ rèn tìm cách tháo cái đầu sắt cho mình. Nhưng dao búa của thợ rèn đâu có được bằng lưỡi truỷ thủ cắt sắt như cắt bùn kia?
Gã thấy hai người bỏ đi, vội nói:
- Tại hạ xin nói, tại hạ xin nói! Câu khẩu quyết đó là: "Tinh Tú lão tiên. Tinh Tú lão tiên! Giúp giùm đệ tử để thắng kẻ địch. Một, ba, năm, bảy, chín". Tại hạ mà niệm quyết lên thì y ở nơi xa cũng thi triển pháp thuật đặng giúp cho tại hạ thủ thắng.
Phong Ba ác cùng Bao Bất Ðồng lúc mới nghe không khỏi ngẩn người ra. Nhưng sau chợt hiểu ra nên không nhịn được, đều nổi lên một tràng cười rộ.
Phong Ba ác cười lăn lộn, Bao Bất Ðồng thì ôm bụng rũ ra mà cười.
Gã vừa cười vừa la lên:
- Úi chao! Trời ơi là trời!
Du Thản Chi nói:
- Xin các vị chớ cười, phát chưởng ngày nọ mà tại hạ đánh các vị bị thương, chắc là pháp thuật của sư phụ tại hạ đó.
Phong Ba ác cố nín cười lại nói:
- Anh bạn đầu sắt ơi! Chúng ta tuy bị ngươi làm khổ sở, nhưng thấy lão quái vật đó lừa như vậy, ta chẳn phục lão tí nào. Lão quái vật đó biết cóc gì pháp thuật. Chỉ có công lực của ngươi xứng đáng là tay cao thủ đệ nhất trong võ lâm, cái đó mới là thực sự.
Du Thản Chi khoát tay lia lịa nói:
- Tôn giá đừng nói hàm hồ. Tại hạ mà là tay cao thủ đệ nhất ư? Ha ha!
Du Thản Chi tự cho mình chỉ là tay cao thủ đệ nhất đối với A Tử để nàng xây giấc mộng đẹp thì nàng mới cao hứng.
Phong Ba ác thấy gã ngẩn người ra lại nói:
- Theo chỗ ta biết thì công lực của Tinh Tú lão quái có khi chưa bằng ngươi.
Du Thản Chi lại xua tay nói:
- Các hạ chớ nói thế! Các hạ chớ nói thế!
Bao Bất Ðồng đến bên Phong Ba ác nói:
- Phong tứ đệ! Gã này dở điên dở khùng, không nói chuyện với gã nữa.
Phong Ba ác nghiêm nét mặt nói:
- Anh bạn đầu sắt! Rồi một ngày kia ngươi sẽ biết ta nói thực. Võ công ngươi cực cao. Công phu độc chưởng thiệt là thứ nhất thiên hạ. Ta mong rằng từ đây về sau ngươi đừng phát chưởng bừa bãi như trước nữa!
Du Thản Chi vội nói:
- Tại hạ chỉ mong đừng ai đánh mình, chứ khi nào còn dám đánh ai?
Phong Ba ác quật lưỡi đao truỷ thủ vào ống giày hai cái rồi quẳng lại cho Du Thản Chi nói:
- Tốt lắm! Phong mỗ cho ngươi lưỡi đao này để kết giao tình bằng hữu.
Du Thản Chi hai tay đón lấy. Gã ngẩn người ra một lúc rồi quì phục xuống đất.
Trên chốn giang hồ lòng người nham hiểm giả dối.
Phong Ba ác cùng Bao Bất Ðồng đều là những tay lịch duyệt, chỗ nào cũng để ý.
Hai gã vừa thấy Du Thản Chi quì xuống liền lạng người đi né tránh.
Du Thản Chi tuyệt không có ý hại người, gã dập đầu ba lạy rồi trịnh trọng nói:
- Hai vị lấy tình bạn đối với Du mỗ khiến Du mỗ cảm kích vô cùng!
Phong Ba ác nói:
- Ồ! Té ra người họ Du.
Du Thản Chi đáp:
- Vâng! Tại hạ họ Du.
Bao Bất Ðồng hỏi:
- Nhà họ Du ở Tụ hiền trang nổi tiếng hào hiệp khắp nơi. Ngươi có phải thuộc giòng họ Du này không?
Du Thản Chi nghe nói mà đau lòng. Gã ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:
- Tại hạ vẫn ngưỡng mộ đại danh nhà họ Du ở Tụ hiền trang, nhưng chưa có phúc phận được gặp hai vị Du lão anh hùng.
Miệng nói mà hai hàng nước mắt gã chảy ra đầm đìa, nhưng vì đầu chụp lồng sắt nên người ngoài không nhìn thấy.
Hai gã Phong Bao đưa mắt nhìn nhau và đều hiểu gã đầu sắt này không muốn nói rõ lai lịch mình. Vì gã đã giao tình bằng hữu thì lo gì chẳng còn cơ hội để hỏi cho ra.
Hai gã nghĩ vậy liền chắp tay nói:
- Du bằng hữu! Chúng ta xin cáo biệt ngươi đây. Sau này sẽ có ngày tái hội.
Phong Ba ác cùng Bao Bất Ðồng trở gót chạy đi như luồng gió thoảng.
Hai gã đi rồi, Du Thản Chi cũng ra đi. Gã đi một lúc thì đến bờ một con sông nhỏ. Gã đứng bên bờ sông nhìn bóng mình in hình trên mặt nước. Gã từ từ dơ lưỡi truỷ thủ lên mà không khỏi phát run.
Cái lồng sắt này dính liền vào da thịt trên mặt và đầu gã, bây giờ tháo ra có khi nguy đến tính mệnh, trách nào gã chẳng bở vía. Nhưng gã nghĩ tới việc sau khi bỏ được nó ra thì có thể vĩnh viễn trở nên Vương Tinh Thiên chưởng môn nhân phái Cực Lạc và sẽ được kề cận bên mình A Tử không còn sợ hãi chi nữa.
Nghĩ vậy, dũng khí lại nổi lên bồng bột. Gã nắm chặt chuôi đao nhìn đúng vào vết hàn khẽ rạch xuống.
Lưỡi truỷ thủ của Phong Ba ác quả nhiên sắc bén vô cùng, mới khẽ rạch một cái mà chỗ giáp nối đã hở ra.
Du Thản Chi cất lưỡi truỷ thủ đi. Một tay đằng trước một tay đằng sau nắm lấy hai bên lồng sắt. Gã hít mạnh một hơi rồi dùng hết sức bình sinh kéo ra. Gã đã quyết chí dùng sức giật rất mạnh, nên hai mảnh lồng sắt lôi luôn cả da thịt ra, gã thấy một cơn đau kịch liệt thấu vào tâm can. Trời đất hình như quay cuồng, gã đau quá kêu lên một tiếng rồi ngất đi.
Không biết ngất đi đã bao lâu, Du Thản Chi từ từ hồi tỉnh, gã thấy đau kịch hơn, không mở mắt ra được. Gã gắng gượng thò tay lên sờ thì biết rằng nửa người trên mình ngập trong vũng máu. Gã lại đưa tay lên sờ đầu thì thấy tay lạnh cứng đơ, gã tưởng chưa bỏ được đầu sắt ra tinh thần lại càng đau đớn rồi ngất đi lần nữa.
Thật ra Du Thản Chi giật được đầu sắt ra rồi, nhưng da thịt bị đứt ra mấy miếng, máu tươi chảy ra như suối. Gã đau quá ngất đi đầu dốc xuống sông. Cũng may mà đầu gã thấm nước vào, không thì gã cứ mê man máu chảy không ngớt thì rất có thể nguy đến tính mạng. Ðầu mặt dúng xuống sông khí lạnh thấm vào trong người máu mới đông kết lại được và thành một tấm màn che ngoài, tự nhiên cầm được huyết bên trong không chảy ra nữa.
Lúc Du Thản Chi tỉnh lại sờ lên mặt lên đầu thì đụng vào lớp băng đóng. Ðến lần thứ hai tỉnh lại lớp băng tan dần đi và chỉ thấy đầu mặt gã nóng ran. Gã gắng gượng ngồi dậy cúi đầu nhìn bóng mình dưới nước bất giác cả kinh giật nẩy mình lên. Ban đầu gã tưởng dưới sông ẩn nấp một con quái vật, nhưng sau gã biết con quái vật đó chính là bóng mình.
Du Thản Chi ngẩn người ra một lúc rồi mạnh dạn nhìn kỹ bóng mình dưới sông thì thấy trên mặt máu thịt lùng nhùng mất đi từng mảnh da. Trông chẳng khác gì quỉ sứ. Trong lòng gã rất là khó chịu phải nhắm mắt lại.
Gã nghĩ bụng: Ðầu mặt mình sứt sẹo cực kỳ xấu xa, có lẽ khắp thiên hạ không có ai là người trông thấy mình mà chẳng ghê sợ. Nhưng may thay A Tử đui mắt không nhìn thấy tướng mạo mình, mình sẽ đưa nàng đến một nơi không có vết chân người, lúc ấy chỉ có mình và A Tử hai người thì dù mình có xấu xa đến đâu cũng chẳng cần gì.
Du Thản Chi xoay người lại đưa chân ra đá hai mảnh đầu sắt dính đầy da thịt tóc tai xuống sông. Gã cố nhịn đau đi về phía rừng đào. Khi gần đến nơi trái tim gã đập loạn lên. Gã xuyên qua rừng thấy một cô gái ngồi trên bờ suối.
Còn đằng xa, Du Thản Chi đã la gọi:
- A Tử! A Tử!
Không thấy cô gái quay đầu lại, Du Thản Chi giật mình nghĩ thầm:
- Chẳng lẽ vì mình đi lâu quá mà nàng bực mình không còn muốn nhìn đến mình nữa?
Gã đi lại gần thêm mấy bước phát giác có điều khác lạ, cô gái này không mặc áo tía. Gã bồn chồn đứng ngây người ra không biết làm thế nào?
Bỗng cô gái bật lên tiếng cười khành khạch quay lại hỏi:
- Ngươi đã về đấy ư? Ta chờ ngươi lâu... lâu quá rồi!
Du Thản Chi giật nẩy mình lên.
Nguyên người đàn bà này là Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương chứ không phải A Tử của gã.
Diệp Nhị Nương vừa ngó thấy Du Thản Chi thì cũng sợ xám mặt lại. Mụ đã có biệt hiệu là Vô ác bất tác thì bất luận là những việc tàn ác đến đâu mụ cũng chẳng coi thường? Vậy mà vừa thấy mặt Du Thản Chi đầy máu thịt bầy ngầy, mụ không khỏi kinh hãi thất sắc.
Du Thản Chi tiến lại gần một bước hỏi:
- A Tử đâu rồi?
Diệp Nhị Nương trấn tĩnh lại hỏi:
- Ngươi tìm nàng ư?
Du Thản Chi biết mụ này rất thân với Ðinh Xuân Thu và cũng là một tay tàn ác. Nếu không vì A Tử thì gã đã bỏ chạy rồi. Vậy mà lúc này gã lại tiến gần thêm bước nữa hỏi luôn mấy câu?
- A Tử đâu? A Tử đâu?
Ðầu mặt gã đầm đìa những máu, trong mắt chiếu ra những tia sáng hoảng hốt.
Diệp Nhị Nương không khỏi kinh hãi, gượng cười hỏi lại:
- A Tử có phải là con nhỏ mặt trái soan mình mặc áo tía không?
Du Thản Chi vội la lên:
- Phải rồi! Chính nàng đó! Nàng hiện ở đâu?
Diệp Nhị Nương trỏ tay vào bụi rậm ở bờ sông đáp:
- Nàng ra ngoài đó rửa chân. Làm gì mà ngươi phải gọi rối lên thế.
Du Thản Chi tưởng thật, trở gót chạy ra bờ sông.
Diệp Nhị Nương thân pháp nhanh như gió, lướt theo sau Du Thản Chi, phóng ra một chưởng.
Du Thản Chi không ngờ Diệp Nhị Nương đột nhiên ám toán. Phát chưởng của mụ đánh trúng lưng gã, gã bị hất đi hai bước rồi ngã xuống đất.
Vừa té xuống, Du Thản Chi đã trông thấy A Tử nằm duỗi chân trong bụi cỏ rậm, không hiểu nàng còn sống hay chết?
Diệp Nhị Nương đuổi tới nơi, mụ đạp chân lên Du Thản Chi quát hỏi:
- Mi là ai?
Du Thản Chi thở hồng hộc hỏi lại:
- A Tử! Mụ làm cho A Tử thế nào rồi đây?
Du Thản Chi không hề biết nội công mình rất mực cao thâm. Nếu Diệp Nhị Nương mà đối phó với gã, dù dùng cả quyền cước, gã cũng không dám trả đòn. Nhưng lúc này lòng gã xao xuyến lo cho sự yên nguy của A Tử, gã hết sức cựa quậy.
Diệp Nhị Nương bỗng cảm thấy một nguồn đại lực xô tới người mụ không tự chủ được ngã ngửa ra phía sau.
Du Thản Chi nhảy phốc lại, nắm lấy vai mụ lớn tiếng quát:
- A Tử! A Tử làm sao rồi? A Tử làm sao rồi?
Diệp Nhị Nương bị Du Thản Chi nắm chặt, một luồng khí âm hàn từ bàn tay gã truyền vào trong thân thể mụ. Mụ bị rét quá hai hàm răng run lên lập cập, mắt trắng dã, mụ không nói ra tiếng nào nữa?
Du Thản Chi thấy tình trạng Diệp Nhị Nương như vậy thì không khỏi kinh hãi. Gã biết võ công đối phương rất cao cường, mà sao mặt mụ biến đổi thành quái lạ đến thế.
Gã tự hỏi:
- Phải chăng mụ đang phát huy một thứ công phu ghê gớm gì đây để hạ mình?
Nghĩ vậy gã càng khiếp sợ. Năm ngón tay tự nhiên nới ra.
Diệp Nhị Nương người mềm nhũn nằm lăn dưới đất, thở ra thì nhiều mà hít vào thì ít. Mụ không nhúc nhích được nữa.
Du Thản Chi thộn mặt ra một lúc. Gã còn cho mình gặp vận đỏ. Mụ ma đầu này chưa hành hạ mình, mà còn đang vận động nội công, và chỉ lát nữa mụ sẽ hành tội mình.
Nghĩ vậy, gã không dám bỏ mất cơ hội chớp nhoáng này, vội chạy đến bên A Tử. Gã thất A Tử chỉ bị điểm huyệt thì thở phào một cái nhẹ nhõm. Gã biết cách giải khai huyệt đạo, liền vỗ nhẹ vào người A Tử một cái.
A Tử thở một hơi khoan khoái trở mình ngồi dậy nói:
- Ta nghe rõ cả rồi!
Du Thản Chi giật mình hỏi:
- Cô nương nghe rõ điều chi?
A Tử vẻ mặt hớn hở đáp:
- Ta nghe rõ công tử chỉ ra tay một cái mà Vô ác Bất tác Diệp Nhị Nương bị hạ không kịp kêu lên một tiếng. Dường như mụ bị ngẹt hơi phải không?
Du Thản Chi run lên hỏi:
- Vô ác Bất Tác Diệp Nhị Nương?
A Tử cười đáp lại:
- Mụ ấy chết rồi phải không?
Du Thản Chi tuy học võ chưa bao lâu, nhưng khi gã còn ở Tụ hiền trang thì khách võ lâm nổi tiếng qua lại rất nhiều dĩ nhiên là gã đã nghe đến tiếng tăm của Thiên hạ Tứ ác. Gã sợ toát mồ hôi, nói không ra lời.
A Tử lấy làm lạ hỏi:
- Công tử làm sao vây?
Du Thản Chi lắp bắp:
- Mụ ấy... mụ ấy...
Gã định nói mụ ấy giả vờ đó. Nhưng gã nghĩ lại mình đối với A Tử là Vương Tinh Thiên, chưởng môn nhân phái Cực Lạc thì sợ gì thiên hạ tứ ác?
Gã liền mạnh dạn đáp:
- Phải rồi! Người như mụ dĩ nhiên không chịu nổi một đòn của tại hạ. A Tử! Chúng ta đi thôi!
A Tử ngửa mặt lên hướng về phía Du Thản Chi ra chiều khâm phục vô cùng.
Nàng nói:
- Vô ác Bất Tác Diệp Nhị Nương võ công rất mực cao cường. Cả Ðinh lão quái cũng đề cập đến mụ luôn trước mặt các đệ tử. Thế mà mụ bị công tử hạ thủ một cách dễ dàng. Ta biết rằng từ nay đã bạn bè cùng công tử thì không ai dám coi thường mình nữa.
Nàng nói mấy câu sau dường như cảm xúc đến ngẹn ngào, cơ hồ không ngăn giọt lệ.
Du Thản Chi vội nói:
- Tại hạ cùng cô nương ở luôn bên nhau thì dĩ nhiên không còn ai dám khinh mạn cô nương nữa.
A Tử hớn hở tươi cười. Nàng nghẹo đầu thủ thỉ nói:
- Công tử đã đối với ta thân thiết thế này thì ta phải nhờ công tử một việc.
Du Thản Chi hỏi:
- Việc gì? Cô nương cứ nói ra. Nhưng chúng ta phải dời khỏi nơi này đã chứ!
Trong lòng gã vẫn lo sợ Diệp Nhị Nương đứng lên thì mình bị nguy với mụ, nên vẫn muốn dời xa ngay. Gã có biết đâu rằng Diệp Nhị Nương chưa chết, cũng chẳng dám động thủ với gã nữa.
A Tử nói ngay:
- Ta chắc công tử không muốn nghe lời ta!
Du Thản Chi vừa dắt A Tử đứng dậy đi vừa nói:
- Tại hạ nhất định nghe lời cô nương.
A Tử cười hỏi:
- Ta chưa nói ra việc gì công tử đã biết đâu mà ưng thuận.
Du Thản Chi nghĩ bụng:
- Bất luận nàng yêu cầu việc gì mà mình chẳng hết sức, dù phải nhảy vào đống lửa cũng chẳng dám từ nan.
Nghĩ vậy gã hỏi:
- Cô nương muốn tại hạ làm gì? Xin nói cho nghe!
A Tử dừng bước hơi ngửng đầu lên nói:
- Công tử! Ta muốn tranh đoạt chức chưởng môn phái Tinh Tú.
Du Thản Chi không ngờ nàng lại đi yêu cầu cái việc oái oăm này.
Gã ấp úng hỏi lại:
- Cô nương! Cô nương... bảo sao?
A Tử nhắc lại:
- Ta muốn công tử giúp đỡ cho ta lên làm chưởng môn nhân phái Tinh Tú.
Du Thản Chi bất giác run lên, hỏi lại A Tử:
- Cái đó cô nương nói giỡn chăng?
A Tử chau mày làm mặt giận nói:
- Công tử vừa bảo bất luận làm việc gì cũng ưng thuận kia mà? Làm sao với cái việc cỏn con này mà đã chối đây đẩy?
Du Thản Chi nhăn nhó cười hỏi:
- Phải phải! Cái đó mà là việc nhỏ ư?
A Tử đáp:
- Phải rồi! Võ công của công tử cao thâm quán thế. Công tử đã nói ai sợ Ðinh Xuân Thu thì sợ, chứ công tử không sợ lão. Thế thì việc đánh bại Ðinh Xuân Thu đối với công tử chẳng có chi mà khó.
Du Thản Chi cũng nói bừa:
- Phải rồi... việc đó chả khó gì? ...
A Tử thích quá nói:
- Thế thì hay lắm! Công tử đánh bại Ðinh Xuân Thu, để ta lên làm chưởng môn phái Tinh Tú và bắt Ðinh Xuân Thu phải lạy tạ xin xuống làm kẻ môn hạ. Ha ha! Thế thì tuyệt quá.
Du Thản Chi nghe xong không còn nói sao được nữa.
Gã nghĩ bụng:
- Ðinh Xuân Thu là sư phụ A Tử. Nàng mượn sức người ngoài để tranh đoạt chức chưởng môn cũng đã là một việc hiếm thấy trong võ lâm, nàng lại còn muốn bắt sư phụ hạ mình xuống lạy nàng để xin làm môn hạ, thì thiệt là một việc quái gở, chưa từng nghe ai nói đến bao giờ.
Phái Tinh Tú vốn là một tà phái nhất thiên hạ, chẳng có việc chi là họ không dám làm. A Tử nghĩ như vậy, nàng nói ra rồi tự mình lấy làm thú vị, chẳmng nghĩ gì đến hành động vô lý nữa.
Du Thản Chi ngẩn người ra một lúc rồi nói:
- A Tử! Thanh danh phái Tinh Tú thiên hạ đều chán ghét chẳng có gì là vinh. Cô nương chẳng nên làm chưởng môn nhân phái đó làm chi.
A Tử ngẹo đầu nói:
- Không, không, oai danh phái Tinh Tú chấn động khắp nơi. Vả lại báu vật của bản phái là cái Bích ngọc vương đỉnh chỉ mình ta biết chỗ, vậy ta xứng đáng làm chức chưởng môn. Ta chỉ biết thế thôi. Công tử vừa ưng thuận ta rồi, bây giờ lại hối hận hay sao?
Du Thản Chi vội đáp:
- Tại hạ không hề hối hận, có điều thắng được Ðinh Xuân Thu...
Trong lòng gã lấy làm khó nghĩ. Gã đã tự xưng là chưởng môn nhân phái Cực Lạc, lại tự nhận võ công quán thế chẳng qua là để làm vui lòng A Tử. Ngờ đâu nàng lại có ý nghĩ trớ trêu muốn giành giật chức chưởng môn phái Tinh Tú? Gã nhất định không dám động tới Ðinh Xuân Thu thì làm sao mà đoạt được chức chưởng môn cho A Tử.
A Tử cúi đầu xuống nói:
- Vương công tử! Ta cùng công tử ở với nhau, vẫn cảm thấy có điều không xứng đáng.
Du Thản Chi cả kinh hỏi:
- A Tử! Sao cô nương lại nói thế?
A Tử đáp:
- Công tử là chưởng môn một phái mà ta chẳng làm gì hết thì xứng đáng làm sao được với công tử?
Du Thản Chi dậm chân nói:
- Tại hạ cũng không phải...
Gã nói giở chừng rồi im bặt.
A Tử hỏi:
- Công tử không phải là gì?
Du Thản Chi liền lái sang chuyện khác:
- Tại hạ không phải là có ý cự tuyệt lời yêu cầu của cô nương. Nhưng...
Gã động tâm nói ngay:
- Nhưng Tinh Tú lão quái bây giờ không biết đi đâu? Chúng ta kiếm lão thế nào được?
A Tử cười đáp:
- Cái đó công tử khỏi lo. Chỉ cần phóng lên một tín hiệu của bản môn là lão tìm đến ngay!
Du Thản Chi vội la lên:
- Không, không được!
A Tử lấy trong tay áo ra một mũi tên nhỏ sắc tía, nàng chỉ bóp mạnh đuôi mũi tên một cái. Chất lưu hoàng gặp gió tự nhiên cháy lên rồi"véo"một tiếng, mũi hỏa tiễn biến thành một dây lửa sắc tía bay vọt lên trên không.
Du Thản Chi thấy vậy hồn vía lên mây.
A Tử vỗ tay rồi nói:
- Công tử coi xem tín hiệu có lên cao không?
Du Thản Chi bất đắc dĩ ngẩng đầu lên xem thì thấy dây lửa vọt lên lưng chừng trời rồi nổ đánh đùng một tiếng, toé ra thành một đám mưa hoa sắc tía rớt xuống. Cứ tình hình này mà đoán thì e rằng người đứng ngoài xa mười dặm cũng trông thấy...
Du Thản Chi sợ quá, vội nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của A Tử vừa la lên:
- Chạy đi thôi!
A Tử bị gã nắm tay không chủ động được phải chạy theo.
Nàng vừa chạy vừa la hỏi:
- Làm sao mà phải chạy? Ðinh Xuân Thu nhìn thấy ánh lửa thì lập tức tìm đến đây ngay kia mà? Du Thản Chi chẳng nói năng gì cứ ra sức chạy liền một mạch đến năm bảy dặm mới dừng lại.
A Tử giật tay ra hỏi?
- Công tử không dám động thủ với Ðinh Xuân Thu hay sao?
Du Thản Chi thở phào đáp:
- Không! Không! Ðinh Xuân Thu thì đáng kể gì?
A Tử hỏi:
- Thế làm sao mà công tử phải chạy đi như vậy?
Du Thản Chi gượng cười đáp:
- Không phải tại hạ chạy vì sợ lão đâu. Tại hạ chỉ sợ đến lúc động thủ cùng Ðinh Xuân Thu sẽ làm liên lụy đến cô nương nên phải dắt cô nương ra chỗ khác.
A Tử đổi giận làm tươi hỏi:
- Bây giờ công tử định thế nào?
Du Thản Chi đáp:
- Tại hạ sẽ một mình quay về đối phó với Ðinh Xuân Thu.
A Tử lắc đầu đáp:
- Không được! Công tử vừa bảo không dời xa ta nữa kia mà!
Du Thản Chi định gạt nàng, bỏ đi một lúc lâu sẽ quay lại nói dối là đã đánh chết Ðinh Xuân Thu rồi. Không ngờ A Tử khăng khăng một mực đòi theo mình. Dù nàng đui mắt nhưng mình gạt nàng thế nào được.
A Tử có biết đâu Du Thản Chi ruột nóng như lửa đốt, nàng lại nói:
- Ðánh bại Ðinh Xuân Thu rồi, ta còn muốn một việc khác.
Du Thản Chi cơ hồ phát khóc, nhưng cố trấn tĩnh hỏi:
- Cô nương còn muốn điều chi?
A Tử đáp:
- Chồng chị ta trước làm bang chúa Cái bang nhưng bị một lũ ăn xin ngu ngốc tranh đoạt cây đả cẩu bổng, tước mất quyền vị bang chúa của y. Bây giờ nếu mình cướp lại được cây đả cẩu bổng ở trong tay họ, thì sung sướng biết chừng nào!
Du Thản Chi hai chân mềm nhũn, bất giác ngồi phệt xuống đất hỏi:
- Cô nương còn có chủ ý gì?
A Tử mỉm cười đáp:
- Làm xong hai việc này rồi sẽ bàn.
Du Thản Chi trong lòng lo lắng không biết đến đâu mà kể.
A Tử lại hỏi:
- Ô hay! Sao chẳng nghe thấy tin tức gì về Ðinh Xuân Thu? Ta lại phải phóng một cây tín hiệu nữa lên mới được.
Du Thản Chi ấp úng:
- A Tử!... Chúng ta...
Gã toan thú thật với A Tử minh chỉ là gã đầu sắt bất tài, chứ không phải là con người phong lưu tuấn nhã, một vị chưởng môn võ công tuyệt đỉnh như nàng tưởng đâu. Mình chửa trông thấy Ðinh Xuân Thu đã muốn đập đầu van lạy xin tha thì còn nói chi đến chuyện tranh đoạt chức chưởng môn phái Tinh Tú nữa.
A Tử lại hỏi:
- Công tử bảo sao? Cặp mắt ta bị Ðinh Xuân Thu làm cho đui mù. Mối cừu hận này không bao giờ tiêu tan được. Chẳng lẽ công tử không chịu rửa hận cho ta ư?
Du Thản Chi biết A Tử là người thông minh tuyệt đỉnh, nếu mình còn nói quanh quẩn, tất bị nàng phát giác. Gã liền nói:
- Phải rồi! Chúng ta đi tìm Ðinh Xuân Thu!
A Tử cả mừng nói:
- Hay qua! Chúng ta phải đi mau!
Du Thản Chi lại lôi A Tử chạy về phía trước. A Tử hai mắt đui mù, vẫn tưởng gã chạy về lối cũ. Ngờ đâu gã lại đưa nàng chạy đi ngả khác. Hai người chạy đi chừng năm sáu dặm. A Tử vẫn tưởng Du Thản Chi dẫn mình về chỗ cũ nhưng thực ra gã dẫn nàng về hướng ngược lại, thành ra đi đã xa gấp đôi trước.
Du Thản Chi dừng bước nói:
- Ô hay! Sao không thấy Ðinh Xuân Thu?
Gã sợ A Tử phát giác ra mình lừa bịp, vì trong lòng không khỏi kinh hãi, nên giọng nói run run.
A Tử nói:
- Trừ phi lão chưa nhìn thấy tín hiệu, không thì lão đã tới nơi rồi. Ta còn có tín hiệu bên mình, lại đốt lên cái nữa xem.
Du Thản Chi vội gạt đi:
- Bất tất phải đốt nữa!
Nhưng A Tử cử động rất mau lẹ, nàng đốt tín hiệu loé lên thành một cùng lửa tía lơ lửng giữa trời. Du Thản Chi sợ toát mồ hôi, toan kéo A Tử đi thì lại sợ nàng tức giận. Gã luống cuống không biết làm thế nào cho được thì đã nghe tiếng Ðinh Xuân Thu văng vẳng vọng lại.
Lão cất tiếng gọi:
- A Tử! Mi lại muốn quay về sư môn đó chăng? Như vậy ta có thể rộng dung tha cho mi được.
A Tử vội cất tiếng:
- Ðúng thế! Ðệ tử muốn quay về làm môn hạ phái Tinh Tú. Sư phụ ơi! Sư phụ đến đây mau!
Ðinh Xuân Thu vừa đi lại gần vừa nói:
- Ta đến đây!
Vừa dứt lời, lão đã tới trước mặt hai người.
Lúc này Du Thản Chi sợ đến hai chân nhũn ra. Gã ngồi phệt xuống tảng đá, không còn chủ ý gì nữa.
A Tử đứng tựa vào bên gã. Nàng thấy Tinh Tú lão quái quả nhiên đến thực, trong lòng phấp phỏng không yên.
