-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Báu Vật Của Đời
Tác giả: Mạc Ngôn
Lời giới thiệu
Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 tại Cao Mật, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Do Cách mạng Văn hóa, ông phải nghỉ học khi đang học dở tiểu học và phải tham gia lao động nhiều năm ở nông thôn. Năm 1976, ông nhập ngũ. Năm 1984, trúng tuyển vào khoa văn thuộc Học viện nghệ thuật Quân Giải phóng và tốt nghiệp năm 1986. Năm 1988, ông lại trúng tuyển lớp nghiên cứu sinh sáng tác thuộc Học viện Văn học Lỗ Tấn, trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh, năm 1991 tốt nghiệp với học vị thạc sĩ.
Hiện ông là sáng tác viên bậc Một của Cục Chính trị - Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Nhà văn Mạc Ngôn từng được thế giới biết đến qua tác phẩm Cao lương đỏ. Bộ phim cùng tên do đạo diễn nổi tiếng Trương Nghệ Mưu chuyển thể từ tác phẩm này đã đoạt giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Canne năm 1994.
Truyện dài Báu vật của đời (nguyên tác tiếng Hoa: Phong nhũ phì đồn - tức vú to, mông nẩy) được xuất bản vào tháng 9 năm 1995 và ngay trong năm ấy được trao giải thưởng cao nhất về truyện. Tác phẩm này nhanh chóng trở thành một hiện tượng.
Báu vật của đời khái quát cả một giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi tráng của đất nước Trung Hoa thông qua số phận của các thế hệ trong gia đình Thượng Quan. Từ những số phận khác nhau, lịch sử được tiếp cận dưới nhiều góc độ, tạo nên sức sống, sức thuyết phục nghệ thuật của tác phẩm.
Có nhiều con đường để cảm thụ tác phẩm văn chương, vì vậy trước một hiện trượng văn học xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau âu cũng là điều bình thường, thậm chí còn làm phong phú thêm đời sống văn học. Trên tinh thần đó, chúng tôi xin gởi đến bạn đọc Báu vật của đời của Mạc Ngôn, một trong những tác phẩm được đánh giá là xuất sắc nhất của văn học Trung Quốc hiện đại.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 1
Hằng hà sa số thiên thể vận hành như con thoi trôi chảy và mạch lạc trong vũ trụ. Chúng phóng ra những tia màu hồng rực rỡ. Thiên thể này có hình bầu vú, thiên thể khác lại có hình cặp mông. Chúng vận hành có vẻ tùy tiện, nhưng thật ra mỗi ngôi đều có quỹ đạo riêng. Rì rầm, loạt soạt, mỗi ngôi đều có điệu hát riêng của mình. Xiên ngang, đâm dọc, ngôi nào đi theo con đường của ngôi ấy. Ngắm nhìn sự hài hòa vĩ đại ấy, mục sư Malôa nước mắt ràn rua kêu lên:
- Ôi! Thượng Đế chí tôn! Người là tất cả!
Mục sư Malôa nằm bất động trên giường. Ông trông thấy một đạo hồng quang rọi trên bầu vú màu phấn hồng của Đức Mẹ Ma-ria và trên khuôn mặt bầu bĩnh của Chúa Hài Đồng trong tay Đức Mẹ. Mùa hè năm ngoái mái nhà bị dột, bức tranh sơn dầu này bị Ố từng đám vì nước mưa, khuôn mặt Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng trở nên ngắn ngủn, đần độn và nanh nọc. Một con nhện treo lơ lửng dưới sợi tơ màu trắng bạc trước cửa sổ, đung đưa mỗi khi có làn gió nhẹ. Sáng báo tin vui, chiều báo phát tài; người đàn bà xinh đẹp, sắc mặt nhợt nhạt ấy đã nói như vậy về nhện sa trước mặt. Mình thì có gì vuỉ Mình chẳng có gì vui cả! Những thiên thể có hình dáng vú và mông lọt qua trong đầu, ông giơ ngón tay khều dử mắt, nghe tiếng bánh xe lọc cọc ngoài đường, tiếng hạc kêu từ đầm lầy vọng tới, và cả tiếng be be ai oán của con dê sữa. Những con chim sẻ mổ bồm bộp trên giấy dán cửa sổ. Chim khách kêu lảnh lót trên cây bạch dương ngoài sân. Bỗng mục sư tỉnh như sáo. Người phụ nữ với cái bụng to kinh khủng bỗng hiện ra dưới làn ánh sáng, cặp môi khô nẻ mấp máy, hình như đang lẩm bẩm câu gì đó. Cô ta mang thai đã mươi hai tháng, chắc chắn hôm nay sinh nở. Mục sư Malôa chợt hiểu ra ý nghĩa của nhện sa và tiếng kêu của con chim khách. Ông bật dậy, bước xuống giường.
Mục sư Malôa xách chiếc bình gốm màu đen, đi men theo con đường lớn phía sau nhà thờ. Thoạt nhìn, ông đã nhận ra bà Lã, vợ Ông thợ rèn Thượng Quan Phúc Lộc, đang dùng chổi vun đất bột trên đường. Tim ông mục sư đập thình thịch, miệng lẩm bẩm:
- Ôi Thượng đế! Người là tất cả!
Ông giơ ngón tay ngượng nghịu làm dấu chữ thập rồi chậm rãi nép vào một góc trong, lặng lẽ quan sát người đàn bà cao lớn và béo đẫy. Bà ta vun đất bột thấm đẫm sương đêm, cẩn thận loại bỏ rác rưởi lẫn trong đó. Người đàn bà đồ sộ này cử chỉ vụng về nhưng sinh lực thì có thừa. Chiếc chổi bện bằng thân lúa mạch vàng óng trong tay bà chỉ như một đồ chơi. Bà bốc đất mịn cho vào sọt, dùng tay nén chặt rồi bê sọt đất đứng lên.
Bà Lã bê sọt đất về đến đầu ngõ thì nghe có tiếng ồn ào phía sau. Ngoảnh lại, bà thấy cánh cổng nhà giàu nhất của thị trấn - nhà Phúc Sinh Đường - mở toang, một đám dàn bà ùa ra. Họ cố ý ăn mặc lôi thôi lếch thếch, mặt bôi đầy nhọ nồi. Ngày thường, phụ nữ nhà Phúc Sinh Đường quần là áo lượt, sao hôm nay lại cải trang như vậy? Từ mảnh sân đối diện, lão xà ích có biệt hiệu là Chim Sẻ Rừng đánh ra một cỗ xe lớn mới tinh, bánh hơi, rèm màu xanh. Xe chưa dùng hẳn, đám phụ nữ đã tranh nhau trèo lên. Lão đánh xe ngồi xổm trước con sư tử đá bị sương đêm làm ướt đẫm, lặng lẽ hút thuốc. Ông chủ Phúc Sinh Đường Tư Mã Đình từ sau cổng vọt ra, tay cầm súng hỏa mai, động tác mạnh và nhẹ nhàng như thanh niên. Lão xà ích vội vã đứng lên nhìn ông chủ. Tư Mã Đình giật chiếc tẩu từ miệng lão xà ích, rít mấy hơi rõ kêu, rồi ngẩng nhìn bầu trời rạng đông đang ửng lên màu phấn hồng, bảo lão xà ích:
- Sẻ Rừng, cho xe đến đầu cầu sông Mực rồi đợi ở đấy ta sẽ đến ngay!
Lão xà ích tay cầm cương, vung roi cho ngựa quay đầu xe. Đám phụ nữ chen chúc trên xe la chí chóe. Lão xà ích vung roi đánh bốp, ngựa bắt đầu chạy nước kiệu. Nhạc ngựa kêu loong chong, một vệt bụi dài cuốn theo xe.
Tư Mã Đình đái một bãi ngay trên mặt đường cái, gừ gừ trong họng nhìn theo chiếc xe ngựa, rồi ôm súng trèo lên đài quan sát. Đài cao ba trượng, dựng bởi chín mươi chín cây gỗ tròn. Đỉnh đài là một mặt bằng nhỏ, cắm ngọn cờ hồng. Sáng sớm trời không gió, ngọn cờ ướt đẫm sương, ủ rũ. Bà Lã nhìn thấy Tư Mã Đình đứng trên đình tháp ngóng về phía tây bắc, cổ vươn dài ra, môi dẩu, y hệt con ngỗng đang uống nước. Một đám sương là là mặt tháp, nuốt chửng Tư Mã Đình rồi lại nhả ra. Rạng đông nhuốm đỏ khuôn mặt hắn. Bà Lã trông thấy khuôn mặt Tư Mã Đình như bị phủ lên một lớp hồ loãng, nhớp nháp và sáng lấp lóa. Hắn giơ khẩu súng bằng hai tay, mặt đỏ như mào gà chọi. Một tiếng động nhỏ vang lên, đó là tiếng lẫy cò đập vào hạt nổ. Hắn đợi với vẻ trang nghiêm. Bà Lã cũng đợi, đợi rất lâu, mặc cho sọt đất trên tay nặng trĩu hai tay tê dại, cổ mỏi nhừ. Tư Mã Đình hạ súng xuống, môi trề ra, y hệt một đứa trẻ đang giận dỗi. Bà Lã nghe thấy hắn chửi câu gì. Hắn chửi khẩu súng:
- Đồ ôn dịch, mày dám không nổ!
Hắn lại giơ súng lên, lẩy cò, một tiếng đập nhẹ, một vệt lửa phụt ra đầu nòng át cả màu đỏ của bình minh, sáng trắng khuôn mặt hắn. Một tiếng nổ đanh xé toạc thôn xóm đang yên tĩnh, lửa đỏ rục phụt lên trời, tạo thành các nàng tiên đứng trên mây, những cánh hoa sặc sỡ bay lả tả. Bà Lã thấy lòng rạo rực. Bà là vợ Ông thợ rèn nhưng tay nghề thì bà giỏi hơn chồng một bậc, chỉ cần trông thấy sắt và lửa là máu dồn lên mặt, sôi lên trong huyết quản, cơ bắp nổi lên từng búi, chẳng khác chiếc roi tết bằng gân bò. Thép đen đập trên sắt đỏ, hoa lửa bắn ra tứ phía, mồ hôi ướt đẫm lưng, chảy thành dòng giũa hai vú, mùi tanh tanh của sắt rèn len lỏi khắp chỗ.
Bà Lã trông thấy Tư Mã Đình nhảy dựng lên một cái trên đỉnh tháp. Không khí ẩm ướt ban mai quyện đầy khói và mùi thuốc súng. Tư Mã Đình thét to, báo động cho cả vùng đông bắc Cao Mật:
- Bà con ơi, giặc Nhật sắp đến đấy!
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 2
Bà Lã đổ đất lên mặt giường đắp bằng đất đã lột bỏ chiếu và đệm rơm, lo lắng nhìn con dâu là chị Lỗ lúc này đang hai tay bám thành giường, miệng rên rỉ. Bà dùng cả hai tay san đất cho phẳng rồi khẽ bảo con dâu:
- Trèo lên đi!
Trước cái nhìn thương hại của mẹ chồng, chị Lỗ, một phụ nữ vú to mông nẩy, sợ run lên. Tội nghiệp, chị nhìn trộm nét mặt từ bi của mẹ chồng mà đôi môi nhợt nhạt run rẩy, như muốn nói điều gì đó.
Bà Lã nói to:
- Lão Tư Mã lại bị ma ám rồi!
Chị Lỗ nói:
- Me...
Bà Lã phủi sạch đất trên tay, lẩm bẩm:
- Nàng dâu quí hóa của tôi, hãy cố lên! Lần này lại là con gái thì tôi chẳng còn mặt mũi nào bênh vực cho cô được nữa!
Chị Lỗ ứa hai hàng nước mắt, cắn chặt môi dưới, cố súc lê cái bụng nặng nề lên giường, chỗ đã trải đất mịn sau khi lột bỏ chiếu.
- Đẻ nhiều lần rồi, cứ tà tà con ạ!
Bà Lã đặt cuộn băng trắng và chiếc kéo lên giường, cau mày, tỏ vẻ sốt ruột, ông già và bố Lai Đệ đang đỡ đẻ cho con lừa đen ở chái đằng kia.
- Nó đẻ con so, ta phải chăm lo cho nó!
Chị Lỗ gật đầu. Chị nghe thấy một tiếng súng bắn lên trời cao, tiếng sủa hốt hoảng của mấy con chó và tiếng của Tư Mã Đình vẳng lại, đứt quãng: Bà con ơi, chạy mau lên! Chậm là chết hết!. Hình như hưởng ứng lời kêu gọi của Tư Mã Đình, chị cảm thấy một trận quẫy đạp bụng cuộn lên từng cục, đau đến nghẹt thở, mồ hôi rỉ ra lỗ chân lông và tanh như mùi cá. Chị cắn răng, không cho tiếng kêu vọt ra khỏi miệng. Qua màn nuộc mắt mờ ảo, chị nhìn thấy mẹ chồng tóc đen nhánh, đang cắm ba nén hương lên bàn thờ Quan âm. Khói hương lờ lững bay lên rồi lan tỏa ra khắp phòng.
- Đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn Quan Thế âm Bồ Tát! Xin Người cứu giúp chúng con, hãy thương con mà cho con một đứa con trai...
Chị Lỗ đặt hai bàn tay trên cái bụng vồng lên và lạnh ngắt, mắt hướng về bộ mặt bóng loáng của bức tượng Quan âm bằng sứ đặt trên bàn thờ, lẩm bẩm cầu nguyện; một lần nữa, chị lại ứa nước mắt. Chị tụt cái quần đã ướt một mảng, vén cao hết mức chiếc áo ngoài, để lộ bụng và vú ra. Chị bám chặt thành giường, sửa lại tư thế cho đúng với đám đất mẹ chồng rải trên giường. Giữa hai cơn đau quặn, chị dùng các ngón tay chải lại tóe, tựa lưng vào chỗ đệm rơm và chiếu đã được cuốn lên.
Mảnh gương gắn trên bậu cửa soi nghiêng khuôn mặt của chị: Tóc ướt đẫm mồ hôi, con mắt dài u tối, gò mũi cao trăng mịn, chiếc miệng rộng khô nẻ co giật từng đợt. Một tia nắng yếu ớt lọt qua cửa sổ, chiếu chênh chếch lên ngôi chị, chỗ gân xanh ngoằn ngoèo và những nếp nhăn lồi lõm màu trắng, trông dễ sợ. Chị ngắm cái bụng của mình, trong lòng lúc hi vọng, lúc chán nản y hệt bầu trời Cao Mật giữa mùa hè: khi thì mây đen cuồn cuộn, lúc lại xanh trong thăm thẳm. Chị gần như không dám cúi nhìn cái bụng to và cứng đến kỳ lạ của chị. Có lần chị nằm mơ thấy mình chửa toàn là sắt thép. Lần khác, chị lại mơ thấy chửa toàn là cóc. Sắt thép thì chị còn có thể chấp nhận, nhưng cóc thì mỗi khi nghĩ đến là chị nổi da gà. Xin Bồ Tát che chở cho con... Xin tổ tiên phù hô... Các thần các thánh phù hộ độ trì cho con, hãy tha thứ cho con, giúp con sinh được một cháu trai đủ tai đủ mắt... Con thân yêu của mẹ, con ra đi... Trời cha đất mẹ Ơi, thần tiên yêu quái ơi, hãy cứu giúp con... Chị cầu nguyện, chị van xin, trả lời là từng cơn đau xé ruột.
Chị bám chặt hai tay vào cuộn chiếu sau lưng, mỗi thớ thịt trên người rung lên. Chị mở to mắt, trước mặt là những tia lửa hồng, trong màu hồng của lửa lại có những tia sáng trắng ngoằn ngoèo, co dãn y như những sợi bạc chảy trong lò. Chịu không nổi, một tiếng thét bật ra từ miệng chị vọt qua cửa sổ, trầm bổng trên đường ngang lối tắt hòa quyện với tiếng kêu của Tư Mã Đình rồi xoắn chặt với nhau như một sợi dây thừng, như một con rắn xộc thẳng vào tai ông mục sư Malôa người Thụy Điển. Ông mục sư người cao lớn, bụng phệ, đầu to với những lọn tóc đỏ, lỗ tai có chòm lông trắng. Đang trên thang dẫn tới lầu chuông, ông mục sư chợt sững ngươi, cặp mắt xanh luôn mọng nước đầy quyến rũ và ngơ ngác như con nai lạc đàn, lóe lên mừng rỡ. Ông giơ ngón tay mũm mĩm làm dấu chữ thập, buột miệng nói một câu đặc thổ âm vùng Cao Mật:
- Lạy Chúa toàn năng!...