-
Hồi 74 - A Tử Tranh Giành Chức Chưởng Môn - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 74 - A Tử Tranh Giành Chức Chưởng Môn
A Tử lúc thấy Du Thản Chi mới đánh một chiêu đã hạ được Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương liền bảo gã đối phó với Ðinh Xuân Thu. Không ngờ Ðinh Xuân Thu tới nơi, gã vẫn không lên tiếng. Nàng đui mắt không nhìn thấy gì, nghĩ bụng chắc Ðinh Xuân Thu thấy mình đi liền với một chàng thanh niên công tử, phải lấy làm kỳ dị.
Ðinh Xuân Thu sự thật trong lòng rất lấy làm kỳ lạ. Lão đứng ngoài xa bảy tám thước, cặp mắt loang loáng nhìn Du Thản Chi.
Du Thản Chi đã tháo cái lồng sắt trên đầu ra, những vết thương đã đóng vẩy. Hiện giờ ba phần giống người, bảy phần giống quỉ, trông tướng mạo rất là khủng khiếp. Gã ngồi trên phiến đá run lên bần bật.
Ðinh Xuân Thu tuy biết nhiều hiểu rộng, thế mà cũng không hiểu được vụ này.
Lão trông gã hồi lâu, rồi cất tiếng hỏi:
- Các hạ là ai?
A Tử nghĩ thầm:
- Ðinh Xuân Thu quả nhiên chưa biết Vương Tinh Thiên. Mình nghe giọng lão nói ra chiều sợ sệt. Như thế đủ hiểu Vương Tinh Thiên khí vũ hiên ngang, tướng mạo phi phàm.
Nghĩ vậy nàng rất yên tâm, chỉ chờ Du Thản Chi trả lời. Nhưng chờ hồi lâu vẫn chẳng thấy gã lên tiếng.
Nguyên Du Thản Chi vừa thấy Ðinh Xuân Thu tới nơi đã cuống cuồng, khi nào còn dám mở miệng.
A Tử bật lên tiếng cười khanh khách hỏi:
- Ðinh Xuân Thu! Ngươi chưa thấy chàng công tử này lần nào phải không?
Ðinh Xuân Thu nghe A Tử thốt nhiên dám đổi giọng dám kêu gọi họ mình thì trong lòng cả giận. Nhưng giọng nói ả có vẻ ỷ mình, lão không buông cơn giận cho nổi lên, vẫn ung dung hỏi:
- Ta chưa biết qua, y là ai vậy?
A Tử cười đáp:
- Vị này là Vương Tinh Thiên, chưởng môn nhân phái Cực Lạc. Ngươi đã nghe đến tên bao giờ chưa?
Tinh Tú lão quái thộn mặt ra nghĩ ngợi: Trong võ lâm rất nhiều môn phái, nhưng chưa từng nghe đến phái Cực Lạc bao giờ. Lão tức mình quát lên:
- Phái gì là phái Cực Lạc? Con này chỉ nói càn!
A Tử lạnh lùng đáp:
- Ngươi là người hủ lậu thì biết gì mà nói? Vương công tử ơi! Bất tất tranh luận với hắn làm chi? Công tử động thủ đi thôi!
Ðinh Xuân Thu càng lấy làm kỳ, hỏi:
- Mi biểu gã động thủ cái gì?
A Tử đáp:
- Ngươi là chưởng môn nhân phái Tinh Tú đã lâu năm, chắc là ngán lắm rồi! Ta muốn thay ngươi đảm đương chức đó.
Ðinh Xuân Thu vừa tức giận lại vừa buồn cười hỏi:
- Ngươi muốn ta nhường cho ai làm chức chưởng môn phái Tinh Tú?
A Tử chỉ vào mũi mình đáp:
- Dĩ nhiên là ta! Ngươi có thể sụp lạy xin làm môn hạ ta và kêu ta bằng sư phụ!
Ðinh Xuân Thu không nhịn được nữa, thét lên một tiếng, lão lạng người tiến gần lại và dơ ngón tay như móc câu chụp xuống đỉnh đầu A Tử. Tay trái lão hướng ra ngoài thủ thế, tựa hồ như phát chưởng đề phòng bị Du Thản Chi đột kích.
Du Thản Chi lúc trước không dám lên tiếng, bây giờ thấy Ðinh Xuân Thu hung hăng xông lại, vội la lên:
- Dừng tay!
Trong lòng gã kinh hãi vô cùng, tiếng nói khác hẳn đi.
Ðinh Xuân Thu vừa nghe Du Thản Chi lên tiếng, đã biết ngay nội công gã cực cao, hẳn là một nhân vật ghê gớm. Lão vội lùi lại nửa bước, xoay tay chụp xuống Du Thản Chi. Du Thản Chi trong lúc nguy cấp nghĩ thầm:
- Mình ra tay cũng chết mà không ra tay cũng chết. Gã liền nhắm mắt lại dơ hai tay lên phóng nhanh về phía trước. Hai chưởng của gã phóng bừa ra, chẳng có lề lối nào hết. Nhưng một luồng hàn phong dồn dập quật tới đối phương, nội lực tràn ra ầm ầm.
Tinh Tú lão quái giật mình vội thu chiêu về, bướt tạt ngang hai bước rồi quát hỏi:
- Các hạ là ai? Du Thản Chi giương mắt lên nhìn thấy Ðinh Xuân Thu đã bước lùi ra, gã được thoát chết, tưởng là rất may cho mình.
Lúc đó gã muốn quì xuống để van xin lão tha mạng, thì bỗng nghe A Tử kêu lên:
- Vương công tử! Công tử mới ra một chiêu đã bức bách hắn phải lùi lại. Sao không thừa thắng tấn công đi?
Du Thản Chi hoang mang hỏi:
- Tại hạ... bức bách hắn phải lùi lại ư?
Ðinh Xuân Thu vừa tiếp chưởng lực của Du Thản Chi đã thấy nội lực đối phương rất quái lạ, mà là một thứ nội lực lão đã quen biết.
Lão chợt nghĩ ra, bật lên tiếng cười quái hỏi:
- Té ra các hạ là sư trưởng thằng nhỏ đầu sắt phải không?
Du Thản Chi chưa kịp trả lời thì A Tử đã hỏi:
- Vương công tử! Thằng nhỏ đầu sắt là ai vậy?
Du Thản Chi ấp úng đáp:
- Tại hạ có... một tên đồ đệ... đầu gã lợi hại lắm! Ðinh Xuân Thu đã bị khổ sở vì gã... nên hắn nhớ lại...
A Tử cả mừng ngắt lời:
- Té ra lão quái này thua cả đồ đệ Vương công tử. Thế thì ta nắm chắc chức chưởng môn phái Tinh Tú rồi!
Du Thản Chi sợ quá, đầu gã cứng nhắc, gã miễn cưỡng quay lại nhìn, thấy râu tóc Ðinh Xuân Thu đứng dựng cả lên, gã nghĩ thầm:
- Bữa nay tới số rồi! Mình còn sống được khắc nào hay khắc ấy.
Ðinh Xuân Thu đã vận chất độc ra lòng bàn tay, đáng lý phát chưởng ra rồi, nhưng trong bụng vẫn còn e dè. Lão tưởng đối phương là bậc sư trưởng Du Thản Chi. Lão đã cùng Du Thản Chi đối chưởng một lần xuýt bị nguy. Lần này dĩ nhiên lão ngấm ngầm khiếp sợ. Giả tỉ không có A Tử đứng bên thì lão đã kiếm lời rút lui rồi. Nhưng A Tử đã buông lời hỗn xược đòi tranh đoạt chức chưởng môn phái Tinh Tú, lại còn muốn bắt lão quì lạy xin làm môn hạ. Chính lão đã giết thầy phản đạo, và A Tử là đồ đệ lão thì biết đâu nàng chẳng làm được như vậy? Vì thế mà lão không dám bỏ đi.
Du Thản Chi cùng Ðinh Xuân Thu vẫn ở vào tình thế đối lập mà chưa ai hành động. Du Thản Chi trong lòng kinh hãi, tay chân nhũn ra, đã mấy phen toan quỳ xuống lạy lục. Tuy gã miễn cưỡng nhẫn nại, mà hai chân gã run lên bần bật, không sao giữ vững lại được.
Tinh Tú lão quái cũng kinh hãi chẳng kém gì. Lão không biết rõ gốc gác đối phương, nên chần chừ chẳng dám ra tay.
Lúc này Du Thản Chi càng run mạnh hơn.
Ðinh Xuân Thu lại ngờ là đối phương đang vận động pháp thuật gì ghê gớm, vội lùi lại một bước.
Trong giây lát này, lão nghĩ nhiều lắm. Lão nhớ lại tình hình lúc đối chưởng cùng Du Thản Chi và hiển nhiên gã đã thắng mình. Khi đó gã lại xin tha mạng, lão đã đem lòng ngờ vực là gã cố ý bịp mình. Bữa nay sư trưởng Du Thản Chi đột nhiên xuất hiện, không chừng y cho Du Thản Chi đến trước thăm dò. Lão nghi ngờ cả vụ Du Thản Chi cướp A Tử đem đi không chừng cũng vì lẽ mưu đoạt chiếc Bích Ngọc Vương Ðỉnh. Tinh Tú lão quái ngẫm nghĩ một hồi, cặp lông mày lão rủ thấp và thấy mình suy tưởng rất đúng, gã đã hơi yên dạ, nhưng toàn thân vẫn run như cầy sấy.
A Tử không trông thấy gì, nàng ngẹo cổ lắng nghe thì tuyệt không tiếng động nào cả, ngoài tiếng run bần bật.
Nàng rất lấy làm kỳ hỏi:
- Vương công tử! Ai phát run vậy?
Du Thản Chi vội đáp:
- Kh...ô...ng... có ai r...run cả.
Người gã đang run bần bật nên tiếng nói thành nhát gừng.
A Tử thất kinh hỏi:
- Vương công tử! Tại sao công tử phát run?
Du Thản Chi đáp:
- Kh...ô...ng phải... Tại hạ vận... c...ô...ng đấy!
A Tử hỏi:
- Sao công tử chưa ra tay?
Du Thản Chi nuốt nước miếng nói liền một hơi:
- Bây giờ tại hạ ra tay đây!
Gã vận hết khí lực từ từ dơ tay lên.
Ðinh Xuân Thu thấy đối phương dơ tay lại càng khiếp sợ. Tay trái để trước ngực, tay phải thủ thế nghinh địch.
Du Thản Chi dơ tay lên đã cảm thấy khó khăn, gã phóng chưởng ra chẳng có chút khí lực nào cả, gã lại hạ tay xuống. Người gã vẫn run rẩy không đứng vững.
Ðinh Xuân Thu trong lòng hoảng sợ nghĩ thầm:
- Chưởng pháp các môn phái mình đều biết cả, mà chưa thấy lối nào lại người run lẩy bẩy quái lạ thế này! Trong óc lão thoáng nẩy ra ý nghĩ: Nếu đối phương ra tay thì mình tự nhiên khó lòng dàn xếp. Hay hơn hết là đừng để xảy ra cuộc động thủ. Ðầu đuôi vụ này chỉ ở mình con A Tử.
Nghĩ vậy lão lùi lại một bước, cất tiếng gọi:
- A Tử!
A Tử cười đáp:
- Ðinh Xuân Thu phải chăng ngươi chịu bái ta làm thầy?
Ðinh Xuân Thu giằn giọng nói:
- A Tử! Mi nên biết rằng ta đây là thiên hạ vô địch. Nếu mi còn ăn nói càn rỡ tức là tự chuốc lấy cái nhục vào mình. Sao không sớm tỉnh ngộ, ta sẳn lòng bỏ qua đi cho, không cứu xét đến nữa.
A Tử là người rất thông minh. Nàng biết Ðinh Xuân Thu tuy giọng nói ngang tàng nhưng kỳ thực trong lòng rất sợ hãi, đắc ý cười ha hả nói:
- Nếu bản lãnh ngươi thiên hạ vô địch, sao không ra tay đánh chết Vương công tử này đi, rồi bắt ta dẫn qua Nam Kinh nước Liêu để tìm Bích Ngọc Vương Ðỉnh đem về Tinh Tú, có phải thích không? Sao còn do dự không làm?
Ðinh Xuân Thu tức giận, sắc mặt xám ngắt, trừng mắt nhìn Du Thản Chi.
Du Thản Chi xem chừng Ðinh Xuân Thu ra chiều khiếp sợ thì nghĩ bụng:
- Lão này thấy bộ mặt mình mà phải khủng khiếp, mình mong lão sợ không chịu được giòng tuốt càng hay.
Nghĩ vậy, gã đâm liều hỏi:
- A Tử muốn làm chưởng môn phái Tinh Tú, sao ngươi không nhường cho nàng?
Ðinh Xuân Thu nghĩ bụng:
- Chẳng lẽ vì sợ câu nói của gã mà đem dâng chức chưởng môn cho người? Hay dở gì ta cũng thử võ công gã xem sao đa. Nếu quả mình không địch nổi bấy giờ hãy bỏ chạy cũng không muộn. Nghĩ vậy lão cười nhạt không nói gì nữa, rồi từ từ đưa bàn tay về phía trước.
Du Thản Chi thốt nhiên thấy Ðinh Xuân Thu đưa tay ra trống ngực đánh thình thình, mồ hôi chảy đầm đìa. Hai chân gã nhũn ra không tự chủ được nữa, gã ngồi phệt xuống đất.
Ðinh Xuân Thu thấy đối phương ngồi phệt xuống liền phóng chưởng ra nhanh hơn.
Du Thản Chi khiếp sợ la lên một tiếng rồi ngã lộn đi mấy vòng. Chưởng lực đối phương đánh"sầm"một tiếng, mặt đất thụt xuống thành một cái hố sâu.
Du Thản Chi toan đứng dậy chạy, nhưng thấy chưởng lực Ðinh Xuân Thu mãnh liệt quá, gã sợ hết hồn, người gã mềm nhũn ra không đứng lên được nữa.
A Tử nghe chừng nguy biến vội hỏi:
- Vương công tử! Công tử làm sao vậy?
Du Thản Chi nhăn nhó cười đáp:
- A Tử! Cái chức chưởng môn phái Tinh Tú của cô nương xem chừng...
Ðinh Xuân Thu không chờ cho Du Thản Chi dứt lời, lão đã phóng chưởng thứ hai ra.
Du Thản Chi lăn người về phía sau để tránh.
Ðinh Xuân Thu nghi ngờ không phóng chưởng ra nữa, lão quát hỏi:
- Sao ngươi không trả đòn?
A Tử cũng hỏi:
- Sao công tử không phản kích?
Du Thản Chi nằm nhũn ra ở dưới đất. Gã sợ quá nói không ra tiếng. Chưởng lực của Ðinh Xuân Thu lại dần dần ập tới càng làm cho gã kinh hồn bạt vía. Gã co dúm người lại gục đầu xuống dấu vào tận kẽ nách.
Trong lúc chớp nhoáng này, Du Thản Chi sực nghĩ ra một thế quái dị đã ghi trong cuốn sách tiếng Phạn: Luồn một bàn tay qua đùi, gan bàn tay hướng về phía trước để phóng chưởng ra.
Ðinh Xuân Thu là người biết nhiều hiểu rộng. Tuy lão chưa hay đó là Dịch cân kinh, nhưng lão cũng nhận ra tư thế quái lạ này chính là một thứ công phu thượng thừa để vận khí. Lão liền dừng chưởng lại.
Du Thản Chi phô trương tư thế quái dị này bỗng cảm thấy nội khí chạy mạnh. Kình lực trong thân thể vùn vụt như ngựa phi chạy ra bàn tay, rồi từ bàn tay phóng ra ngoài.
Thế chưởng của Ðinh Xuân Thu từ từ thu lại vì cảm thấy một luồng đại lực đẩy ngược trở về. Sau lão lâm vào tình thế không thể chần chờ được nữa liền tăng gia tốc độ phóng ra. Nhưng chưởng của lão đẩy về phía trước được một khắc thì luồng đại lực chống đối cũng tăng phần sức mạnh khiến cho chưởng lực của lão không phát động phía trước được.
Ðinh Xuân Thu vừa kinh hãi vừa tức giận. Lão lún thấp người xuống, chân đứng vững rồi đột nhiên quát lên một tiếng nhảy xổ về phía trước. Lão đã chắc chống đỡ được chưởng của đối phương để thừa cơ phóng độc ra. Không ngờ chưởng lực của mình bị chưởng lực của đối phương đánh hất lại.
Ðinh Xuân Thu kêu to lên một tiếng, người lão đã bị tung lên không lộn đi bảy tám vòng rồi rớt xuống đât. Lão trấn tĩnh lại, quay nhìn về phía Du Thản Chi lão không thể tin được công lực của đối phương lại mãnh liệt đến thế!
A Tử nghe tiếng Ðinh Xuân Thu la hoảng, lại thấy lão ngã "huỵch" xuống đất thì trong lòng cả mừng vội hỏi:
- Vương công tử! Ðinh Xuân Thu liệu còn sống được không?
Ðinh Xuân Thu tức quá nói:
- Bọn mi nếu muốn cho ta chết, nhưng đâu phải là một chuyện dễ dàng?
A Tử nói:
- Vương công tử! Hạ hắn mau đi! Ðừng thả hổ về rừng!
Từ lúc Du Thản Chi thi triển tư thế quái dị theo Dịch cân kinh, nội lực trong toàn thân gã từ lòng bàn tay tuôn ra ầm ầm không gì ngăn trở được.
Giả tỷ Ðinh Xuân Thu không phóng chưởng ra thì còn chịu đựng được. Nhưng lão lại muốn đối chưởng với Du Thản Chi để thi triển Hoá công đại pháp. Nội lực lão không chống nổi nội lực của Du Thản Chi nên mới bị hất tung về phía sau. Lúc lão còn đang lơ lửng trên không đã vận khí đóng chặt những mạch huyết lại nên rớt xuống một cách bình yên. Ðinh Xuân Thu hơn người là ở chỗ đó.
Du Thản Chi tự cho là may mà mình hất ngã được Ðinh Xuân Thu thì lại nghe tiếng A Tử thúc dục hạ thủ lão đi.
Gã vội đáp:
- Quân giặc đã đến bước đường cùng, ta không nên đuổi, để cho hắn đi thôi! Chức vị chưởng môn phái Tinh Tú dĩ nhiên là vào tay cô nương rồi.
A Tử lớn tiếng hỏi:
- Ðinh Xuân Thu! Ngươi đã nghe rõ chưa? Bắt đầu từ hôm nay ta là chưởng môn phái Tinh Tú rồi đó!
Ðinh Xuân Thu tức giận nói:
- Mi là cái thá gì mà đòi làm chưởng môn phái Tinh Tú?
A Tử cười ha hả đáp:
- Ngươi đã bị Vương công tử đánh bại mà còn muốn khư khư giữ chức chưởng môn, không sợ thiên hạ người ta chê cười cho thúi óc ư?
Ðinh Xuân Thu nói:
- Mi mượn sức người ngoài, lại là một tên phản đồ bản phái mà còn muốn nhận chức chưởng môn ư?
A Tử cười đáp:
- Mối giao tình giữa ta và Vương công tử thế nào chắc ngươi phải biết. Công tử không phải là người ngoài. Bây giờ chúng ta lập tức khởi trình đến biển Tinh Tú. Thử xem bọn đệ tử phái Tinh Tú có tên nào dám nhận ngươi là chưởng môn thì ta xử tử ngay lập tức. Kẻ nào thờ ta làm chưởng môn tự nhiên sẽ được ban thưởng. Ngươi, tiếm xưng là chưởng môn một cách phi lý. Ta hỏi ngươi: Ðồ trọng bảo của phái Tinh Tú là Bích Ngọc Vương Ðỉnh hiện ở trong tay ai?
Ðinh Xuân Thu bị A Tử mồm năm miệng mười hỏi dồn một hồi, lão cứng họng không nói được nữa.
A Tử càng làm già, dõng dạc nói:
- Ðinh Xuân Thu! Ngươi mau dập đầu thi lễ trước chưởng môn nhân! Nếu bướng bỉnh thì bữa nay ta cho ngươi hết đường!
Ðinh Xuân Thu giật mình, lạng người đi như gió, lùi lại hai bước lớn tiếng nói:
- A Tử! Mi mà lọt vào tay ta thì ta sẽ chẻ xương lóc da mi!
Lão chưa dứt lời thì A Tử đã cười khanh khách nói:
- Ngươi nói cho thích đi! Ta mà bắt được ngươi thì bây giờ ngươi nói thế nào, ta sẽ cứ theo đó mà gia hình.
Ðinh Xuân Thu im miệng.
A Tử cười ha hả, rất lấy làm đắc chí, nàng nói tiếp:
- Ðinh Xuân Thu! Ta đây cũng có đức hiếu sinh, buông tha cho ngươi đi. Nhưng ta cấm ngươi từ đây sắp tới không được nói tới phái Tinh Tú, và không được bén mảng đến bờ biển Tinh Tú trong vòng một trăm dặm. Ngươi phải nhớ cho kỹ nghe!
Ðinh Xuân Thu giận xám mặt lại, nhưng chưa chịu thua hẳn. Lão nói:
- Tinh Tú lão tiên vẫn là chưởng môn phái Tinh Tú. Kẻ nào dám chẳng thừa nhận?
A Tử hờ hững đáp:
- Ngươi bị bại rồi! Ta mới chính thị chưởng môn phái Tinh Tú.
Ðinh Xuân Thu tức mình la lên:
- Thúi lắm! Ta là chưởng môn chính thống, còn mi chỉ là một đứa tiếm vị. Ai thèm nhìn nhận mi?
A Tử cười đáp:
- Ngươi nói cho sướng miệng đi! Nếu ta mà còn thấy ngươi lảng vảng tại khu phụ cận bờ biển Tinh Tú thì cái mạng con chó già của ngươi không toàn đâu. Sao không cút đi cho khuất mắt ta? Còn đứng đó sủa gâu gâu làm gì mãi? Hai người gây lộn tranh nhau chức chưởng môn, nhưng nói đi nói lại thì bữa nay A Tử cũng có thực lực hơn rồi.
Ðinh Xuân Thu tức phòng râu ra mà không sao được. Lão trợn mắt lên nhìn A Tử trừng trừng. Rồi sau cũng đành trở gót ra đi để mặc A Tử ném theo những câu chế diễu.
A Tử sung sướng quá, quay miệng ra mắng Ðinh Xuân Thu một hồi. Nàng lấy chuyện tranh cướp chức vị chưởng môn đó là những điều khoan khoái nhất trong đời nàng. Nàng cười ngặt nghẽo một hồi rồi gọi giật giọng:
- Vương công tử!
Du Thản Chi đã đứng ngay người lên rồi. Từ lúc gã nghe được câu A Tử nói với Ðinh Xuân Thu: "Vương công tử đâu phải là người ngoài?" Gã sướng quá trái tim đập loạn lên. Người gã nhẹ nhàng tưởng chừng như đang bay tít trên mấy từng mây. Gã ngẩn người ra nhìn A Tử nghĩ thầm: trong đời gã đã bị A Tử làm cho thống khổ đến cùng cực mà về phần hạnh phúc lớn nhất cũng chính nàng ban cho. Thế sự thực là kỳ ảo khôn lường!
A Tử gọi liền bảy tám câu, Du Thản Chi như người ngủ mê bừng tỉnh, gã hỏi:
- A Tử! Chuyện chi vậy?
A Tử mấp máy môi son hỏi:
- Sao công tử không để ý gì đến ta ư?
Du Thản Chi vội đáp:
- A Tử! Trừ khi nào tại hạ chết đi thì mới hết nghĩ đến cô nương.
A Tử cười nói:
- Bản lãnh công tử thiệt là quán thế! Ðinh Xuân Thu quả nhiên bị công tử đánh cho phải chạy bạt vía. Chúng ta còn bao nhiêu chuyện phải làm, sao cứ ngẩn ngơ ở đây làm gì mãi?
Ðinh Xuân Thu vì sao mà đột nhiên băng mình chạy đi? Du Thản Chi đến giờ vẫn không hiểu nguyên nhân. Gã nghe A Tử nói giật mình hỏi lại:
- Còn chuyện chi nữa?
A Tử đáp:
- Bây giờ chúng ta hãy đi tìm trưởng lão Cái bang để đoạt cây "đả cẩu bổng"! Chẳng lẽ công tử quên rồi ư? Ta lấy được "đả cẩu bổng" đem về ra mắt thu phu ta. Thu phu đã làm Nam Việt Ðại vương nước Liêu, chắc y cũng chẳng thiết gì cái chức bang chúa Cái bang nữa. Nếu y không muốn làm thì ta đưa ra một kế nhỏ là y sẽ hân hoan giao "đả cẩu bổng" lại cho ta. Thế là ta có thể kiêm nhiệm luôn cả chức Bang chúa Cái bang nữa. Nàng nói tới đây nổi lên một tràng cười khoái chí.
Du Thản Chi ngẩn người ra một lúc rồi nói:
- Ðược lắm! Ði thì đi!
Gã nghĩ bụng: A Tử mắt không trông rõ, mình dẫn nàng đến một nơi hẻo lánh hoang ru, chắc nàng cũng không biết được.
A Tử thấy Du Thản Chi nghe lời mình. Tuy việc chưa làm xong, mà nàng đã có những ý định quái lạ. Nàng là người rất thông minh, rõ đối phương bảo sao y nghe vậy. Nàng thích quá, thích hơn cả thời kỳ ở với Tiêu Phong rất nhiều. Vả lại Tiêu Phong là chồng chị nàng, còn Du Thản Chi thì trong trí tưởng tượng của nàng là một vị công tử tuổi trẻ tài cao. Tự đáy lòng nàng phát sinh một mối tình êm dịu. Nàng sung sướng quá quên cả nỗi thống khổ về đui mắt.
Du Thản Chi dẫn A Tử đi về phía trước. Chẳng bao lâu đến một thị trấn.
Hai người đi trên đường phố lớn, nghe tiếng người theo bàn tán những gì không rõ.
A Tử lấy làm thích chỉ cho là họ trầm trồ khen con người tuấn nhã phi thường đi bên mình.
Du Thản Chi thì trong lòng hiểu rõ hơn về những lời bình phẩm của thiên hạ, gã chỉ cúi đầu đi mau.
A Tử nhơn nhơn đắc ý, thốt nhiên nhớ ra điều gì liền bảo Du Thản Chi:
Chúng ta đi tìm bọn trưởng lão Cái bang, không có ngựa không được. Tại thị trấn này xem chừng khá lớn, công tử đi lựa mua lấy một đôi.
Du Thản Chi nghe lời, dẫn A Tử đến một nhà lái ngựa.
Người trong tiệm thấy mặt mũi Du Thản Chi gớm ghê, ai cũng sợ lại ngẩn mặt ra.
Họ thấy gã dắt đôi ngựa tốt đem đi mà chẳng dám nói gì.
Hai người lên ngựa cưỡi. A Tử cười nói:
- Vương công tử! Công tử đi đến đâu, ai nhìn thấy cũng không dámnói lại ccau nào thì đủ biết oai phong công tử đã làm người ta phải kinh hãi.
Du Thản Chi nhăn nhó cười nói:
- Tại hạ không có ý hăm doạ ai, A Tử! Cô nương ở với tại hạ liệu có khỏi sợ hãi không?
A Tử đáp:
- Cái đó chưa thể biết được. Có khi ta phải sợ công tử cũng nên.
Du Thản Chi giật mình vội nói:
- Không có lý! Không có lý!
Sau gã nghĩ lại A Tử hai mắt đui mù, dĩ nhiên không thể trông thấy chân tướng mình được. Rồi gã cũng yên tâm.
Hai người ra khỏi thị trấn dong cương đi về mé Tây.
Du Thản Chi có ý muốn tránh xa tai mắt mọi người, nên chọn về ngả vắng vẻ không có khói lửa mà đi.
Ðường đi mỗi lúc một hoang vắng nên hai người trong lòng khoan khoái vừa đi vừa cười nói rất vui vẻ.
Mấy bữa nay là giai đoạn tưng bừng nhất trong cuộc đời của Du Thản Chi.
Ði được bảy tám ngày mà chẳng hiểu nơi đây là đâu? Du Thản Chi nhìn thấy núi cao trùng điệp, tuyệt đối không khói lửa hay vết chân người lại càng yên dạ.
Trái lại, A Tử bắt đầu buồn bã. Nàng không nhẫn nại được liền hỏi:
- Ðây là đâu? Sao tuyệt không nghe thấy tiếng người?
Du Thản Chi đáp:
- Phía trước là một thị trấn lớn. Bây giờ trời tối rồi, chỉ sợ tới nơi mọi nhà đều ngủ cả, chả còn thú gì nữa.
A Tử chau mày hỏi:
- Lạ nhỉ? Mình đi qua mấy thị trấn lớn đều vào lúc trời tối, hay là công tử gạt ta.
Du Thản Chi biến sắc mặt đáp:
- Tại hạ gạt cô nương làm gì! Ðó chỉ là chuyện ngẫu nhiên.,
A Tử hất hàm hỏi:
- Chúng ta đi mấy ngày rồi nhỉ? Sao chẳng gặp một đệ tử cái bang nào, mà cũng không nghe thấy tiếng người? Thế thì công tử bảo lấy gì về thành Nam Kinh để ra mắt thân phu?
Du Thản Chi ngơ ngẩn hỏi lại:
- A Tử! Cô nương muốn về thành Nam Kinh nước Liêu ư?
A Tử ngẩng đầu lên đáp:
- Dĩ nhiên là thế! Ta là Ðoan Phúc quận chúa ở nước Liêu, thân phu ta là Nam Việt đại vương, nếu công tử có gặp thân phu ta thì thế nào y cũng cất nhắc cho chức đại vương gì gì đó, chẳng hay lắm ư?
Du Thản Chi nhớ lại ngày ở vương phủ Nam Việt đại vương đã phải chịu bao nhiêu nỗi đắng cay. Gã nghĩ tới hãy còn ớn lạnh xương sống, liền đáp:
- Tại hạ chẳng muốn làm đại vương chi chi hết. A Tử! Cô nương đã bảo muốn ở chung với tại hạ kia mà? Chúng ta tìm đến một nơi tịch mịch vắng người để hưởng những ngày vui thú thần tiên chẳng hơn ư?