Ông tiếp tục trèo lên tận đỉnh, lắc vang chiếc chuông han gỉ, vốn treo ở một ngôi chùa. Tiếng chuông não lòng lan tỏa trong sương sớm. Cùng với tiếng chuông, cùng với tiếng cảnh báo quân Nhật sắp đến, là một bãi nước ối chảy ra từ giữa hai chân chị Lỗ. Chị ngửi thấy mùi thịt dê, còn ngửi thấy mùa hoa hòe thơm đậm mà thanh nhã. Cảnh yêu nhau trong rừng hòe năm ngoái cùng với mục sư
Malôa lại hiện rõ trước mặt chị. Chị lưu luyến với hình ảnh quá khứ, không được lâu, mẹ chồng chị giơ cao hai tay đầy máu chạy xộc vào phòng. Chị kinh hoảng nhận ra rằng, trong tay mẹ chồng có một ngôi sao xanh nhỏ xíu
- Đẻ chưa? - Chị nghe thấy mẹ chồng lớn tiếng hỏi.
Chị lắc đầu, xấu hổ.
Mái đầu mẹ chồng lấp lóa dưới nắng, chị kinh hoảng khi thấy tóc của bà đã bạc trắng.
- Cứ tưởng cô đẻ rồi! - Mẹ chồng nói.
Hai tay mẹ chồng vươn về phía bụng chị. Đó là hai bàn tay thô, to khỏe, móng rắn chắc, ngay cả trên mu bàn tay cũng có những chỗ chai cứng. Chị sợ, muốn thoát khỏi hai bàn tay dính đầy máu lừa của bà mẹ chồng thợ rèn, nhưng chị không còn sức. Hai tay bà ấn trên bụng chị một cách thô bạo, chị cảm thấy như tim ngừng dập, khắp ngươi nổi gai ốc. Chịu không nổi, chị bật lên tiếng rên, không phải vì đau mà vì sợ. Không chút nương nhẹ, hai bàn tay bà mẹ chồng rờ rẫm trên bụng chị rồi lại ấn mạnh, cuối cùng, như người ta thử dưa chín, bà vỗ bộp bộp mấy cái trên bụng chị, tỏ vẻ ảo não như người ta mua phải quả dưa còn xanh. Hai bàn tay rời bụng, rũ xuống dưới ánh nắng, nặng nề và mệt mỏi. Toàn bộ thân thể mẹ chồng như một cái bóng, chỉ có hai bàn tay là thật, đầy uy lực, làm gì cũng được, muốn làm gì thì làm. Chị nghe thấy tiếng mẹ chồng như vọng lại từ xa, mãi tận trong đầm lầy, hòa quyện với mùi bùn và mùi tôm cua:
- Quả chín khắc rụng... đã đến lúc thì ngăn cũng chẳng được hãy kiên nhẫn... đừng sợ ngươi ta cười... chẳng lẽ cô không sợ bảy cô thị mẹt của cô cười cho!
Chị trông thấy một trong hai bàn tay ấy lại uể oải gõ trên bụng chị như gõ một cái trống da dê bị ẩm, phát ra những tiếng đùng đục. Đàn bà bây giờ càng văn minh lại càng yếu ớt. Cái đận tao đẻ bố nó, vừa đẻ vừa khâu đế giày!. Cuối cùng thì bàn tay cũng đã ngừng gõ, thu trở lại trong bóng tối, mờ ảo như móng vuốt chân thú.
Tiếng mẹ chồng cất lên trong bóng tối, mùi thơm của hoa hòe từng đợt ùa vào phòng.
- Bụng cô quá lớn, hoa văn cũng rất lạ, có thể là con trai. Nếu vậy thì phúc cho cô, phúc cho ta, phúc cho nhà Thượng Quan. Bồ Tát linh thiêng, Chúa Trời phù hộ, không có con trai thì suốt đời cô chỉ là nô lệ, đẻ con trai, cô lập tức thành bà chủ nhà. Ta nói vậy cô tin hay không tin thì tùy!...
Mẹ Ơi, con tin, con tin mà! - Chị Lỗ hoàn toàn tin như vậy. Bức tường trước mặt chị vẫn còn vết ố màu nâu. Chị nhìn vết ố đó mà lòng đau quặn. Đó là cách đây ba năm, sau khi sinh đứa con gái thứ bảy, chồng chị là Thọ Hỉ nổi trận lôi đình, cầm cái chày gỗ ném vào đầu chị, máu ở đầu vọt lên tường... Mẹ chồng đặt cái làn bên cạnh chị. Tiếng của bà như ngọn lửa bùng cháy trong đêm, tỏa ra những tia rục rỡ: Nói theo ta - Đứa con trai trong bụng tôi đáng giá ngàn vàng, nói đi!. Trong làn đựng đầy lạc củ. Nét mặt hiền hòa của mẹ chồng, tiếng nói trang nghiêm, nửa là thiên thần, nửa là mẹ. Chị Lỗ rất mực cảm động, vừa khóc vừa nói theo: Trong bụng tôi là con vàng con bạc, là quí tử, con trai tôi là quí tử!... Mẹ chồng ấn vào tay chị mấy củ lạc, dạy chị nói:
- Lạc, lạc, lạc!... (#1)
Chị đón lấy mấy củ lạc, lặp lại y nguyên lời mẹ chồng. Bà Lã ló đầu vào, vờ tỏ ra thương cảm, nói:
- Bồ Tát hiển linh, chúa Trời phù hộ cho nhà Thượng Quan được cả hai niềm vui! Mẹ con Lai Đệ này, con bóc lạc để chờ đẻ nhé, con lừa nhà ta sắp đẻ con so, mẹ không trông nom con được đâu.
Chị Lỗ cảm động nói:
- Mẹ cứ đi Chúa phù hộ cho con lừa nhà ta đẻ thuận!...
Bà Lã lại thở dài, lắc lư ra khỏi phòng.
Chú thích:
(1-) Sinh đẻ đồng nghĩa với củ lạc. Nói vậy cho dễ đẻ
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 3
Trên bệ cối xay bột ở chái tây để một cây đèn ạ đầy những vết dâu mỡ. ánh đèn vàng vọt, leo lét, kéo theo một sợi khói đen ngoằn ngoèo bay lên. Mùi thơm của đèn dầu trộn với mùi cút đái của lừa. Không khí đầy ô nhiễm. Bên cạnh cối xay là máng cỏ của lừa bằng dá xanh. Con lừa sắp đẻ của nhà Thượng Quan nằm nghiêng giữa cối xay và máng.
Bà Lã bước vào trong chái, mắt chỉ nhìn thấy ngọn đèn, trong bóng tối vọng ra câu hỏi của Phúc Lộc:
- Bà nó này, con trai hay con gái?
Bà Lã bĩu môi về phía chồng, không trả lời. Bà bước qua chỗ con lừa đen. Thọ Hỉ đang ngồi nắn bụng lừa. Bà giận dữ bước tới bên cửa sổ, xé toạc lớp giấy dán màu đen. Mười mấy luồng ánh sáng màu vàng óng dọi qua các ô cửa sổ hình chữ nhật, soi sáng nửa bờ tường đối diện. Bà quay lại chỗ cối xay bột thổi tắt ngọn đèn, mùi dầu thực vật lập tức lan tỏa át hẳn mùi xú uế của gian trái. Khuôn mặt đen nhẻm của Thọ Hỉ sáng lên lấp lánh dưới tia nắng, cặp mắt lươn sáng lên như hai hòn than.
Anh ta rụt rè nhìn mẹ, hỏi nhỏ:
- Mẹ, ta cũng chạy chứ? Nhà Phúc Sinh Đường chạy cả rồi. Bọn Nhật sắp tới!
Bà Lã nhìn con trai như nhìn một thỏi thép bị tôi hỏng, khiến Thọ Hỉ phải đưa mắt nhìn đi nơi khác, mồ hôi rịn lấm tấm trên mặt, vội vã cúi đầu xuống.
- Ai bảo mày là quân Nhật sắp đến? - Bà Lã giận dữ chất vấn con trai.
- Ông chủ Phúc Sinh Đường vừa nổ súng báo hiệu vừa thông báo đấy thôi! - Thọ Hỉ lấy mu bàn tày dính đầy lông lừa lau mồ hôi trên mặt, khẽ lẩm bẩm. So với bàn tay hộ pháp của bà Lã, bàn tay của Thọ Hỉ vừa nhỏ vừa mảnh mai. Anh ta chợt dùng tay, môi chúm chím như trẻ ti sữa mẹ, ngẩng đầu lên, dỏng đôi tai bé tí lắng nghe:
- Bố mẹ Ơi, nghe này!
Giọng Tư Mã Đình vẳng đến gian chái, nghe rõ mồn một:
- Các ông các bà ơi, các chú các cô ơi, các anh các chị Ơi! Chạy mau đi, trốn mau đi! Hãy lánh đến hoang mạc đông nam. Quân Nhật sắp đến đấy! Nguồn tin chắc chắn đấy, tôi không nói bậy đâu! Bà con ơi, đừng nấn ná nữa, chạy đi, đừng tiếc mấy gian nhà dột nát làm gì! Người còn thì của còn, còn người là còn tất cả. Bà con ơi, chạy mau, kẻo muộn hối không kịp!...
Thọ Hỉ bật dậy, cuống quít vì sợ:
- Bố mẹ nghe thấy chưa? Nhà ta cũng chạy thôi!
- Chạy đi đâu - Bà Lã cằn nhằn - Nhà Phúc Sinh Đường chạy là phải rồi. Còn nhà ta kiếm ăn bằng nghề rèn, thóc vua không thiếu một cân, thuế vua không thiếu một đồng, ai lên làm quan thì nhà mình vẫn là người dân! Bọn Nhật không phải là người sao? Chúng chiếm đông bắc thì cũng vẫn phải dựa vào người dân cày ruộng nộp tô cho chúng. Ông nó này, ông là chủ nhà, tôi nói vậy có đúng không?
Phúc Lộc miệng trễ xuống, để lộ hàm răng to khỏe vàng khè, nét mặt không rõ cười hay khóc. Bà Lã nổi giận nói:
- Tôi hỏi ông, ông nhe răng nhe lợi ra làm gì? Đúng là vô tích sự!
Ông Phúc Lộc nhăn nhó:
- Tôi biết gì mà hỏi! Bà bảo chạy thì tôi chạy, bảo không chạy thì tôi ở lại.
Bà Lã thở dài, nói:
- Phúc hay họa đây? Họa thì có tránh cũng không thoát! Còn đứng đực ra đấy làm gì? Nắn bụng cho con lừa mau!
Thọ Hỉ mấp máy môi, lấy hết can đảm hỏi to, giọng đứt quãng:
- Nó đẻ chưa?
Là đàn ông thì phải phân định công việc cho rõ ràng. Mày hãy biết chăm sóc con lừa, còn chuyện vợ mày thì đừng bận tâm!
- Nhưng nó là vợ của con... Thọ Hỉ cằn nhằn.
- Chẳng ai bảo nó không phải vợ của mày! - Bà Lã nói.
- Con đoán lần này nó đẻ con trai - Thọ Hỉ vừa ấn bụng con lừa, vừa nói.
- Mày là đồ bị thịt - Bà Lã buồn rầu, nói - Cầu Chúa phò hộ cho mày!
Thọ Hỉ còn định nói câu gì đó, nhưng ánh mắt bà Lã khiến anh ta câm miệng. Ông Phúc Lộc nói:
- Mẹ con bà ở dây, dể tôi ra ngoài phố xem sao!
- Ông cứ ở nhà cho tôi - Bà Lã túm lấy vai chồng, lôi đến bên cạnh con lừa, giận dữ:
- Ngoài phố thì có gì để ông xem? Nắn bụng lừa đi, giúp nó đẻ cho nhanh. Bồ tát ơi, Chúa ơi! Tổ tiên nhà Thượng Quan toàn những anh hùng hảo hán, cắn sắt ngậm gang, mà sao lại đẻ ra phường giá áo túi cơm như thế này?
Ông Phúc Lộc cúi xuống bên con lừa, giơ hai cánh tay khẳng khiu như tay con trai, nắn bóp bụng con lừa đang co giật Thọ Hỉ ngồi đối diện với ông, phía bên kia của con lừa. Hai cha con ngoảnh mặt vào nhau, cùng trề môi, cùng nhăn răng, y hệt một cặp không ai tồi tệ hơn ai. Cha nhổm lên thì con cúi xuống, cha cúi xuống thì con nhổm lên, giống chơi trò bập bênh. Theo đà bập bênh, bốn tay cùng vờ vĩnh xoa nắn. Hai cha con đều yếu ớt, nhẹ như bấc, mềm như bông, vờ vịt qua quít cho xong việc. Bà Lã đứng phía sau buồn bã lắc đầu, giơ bàn tay chẳng khác chiếc kìm sắt chộp lấy cổ chồng xách sang một bên, tặc lưỡi:
- Xéo, tránh rả - Rồi khẽ dúi một cái, Phúc Lộc loạng choạng nhào ra tận góc phòng, phủ phục trên bao tải thức ăn gia súc.
- Đứng dậy! - Bà Lã quát con trai - - Chỉ tổ vướng chân vòng tay người ta, ăn đói nhịn khát gì đâu mà cứ như phủi bụi? Trời ơi, sao số tôi khổ thế này! - Thọ Hỉ như được phóng thích, bật dậy chạy đến chỗ chạ Hai cha con chớp chớp cặp mắt đen, chẳng ra giảo hoạt, chẳng ra ngây dại. Lúc này, tiếng rao của Tư Mã Đình lại ởăng tới, cha con Thọ Hỉ như mót đái, mót ỉa, nhấp nhổm không yên.
Bà Lã quì cả hai gối trước con lừa, hoàn toàn không để ý nền nhà rất bẩn. Nét mặt trang nghiêm, bà xắn tay áo xoa xoa bàn tay thô ráp nghe như cọ gót giày vào nhau. Bà áp một bên má vào bụng lừa, mắt lim dim nghe ngóng. Rồi, bà vuốt ve đầu con lừa, giọng thông cảm:
- Lừa ơi, bằng mọi giá phải đẻ bằng được, đàn bà con gái chúng ta không ai tránh được vượt cạn.
Sau đó, bà khoát chân qua bụng lừa, hai tay đặt song song trên bụng lừa như người ta bào gỗ, rồi dùng sức đẩy miết. Con lừa cất tiếng rên, bốn chân đang co quắp duỗi dài ra, bốn móng rung lên bần bật như gõ vào chiếc trống vô hình. Con lừa vươn dài cổ trong khoảng không, dừng lại một lát rồi nặng nề đổ xuống, phát ra một tiếng bịch.
- Lừa ơi, kiên nhẫn nhé! Ai bảo ta là đàn bà? Cắn răng lại, gắng lên!...
Bà thì thầm với con lừa, hai tay thu lại trước ngực, rồi dồn sức lấy hơi, lại đẩy tiếp. Con lừa quẫy đạp, mũi sủi bọt vàng, đầu quật bình bịch. Phía sau, nước đái và phân lừa bắn tung tóe. Cha con Phúc Lộc sợ hãi bung mặt.
- Bà con ơi, quân kỵ của Nhật đã xuất phát từ huyện lỵ. Tin chuẩn xác đấy, không dựng chuyện đâu! Chạy đi, còn nấn ná là không kịp!...
Cha con nhà Thượng Quan giương mắt nhìn bà Lã đang cúi đầu thở dốc bên con lừa. Mồ hôi ướt đẫm chiếc áo cánh trắng, lộ rõ những đường nét rắn rỏi trên cơ thể bà. Phía duỗi mông lừa là một bãi máu tươi, một chiếc chân lừa xinh xắn ló ra từ âm đạo. Chiếc chân lừa như một sự giả tạo, như có một người nào đó chơi ác, cắm vào.