A Tử lắc đầu quầy quậy đáp:
- Không được! Không được! Nếu chỉ có hai người mình với nhau thì thiên hạ còn ai biết ta có người bạn bản lãnh ghê hồn như công tử? Rồi lúc buồn lấy gì mà tiêu khiển? Và làm sao cho nổi tiếng với đời được?
Du Thản Chi gượng cười nói:
- A Tử...
A Tử lắc đầu gạt đi:
- Công tử đừng nói nữa! Ngay Nam Việt vương phủ có biết bao nhiêu nơi danh thắng mà ta còn chán nản thì ở nơi hoang vắng thế nào được? Công tử bảo phía trước có thị trấn thì đi mau tới nơi để hỏi cho biết đây là địa phương nào?
Du Thản Chi ngấm ngầm thở dài. Bản ý gã là muốn đem A Tử rời khỏi Trung Nguyên đến một nơi hoang vắng đặng hai người ở với nhau cho thoả mãn tấm lòng hoài vọng bấy lâu nay và khỏi dính vào những cuộc tranh đấu chém giết trong võ lâm. Nhưng đó chỉ là sự mong ước riêng của Du Thản Chi mà thôi.
A Tử vẫn nặng lòng hiếu danh, xem ra chưa thoát khỏi những chuyện thị phi ở đời.
-
Hồi 75 - Hồ Tăng Tranh Đoạt Dịch Cân Kinh - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 75 - Hồ Tăng Tranh Đoạt Dịch Cân Kinh
Du Thản Chi không biết làm thế nào chỉ ậm ừ cho xuôi chuyện rồi giục ngựa tiến về phía trước.
Hồi lâu A Tử không nhẫn nại được nữa, lớn tiếng nói:
- Sao mãi chưa đến thị trấn? Dường như chúng ta đang chạy trên đường rừng thì phải?
Du Thản Chi vội chống chế:
- Qua quãng rừng này là đến thị trấn.
A Tử lên giọng oán trách:
- Ðúng là công tử định đưa ta đến một nơi khỉ ho cò gáy để làm gì đây?
Nàng chưa dứt lời, bỗng nghe tiếng sáo từ xa vọng lại. Tiếng sáo này tựa hồ như thổi nhát gừng từng hồi, lúc vút lên lanh lảnh, lúc lại trầm xuống nghe không rõ lắm, xem chừng ra vẻ khác lạ không giống những điệu sáo thường.
Du Thản Chi muốn đi tránh ra nẻo khác, không đi về phía phát ra tiếng sáo. Nhưng hiện hai người đang ở trong khe núi chỉ có một lối đi ra. Nếu quay trở lại tất bị A Tử phát giác sinh nghi, gã đành tiến thẳng về phía trước.
Tiếng sáo nghe mỗi lúc một gần.
A Tử thích quá reo lên:
- Gần tới thị trấn quả nhiên bầu không khí đã khác trước. Nhưng người thổi sáo kia là ai? Lại dường như có đàn rắn đi theo đâu đây?
Nguyên A Tử đã quen nghề bắt rắn độc. Bây giờ nàng nghe tiếng sáo có lẫn tiếng phì phì, nàng biết ngay là rắn.
Du Thản Chi định thần nhìn kỹ về phía trước, thì thấy hai con rắn lớn đủ năm sáu màu rực rỡ đang tiến lại rất mau. Trên lưng rắn có một người đứng sững. Hai con rắn này đều lớn bằng cánh tay, dài đến hơn trượng, trườn đi song song. Người kia mỗi chân đạp lên lưng một con. Mình rắn trơn tuột, thế mà hắn đứng vững như đứng trên mặt đất. Trong tay hắn cầm một ống sáo ngắn thỉnh thoảng lại đưa lên miệng thổi.
Du Thản Chi thấy thế lấy làm lạ nói:
- A Tử! Ðã có phong cảnh kỳ lạ rồi đó!
A Tử vội hỏi:
- Phong cảnh gì? Công tử thử nói ta nghe!
Du Thản Chi đáp:
- Một người... một vị hồ tăng gầy khẳng kheo, hai chân đạp lên lưng hai con rắn cho nó bò lại đây.
A Tử vốn chơi nghịch bao nhiêu trò kỳ dị, nhưng chưa từng thử đặt chân lên lưng rắn cho nó bò đi bao giờ. Nàng thích quá vội nói:
- Công tử cướp lấy hai con rắn đó lại đây để chúng ta đi há chẳng khoái hơn là cưỡi ngựa ư? Du Thản Chi không ngờ nàng lại có ý nghĩ quái gở như vậy. Bất giác gã phân vân, không biết làm thế nào và tự hối hận mình đã lỡ lời nói ra cho nàng biết.
Du Thản Chi còn đang ngơ ngẩn thì hai con rắn lớn đã bò đến trước mặt. Nhà sư huýt lên một tiếng sáo, hai con rắn liền dừng lại.
Nhà sư đảo mắt nhìn Du Thản Chi cùng A Tử.
Du Thản Chi thấy lão hồ tăng này màu da xám xịt, mà hai mắt sáng loang loáng thì không khỏi kinh hãi.
Thốt nhiên nhà sư đưa tay ra trỏ vào hai con ngựa lí lố:
- Hi cáp đặc táp, đế tư ngỏa la nha...
Du Thản Chi biết đó là thứ tếng mà Ba La Tinh đã dạy gã trước kia. Nhưng hồi đó gã bị lão bức bách phải học mà bụng không thích, rốt cuộc gã chỉ bị mấy trận đòn, ngoài ra chẳng nhớ được chữ nào, nên lúc này nhà sư kia nói gì gã cũng không hiểu.
A Tử hỏi:
- Cương công tử! Hắn nói gì vậy?
Du Thản Chi đáp:
- Tại hạ cũng không hiểu! Dường như hắn muốn lấy cặp ngựa của chúng ta.
A Tử cả mừng nói:
- Chắc hắn dùng rắn chán rồi, muốn đổi ngựa cưỡi, chúng ta đổi cho hắn quách đi!
Du Thản Chi nhìn gã Hồ tăng rồi nói:
- Dường như không phải thế. Có lẽ hắn đòi lấy đôi ngựa của hai ta để cho rắn của hắn ăn thịt thì phải.
A Tử tức giận nói:
- Nhà sư nào ở nước nào đến mà lớn mặt thế?
Nhà sư vẫn không ngớt la lên, thanh âm lanh lảnh chói tai.
Du Thản Chi công lực thâm hậu không coi vào đâu, nhưng A Tử nghe tiếng lão mà nhức đầu người nàng lảo đảo cơ hồ sắp ngã ngửa.
Du Thản Chi vội đưa tay ra ôm nàng đặt sang lưng ngựa mình.
Hai người cưỡi chung một ngựa.
A Tử vừa rời bỏ lưng ngựa thì con rắn lớn bên chân phải Hồ tăng bò lại rất mau như một cơn gió lốc rồi quấn chặt lấy cổ ngựa. Con ngựa đau quá đập vó xuống đất bình bịch, hí vang lên không ngớt.
A Tử thất kinh líu lưỡi hỏi:
- Chuyện chi vậy? Chuyện chi vậy?
Ðầu con rắn lớn chui vào miệng ngựa. Tiếng ngựa hí thê thảm mỗi lúc một nhỏ dần.
Du Thản Chi thấy vậy kinh hãi thộn mặt ra.
Chợt nghe A Tử hỏi luôn mấy câu, gã đáp:
- Con rắn của lão Hồ tăng cắn chết con ngựa của cô nương rồi.
A Tử sửng sốt nói:
- Cần gì? Bắt hắn phải lấy rắn đền ta!
Lúc này thì con rắn đã chui ra ngoài miệng con ngựa. Lưỡi nó thè ra co lại rồi nằm lăn ra đất tựa hồ như đã vớ được một bữa no rồi nằm nghỉ. Con rắn kia cũng ngóc đầu lên thè lưỡi ra bật lên những tiếng ve ve, dường như thèm ăn quá, không nhẫn nại được nữa.
Gã Hồ tăng liền trỏ vào con ngựa mà Du Thản Chi cùng A Tử đang cưỡi lớn tiếng quát tháo một hồi.
Du Thản Chi nghĩ thầm:
- Gã Hồ tăng này xem chừng quỉ quái lắm! Mình biết đối phó với hắn sao đây? Chi bằng để con ngựa này cho hắn là xong.
Nghĩ vậy hắn vội nói:
- Ðại sư phụ bất tất phải nổi giận! Chúng ta xuống ngựa đây!
Gã liền ôm A Tử xuống ngựa lùi lại phía sau mấy thước. Chớp mắt con rắn tung mình lại cắn vào đầu ngựa.
Bỗng nghe "soạt soạt" mấy tiếng, nó đã hút hết óc ngựa nuốt vào bụng rồi. ăn no rồi nó cũng nằm lăn kềnh ra như con kia.
Gã hồ tăng hai tay chắp để sau lưng.
Du Thản Chi đứng bên này cũng lúng túng không biết làm thế nào?
A Tử hỏi luôn:
- Hai con rắn đâu rồi? Sao công tử không bắt lấy để trừ vào đôi ngựa?
Du Thản Chi nói:
- Chúng ta không biết tiếng Hồ thì làm thế nào?
A Tử cười đáp:
- Biết tiếng hay không nào có cần gì? Công tử đuổi hắn đi, tức là đôi rắn thuộc về mình rồi! Du Thản Chi nhứ lại: Mình đã bị Ba La Tinh lúc dạy mình phát âm chữ"xà", thì nay gã Hồ tăng này cũng phát âm đúng như Ba La Tinh trước kia. Hay lão này không là người cùng giòng họ thì cũng là chỗ quen thân. Bây giờ mình thử nhắc đến tên Ba La Tinh, may ra có thể thương lượng được.
Nghĩ vậy gã nói:
- Ba La Tinh!
Gã Hồ tăng ngẩn người ra nhìn Du Thản Chi chằm chặp.
A Tử cười khanh khách ra vẻ vui thích nói với Du Thản Chi:
- Té ra công tử cũng biết cái tiếng lý lố đó ư?
Du Thản Chi đáp:
- Tại hạ không biết đâu. Ba La Tinh là tên một người Hồ như vị Hồ tăng này đấy.
Gã Hồ tăng tiến lại gần Du Thản Chi mấy bước hỏi:
- Ba La Tinh...?
Du Thản Chi gật đầu đáp:
- Ba La Tinh! Ba La Tinh!
Gã Hồ tăng đột nhiên dơ tay ra, năm ngón tay khô đét chụp vào vạt áo trước ngực của Du Thản Chi. Tay trái hắn múa may chi đó rồi miệng nói líu lô một tràng dài.
Du Thản Chi cả kinh hỏi:
- Ngươi làm gì thế này?
Gã Hồ tăng lại dương mắt lên nhìn Du Thản Chi hồi lâu vẻ mặt ra chiều tức giận hét lên:
- Ba La Tinh!
Du Thản Chi tưởng mình nói tên Ba La Tinh là khôn lại hoá ra vụng, gã nói:
- Ba La Tinh là Ba La Tinh. Ta chỉ biết nói ba chữ Ba La Tinh. Ngươi kéo áo ta làm gì?
Rồi gã chợt nhớ đến một câu tiếng Hồ, vội nói:
- Na lạt tư đế tư mạch cáp đề.
Câu này nghĩa là: Na lạt đứng ở đâu. Nhưng Du Thản Chi trong lúc hốt hoảng lại quên nghĩa buột miệng nói ra. Gã Hồ tăng bất giác ngơ ngác ngẩn ngoảnh nhìn bốn phía tưởng có ai tên là Na Lạt đứng gần đó. Câu nói liền của Du Thản Chi đã làm cho gã Hồ tăng giận, quát mắng ầm ầm.
A Tử đứng bên nghe càng sốt ruột nói:
- Công tử gây lời với hắn làm chi? Ðuổi cổ hắn đi có hơn không?
Du Thản Chi co người lại toan giựt ra, không ngờ gã Hồ tăng nắm chặt áo, hắn dựt mạnh áo rách đến"roạc"một tiếng. Những đồ vật trong bọc Du Thản Chi rớt cả xuống đât. Lưỡi đao truỷ thủ của Phong Ba ác tặng cho cũng rớt xuống khối đá đánh"choang"một tiếng, bật ra ánh sáng loé mắt. Gã Hồ tăng cúi xuống lượm lưỡi truỷ thủ lên. Lão vừa nhìn Du Thản Chi vừa dơ dao lên nói mấy câu lý lố.
Du Thản Chi vội nói:
- Lưỡi truỷ thủ này nếu đại sư muốn dùng thì tại hạ để lại cho.
A Tử hỏi:
- Vương công tử! Hai con rắn đó đâu rồi? Hắn đã lấy hai con ngựa còn đòi lấy cả lưỡi truỷ thủ nữa ư?
Du Thản Chi cười dở khóc dở đáp:
- A Tử! Cô nương đừng nói nữa, để mặc tại hạ đối phó với hắn.
Gã Hồ tăng cầm lưỡi truỷ thủ xoay đi xoay lại ngắm nghía một hồi rồi đột nhiên rung tay một cái. Du Thản Chi vội dắt A Tử lùi lại hai bước.
Nguyên lúc gã Hồ tăng vung lưỡi truỷ thủ lên thì những luồng hàn quang xoay tròn, khí lạnh ghê người, Du Thản Chi tưởng gã Hồ tăng muốn động thủ với mình, nên hốt hoảng lùi lại.
A Tử cũng cảm thấy một luồng hàn phong tạt vào mặt vội hỏi:
- Lão Hồ tăng động thủ đấy ư?
Du Thản Chi đáp:
- Chưa hiểu hắn định làm gì.
Gã Hồ tăng chỉ vung đao lên mấy cái rồi quẳng xuống đất.
Du Thản Chi nói:
- Ðại sư không thích ư? Vậy tại hạ lấy về.
Rồi gã mạnh dạn tiến lên hai bước cúi xuống lượm đao.
Cây đao này rớt xuống bên cạnh pho Dịch cân kinh.
Du Thản Chi cúi xuống lượm đao, đồng thời tiên tay lượm luôn cả Dịch Cân Kinh.
Gã Hồ tăng thốt nhiên la lên những tiếng quái dị. Không biết hắn nói gì. Hắn nắm chặt lấy tay Du Thản Chi tựa như cái vòng sắt rút chặt lại.
Du Thản Chi phải mở bàn tay ra cả lưỡi truỷ thủ lần pho Dịch Cân Kinh lại rớt xuống đất.
Gã Hồ tăng không để ý đến lưỡi đao, toan lượm lấy pho kinh mà thôi.
Du Thản Chi thấy vậy cả kinh vội ngăn lại:
- Ðại sư! Cái này đại sư không lấy được.
Nói xong gã cố sức giựt tay mạnh một cái. Giựt được tay ra rồi, tiện đà tay Du Thản Chi đập xuống vai Hồ tăng một cái. Gã Hồ tăng chỉ để ý đến việc lượm kinh nên không kịp né tránh, bị đối phương đập trúng huyệt"kiên tinh".
Bỗng nghe nhà sư la lên một tiếng quái gở rồi người hắn bắn văng ra xa.
Du Thản Chi giựt mình tưởng là khinh công nhà sư tinh thâm băng mình nhảy đi như vậy. Nhưng gã lại thấy nhà sư bắn ra xa ngoài ba trượng rớt xuống đất rồi còn lăn đi đến năm sáu vòng thì chẳng hiểu ra sao?
Du Thản Chi lắc đầu lè lưỡi, cúi xuống lượm pho kinh và đao truỷ thủ lên chuẩn bị liều mạng với nhà sư.
Ngờ đâu gã Hồ tăng vừa đứng vững liền trừng mắt nhìn Du Thản Chi, rồi rút ống sáo ra thổi lên mấy tiếng.
Hai con rắn được bữa no đang nằm cạnh dưới đất, vừa nghe tiếng sáo lập tức nghểnh đầu lên, ngoe nguẩy cái đuôi xông lại phía Du Thản Chi và A Tử.
Du Thản Chi cả kinh la lên:
- A Tử! Chạy cho mau!
A Tử thất kinh hỏi:
- Chuyện gì thế?
Du Thản Chi chưa kịp trả lời thì hai con rắn đã tung mình đến nhanh như gió.
Tuy thuở nhỏ gã đã quen bắt rắn, nhưng đối với hai con rắn khổng lồ này thì gã không khỏi luống cuống, chẳng biết làm thế nào chỉ nắm chặt lấy tay A Tử. Hai con rắn chỉ còn cách năm sáu thước thì đột nhiên đứng lại không tiến về phía trước nữa. Chúng cuộn tròn mình lại, chui đầu vào trong. Du Thản Chi thấy hai con rắn dừng lại cuộn mình lại không nhúc nhích, đã hơi yên dạ thở phào một cái. Bên tai gã chỉ còn nghe tiếng sáo mỗi lúc một vút lên lanh lảnh. Gã đứng chắn trước người A Tử nghển cổ trông ra thì gã Hồ tăng vừa thổi sáo, vừa khoa chân múa tay. Mồ hôi trán nhỏ xuống như mưa, dường như hắn có ý thúc giục đôi rắn lại cắn người. Nhưng hai con rắn cứ cuộn tròn nằm im không nghe lời chỉ huy của lão. Tiếng địch vút lên cao đến tột độ rồi"cách"một tiếng, ống sáo đã gẫy làm đôi.
Gã Hồ tăng sắc mặt xám ngắt, lập tức co giò chạy tuốt ra khỏi khe núi. A Tử vội hỏi:
- Chuyện gì vậy?
Du Thản Chi đáp:
- Gã Hồ tăng dông rồi, nhưng còn hai con rắn cuộn mình lại nằm không nhúc nhích.
A Tử nói:
- Nhất định là chúng sợ công tử rồi! Xem chừng chúng có linh tính. Công tử thử lại gần xem sao?
Du Thản Chi kinh hãi ấp úng hỏi:
- Tại hạ... lại gần ư?
A Tử đáp:
- Phải rồi, công tử sợ gì chúng?
Du Thản Chi phưỡn ngực ra đáp:
- Dĩ nhiên tại hạ... không sợ.
Khi gã còn ở Tụ hiền trang, văn dốt, võ nát, đã theo một vị tân khách trong nhà học được nghề bắt rắn, nhưng bây giờ gã thấy hai con rắn độc khổng lồ này trong lòng không khỏi phát ớn. Gã vừa đi vừa dò dẫm, rụt rè tiến lại. Gã dang hai tay ra thủ thế, miệng hà hơi phì phì. Gã càng tới gần, hai con rắn càng rút chặt mình vào dường như chúng sợ quá.
A Tử nghển đầu lên hỏi:
- Chi vậy? Dường như chúng nghe hiểu tiếng công tử?
Du Thản Chi nói lảng ra:
- Xem chừng hai con rắn này chả có linh tính gì hết. Thu phục chúng cũng bằng vô dụng, hay là ta thôi quách?
A Tử làm mặt giận hỏi:
- Ngựa của mình chết hết rồi. Không thu phục ha con rắn này thì lấy gì mà đi?
Du Thản Chi không sao được đành đáp:
- Ðể tại hạ thử lại coi.
Gã từ từ vươn tay ra. Hai con rắn đang nằm nén đầu xuống đất, lưỡi thè dài ra trông gớm khiếp.
Du Thản Chi trong lòng sợ hãi, chỉ muốn lùi lại.
Ðột nhiên hai con rắn vùng dậy đớp vào tay gã.
Du Thản Chi kêu thét lên.
A Tử kinh hãi hỏi:
- Chi vậy?
Du Thản Chi đáp:
- Rắn... cắn... vào tay tại hạ.
Gã yên chí nọc độc rắn sẽ phát động làm cho mình chết ngay tức khắc, nên tiếng nói nghe lạc hẳn đi. Nhưng hai con rắn độc này lập tức nhả ra, bò vội lại gốc cây lớn. Thân chúng quấn chặt vào thân cây, xiết chặt dần mãi vào. Chỉ trong chớp mắt tiếng lách cách vang lên. Da rắn đứt tung, máu tanh chảy đầy mặt đất.
Du Thản Chi trố mắt ra nhìn đống xác rắn lù lù tựa hồ như người mơ ngủ.
A Tử lại hỏi:
- Vương công tử! Rắn độc lợi hại là thế mà công tử không việc gì ư?
Du Thản Chi dơ tay lên coi thì chỉ thấy mấy vết răng rắn cắn hãy còn rõ rành rành. Gã thử vung tay mấy cái mà chẳng thấy đau đớn chi hết liền đáp:
- Tại hạ không sao cả!
A Tử vẫn chưa yên dạ hỏi tiếp:
- Vậy hai con rắn đâu rồi?
Du Thản Chi đáp:
- Chúng chết cả rồi!
A Tử dậm chân hỏi:
- Sao công tử lại đánh chết chúng?
Du Thản Chi gượng cười đáp:
- Có phải tại hạ đánh chết đâu? Chúng tự nhiên chết đó.
A Tử tuy là người thông minh mà cũng chẳng hiểu vụ này ra sao. Nguyên trong người Du Thản Chi chất độc súc tích còn ghê gớm hơn cả nọc rắn. Hai con rắn độc này cắn gã, bị huyết dịch gã ngấm vào, nên bị trúng độc mà chết.
A Tử thở dài nói:
- Ðáng tiếc! Thật là đáng tiếc!
Du Thản Chi ngẩng đầu lên thấy đằng xa có hai con rắn độc khác đang bò lại. Gã nhăn nhó cười nói:
Có chi mà đáng tiếc? Hai con khác đang bò lại kia! Chúng còn lớn hơn hai con trước nhiều.
A Tử mừng quá hỏi:
- Liệu có thể cùng để cưỡi được không?
Du Thản Chi đáp:
- Ðược! Hai con này kỳ lắm! Ðuôi nó cuộn lại để giáp vào nhau. Ðầu nó nghển lên cao, lại có một nhà sư người Hồ cỡi trên đuôi chúng.
A Tử vỗ tay hỏi:
- Có thực thế không?
Du Thản Chi đáp:
- Tại hạ gạt cô nương làm chi?
Hai con rắn độc bò lại rất lẹ, nháy mắt đã đến trước mặt hai người.
Du Thản Chi nhìn lão Hồ tăng cưỡi trên đuôi rắn. Lão Hồ tăng này tuổi đã già, mặt đầy vết nhăn nheo, nhưng hai mắt rất tinh thần, khiến người trông mà phát sợ. Du Thản Chi biết rằng muốn trốn cũng không thoát, đành đứng ỳ ra đó với cái hy vọng gặp dữ hóa lành.
A Tử không chờ Du Thản Chi lên tiếng, nàng hỏi ngay:
- Lão Hồ tăng kia! Phải chăng lão đến đây để thay bạn đền ngựa lại ta?
Lão Hồ tăng nhìn đống các rắn lộ vẻ sợ hãi. Lão mở miệng nói bằng tiếng Hán rất hoạt bát hỏi:
- Phải chăng hai vị ở chùa Thiếu Lâm tới đây?
A Tử thấy đối phương nói được tiếng Hán lại càng ưa thích vội đáp:
- Sao lão lại giở lối nói chuyện đầu Ngô mình Sở? Ta hỏi lão phải chăng đến đây bồi thường đôi ngựa bị rắn cắn chết cơ mà? Sao lão không trả lời?
Lão Hồ tăng không đáp vào câu hỏi của A Tử. Lão nói tiếp:
- Vị nào đã nhận lời uỷ thác của sư đệ ta là Ba La Tinh tới đây?
Du Thản Chi giật mình kinh hãi, thất thanh hỏi:
- Lão là sư huynh của Ba La Tinh ư?
Lão Hồ tăng đáp:
- Chính phải! Ta là Triết La Tinh, nếu các hạ là người của Ba La Tinh gởi đến để chuyển giao vật gì thì đưa đây cho ta.
A Tử chau mày hỏi:
- Vương công tử! Thằng cha Triết La Tinh này điên à?
Du Thản Chi khi ở chùa Thiếu Lâm đã bị Ba La Tinh hành hạ cực khổ. Gã biết bản lãnh Ba La Tinh rất cao cường. Bây giờ gã nghe thấy lão này là sư huynh Ba La Tinh thì lại càng kinh hãi hơn. Gã quên cả A Tử đã đui mắt, quay lại nhìn nàng xua tay ra hiệu cho nàng đừng lên tiếng, rồi đáp:
- Chắc vị đại sư kia hiểu lầm rồi. Tại hạ không phải ở chùa Thiếu Lâm tới đây và cũng chưa gặp Ba La Tinh bao giờ...
Triết La Tinh lộ vẻ không tin hỏi:
- Sao lúc nãy các hạ đọc tên Ba La Tinh ra? Và pho Dịch Cân Kinh bằng chữ Phạn cất dấu ở chùa Thiếu Lâm lại có bên mình các hạ?
Nguyên Du Thản Chi lượm được cuốn sách của Tiêu Phong đánh rơi chẳng biết là gì, mà cũng chẳng nghe ai nói tới Dịch Cân Kinh bao giờ cả.
Gã vẫn một mực đáp:
- Nhất định là đại sư đó nhận lầm rồi!
Triết La Tinh lộ vẻ tức giận, xắng giọng:
- Nếu ngươi muốn giữ Dịch Cân Kinh làm của riêng thì đừng trách ta vô tình.
Du Thản Chi vội nói:
- Bên mình tại hạ có Dịch Cân Kinh gì đâu? Ðại sư coi đây! Ðại sư coi đây! Dịch Cân Kinh là cái này ư? Rồi gã xoè bàn tay, bản Dịch Cân Kinh trong tay gã lộ ra.
Triết La Tinh cả mừng nghĩ thầm:
- Lúc sư đệ Ba La Tinh giao Dịch Cân Kinh cho thằng lỏi này nhất định y không nói rõ nên gã này không hiểu được.
Gã tung mình lên một cái từ trên đuôi rắn nhẹ nhàng nhảy xuống.
Du Thản Chi nói:
- Ðại sư coi đây! Bên mình tại hạ chỉ có cái này và lưỡi đao truỷ thủ. Nếu đại sư thích...
A Tử đứng bên đột nhiên bật cười. Nàng còn nhớ gã Hồ tăng lúc nãy trước khi bị đánh đuổi, Vương Tinh Thiên cũng nói nhưng câu này. Bây giờ chắc lão Triết La Tinh này cũng không khỏi thất bại như gã ban nãy, nên đột nhiên nàng bật cười ra tiếng. Du Thản Chi đang kinh hãi không biết chạy đi đâu. Gã không hiểu tại sao A Tử lại bật cười, nên cứ đứng thộn mặt ra.
Triết La Tinh từ từ bước lại. Mắt lão vẫn đăm đăm nhìn vào lưỡi đao truỷ thủ nói:
- Ðây quả là một thanh bảo đao mà thí chủ không luyến tiếc ư?
Du Thản Chi vội đáp:
- Lưỡi đao này của một người bạn tặng cho tại hạ. Ðại sư đã thích cứ việ lấy mà dùng.
Triết La Tinh tiến sát đến trước mặt Du Thản Chi. Lão từ từ vung tay ra, mắt vẫn chú ý nhìn lưỡi đao truỷ thủ, nhưng đột nhiên đổi hướng vồ lấy bản Dịch Cân Kinh. Biến diễn này rất đột ngột. Thế là pho Dịch Cân Kinh đã bị Triết La Tinh cướp lấy một cách lẹ làng.
Du Thản Chi sửng sốt vội nói:
- Ô! Cái này không được vì tại hạ vẫn dùng đến luôn.
Lúc gã ở Nam Kinh nước Liêu mấy phen gã đã thoát chết được là nhờ ở cuốn kinh này. Dĩ nhiên gã không chịu để cho người ta lấy mất một cách dễ dàng như vậy.
Triết La Tinh băng mình đi một cái lùi về phái sau hai bước hỏi:
- Ngươi cần dùng nhưng ta cũng cần dùng thì sao?
Du Thản Chi bị người hà hiếp đã quen, nghe lão nói vậy, ngẩn người ra hỏi:
- Thế là nghĩa làm sao? Ðại sư sao lại cướp đoạt cái đó của tại hạ?
A Tử vội hỏi:
- Vương công tử! Lão cướp cái gì của công tử vậy?
Du Thản Chi đáp:
- Một cuốn sách nhỏ bé. Cái đó là...
A Tử vừa lấy làm kỳ vừa căm tức hỏi:
- Lão Hồ tăng ăn cướp cái đó của công tử. Công tử tính sao?
Du Thản Chi thực tình không dám hỗn hào với Triết La Tinh. Gã thấy lão đang mở cuốn sánh ra coi và lộ vẻ mừng rỡ. Gã liền lên mặt kẻ cả nói:
- Kể ra cái đó cũng chẳng đáng gì, lão lấy mất thì thôi.
A Tử dậm chân nói:
- Tính tình công tử lạ thiệt! Mình đã có võ công quán thế như vậy mà chịu để kẻ khác hiếp đáp ư?
Du Thản Chi nghe A Tử nói không khỏiđộng tâm. Gã nghĩ thầm:
- A Tử, Phong Ba ác, Bao Bất Ðồng, mấy người đều bảo võ công mình tuyệt cao. Mình nghĩ lại thì tưởng không có gì. Nhưng trải qua mấy lần đụng chạm thì dường như không gặp điều gì bất lợi. Tuy có kinh hãi nhưng không đến nỗi nguy hiểm. Chẳng lẽ trời thương mình mà ban cho võ công quán thế ư? Dù sao gã cũng không phải là hạng người ngu xuẩn đến cùng cực. Mấy bữa nay những cuộc tao ngộ may mắn tuy gã không hiểu ra sao, nhưng cũng nghĩ tới được điểm này.
Gã liền đứng ngay người phưỡn bụng ra đáp:
- A Tử! Cô nương nói phải đó. Tại hạ phải đoạt lại mới được.
Nói xong gã rảo bước tiến lại gần Triết La Tinh.
Triết La Tinh ngẩng đầu lên, hai mắt loang loáng nhìn Du Thản Chi.
Du Thản Chi không khỏi run sợ, gã dơ tay ra trỏ vào cuốn Dịch Cân Kinh trong tay Triết La Tinh nói:
- Cuống sách này không thể cho đại sư được. Ðại sư hãy trả lại cho tại hạ.
Triết La Tinh noí:
- Vậy thì thí chủ lấy về.
-
Hồi 76 - Chưa Thoát Hồ Tăng Lại Gặp Minh Vương - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 76 - Chưa Thoát Hồ Tăng Lại Gặp Minh Vương
Ngờ đâu Du Thản Chi vừa thò tay ra thì Triết La Tinh lại rụt tay về khiến cho tay gã chụp vào quãng không. Ðồng thời Triết La Tinh vươn tay trái phóng chưởng đánh vào sau lưng Du Thản Chi một cách đột ngột.
Du Thản Chi bị đánh bất ngờ không kịp đề phòng. Ðến khi lưng gã bị trúng chưởng của Triết La Tinh rồi, gã cảm thấy khí huyết chạy ngược lên, người gã không tự chủ được, trượt chân đi một cái lướt bên mình Triết La Tinh và băng ra xa đến sáu bảy thước mới dừng lại được.
A Tử nghe tiếng người trúng chưởng trượt chân băng đi. Nàng yên chí là địch nhân bị Vương Tinh Thiên đánh cho phải lùi lại nên vỗ tay cười nói:
- Vương công tử! Thủ pháp công tử thật là tuyệt diệu!
Du Thản Chi tự hối về chuyện mình đã thò tay ra, gã nghĩ thầm:
- Nội lực trong tay mình tưởng rằng đã khá, ngờ đâu Triết La Tinh vừa ra tay, mình đã trúng đòn trượt đi. Rồi gã không tin tưởng ở tài nghệ mình nữa. Thực ra hiện giờ nội công của Du Thản Chi chẳng kém gì Triết La Tinh, nhưng cách biến hoá chiêu thức cùng liệu địch đâu bằng được Triết La Tinh, nên gã không cướp lại được quyển kinh, lại bị Triết La Tinh đánh trúng một chưởng "Thông Tý Công".
Du Thản Chi thở hồng hộc, ngẩng đầu lên nhìn thì thấy Triết La Tinh đang ngó A Tử bằng ánh mắt kỳ dị. Gã chỉ sợ Triết La Tinh nói toạc ra mình bị chưởng đánh ngã lăn đi mấy vòng thì sẽ khiến cho nàng phải thất vọng. Vì thế gã xua tay loạn lên ra hiệu cho Triết La Tinh đừng lên tiếng và chạy vội đến trước mặt hắn lớn tiếng đáp:
- Phải rồi! Một khi tại hạ đã ra tay thì đối phương còn trả đòn thế nào được?
Triết La Tinh kinh ngạc đến há hốc mồm ra không ngậm lại được nữa.
Du Thản Chi lại chắp tay xá dài ra hiệu cho lão đừng nói gì.
A Tử lại hỏi:
- Những cái gì của công tử đã cướp lại được chưa?
Du Thản Chi vội đáp:
- Dĩ nhiên là cướp lại rồi.
Triết La Tinh nghe câu trả lời của Du Thản Chi liền dơ cuốn Dịch Cân Kinh trong tay lên ngạc nhiên, lắp bắp:
- Ngươi...
Du Thản Chi muốn quì ngay xuống để lạy lão đừng nói nữa.
Gã vội lớn tiếng dặn:
- A Tử! Tại hạ còn đi đuổi hắn. Cô nương chờ ở đây đừng đi đâu!
Gã vừa nói vừa chạy đi ra xa mấy trượng rồi quay lại vẫy Triết La Tinh.
Triết La Tinh chẳng hiểu ra sao, nhưng lão cũng chạy lại. Không nhịn được, lão hỏi ngay:
- Ngươi làm trò quỉ gì vậy?
Du Thản Chi nhăn nhó cười nói:
- Ðại sư đòi cái đó đã lấy được rồi, lại đánh tại hạ một chưởng, dù ngoài miệng đại sư có nhường một chút hư danh cho tại hạ thì đã sao?
Triết La Tinh quay lại nhìn A Tử nở một nụ cười bí mật rồi nói:
- Ta hiểu rồi! Ngươi muốn cho vị cô nương kia tưởng là ngươi đã thắng ta chứ gì?
Du Thản Chi vội đáp:
- Ðúng thế! Nếu đại sư vui lòng thành toàn cho thì tại hạ cảm ơn vô cùng.
Triết La Tinh trầm ngâm một lát rồi nói:
- Ngươi muốn thế cũng được, nhưng phải đưa ta đi tìm sư đệ Ba La Tinh.
Du Thản Chi cả kinh nói:
- Ba La Tinh ở tận chùa Thiếu Lâm, tại hạ đưa đại sư đến đó thế nào được?
Triết La Tinh nói:
- Ngươi biết chỗ y ở, nên ta cần nhờ ngươi dẫn tới đó. Vả chùa Thiếu Lâm rộng lớn là thế, nếu ngươi không chịu dẫn đường thì ta kiếm y thế nào được?
Du Thản Chi xua tay lia lịa nói:
- Không được! Không được! Tại hạ không đi chùa Thiếu Lâm được đâu.
Triết La Tinh vươn năm ngón tay ra như móc câu, chụp xuống vai Du Thản Chi nắm chặt lấy.
Giả tỷ Du Thản Chi chưa ra tay mà bây giờ mới bị Triết La Tinh nắm lấy vai thì nhất định hắn ra sức cựa quậy rồi phản kích thì chẳng những có thể tránh thoát được mà có khi đối phương còn bị ăn đòn. Nhưng vừa rồi gã vừa mới bị đánh một đòn đã mất hết tự tin, nên gã không cựa quậy mà cũng không dám kêu lên vì sợ A Tử nghe tiếng, chỉ khẽ van vỉ:
- Xin đại sư buông tay!
Triết La Tinh đã kiềm chế được đối phương thì khi nào chịu nới tay, lão còn xiết chặt hơn là khác.
Ngờ đâu nội lực Du Thản Chi tự nhiên có phản ứng hất ngược trở lại, xuýt nữa rời tay ra.
Triết La Tinh giựt mình nhìn chằm chặp Du Thản Chi thì thấy gã cũng tỏ vẻ kinh hãi vô cùng.
Lão là một tay rất giảo quyệt, đã nhận thấy có điều gì khác lạ, liền hạ giọng xuống nói thật khẽ:
- Muốn ta buông tay cũng chẳng khó gì, chỉ cần ngươi dẫn ta đi gặp Ba La Tinh.
Du Thản Chi nhăn nhó cười đáp:
- Thế cũng được! Nhưng đại sư phải nhận một điều kiện với tại hạ.
Triết La Tinh hỏi:
- Ðiều kiện gì?
Du Thản Chi đáp:
- Ðại sư chớ nói hở ra cho A Tử hay là tại hạ không biết võ công!
Triết La Tinh lại càng kinh ngạc hỏi:
- Ngươi không biết võ công thật ư?
Du Thản Chi lại nói:
- Bây giờ đại sư giả vờ chịu thua tại hạ và tự nguyện đi theo tại hạ tới chùa Thiếu Lâm. Ðại sư chịu điều kiện này thì đừng nói muốn tại hạ đưa đến gặp Ba La Tinh mà có bảo tại hạ làm trâu ngựa tại hạ cũng rất vui lòng.
Triết La Tinh nghẹo đầu ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp:
- Ðược rồi! Ta ưng chịu điều kiện của ngươi.
Rồi lập tức buông tay ra.
Du Thản Chi gọi to lên:
- A Tử! Tại hạ đuổi kịp Triết La Tinh rồi!
A Tử biết đâu được những điều ngoắc ngoéo bên trong. Nàng yên trí võ công Du Thản Chi rất cao cường thì việc bắt được Triết La Tinh là chuyện tất nhiên.
Nàng đứng đàng xa hỏi:
- Thế còn hai con rắn cuộn đuôi lại cho người ngồi đâu rồi?
Du Thản Chi đáp:
- Ðôi rắn đó còn đây. Ðại sư bằng lòng nhường nó cho cô nương rồi!
Gã vừa nói vừa ra hiệu cho Triết La Tinh ưng thuận điều đó.
Triết La Tinh gật đầu.
Du Thản Chi gượng cười nói:
- Vị đại sư Triết La Tinh đây thật là biết điều. Ðại sư thấy không đánh nổi tại hạ, liền nhất nhất ưng chịu theo lời tại hạ ngay.
A Tử nói:
- Thế thì tuyệt diệu! Công tử lại đây bồng ta để lên đuôi rắn.
Du Thản Chi lại giơ tay ra hiệu cho Triết La Tinh.
Triết La Tinh chúm môi huýt lên hai tiếng sáo.
Hai con rắn liền cuộn đuôi lại kề sát bên nhau.
Du Thản Chi liền ôm A Tử để ngồi lên đuôi rắn.
A Tử ngồi trên đuôi rắn thích quá, bật lên một tràng cười rất vui vẻ.
Du Thản Chi thấy nàng cao hứng cũng mừng thầm là biện pháp giải quyết của mình tuyệt diệu. Tuy nhiên cách lừa gạt này chỉ tạm thời làm cho A Tử được vui lòng, nhưng từ đây đến chùa Thiếu Lâm đường xá xa xôi, gã lại lo dọc đường không biết còn xảy ra chuyện gì rắc rối nữa không?
A Tử cười hỏi:
- Bây giờ chúng ta đi đâu?
Du Thản Chi vội đáp:
- Lên chùa Thiếu Lâm! Cô nương có thích không?
A Tử tuy chẳng biết sợ trời sợ đất là gì, nhưng chùa Thiếu Lâm được các phái võ coi như núi Thái Sơn, như sao Bắc Ðẩu. Hơn nữa đó còn là nơi cửa Phật đất Thánh, nàng không khỏi xao xuyến trong lòng, liền hỏi:
- Lên chùa Thiếu Lâm làm chi?
Du Thản Chi đáp:
- Triết La Tinh đại sư đây nói là có một vị sư đệ bị giam lỏng tại đó, đại sư yêu cầu tại hạ đến cứu giùm.
A Tử nhíu cặp lông mày hỏi:
- Ðến chùa Thiếu Lâm cứu người, công tử có nắm chắc thành công được không?
Du Thản Chi đáp:
- Dĩ nhiên là phải được.
A Tử khoái chí nói:
- Vậy thì đi! Nhưng làm thế nào huy động được hai con rắn này?
Triết La Tinh liền huýt lên hai tiếng còi.
Ðôi rắn nhanh nhẹn trườn mình đi về phía trước.
A Tử ngồi trên đuôi rắn rất bình yên, nàng thích quá cười không ngớt miệng. Nàng vốn người thông minh, mới hai ba hôm nàng đã học được cách điều khiển cho rắn tiến lên, lùi xuống, hoặc dừng bước, không cần Triết La Tinh chỉ huy nữa.
Du Thản Chi thấy A Tử vui thích, gã cũng hớn hở trong lòng.
Mấy hôm sau gã nghĩ mãi không tìm ra cách nào trốn thoát khỏi Triết La Tinh, nhất là bỏ A Tử để chạy một mình, thì chàng không dám.
Lão Triết La Tinh cũng cực kỳ giảo quyệt, lão biết chỉ cần giữ A Tử là Du Thản Chi không dám bỏ đi.
Bọn ba người này tuy đi toàn đường núi hẻo lánh nhưng không khỏi thỉnh thoảng lại gặp người qua đường. Trong ba người này thì một người là hán tử mặt mày sứt sẻo coi gớm ghiếc, một nhà sư người Hồ gầy như que củi, và một cô gái tuy nhan sắc xinh đẹp nhưng hai mặt đui mù lại ngồi trên đuôi rắn. Thật là một cảnh tượng kỳ quái khiến người ta phải để ý. Kẻ nhát gan vừa trông thấy liền quay đầu chạy tuốt. Người lớn mật cũng chỉ đứng đằng xa mà nhìn.
A Tử đã mấy phen bảo Du Thản Chi dẫn đường để đuổi rắn vào thành, nhưng gã chỉ tìm cách chống chế cho xuôi chuyện. Giả tỷ là người khác thì A Tử bực mình một lần là đuổi rắn bỏ đi xa ngay, nhưng đối với chàng Vương Tinh Thiên bảnh trai trong trí tưởng tượng mà lòng nàng đã chớm nở mối tình, nên chỉ vùng vằng chứ không muốn bỏ đi.
Ði được bảy tám ngày liền, không gặp chuyện gì xảy ra.
A Tử ngồi trên đuôi rắn đã thấy ngán rồi. Có lúc nàng bước xuống sánh vai đi bộ với Du Thản Chi.
Một ngày kia vào lúc hoàng hôn, Du Thản Chi cùng A Tử đang sánh vai đi trước.
Triết La Tinh cùng đôi rắn theo sau.
Du Thản Chi đã mấy lần ngoảnh đầu nhìn lại, thấy Triết La Tinh đi cách chừng hai trượng, gã muốn kéo A Tử trốn chạy, nhưng chỉ sợ không thoát rồi Triết La Tinh trở mặt nói toạc sự thực ra thì hỏng bét. Trong lòng gã do dự không quyết, gã thấp thỏm nhìn lại phía sau luôn, thậm chí phía trước mặt có người đi tới, gã vẫn không biết.
A Tử nghe thấy có tiếng khác lạ liền dừng bước lại nói:
- Vương công tử! Phía trước có người đi tới.
Du Thản Chi vội ngẩng đầu nhìn ra thì thấy người này mặc áo nhà sư sắc tro, cặp mắt sáng quắc, tướng mạo trang nghiêm, trên môi lộ một nụ cười trông cách đi rất khoan thai, mà thực ra cước bộ cực kỳ mau lẹ, chớp mắt nhà sư đã lướt qua.
A Tử mấy hôm liền chưa nghe thấy tiếng chân người, lão Triết La Tinh đi bên lại lầm lì hỏi chẳng buồn đáp. nàng đang buồn bực nên nghe thấy có người lướt qua mặt liền hỏi:
- Vương công tử! Ai vậy?
Du Thản Chi vội đáp:
- Ðây là một vị cao tăng.
A Tử đang cáu sẵn, "hừ" một tiếng rồi nói:
- Thầy chùa phải không? Công tử biết thế nào là cao tăng?
Du Thản Chi nhìn về phía sau thấy nhà sư cũng xoay mình lại.
Nhà sư này tướng mạo đường đường, cặp mắt trong sáng như hai hạt minh châu, khiến người vừa trông thấy đã sinh lòng kính trọng và có ý muốn thân cận.
Gã vội đáp:
- A Tử! Ðúng là một vị cao tăng!
A Tử vừa cười vừa nói bằng một giọng rất khinh người:
- Công tử bảo hắn đứng lại để ta hỏi hắn xem có đúng là cao tăng hay cũng phường thầy chùa chỉ biết uống rượu ăn thịt.
Du Thản Chi cả kinh vội nói:
- A Tử! Vị đại sư này tướng mạo trang nghiêm mà sao cô nương lại buông lời dỡn cợt?
A Tử la lên:
- Trời ơi! Ðại hòa thượng! Ðại hòa thượng đã nghe thấy ta nói gì chưa? Ðại hòa thượng có phải từ chùa Thiếu Lâm đến đây không? Du Thản Chi ngấm ngầm kinh hãi, nhưng không ngăn lại kịp. Gã thấy hòa thượng đứng dừng lại, vẻ mặt nghiêm trọng.
Triết La Tinh nghe tiếng liền tiến lại gần, lão đưa mắt nhìn vị hòa thượng rồi đột nhiên thất sắc hỏi:
- Ðại luân Minh vương giá lâm Trung Thổ có việc chi?
Ðại luân Minh vương Cưu Ma Trí nghe thanh âm cũng đã biết người, lão cười đáp:
- Triết La Tinh Phật huynh sao không ở lại Thiên Trúc tu hành, mà qua nước Ðại Tống có việc chi?
Du Thản Chi thấy Triết La Tinh lộ vẻ khẩn trương lại kêu hòa thượng này bằng Ðại luân Minh vương thì nghĩ ngay nhà sư mới đến này tất có lai lịch rất lớn. Gã toan nhân cơ hội hai nhà sư nói chuyện với nhau, dắt A Tử để chạy thoát thân.
Bỗng nghe A Tử hỏi:
- Ðại hòa thượng! Pháp danh đại hòa thượng là Ðại luân Minh Vương ư?
Cưu Ma Trí thuỷ chung vẫn chưa quay lại, hết nhìn Triết La Tinh lại ngó qua A Tử một lần, rồi cặp mắt đăm đăm nhìn Du Thản Chi.
Du Thản Chi thấy Cưu Ma Trí nhìn mình hau háu mà phát sợ đến luống cuống chân tay.
Cưu Ma Trí chắp hai tay hỏi:
- Quý tính đại danh thí chủ là gì?
Nguyên Cưu Ma Trí thoáng nhìn đã thấy mắt Du Thản Chi ẩn hiện những tia sáng kỳ dị. Lão biết ngay gã có công lực tinh thâm, thật là một dị nhân lão chưa từng thấy bao giờ, có điều mặt mũi gã cực kỳ xấu xa, nên lão tò mò hỏi vậy. Lúc lão chắp hai tay gã vận nội lực ngấm ngầm phóng ra.
Công lực Du Thản Chi rất thâm hậu, gã bị nội lực của Cưu Ma Trí tập kích vào người tuyệt không biết chi hết.
Gã giật mình đáp:
- Tại hạ... là...
Gã nhìn thấy đối phương cặp mắt sáng ngời tựa hồ nhìn thấu tâm can mình nên không dám xưng cái tên giả là Vương Tinh Thiên ra.
Cưu Ma Trí hỏi ngay:
- Chắc thí chủ có chỗ khó nói, không muốn xưng tên họ thật của mình ra có phải thế không?
Du Thản Chi ấp úng:
- Có thể như vậy.
A Tử thấy lão Ðại luân Minh vương không thèm đếm xỉa đến mình lại hỏi không trả lời, nàng đang tức giận, bây giờ nàng nghe lão hỏi đến Du Thản Chi thì trong lòng lại rất khoan khoái và cho là Vương Tinh Thiên tướng mạo phi phàm, khí vũ oai nghiêm, nên lão hòa thượng này phải hoang mang đến nỗi không nghe thấy câu hỏi của mình nữa.
A Tử thấy Du Thản Chi không chịu nói rõ họ tên mình, liền lớn tiếng dõng dạc đáp:
- Ðại hòa thượng! Vị này là chưởng môn phái Cực Lạc bên Tây Vực tên gọi Vương Tinh Thiên công tử. Ðại hòa thượng kiến thức hẹp hòi nên chưa nghe biết tiếng công tử đó thôi!
Cưu Ma Trí sinh lòng nghi hoặc. Tuy lão ở nước Thổ Phồn, nhưng các môn phái võ lâm khắp thiên hạ lão đều thuộc hết. Trước kia lão đã giao du với Mộ Dung tiên sinh bàn luận võ học cùng nhau rất tương đắc. Mộ Dung tiên sinh là một kỳ nhân đệ nhất thiên hạ, tiên sinh đã đề cập đến võ công hết các môn phái mà không thấy nói đến phái Cực Lạc bao giờ. Hiện nay gã hán tử này tuy mặt mũi xấu xa, nhưng võ công quả nhiên phi thường, lão ngẫm nghĩ hồi lâu rồi hỏi tiếp:
- Phái Cực Lạc ư?
A Tử cười đáp:
- Ta đã bảo hòa thượng kiến thức hẹp hòi thì biết sao được. Phái Cực Lạc là một môn phái do Ðạt Ma lão Tổ dựng ra. Nếu ngươi ở chùa Thiếu Lâm đến đây thì quay trở lại mau báo tin có chưởng môn nhân phái Cực Lạc là Vương Tinh Thiên đi cùng chưởng môn phái Tinh Tú là Ðoàn A Tử sắp lên thăm chùa và bảo các nhà sư chùa Thiếu Lâm đợi ở chân núi Thiếu Thất để nghinh tiếp.
Từ khi A Tử bị đui mắt, nàng sống bên Du Thản Chi trong vòng ảo tưởng. Nàng nhận cái ảo tưởng đó là cuộc sống hiện tại, nên miệng nàng thốt ra những lời tựa kẻ điên khùng.
Cưu Ma Trí là người lịch duyệt lại kiến thức uyên bác, lão nghe A Tử nói vậy, ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Nữ thí chủ! Vị chưởng môn phái Tinh Tú Ðoàn A Tử hiện giờ ở đâu?
A Tử cười khanh khách đáp:
- Chính là ta ở ngay trước mặt hòa thượng mà hòa thượng không trông thấy ư?
Cưu Ma Trí lại càng nghi hoặc hỏi:
- Té ra nữ thí chủ là chưởng môn nhân phái Tinh Tú? Thế còn Ðinh Xuân Thu...
A Tử ngắt lời:
- Ðể ta nói cho hòa thượng nghe: Ta bảo hòa thượng kiến thức nông cạn thì biết đâu được những biến chuyển trong võ lâm. Ðinh Xuân Thu lớn mật dám động thủ cùng ta đây và Vương công tử, nên đã bị truất ngôi chưởng môn phái Tinh Tú rồi!
Cưu Ma Trí gật đầu nói:
- À ra thế đấy! Vậy võ công Vương công tử đây quả là phi thường.
A Tử đem chuyện Du Thản Chi đánh bại Ðinh Xuân Thu ra nói lại kèm thêm cả mình vào nữa, nhưng Cưu Ma Trí thoáng trông đã biết ngay võ công A Tử rất tầm thường. Nếu có người đánh bại được Tinh Tú lão quái thì người đó phải là chưởng môn phái Cực Lạc, nên lão mới hỏi vậy để thử xem khẩu khí đối phương ra sao?
A Tử đắc ý đáp:
- Dĩ nhiên là thế, Hoà thượng có trông thấy một vị Hồ tăng là Triết La Tinh đó không? Y từ bên Tây Trúc sang, cưỡi rắn mà đi, nhưng Vương công tử chỉ đánh một đòn là hạ ngay được nên phải chịu để cho chúng ta sai khiến.
Cưu Ma Trí cười ruồi đáp:
- Triết La Tinh Phật huynh là một vị cao tăng bên Thiên Trúc mà sao võ công lại tầm thường thế?
Triết La Tinh nghe lời lẽ Cưu Ma Trí có vẻ mạt sát mình thì căm tức muốn phát điên.
Nguyên Triết La Tinh nóng lòng kiếm sư đệ phải cần người đưa đường, lại biết Du Thản Chi đã gặp Ba La Tinh, nên cam chịu tiếng thất bại để gã đưa đi. Không ngờ A Tử lại lấy chuyện giả làm thật để phô trương với người ngoài. Giả tỷ ở chỗ khác thì lão còn nhịn được, nhưng lần này nàng lại nói cho Cưu Ma Trí nghe, làm lão tức quá.
Cưu Ma Trí là Ðại luân Minh vương nước Thổ Phồn, một nước láng giềng nước Thiên Trúc. Hai nước này cùng thờ Phật pháp, những vị cao tăng thường qua lại giao thiệp với nhau. Nếu lão để mất mặt ở Trung Nguyên lời đồn đại về đến Tây trúc thì còn mặt mũi nào mà trông thấy ai nữa?
Triết La Tinh cười lạt hỏi:
- Ta mới đánh một chiêu đã bị hạ dưới tay Vương công tử ư?
A Tử đáp:
- Một chiêu hay hai chiêu cũng thế. Liệu ngươi có chống nổi ba chiêu không?
Du Thản Chi sợ quá toát mồ hôi ra, vội gạt đi:
- A Tử! Cô nương không nên nói nữa!
A Tử nói:
- Không được! Lão Hồ tăng này phản phúc bất thường. Công tử hãy cho lão một bài học nữa đi!
Du Thản Chi càu nhàu không thành tiếng:
- Cái gì mà cho bài học?
A Tử chưa nghe rõ thì Triết La Tinh đã cười lạt nói:
- Tiểu cô nương ơi! Thôi đừng mơ mộng nữa. Y động thủ với ta mới một chiêu đã bị ngã ngay, nhưng sợ cô nương biết nên năn nỉ ta nói trá là ta đã bị thua về tay hắn. Làm gì mà y cho ta một bài học được?
Du Thản Chi nghe Triết La Tinh nói rõ sự tình thì sợ run lên, gã lẩm bẩm:
- Hỏng rồi! Hỏng rồi!
Hai chân gã nhũn ra, ngồi phệt ngay xuống đất.
A Tử bĩu môi hỏi:
- Ngươi ngủ mơ giữa ban ngày ư? Ngươi nói cái gì một chiêu đánh ngã Vương công tử? Tại sao công tử phải năn nỉ ngươi bưng bít?
Cưu Ma Trí nghe Triết La Tinh nói vậy vẫn không tin, cảnh cáo:
- Phật huynh! Người tu hành không được nói dối!
Triết La Tinh cười nhạt:
- Ðể bần tăng bắt gã cho Minh Vương coi rồi sẽ biết là thực hay giả.
A Tử tức giận lên tiếng:
- Vương công tử! Thằng Hồ tăng này vô lễ thế! Công tử phải cho hắn nếm mùi đau khổ mới được.
Du Thản Chi chẳng còn hồn vía nào nữa, gã không biết trả lời A Tử ra sao. Gã biết rằng bây giờ tuy A Tử chưa tin lời Triết La Tinh nhưng lão đã bắt mình rồi thì không tin cũng không được. Gã hối hận mấy bữa nay đã dối nàng để bây giờ không còn cách nào bưng bít được nữa. Gã ngồi phệt xuống đất thộn mặt ra.
Triết La Tinh đã đến trước mặt mà gã vẫn không hay.
Cưu Ma Trí thấy Triết La Tinh sắp ra tay liền bước lại gần nói:
- Khoan đã! Vương thí chủ đây võ công cực cao. Chẳng lẽ Phật huynh không nhìn thấy hay sao?
Triết La Tinh dĩ nhiên đã nhận thấy rồi. Nhưng sự thực mới đây lão vừa đánh một chiêu "Thông tý Công"mà Du Thản Chi đã bị ngã lăn ra, nên cười nhạt đáp:
- Võ công gã tuy cao thiệt, nhưng còn kém bần đạo xa lắm.
Cưu Ma Trí toan bảo:
- "Chưa chắc", nhưng chưa thốt ra lời nào. Lão nghĩ lại rồi không nói nữa, lặng lẽ lùi lại phía sau.
Triết La Tinh lại quát lên giục Du Thản Chi:
- Ðứng dậy cùng ta động thủ đi!
Du Thản Chi chỉ gục đầu xuống ngồi yên, run lên bần bật.
A Tử lại lên tiếng quát:
- Vương công tử bất tất phải đứng lên, chàng cứ ngồi như vậy cũng đủ hạ ngươi rồi!
Triết La Tinh cười lạt một tiếng, đột nhiên vung tay ra chụp xuống vai Du Thản Chi. Năm ngón tay lão như móc câu đâm mạnh vào da thịt đối phương.
Du Thản Chi công lực rất thâm hậu. Chàng chả biết đau đớn là gì cả!
Triết La Tinh rung tay một cái đã nhấc người Du Thản Chi giơ bổng lên.
-
Hồi 77 - Triết La Tinh Bị Phỗng Dịch Cân Kinh - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 77 - Triết La Tinh Bị Phỗng Dịch Cân Kinh
Du Thản Chi vội la lên:
- Ðại sư buông ta ra! Ðại sư buông tay ra!
Triết La Tinh cười lạt hỏi:
- Ngươi thắng ta hay là ta thắng ngươi? Nói đi!
Du Thản Chi cổ họng khô ran nói không nên lời. Gã quay lại nhìn A Tử thì thấy nàng lộ vẻ khẩn trương tỏ ra đang chờ câu trả lời của mình. Gã nghĩ rằng tốt hơn là mình hãy duy trì mối hy vọng cho nàng một lúc.
Gã liền lớn tiếng đáp:
- Dĩ nhiên là đại sư thua ta.
Triết La Tinh cả giận dơ cao tay lên. Người lão không cao bằng Du Thản Chi, nhưng lão tinh thông phép Thông Tý Công, hễ tay kia co ngắn lại bao nhiêu thì tay nắm Du Thản Chi càng nhỏ lại và dài ra bấy nhiêu, nên lão nhấc bổng được gã lên cho chân không chấm đất rồi cười hô hố hỏi:
- Bây giờ ngươi chịu thua chứ?
A Tử lộ vẻ nghi ngờ hỏi:
- Vương công tử! Hiện tình ra sao?
Du Thản Chi không biết đáp thế nào cho xuôi, muốn lừa nàng lần nữa cũng không xong. Gã nhăn nhó cười đáp:
- A Tử! Tại hạ nói thực cho cô nương nghe. Chính ra tại hạ...
Du Thản Chi chưa dứt lời, A Tử đã biến sắc.
Du Thản Chi thấy bộ mặt khuynh quốc của A Tử trở nên xám ngắt ngừng lại không nói nữa.
A Tử run lên hỏi:
- Thực ra công tử làm sao?
Du Thản Chi nghiến răng đáp:
- Chính ra là tại hạ đùa hắn mà thôi. Ngay Ðinh Xuân Thu còn chưa phải là đối thủ của tại hạ, thì tại hạ há sợ chi một gã Hồ tăng.
A Tử mù mắt không nhìn thấy tình cảnh Du Thản Chi bị nhấc lên cao lơ lửng trên không và sợ co dúm người lại. Nàng nghe gã nói tưởng thật lại hớn hở tươi cười.
Cưu Ma Trí thấy Du Thản Chi tuyệt không trả đòn, rất lấy làm kỳ. Lão lại tưởng Du Thản Chi nói thiệt, chứ có biết đâu là gã kiếm lời an ủi để tạm yên lòng A Tử, nên lão cũng lên tiếng:
- Vương công tử quả là một bậc cao nhân, coi Triết La Tinh không vào đâu, mặc cho y ra đòn để giỡn chơi.