Bà Lã lại áp bên má co giật dữ dội vào bụng lừa nghe ngóng hồi lâu. Thọ Hỉ thấy sắc mặt của mẹ như một quả hạnh chín nẫu, màu vàng rộm. Lời cảnh báo của Tư Mã Đình cứ lượn đi lượn lại chẳng khác ruồi nhặng đánh hơi thấy mùi tanh, đập vào tường, bám trên thân lừa.
Thọ Hỉ run lên bần bật như cảm thấy tai họa sắp xảy ra. Anh ta định bỏ chạy nhưng lại sợ. Anh ta mang máng hiểu rằng, ra khỏi nhà là rơi vào tay bọn giặc lùn - những tên Nhật nhỏ thó, chân tay ngắn ngủn, mũi củ hành, mắt như lục lạc, ăn gan uống máu người không tanh, và bị chúng ăn thịt luôn, không chừa một mẩu xương. Bây giờ thì chắc chắn chúng đã từng đàn từng lũ trong ngõ nhà mình đuổi bắt đàn bà con trẻ, lại còn biết đánh gót xuống đất, mũi thở phì phì như ngựa chiến. Anh ta liếc sang phía bố để tìm sự an ủi và để lấy lại niềm tin, nhưng chỉ thấy sắc mặt của bố sạm như màu đất. Ông ngồi trên bao tải, hai tay bó gối, đầu và lưng liên tục đập vào tường. Không hiểu sao, Thọ Hỉ thấy sống mũi cay xè, từ hốc mắt ứa ra hai giọt nước mắt dùng đục.
Bà Lã húng hắng ho, chậm rãi ngửng đầu lên. Bà vuốt ve khuôn mặt con lừa, than thở:
- Lừa ơi, mày sao vậy hả? Mày lẩm cẩm rồi, phải là đầu ra trước chứ?...
Nước mắt ứa ra từ cặp mắt đã thất thần của con lừa. Bà Lã dùng tay lau nước mắt cho nó, hắt hơi một cái rõ kêu, rồi quay lại bảo con trai:
- Đi mời ông ba Phàn. Tao đồng ý bỏ ra hai bình rượu và một thủ lợn! Hừm, việc cần thì không thể tiết kiệm. Đi mời đi!
Thọ Hỉ rúm người lại, dưa mắt kinh hoàng nhìn ra ngoài, miệng lắp bắp:
- Ngoài ngõ đầy quân Nhật, toàn là quân Nhật...
Bà Lã điên tiết đứng dậy sang phòng bên mở toang cổng. Làn gió tây nam mang theo mùi thơm của tiểu mạch xuân, xộc vào trong nhà. Ngõ vắng tanh. Một đàn bướm bay chấp chới ngang qua, để lại trong tâm trí Thọ Hỉ ấn tượng rạng rỡ về màu sắc của chúng.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 4
Nhà ông ba Phàn, thú y kiêm bà mụ của súc vật ở tận đầu thôn, phía đông, nơi khởi đầu của vạt đất hoang chạy dài về phía dông nam, sát bờ sông Mực. Sau nhà là con đê cao cao của sông Thuồng Luồng, dài hàng trăm dặm. Bị mẹ thúc ép, Thọ Hỉ phải ra khỏi nhà, sợ đến rủn đầu gối. Anh trông thấy mặt trời sáng lòa phía trên rừng cây, những tấm kính màu của nhà thờ rục rỡ, và trên cùng tầm cao với tháp chuông nhà thờ là đài quan sát, ông chủ Phúc Sinh Đường đang nhảy như con choi choi trên đó, vừa lớn tiếng thông báo quân Nhật sắp vào thôn, giọng đã bắt đầu khản đặc.
Một số người nhàn rỗi đứng khoanh tay, ngẩng mặt lên nhìn. Thọ Hỉ dừng lại ở đầu ngõ, phân vân lựa chọn lối đi đến nhà ba Phàn. Có hai đường đến nhà ba Phàn: một đường qua phố lớn; một đường đi dọc theo con đệ Đi đường đê thì sợ đánh động đàn chó đen nhà họ Tôn. Ngôi nhà cũ kỹ của nhà họ Tôn nằm ở phía bắc của con hẻm, có tiếng vây thấp, mặt trăng sạt lở mấy chỗ nhẵn bóng, thường xuyên có lũ gà đậu ở đó. Chủ nhà họ Tôn là Tôn Đại Cô, chỉ huy năm thằng cháu trai đều câm. Cha mẹ chúng như chưa hề tồn tại trên đời. Chúng trèo qua tương, trèo đi trèo lại thành năm chỗ lõm hình yên ngựa. Chúng ngồi nối đuôi như cưỡi ngựa trên các vết lõm. Tay gậy tay cung, hoặc những thanh kiếm gỗ, chúng giương những cặp mắt đầy lòng trắng, chăm chú dõi theo những người hoặc động vật đi qua ngõ. Chúng tương đối lịch sự đối với người, nhưng tuyệt đối không lịch sự với súc vật, bất kể là trâu bò hay mèo chó, ngan ngỗng hay gà vịt, chỉ cần phát hiện ra là đuổi kỳ cùng. Chúng dẫn theo đàn chó, biến thôn xóm thành bãi săn. Năm ngoái, chúng hè nhau giết chết con la sổng chuồng to bự của nhà Phúc Sinh Đường, lột da xẻo thịt giữa đường phố đông đúc. Mọi người chờ đợi màn kịch sẽ xảy ra: Phúc Sinh Đường là đại gia, có chú bác làm đến Trung đoàn trưởng, trong nhà nuôi cả đội súng ngắn. Ngang nhiên làm thịt la của nhà họ, chẳng khác tự tìm lấy cái chết.
Nhưng ông Hài nhà Phúc Sinh Động là Tư Mã Khố, một con người bắn giỏi như thần, có miếng bớt bằng bàn tay trên mặt - không những không rút súng ra, mà còn thưởng cho năm anh em nhà câm năm đồng bạc trắng.
Từ đó, lũ trẻ câm càng ngạo ngược, súc vật mà gặp chúng, chỉ tiếc không mọc thêm đôi cánh. Khi chúng cưỡi trên tường, năm con chó mục đen tuyền uể oải nằm dưới chân, mắt lim dim như đang mơ ngủ. Lũ trẻ câm nhà ho Tôn cùng đàn chó của chúng đều có thành kiến sâu sắc với Thọ Hỉ ở cùng ngõ. Thọ Hỉ không hiểu vì sao, ở đâu và từ khi nào đắc tội với đám yêu tinh này. Chỉ cần gặp cảnh người trên tường, chó dưới chân là Thọ Hỉ biết mình săp gặp vận đen, mặc dù mỗi lần đi qua, Thọ Hỉ đều mỉm cười với lũ câm, nhưng vẫn không tránh khỏi đàn chó lao như tên bắn, xông ra tập kích, dù chỉ là hù dọa, da thịt không bị đớp miếng nào, nhưng vẫn khiến anh ta bị một phen khiếp hãi, cứ nghĩ đến là lại rùng mình. Thọ Hỉ định đến nhà ông ba Phàn bằng con đường lớn xuyên ngang thị trấn, nhưng theo con đường lớn tất phải đi qua trước cửa nhà thờ, mà lúc này, ở đó có ông mục sư Malôa to lớn, tóc đỏ mắt xanh, đang ngồi xổm vắt sữa dê dưới gốc cây hoa gạo tây với thân cành đầy gai cứng. Hai bàn tay ông đỏ au đầy lông mịn màu vàng vuốt trên bầu vú căng mọng của con dê cái già dưới cằm có ba chòm râu. Những tia sữa màu trắng xanh vọt thành tiếng trong chiếc chậu tráng men han gỉ. Từng đàn từng lũ nhặng xanh đầu đỏ bay vòng quanh mục sư Malôa và con dệ Mùi hăng hắc của cây gạo, mùi gây gây của sữa dê, mùi ngầy ngậy của mục sư, quyện vào nhau và tỏa ra dưới ánh sáng mặt trời, ô nhiễm cả nửa đường phố. Thọ Hỉ không chịu nổi cái nhìn lườm lườm đầy ác cảm của ông mục sư, mặc dù nét mặt ông cố tỏ ra thân thiện với nụ cười thông cảm. Vì là cười mỉm, nên ông mục sư hé môi, để lộ hàm răng trắng lóa, bàn tay hộ pháp bẩn thỉu làm dấu trên bộ ngực đầy lông lá, A men! Khi ấy, Thọ Hỉ chỉ thấy ruột gan lộn tùng phèo, một tình cảm khó tả, khiến Thọ Hỉ cụp đuôi bỏ chạy như chó. Tránh đàn chó dữ của lũ trẻ câm là vì sợ. Tránh mặt mục sư Malôa và con dê của ông ta là vì ghét. Càng đáng giận hơn là vợ Thọ Hỉ có cảm tình đặc biệt với ông tóc đỏ này. Cô ta là tín đồ trung thành của ông. Ông là Thượng đế của cô.
Cân nhắc kỹ, Thọ Hỉ quyết định đi lên phía bắc rồi quặt sang đông đến nhà ông ba Phàn, mặc dầu quang cảnh ở chỗ tháp canh rất hấp dẫn. Ngoại trừ trên tháp canh Tư Mã Đình nhảy nhót như khỉ, trong thôn vẫn bình thường. Thế là tâm trạng sợ Nhật tan biến, Thọ Hỉ phục sát đất khả năng phán đoán của mẹ. Để phòng thân, anh ta nhặt hai cục gạch cầm tay, nghe rõ tiếng lừa rống rất to trên phố và tiếng gọi con của một người đàn bà nào đó.
Đi qua nhà họ Tôn, Thọ Hỉ sung sướng khi thấy trên tường vắng tanh, khống có lũ trẻ câm cưỡi trên những chỗ lõm, đàn gà cũng không, đàn chó cũng không nằm mơ dưới chân tường. Tường nhà họ Tôn vốn rất thấp, những chỗ lõm lại càng thấp, Thọ Hỉ dễ dàng nhìn vào trong sân, thấy ở đó đang diễn ra một cuộc đại tàn sát! Kẻ bị giết là những con gà cao ngạo, kẻ ra tay tàn sát là bà nội của lũ câm, một người đàn bà võ nghệ cao cường, mọi người gọi bà là Tôn Đại Cộ Nghe nói Tôn Đại Cô hồi trẻ có phép khinh công, là một tay cự phách trên chốn giang hồ, sau vì phạm trọng tội, phải hạ mình lấy anh thợ đắp lò họ Tôn. Thọ Hỉ trông thấy trong sân đã có bảy con gà bị giết. Trên nền đất phẳng phiu ngả màu trắng, vương đầy những vòng tròn của vết máu gà. Đó là những con gà giẫy giụa trước khi chết. Lại một con gà nữa bị cắt cổ. Tôn Đại Cô quăng nó ra sân. Con gà nằm xạ, nhảy như choi choi thành một vòng tròn. Năm thằng câm đều cởi trần, ngồi xổm giương mặt nhìn những con gà xoay tròn giẫy chết, thỉnh thoảng lại nhìn bà nội tay cầm con dao sắc lẹm. Nét mặt, cử chỉ của chúng giống nhau đến kinh khủng, ngay cả đến cái đảo mắt hình như đều thống nhất từ một hiệu lệnh. Tôn Đại Cô là người nổi tiếng ở thị trấn, thực ra chỉ là một bà già, mặt mỏng mà đanh. Khuôn mặt bà, sắc thái của bà, tầm cao và phong cách của bà, đều nói lên dĩ vãng, người ta có thể đoán được vẻ đẹp của bà xưa kia. Năm con chó ngồi chụm một chỗ, đầu nghểnh lên, ánh mắt đầy bí hiểm và hoang dại, không ai đoán nổi chúng đang nghĩ gì?
Quang cảnh trong sân nhà họ Tôn như một trò chơi đầy ma lục, Thọ Hỉ như bị hút chặt, không rời mắt và cũng không muốn bỏ đi. Anh ta quên hết mọi sầu não, quên luôn ca mệnh lệnh của mẹ. Người đàn ông nhỏ thó bốn mươi hai tuổi này, qua đầu tường nhìn vào sân, anh ta cảm thấy ánh mắt sắc lạnh của Tôn Đại Cô nhìn về phía mình như một lưỡi gươm, sắc như nước, mạnh như gió, hầu như có thể phạt rơi đầu mình. Bọn trẻ câm và lũ chó của chúng cũng nhìn ra. Mắt bọn trẻ cũng lóe lên những tia tinh nghịch, chúng đang hồi hộp. Lũ chó ngoẹo đầu, nhe hàm răng sắc nhọn, gầm gừ trong họng, đám lông cứng trên gáy dựng ngược. Năm con chó như năm mũi tên đã đặt trên dây cung, sẵn sàng lao ra bất cứ lúc nào. Thọ Hỉ đã định bỏ chạy, chợt nghe thấy Tôn Đại Cô dặng hắng một tiếng, những nét mặt đang hoan hỉ của lũ câm bỗng ỉu xìu, đàn chó tỏ ra phục tùng, duỗi dài chân trước, nằm bẹp xuống. Thọ Hỉ nghe thấy Tôn Đại Cô hỏi, giọng dịu dàng:
- Thằng cả nhà Thượng Quan đấy hả? Mẹ cháu đang làm gì ở nhà!
Thọ Hỉ không biết nhất thời trả lời câu hỏi của Tôn Đại Cô như thế nào, lời lẽ đã trào lên khóe miệng, nhưng y hệt một tên trộm bị bắt quả tang.
Tôn Đại Cô thản nhiên mỉm cười, không hỏi gì thêm. Bà ta chộp lấy con gà sống cuồng có bộ lông đuôi màu đen pha dỏ với những chiếc lông mịn màng như nhung. Con gà sợ hãi kêu cùng cục. Bà nhổ sạch túm lông đuôi của con gà, bỏ vào cái bị cói. Con gà trống quẫy đạp điên cuồng, cặp móng sắc hất tung từng đám đất. Tôn Đại Cô hỏi:
- Bọn trẻ nhà cháu biết đá cầu lông không? Lông đuôi gà nhổ khi còn sống, làm cầu lông thì khỏi nói! Ôi, lại nhớ ngày nào...
Bà nhìn chằm chằm vào mặt Thọ Hỉ rồi ngừng bặt không nói nữa, chìm trong một trạng thái đờ đẫn. Mắt bà như dính vào một điểm trên tương, như muốn nhìn xuyên qua bức tường. Thọ Hỉ nhìn bà không chớp, không dám thở mạnh. Cuối cùng, bà như một quả bóng xì hơi, ánh mắt sáng rục trở lại dịu dàng, xa vắng. Bà dùng chân chặn lên đôi chân con gà trống, kẹp đôi cánh gà vào hổ khẩu bàn tay trái, ngón cái và ngón trỏ thì kẹp lấy cổ gà. Con gà không động cựa. Bà dùng ngón cái và ngón trỏ vặt lông ở cổ gà, lộ ra một mảng da màu đỏ tía.
Bà cong ngón giữa búng búng chỗ cổ con gà đã vặt lông. Rồi bằng con dao lá liễu sắc như nước, bà nhẹ nhàng khứa một nhát. Những giọt máu đỏ sẫm, giọt to nối tiếp giọt nho phóng ra... Tôn Đại Cô giơ con gà đầy máu lên, chậm rãi đứng dậy nhìn xung quanh như tìm kiếm vật gì ánh nắng rực rỡ khiến bà lim dim mắt. Thọ Hỉ đầu óc quay cuồng. Mùi hoa hòe xộc vào mũi- Này! Thọ Hỉ nghe thấy bà Tôn Đại Cô nói vậy. Con gà sống lộn một vòng trong không khí rồi rơi xuống giữa sân. Thọ Hỉ thở dài nhẹ nhõm, vô tình rời tay khỏi mép tường. Lúc này anh ta mới nhớ tới chuyện phải đi mời ông ba Phàn đến đỡ đẻ. Chính lúc anh ta sắp sửa bỏ đi, thì như có phép lạ, con gà trống xòe hai cánh đỡ lấy thân, đứng lên đầy vẻ bất khuất. Nó đã bị vặt trụi lông đuôi, chiếc phao câu trần trụi cong lên, trông vừa xấu xí vừa quái đản, khiến Thọ Hỉ vô cùng kinh hãi. Ở chỗ cổ con gà lồi ra một cục thịt, máu me đầm đìa. Nó không giữ nổi cái mào vĩ đại trên đầu, cái mào trước đây màu đỏ tươi, nay đã xám ngoét. Nhưng nó vẫn gắng ngẩng đầu lên, lên chút nữa, ngừng lại, rồi lại lên nữa, rồi gục xuống. Con gà lắc lư cái đầu chống đít xuống đất, máu sủi bọt ứa ra hai bên mép và ở nhát cắt trên cổ. Mắt nó như hai đốm lửa màu vàng. Tôn Đại Cô có vẻ bồn chồn. Bà ta lấy cỏ khô lau tay, miệng chuyển động như đang nhai, nhưng thực ra bà chẳng ăn gì cả. Đột nhiên, bà nhổ một bãi nước bọt, quát với lũ trẻ câm:
- Cút!
Thọ Hỉ ngã ngồi xuống đất.
Khi anh ta vịn vào tường để đứng lên thì lông gà đã bay lung tung trong sân nhà họ Tôn. Con gà sống cuồng đã bị lũ chó xé tan xác, máu thịt vương vãi khắp sân. Lũ chó dữ như dàn sói, tranh nhau ăn bộ lòng của con gà. Lũ trẻ câm vỗ tay cười ngớ ngẩn. Tôn Đại Cô ngồi trên bậu cửa, hút thuốc bằng tẩu cán dài, vẻ đăm chiêu.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 5
Bảy con gái nhà Thượng Quan: Lai Đệ, Chiêu Đệ, Lãnh Đệ, Tưởng Đệ, Phán Đệ, Niệm Đệ, Cầu Đệ (#1) bị cuốn hút bởi một mùi thơm thoang thoảng.
Chúng từ chỗ ngủ ở chái đông ùa ra, chụm đầu nhìn vào trong cửa sổ. Chúng trông thấy mẹ nửa nằm nửa ngồi trên giường, đang bóc lạc như không có chuyện gì xảy ra. Nhưng mùi thơm thoang thoảng rõ ràng là từ cửa sổ buồng mẹ bay ra. Cô lớn mười tám tuổi Lai Đệ là người đầu tiên hiểu ra mẹ đang làm gì. Cô trông thấy mẹ tóc ướt đẫm mồ hôi, môi dưới bật máu, bụng mẹ co thắt dữ dội và nhặng xanh bay đầy phòng. Tay mẹ bóp nát từng hạt lạc. Lai Đệ nức nở gọi mẹ. Sáu đứa em gái cũng gọi theo. Nước mặt chảy dài trên khuôn mặt bảy đứa. Cầu Đệ, đứa nhỏ nhất thì gào tướng lên, dẫm bành bạch đôi chân lấm tấm những vết đỏ vì bị bọ chó và muỗi đốt lập cập chạy vào buồng mẹ. Lai Đệ chạy theo giữ em lại rồi thuận tay bế nó lên. Cầu Đệ gào khóc, đấm vào mặt chị.
- Em vào với mẹ cơ... Em vào với mẹ cơ!...
Lai Đệ cảm thấy sống mũi cay xè, nước mắt nóng hổi tràn lên má. Cô vỗ nhẹ vào lưng em gái, nựng:
- Em đừng khóc nữa, mẹ sẽ đẻ cho em một em trai thật bụ bẫm, thật trắng trẻo!...
Trong buồng vọng ra tiếng rên yếu ớt và câu nói đứt quãng của chị Lỗ:
- Lai Đệ con bảo các em đi nơi khác! Chúng nó còn nhỏ không hiểu gì, chẳng lẽ con cũng không hiểu sao? Một tiếng động vang lên trong buồng, cùng với tiếng gào to của chị Lỗ. Năm đứa trẻ đứng chen chúc ngoài cửa sổ. Lãnh Đệ mười bốn tuổi khóc thét lên:
- Mẹ Ơi, mẹ!
Lai Đệ đặt đứa em xuống, chạy ra ngoài bằng đôi chân đã bó nhưng sau được giải phóng. Ngưỡng cửa mục làm em bị vấp, ngã chúi về phía trước, đè lên chiếc bễ thổi lửa. Chiếc bễ đổ kềnh, làm vỡ vụn chiếc thố men xanh đụng thức ăn cho gà. Lai Đệ hốt hoảng đứng dậy, thấy bà nội đang quì trước bàn thờ Phật. Khói hương tỏa quanh bức tượng Quan âm.
Lai Đệ run bắn lên. Cô dựng lại chiếc bễ, cuống quít nhặt nhạnh những mảnh vỡ, làm như bằng cách đó, chiếc thố có thể lành lại hoặc giảm nhẹ lỗi lầm của mình. Bà nội đứng vụt dậy, to lớn như một con ngựa nòi, thân hình lắc lư, đầu giật giật, miệng tuôn ra hàng tràng những câu khó hiểu. Lai Đệ co rúm người lại theo bản năng, hai tay ôm đầu, chờ đợi. Nhưng bà nội không đánh cô, chỉ xoắn vành tai mỏng và trăng bệch của cô, rồi dúi một cái. Cô ngã lăn ra trên lối đi trải đầy những mảnh ngói vỡ trong sân.
Cô trông thấy bà nội cúi xuống quan sát những mảnh thố vỡ, y hệt con trâu đang chuẩn bị uống nước ở bờ sông. Bà nội nhặt mấy mảnh vỡ trên tay, gõ chúng vào nhau thành những tiếng vui tai. Những vết nhăn sâu và dầy đặc trên khuôn mặt bà nội, hai mép trễ xuống, nếp nhăn hai bên kéo dài xuống tận dưới cằm, khiến cái cằm như một bộ phận khác gắn thêm vào mặt.
Lai Đệ nhân đó quì trên lối đi, vừa khóc vừa nói:
- Bà ơi, bà đánh chết cháu đi!
- Đánh chết mày hả? - Bà Lã mặt buồn rười rượi - Đánh chết mày thì cái thố có lành lại được không? Đây là đồ sứ từ năm Vĩnh Lạc triều Minh, của hồi môn từ đời cụ tổ nhà này, đáng giá một con la chứ ít đâu!
Lai Đệ mặt trắng bệch, xin bà nội tha tội.
- Mày cũng đã đến lúc đi lấy chồng rồi đấy! - Bà Lã thở dài - Sáng tinh mơ, việc thì không làm, chỉ nghịch tinh! Số mẹ mày là cái số nghèo, chết thế nào được?
Lai Đệ Ôm mặt khóc.
- Đánh vỡ đồ dùng lại còn kể công chắc? - Bà Lã không bằng lòng, nói - Đừng có ở đấy mà quấy rầy người tạ Dẫn lũ em ăn bám của cô ra sông mò tôm. Không đầy giỏ thì đừng có về nhà!
Lai Đệ vội vàng đứng dậy, bế Cầu Đệ lên, chạy ra cổng.
Như đuổi gà, bà Lã dồn lũ trẻ ra cổng rồi quẳng cho Lãnh Đệ chiếc giỏ cao cổ đan bằng nhành liễu.
Lai Đệ tay trái bế Cầu Đệ, tay phải dắt Niệm Đệ, Niệm Đệ dắt Tưởng Đệ, Tưởng Đệ lôi Phán Đệ. Lãnh Đệ một tay dắt Phán Đệ, tay kia xách giỏ. Bảy đứa con gái nhà Thượng Quan dắt díu nhau, nức nở sùi sụt, men theo con hẻm đầy nắng và lộng gió, đi về phía đê sông Thuồng Luồng.
Khi đi qua nhà Tôn Đại Cô, mùi thơm điếc mũi khiến chúng thèm rỏ rãi. Chúng trông thấy ống Khói nhà họ Tôn cuồn cuộn khói trắng. Năm thằng câm cần cù như những con kiến, chuyển củi vào trong nhà. Đàn chó mục nằm gác bên cổng. Chúng thè cái lưỡi đỏ chót như đang chờ đợi điều gì đó.
Lũ con gái trèo lên con đê cao cao trên sông Thuồng Luồng, quang cảnh nhà họ Tôn thu hẹp trong tầm mắt. Năm thằng câm đã phát hiện ra chị em nhà Thượng Quan. Thằng lớn để ria mép loăn xoăn, mỉm cười với Lai Đệ. Lai Đệ vụt đỏ mặt. Cô nhớ lại cách đây không lâu khi đi lấy nước sông, thằng câm lớn đã quẳng vào thùng nước của cô một quả dưa chuột. Nụ cười mỉm của thằng câm tuy trơ trẽn nhưng không có ác ý. Lần đầu tiên tim cô đập dữ dội, máu dồn lên mặt. Nghiêng mình xuống mặt nước phẳng như guồng, cô thấy mặt mình đỏ ửng. Sau đó cô ăn quả dưa chuột, mùi vị của nó đến bây giờ vẫn không thể quên. Đưa mắt nhìn lên, cô trông thấy lầu chuông rục rỡ của nhà thờ và cái tháp canh được ghép bằng những cây gỗ tròn. Một người dàn ông nhảy nhót trên đó như con khỉ, gào lớn:
- Bà con ơi, kỵ binh Nhật đã ra khỏi thành!
Một đám người tụ tập dưới chân tháp nhìn lên. Người trên tháp chốc chốc lại cúi xuống, tay bám lan can, hình như để trả lời người đứng dưới. Trả lời xong, nguội đó lại đứng thẳng lên, đi vòng quanh, hai tay chụm lại làm loa, quay ra bốn phía thông báo tình hình quân Nhật sắp sửa kéo đến.
Trên con đường xuyên xã, chợt có một cỗ xe ngựa phi nước đại. Cỗ xe như từ trên trời rơi xuống. Ba con tuấn mã kéo cỗ xe bánh cao su, mười hai vó ngựa băm trên đường như gõ nhịp, cộc cộc cộc cộc, bụi tung lên thành một vệt vàng. Một con màu vàng mơ, một con đỏ như quả táo một con màu trắng đục. Ba con ngựa béo mọng như được nặn bằng sáp, mình ngựa bóng nhẫy, màu lông khi ùn người mê mẩn. Một người đàn ông nhỏ con đứng dạng chân sau dõng xe, trông xa tưởng anh ta ngồi trên mông ngựa. Anh ta vung chiếc roi ngựa có ngù đỏ, miệng quát: Hây hây, roi lia vút vút. Anh bất chợt gò cương, những con ngựa như đứng thẳng lên, xe dừng lại như bị chặn đứng, đám bụi vàng ào lên phía trước, che khuất cả người ngựa và xe. Khi bụi tan đi, Lai Đệ trông thấy đám gia nhân nhà Phúc Sinh Động khuân từng vò rượu, từng bó củi lên xe. Một người đàn ông vạm vỡ đứng trên tam cấp ngoài cổng Phúc Sinh Đường, đang quát tháo. Một vò rượu rớt xuống đất, một tiếng bịch nặng nề vang lên, chiếc nút bằng bong bóng lợn bắn ra, rượu chảy tràn ra đường. Mấy gia nhân lao tới dựng vò rượu lên. Người đàn ông vạm vỡ từ trên bậc tam cấp nhảy xuống, vung roi đánh mấy người kia, chiếc roi uốn lượn như một con rắn dưới ánh năng mặt trời. Mùi rượu theo gió bay tới. Cánh đồng mênh mông, lúa mạch cuồn cuộn từng đợt sóng vàng. Trên đỉnh tháp, người đàn ông lại hét to:
- Chạy đi bà con ơi, chậm là mất mạng đấy!
Rất nhiều người ra khỏi nhà, tíu tít bận rộn như một đàn kiến, và cũng chẳng việc nào ra việc nào như đàn kiến. Người thì di, người chạy, người đứng yên bất động, người chạy đông, người chạy tây, người loay hoay tại chỗ, ngó hết chỗ này ngó chỗ khác. Lúc này, mùi thơm trong nhà họ Tôn càng đậm, làn hơi trắng ra ngoài cổng. Lũ trẻ câm im hơi lặng tiếng, mảnh sân im lìm, chỉ có từng chiếc xương trong nhà quẳng ra, khiến lũ chó mực tranh nhau quyết liệt. Con nào cướp được thì chúi đầu vào xó tường nhai rau ráu. Con nào không cướp được thì đỏ mắt nhìn vào trong nhà, gầm gừ rên rỉ.
Lãnh Đệ kéo tay Lai Đệ nói:
- Chị Ơi, về nhà!
Lai Đệ lắc đầu, nói:
- Không được, phải xuống sông bắt tôm đã. Mẹ sinh em bé, cần có canh tôm để ăn.
Chúng dìu nhau xuống chân đê, cả bọn đi thành hàng một, mặt hướng ra sông. Dòng sông in rõ những gương mặt thanh tú của các cô gái nhà Thượng Quan, cô nào cũng sống mũi cao, vành tai đầy đặn và trắng. Đây cũng là đặc trưng rõ nét của chị Lỗ - mẹ chúng. Lai Đệ rút trong túi ra một chiếc lược bằng gỗ hồ đào, lần lượt chải cọng rơm và bụi trên tóc cho từng đứa em, đứa nào đứa ấy kêu oai oái. Cuối cùng, Lai Đệ chải tóc cho mình, tết thành chiếc đuôi sam to tướng, thả sau lưng vừa chấm mông. Cô bỏ chiếc lược vào túi, xắn quần, lộ rõ cặp đùi thon thả, trắng bóc. Tiếp theo, cô tụt giày, đôi giày bằng nhung xanh lục. Các em nhìn đôi bàn chân tàn phế một nửa của chị. Cô bỗng nổi cáu:
- Nhìn cái gì? Có gì mà nhìn? Không mò được tôm, bà già không tha cho chúng ta đâu
Các em gái của cô nhanh chóng tụt giày, xắn quần. Cô út Cầu Đệ còn tụt hẳn quần ra. Cô đứng trên bãi sông được phủ một lớp bùn, ngắm nhưng cụm cỏ nước mềm mại lượn lờ theo dòng chảy. Cá nô giỡn trong đám cỏ. Chim én bay như chạm mặt nước. Cô lội xuống sông, nói to:
- Cầu Đệ Ở trên nhặt tôm, tất cả xuống nước!
Các em cô ríu rít lội xuống sông.
Cô cảm thấy, do bó chân, nên gót chân phát triển hơn mức bình thường của cô lún sâu xuống bùn. Những lá cỏ nước mơn trớn bắp chân, khiến cô cảm thấy buồn buồn, một cảm giác khó diễn tả. Cô cúi xuống, hai tay rà sát gốc những cụm cỏ nước và những dấu chân chưa bị bùn lấp đầy. Lũ tôm rất thích nép mình trong những dấu chân này. Một con vật nhỏ nhảy vọt lên giữa hai tay, cô mùng rỡ, con tôm cong cong, dài bằng ngón tay trỏ, trong suốt, đã bị kẹp giữa hai ngón. Con tôm rất linh hoạt, mỗi sợi râu đều rất đẹp. Cô quăng nó lên bờ, Cầu Đệ rất hỉ hả, vừa reo lên ra nhặt con tôm bỏ vào giỏ.
- Chị Ơi, em bắt được một con
- Chị Ơi, em bắt được rồi!
- Em bắt được rồi!
Cầu Đệ mới hai tuổi, không kham nổi công việc nhặt tôm. Nó bị ngã, ngồi bệt xuống đất mà khóc. Vài con tôm có súc bật khỏe, nhảy xuống sông, lập tức biến mất. Lai Đệ lên bờ xốc em dậy, dắt xuống mép nước, dùng tay rửa bùn trên mông Cầu Đệ. Mỗi lần cô tạt nước, Cầu Đệ lại giật thót một cái, miệng la chí chóe, đôi lúc xen lẫn những câu chửi tục. Lai Đệ phát cho em một cái vào mông, rồi buông ra. Cầu Đệ chạy như bay lên giữa sườn dê bẻ một cái roi, rồi bắt chước một bà già nanh ác, tay cầm roi, mắt vằn lên, lớn tiếng nguyền rủa chị, khiến Lai Đệ không nhịn được chơi.
Các cô gái đã mò đến khúc sông trên, kế cận đầu cầu. Bãi sông sáng lấp lóa. Mấy chục con tôm nhảy tanh tách. Một đứa em kêu lên:
- Chị Ơi! nhặt nhanh lên!
Cô xách giỏ lên, mắng Cầu Đệ:
- Con ranh, về nhà sẽ biết tay!
Rồi cô vui vẻ nhặt những con tôm vào giỏ, nhặt liên tục nên không có thì giờ rầu rĩ.