Du Thản Chi nghe Cưu Ma Trí nói vậy bất giác động tâm can nhủ thầm:
- Ðại luân Minh vương khí độ ngất trời, hẳn là một tay cao thủ tuyệt luân, biết đâu y chẳng cứu được mình?
Gã nghĩ vậy rồi lên tiếng hỏi Cưu Ma Trí:
- Ðại luân Minh vương! Theo ý Minh Vương thì tại hạ nên làm thế nào để thủ thắng?
A Tử vội lên tiếng:
- Công tử hà tất phải hỏi y.
Du Thản Chi đáp ngay:
- Tại hạ muốn thử võ học vị cao tăng này!
A Tử thích quá cười nói:
- À ra thế đấy!
Cưu Ma Trí chưa tỏ rõ thực hư, tưởng Du Thản Chi thử mình thiết, liền tủm tỉm cười đáp:
- Nếu công tử phóng chưởng đánh vào huyệt Thiếu hải đối phương thì y phải buông ra ngay.
Du Thản Chi vội hỏi:
- Huyệt Thiếu Hải ở chỗ nào?
Cưu Ma Trí vẫn ngờ là Du Thản Chi muốn thử tài mình, nhưng thấy câu hỏi hơi vô lý, vì đã là người học võ thì có lý đâu lại không biết huyệt Thiếu Hải?
Tuy lão hơi bực mình, nhưng vẫn đáp:
- Huyệt Thiếu hải ở phía trên huyệt Linh đạo cách tám tấc rưỡi, dưới huyệt Thanh Linh sáu tấc một phân.
Du Thản Chi nghe lời giảng giải của Cưu Ma Trí lại càng thêm mù tịt, vẫn chẳng biết nó ở chỗ nào, gã sợ mướt mồ hôi. Thuở nhỏ phụ thân cùng bá phụ đã dạy qua cách nhìn nhận các huyệt đạo trong người nhưng cả một ngày trời gã không nhận nổi một huyệt. Dù có nhớ được nữa thì cũng chỉ sau hai ngày là quên sạch. Trong con người ta có hàng mất trăm huyệt, gã có nhớ nhiều lắm là được năm ba huyệt. Lúc này gã chẳng biết huyệt Thiếu Hải ở đâu. Luôn cả những huyệt Thanh Linh, Linh Ðạo hay gì gì đi nữa cũng mù tịt.
- Hai huyệt đạo này ở chỗ nào?
Triết La Tinh không chờ cho Cưu Ma Trí lên tiếng, đã gắt lên:
- Ðại Luân Minh Vương! Minh Vương muốn gì đây?
Cưu Ma Trí thản nhiên cười đáp:
- Vương thí chủ đây khảo sát võ công tiểu tăng. Tiểu tăng không trả lời thế nào được.
Triết La Tinh tức mình xẳng giọng nói:
- Gã biết võ công cái quái gì? Nếu gã hiểu võ công thì chả hỏi vớ vẩn như vậy. Huyệt Thiếu Hải ở cánh tay trái, đã là người học võ công ai mà không biết.
Triết La Tinh nói câu này thành ra vô tình đã chỉ điểm cho Du Thản Chi. Biết Ðại Luân Minh Vương bảo mình đánh vào huyệt đạo ở tay trái đối phương, nhưng Du Thản Chi bị Triết La Tinh nắm chặt vai bên hữu, nên cánh tay mặt chuyển động không được linh diệu, gã đành giơ tay trái lên.
Triết La Tinh thấy Du Thản Chi quả nhiên muốn động thủ đánh mình thì lòng càng căm tức, lão hết sức bấm mạnh năm ngón tay vào sâu đến xương thịt đối phương.
Du Thản Chi vẫn chẳng thấy đau đớn gì cả. Trái lại Triết La Tinh cảm thấy đầu vai đối phương phát ra một luồng hấp lực rất mạnh khiến cho luồng lực đạo ở trong bàn tay mình dường như muốn thoát ra ngoài.
Triết La Tinh giật mình không chờ cho phát chưởng Du Thản Chi đánh tới. Lão rung tay một cái đã liệng đối phương ra xa.
Phát chưởng Du Thản Chi phóng ra giữa lúc người gã bị Triết La Tinh tung đi. Gã khác nào như diều đứt dây bị tung ra ngoài ba trượng, rồi rớt xuống đất đánh "huỵch" một tiếng. Nếu là người khác bị rớt xuống như vậy thì không chịu nổi, nhưng Du Thản Chi vẫn chẳng việc gì. Gã trằn mình một cái đứng dậy được ngay.
Triết La Tinh cười lạt hỏi:
- Minh Vương coi thế nào?
Cưu Ma Trí là tay thông tuệ, bây giờ gã hiểu rằng tuy Du Thản Chi nội lực cực kỳ thâm hậu, nhưng không biết chút võ công vào, chẳng khác gì một khối đá trong có tàng ẩn ngọc quí trên đời hiếm thấy mà chính gã cũng không hay.
Gã lắc đầu đáp:
- Tuy phật huynh thắng được Vương công tử đi chăng nữa, nhưng trong con mắt tiểu tăng thì một là chàng có ý nhường nhịn phật huynh, hai là đùa rỡn.
Du Thản Chi đang bần thần trong dạ, nghe Ðại Luân Minh Vương nói vậy, như người được thức tỉnh, gã lớn tiếng đáp:
- Phải rồi! Ta muốn rỡn ngươi một chút cho vui, để ngươi thích chí một lúc rồi sẽ ra tay đối phó.
Triết La Tinh bực quá mà phì cười hỏi vặn:
- Té ra là ngươi rỡn ta! Nhưng ta hỏi ngươi: Pho Dịch Cân Kinh trọng yếu thế nào, sao ngươi lại để lọt vào tay ta?
A Tử ngạc nhiên "Ồ" lên một tiếng rồi hỏi:
- Vương công tử! Pho kinh Dịch gì gì đó, công tử bảo đã lấy lại rồi cơ mà?
Du Thản Chi vối đáp:
- Ðoạt về lâu rồi, cô đừng nghe hắn nói nhăng.
Triết La Tinh lửa giận bốc lên ngùn ngụt, không suy nghĩ gì nữa, thò tay vào bọc móc pho Dịch Cân Kinh bằng chữ Phạn dơ ra hỏi:
- Vậy cái này là cái gì đây?
Lão vừa dơ Dịch Cân Kinh lên, Cưu Ma Trí đứng cách đó chừng mười thước không kìm lòng được, liền vung tay áo lên hất một cái. Nhưng lão là người cơ trí, vẫn giữ thái độ bình tĩnh, nên Triết La Tinh chưa hay biết gì.
Du Thản Chi thấy Triết La Tinh lấy Dịch Cân Kinh ra không khỏi đau lòng. Nhưng gã nghĩ đến A Tử đui mắt không nhìn thấy gì, mình có thể nói hàm hồ được.
Gã liền cười ha hả hỏi:
- Trong tay ngươi cầm cái gì thế? Ta buồn cười muốn chết. Ha! Ha!
Triết La Tinh tức quá gầm lên:
- Ngươi đui mắt rồi hay sau mà không nhận biết nó là cái gì?
Cưu Ma Trí nói xen vào:
- Phật huynh! Cho tiểu tăng mượn cuốn kinh đó xem một chút.
Lão vừa nói vừa thủ hai tay vào trong áo, nét mặt vẫn tươi cười tựa hồ không để ý gì. Triết La Tinh nghe giọng lưỡi Cưu Ma Trí thì giật mình kinh hãi vội quay sang nhìn lão, thấy lão vẫn tươi cười, hai tay thủ trong tay áo, hắn đã hơi yên lòng. Nhưng trong khoảng thời gian chớp nhoáng này bỗng có một luồng kình lực nhẹ nhàng chạm vào huyệt mạch môn tay phải hắn.
Triết La Tinh bất giác cảm thấy cổ tay tê dại, năm ngón tay đột nhiên xoè ra, pho Dịch Cân Kinh bằng chữ Phạn rời khỏi tay tung lên. Hắn biết rằng Ðại Luân Minh Vương đã chơi hắn vố này, hắn hoảng hốt đưa mắt nhìn Cưu Ma Trí thì thấy sắc mặt lão vẫn ung dung tươi cười. Chiếc tăng bào cũng không lay động chút nào. Hắn lại càng không hiểu Cưu Ma Trí làm thế nào mà đánh ra một kình lực mạnh như vậy.
Triết La Tinh điểm đầu ngón chân xuống đất, tung người lên không toan chụp lấy pho Dịch Cân Kinh.
Nhưng người hắn còn đang lơ lửng trên không thì lại một luồng kình lực không một tiếng động ập tới đập vào trước ngực hắn.
Lần này Triết La Tinh bị đánh trúng ngực, khí huyết nhộn nhạo. Hắn tức giận thét lên một tiếng rồi ngã bật ngửa về phía sau.
Triết La Tinh điên tiết gầm lên:
- Ðại Luân Minh Vương! Ngươi làm trò gì đây?
Cưu Ma Trí tủm tỉm cười thò tay ra vẫy một cái, bản Dịch Cân Kinh bay ngay vào tay lão. Lão nói:
- Dịch Cân Kinh này là của chùa Thiếu Lâm. Vậy ta dùng võ công phái Thiếu Lâm để đoạt lại.
Triết La Tinh cũng không phải tay tầm thường, vừa nghe lão nói vậy chợt nghĩ ra, liền hỏi ngay:
- Ðó là chiêu "Vô Tướng Kiếp Chỉ" ư?
Cưu Ma Trí chỉ tủm tỉm cười mà không đáp.
Triết La Tinh cúi gầm mặt xuống không biết nói sao.
Du Thản Chi đứng bên nhìn cuộc biểu diễn, thở phào một cái nhẹ nhõm rồi nói:
- Ðại sư thật có phép thần thông!
Lúc Cưu Ma Trí sử chiêu "Vô Tướng Kiếp Chỉ" , sắc mặt vẫn thản nhiên. Luồng chỉ lực từ trong tay áo ngấm ngầm phóng ra.
Triết La Tinh mới trông thoáng qua đã hiểu ngay là ám kình "Vô Tướng Kiếp Chỉ", nhưng Du Thản Chi biết thế nào được. Gã chỉ cho là phật pháp của Ðại Luân Minh Vương đã đến mực siêu phàm, nên gã không chỉ khen võ công lão giỏi, mà lại ca tụng Ðại Luân Minh Vương có phép thần thông.
Cưu Ma Trí tủm tỉm cười nói:
- Ðó chỉ là một kỹ thuật nhỏ mọn, chẳng bõ làm trò cười cho thí chủ.
A Tử không nhìn thấy cuộc biểu diễn, chỉ nghe ba người ứng đối với nhau, mà vẫn không hiểu rõ đã xảy ra việc gì. Nàng sốt ruột lên tiếng hỏi:
- Vương công tử! Công tử động thủ với vị đại hòa thượng đó rồi sao?
Du Thản Chi chưa kịp trả lời thì Cưu Ma Trí đã thò tay ra nắm lấy bàn tay gã. Lão biết công lực của Du Thản Chi rất thâm hậu, mà sao gã lại bị Triết La Tinh hất té một cách hời hợt dễ dàng khiến lão đem lòng ngờ vực. Lão muốn nhân cơ hội này thử công lực gã xem sao.
Du Thản Chi bị Cưu Ma Trí nắm tay một cách đột ngột, không kịp đề phòng toàn thân gã run bắn lên và tự nhiên chân khí âm hàn ngưng tụ vào lòng bàn tay.
Cưu Ma Trí chợt cảm thấy nội lực của mình vận ra bàn tay bị nội lực đối phương hút đi cuồn cuộn. Lão sợ quá vội buông tay ra, trống ngực đánh thình thình. Tình trạng này khiến cho Cưu Ma Trí nhớ lại lúc lão đối chưởng với Ðoàn Dự ở chùa Thiên Long nước Ðại Lý. Ðó là lần thứ nhất nội lực của gã bị thu hút, lão không ngờ bữa nay tình trạng đó lại tái diễn.
Cưu Ma Trí làm quốc sư nước Thổ Phồn, địa vị cao cả nhất nhì trong nước. Cuộc Ðông du xuống Trung Nguyên tuy ngoài miệng nói là đến chùa Thiên Long phải kiếm lấy Lục Mạch Thần Kiếm đem đến đốt ở trước mộ Mộ Dung tiên sinh, nhưng thực ra lão có ý muốn dương danh với thiên hạ. Lão tức không ngờ đến chùa Thiên Long đã bị thất bại ngay. Lão tức mình uy hiếp Bảo Ðịnh Ðế để rửa nhục thì lại bị Ðoàn Dự ra tay đẩy lui. Ðoàn Dự là con cháu họ Ðoàn nước Ðại Lý. Giòng họ này võ học uyên thâm thì lão có bị thất bại cũng không xấu hổ gì cho lắm nhưng hiện giờ gã Vương Tinh Thiên này là hạng người nào? Sao võ công gã lại kỳ dị như vậy?
Lão lẩm bẩm:
- Những nhân vật võ lâm Trung Nguyên xem chừng còn nhiều tay xuất chúng, hoài bão "săn hươu" của mình khó lòng thành tựu được.
Lão ngẩn người ra một lúc rồi buông một tràng cười rộ nói:
- Nữ thí chủ bất tất phải quan tâm! Tiểu tăng cùng Vương thí chỉ sinh lòng luyến ái nhau, có lý đâu lại cùng nhau động thủ.
A Tử nghe vậy khoái quá la lên:
- Ðại hòa thượng! Lão này quỷ quyệt thật! Biết rằng đánh không lại Vương công tử nên quay ra nói tử tế lấy lòng.
Cưu Ma Trí cười ha hả hỏi:
- Nữ thí chủ đã là chưởng môn phái Tinh Tú, hẳn đã được nghe pháp danh tiểu tăng?
A Tử đáp:
- Ta chẳng cần biết ngươi có tiếng tăm gì không? Trong thiên hạ biết bao nhiêu hòa thượng. Bọn sư mõ lúc nhúc như lợn con cũng muốn ta biết đến hay sao?
Cưu Ma Trí vẫn tủm tỉm cười nói:
- Tiểu tăng chính là quốc sư nước Thổ Phồn, Ðại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí chính thị!
A Tử vừa nghe đã giật nẩy mình lên, sắc mặt lợt lạt.
Du Thản Chi cả kinh vội hỏi:
- A Tử! Cô nương là sao vậy?
A Tử thộn mặt ra hồi lâu rồi xua tay đáp:
- Ta không sao cả.
Sắc mặt nàng lợt lạt không phải vì sợ hãi mà vì sung sướng quá. Trước nàng chỉ nghe thấy bốn chữ Ðại Minh Vương, chưa có một ấn tượng gì trong óc nàng, nhưng khi nghe lão tự xưng là quốc sư nước Thổ Phồn Ðại luân Minh Vương Cưu Ma Trí, thì ra là một nhân vật mà Tinh Tú lão quái thườgn đề cập đến và cho biết, lão là một tay cao thủ hạng nhất. Nay lão này phải uý kỵ Vương Tinh Thiên thật may cho mình đã kết bạn với một chàng công tử đa tình mà võ công tuyệt đỉnh.
A Tử sung sướng nói:
- Té ra là Cưu Ma Trí đại sư! Vừa rồi tại hạ nói năng có điều khiếm nhã thiệt là đắc tội!
Du Thản Chi nghe Cưu Ma Trí đề cao mình lên, chỉ cho là lão có ý che dấu cho mình, trong lòng gã cảm kích đến chảy nước mắt.
Gã vội hạ thấp giọng xuống hỏi:
- A Tử! Ðại sư đây là một nhân vật có lai lịch rất lớn phải không?
A Tử đáp:
- Ðúng thế! Ðại sư là một bậc cao nhân nơi cửa Phật, không phải hạng tầm thường có thể bì kịp.
Bây giờ A Tử lại tâng bốc Cưu Ma Trí mà cũng là để đề cao địa vị Vương Tinh Thiên là người yêu của mình.
Du Thản Chi vội hướng về Cưu Ma Trí thi lễ nói:
- Ðại sư! Vãn bối không biết bày tỏ thế nào cho xiết tấm lòng cảm kích đối với đại sư.
Cưu Ma Trí không lên tiếng, chỉ nhìn Du Thản Chi dơ tay ra hiệu rồi lại trỏ về phía A Tử.
Du Thản Chi hiểu ngay đối phương đã biết ý mình, lão chỉ ra hiệu chớ không lên tiếng để che dấu cho mình.
Nguyên Du Thản Chi từ thuở nhỏ không được phụ thân và bá phụ tỏ vẻ thương yêu. Sau gã bước chân vào chốn giang hồ lại gặp ngay những hoàn cảnh điêu linh khổ sở, chẳng được một ai quan tâm đến hoặc chiếu cố cho gã. Gã gặp toàn người khinh rẻ coi gã như cái vấn dưới chân để mà dày xéo hành hạ. Nay gã được Cưu Ma Trí là người thứ nhất lượng tình cho mình, lại hiểu tâm ý che dấu chỗ nhược điểm hộ cho mình. Trong lòng quá cảm động, gã co chân toan quì mọp xuống để tạ ơn.
Cưu Ma Trí liền phất tay áo một cái phóng ra một luồng kình lực mạnh mẽ ngăn lại rồi hỏi:
- Vương thí chủ! Nếu thí chủ không rẻ bỏ tiểu tăng thì chúng ta kết nghĩa giao du nên chăng?
Du Thản Chi vội đáp:
- Ðại sư! Vãn bối đâu dám như vậy?
A Tử nói xen vào:
- Vương công tử! Tuy Cưu Ma Trí đại sư là quốc sư nước Thổ Phồn, nhưng công tử bất tất phải quá khiêm nhượng. Nếu công tử chịu đến Nam Kinh nước Liêu gặp tỉ phu ta là Nam Viện Ðại Vương thì đại vị công tử cũng cao cả như ai.
Cưu Ma Trí nghe A Tử nói vậy thì ngẩn người ra. Liêu quốc hiện nay là một nước hùng mạnh. Nam Viện Ðại Vương là một vị đại thần chỉ dưới quyền một mình quốc vương. Té ra cô bé đui mắt này cũng giống cành vàng lá ngọc, lão liền nói:
- Nữ thí chủ đây nói đúng lắm, Vương thí chủ bất tất quá khiêm tốn.
Du Thản Chi xua tay nói:
- Ðại sư! Vãn bối...
Cưu Ma Trí dơ tay lên, một luồng kình phong hất tới.
Du Thản Chi tựa hồ bị kình khí đè chặt không mở miệng nói được nữa.
Rồi gã nghe thấy một thanh âm nhỏ như sợi tơ lọt chui vào tai gã nói:
- Nếu thí chủ còn từ chối, tất bị Ðoàn cô nương khám phá ra hết. Bấy giờ tiểu tăng không thể nói nhiều với thí chủ được. Tối nay tiểu tăng sẽ đến thăm thí chủ rồi hãy bàn thêm.
Du Thản Chi mừng quá gật đầu lia lịa. Gã xem chừng A Tử cùng Triết La Tinh không nghe rõ lời Cưu Ma Trí thì biết rằng lão nói câu đó với riêng một mình mình.
Gã liền hắng giọng đáp:
- Ðại sư đã không bỏ rẻ, vãn bối xin kính cẩn vâng mệnh.
Cưu Ma Trí cười ha hả đáp:
- Không ngờ bữa nay ngẫu nhiên tiểu tăng lại được kết bạn với Vương công tử là một tay anh hùng hảo hán. Tiểu tăng thiệt lấy làm khoan khoái vô cùng!
Du Thản Chi đáp bằng một giọng rất chân thành:
- Nếu vãn bối thường thường được ngắm phương dung đại sư thì trong lòng đã mãn nguyện lắm rồi.
Cưu Ma Trí ngoảnh đầu nhìn sang Triết La Tinh thấy mặt hắn xám xanh đứng ngây người ra liền nói:
- Phật huynh! Tiểu tăng xem ra Vương công tử cũng không muốn làm khó dễ gì với Phật huynh. Chi bằng Phật huynh năn nỉ Vương công tử bằng lòng cho về Thiên Trúc là hơn.
Việc xảy ra nhường này, Triết La Tinh biết rằng chẳng những bắt chẳng được Du Thản Chi đưa mình đi tìm Ba La Tinh mà cả bản Dịch Cân Kinh cũng bị Cưu Ma Trí cướp mất, hắn căm giận đến cực điểm. Bao nhiêu hy vọng đều tan ra mây khói.
Hắn nói:
- Vương công tử! Ta muốn trở về Tây Trúc.
Du Thản Chi chỉ mong có vậy, gã đáp ngay:
- Xin đại sư tuỳ tiện.
A Tử cũng nói:
- Cặp rắn này ta cũng không lấy nữa, cho ngươi đem nó về đó.
Triết La Tinh bộ mặt tiu nghỉu dẫn hai con rắn đi về phía Tây.
Cưu Ma Trí cũng từ biệt nói:
- Xin hai vị tự tiện. Sau này còn có ngày tái hội.
Du Thản Chi thấy Cưu Ma Trí sắp ra đi lòng gã bỗng bâng khuâng như người mất vàng. Nhưng gã lại nghĩ tới tối nay còn được hội diện, nên cũng đỡ băn khoăn.
Gã đáp:
- Xin đại sư tùy tiện.
Cưu Ma Trí lúc ra đi tủm tỉm cười, vẻ mặt trang nghiêm, khiến người càng cảm thấy một nhân vật đáng sùng bái như một bậc thần tiên.
Du Thản Chi ngẩn người ra.
A Tử cũng lên tiếng thúc giục gã lên đường, gã như người trong mộng tỉnh giấc rồi cùng nàng cất bước.
Du Thản Chi chỉ ngong ngóng cho trời mau tối để được tái hội với Cưu Ma Trí. Ðến đêm A Tử nằm lăn tren đống cỏ ngủ, Du Thản Chi vẫn bước lui bước tới trông ngóng Cưu Ma Trí.
Ðến nửa đêm quả nhiên gã thấy Cưu Ma Trí dáng đi như nước chảy mây trôi đến nơi.
Du Thản Chi vội quì xuống thi lễ.
Cưu Ma Trí đỡ gã đứng đậy nói:
- Chúng ta đã là bạn hữu với nhau sao thí chủ còn dùng đại lễ?
Du Thản Chi nói:
- Thưa đại sư! Vãn bối không khi nào dám làm cao. Dù đại sư dùng vãn bối làm kẻ nô bộc vãn bối cũng còn cảm thấy thân hình uế tạp không xứng đáng nữa thay.
Cưu Ma Trí mỉm cười nói:
- Ðừng lớn tiếng để Ðoàn cô nương tỉnh giấc. Chúng ta đi xa ra một chút.
Nói xong gã cầm tay Du Thản Chi dắt đi chừng nửa dặm. Lão nắm tay Du Thản Chi nhưng ngầm thi triển đến bảy lối võ công khác nhau để thử nội lực Du Thản Chi về môn phái nào. Nhưng chỉ biết là võ công gã tựa hồ môn Hóa công đại pháp của phái Tinh Tú mà công lực thì thâm hậu không biết đến đâu mà lường, nhất là khí âm hàn chứa trong người gã chất độc nhiều không biết đến thế nào mà nói. Cưu Ma Trí vốn đem tâm muốn lợi dụng Du Thản Chi, bây giờ ý niệm đó càng quả quyết hơn, mà Du Thản Chi tuyệt nhiên chẳng hiểu gì hết.
Chỉ trong khoảnh khắc hai người vào đến một khu rừng.
Du Thản Chi lại quì xuống hành lễ bị Cưu Ma Trí nhẹ nhàng ngăn trở, gã liền khẩn cầu:
- Ðại sư! Thần thông đại sư quảng đại là thế mà đối với vãn bối hết dạ ân cần. Nếu đại sư không nhận một lạy này thì vãn bối yên tâm thế nào được?
Cưu Ma Trí mỉm cười nói:
- Bây giờ tiểu tăng cùng thí chủ chỉ là bạn bè, khi nào tiểu tăng thu nạp thí chủ làm đồ đệ bấy giờ sẽ nhận lạy cũng chưa muộn.
Du Thản Chi nghe nói sướng quá, khoa chân múa tay loạn lên. Ngày nọ gã lạy Ðinh Xuân Thu làm sư phụ, thấy lão tiên phong đại cốt phong độ thoát tục, đã mừng thầm được vị sư phụ như vậy, thì chẳng còn sợ ai khinh khi nữa. Không ngờ mối quan hệ giữa gã và Ðinh Xuân Thu vì A Tử mà xảy ra cuộc biến đổi trọng đại, gã đang muốn tìm minh sư khác thì lại gặp ngay lão Cưu Ma Trí nham hiểm thâm trầm. Chỉ bộ mặt trang nghiêm của lão cũng đủ khiến người sinh lòng ngưỡng mộ. Huống chi Ðinh Xuân Thu đối với gã thì dùng cường lực, còn Cưu Ma Trí nói năng với gã thật dịu dàng lại còn giúp gã ra khỏi lúc hoang mang ban chiều. Gã vừa thấy Cưu Ma Trí ngỏ lời muốn thu mình làm đồ đệ, gã sung sướng vô cùng một niềm tin mãnh liệt. Nhưng gã sực nhớ ra Ðại Luân Minh Vương là một nhà sư, nếu mình hành lễ xin làm môn hạ thì có khác chi xin cắt tóc đi tu, còn quấn quít bên A Tử làm sao được. Nghĩ vậy Du Thản Chi đâm ra do dự.
Cưu Ma Trí dường như đã trông rõ ruột gan gã, tủm tỉm cười nói:
- Ngày sau nếu thí chủ có ý muốn làm môn hạ tiểu tăng thì thí chủ vẫn là tục gia đệ tử, chẳng có chuyện gì khó khăn cả.
Du Thản Chi cả mừng nói:
- Ðại sư! Thế thì đệ tử...
Gã chưa dứt lời, Cưu Ma Trí đã phất tay áo phóng ra một luồng kình phong ngăn lại không cho nói tiếp, rồi lão hỏi:
- Tiểu tăng chưa nhận lời thu thí chủ làm đồ đệ, sao thí chủ đã tự xưng là đệ tử?
Cưu Ma Trí lại nói:
- Nếu thí chủ quả có chân tâm thờ tiểu tăng làm thầy thì trước hết hãy làm mấy việc thiện, tiểu tăng mới có thể thu nạp được.
Du Thản Chi vội nói:
- Xin đại sư chỉ giáo cho vãn bối phải làm gì bây giờ?
Cưu Ma Trí tủm tỉm cười đáp:
- Có một kẻ đại ác họ Ðoàn tên Dự. Thí chủ đã nghe đến tên gã bao giờ chưa?
Du Thản Chi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:
- Vãn bối chưa nghe thấy ai nói đến y bao giờ.
Cưu Ma Trí nói:
- Gã này trông ngoài mặt ra vẻ vương tôn công tử có dáng phúc hậu hiền lành mà thực ra là một tên cùng cực ác. Trong thiên hạ có tứ ác thì Nhạc lão tam tức Hung thần ác sát nam Hải Ngạc Thần là đệ tử gã.
Du Thản Chi thất kinh hỏi:
- Gã Ðoàn Dự là sư phụ Nam Hải Ngạc Thần ư? Nếu thế thì gã quả là một tên đại ác.
Nguyên Du Thản Chi là người chẳng có kiến thức gì về các nhân vật trong võ lâm, nên vừa nghe Cưu Ma Trí bảo Ðoàn Dự là một tên đại ác, gã liền tin ngay.
Cưu Ma Trí nói:
- Thí chủ muốn làm việc công đức thì việc đầu tiên là phải đi trừ khử tên đại ác Ðoàn Dự.
Du Thản Chi giật mình nói:
- Ðại sư! Ðoàn Dự đã là một tên đại ác thì nhất định võ công gã phải kinh người. E rằng vãn bối... Gã nói tới đây, hai hàm răng run lên cầm cập, nói không ra tiếng.
Cưu Ma Trí hỏi:
- Thí chủ coi thần thông của ta ra sao?
Du Thản Chi đáp ngay:
- Thần thông đại sư vô song. Vãn bối chưa từng thấy ai được như vậy.
Cưu Ma Trí nói:
- Thế thì được rồi! Ta dạy thí chủ một chiêu. Thí chủ gặp Ðoàn Dự chỉ cần nắm chặt tay hắn là kiềm chế được ngay.
-
Hồi 78 - Rừng Hạnh Si Lang Đứng Ngẩn Ngơ - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 78 - Rừng Hạnh Si Lang Đứng Ngẩn Ngơ
Du Thản Chi nửa tin nửa ngờ, đưa mắt nhìn Cưu Ma Trí.
Cưu Ma Trí lên mặt kẻ cả vỗ vào người Du Thản Chi nói:
- Ta đem công lực truyền vào trong mình ngươi. Nếu ngươi chưa gặp Ðoàn Dự thì đừng xiết chặt bàn tay ai cả.
Du Thản Chi gật đầu hỏi:
- Ðoàn Dự hiện ở địa phương nào?
Cưu Ma Trí đáp:
- Sáng sớm mai ngươi cứ trông về hướng đông mà đi chừng bảy tám dặm đi thẳng vào một khu rừng hạnh, hễ thấy gã nào ngồi thộn mặt ra thì chính là Ðoàn Dự đó!
Du Thản Chi xoè tay mình ra coi rồi nói:
- Sáng sớm mai vãn bối xin đi sớm.
Cưu Ma Trí thấy kế mình đã hiệu nghiệm, liền đứng dậy nói:
- Bây giờ chúng ta hãy chia tay! Chờ khi ngươi xong việc ta sẽ tìm đến ngươi.
Nói xong lão muốn phô tài, liền tung mình đi như một cơn gió thoảng rồi mất hút.
Du Thản Chi lắc đầu lè lưỡi, mừng thầm mình đã gặp được minh sư.