Cô buột miệng hát, khúc hát mà cô cũng không nhớ rõ học được ở đâu:
- Mẹ là mẹ Ơi, sao mẹ nỡ dứt tình, gả bán con cho anh hàng dầu?
Rất nhanh, cô đuổi kịp các em. Chúng men theo mép nước gần bờ, vai kề vai, cúi lom khom, chổng mông lên trời, cằm gần như chạm nước, hai tay mở ra, áp sát lại, vừa sục sạo vừa tiến lên. Nước sông trở nên đục ngầu sau lưng chúng. Một số cụm cỏ nước bị dứt lá, nổi lên. Mỗi khi chúng đứng thẳng lên là chắc chắn bắt được một con tôm, lúc thì Phán Đệ, lúc Tưởng Đê... Năm đứa em hên tục ném tôm cho chị. Lai Đệ chạy đi chạy lại để nhặt tôm: Cầu Đệ bám sau lưng chị.
Thoáng cái, các cô đã tiến sát cây cầu đá bắc qua sông Thuồng Luồng. Lai Đệ gọi các em:
- Lên đi, lên cả đi! Đầy giỏ rồi! Về nhà thôi!
Các em cô còn tiếc rẻ chưa muốn về, dừng lại trên bãi. Ngón tay chúng trắng bệch vì ngâm nước, chân dính đầy phù sa.
- Chị Ơi, sao hôm nay nhiều tôm thế!
- Chị Ơi, chắc mẹ đã đẻ em bé rồi!
- Chị Ơi, giặc Nhật là gì hở chị? Chúng có ăn thịt trẻ con không?
- Chị Ơi, nhà anh câm giết gà đề làm gì?
- Chị Ơi, sao bà nội cứ mắng bọn em?
- Chị Ơi, em mơ thấy trong bụng mẹ có con cá trạch...
Bọn em gái luân phiên hỏi chị. Cô chẳng trả lời đứa nào cả. Cô chăm chú nhìn chiếc cầu đá ánh lên màu xanh xám. Từ trong thôn, cỗ xe ba ngựa kéo lúc nãy, đang chạy lên cầu.
Anh xà ích người thấp bé gò cương cho ba con ngựa dừng lại. Những con ngựa bực bội gõ móng, tiếng gõ sắc gọn, mặt cầu tóe lửa. Mấy người đàn ông đều cởi trần, thắt lưng da to bản, khóa thắt lưng sáng loáng như bằng vàng. Lai Đệ biết bọn họ. Họ là gia nhân của nhà Phúc Sinh Đường. Họ nhảy xuống xe, dỡ các bó cây cao lương xuống trước, rồi sau đó là các vò rượu, tất cả mươi hai vò. Họ Ôm lấy cổ ngựa, đẩy lùi cả ngựa lẫn xe xuống chỗ bãi đất trống đầu cầu. Lúc này cô trông thấy nhân vật số hai nhà Phúc Sinh Đường - Tư Mã Khố, cưỡi chiếc xe đạp phóng tới. Đây là chiếc xe đạp đầu tiên xuất hiện trên vùng Cao Mật hẻo lánh, do Đức sản xuất, nhãn hiệu IFA, một nhãn hiệu nổi tiếng thế giới. Ông nội Phúc Lộc của cô vì tò mò, nhân lúc không ai để ý, sờ một cái vào tay nắm, khiến Tư Mã Khố trừng mắt. Đó là chuyện mùa xuân năm ngoái. Tư Mã Khố mặc chiếc áo ngoài bằng lụa tơ tằm, quần vải tây màu trắng, bắp chân quấn xà cạp xanh, đi ủng đế trắng. Hai ống quần rộng phồng lên như bơm đầy hơi. Vạt áo vén lên dắt vào thắt lưng. Thắt lưng bằng lụa trắng, bỏ múi dài múi ngắn. Phần trên người mặc gì thì không nhìn thấy. Vai trái đeo chéo một dây da màu nâu, móc giữ một bao da, miệng bao ló ra mẩu lụa đỏ. Chuông xe kêu reng reng, Tư Mã Khố lướt tới như một trận gió. Hắn nhảy xuống xe, bỏ chiếc mũ cói xuống làm quạt, chỗ bớt ở mặt đỏ như miếng tiết.
Hắn lớn tiếng lệnh cho gia nhân:
- Mau lên, đem củi chất lên mặt cầu, tới rượu vào thiêu chết bọn chó đẻ.
Gia nhân tíu tít ôm các bó củi lên cầu, chỉ một lát đã chất cao đến nửa người. Những con côn trùng sống ký sinh trong củi hốt hoảng bò ra, bay loạn xạ, con thì rơi xuống nhóc, làm mồi cho cá, con thì bị chim én đớp.
- Đổ rượu lên củi! - Tư Mã Khố quát to.
Các gia nhân khiêng những vò rượu lên cầu, mở nút, nghiêng vò tưới trên đống củi. Rượu ngon, mùi thơm ngây ngất trên dòng sông. Những bó củi loạt soạt. Rượu chảy tràn ngang mặt cầu, rớt như mưa xuống lòng sông. Nước chảy róc rách dưới chân cầu. Đổ hết mười hai vò, cả cây cầu như tắm bằng rượu. Những bó cao lương khô đã đổi màu. Mép cầu như treo một bức màn bằng rượu. Chùng hút tàn điếu thuốc, cá con dưới sông đã nổi lên trắng xóa.
Các em của Lai Đệ định xuống sông mò cá. Lai Đệ gằn giọng quát:
- Đừng xuống nữa, theo chị về nhà!
Chuyện lạ trên cầu lôi cuốn các em. Chúng đứng yên. Thật ra, cảnh tượng trên cầu cũng cuốn hút Lai Đệ. Cô kéo các em về, nhưng mắt vẫn không rời cây cầu. Tư Mã Khố đứng trên cầu, vẻ đắc ý, vỗ tay bôm bốp, hai mắt rục sáng: Hắn cười hỉ hả. Hắn khoe khoang với bọn gia nhân:
- Diệu kế này chỉ ta mới có thể nghĩ ra! Mẹ kiếp, chỉ có ta mới nghĩ ra. Bọn nhóc Nhật mau mau đến chịu chết!
Bọn gia đinh phụ họa theo. Một gia đinh hỏi to:
- Thưa ông Hai, bây giờ nổi lửa được chưa?
Tư Mã Khố nói:
- Hượm hẵng, đợi chúng đến hãy đốt!
Bọn gia nhân xúm xít vây quanh Tư Mã Khố, đi về phía đầu cầu.
Cỗ xe của Phúc Sinh Đường cũng trở về thôn.
Trên cầu trở lại yên tĩnh, chi còn tiếng rơi tí tách của rượu xuống mặt nước.
Lai Đệ tay xách giỏ, dẫn các em rẽ nhưng bụi cây lúp xúp mọc đầy sườn đê, trèo lên. Đột nhiên, cô nhìn thấy một khuôn mặt đen nhẻm lấp ló trong bụi cây. Cô hoảng hốt kêu lên, chiếc giỏ trong tay rơi xuống, dập dềnh trên những cành quán mộc rồi lăn đến tận mép nước. Tôm trong giỏ văng ra, nhảy trên bãi như những đốm sáng. Lãnh Đệ chạy theo chiếc giỏ còn các em thì nhặt tôm vương vãi trên cát. Lai Đệ đi thụt lùi về phía bờ sông, mắt không rời khuôn mặt đen. Mặt đen cố nở một nụ cười ra vẻ cáo lỗi, hai hàm răng trắng lóa những tia như vỏ xà cừ. Cô nghe thấy người đó nói nhỏ:
- Em gái dừng sợ, chúng tôi là du kích. Đừng nói gì cả, mau rời khỏi chỗ này!
Lúc này cô mới thấy rõ, trong các bụi cây có đến mấy chục người mặt áo xanh. Mặt đanh lại, mắt mở to, có người cầm súng trường, người cầm lựu đạn, người thì đại đao có tua lụa hồng. Ngụm đàn ông răng trắng mặt den, nét mặt vui vẻ, tay phải cầm khẩu súng lục có ánh thép xanh, tay trái cầm một vật phát ra tiếng kêu tích tắc. Sau này, cô mới biết đó là chiếc đồng hồ bỏ túi. Và chính con người mặt đen đó, cuối cùng đã chui vào chăn của cô.
Chú thích:
(1-) Tất cả các tên đều tỏ ý mong có em trai
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 6
Ba Phàn rượu ngà ngà, bước vào cổng nhà Thượng Quan với vẻ không bằng lòng. Quân Nhật sắp đánh đến nơi, con lừa nhà cậu chọn thật đúng lúc! Nói thế nào nhỉ? Lừa nhà cậu, nhưng do ngựa của nhà tôi phối giống, bắn súng phải đền đạn. Cậu mặt dạn mày dầy, cứt, cậu có giữ thể diện đâu mà xấu hổ Tôi là tôi nể mặt mẹ cậu. Mẹ cậu với tôi... hà hà... mẹ cậu rèn cho tôi một cái nạo vó ngựa...
Thọ Hỉ mặt đẫm mồ hôi, bước theo sau ba Phàn.
- Ba Phàn! - bà Lã gầm lên - Đồ gấu chó làm gì mà khệnh khạng thế!
Ba Phàn lấy hết can đảm, nói:
- Ba Phàn đã đến đây rồi!
Vừa trông thấy con lừa nằm dưới đất, ba Phàn đã tỉnh rượu quá nửa.
- Chà chà, đến nông nỗi này kia à!
Lão quăng chiếc túi da trên vai xuống, sờ tai, vỗ vỗ bụng con lừa, lại vòng ra phía đuôi, ấn ấn cái chân lừa con thò ra ngoài âm đạo. Lão đứng thẳng lên, lắc đầu buồn bã, nói:
- Muộn rồi, thế là hết! Năm ngoái, khi con trai bác dắt lừa đến phối giống, tôi có nói là, con lừa nhà cậu thuộc loại tép riu, tốt nhất nên cho phối với lừa, nhưng cậu ta không nghe lời khuyên của tôi, cứ nhất định đòi phối với ngựa! Con ngựa giống nhà tôi là giống ngựa Đông Dương thuần chủng, vó của nó còn lớn hơn đầu lừa nhà bà. Nó mà nhảy, lừa nhà bà xụm ngay, chẳng khác gà trống nhảy chim sẻ! Cũng chính là con ngựa giống của tôi được dạy dỗ tốt, nên nó nhắm mắt lại mà phủ con lừa, phải là con ngựa khác thì, cứt! Thế nào? Không đẻ được hả? Con lừa nhà bà không phải là loại đẻ ra la, lừa nhà bà chỉ có thể đẻ ra lừa!...
- Ba Phàn, có im đi không nào! - Bà Lã cắt ngang lời lão
- Xong rồi, nói xong rồi!
Lão vớ lấy cái túi da khoác lên vai, trở lại trạng thái say rượu, dình bỏ ra về. Bà Lã túm lấy cánh tay lão, nói:
- Ba Phàn, bỏ đi như vậy mà được à?
Ba Phàn cười:
- Bà chị Ơi, bà chị không nghe thông báo của lão Phúc Sinh Đường sao? Thôn xóm chạy sạch rồi! Lừa hay tôi quan trọng hơn.
Bà Lã nói:
- Ông Ba này, ông sợ tôi để ông thiệt, đúng không? Hai bình rượu ngon, một thủ lợn béo, ông không thiệt! Nhà này tôi là chủ.
Ba Phàn ngó cha con nhà Thượng Quan, cười:
- Tôi biết, chị giữ chân kìm của lò rèn, đàn bà cởi trần quai búa tạ, thì cả Trung Quốc mới có chị là một! Sức ấy mà...
Lão cười ranh mãnh. Bà Lã phát cho lão một cái, nói:
- Đồ ôn dịch! Anh Ba đừng đi. Gì thì cũng là hai sinh mạng! Ngựa giống là con trai của anh, con lừa này là con dâu của anh, con la trong bụng nó là cháu nội anh. Anh trổ tài, nó sống thì cảm ơn anh, thưởng cho anh; nó chết, không trách anh, mà chỉ trách tôi kém phúc!
Ba Phàn đâm ra khó xử, nói:
- Bà chị bắt tôi phải thông gia với lừa ngừa, tôi còn gì để nói nữa? Thử chữa lợn què thành lợn lành xem sao!
- Phải rồi. Anh Ba này, đừng nghe lão Tư Mã điên nói bậy. Bọn Nhật đến nơi khỉ ho cò gáy này làm gì? Vả lại, anh làm là làm việc phúc đức. Ma quỉ cũng tránh người hiền nữa là... ?
Ba Phàn mở túi da, lấy ra một lọ chất nước màu xanh, nói:
- Đây là thần được gia truyền, chuyên trị gia súc đẻ khó. Dùng thuốc này mà vẫn không đẻ thì đến Tôn Ngộ Không sống lại cũng đành bó tay! - Các cha - lão gọi cha con Phúc Lộc - Lại dây giúp một tay!
Bà Lã nói:
- Để tôi! Lão ta vụng về lắm!
Ba Phàn nói:
- Nhà Thượng Quan gà mái gáy, gà sống không đẻ trứng!
Phúc Lộc nói:
- Chú Ba, muốn chửi thì cứ chửi thẳng, đừng cạnh khóe làm gì!
Ba Phàn nói:
- Cáu hả?
Bà Lã nói:
- Đừng múa mép nữa. Nói xem làm gì bây giờ?
Ba Phàn đáp:
- Nâng đầu lừa lên, cho nó uống thuốc!
Bà Lã đứng dạng chân, nín thở, nâng đầu lừa lên. Cái đầu cựa quậy mũi thở phì phì.
- Cao nữa lên! - Ba Phàn nói to.
Bà Lã lại cố nâng cao nữa, mũi bà cũng thở phì phò. Ba Phàn khó chịu nói:
- Cha con ông chết cả rồi hay sao?
Bố con Phúc Lộc sán lại, suýt nữa dẫm phải chân lừa. Bà Lã trừng mắt. Ba Phàn lắc đầu. Cuối cùng cũng nâng được đầu lừa lên cao. Con lừa bập bập cặp môi dầy, nhe răng ra. Ba Phàn dùng cái phễu bằng sừng trâu, rót thuốc vào miệng lừa rồi bảo:
- Xong rồi! Đặt xuống!
Bà Lã thở hồng hộc.
Ba Phàn rờ rẫm nhét thuốc vào tẩu, ngồi xổm đánh diêm châm thuốc, rít một hơi thật sâu. Hai làn khói trắng thở ra từ hai lỗ mũi. Lão nói:
- Bọn Nhật đã chiếm huyện ly, giết Huyện trưởng Trưởng Duy Hán, cưỡng hiếp vợ Ông ta!
Bà Lã hỏi:
- Lại là tin từ nhà Tư Mã phải không?
Ba Phàn đáp:
- Không. Người anh em kết nghĩa của tôi nói vậy. Nhà lão ở Cửa Đông.
Bà Lã nói:
- Tin ngoài mười dặm, khó mà đúng sự thật?
Thọ Hỉ nói:
- Gia nhân nhà Tư Mã Khố lên cầu đánh hỏa công, sao lại không thật?
Bà Lã giận dữ nhìn con trai, nói:
- Ra gì cái thá đàn ông như anh! Con thì một đống. Trên cổ anh là quả bí hay cái đầu? Các người thử nghĩ, người Nhật thì cũng cha sinh mẹ đẻ, với ta không thù không oán, vậy chúng làm gì tả Chạy à, chạy nhanh đến mấy cũng không bằng hòn đạn. Trốn hả, trốn đến bao giờ?
Nghe bà Lã lên lớp, cha con nhà Thượng Quan im thin thít, không dám nói lại một câu. Ba Phàn gõ tẩu cho sạch tàn thuốc, đằng hắng mấy tiếng, nói:
- Bà chị nhìn xa thấy rộng, suy xét đâu ra đấy. Chị nói vậy tôi cũng đỡ lọ Đúng vậy, chạy đi đâu bây giờ? Trốn đi đâu bây giờ? Người thì có thể bỏ chạy, nhưng còn con lừa, con ngựa giống của tôi lừng lững như trái núi thì trốn vào đâu? Trốn mồng một chẳng thoát ngày rằm, mẹ kiếp! Đếch cần, hãy đỡ đẻ cho con lừa đã!
Bà Lã vui vẻ nói:
- Đúng rồi!
Ba Phàn con phắt áo ngoài, xiết chặt thắt lưng, đặng hắng mấy cái, như võ sĩ sắp sửa lên vũ dài. Bà Lã gật đầu lia lịa tỏ vẻ tán thưởng:
- Ông Ba này, phải vậy chứ! Trâu chết để da, người ta chết để tiếng. Con lừa mẹ tròn còn vuông thì tôi biếu thêm một vò rượu nữa, đánh trống khua chiêng cho anh đăng quang.
Ba Phàn nói:
- Bà chị nói gì lạ vậy? Ai bảo con lừa nhà chị lấy giống nhà tôi? Vậy là khoán giống, khoán thu nhập, đã khoán thì khoán đến cùng! Lão đi quanh con lừa một vòng, lay lay cái chân con lừa con, lẩm bẩm:
- Bà thông gia lừa ơi, đây là vượt cạn, là qua Quỉ Môn Quan, bà ráng lên cho lão Ba này mở mày mở mặt!
Lão vỗ vỗ đầu con lừa, gọi to:
- Các cha, đem thừng và đòn gánh ra đây! Xốc nó dậy! Nằm không đẻ được!
Cha con Phúc Lộc nhìn bà Lã. Bà Lã nói cứ làm theo lời ông Bạ Cha con Phúc Lộc lấy thùng và đòn gánh ra. Ba Phàn luồn dây thừng dưới nách con lừa, thắt nút.
- Cậu sang phía bên kia- Ba Phàn bảo Thọ Hỉ.
Ba Phàn thử cái nút cho chắc, bảo Phúc Lộc lồng đòn quạ Từ hai phía, cha con Thọ Hỉ nâng hai đầu đòn. Ba Phàn bảo cúi xuống, đặt đòn gánh lên vai. Cha con Thọ Hi làm theo.
- Được rồi - Ba Phàn nó i- Cứ thế, đừng vội. Tôi bảo đứng lên hãy đứng. Có tí tẹo sức nào thì vận hết ra, thành công hay không là ở lúc này. Con lừa không để vậy được đâu! Bà chị, lại đây phụ tôi một tay, chớ để nó què.
Lão vòng ra phía đuôi con lừa, phủi tay, cầm lấy cây đèn trên cối xay bột, dốc dầu vào lòng bàn tay, xoa đều, rồi thổi phù một cái. Sau đó, lão thủ luồn tay vào cửa mình con lừa. Con lừa quẫy lung tung. Lão cho tay luồn sâu nữa, cổ lão gần chạm cái chân đỏ hỏn của con lừa con. Bà Lã nhìn không chớp, môi run lên. Tốt rồi - Ba Phàn giọng ồm ồm - Các bà, tôi hô một hai ba, đến ba thì đứng thẳng lên, đừng giở quẻ, đúng lúc mà sụm lưng là toi. Tốt, cổ lão chạm vào mông lừa, cánh tay lút sâu vào âm đạo như đang tìm kiếm đồ vật rơi trong đó. Một, hai, ba nào! Cha con nhà Thượng Quan hè lên một tiếng biểu thị một sức mạnh hi hữu, rồi cùng đứng lên. Theo đà đó, con lừa được xoay mình lại, hai chân trước co lên, cổ vươn ra, hai chân sau cũng được xoay lại, gập nếp dưới thân lừa. Cùng với thân con lừa xoay chuyển, Ba Phàn gần như nằm dài dưới đất. Không trông thấy mặt lão, chỉ nghe tiếng lão quát, nâng lên, lên chút nữa. Cha con nhà Thượng Quan cố nhón gót nâng con lừa lên cao hơn. Bà Lã chui xuống dùng lưng đỡ dưới bụng lừa. Con lừa hộc lên một tiếng, đứng dậy. Cùng lúc ấy, một vật to, bóng nhẫy, vọt ra từ cửa mình con lừa, cùng với máu và nước ối dính nhơm nhớp, đầu tiên là rơi vào lòng Ba Phàn, rồi sau đó tưới ra mặt đất.
Ba Phàn móc nhớt rãi cho con lừa con, dùng dao cắt rốn, thắt thành một cái nút, rồi bế còn lừa ra chỗ sạch. Lau nhớt trên mình lừa bằng miếng vải khộ Bà Lã nước mắt lưng tròng, lẩm bẩm:
- Cảm tạ trời đất, cảm ơn Ba Phàn! Cảm tạ trời đất, cảm ơn Ba Phàn
Con lừa con run rẩy đứng lên lại ngã xuống. Lông nó mượt như tơ, môi đỏ sẫm như cánh hồng nhung. Ba Phàn dìu con lừa dậy, khen:
- Khá đấy, đúng là giống nhà ta, ngựa là của ta, chú nhóc ạ, chú là cháu ta, ta là ông nội của chú (#1). Bà chị Ơi, nấu cho con dâu tôi một tí cháo. Nó đã cho ta một sinh mạng rồi!
Chú thích:
(1-) Ngựa phối giống với lừa, đẻ ra la
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 7
Lai Đệ dắt một cô em gái vừa chạy được mấy chục bước chân thì nghe trên trời có tiếng rít như xé vải. Cô ngửng lên xem con chim nào có tiếng kêu quái gở đó. Một tiếng nổ long trời lở đất vang lên sau lưng, ở giữa dòng nước. Tai cô ù đi, mắt nảy đom đóm. Một con cá trê rách bươm văng đến trước mặt, vài vệt máu tươi vương trên đầu con cá màu vàng xỉn, cặp râu dài rung rung, ruột vắt lên lưng. Rơi cùng với con cá trê, là một cột nước đục ngầu, nóng hổi hổi, đổ ụp xuống đầu làm cô ướt đẫm. Cô mụ người đi, ngoảnh lại nhìn các em như mơ ngủ, các em cũng đờ đẫn nhìn cộ Cô trông thấy một nắm cỏ nước nhão nhoét như ợ ra từ miệng trâu, bám trên tóc Niệm Đệ. Trên má Tưởng Đệ dính bảy tám vẩy cá màu bạc. Giữa lòng sông, cách các cô mười mấy bước, từng cuộn khói đen là là mặt nước, một cái xoáy khổng lồ, những giọt nước nóng bỏng tung lên trời, lả tả rơi xuống. Một làn khói trắng mỏng lan khắp. Cô ngửi thấy (các em cô cũng ngửi thấy, vì cánh mũi chúng phập phồng) mùi thuốc súng nồng nặc. Cô cố phán đoán tình hình, tuy không rõ ràng, nhưng một cảm giác không an toàn đang len lỏi trong cộ Cô định kêu lên, nhưng nước mắt đã ứa ra. Sao mình lại khóc nhỉ! Cô nghĩ. Cô không khóc, nhưng vì sao lại có nước mắt? Đầu óc rối tinh như mớ bòng bong, tất cả, cây cầu rực sáng, dòng sông sôi sùng sục, những bụi tầm ma dày đặc, những con chim én hốt hoảng, các em gái đứng ngây như phỗng... tất cả quyện vào nhau, mờ mờ ảo ảo. Cô trông thấy đứa em nhỏ nhất nhếch miệng ra, mắt nhắm tịt, hai dòng nước mắt trên má. Trong không trung, tiếng rì rào lan xa như tiếng vỏ đậu khô phơi dưới nắng. Có một bí mật ẩn sau những bụi cây thấp lè tè trên sườn đê, sột soạt, như có đàn thú nhỏ đang ẩn. Những người đàn ông trong bụi cây im hơi lặng tiếng, những cành cây nhỏ vẫn thản nhiên chĩa lên trời, lá tròn như đồng tiền rung rinh. Có đúng là họ đang nấp trong đó không? Họ làm gì ở trong ấy? Cô suy đoán một cách khó khăn, bỗng nghe thấy một giọng như cố kìm lại, từ rất xa vẳng tới:
- Nằm xuống các em ơi! Các em ơi, nằm xuống!...
Cô đưa mắt sục sạo mong tìm ra nơi phát ra tiếng gọi trên, trong đầu như có con cua đang bò, đau buốt đến không chịu nổi. Cô trông thấy một vật đen sì từ trên trời rơi xuống. Lòng sông chỗ gần cầu từ từ dựng lên một cột nước đường kính bằng thân con trâu. Lên cao đến ngang mặt đê, cột nước nở ra rồi trút xuống, trông giống một cây thùy liễu. Tiếp theo, xộc vào mũi cô, là mùi thuốc súng, mùi bùn, mùi tôm cá. Tai cô ù lên, không nghe thấy gì cả, nhưng hình như cô nghe được một tiếng trầm đục lan ra tứ phía.
Lại một vật đen sì nữa rơi xuống lòng sông, một cột nước lại dựng lên. Một mảnh màu xanh, cạnh cuốn lên lởm chởm như răng chó, cắm xuống đất bãi. Cô cúi nhặt, đầu ngón tay bỗng tỏa khói nhẹ, cảm giác đau rát lập tức chạy khắp cơ thể. Đột nhiên cô lại nghe thấy tiếng ồn, hình như cảm giác đau rát là từ trong tai chui ra, đẩy lỗ tai đang bị nút chặt mà chui ra. Nước sông sôi sùng sục, hơi nuộc mịt mù. Tiếng nổ vang rền, lan xa.
Trong sáu chị em thì ba đứa ngoác miệng ra gào, ba đứa kia bịt chặt tai, nằm sấp, mông đít vổng lên, chẳng khác nào chim đà điểu rúc đầu trong cát khi gặp nguy hiểm.
- Em ơi! - Cô lại nghe thấy tiếng gọi rất to từ trong bụi cây - Nằm xuống mau! Nằm xuống, bò lại đây!...
Cô bò trên mặt đất để tìm người vừa gọi. Cuối cùng thì cô đã thấy: trong bụi cây, người đàn ông lạ mặt răng trắng mặt đen đang vẫy cô:
- Bò lại đây mau!
Đầu óc mụ mị của cô bỗng lóe sáng. Cô nghe thấy tiếng ngựa hí, ngoái lại, cô thấy một con ngựa nhỏ màu vàng kim, cái bờm đỏ như lửa dựng ngược, từ phía nam chạy lên đầu cầu. Con ngựa xinh đẹp không đeo rọ mõm, thuộc loại choai choai, chưa đến tuổi trưởng thành, ngạo nước, nhanh nhẹn, đầy sức sống. Đó là con ngựa của nhà Phúc Sinh Đường, con của con ngựa giống Đông Dương nhà Ba Phàn. Ba Phàn yêu con ngựa giống như con. Con ngựa màu vàng kim này chính là cháu đích tôn của lão. Cô biết và rất thích con ngựa choai này, nó thường chạy qua ngõ nhà cô, khiến bọn chó nhà Tôn Đại Cô tức điên lên. Con ngựa chạy đến giữa cầu bỗng dùng lại, hình như đống củi trên cầu chặn mất lối đi và cũng hình như đầu váng mắt hoa vì rượu đổ trên cầu. Nó ngoẹo đầu, chăm chú nhìn đống củi. Nó đang suy nghĩ. Nó nghĩ.
Lại có tiếng rít trên không, ánh chớp lóa mắt nở bung trên cầu, một đám lửa bùng lên một tiếng nổ như từ nơi rất cao rất xa dội lại. Cô trông thấy con ngựa nhỏ bị tan xác, một cái cẳng chín tái, dính đầy lông văng tới bụi tầm ma, một dịch thể vừa cay vừa chua trào lên cổ khiến cô muốn nôn ọe. Cô chợt hiểu ra. Nhìn cái cẳng ngựa, cô nhìn thấy chết chóc. Một nỗi sợ ập đến, cô bủn rủn chân tay, răng va vào nhau lập cập. Cô vụt dậy, lôi các em vào bụi.
Sáu đứa em vây chặt xung quanh cô như sáu tép tỏi bám quanh củ tỏi. Cô nghe thấy cách đây không xa, giọng nói quen thuộc đang gào lên điều gì đó, nhưng đã bị dòng sông sôi ùng ục át mất.
Cô ôm chặt đứa em nhỏ nhất, cảm thấy mặt nó nóng bừng. Mặt sông tạm thời yên tĩnh, khói trắng tan dần. Lại có tiếng rú rít trên trời, kéo theo một vệt sáng, vọt qua con đê Thuồng Luồng nổ trong thôn, tiếng ùng oang vang rền như sấm. Từ trong thôn vẳng lại tiếng phụ nữ la khóc, tiếng đổ vỡ của những vật nặng. Bên kia bờ đê không một bóng người, chỉ trơ trụi một cây hòe cổ thụ.
Phía dưới, dọc theo bờ sông, là một hàng liễu rủ. Những quái vật đáng sợ đó từ đâu mà ra nhỉ? Cô nghĩ. Chà chà! Tiếng kêu làm đứt đoạn dòng suy tưởng của cộ Qua kẽ lá cô nhìn thấy ông Hai nhà Phúc Sinh Động cưỡi xe đạp IFA phóng lên cầu. Ông ta lên cầu làm gì nhỉ? Chắc chăn là vì con ngựa, cô nghĩ. Nhưng Tư Mã Khố tay dắt xe, tay kia cầm bó đuốc cháy rừng rực, rõ ràng không phải vì con ngựa. Con ngựa nhà ông ta xương thịt tung tóe, máu nhuốm đầu cầu, đỏ cả nước sông. Tư Mã Khố vội xuống xe, ném bó đuốc vào đống củi đã tẩm đẫm rượu, ngọn lửa xanh bùng lên và lan ra rất nhanh. Tư Mã Khố quay xe, không kịp nhảy lên, dắt xe chạy trở lại. Đám lửa xanh đuổi theo sau. Tư Mã Khố luôn miệng kêu chà chà, rất kỳ quặc. Một tiếng nổ đanh, chiếc mũ cói rộng vành trên đầu Tư Mã Khố bay vọt lên như một con chim, xoay tròn rồi rơi xuống nước. Ông ta quẳng xe, ngã dúi rồi bò lổm ngổm trên cầu như chó. Tằng tằng tằng, súng nổ ran như pháo tép. Tư Mã Khố miết bụng trên cầu trườn xuống như con thằn lằn, chỉ một thoáng đã mất dạng. Cây cầu cháy đùng đùng, toàn lửa xanh, cao nhất là ngọn lửa ở giữa, không có khói. Mặt sông cũng biến thành màu xanh. Luồng hơi nóng bỏng ập tới nghẹt thở, mũi khô rát, ào ào như gió. Những cành tầm ma ướt sũng như đổ mồ hôi, lá quăn lại, héo quắt Lúc này cô nghe rõ tiếng chùi của Tư Mã Khố:
- Đ. chị thằng Nhật! Mày qua được Lư Câu Kiều, nhưng không qua nổi cái cầu lửa này! Rồi Tư Mã Khố cười lớn:
- Ha ha hạ. ha ha ha.
Tiếng cười chưa dứt, phía đê bên kia sông đã trông thấy những cái đầu lô nhô đội mũ vàng, tiếp đó là nửa người trên và đầu ngựa. Rồi mấy chục người cưỡi những con ngụa cao lớn đứng đây mặt đệ Tuy khoảng cách có đến vài trăm mét, nhưng cô thấy ngựa của bọn Nhật cao lớn chẳng kém con ngựa giống Đông Dương của nhà Ba Phàn. Nhật, giặc Nhật tới rồi. Thế là bọn Nhật đến thật rồi!... Quân kỵ Nhật thúc ngựa xuống dốc đệ Mấy chục con ngựa chen nhau lội xuống dòng sông. Cô nghe thấy bọn chúng quát tháo. Ngựa ùn xuống nước, hí vang. Nước ngập chân ngựa, mấp mé bụng dưới. Quân Nhật ngồi thẳng trên yên, mặt hơi ngửa lên. Mặt nước phản quang trên những khuôn mặt sáng tối lốm đốm, không phân biệt được mắt và mũi. Ngựa vươn cổ như dình phi nước đại nhưng không thể. Chúng lội nước một cách khó nhọc. Sóng vờn dưới bụng ngựa, Lai Đệ có cảm giác đó là những tia lửa nhỏ, khiến chúng càng vươn dài cổ ra, rùng mình liên tục; nửa dưới đuôi thả trong dòng nước. Bọn lính nhấp nhô trên mình ngựa. Chúng dùng cả hai tay giữ dây cương, chân duỗi thẳng trên bàn đạp, triển khai đội hình theo tuyến tán binh. Cô trông thấy con ngựa hồng cao lớn chợt khựng lại giữa sông, dỏng đuôi ị một bãi. Tên lính Nhật sốt ruột, thúc gót giày vào bụng ngựa.Con ngựa vẫn đứng yên, đầu lắc mạnh, hàm thiết kêu lách cách.