Nguyên Cưu Ma Trí bị họ Ðoàn nước Ðại Lý chơi một vố cay. Lão không làm sao được, thấy võ công Du Thản Chi có nhiều chỗ tương tự như Ðoàn Dự, chỉ khác ở chỗ một đằng thuộc phái dương cương, một đằng thuộc phái âm hàn. Lão liền lợi dụng cái ngớ ngẩn của Du Thản Chi sai gã đi liều mạng với Ðoàn Dự.
Du Thản Chi đứng ngẩn người ra một lúc rồi trở gót quay về chỗ A Tử thì thấy nàng đang ngủ say. Dưới ánh sao lờ mờ, nét mặt nàng càng xinh đẹp khả ái. Môi nàng hơi cong lên tựa hồ trong giấc mộng vàng nàng bắt được ai mà lộ vẻ tươi cười.
Du Thản Chi đứng nyây người ra mà nhìn. Bỗng một làn gió thoáng qua lật mái tóc đắp lên mặt nàng. Du Thản Chi khẽ dơ tay vén mái tóc ra.
A Tử dường như tỉnh giấc, khẽ trở mình một cái, miệng lẩm bẩm:
- Vương công tử! Các phái võ thiên hạ chỉ nói đến "Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung" mà chưa biết đến chàng là Cực Lạc Vương bên Tây Vực.
Té ra A Tử đang nói trong lúc nằm mơ.
Du Thản Chi nghe thấy vậy trong lòng khoan khoái vô cùng. Gã nghĩ thầm: "Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung" là những nhân vật tuyệt đỉnh võ lâm. Còn mình đây chỉ có nàng tưởng rằng có thể ngang hàng với hai nhân vật kia. Xem thế đủ biết nàng đối với mình ấp ủ một mối tình sâu tựa bể.
Gã nghĩ vậy rồi đưa tay lên sờ mặt thấy đầy sứt sẹo chỗ dày chỗ lõm thì lại buồn cho mình. Gã chỉ mong được thờ Ðại Luân Minh Vương làm sư phụ học lấy một bản lĩnh tuyệt luân thì không sợ bị A Tử phải ngày đêm mong mỏi nữa.
Du Thản Chi khoanh tay gối đầu nằm xuống bên A Tử. Gã hướng về phía nàng thâu canh không nhắm mắt.
Sáng sớm tinh mơ, A Tử trở mình ngồi nhỏm dậy.
Du Thản Chi hỏi ngay:
- Cô nương tỉnh rồi ư?
A Tử quay lại, cúi xuống cầm tay Du Thản Chi nói:
- Ta vừa nằm mơ!
Du Thản Chi hỏi:
- Cô nương mơ thấy gì?
A Tử đáp:
- Ta mơ thấy bao nhiêu tay cao thủ khắp thiên hạ tụ họp ở một nơi đang tranh đấu để ấn định thứ tự võ công!
Du Thản Chi hỏi:
- Họ kết luận ai chiếm giải nhất?
A Tử cười nói:
- Có một chàng thanh niên công tử siêu quần xuất chúng, dùng quyền đánh Nam Mộ Dung, cước đá Bắc Kiều Phong. Những vị cao tăng phái Thiếu Lâm không dám ra tay. Tinh Tú lão quái lạy lục xin tha mạng. Võ công đệ nhất thiên hạ dĩ nhiên là chàng thanh niên công tử này.
Du Thản Chi lại hỏi:
- Chàng thiếu niên công tử đó là ai vậy?
A Tử đỏ mặt lên nói:
- Là công tử chứ còn ai? Sao mà ngốc thế!
Du Thản Chi ngơ ngẩn không biết nói sao.
A Tử cười khanh khách hỏi:
- Sao công tử không đánh nổi chúng ư?
Du Thản Chi vội đáp:
- A Tử! Thôi đừng nói chuyện mộng mị nữa! Bữa nay tại hạ phải đi đối phó với một tên đại ác.
A Tử vội hỏi:
- Tên đại ác nào?
Du Thản Chi nghĩ thầm:
- A Tử họ Ðoàn, Ðoàn Dự cũng họ Ðoàn, mình chẳng nên nói rõ để nàng kém vui.
Gã nghĩ vậy liền đáp:
- Tại hạ cũng không biết tên gã là gì, nhưng chỉ biết gã hung ác vô cùng, không trừ đi không được. Võ công gã rất là quái dị. Lúc tại hạ cùng gã động thủ, cô nương phải nhớ đứng xa ra một chút.
A Tử nói:
- Ta biết chắc thế nào công tử cũng thắng, dù ta đứng xa hay đứng gần cũng chẳng quan hệ gì.
Du Thản Chi nói:
- Vậy chúng ta đi thôi!
Hai người dắt tay nhau đi về hướng Ðông.
Ði được hơn mười dặm quả nhiên đến một khu rừng khá lớn.
Du Thản Chi tưởng chừng như mình sắp cùng một tay đại ác động thủ mà võ công đối phương rât ghê gớm. Tuy Ðại Luân Minh Vương bảo đã truyền pháp lực cho gã, nhưng gã vẫn còn khiếp đảm. Gã mở bàn tay ra coi thì nó vẫn như ngày thường chẳng có gì khác lạ, trong lòng lại thắc mắc không yên.
Ði tới ngoài rừng hạnh gã dừng chân lại.
A Tử hỏi:
- Ðến rồi ư?
Du Thản Chi đáp:
- Ðây là một khu rừng hạnh. Tại hạ thấy nói gã nấp ở trong khu rừng này. Cô nương ở ngoài này chờ tại hạ.
A Tử vốn là người ương ngạnh không chịu nghe ai, nhưng lúc này nàng lại ngoan ngoãn đáp:
- Ðược rồi! Công tử cứ đi đối phó với hắn, ta chờ đây cũng được.
Du Thản Chi dẫn A Tử để ngồi dưới một gốc cây lớn, rồi tự mình đi vào trong rừng. Khu rừng này rậm rạp um tùm.
Du Thản Chi đi một lúc không thấy gì, gã nghĩ bụng Ðoàn Dự chắc không có ở đây. Gã toan quay gót trở ra, bỗng nghe góc Ðông Bắc có tiếng thở dài vọng ra.
Du Thản Chi giật mình liền tìm đến phía có tiếng thở dài. Gã đi vòng vèo một lúc thì nhìn thấy một người hai tay chắp để sau lưng đứng ngẩng mặt trông trời. Người này đang thở ngắn than dài.
Du Thản Chi tạm đứng ẩn mình một nơi không lên tiếng. Gã nhìn ra phía trước thì thấy người này nét mặt buồn bã, gã chắc không phải Ðoàn Dự. Nếu y là người tàn ác, sao lại thở ngắn than dài. Nghĩ vậy, gã liền bước về phía trước, đột nhiên gã nghe người đó lên tiếng gọi:
- Vương cô nương! Hỡi Vương cô nương! Cô nương có biết đến người đang vì cô mà gan héo ruột rầu không?
Du Thản Chi lẩm bẩm:
- Té ra anh chàng này cũng là giống đa tình, dường như gã luyến ái một vị cô nương họ Vương nào đây mà không được như nguyện.
Du Thản Chi vừa nghĩ vừa tiến lại gần hai bước.
Người đó bỗng quay đầu lại thì thấy y là một chàng thiếu niên công tử dáng điệu thanh nhã.
Người này chính là Ðoàn Dự.
Nguyên Ðoàn Dự đang tương tư Vương Ngọc Yến, trong lòng sầu não vừa nghe thấy phía sau có tiếng bước chân, chàng giật mình tưởng là Cưu Ma Trí mà chàng đã gặp hôm trước. Sợ lão đột kích ngấm ngầm, chàng vội quay đầu lại thấy một gã hán tử mặt mũi sần sùi, cực kỳ xấu xa không khỏi kinh ngạc.
Du Thản Chi nhìn kỹ thấy Ðoàn Dự mày mặt thẫn thờ, nhưng tuổi trẻ bảnh trai, chẳng có chi ra vẻ tàn ác.
Gã không chờ Ðoàn Dự lên tiếng đã nói trước:
- Trong khu rừng hạnh này sắp xảy ra một cuộc ác đấu, các hạ nên mau mau rời khỏi nơi đây là hơn.
Ðoàn Dự bụng mải nghĩ đâu đâu, chỉ ậm ừ nhưng vẫn đứng yên không nhúc nhích.
Du Thản Chi lại nói:
- Xem chừng các hạ không phải là người võ lâm, khó lòng tránh khỏi vạ lây. Các hạ nên tránh mau đi đừng ở đây thở ngắn than dài nữa.
Ðoàn Dự vốn rất chán ghét những cuộc động võ. Hiện giờ tuy trong người chàng đã mang tuyệt kỹ, mà thiên tính ưa hòa bình vẫn không thay đổi.
Nghe Du Thản Chi nói vậy, chàng chau mày hỏi:
- Tại hạ đang ở đây thanh tĩnh cho đỡ cơn buồn, sao các vị không kiếm chỗ khác mà đánh nhau?
Du Thản Chi đáp:
- Có người ước hẹn gặp tại hạ ở trong rừng hạnh này.
Ðoàn Dự thở dài hỏi:
- Thế mà tôn giá không sợ ư? Phải chăng tôn giá có tuyệt kỹ trong mình?
Du Thản Chi nhăn nhó cười đáp:
- Tại hạ muốn đi mà không đi được.
Ðoàn Dự lấy làm lạ hỏi:
- Sao lại không đi được?
Du Thản Chi đáp:
- Tại hạ là một bên trong cuộc ác đấu sắp xảy ra thì còn bỏ đi sao được?
Ðoàn Dự thấy đối phương tuy mặt mũi cực kỳ xấu xa, nhưng tâm địa rất tốt, liền kiếm lời khuyên can:
- Các hạ nên đề phòng trước là hơn. Các hạ bỏ đi ra khỏi nới đây có phải sẽ tránh được một cuộc ác đấu không?
Du Thản Chi nói:
- Không được! Tại hạ đến đây kiếm một người đại ác để trả hận. Có lý đâu chưa gặp mặt đã bỏ đi!
Ðoàn Dự đã biết những cuộc ân oán trong võ lâm không phải chỉ hời hợt mấy lời mà can ngăn được.
Chàng liền hỏi:
- Người đại ác đó là ai?
Du Thản Chi đáp:
- Các hạ chẳng nên nghe đến tên họ hắn làm chi, vì các hạ biết ra chỉ tổ kinh hãi mà chẳng có ích gì.
Ðoàn Dự vốn không thích nghe tên họ người đại ác, nên không nhắc tới nữa.
Chàng hỏi:
- Vậy tôn giá chắc sẽ thắng được tên đại ác kia?
Du Thản Chi ngơ ngẩn đáp:
- Tại hạ cũng không biết nữa.
Ðoàn Dự càng lấy làm lạ hỏi:
- Tôn giá đã không nắm chắc được phần nào thắng địch, mà lại đến đây tìm hắn để rửa hận ư? Sao trong thiên hạ lại có người ngớ ngẩn như tôn giá?
Du Thản Chi nhăn nhó cười đáp:
- Tại hạ tự biết chẳng có tài năng gì, nhưng được một vị thánh tăng thần thông quảng đại đã vỗ vào người mấy cái và đã dạy cho pháp thuật chỉ cần nắm vào tay tên đại ác đó là có thể thắng hắn. Du Thản Chi nói vậy mà chính gã cũng không tự tin, huống chi Ðoàn Dự là người đã hiểu đôi chút về võ công, chàng nghe vậy chỉ buồn cười mà lấy làm thú vị.
Chàng hỏi:
- Thế thì trong tay tôn giá hẳn có pháp bảo gì không sai?
Du Thản Chi xòe tay ra đáp:
- Các hạ coi đây! Chẳng có gì là cả.
Ðoàn Dự nói:
- Thế thì trong bụng tôn giá chắc cũng không tin lời vị thánh tăng đó?
Du Thản Chi lắc đầu thở dài nói:
- Các hạ bất tất phải hỏi làm chi, xin dời khỏi nơi này là hơn.
Ðoàn Dự nói:
- Không hề chi? Tại hạ chẳng có biệt tài gì nhưng một khi đã trốn tránh thì không ai bắt được. Tôn giá cứ để tại hạ đứng bên ngoài coi cũng chẳng sao.
Thực ra chàng cũng chẳng muốn đứng xem người đánh nhau. Nhưng thấy Du Thản Chi là người chất phác, chàng chắc gã không đánh nổi tên đại ác, nên muốn đứng ngoài chuẩn bị giúp gã một tay để lúc cần lôi gã chạy trốn cho khỏi bị tên đại ác đánh chết.
Du Thản Chi hỏi:
- Các hạ không sợ bị liên lụy ư?
Ðoàn Dự đáp:
- Không hề chi!
Du Thản Chi thấy khuyên Ðoàn Dự không nghe, cũng không nói nữa, rồi đi sâu vào trong rừng hạnh.
Du Thản Chi tìm khắp mà chẳng thấy bóng một ai thì chắc rằng Ðại Luân Minh Vương nhận lầm, hay là tên đại ác Ðoàn Dự đã ra khỏi khu rừng này rồi. Gã xoay mình lại thấy Ðoàn Dự đứng ngay ở sau lưng, sực nhớ ra Ðại Luân Minh Vương bảo: Ðoàn Dự bề ngoài giống như một vị vương công tử mà thấy người này có vẻ phong lưu.
Gã tự hỏi:
- Chẳng lẽ chính là gã này?
Nghĩ vậy gã run lên nhìn Ðoàn Dự toan hỏi tên chàng nhưng lại nghĩ rằng nếu chàng thiếu niên công tử này mà là người độc ác thì trên đời không còn ai là người lương thiện nữa. Âu là ta thử hỏi coi.
Giữa lúc gã ngần ngừ không quyết, bỗng nghe một tràng cười ha hả vang lên rồi tiếp theo là tiếng cười rất quyến rũ của một cô gái.
Du Thản Chi nhớ đến A Tử đứng chờ mình ngoài ven rừng. Nếu có người tới e sẽ xảy chuyện gì cho nàng. Nghĩ vậy gã liền xăm xăm đi.
Du Thản Chi vừa cất bước bên tai bỗng nghe một luồng gió vèo qua.
Thì ra Ðoàn Dự thân pháp còn mau lẹ hơn gã đã lướt qua trước mặt gã chạy trước.
Du Thản Chi giật mình la lên một tiếng kinh ngạc:
- Té ra anh chàng này thân pháp ghê gớm quá!
Nhưng gã lại thấy nét mặt chàng tựa hồ như bị ma tà ám ảnh, bất giác gã ngẩn người ra. Chớp mắt Ðoàn Dự vừa chạy trước đã không thấy nữa.
Du Thản Chi lắng tai nghe thấy ngoài rừng hạnh văng vẳng có tiếng người nói chuyện nhưng không rõ lắm. Gã lại băng mình chạy về phía trước.
Vừa ra khỏi rừng hạnh thì thấy Ðoàn Dự hai tay chắp để sau lưng đang đứng giữa đường, cặp mắt chàng đăm đắm nhìn về phía trước.
Du Thản Chi đảo mắt ngó quanh chẳng thấy A Tử đâu cả thì trong lòng nóng nảy cất tiếng gọi:
- A Tử! A Tử! Cô nương ở chỗ nào?
Gã gọi hai câu không thấy A Tử đáp, gã càng bồn chồn trong dạ trán nổi gân xanh, khắp mình mồ hôi đầm đìa.
Du Thản Chi chạy đến trước mặt Ðoàn Dự hỏi:
- Các hạ ra đây trước có nhìn thấy A Tử đâu không?
Cặp mắt Ðoàn Dự vẫn đăm đăm ngó về phía trước.
Trên đường vắng vẻ chẳng thấy một ai không biết chàng nhìn gì mà Du Thản Chi hỏi đến bảy tám lần chàng mới bâng khuâng hỏi lại:
- A Tử ư?
Du Thản Chi đáp:
- Phải rồi! Nàng là một thiếu nữ xinh đẹp. Mình mặc áo tía, cặp mắt đui mù, chắc chưa đi xa được. Trời ơi! Các hạ có thấy nàng không?
Ðoàn Dự hàm hồ đáp:
- Nàng đi rồi!
Du Thản Chi ngơ ngác hỏi:
- Nàng đi rồi?
Ðoàn Dự nhăn nhó cười đáp:
- Nàng đi rồi, đi mà chẳng nhìn đến tại hạ một chút, dường như không biết có tại hạ đứng đây nữa.
Du Thản Chi vừa kinh hãi vừa nóng nẩy hỏi luôn:
- Các hạ nói gì mà vớ vẩn thế? Tại hạ hỏi A Tử kia mà? Chẳng lẽ các hạ nhìn thấy nàng rồi?
Gã vừa hỏi vừa nắm lấy vai Ðoàn Dự lắc luôn mấy cái.
Ðoàn Dự khác nào người trong mộng choàng tỉnh giấc.
Chàng chau mày hỏi:
- Ông bạn làm gì thế?
Du Thản Chi trong lòng xao xuyến, tiếng nói thất thanh:
- A Tử! Tại hạ muốn tìm A Tử!
Ðoàn Dự "Ồ" lên một tiếng rồi đáp:
- Té ra tôn giá đi tìm người, tiếc rằng tại hạ không giúp được chuyện gì.
Du Thản Chi tức mình nói:
- Thúi lắm! Ngươi vừa bảo đã nhìn thấy nàng. Nàng đi về phương nào?
Nguyên Ðoàn Dự nghe tiếng một cặp trai gái đương cười nói với nhau. Chàng chắc là Mộ Dung công tử và Vương Ngọc Yến, mới xăm xăm chạy ra. Nhưng chàng chỉ trông thấy sau lưng Vương Ngọc Yến mà thôi, nên trong lòng cực kỳ buồn bã.
Du Thản Chi hỏi chàng mà chẳng hiểu chi hết, rồi đem tâm sự của mình ra nói:
- Phải! Tại hạ đã nhìn thấy nàng, nhưng nàng không nhìn đến tại hạ.
Du Thản Chi vội nói:
- Dĩ nhiên là nàng không trông thấy các hạ.
Ðoàn Dự thở dài nói:
- Trong con mắt của nàng chỉ có hình ảnh một người đã in sâu vào tâm khảm, còn ngoài ra bất cứ ai dù có ngó thấy cũng như không.
Du Thản Chi ra vẻ kiêu ngạo nói:
- Dĩ nhiên trong tâm nàng chỉ có hình ảnh một người. Hai gã si tình mỗi người nghĩ tới một cô.
Ðoàn Dự nói về Vương Ngọc Yến, còn Du Thản Chi lại tưởng chàng nói A Tử, thật là ông nói gà bà nói vịt, chẳng ăn nhập với nhau cả.
Du Thản Chi hỏi:
- Vậy nàng đi về nẻo nào?
Ðoàn Dự đáp:
- Tại hạ không biết.
Ngừng một lát chàng lẩm bẩm nói để mình nghe:
- Ðoàn Dự hỡi Ðoàn Dự! Nàng đi đâu rồi? Ngươi có biết không?
Du Thản Chi chợt nghe đến tên Ðoàn Dự, bất giác giật mình đánh thót một cái.
Gã lùi luôn ba bước, trống ngực đánh thình thình run lên hỏi:
- Các hạ vừa nói tới Ðoàn Dự... là ai vậy?
Ðoàn Dự ngẩng đầu lên đáp:
- Tại hạ chính là Ðoàn Dự.
Du Thản Chi cả kinh, ấp úng hỏi lại:
- Các hạ là...
Rồi gã dừng lại, xẳng giọng hỏi:
- A Tử đâu? Ngươi nói mau đi!
Du Thản Chi bị người hà hiếp đã quen, dù ai đánh gã, gã cũng không dám kháng cự. Nhưng bây giờ gã biết đối phương là Ðoàn Dự. Gã nhớ lời Cưu Ma Trí tin ngay chàng là một tên đại ác. Ðồng thời A Tử lại đột nhiên đi mất, mấy yếu tố này làm cho gã cáu kỉnh. Hồi còn ở bên Ðinh Xuân Thu, thấy A Tử gặp cơn nguy cấp, gã còn dám liều mạng cứu nàng đem đi, huống chi đối với Ðoàn Dự, một người đại ác mà gã đang tìm kiếm.
Du Thản Chi vừa nóng nảy vừa căm giận, trên mặt cả những chỗ sứt sẹo cũng đỏ bừng lại. Cặp mắt gã loang loáng chiếu ra những tia sáng hung dữ trông mà phát khiếp.
Ðoàn Dự đưa mắt nhìn gã không khỏi xao xuyến trong lòng, chàng lùi lại một bước hỏi:
- A Tử ư? A Tử là ai?
Du Thản Chi tức giận nói:
- Ngươi đừng giả bộ ngớ ngẩn nữa!
Ðoàn Dự xua tay loạn lên nói:
- Ta chả biết A Tử gì ráo! Ngươi đừng hỏi ta nữa.
Du Thản Chi thấy Ðoàn Dự chối phăng, lại càng căm tức, bộ mặt xấu xa tím ngắt lại. Gã giơ hai tay lên khoằm khoằm như móc câu chụp xuống đối phương. Chiêu thức này tuy chỉ là chiêu thức tầm thường trong võ học, nhưng trông bề ngoài có vẻ khủng khiếp. Du Thản Chi nhằm trúng người Ðoàn Dự nhảy xổ lại, gã chắc mẩm thế nào cũng trúng. Ngờ đâu đối phương thốt nhiên lảng ra ngoài, nên gã không chạm được đến tà áo Ðoàn Dự, chứ đừng nói tới người chàng.
Du Thản Chi đứng thộn mặt ra một lúc rồi đột nhiên la lên một tiếng quái dị, toan nhảy xổ lại nữa.
Ðoàn Dự vội nói:
- Này anh bạn! Có chuyện gì sao không nói tử tế lại dở trò gì vậy?
Du Thản Chi quát lên:
- Trả A Tử lại cho ta đây!
Ðoàn Dự thở dài:
- Quả tình ta chẳng biết A Tử là gì hết.
Du Thản Chi vẫn sừng sộ:
- Ðừng có hàm hồ! Ngươi vừa bảo đã nhìn thấy nàng rồi kia mà?
Trong khi gã hỏi, gã đã nhảy xổ vào Ðoàn Dự đến năm sáu lần.
Tuy Ðoàn Dự không trả đòn mà Du Thản Chi vẫn ngờ Ðoàn Dự là người hung ác. Gã yên trí tuyệt kỹ của Ðại Luân Minh Vương cực kỳ lợi hại, khiến cho tên "đại ác" phải kinh hoảng nên không dám phản kích. Vì thế lần này gã càng nhảy xổ vào mạnh hơn.
Du Thản Chi gây lộn cùng Ðoàn Dự ở ngoài rừng hạnh, Ðoàn Dự chỉ chuyên tránh né, còn Du Thản Chi lại hùng hổ xông vào.
Thế đánh cũng như thế tránh đều cực kỳ mau lẹ.
Ðoàn Dự không khỏi kinh hồn, bắp thịt giựt lên đùng đùng. Chàng thấy vụ này còn nguy hiểm hơn cả vụ chàng trá làm Kiều Phong bị Nam Hai Ngạc Thần rượt theo không còn đường chạy. May mà chàng thi triển bộ pháp Lăng Ba Vi Bộ thân pháp rất là kỳ diệu. Du Thản Chi rượt chàng đến nửa giờ mà không sao tóm được Ðoàn Dự. Gã vừa tức giận vừa nóng nảy, tia mắt đỏ song lên trông rất hung dữ.
Ðoàn Dự đành nhắm mắt lại để khỏi nhìn bộ mặt vừa ghê tởm vừa khủng khiếp của Du Thản Chi.
Du Thản Chi vừa rượt theo Ðoàn Dự, vừa lo lắng không biết A Tử lạc lõng nơi đâu. Mồ hôi trán gã đầm đìa, nên trông phía trước không rõ nữa.
Gã dơ tay áo lên lau mồ hôi rồi lại nhảy xổ rượt theo rất gấp làm cho cát bụi bay mù dính đầy vào tay áo, mặt mũi. Gã giơ tay áo lên lau mắt thì thấy hai mắt đau nhức rất khó chịu, trước mắt không còn nhìn thấy sự vật gì nữa.
Du Thản Chi hoang mang vô cùng. Gã biết tuy mắt chỉ đau nhói chốc lát vì cát bụi, nhưng có cường địch ở trước mặt, mắt không trông rõ thì rất có thể nguy hiểm cho mình được. Gã vung loạn hai tay ra chụp tới.
Ngờ đâu phép Lăng Ba Vi Bộ chỉ hiệu nghiệm khi nào đối phương nhằm trúng người đánh tới, và như vậy thì vĩnh viễn không bao giờ trúng đích. Còn trường hợp đối phương cứ nhắm mắt đánh ẩu thì lại nguy hiểm vô cùng. Lý do thiệt là thiển cận, nhưng chẳng mấy ai nghĩ ra được.
Chính Ðoàn Dự cũng không hiểu tới.
Lúc này Du Thản Chi bị cát bụi vào mắt phải nhắm mắt lại, hai tay gã vung loạn lên đập liều chẳng còn biết phương hướng của đối phương ở chỗ nào, ấy thế thì lại nắm trúng được cánh tay Ðoàn Dự.
Ðoàn Dự giựt mình kinh hãi, hết sức giựt mạnh một cái, tay áo chàng rách toạc. Trước nay chẳng bao giờ bộ pháp Lăng Ba Vi Bộ của chàng không ứng nghiệm, thế mà lần này lại bất lợi mới kỳ!
Ðoàn Dự cả kinh đứng ngẩn người ra thì đối phương đột nhiên lại nhảy xổ đến.
Trong lúc hoảng hốt luống cuống, người chàng vừa lạng đi, vừa đưa tay ra nghinh địch. Nháy mắt bỗng nghe hai tiếng"bốp bốp"bốn bàn tay va chạm nhau rồi chính chặt vào nhau.
Du Thản Chi nhớ lời Ðại Luân Minh Vương lập tức vận kình lực ra hai bàn tay. Thế là hai người ở vào tình thế giữ nhau, đứng không nhúc nhích.
Ðột nhiên Cưu Ma Trí ở đâu nhảy vọt vào đứng trước mặt hai người. Thấy tình trạng quái dị này lão không khỏi sửng sốt, đứng thộn mặt ra mà nhìn.
Lão thấy Ðoàn Dự mặt đỏ như lửa khắp người bao phủ một làn bạch khí tựa hồ nồi nước sôi mở vung ra.
Du Thản Chi cũng khắp mình từ trên xuống dưới hơi nước bốc ra đóng lại thành một lớp băng mỏng.
Cưu Ma Trí tuy biết nhiều hiểu rộng, nhưng cũng chỉ xem ra võ công một gã thuộc phái dương cương, và một gã thuộc phái âm hàn, nhưng không hiểu được lai lịch những thứ võ công kỳ dị này.
Bây giờ lão thấy hai gã đứng trơ ra không nhúc nhích, bốn bàn tay giáp nhau mà hiện trạng bên nóng bên lạnh tự trong người phát tiết ra rất kỳ dị thì trong lòng lão không khỏi kinh hãi.
Ðoàn Dự từ khi nuốt Mãng cổ chu cáp, lại vô tình nhờ có Chu Cáp Thần Công mà hút vào mình được bao nhiêu nội công của mấy tay cao thủ hạng nhất. Nội lực chàng súc tích rất mãnh liệt có thể nói là trên đời hiện nay không ai sánh kịp thì bỗng nhiên xuất phát ra gã Du Thản Chi. Gã này sau khi hút được chất âm hàn kịch độc của con băng tằm, lại khám phá ra được phép Dịch Cân Kinh của Ðạt ma lão tổ để phát huy được kỳ công hạn hữu của con băng tằm.
Ðường lối võ công của hai người tỉ đấu nội lực vừa đúng ngang sức nhau, khó lòng phân được cao thấp. Hai người bốn bàn tay dính chặt vào nhau.
Ðoàn Dự tuyệt không có ý hại người mà Du Thản Chi lại muốn đánh ngã đối phương, nhưng không biết hạ thủ bằng cách nào. Vì hai người công lực tuyệt cao, hai bàn tay đã dính chặt vào nhau và chân lực trong người tự nhiên thúc đẩy ra để công kích đối phương.
Những người công lực đã cao thâm mà gặp áp lực bên ngoài càng mạnh bao nhiêu thì lực lượng phản kháng trong người cũng tự nhiên phát huy mạnh đến bấy nhiêu.
Ðó là nguyên nhân mà hai người vô hình trung đã huy động nội lực đến mức tối cao. Có thể nói là cổ kim trong võ lâm chưa từng có cuộc ác đấu nội lực nào gay go như vụ này.
Cưu Ma Trí đứng bên theo dõi cuộc đấu thấy nhiệt khí trong người Ðoàn Dự tiết ra bao phủ toàn thân chàng, làn sương lạnh chung quanh người Du Thản Chi cũng dần dần biến thành một làn băng mỏng, gã mừng thầm trong bụng cho là kế mình tuyệt diệu, lão tiến lên một bước chuẩn bị phóng chưởng đánh tới Ðoàn Dự, thì bất thình lình có tiếng người quát lên:
- Ðại sư không nên thế!
-
Hồi 79 - Hắc Hán, Bạch Tăng Là Ai ? - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 79 - Hắc Hán, Bạch Tăng Là Ai ?
Cưu Ma Trí quay đầu lại xem thì sau lưng có một cặp nam nữ đứng đó.
Hai người này chính là Mộ Dung Phục cùng Vương Ngọc Yến.
Cưu Ma Trí hỏi:
- Sao lại không nên?
Kiến thức Mộ Dung Phục cũng chẳng kém gì Cưu Ma Trí. Mộ Dung Phục thấy Du Thản Chi cùng Ðoàn Dự đang ở trong một tình trạng rất kỳ dị. Tuy y không hiểu nguồn gốc ra sao, nhưng biết rằng nội công hai người cao thâm đến mực hiếm có ở trên đời, nên vì lòng mến tài mà lên tiếng ngăn trở Cưu Ma Trí đang muốn đánh lén. Song khi Cưu Ma Trí hỏi vậy thì chàng cũng chưa biết phải đáp thế nào.