- Đánh đi, anh em ơi!
Từ lùm cây bên trái có tiếng hô to, tiếp đó là một tiếng nổ đùng đục như đập mẹt. Rồi tiếng súng rộ lên, to có nhỏ có, lúc thưa, lúc mau. Một cục đen sì bốc khói trắng rơi xuống sông, nổ đánh ầm, dựng lên một cột nước. Tên lính Nhật cưỡi ngựa hồng bóng dưới lên một cái rất kỳ quặc rồi bật ngửa, hai tay chới với, một dòng máu đen vọt ra khỏi ngực bắn lên đầu ngựa, bắn cả xuống mặt nước. Con ngựa hồng chồm lên, lộ hẳn hai vó trước và cái ức to khỏe, bóng loáng. Khi con ngựa hạ vó xuống, nước bắn tung tóe, tên lính Nhật đã nằm ngửa, đầu gối lên mông ngựa. Tên lính ngồi trên lưng con ngựa ô nhào xuống sông. Tên cưỡi trên lưng con màu xám thì gục trên cổ ngựa, hai tay buông thõng, cái đầu đã bay mất mũ ngất ngưỡng, máu rỉ ra từ tai, rớt xuống nước từng giọt. Trên sông cực kỳ hỗn loạn. Những tên khác cúi rạp, chân kẹp chặt bụng ngựa, bắn như đổ đạn vào các lùm cây trên thân đệ Những con ngựa thở phì phì, ướt như chuột lột, xông lên bãi, dưới bụng tong tỏng nước, vó bám đầy bùn đỏ, lông đuôi dài lê thê, lấp lánh như những sợi kim tuyến.
Một con ngựa đốm có ngôi sao trên trán, cùng tên lính Nhật mặt mày nhợt nhạt, xông lên đệ Tên Nhật nhíu mày, răng nghiến chặt, tay trái vỗ mông ngựa, tay phải khua thanh trường kiếm, xông tới bụi tầm mạ Lai Đệ trông rõ mồn một những giọt mồ hôi trên sống mũi hẳn, những soi lông mi rất thô của con ngựa đốm, nghe rõ tiếng thở phì phì từ lỗ mũi con ngựa, ngửi thấy mùi mồ hôi ngựa. Đột nhiên, trán con ngựa bốc khói. Nó cố vùng vẫy bốn vó đã tê dại, những nếp nhăn chạy rùng rùng trên mình. Con ngựa giật giật bốn chân mềm nhũn, tên lính không kịp nhảy ra, ngã xuống bên bụi tầm ma.
Đội kỵ binh Nhật chạy men theo bãi về phía đông, nơi chị em Lai Đệ để giày, gò cương, xông qua những bụi tầm ma lên đệ Cô không trông thấy đội kỵ binh Nhật nữa. Cô trông thấy con ngựa đốm chết trên bãi, đầu đầy máu và bùn, một con mắt màu xanh mở to, đau đớn nhìn lên bầu trời xanh ngắt. Nửa người tên lính Nhật bị đè dưới bụng ngựa. Hắn nằm sấp, đầu ngoẹo sang một bên, một cánh tay trắng bệch tưởng như không còn một giọt máu, thò xuống nước, làm như đang vớt vật gì đó. Buổi sớm, bãi sông phẳng và bóng loáng bị vó ngựa dẫm nát. Giữa dòng, con ngựa bạch nằm chết, nước sông đẩy cái xác lăn tròn, nhích từng tí một. Khi cái xác ngửa bụng lên, bốn vó với những cái móng to tướng giơ thẳng lên trời khiến người kinh hãi. Chỉ chớp mắt, nước sông đục ngầu, chân ngựa lại chìm xuống nước, rồi lại chổng vó lên trời. Con ngựa hồng, con ngựa đã để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong Lai Đệ, trôi theo dòng nước cùng với thi thể của kỵ sĩ, rất xa vê phía dưới. Lai Đệ nghĩ, rất có thể con ngựa này đi tìm con ngựa giống nhà Ba Phàn. Cô quả quyết con ngựa hồng là ngựa cái, là vợ con ngựa giống của nhà Ba Phàn, vì hoàn cảnh ly tán mà xa nhau.
Lửa trên cầu vẫn cháy rừng rực. Đống củi giữa cầu lửa vàng khói trắng cuồn cuộn bốc lên. Cây cầu oằn mình, thở ra những tiếng phì phì, phát ra những lời rên rỉ. Cô thấy chiếc cầu đã biến thành một con rồng lửa, quằn quại, đau đớn, khát vọng bay lên, nhưng cái đuôi hình như đã bị ghìm chặt. Ôi chiếc cầu đáng thương. Không khí sặc mùi thuốc súng, mùi tanh của máu và bùn, đặc quánh. Cô cảm thấy lồng ngực như sắp nổ tung bất cứ lúc nào. Nguy hiểm hơn, những cành tầm ma bị sức nóng làm cho chảy nhựa, chỉ một đốm lửa theo luồng khí nóng dưa tới, là có thể bùng cháy. Cô bế Cầu Đệ, hạ giọng gọi các em, chui ra khỏi bụi tầm mạ Đến mặt đê, cô kiểm lại, các em cô đều đã lên đủ. Đứa nào cũng mặt mày đen nhẻm, chân không giày, mắt nhớn nhác, tai đỏ ửng. Cô kéo các em lăn xuống chân đê, bỏ chạy. Trước mặt là bãi đất hoang, nghe nói xưa kia là nhà của người đàn bà thuộc dân tộc Hồi, nay bị che khuất bởi những bụi tầm ma và cây chó đẻ. Rúc vào một bụi tầm ma, cô cảm thấy chân tay mềm nhũn như nặn bằng bột, chân mỏi dừ. Các em chạy liêu xiêu, luôn miệng gào khóc. Chị em ôm chặt nhau trong bụi tầm ma, các em rúc vào lòng chị. Cô ngẩng lên, lo lắng nhìn ngọn lửa cháy rực trên đê.
Đầu tiên là những người mặc áo xanh mà cô đã từng trông thấy, chui ra khỏi đám lửa chẳng khác những hồn mạ Lửa bén trên người họ. Cô nghe một giọng quen thuộc hét to:
- Nằm xuống mà lăn! Rồi anh ta lăn từ trên đê xuống. Hơn mười quả cầu lửa cùng lăn theo. Lửa tắt, tóc tai đều bốc khói. Những bộ quần áo vốn cùng màu xanh với lá tầm ma hoàn toàn thay đổi màu sắc, và chỉ còn là những mảnh vải đen nhẻm dán chặt trên người họ. Một người không chịu lăn, cháy như một cây đuốc, vừa kêu gào vừa chạy. Bên bụi tầm ma mà bọn Lai Đệ đang nấp, có một hố bùn mọc đầy cỏ dại và cây khoai nước, dọc màu phớt đỏ, lá to bản đầy phấn trắng. Người kia nhảy đại xuống hố. Bùn nước bắn tung tóe, những con nhái nhảy loạn xạ. Những con bướm đang đẻ trứng trên lá khoai nước cất cánh bay vội vã, màu kim nhũ trên cánh sáng lấp lóa như bị mặt trời nung chảy.
Lửa đã tắt trên người, những bùn bám đen nhẻm từ đầu đến chân, một con giun đất bám trên má, không còn phân biệt mắt mũi, cô chỉ còn trông thấy cái miệng của người đó. Anh ta đau quá, kêu to:
- Con đau quá, mẹ Ơi!
Một con trạch từ miệng anh ta chui ra rơi xuống bùn rồi rúc luôn xuống đáy, mùi hôi thối kinh niên xông lên.
Những người đã dập tắt lửa thì nằm bò ra đất mà rên rỉ, chửi bới, súng ống gậy gộc đều quẳng trên mặt đất, chỉ riêng người có bộ mặt xương xương đen nhẻm thì vẫn cầm khẩu súng lục. Anh ta kêu lên:
- Anh em ơi, tản ra mau! Bọn Nhật sắp tới!
Những người bị thương hầu như không nghe thấy tiếng anh tạ Họ vẫn phủ phục như cũ. Có hai người run rẩy đứng lên nhưng loạng choạng đi được vài bước, lại ngã lăn ra.
- Anh em ơi! Tản ra mau!
Người kia lại gọi rồi đá vào mông người nằm bên cạnh. Người đó trườn lên mấy bước rồi cố quì dậy, vừa khóc vừa nói:
- Tư lệnh ơi, mắt tôi không trông thấy gì nữa!
Cuối cùng thì cô cũng biết người mặt đen là Tư lệnh. Người đó kêu lên, đau xót:
- Anh em ơi, tôi làm hại anh em rồi!...
Cô trông thấy trên mặt đê cao cao phía đông, mấy chục con ngựa Nhật to lớn chở những tên lính Nhật xếp thành hai trung đội vận động tới như hai dòng nước. Tuy trên đê khói lửa ngất trời, nhưng đội kỵ mã Nhật hàng ngũ tề chỉnh, ngựa cúi đầu chạy nước kiệu, nối đuôi nhau chạy đến ngang tầm ngõ nhà họ Trần thì con ngựa đi đầu rẽ xuống, những con sau bám sát, nhằm bãi trống ngoài đê chạy tới (chỗ này là sân phơi của nhà họ Mã, đất nện, bằng phẳng). Đến đây thì chúng chuyển sang nước đại, chạy theo một hàng dọc. Bọn lính Nhật nhất tề rút kiếm ra, vừa gào thét vừa thúc ngựa xông tới
Viên Tư lệnh giơ súng lên bắn bừa một phát. Đầu nòng súng tóa ra một cụm khói nhỏ. Rồi, chân cà nhắc, anh ta loạng choạng chạy tới chỗ chị em La Đệ nấp. Một con ngựa to lớn màu hoàng hạnh lướt quạ Tên lính Nhật trên yên nghiêng người, vung kiếm nhằm vào đầu anh ta mà chém. Anh vội nằm sấp, đầu còn nhưng bả vai bị phạt mất một miếng bằng bàn taỵ Miếng thịt văng ra đất co giật chẳng khác con ếch đã bị lột dạ Viên Tư lệnh rú lên một tiếng đau đớn, nhổm lên; lộn mấy vòng rồi gục dưới gốc cây dẻ, nằm im như chết. Tên lính Nhật quay ngựa lại, nhằm người thanh niên cao lớn vừa chống đại đao nhổm dậy xông tới. Người thanh niên lộ vẻ kinh hoàng, giơ đao lên chống đỡ một cách yếu ớt, hình như anh ta định chém đầu con ngựa, nhưng con ngựa đã chồm hai vó trước, dùng ức hất ngã anh tạ Tên lính Nhật cúi xuống bổ một nhát, đầu anh ta bị chém làm hai mảnh. Óc phọt ra bắn cả lên quần tên Nhật. Chỉ trong chớp mắt, mấy chục người chạy thoát từ trên đê xuống, đã yên nghỉ vĩnh viễn. Bọn lính Nhật cho ngựa dẫm nát thân thể họ.
Lúc này, lại có một toán kỵ binh từ rùng thông phía tây làng phóng tới, theo sau là một đám đông mặc quần áo màu vàng. Hai cánh quân gặp nhau rồi tiến vào thôn theo con đường bắc nam. Đám bộ binh đầu đội mũ sắt, khênh những chiếc nòng pháo đen bóng, ùa vào thôn như một bầy ong.
Đám cháy trên đê đã tắt, chỉ còn những cột khói bốc lên trời. Cô trông thấy trên đê một màu đen như sơn và ngửi thấy mùi thơm của những cây tầm ma bị lửa thiêu. Từng đàn ruồi nhặng như từ trên trời rơi xuống, dậu trên những xác người bị vó ngựa dẫm nát, trên những đám máu đọng, trên các tán lá và cả trên người viên Tư lệnh. Trước mắt cô chỉ toàn ruồi là ruồi.
Mắt mờ đi, mi mắt nặng trĩu, hình như cô nhìn thấy một cảnh tượng quái gở mà cô chua bao giờ được thấy: những cẳng ngựa đứt lìa nhảy nhót, những đầu ngựa bị dao dâm ngập, những đàn ông trần truồng, hai chân kẹp cái roi cặc ngựa, những đầu người lăn lông lốc, vừa lăn vừa kêu cục cục như gà mái đẻ, lại có cả những con cá nhỏ có chân nhảy nhót bên bụi tầm mạ Cô kinh hoảng khi thấy viên Tư lệnh - người mà cô tưởng đã chết, từ từ ngồi dậy, lết bằng hai gối đến chỗ miếng thịt bị chém văng dưới đất, nhặt nó lên gắn vào vết thương, nhưng miếng thịt lại nhảy xuống đất, rúc vào bụi cây. Viên Tư lệnh vồ lấy miếng thịt, quật cho nó chết hẳn, rồi rút một mảnh vải trên người băng vào vết thương.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 8
Tiếng ồn ào trong sân khiến chị Lỗ tỉnh lại. Chị tuyệt vọng nhìn cái bụng vẫn căng phồng như cũ và đám máu tươi thấm đẫm nửa bên giường.
Sọt đất mà mẹ chồng đem về đã biến thành bùn nhão trộn bằng máu. Từ trạng thái mông lung, chị chợt tỉnh. Chị trông thấy một con dợi cánh màu phấn hồng bay lượn giữa các cột kèo. Một khuôn mặt xám ngoét hiện dần ra trên tường. Đó là khuôn mặt một đứa bé trai đã chết. Cơn đau xé ruột xé gan đã dịu đi. Chị sững sờ khi nhìn thấy giữa hai đùi là một bàn chân nhỏ xíu với những móng chân sáng loáng. Thế là hết, chị nghĩ, cuộc đời mình đến đây là kết thúc. Nghĩ đến cái chết, chị cảm thấy vô cùng đau khổ. Chị hốt hoảng thấy mình bị nhét vào quan tài bằng ván mỏng, mẹ chồng cau mày, mặt sa sẩm không nói gì, chỉ có bảy đứa con gái vây quanh quan tài mà khóc...
Giọng như lệnh vỡ của mẹ chồng át cả tiếng kêu khóc của bọn con gái. Chị mở mắt, ảo giác tan đi, cửa sổ trông rõ mồn một, sáng rực. Mùi thơm nồng của hoa hòe từng đợt ùa vào phòng, một con ong mật đập vào giấy dán cửa sổ bồm bộp. Ba Phàn, đừng rửa tay vội! Chị nghe tiếng mẹ chồng nói vậy: - Cô con dâu quí hóa của tôi vẫn chưa đẻ được, và cũng mới ra được một chân.
- Bà chị Ơi, chị chỉ nói lung tung, miệng như tép nhảy, Ba Phàn tôi là bác sĩ của lừa, ngựa, làm sao có thể đỡ đẻ cho người?
- Người và vật thì có khác gì nhau!
- Bà chị đừng dài dòng văn tự nữa, cho tôi ít nước rửa taỵ Bà chị, đừng ngại mất công, phải mời Tôn Đại Cô đến thôi!
Mẹ chồng gầm lên như sấm:
- Chẳng lẽ anh không biết tôi và Tôn Đại Cô không ưa nhau? Năm ngoái mụ ta bắt trộm của tôi một con gà mái tơ.
Ba Phàn nói:
- Tùy bà chị, con dâu chị đẻ chứ có phải vợ tôi đẻ đâu? Bà nội ơi, vợ tôi còn trong bụng mẹ vợ, chưa chào đời. Bà chị đừng quên rượu và thủ lợn nhé! Tôi đã cứu hai sinh mạng của nhà bà chị đấy!
Bộ mặt mẹ chồng trở nên rầu rĩ:
- Ba Phàn, giúp tôi một tí nào, người xưa có câu, làm ơn nên oán, ai tránh được. Vả lại, súng nổ đùng đùng ngoài kia, lỡ gặp bọn Nhật thì sao?
- Đừng nói nữa! - Ba Phàn nói, bán anh em xa mua láng giềng gần. Hôm nay tôi phá lệ. Nói dại, tuy người và súc vật giống nhau, nhưng rốt cuộc sống chết có số của nó...