Cưu Ma Trí lại nói:
- Ngày trước tiểu tăng may mắn được cùng Mộ Dung tiên sinh kết bạn, hai ta đã cùng bàn luận đến các môn kiếm pháp trong võ lâm đều xác nhận môn "Lục Mạch Thần Kiếm" tại chùa Thiên Long đúng là đệ nhất kiếm pháp trong thiên hạ. Mộ Dung tiên sinh vẫn ân hận trong tâm vẫn chưa được nhìn thấy kiếm pháp đó. Khi ấy tiểu tăng đã hứa lời lấy kiếm lục về để tiên sinh xem. Mộ Dung tiên sinh tuy đã bước lên tiên cảnh, tiểu tăng cũng không thể quên lời hứa được. Lục Mạch kiếm phổ đã bị hủy rồi, nhưng Ðoàn Dự đây đã nhập tâm pho bảo lục đó, gã đã thành một pho kiếm phổ sống, nên tiểu tăng muốn bắt y đem đốt trước mộ phần Mộ Dung tiên sinh để thực hành lời hứa.
Vương Ngọc Yến cũng lên tiếng oanh thỏ thẻ nói:
- Ðại sư! Ðoàn công tử mới giao du với tại hạ chưa lâu, nhưng rất hợp ý. Tại hạ nghĩ rằng lời hứa ngày trước không nên thực hiện một cách quá đáng như vậy.
Cưu Ma Trí thấy Ðoàn Dự đứng ỳ ra không nhúc nhích có thể thò tay ra là bắt được ngay thì khi nào lão chịu bỏ qua cơ hội hạn hữu này.
Lão liền cười ha hả nói:
- Thí chủ coi tiểu tăng là hạng người nào?
Lão vừa nói vừa dơ tay ra chụp lẹ vào vai Ðoàn Dự.
Vương Ngọc Yến la lên một tiếng "úi chao" rồi đưa tay lên che mắt không nỡ nhìn cảnh tượng ấy.
Mộ Dung Phục nhảy xô lại quát lên:
- Ðại sư hãy dừng tay!
Thân pháp Mộ Dung Phục cực kỳ mau lẹ, chỉ loáng một cái y đã lạng người đến bên Cưu Ma Trí, dơ ngón tay giữa phóng vào huyệt Liêu yêu trên lưng lão.
Giữa lúc ấy Cưu Ma Trí đột nhiên la lên một tiếng quái dị rồi tung mình lên không lộn ra xa.
Ngón tay Mộ Dung Phục điểm hụt vào chỗ không liền rụt về.
Cưu Ma Trí đã lộn ra xa hơn một trượng, sắc mặt lợt lạt, người hơi phát run.
Mộ Dung Phục kinh hoảng không hiểu trong thời gian chớp nhoáng này đã xảy ra chuyện gì liền hỏi:
- Ðại sư làm sao vậy?
Cưu Ma Trí khi nào chịu nói rõ...
Thì ra vừa rồi đang lúc Ðoàn Dự cùng Du Thản Chi tỉ đấu nội công mà lão động thủ tất nhiên Ðoàn Dự không có sức phản kháng và chắc mẩm nắm được chàng dễ như chơi. Ngờ đâu cả Ðoàn Dự lẫn Du Thản Chi đã phát huy nội lực đến tột độ.
Năm đầu ngón tay Cưu Ma Trí vừa chạm vào bả vai Ðoàn Dự khác nào chụp vào hòn than đỏ. Ðồng thời một luồng hấp lực cực kỳ mãnh liệt từ người Ðoàn Dự hút nội lực Cưu Ma Trí.
Cưu Ma Trí sợ quá vội rụt tay về. Nhờ có cơ trí ứng biến mau lẹ lão mới thoát khỏi tai nạn. Tuy Cưu Ma Trí tung mình đi lẹ là thế mà Chu Cáp Thần Công của Ðoàn Dự cũng hút mất một ít nội lực của lão rồi.
Giữa lúc Ðoàn Dự cùng Du Thản Chi đang ngang sức thì đột nhiên có trợ lực bên ngoài đưa thêm khiến cho bên chàng nội lực mạnh hơn áp bức Du Thản Chi phải lùi lại.
Du Thản Chi vừa lùi bước, lần băng mỏng xung quanh người gã bị vỡ liền, mảnh băng rơi xuống đất nghe xoang xoảng. Nhưng gã chỉ lùi lại nửa bước, rồi dừng được ngay. " Băng tâm dị công" lại tiếp tục phát huy, xung quanh người gã lại đóng một lớp băng mỏng khác mỗi lúc một dày thêm, dần dần dày đến hơn một tấc. ánh dương quang phản chiếu vào lấp loáng.
Nhiệt khí quanh người Ðoàn Dự cũng ùn ùn bốc lên như mây mù. Hiện trạng này đã thành một cảnh rất kỳ quan.
Cưu Ma Trí cả kinh vội vận chân khí điều dưỡng, chưa dám mở miệng nói năng.
Mộ Dung Phục thấy vậy ngẩn người ra không nói gì nữa.
Vương Ngọc Yến hỏi:
- Biểu ca! Biểu ca có thể lôi hai người này ra được không?
Mộ Dung Phục thở dài đáp:
- Nay ta mới biết võ học không biết đến đâu là bờ bến. Ta e rằng trên đời không có một người nào có khả năng lôi tách họ rời ra được.
Vương Ngọc Yến vội nói:
- Thế thì Ðoàn công tử cùng gã xấu xa này...
Mộ Dung Phục lắc đầu ngắt lời:
- Bọn y hiện giờ đứng ngay người ra thế này nhưng rồi công lực cũng có lúc suy kiệt. Khi ấy tự nhiên họ sẽ rời nhau ra.
Trong lòng y rất buồn rầu, nhưng không tiện nói ra rằng khi hai người kiệt lực thì cũng không sống được.
Nhưng Vương Ngọc Yến lẽ nào lại không biết. Nàng nghĩ tấm lòng chơn thành của Ðoàn Dự đã cứu mình thì khôn xiết nỗi thê lương!
Mộ Dung Phục ngẩn người ra nhìn Ðoàn Dự cùng Du Thản Chi, đột nhiên lớn tiếng gọi:
- Biểu Muội! Ðời ta quyết không thể luyện võ công được đến mực như hai người này, cuộc tử đấu bữa nay của họ sẽ được truyền tụng ngàn năm trong võ lâm. Còn ta chỉ đứng bên thộn mặt ra mà nhìn thì ngày sau võ lâm sẽ cho mình là người thế nào?
Vương Ngọc Yến chưa kịp trả lời thì Mộ Dung Phục lại cười khanh khách nói tiếp:
- Người sẽ cho mình là con quỉ nhát gan. Vậy ta phải nghĩ cách kéo họ ra, tất cũng được lưu danh muôn thuở.
Vương Ngọc Yến cả kinh vội la lên:
- Biểu ca ơi! Không được đâu!
Nhưng Mộ Dung Phục đã chắp hai tay theo thế Ðồng tử bái Quan Âm rồi nhảy xổ vào giữa hai người.
Vương Ngọc Yến về kiến thức còn cao minh hơn Mộ Dung Phục. Nàng biết Biểu ca dồn hết khí lực, dù có kéo được hai người ra thì chính y cũng bị hai luồng kình lực một âm một dương của họ hất ngược, có khi làm chết người. Nàng quá bối rối không nghĩ ra được chủ ý gì bất giác bưng mặt khóc.
Giữa lúc Mộ Dung Phục nhảy vào, thì bất thình lình cùng có hai luồng kình phong chia hai ngả thổi vào mau lẹ vô cùng!
Rồi thấy một Ðại Hán áo đen tầm vóc to lớn từ đằng Ðông chạy vào. Người này bịt mặt chỉ để hở hai con mắt. Mé Tây cũng có một nhà sư áo trắng nhảy tới. Người này cũng bịt mặt, chỉ để hở đôi mắt. Một bóng đen một bóng trắng vừa thấp thoáng nhảy xổ đến đã phóng chưởng ra để ngăn cản Mộ Dung Phục, khiến cho y bị hất ngửa về phía sau. Ðại Hán áo đen và nhà sư áo trắng hai người hợp nhảy xổ vào, chưởng lực cùng phóng nhập lại thành một luồng để ly khai Du Thản Chi cùng Ðoàn Dự ra.
Ðoạn hai người mới đến này không dừng lại một giây nào, lại phân ra mỗi người đi về một ngả, thoáng cái đã không thấy đâu nữa. Chưởng lực của hai người mãnh liệt vô cùng!
Sau khi đẩy được Ðoàn Dự và Du Thản Chi ra rồi, dư lực phát chưởng đó đánh thẳng vào một cây lớn, gẫy ngay khúc giữa đổ xuống ầm ầm.
Ðoàn Dự cùng Du Thản Chi đều lùi lại ba bước. Lớp băng bao phủ Du Thản Chi vỡ ra từng mảnh rớt xuống đất.
Làn độc khí quanh mình Ðoàn Dự cũng hòa thành những giây khói nhỏ tiêu tan đi. Lúc Du Thản Chi lùi lại phía sau, gã chưa kịp nhìn mặt Ðại Hán áo đen lướt ngang rồi đi về phía Tây. Nhưng gã sực nhớ đến ngày ở Tụ hiền trang đứng nấp sau bức vách để xem cuộc đấu giữa Kiều Phong và quần hùng. Ðến lúc Kiều Phong không chống nổi nữa thì y được một Ðại Hán áo đen dùng sợi dây dài cứu thoát, nên hình ảnh Ðại Hán đó đã ăn sâu vào óc gã. Bây giờ gã lại thấy Ðại Hán này chạy như bay, biết đúng là Ðại Hán ngày trước. Còn nhà sư áo trắng vì chạy về phía Ðông nên Du Thản Chi không trông rõ.
Cưu Ma Trí cùng Mộ Dung Phục đứng bên này, chỉ trông thấy phía sau lưng nhà sư áo trắng. Sắc mặt Cưu Ma Trí dần dần hồi phục, nhưng lão thấy bóng nhà sư này vẻ mặt lại biến đổi ra chiều kinh hãi vô cùng.
Lão quay lại nhìn Mộ Phục nói:
- Vị đại sư nào vừa lướt qua đó?
Mộ Dung Phục lắc đầu đáp:
- Thân pháp y lẹ quá! Tại hạ không thấy rõ.
Cưu Ma Trí lẩm bẩm một mình:
- Hà hà! Ðúng là mình mắt mờ, tưởng lầm nhà sư này là ông bạn mình.
Du Thản Chi cùng Ðoàn Dự rời nhau ra rồi, gã đảo mắt nhìn bốn phía thì chỉ thấy Mộ Dung Phục cùng Vương Ngọc Yến, mà chẳng thấy A Tử đâu cả.
Du Thản Chi lớn tiếng hỏi:
- A Tử đâu?
Gã toan nhảy xổ vào Ðoàn Dự lần nữa, bỗng nghe tiếng A Tử từ đằng xa vọng lại:
- Vương công tử! Ta ở chỗ này!
Du Thản Chi nghe thanh âm này không có vẻ gì buồn rầu thì trong bụng mừng thầm, chân khí gã bỗng tan hết đi như quả bóng xì hơi, ngã ngay xuống đất. Nhưng gã đã được nghe tiếng A Tử thì dù có bị té nặng hơn nữa gã cũng không biết đau. Gã chống tay xuống đất đứng phắt ngay dậy nhìn về phía phát ra tiếng nói thì thấy A Tử đang thủng thỉnh đi tới. Vạt áo tía phong phanh trước gió, nét mặt hớn hở tươi cười.
Du Thản Chi sướng quá reo lên chạy ra đón nàng. Gã lướt qua Vương Ngọc Yến, tuy Vương Ngọc Yến sắc nước hương trời thiên hạ vô song là thế mà gã cũng không nhìn thấy. Trong con mắt gã dù có Hằng Nga giáng thế cũng không đẹp bằng A Tử của gã. Gã chạy đến trước A Tử thở hồng hộc:
- A Tử! Lúc nãy cô nương đi đâu? Trời ơi! Tại hạ tìm cô nương muốn chết!
A Tử nhõng nhẹo ngửng đầu lên đáp:
- Thế ta chẳng trở về là gì đây? Can chi mà công tử phải nóng nảy?
Du Thản Chi vừa rồi ruột nóng như lửa đốt, bây giờ thấy A Tử hỏi vậy lại cảm thấy mình lo lắng vu vơ. Gã gặp lại A Tử trong lòng vui sướng khôn tả, bao nhiêu điều lo nghĩ tiêu tan đi hết.
A Tử cười hì hì hỏi:
- Công tử đã động thủ với y chưa?
Du Thản Chi ngây người ra nhìn nàng, nàng hỏi mà gã chẳng nghe thấy gì.
A Tử hỏi lại mấy lần, nhưng gã không trả lời lại hỏi đi đằng khác.
Gã hỏi:
- Sao lúc nãy cô nương chẳng nói gì đã bỏ đi ngay?
A Tử vênh mặt lên cười đáp:
- Ta đi nghe họ bàn tán về nhân phẩm công tử.
Du Thản Chi giật mình kinh hãi hỏi:
- Cô nương... nghe họ nói gì về tại hạ?
A Tử đáp:
- Lúc ta ở ngoài rừng nghe thấy tiếng Mộ Dung công tử cùng Vương cô nương hai người đi qua. Ta nhớ lại công tử bảo có quen biết Mộ công tử liền kêu y đứng lại để nói chuyện.
Du Thản Chi khác nào như bị gáo nước lạnh dội vào người.
Gã than thầm:
- Hỏng bét! Thật là hỏng bét!
Gã run lên, hai đầu gối đập vào nhau cồm cộp.
A Tử lấy làm lạ hỏi:
- Ồ! Công tử làm chi vậy?
Du Thản Chi chưa kịp trả lời thì bất thình lình có một bàn tay để lên vai gã. Gã vội quay đầu lại nhìn thì thấy Mộ Dung Phục đang nhìn gã cười hì hì.
Gã giật mình lùi lại một bước.
Mộ Dung Phục cười nói:
- A Tử! Cô nương đến chậm một bước thật là đáng tiếc! Vương công tử vì cô mà nóng nảy quá, đã thi triển thần công tuyệt đỉnh khiến bọn tại hạ được mở rộng tầm mắt.
A Tử sung sướng nói:
- Mộ Dung công tử! Công tử thiệt khéo nói quá!
Mộ Dung Phục nói:
- Không phải tại hạ khéo nói đâu. Bản lãnh Vương công tử thật là kinh thế hãi tục.
A Tử nghe nói nở mày nở mặt. Du Thản Chi cũng đứng ngây người ra, trong dạ bàng hoàng, chẳng biết nên làm thế nào.
Mộ Dung Phục nói xong, vừa lạng người đi vừa nói vọng lại:
- Tại hạ còn có chút việc phải làm ngay, chúng ta sẽ có ngày tái ngộ.
Nháy mắt đã không thấy tăm tích đâu nữa.
Du Thản Chi ngẩn người ra một lúc rồi hỏi:
- A Tử! Lúc cô nương hỏi y về tại hạ, thì y bảo sao?
A Tử đáp:
- Ban đầu y ngạc nhiên nghĩ chưa ra. Sau Vương cô nương nhắc y, y mới bảo công tử giống y như đúc, có người tưởng lầm công tử với y là anh em ruột.
Du Thản Chi đứng thộn mặt ra. Gã cảm kích Mộ Dung Phục và Vương Ngọc Yến vô cùng. Gã biết rằng hai người đó thấy A Tử đui mù, lại hỏi chuyện về mình một cách thân thiết họ không muốn làm cho nàng đau lòng, mới nói dối như vậy. Như thế chẳng khác gì họ cứu mạng cho mình.
Hồi lâu Du Thản Chi quay đầu nhìn lại thì Ðoàn Dự đã bỏ đi rồi.
Cưu Ma Trí cũng phóng người đi như bay ra ngoài rừng.
Du Thản Chi vội la gọi:
- Ðại sư! Ðại sư!
Cưu Ma Trí không ngoảnh đầu lại, thân hình lão như làn gió thoảng lướt ra khỏi rừng hạnh.
Du Thản Chi vội nói:
- Ðại sư! Ðại sư! Giờ tý đêm nay đại sư còn đến kiếm vãn bối nữa không?
Cưu Ma Trí đáp vọng lại:
- Thiện quả của ngươi chưa được hoàn hảo thì duyên phận của ngươi còn gì với ta nữa?
Du Thản Chi trong lòng xao xuyến vội nói:
- Ðại sư đã nhận lời thu vãn bối làm đồ đệ. Chẳng lẽ... Chẳng lẽ...
Rồi gã thấy A Tử đứng bên sợ tiết lộ câu chuyện kín giữa hai người nên ngừng lại không nói nữa.
Cưu Ma Trí lúc đó đã đi xa gần tới một dặm, thanh âm lão còn vang lại:
- Nếu ngươi tuân lời ta tìm kế giết được gã ác nhân Ðoàn Dự thì sau này mới có hy vọng nên đạo thầy trò.
Du Thản Chi cả mừng lớn tiếng đáp:
- Dạ dạ! Ðại sư đừng quên nhé!
A Tử hỏi:
- Vương công tử! Võ công công tử đã quán thế, đến lão Ðinh Xuân Thu còn phải hoảng sợ mà sao lại tôn sùng lão Ðại Luân Minh Vương này như vậy? Chẳng hóa ra tự hạ mình thái quá ư?
Du Thản Chi thấy giọng nàng nói lạnh nhạt ra chiều thất vọng và bất mãn, rõ ràng có ý hoài nghi.
Gã vội đáp:
- Cái đó... Cô nương không biết được. Tại hạ giả vờ thờ y làm sư phụ, là có một thâm ý khác.
A Tử lại tươi cười nói:
- À ra thế đấy! Công tử bảo thờ lão làm thầy chính là đánh lừa lão phải không?
Du Thản Chi mừng quá nhận ngay ý của A Tử:
- Ðúng thế! Có lý đâu Vương Tinh Thiên này là chưởng môn phái Cực Lạc, địa vị cao cả là thế mà còn đi thờ ai làm thầy nữa? Nói về võ công thì lão Cưu Ma Trí kia... ý gã muốn nói Cưu Ma Trí không phải là tay đối thủ của mình, nhưng vốn tính thiệt thà, nói ra không khỏi ngượng miệng, nên gã ngần ngừ không dám nói hết câu.
A Tử lại cười hì hì nói:
- Vương công tử! Mộ Dung công tử đã là một nhân vật lừng lẫy tiếng tăm mà còn khâm phục công tử như vậy thì dĩ nhiên lão Cưu Ma Trí đối thủ làm sao được với công tử? Công tử giả vờ thờ lão làm thấy cà có dụng ý gì thế?
Du Thản Chi bản chất tầm thường, không có tài ứng biến, bị A Tử hỏi vậy, gã ấp úng nói:
- Cái đó... cái đó...
A Tử bĩu môi ra vẻ hờn dỗi nói:
- Công tử đã không muốn cho ta hay thì thôi! Phải mà! Ta chẳng đáng được nghe những việc bí mật trọng đại trong võ lâm!
Du Thản Chi thấy A Tử giận dỗi, sợ quá liền đáp:
- Vụ đó không có gì là bí mật trọng đại. Cô nương đã muốn biết thì tại hạ nói cho nghe!
Gã cố nghĩ cách để chống chế, mà không sao nghĩ ra được, chỉ ấp úng hoài.
A Tử thấy gã úp mở không chịu nói thì tưởng gã không chịu thổ lộ cho mình nghe. Tính ương ngạnh lại nổi lên, nàng hất tay Du Thản Chi ra rồi xăm xăm bỏ đi.
Du Thản Chi vội nói:
- A Tử! A Tử! Cô nương đừng giận nữa, để tôi nói cho cô nương nghe.
A Tử làm mặt giận nói:
- Ta không muốn nghe nữa!
Chưa dứt lời, chân nàng vấp ngã lăn xuống đất. Tuy hai mắt đui mù, nhưng võ công chưa mất.
A Tử chống tay xuống đất lẹ làng đứng dậy.
Du Thản Chi la lên:
- A Tử cô nương ngã đấy ư?
A Tử vùng vằng đáp:
- Té chết càng hay để khỏi bị kẻ khác khinh nhờn.
Du Thản Chi nghĩ thầm:
- Ta có khinh nhờn nàng bao giờ đâu?
Nhưng gã nhớ lại lúc cùng ở với A Tử bị nàng khinh rẻ lấn áp, cực kỳ nhục nhã. Ngày nay gã được nàng ngỏ lời oán hận, trách mình khinh miệt nàng. Gã cảm thấy như vậy là được nàng sủng ái lắm.
A Tử đứng lên rồi, cúi xuống sờ xem mình đã vấp phải cái gì, thì ra là một thân cây lớn chắn ngang đường. Nàng sờ thấy vết cây gẫy như búa chém. Nhưng khắp thiên hạ quyết không có lưỡi búa nào lớn như vậy được, mà dù có lưỡi búa như vậy thì không ai mang nổi chặt một nhát cho thân cây lớn đứt tầy làm hai đoạn được. Nàng trầm ngâm một lát rồi nghĩ ra ngay, nên cất giọng run run hỏi:
- Vương công tử! Vừa rồi công tử đấu võ với gã kia đã đánh gẫy cây này phải không?
Du Thản Chi vốn là người khiêm nhường nhưng trước mặt A Tử gã lại chỉ sợ lộ chuyện mình vốn là thằng hề đầu sắt không đáng nửa đồng, nên gã muốn nhận ngay đó là kỳ công của mình. Nhưng vừa rồi gã thấy hán tử áo đen cùng nhà sư áo trắng chỉ trong chớp mắt đã đẩy được mình cùng Ðoàn Dự ra.
Dư lực của hai người này còn đánh gãy được cây lớn ấy làm hai. Thần lực của họ chẳng kém gì sấm sét. Do đó tâm ý gã thì muốn khoe tài trước mặt A Tử, nhưng lại cảm thấy mình không thể mặt dày như vậy được.
Gã ngập ngừng đáp:
- Cái đó... cái đó...
A Tử tủm tỉm cười nói:
- Vương công tử! Ta thấy công tử điều gì cũng hay, chỉ có một điều không tốt thôi.
Du Thản Chi vội hỏi:
- Chỗ nào không tốt?
A Tử đáp:
- Công tử quá khiêm nhượng. Tuy bản lãnh mình quán thế mà vẫn không chịu thừa nhận. Quả nhiên người có chân tài không lộ bản tướng. Những tay cao thủ trên thế gian thường không chịu cho người khác biết gốc tích mình. Những cái chẳng có gì đáng chê trách. Có điều công tử đối với ta chẳng chi đối với người thường sao lại cứ cố dấu diếm ta?
Du Thản Chi trái tim đập loạn lên, vội vàng đáp ngay:
- Bao giờ tại hạ đối với cô nương cũng khác hẳn người thường. Cô nương muốn sao tại hạ đều làm theo như vậy. A Tử! Ngay từ lần đầu tiên được thấy mặt cô nương, tại hạ đã đối với cô nương như vậy ngay.
A Tử khẽ thở dài nói:
- Ðáng tiếc là ta không được nhìn thấy tướng mạo công tử. Suốt đời ta sống trên thế gian này, không bao giờ ta được thấy rõ mặt công tử! Vẻ mặt nàng vô cùng thảm đạm. Nhưng chỉ qua một lúc, nàng lại tủm tỉm cười ngay được và nói tiếp:
- Mộ Dung công tử vừa bảo người ngoài tường tướng mạo y và công tử giống nhau như hệt khiến người ta tưởng lầm là hai anh em ruột. Nhưng y còn thẹn là vẫn không bằng công tử...
Nói đến đây A Tử ngừng lại, nét mặt nàng mơ màng rồi tươi sáng hẳn lên với giọng hân hoan:
- Y bảo về vẻ người, về nhân phẩm, và về võ công món gì y cũng thua công tử. Thế mà ta là một thiếu nữ đui mù sao lại được công tử luyến ái đến như vậy?
Du Thản Chi cảm kích quá chừng.
Ðột nhiên y quỳ hai gối xuống đất run run nói:
- Cô nương! Cô nương đừng nói vậy! Vương Tinh Thiên này chỉ mong sớm tối được kề cận cô nương, dù có phải thân trâu ngựa cũng rất vui lòng!
A Tử không trông thấy gã quì dưới đất, nhưng nghe giọng nói biết rằng gã rất khích động và chân thành thì xiết nỗi vui mừng.
Nàng nói:
- Vương công tử! Công tử đối với ta hết lòng như vậy chắc là có duyên nợ chi đây? Ta cũng mong luôn luôn được ở gần công tử, vĩnh viễn không phải xa cách nhau nữa, để cùng nhau tận hưởng những ngày vui sướng. Nhưng... ta chỉ e sau này công tử biết có giữ được mối tình tha thiết như ngày nay nữa không?
Du Thản Chi lớn tiếng nói:
- Tại hạ thề có đất trời nếu ngày sau ra dạ phũ phàng đối với A Tử cô nương sẽ bị Hoàng Thiên trừng phạt không ngóc đầu lên được!
A Tử cười hì hì hỏi:
- Chắc bây giờ công tử vui sướng lắm đấy nhỉ?
Du Thản Chi đứng ngay dậy reo lên:
- Tại hạ sung sướng vô cùng! Sung sướng chẳng khác gì thần tiên.
A Tử ngẩng đầu lên Trời, trầm ngâm hồi lâu rồi hỏi:
- Vương công tử! Công tử lừa gạt Ðại Luân Minh Vương, giả vờ thờ lão làm thầy là có ý gì? Phải chăng võ công lão có chỗ khả thủ, công tử định lừa lão truyền thụ cho những món đó rồi sẽ giết lão đi phải không? Ha ha! Như thế mà hay! Ta đoán như vậy chẳng biết có trúng không? Có điều Cưu Ma Trí là người giảo quyệt vô cùng, khó lòng lừa y vào tròng được đó!
Du Thản Chi ngấm ngầm kinh hãi, gã thầm nghĩ:
- Sao cô này tâm địa lại độc ác đến thế?
Nhưng A Tử nói vậy khác nào đã giải vây cho gã. Gã đang nao núng lo nghĩ không tìm ra được chuyện gì để giải thích với nàng về việc ấy. Bây giờ gã nghe nàng nói vậy, liền ậm ừ thuận gió theo chiều, nhận ngay cho xuôi chuyện.
A Tử nói:
- Vương công tử! Cưu Ma Trí biết nhiều hiểu rộng, nhưng võ công bao la của công tử lão chưa biết đâu. Ta chắc rằng lão chẳng chịu thực tình đem những tuyệt kỹ của lão truyền thụ cho công tử. Nếu công tử muốn gạt lão để học lấy võ công thì chỉ có một cách...
Du Thản Chi hỏi:
- Cách gì?
A Tử đáp:
- Công tử ước hẹn với lão truyền thụ võ công cho nhau để hai bên cùng có lợi thì lão mới chịu đem những thủ đoạn tuyệt diệu ra dạy mình. Công tử cũng đem công phu của mình dạy lão, nhưng đừng dấu diếm gì mới được. Mắt lão tinh lắm, công tử chỉ dấu diếm một chút là lão biết ngay.
Du Thản Chi hỏi:
- Tại hạ cũng đem võ công của mình truyền thụ cho lão ư?
Gã nghĩ thầm:
- Mình có võ công cóc gì để dạy lão đâu? Ðừng nói dạy một vị cao tăng như Cưu Ma Trí, mà chỉ dạy một tên võ sư tầm thường cũng không nổi.
Du Thản Chi còn đang ngẫm nghĩ thì A Tử tủm tỉm cười nói:
- Phải rồi! Công tử cần dạy lão thực sự, nếu không thế thì đổi lấy tuyệt nghệ chân thực của lão thế nào được? Có điều công tử nêm giữ lại một vài chiêu khẩn yếu. Có thế thì lão mới không hạ thủ trước để giết công tử được.
Du Thản Chi cả kinh hỏi:
- Sao? Lão sẽ hạ thủ trước để giết tại hạ ư?
A Tử mỉm cười đáp:
- Ðúng thế! Nếu lão không hạ thủ trước thì lão sợ bị công tử hạ thủ trước để tranh thắng. Vương công tử! Theo ý ta liệu trước thì công tử đừng nên mưu đồ học cho đến hết võ công của lão mà chỉ học đến chín phần mười mà thôi. Công tử phải động thủ trước đi để đánh chết lão. Nếu thiếu một phần mười cái hay của lão, công tử chưa học được hết cũng chẳng hề chi. Ðiều cốt yếu là phải giết được lão. Có phải thế không?
-
Hồi 80 - Du Thản Chi Nhận Lời Dạy Võ - Lục Mạch Thần Kiếm - Kim Dung
Hồi 80 - Du Thản Chi Nhận Lời Dạy Võ
Du Thản Chi cảm thấy xương sống ớn lạnh từng cơn. Gã đã biết tính tình A Tử rất tàn nhẫn. Nàng chỉ cốt sao cho mình nàng thỏa thích còn ai chết mặc ai. Gã nhớ lại chính gã đã chịu bao nhiêu nỗi đau khổ vì nàng nhưng không ngờ nàng lại tính kế giúp người ngoài một cách tinh vi như vậy. Ðó không phải là cái tính kiêu căng của người tuổi trẻ mà tâm địa hiểm sâu độc ác. Du Thản Chi vì quá si tình với A Tử nên bất luận nàng nói gì gã cũng nhận định là lời nàng rất hợp lý.
Gã lẩm bẩm:
- Chỗ nào A Tử cũng lo tính rất chu đáo cho mình. Nếu mình không hạ thủ trước đánh chết lão Cưu Ma Trí thì thằng cha đó cũng chẳng tha mình mà không ra tay hạ sát mình. Có điều nếu quả gã thiệt tình còn có ý muốn giết người, nhất là giết một vị thần tăng, mà trong lòng gã trước nay vẫn khâm phục thì quyết nhiên chẳng muốn chút nào. Trước kia gã chỉ mong cho Cưu Ma Trí về sớm nhưng lúc này thì gã lại ao ước đừng gặp mặt lão nữa.
A Tử không thấy Du Thản Chi trả lời liền hỏi:
- Sao? Ta nói vậy không đúng ư?
Du Thản Chi vội đáp:
- Không, không! Cô nương nói rất đúng. Có điều tại hạ nghĩ rằng: nếu Cưu Ma Trí thiết tha đòi hỏi võ công thì tại hạ đem môn nào để trao đổi với lão?
A Tử tự hỏi:
- Anh chàng Vương công tử lúc này xem chừng thiết tha với mình ghê gớm, dường như đã rất chân thành chết sống với mình thì phải? Nhưng khó mà hiểu được gã có giữ tấm lòng chung thuỷ mãi như vậy không? Nếu sau này hắn ra dạ vô nghĩ bỏ mình đi biệt mà mình lại hai mắt đui mù thì còn sống ở thế gian làm sao được? Nếu ta luyện được môn thần công cái thế của gã dùng tai thay mắt, trở lại ngôi chưởng môn nhân phái Tinh Tú, bấy giờ mình sẽ có bao nhiêu đệ tử tiền hô hậu ủng. Gã mà dở thói phũ phàng mình sẽ tìm cách hạ sát gã đi cũng chẳng tiếc gì. Vậy việc cần yếu trước mắt là phải luyện tập được thần công của gã. Bây giờ mình chỉ hé môi bảo gã truyền thụ thần công là nhất định gã biết được bao nhiêu sẽ dốc hết ra mà truyền thụ cho mình. Âu là mình phải kiếm lời gạt gã mới được.
Nàng nghĩ vậy liền hỏi:
- Vương công tử ơi! Mắt ta tuy mù, nhưng tâm thần vẫn sáng suốt, có phải thế không?
Du Thản Chi đáp:
- Ðúng thế! Tâm thần cô nương còn sáng suốt hơn tại hạ nhiều, cả đầu óc cũng mẫn tiệp gấp mấy tại hạ.
A Tử tủm tỉm cười nói:
- Ðiều đó chưa biết thế nào. Dù sao thì kế hoạch của một người vẫn thua hai người góp trí mà bàn. Vậy chúng ta phải liên kết với nhau trù tính kế hoạch, hoặc giả có thể chu toàn hơn.
Du Thản Chi nói:
Ðúng thế! Cô nương! Cô nương còn có điều chi dạy bảo nữa không xin cứ nói ra, tại hạ nhất nhất tuân theo.
A Tử đáp:
- Ta tưởng Cưu Ma Trí là tay giảo quyệt mà ngươi lại trung hậu thực thà. Ngươi động thủ với hắn, ta e rằng ngươi sẽ mắc mưu thì nguy lắm đấy. Bây giờ ta tính thế này. Ngươi đem hết nhưng tuyệt nghệ đi từ chỗ nông cạn tới chỗ cao sâu biểu diễn hết lại cho ta nghe và tính dùm. Ta sẽ phân biệt giúp ngươi nên đem những môn nào dạy cho hắn, những môn nào chỉ truyền thụ một cách lờ mờ, và những môn nào nên dấu nhẹm không tiết lộ một tý gì với hắn.
Du Thản Chi trong lòng rất xao xuyến. Gã lẩm bẩm:
- Thôi chết rồi! Nàng mà khám phá ra mình chẳng có chút võ công nào hết, thì rồi nàng biết rõ cả hành tung mình nữa. Trời ơi! Bây giờ biết làm thế nào cho được?
A Tử chờ hồi lâu không thấy Du Thản Chi trả lời. Dù nàng thông minh đến đâu nhưng đôi mắt không trông thấy vẻ mặt gã thì cũng không thể đoán được gã nghĩ gì, nàng chỉ cho là gã không muốn tiết lộ võ công thần diệu của gã.
Nàng lẩm bẩm một mình:
- Gã Vương Tinh Thiên này đã võ công cái thế lại là chưởng môn nhân một phái thì dĩ nhiên không phải hạng ngu xuẩn khinh xuất chui đầu vào cạm bẫy của mình, xem chừng gã không chịu phô trương võ công trước mắt mình đây!
A Tử nghĩ vậy cảm thấy trong dạ bồn chồn. Ðột nhiên nước mắt nàng tầm tã như mưa.
Du Thản Chi cả kinh hỏi:
- Cô nương! Cô nương làm sao thế?
A Tử đáp:
- Thôi ngươi đi luôn đi! Từ đây đừng hỏi han gì với ta và ngó mặt ta nữa.
Du Thản Chi sợ quá vội nói:
- Cô nương! Chúng ta một lòng một dạ hợp tác với nhau. Sao cô nương lại đột ngột nói vậy?
A Tử nghe giọng nói gã run run thì trong bụng mừng thầm.
Nàng lẩm bẩm:
- Quả nhiên gã này đang điên đảo vì ta. Gạt gã khó lòng thành công, chi bằng nói rõ ý muốn của ta chắc là gã phải ưng chịu.
Nghĩ vậy nàng liền nói:
- Ta nghĩ rằng đôi ta có ở cùng nhau, cũng chỉ được mươi bữa nửa tháng rồi ngươi lại bỏ ta mà đi. Ðể sau này phải ôm mối tương tâm thì thà rằng chia tay sớm đi còn hơn.
Du Thản Chi vừa vui mừng lại vừa nóng nảy đáp:
- Tại hạ đã cam kết không bao giờ rời bỏ cô nương. Ðã cùng nhau thề thốt đủ điều, sao cô nương vẫn không tin lòng tại hạ?
A Tử lắc đầu đáp:
- Thực tình ta chưa tin ngươi được đâu.
Du Thản Chi nói:
- Giả tỉ tại hạ cắt được trái tim đưa cho cô nương để lấy lòng tin cậy thì tại hạ cũng làm ngay.
A Tử vừa khóc vừa nói:
- Ngươi... ngươi khinh ta đui mù không trông thấy gì nên cố ý nói vậy để diễu cợt ta, trêu tức ta!...
Du Thản Chi bồn chồn trong dạ, toát mồ hôi trán đột nhiên quì mọp xuống đất toan ôm lấy chân A Tử. Nhưng hai tay gã còn cách quần nàng đến nửa thước thì trong lòng bỗng thấy run sợ, dường như sắp phạm vào một tội tấy đình.
A Tử nghe rõ gã quì xuống đất thì trong dạ mừng thầm. Nước mắt lại càng dàn dụa hơn trước, nàng nghẹn ngào nói:
- Trừ phi ngươi có làm theo ta việc này, thì ta mới tin được.
Du Thản Chi nói ngay:
- Ðừng nói một điều mà cả đến trăm điều, nghìn điều, vạn điều tại hạ cũng xin tuân theo cô nương được. Vậy điều đó là điều chi? Xin cô nương chỉ thị rõ ràng cho!
A Tử đáp:
- Ta chắc ngươi không chịu, có nói ra cũng bằng thừa và chỉ làm trò cười cho ngươi mà thôi.
A Tử dùng cách lùi để tiến. Nàng càng lùi bao nhiêu thì Du Thản Chi càng tha thiết bấy nhiêu.
Sau A Tử mới nói:
- Nếu quả ngươi một dạ trung thành với ta thì sao ngươi không đem những thần công cái thế của ngươi truyền thụ cho ta một phần đề phòng sau này gặp khi ngươi phải dời xa ta, ta cũng có một chút tuyệt kỹ để giữ mình chứ!
Giả tỷ mà Du Thản Chi quả có một môn thần công cái thế gì, hoặc môn võ độc đáo nào khác thì A Tử chỉ hé môi là gã lập tức ưng chịu dốc diếm ra kỳ hết để truyền thụ cho nàng ngay. Nhưng khốn nỗi gã chẳng những không có cái thế thần công nào hết, mà bất luận là môn võ thông thường gã cũng chẳng biết tí gì. Ngay những điều hiện hữu của A Tử gã cũng hãy còn kém xa, thế thì gã biết trả lời nàng làm sao được?
A Tử thấy gã ngần ngừ không đáp, lại càng nóng ruột, nàng nghĩ thầm:
- Bây giờ gã đang nhiệt tâm với mình, mình cần phải bắt cho kỳ được gã phải nhất nhất tuân theo mình mới xong.
Nghĩ vậy nàng thở dài nói:
- Vương công tử ơi! Ta mong rằng ngươi truyền thụ thần công cho ta. Ðó là điều thỉnh cầu thành khẩn của ta. Tùy ý ngươi ưng hay không cũng được, ta chẳng trách ngươi đâu. Có điều ngươi không chịu nghe lời ta thì chúng ta chia tay nhau từ đây.
Du Thản Chi hấp tấp đáp:
- Không không! Tại hạ xin y lời truyền thụ môn cái thế thần công cho cô nương.
A Tử mừng rỡ khôn xiết nhưng không để lộ ra ngoài mặt.
Nàng hững hờ nói:
- Xem chừng ngươi nể lời và miễn cưỡng ưng thuận chứ thực tình thì không có ý chân thành truyền thụ. Ngươi bất tất phải miễn cưỡng như vậy. Việc đời tụ tan là chuyện thường. Từ đây chẳng thấy mặt nhau nữa hay hơn.
Du Thản Chi trong dạ bàng hoàng. Gã chỉ có một chủ ý là nàng muốn bắt mình thế nào cũng đành chịu, cốt sao cho nàng không xa mình là được. Gã tính rằng: việc truyền thụ võ công không phải một sớm một chiều mà xong. Ta hãy ổn định chỗ ở cho nàng rồi sẽ liệu. Nghĩ vậy gã nhớ tới năm trước ở Tụ hiền trang, phụ thân gã đã mời một vị võ sư danh tiếng trong võ lâm để chỉ điểm cho gã mấy chiêu thức vỡ lòng. Võ sư đó bảo gã biểu diễn mấy chiêu để xem trình độ võ công gã đến đâu mới biết đường chỉ điểm. Nhưng Du Thản Chi tư chất quá tầm thườgn. Gã tự biết rằng nếu mình múa may chỉ tổ làm xấu mặt cho phụ thân cùng bá phụ mình mà thôi. Võ sư muốn nói thế nào thì nói, gã cũng không chịu biểu diễn. Vì võ sư đó không bằng lòng nên không chỉ điểm cho gã nữa.
Bây giờ Du Thản Chi nhớ tới vụ đó liền nói:
- Cô nương! Nếu cô nương muốn tập thần công của tại hạ thì trước hết chúng ta phải kiếm một nơi thanh tĩnh tịch mịnh để người ngoài không đến quấy rầy mình được. Cô nương lại đem hết các thứ võ công đã học được của phái Tinh Tú từ chiêu thức tầm thường đến tuyệt kỹ cao sâu biểu diễn lại cho tại hạ coi. Khi đó tại hạ mới liệu mà truyền thụ môn "cái thế thần công" cho cô nương được.
A Tử cả mừng nói:
- Hay lắm! Té ra là vì thế mà ngươi ngần ngừ không nhất quyết. Có điều chúng ta không nên tìm đến một chỗ nào quá hẻo lánh. Hay hơn hết là nơi đó ngươi vừa tiện việc truyền công cho ta vừa tiện việc tìm đến tổng đà Cái bang để mưu đoạt lại ngôi bang chúa rồi đem trả cho tỉ phu ta hiện ở Nam Kinh nước Ðại Liêu. Chắc là tỉ phu ta không chịu nhận và sẽ do ta đảm đương chức vị bang chúa. Lúc đó ta đã là chưởng môn phái Tinh Tú lại là bang chúa Cái Bang mà ngươi là chưởng môn phái Cực Lạc, chúng ta song song thành những nhân vật nổi tiếng thiên hạ để những phái Thiếu Lâm, Cô Tô Mộ Dung gì gì đi nữa cũng phải khiếp vía. Thế chẳng khoan khoái lắm ư?
Nàng càng nói càng cao hứng, mặt mày hớn hở. Dù đôi mắt đui mù mà vẻ mặt vẫn yêu kiều diễm lệ khiến cho Du Thản Chi trông thấy càng mê tơi, trống ngực đánh thình thình.
Du Thản Chi chờ nàng dứt lời rồi nói:
- Muốn đoạt ngôi bang chúa Cái Bang kể ra cũng chẳng hao tổn mảy may sức lực. Có điều tại hạ thay mặt cô nương đi tranh cướp thì e rằng quần chúng Cái Bang không tâm phục. Hay hơn hết là sau khi tại hạ đã truyền thụ môn "cái thế thần công" cho cô nương rồi, cô nương tự đem bản lãnh mình ra đoạt lấy, tại hạ chỉ đứng bên xem tình hình và giúp đỡ, mới là diệu kế.
A Tử cả mừng nói:
- Hay tuyệt! Hay tuyệt! Ta nóng ruột lắm rồi! Nhưng ta bất tất phải đi tìm nơi nào khác nữa. Ngay chỗ này cũng chẳng có ai đến quấy nhiễu, vậy ta biểu diễn những môn võ công thiển cận phái Tinh Tú cho ngươi coi, rồi ngươi truyền thụ "cái thế thần công" cho ta. Hừ! Những công quyết nhập môn của phái Tinh Tú là thế này đây.
Nói xong nàng đọc những khẩu quyết mà Tinh Tú lão quái đã dạy nàng lúc ban đầu, đồng thời nàng biểu diễn mấy chiêu thức.
Du Thản Chi nghĩ thầm:
- Tinh Tú lão tiên đã thu ta làm đồ đệ. Nhưng chỉ vì A Tử mà nghĩa sư đồ biến thành cừu địch. Chẳng những lão chưa truyền thụ cho ta một chút võ công nào mà tựu trung còn đi đến chỗ chia rẽ sâu cay. Ta mạo xưng là cái thế cao nhân trước mặt A Tử, thực ra ta có biết chút võ công nào đâu? Hiện giờ việc trước mắt là phải làm thế nào cho nàng khỏi đem lòng nghi kỵ. Chỉ có cách là phê bình hàm hồ cách biểu diễn của nàng, chê bai võ công phái Tinh Tú chẳng ra gì. Ngoài ra không có cách nào khác.
Nghĩ như vậy, Du Thản Chi liền nói:
- Cô nương! Tại hạ xem những điều sở học của cô nương thì biết cô nương lầm đường mất rồi. Ðại khái thì võ công phái Tinh Tú chỉ hời hợt bề ngoài. Tại hạ cần phải nghiên cứu lại kỹ càng để biết rõ những chỗ nào sai lầm mới có thể chỉ dẫn cô đi vào đúng đường được.
A Tử cả mừng nói:
- Phải rồi! Sư phụ ta... à quên lão quái Ðinh Xuân Thu vốn không ưa thu nạp những người đã biết võ công làm đồ đệ. Lão biểu người nào đã biết qua võ công rồi đổi sang học bản môn thì còn khó hơn là kẻ chưa biết võ công nào bao giờ. Vương công tử! Người truyền thụ "thần công cái thế" cho ta chắc là hao tổn tâm huyết nhiều lắm.
Du Thản Chi nói:
- Cái đó... Cái đó dù tại hạ có phải phí bao nhiêu tâm huyết cũng không dám quản ngại mà cầu khẩn còn chưa được là khác.
Ngừng một lát gã nói tiếp:
- Ồ! Chiêu thức chia làm hai phần. Lúc thủ thế tọa công tạo thế, rồi tiếp theo đến vận công lực phóng chiêu ra!
Ðoạn gã theo chiêu thức của A Tử luyện tập.
Nguyên võ công phái Tinh Tú lấy độc công làm căn bản, người nào trong cơ thể chứa nhiều chất kịch độc âm hàn thì nội công luyện càng tinh thâm, ra chiêu càng lợi hại.
A Tử biểu diễn hai chiêu thức đó kêu bằng "Hỗn thiên vô cực thức" và là những chiêu thức của phái Tinh Tú, người bắt đầu nhập học muốn luyện những chiêu thức này cho được tinh thông thì phải mất từ một đến hai tháng.
Du Thản Chi trong người đã chứa chất kỳ độc của con Băng Tầm, một giống âm hàn thiên nhiên trong vũ trụ. Ngay Ðinh Xuân Thu trong mình cũng chưa có chất kịch độc bằng gã, nên muốn tập đúng kiểu của A Tử gã chỉ giơ tay lên một cái là luyện thành chiêu thức ngay. Du Thản Chi vừa vòng tay phóng chiêu đánh véo một tiếng, một cây nhỏ phía trước mặt cách đó mấy thước bị đổ ngay tức thì.
Du Thản Chi thấy vậy cũng giật mình kinh hãi. Gã lại theo thế của A Tử vung tay phóng ra chiêu thứ hai thì một cây khác bị đứt đôi.
Gã vừa kinh hãi vừa mừng thầm, lẩm bẩm một mình:
- Té ra võ công của phái Tinh Tú mãnh lực thiệt là ghê gớm! Hay là A Tử cố ý giả vờ, kỳ thực chính nàng đã có những chiêu thức võ công kỳ diệu mà nàng còn bắt mình truyền thụ "thần công cái thế" gì gì nữa mới lạ nữa.
A Tử đui mắt không nhìn rõ, nhưng nghe tiếng cẫy đổ gãy rào rào, nàng nói:
- Ghê quá! Ghê quá! Vương công tử! Ngươi dạy ta lẹ lên! Làm thế nào mà phóng chưởng đánh gãy cây được?
Du Thản Chi hỏi:
- Cô nương phát chiêu "Hỗn thiên vô cực thức" không đánh gãy cây được hay sao?
A Tử cười hì hì nói:
- Chiêu "Hỗn thiên vô cực thức" là một chiêu thiển cận nhất. Ðã là môn đồ phái Tinh Tú thì chẳng ai không biết sử dụng nó. Nhưng nếu ra chiêu mà đánh gãy được cây thì bao nhiêu đệ tử bản phái đều là những tay anh hùng hảo hán đi hoành hành khắp thiên hạ rồi!
Du Thản Chi không hiểu tại sao. Gã thử không theo những chiêu thức của A Tử đã biểu diễn, tự nhiên vung tay đánh ra luôn thì mấy cây nhỏ ở trước mặt chẳng những không đổ gãy mà cũng không rung chuyển chút nào. Gã vận thêm kình lực phóng ra mà cây vẫn đứng trơ trơ. Gã lại theo cách "Hỗn thiên vô cực thức" phóng ra đánh sầm một tiếng thì hai cây nhỏ liền nhau đều bị gãy, tựa hồ như một nhát búa lớn chém vào.
Nguyên do tất cả các chiêu thức phái Tinh Tú đều dùng nội công hàn độc để phát huy đến cực điểm. Trong người cần phải chứa một nội lực hùng hậu mới có thể luyện võ công phái Tinh Tú được đến nơi đến chốn. Hai yếu tố đó phải hỗ trợ cho nhau mới thành tựu được. Có điều chiêu thức học thì dễ, mà tích lũy nội công lại rất khó. Bọn đệ tử phái Tinh Tú đều hiểu biết chiêu thức, nhưng được như Trích Tinh Tử thì vỏn vẹn có mấy người, vì trong mình họ chứa chất được phần nội lực tương đương, nên họ thành những nhân vật siêu quần xuất chúng trong bọn đồng môn.
Du Thản Chi không hiểu rõ căn nguyên nhưng không dám hỏi nhiều. Gã nghĩ rằng nói lắm tất có điều lầm lẫn, đàm luận nhiều chỉ tỏ hành tung bí mật của mình mà thôi.
Nghĩ vậy, gã liền bảo A Tử tiếp tục biểu diễn.
A Tử phô diễn tiếp tục.
Du Thản Chi cứ tuần tự theo đúng chiêu thức của nàng mà phát huy ra được uy lực cực kỳ mãnh liệt. Hai người luyện được hơn mười chiêu. Du Thản Chi đã cảm thấy phức tạp nhiều quá, nhớ không xuể, gã liền bảo A Tử dừng lại nghỉ một chút rồi diễn lại từ đầu.
A Tử cười nói:
- Vương công tử! Theo chỗ nhận xét thì võ công phái Tinh Tú nhất định là nhiều chỗ sơ hở, đáng buồn cười lắm phải không?
Du Thản Chi đáp bằng giọng nước đôi:
- Không hẳn như vậy, thực ra bên trong cũng có nhiều chỗ khả thủ. Có điều càng suy xét kỹ thì thấy dường như người huấn luyện không truyền thụ đến nơi đến chốn.
Gã nói xong lại phỏng theo cách đá của A Tử đá chặn một cái trúng vào hòn đá lớn bằng cái đầu đánh "véo" một tiếng bay đi.
Hòn đá này bay ra xa đến ngoài mười trượng rồi từ trên không rớt xuống.
Giữa lúc ấy trên núi có hai người đi tới.
Du Thản Chi thấy hòn đá lớn này sắp rớt trúng đầu người, gã hốt hoảng kêu lên:
- Úi chà! Tránh mau! Ðá rớt xuống đó!
Người đi trước nghiêng mình tránh về mé tả nửa bước rồi vung hai tay lên đập đánh "chát" một tiếng đúng vào hòn đá làm cho nó bay tạt ngang đập vào vách núi đánh "bình" một tiếng vang lên, tóe lửa ra bốn mặt.
Người đó nổi giận quát hỏi:
- Tên nào lớn mật dám trêu cợt cả lão gia?
Thân hình chuyển động, thoáng cái hai người đã tới trước mặt Du Thản Chi cùng A Tử.
Hai người này áo quần lam lũ ăn mặc kiểu hành khất, trên lưng đeo mấy cái túi vải.
Du Thản Chi vừa trông thấy đã biết ngay là người Cái Bang liền tiến lên vái chào nói:
- Xin hai vị đại ca Cái Bang đừng giận. Tại hạ vô ý một chút, mong hai vị lượng thứ cho.
Hai người Cái Bang thấy Du Thản Chi cung kính xin lỗi. Họ lại vừa thấy gã đá tung được viên đá lớn bay lên thì biết là võ công gã ghê gớm lắm.
Hai người không muốn sinh sự, liền đáp lễ nói:
- Tôn giá dạy quá lời! Rồi toan đi ngay.
A Tử bỗng lên tiếng hỏi:
- Các ngươi có phải là người Cái Bang đó không? Nếu vậy thì may lắm. Ta đang muốn tìm đến Cái Bang để đoạt chức chưởng môn chơi! Tổng đà các ngươi hiện đặt ở đâu? Hai gã Cái Bang nghe nàng mở miệng đã nói đến chuyện muốn đoạt ngôi bang chúa mà trông cách ăn mặc lại không phải là người bản bang. Ðệ tử Cái Bang muốn tranh đoạt ngôi bang chúa thì mới là phạm tội tiếm vị. Người ngoài thốt ra câu này càng tỏ vẻ diễu cợt khinh miệt Cái Bang.
Hai gã vừa nghe nàng nói đã biến sắc hỏi lại:
- Tôn giá là ai? Sao dám buông lời khinh mạn bản bang như vậy?
A Tử nghe gã đó hỏi đến lai lịch mình, nàng muốn tiến lên nói mấy điều phân trần là mình xứng đáng.
Nàng liền cười khà khà nói:
- Không dám! Tại hạ mới nhận chức chưởng môn phái Tinh Tú. A Tử chính thị là tại hạ.
Gã hành khất đi trước người đã cao nghệu lại gầy nhom chau mày nói:
- Thủ lãnh phái Tinh Tú là Ðinh lão quái. Trên chốn giang hồ còn ai không biết? Con tiện tì này ăn nói lăng nhăng. Lão đi sau người vừa phải, tuổi ngoài năm mươi, xem chừng địa vị trong bang thấp hơn, việc gì cũng phải nghe theo gã cao này.
Lão ra chiều thận trọng khẽ nói:
- Ðịch huynh đệ! Chúng mình đang mắc bận chẳng nên chấp với con nhỏ chưa biết gì này làm chi!
Gã cao gầy hắng giọng nói:
- ả là một đứa tiện tỳ đui mù, còn một tên...
Gã vừa nói vừa nhìn Du Thản Chi bằng con mắt rất khinh bỉ, tỏ ra gã sắp nói: một tên quỉ sứ.
Du Thản Chi khi nào chịu để hắn nói hở chân tướng mình ra. Tay phải gã khoa vòng tròn một vòng rồi theo chiêu thức của A Tử vừa biểu diễn phóng ra chiêu "Hỗn thiên vô cực thức".
Gã cao gầy Cái Bang võ công đã vào hạng tinh thâm, ứng biến rất mau lẹ, thấy Du Thản Chi dơ tay phóng chiêu ra, tuy hai bên cách nhau bảy tám thước, tưởng chừng như phát chưởng đó không tài nào phóng tới mình được, nhưng gã cao gầy cũng chuẩn bị đề phòng, vận khí để đón chưởng đối phương thì quả nhiên nghe đánh"rắc"một tiếng.
Gã cao gầy người Cái Bang ngã ngửa về phía sau, xương sống gẫy rời ra, người gã đứt làm hai đoạn gập lại.
Lão Cái bang còn lại thất kinh la hoảng:
- Ðịch huynh đệ! Ðịch huynh đệ! Trời ơi! Ðịch huynh đệ làm sao? Ðịch huynh đệ chết rồi ư?
Bản ý Du Thản Chi phóng chưởng ra chỉ là nhăn trở gã cao gầy khỏi thốt ra câu "tên quỉ sứ" mà thôi, tuyệt không có ý hại mạng người. Gã chợt nghe lão già Cái bang la hoảng là gã kia chết rồi thì cả kinh hỏi:
- Sao?
Rồi Du Thản Chi tiến lên trước cúi đầu nhìn xuống nhìn gã cao gầy thì thấy hai mắt gã lòi ra, trông mà phát khiếp.
Du Thản Chi vừa sợ hãi vừa hối hận, gã ấp úng:
- Ðó là... đó là...
Lão Cái thấy Du Thản Chi mặt mũi sần sùi thì kinh hãi vô cùng. Lão tưởng gã lại giết luôn cả mình, liền dùng hai quyền đập rất mạnh vào lưng Du Thản Chi.
Du Thản Chi lúc này mới học được mấy chiêu thức của phái Tinh Tú do A Tử vừa biểu diễn, nên gã bị lão Cái tấn công mà không biết cách tránh né. Hơn nữa trong lòng gã đang hối hận về việc đánh chết người, nên muốn cam chịu mấy thoi quyền của đối phương để ăn năn tội lỗi.
"Bình bình" hai tiếng. Lão Cái gióng hai quyền vào lưng Du Thản Chi rồi tay lão bị dính luôn trên lưng gã.
Bỗng nghe tiếng lão Cái rú lên:
- Úy chao!
Người lão bắn văng ra rồi ngã xuống đất miệng phun máu tươi.
Du Thản Chi lại càng kinh hãi lớn tiếng hỏi:
- Lão làm sao vậy?
A Tử tuyệt không động tâm, nàng lại cất tiếng khen:
- Vương công tử! Võ công ngươi quả là giỏi thiệt! Vừa cất tay đã hạ xong hai gã cao thủ Cái Bang.
Du Thản Chi thấy lão già miệng không ngớt ứa máu tươi trong lòng đang vừa kinh hãi vừa hối hận. Gã quay đầu ra lại thấy trên đường dốc núi có mấy người đi tới, gã hốt hoảng nắm lấy tay A Tử kêu lên:
- Chạy mau! Chạy mau đi! Ðừng đứng đây nữa!
A Tử không tự chủ được, để mặc gã lôi chạy đi như bay. Nàng chỉ nghe thấy tiếng gió vù vù bên tai thì biết rằng gã chạy lẹ vô cùng!
Nàng mừng rỡ la lên:
- Hay quá! Hay quá! Ngươi cứ chạy nhanh hơn nữa đi!
Chỉ trong khoảnh khắc hai người đa chạy xa đến hơn mười dặm.
Du Thản Chi bỗng nghe văng vẳng phía sau có tiếng người ta gọi:
- Du huynh đệ! Du huynh đệ! Hãy thong thả!
Du Thản Chi nghe dường như là tiếng Bao Bất Ðồng. Gã vừa ra tay giết người chỉ sợ Bao Bất Ðồng tóm được, khi nào chịu dừng bước mà trái lại gã càng chạy lẹ hơn. Người gọi Du Thản Chi đúng là Bao Bất Ðồng.
Lúc này Bao Bất Ðồng cùng Phong Ba ác đã gặp cả Mộ Dung Phục, Ðặng Bích Xuyên, Công Dã Càn và Vương Ngọc Yến. Gã kể cho bốn người kia nghe về những điều quái dị của Du Thản Chi.
Mộ Dung Phục nổi tính hiếu kỳ muốn tìm được Du Thản Chi để hỏi cho rõ ràng.
Mọi người còn ở đằng xa đã nhìn rõ Du Thản Chi vung tay đánh chết hai người rồi kéo A Tử chạy như bay.
Mộ Dung Phục thấy kiểu gã chạy thật vụng về, không phải là người biết khinh công, nhưng cước lực rất mau, có lẽ chẳng thua gì mình.
Lúc này còn cách chừng hơn một dặm, Mộ Dung Phục nghĩ thầm:
- Nếu mình thi triển khinh công đến tột độ cũng chỉ nhanh bằng gã mà thôi, mình còn cách nhau những hơn một dặm thì thủy chung vẫn không bao giờ gần lại được. Như vậy ta không tài nào đuổi kịp gã và dù có kịp chăng nữa rồi làm thế nào?
Mộ Dung Phục thấy Du Thản Chi vẫn chạy rất mau, trong lòng không khỏi thán phục và kinh dị.
Ðặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn thấy hai người Cái Bang một chết và một bị thương nặng cùng kinh dị vô cùng. Nhất là gã gầy gò Cái Bang lại chết một cách kỳ dị. Người gã gập đôi lại đầu và chân dặt xuống đất, bụng ngửa lên trời. Công Dã Càn nâng lão Cái Bang bị thương dậy, rồi lấy một viên thuốc chữa thương nhét vào miệng lão. Nhưng miệng lão vẫn ứa máu tươi, thuốc nhét vào lại trôi ra, chẳng ăn thua gì.