Chị nghe có tiếng chân lạo xạo tới gần, xen lẫn là tiếng hắt hơi rõ kêu. Chẳng lẽ bố chồng, chồng và lão Ba Phàn mặt trơ trán bóng vào buồng của người đẻ, mục kích thân thể lõa lồ của mình. Chị cảm thấy uất hận và nhục nhã, mắt mờ đi như phủ một lớp sương mù. Chị định ngồi dậy tìm quần áo che thân, nhưng cơ thể chị như lọt xuống hố, không động cựa được chút nào. Trong thôn vọng lại một tiếng nổ lớn, xen kẽ trong đó là tiếng rào rào quen thuộc và đặc sệt như hằng hà sa số những con thú nhỏ đang bò, như rất nhiều hàm răng đang nhai trèo trẹo... Tiếng gì mà nghe quen thuộc thế nhỉ? Chị vắt óc suy nghĩ. Một tia sáng chợt lóe lên rỏi nở bùng trong đầu. Chị trông thấy đàn châu chấu màu vàng xỉn che khuất cả mặt trời ào tới như nước lũ. Chúng ăn sạch lá cây, gặm cả vỏ cây liễu. Tiếng gặm đáng sợ của đàn châu chấu như khoan vào lỗ tai, vào xương tủy. Chị rụng rời: Lại xảy ra dịch châu chấu rồi! Và chị rơi vào một trạng thái tuyệt vọng. Trời ơi! hãy cho tôi chết đi, tôi chịu đựng hết nổi rồi... Chúa ơi, Đức Mẹ Ơi, hãy tưới nhuần mưa móc, hãy cứu vớt linh hồn chúng con!... Trong cơn tuyệt vọng, chị ra sức cầu nguyện, viện dẫn cả đức tối cao của phương Đông lẫn phương Tây, nỗi đau của tâm linh và nhục thể được vợi nhẹ rất nhiều. Chị nghĩ đến ông mục sư tóc đỏ mắt xanh thân thiết như cha anh.
Tại bãi cỏ xuân lần ấy, ông nói rằng ông Trời của Trung Quốc và Đức Chúa của phương Tây là một, như cánh tay với bàn tay, như sen trăng với sen đỏ, như - chị đỏ mặt - chim của trẻ con với cái ấy của người lớn. Ông đứng trong rừng cây hòe, cái ấy cương lên, ngật ngưỡng... Ông vẫy chị, hoa hòe trắng nở rộ, hoa hòe đỏ nở rộ, hoa hòe vàng nở rộ trên cây, từng cụm, từng cụm, những cánh hoa bay lượn, mùi hương nồng khiến người ta say như say rượu. Chị cảm thấy mình đang bay như một cụm mây, như một chiếc lông. Chị vô cùng xúc động trước khuôn mặt tươi tắn vừa trang nghiêm vừa thánh thiện, vừa thân thiện lại vừa hiền từ của ông mục sự Chị nhắm mắt lại, nước mắt ứa ra theo vết nhăn rơi xuống lỗ tai. Mẹ chồng gần như thì thầm:
- Mẹ con Lai Đệ này! Mày làm sao thế hả? Con ơi, hãy vững vàng lên, con lừa nhà ta đã đẻ một con la xinh xẻo rồi. Con phải đẻ một thằng cu vậy là thỏa mãn lắm rồi! Con ơi, giấu cha giấu mẹ nhưng không giấu được thầy thuốc, đỡ đẻ thì không phân biệt đàn ông đàn bà, ta đã mời ông Ba Phàn đến cho con...
Những lời từ tốn của mẹ chồng khiến chị rất xúc động. Chị mở mắt, ngó khuôn mặt ngăm đen của mẹ chồng, khẽ gật. Mẹ chồng vẫy ra phòng ngoài gọi: Anh Ba, vào đây. Ba Phàn mặt câng câng, làm ra vẻ trang trọng, bước vào. Mắt lão đảo lia lịa, ra điều trông thấy một chuyện đáng sợ, mặt tái đi, không còn một giọt máu.
- Bà chị Ơi... Ba Phàn nói nhỏ - xin chị giơ cao đánh sẽ, có giết chết thì Ba Phàn cũng không làm nổi việc này.
Lão vừa nói vừa đi giật lùi, vừa nhìn thấy thân thề chị Lỗ liền vội vàng đưa mắt nhìn chỗ khác. Bước qua ngưỡng cửa, lão đụng phải Thọ Hỉ đang thò đầu ngó vào trong buồng. Lão ngán ngẩm nhìn khuôn mặt gầy guộc của người chồng và vẻ sợ hãi của anh tạ Bà Lã vội đuổi theo Ba Phàn. Chị nghe tiếng bà gọi to:
- Ba Phàn, đồ chó đẻ!
Nhân lúc chồng lại ló đầu nhìn vào, chị cố giơ tay vẫy một câu nói khô khan buột ra từ miệng chị. Chị không tin là mình lại có thể nói như thế.
- Đồ chó đẻ, lại đây!
Chị đã tới mức dửng dưng đối với chồng, không thù không oán, vậy chị còn chửi để làm gì? Chửi là đồ chó đẻ, thực tế là chửi mẹ chồng, mẹ chồng là chó, con chó già! Chó già, chó già đừng cắn bậy, cắn bậy thì sẽ được ăn gậy? Chị nhớ lại câu chuyện xa xưa về chàng rể ngốc và bà mẹ vợ mà chị được nghe cách đây hai mươi năm.
Đó là cái năm mưa nhiều và nóng như đổ lửa, vùng Cao Mật vừa được khai phá, dân cư thưa thớt, bà dì của chị là người sớm nhất đến lập nghiệp. Ông chú dượng họ Vu thân hình cao lớn, người ta tặng cho chú biệt hiệu Vu Hộ pháp, nắm tay của chú to bằng hai vó ngựa gộp lại, một cú đấm chết tươi con lạ Chú mê đánh bạc, đầu ngón tay dính đầy những gỉ đồng... Trong cuộc mít tinh phản đối tục bó chân, chị lọt vào mắt xanh của bà Lã...
- Mình gọi tôi hả? Chị trông thấy Thọ Hỉ đứng ở đầu giường, mắt thì nhìn ra cửa sổ, ngượng ngập.
- Mình gọi tôi có việc gì?
Chị nhìn con người đã chung sống với mình hai mươi năm mà hối hận. Hoa hòe ngút tầm mắt, dập dềnh như sóng biển... Chị nói như một hơi thở:
- Đứa này... không phải con anh!
Thọ Hỉ khóc tấm tức:
- Mẹ nó ơi! Mẹ nó đừng chết! Để tôi đi mời Tôn Đại Cô
- Đừng? - Chị năn nỉ - Anh mời mục sư Malôa hộ tôi!
Ngoài sân, bà Lã lòng như dao cắt lấy ra gói giấy đầu, mở từng lớp để lộ ra đóng bạc trắng. Bà nhón tay cầm đồng tiền lên, khóe miệng run dễ sợ, mắt ngầu đỏ. Nắng dọi trên mái tóc đã bạc trăng. Một làn khói đen từ đâu ùa tới, không khí nóng bỏng. Phía bắc, sông Thuồng Luồng có tiếng ồn ào như chợ vỡ, đạn bay chíu chíu trên trời. Bà Lã nói như khóc:
- Anh Ba, lẽ nào anh thấy người chết mà không cứu? Thật là độc như nọc ong, dã tâm như người tình hụt. Người ta có câu: Có tiền mua tiên cũng được!. Đồng tiền này liền kề da thịt tôi đã hai mươi năm. Tôi biếu nó cho anh, hãy cứu con dâu tôi!
Bà ấn đồng tiền vào tay Ba Phàn. Ba Phàn vội hất ra như đụng phải miếng sắt đỏ. Khuôn mặt bóng nhẫy của lão đẫy mô hôi, má giật giật, mặt méo xệch. Lão vắt túi thuốc lên vai, nói to:
- Bà chị hãy tha cho tôi, tôi van chị đấy!
Ba Phàn chưa chạy ra đến cổng đã thấy Phúc Lộc chạy vào, trên người không mặc áo, giày chỉ còn một chiếc, ngực vấy bẩn đen như đầu bôi trục xe, chẳng khác một vết thương to tướng thối rữa. Lão ở đâu về thế nhỉ? Đồ chết tiệt, bà Lã giận dữ cất tiếng chửi.
- Ông anh, ngoài ấy có chuyện gì thế?
Ba Phàn sốt ruột hỏi. Phúc Lộc không để ý câu chửi của vợ, cũng không trả lời câu hỏi của Ba Phàn. Lão nở một nụ cười rất ngớ ngẩn, trong miệng phát ra những tiếng bập bập chẳng khác gà mổ thóc trong máng. Bà Lã nắm lấy cằm của chồng mà lắc, khiến miệng Phúc Lộc lúc chành ra lúc chúm lại, mép sùi bọt trắng. Lão ho, khạc nhổ rồi cũng trấn tĩnh lại.
- Bố nó, ngoài ấy có chuyện gì hả?
Lão buồn rầu nhìn vợ, nhếch miệng khóc:
- Kỵ binh Nhật đã tràn vào nội đê rồi!
Tiếng vó ngựa nặng nề dội tới người trong sân đứng như trời trồng. Những con chim khách đuôi trắng mình xám bay qua sân. Những tấm kính màu trên lầu chuông nhà thờ vỡ vụn không thành tiếng, những mảnh vỡ lấp lánh. Kính vỡ rồi mới nghe thấy một tiếng nổ đanh, rồi lạo xạo lan xa chẳng khác một cỗ xe chở nặng trên đường. Một luồng khí áp xộc tới, quật ngã Ba Phàn và Phúc Lộc như những cây cao lương gặp bão. Bà Lã bị đẩy lùi dán lưng vào tường. Chiếc ống khói hình nấm trên mái nhà rớt xuống, lăn trên lối đi lát gạch vỡ.
Thọ Hỉ từ trong buồng chạy ra, khóc:
- Mẹ Ơi, nó chết mất! Nó sắp chết rồi? Đi mời Tôn Đại Cô chứ mẹ?
Bà Lã nghiêm nghị nhìn con trai:
- Đã chết thì tránh cũng không thoát, không chết thì chết thế nào được?
Nghe bà Lã thuyết giáo, Phúc Lộc tỏ vẻ hiểu mà không hiểu, chỉ nhường cặp mắt mọng nước nhìn vợ. Bà Lã nói:
- Anh Ba Phàn, còn loại thuốc thúc đẻ nào không? Còn thì cho con dâu tôi một lọ, không còn thì lôi thôi to rồi!
Nói rồi, không đợi Ba Phàn trả lời, bà không nhìn một ai, ngẩng cao đầu, ưỡn ngực, oai phong lẫm liệt ra khỏi cổng.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 9
Năm 1939, ngày tháng theo âm lịch là Mồng 5 tháng 5, buổi sáng, tại trấn Đại Lan là thị trấn lớn nhất của vùng Cao Mật, bà Lã dẫn kẻ thù của mình là Tôn Đại Cô về nhà, bất chấp đạn bay chíu chíu trên trời, để đỡ đẻ cho con dâu. Khi hai người bước vào cổng nhà bà Lã, cũng là lúc bọn kỵ binh Nhật cho ngựa xéo nát thi thể các đội viên du kích.
Trong sân có chồng bà Lã là Thượng Quan Phúc Lộc và con trai Thọ Hỉ, ngoài ra còn có viên thú y Ba Phàn. Ba Phàn giơ chiếc lọ đựng thứ nước xanh xanh như kể công. Ba người này có mặt từ lúc bà Lã đi mời Tôn Đại Cô, một người mới đến thêm là ông mục sư mắt xanh tóc đỏ Malôạ Ông mặc một áo chùng màu đen, đeo cây thánh giá nặng trước ngực. Ông đứng trước cửa sổ chị Lỗ, cằm dưới nhô ra, mặt ngửa lên trời, cao giọng đọc thánh kinh: chúa Giêsu cao cả của con, xin người hãy ban phước lành, khi đứa con trung thành của Người và cô bạn của nó gặp tai họa, xin Người giơ bàn tay thiêng liêng của Người xoa đầu ban phước cho chúng con, cho chúng con thêm sức mạnh và dũng khí, cho người đàn bà kìa mẹ tròn con vuông, cho con dê kia có sữa, cho con gà đẻ trúng, cho bọn xấu chỉ nhìn thấy một màu đen kịt, súng của chúng bắn không nổ, ngựa của chúng lạc đường sa xuống đầm lầy. Chúa ơi, xin Chúa hãy giáng đòn trừng phạt lên đầu con, cho con được cứu khổ cứu nan mọi sinh linh trên thế gian này.
Ông mục sư nói đặc giọng Cao Mật. Những người đàn ông đứng lặng nghe lời cầu nguyện. Qua nét mặt thấy rõ họ rất xúc động. Tôn Đại Cô cười nhạt bước vào, gạt mục sư Malôa sang một bên. Ông mục sư mở to mắt, thốt lên A men tay làm dấu trước ngực, kết thúc những câu cầu nguyện dài dòng.
Tôn Đại Cô đầu chải bóng loáng, tóc búi gọn gàng sau gáy trâm cài tóc sáng lấp lánh, bên tóc mai cài một cái cặp. Bà mặc chiếc áo ngoài phẳng phiu bằng vải trắng, vạt áo đóng khuy lệch, một khăn tay giắt sau khuy nách, quần màu đen, chân quấn xà cạp nhỏ, chân đi giày màu thanh thiên đế trắng. Toàn thân bà toát lên vẻ thanh nhã, tóc có mùi xà phòng thơm. Bà có cặp lưỡng quyền cao, mũi thẳng, môi mím chặt thành một đường chỉ, cặp mắt sâu mà đẹp, ánh mắt rực sáng. Bà có vẻ tiên phong đạo cốt, so với dáng vẻ luộm thuộm và to đùng của bà Lã, thật khác nhau một trời một vực.
Bà Lã đón lọ nước màu xanh từ tay Ba Phàn đến bên Tôn Đại Cô, nói nhỏ:
- Bà chị, đây là thuốc thúc đẻ của Ba Phàn, có nên cho uống không?
- Chị nhà Thượng Quan! - Tôn Đại Cô đưa ánh mắt sắc lạnh nhìn bà Lã rồi nhìn lướt cánh đàn ông trong sân, tỏ vẻ không bằng lòng - Nhà chị mời ta hay mời Ba Phàn đến đỡ đẻ?
- Bà chị đừng giận, tục ngữ có câu: Có bệnh thì vái tứ phương, ai có sữa người ấy là mẹ mà lại? - Bà Lã nín nhịn tới mức khó tin, nói nhỏ - Tất nhiên là vạn bất đắc dĩ mới dám mời bà chị, nếu không, làm sao tôi dám động vào thần linh?
- Thế nhà chị không bảo ta bắt trộm con gà nhép của nhà chị nữa hả? - Tôn Đại Cô nói - Muốn ta đỡ cho, người khác không được nhúng tay vào!
- Xin vâng, bà chị bảo sao thì làm vậy - Bà Lã nói. Tôn Đại Cô rút trong bọc ra một dải lụa đỏ giắt lên cửa sổ, rồi lừng lững đi vào, đến của buồng, bà dừng lại bảo bà Lã:
- Nhà chị Thượng Quan, vào đây!
Ba Phàn đến bên cửa sổ lấy lại lọ nước màu xanh mà bà Lã để ở đó, đút vào túi thuốc. Rồi cũng không chào từ biệt cha con Phúc Lộc, chạy vù ra cổng.
- A men! - Mục sư Malôa lại làm dấu chữ thập trước ngực rồi nhìn cha con nhà Thượng Quan tỏ vẻ thân thiện.
Trong buồng vang lên tiếng quát tháo của Tôn Đại Cô, tiếp đó vang lên tiếng gào thét của chị Lỗ.
Thọ Hỉ bịt tai ngồi xổm dưới đất, cha là Phúc Lộc thì chắp tay sau đít đi quạnh sân, bước chân gấp gáp, đầu cúi gằm như đang tìm kiếm vật gì đó.
Mục sư Malôa lại nhỏ nhẹ cất lời cầu nguyện như lúc nãy, mắt nhìn lên bầu trời đầy mây. Con la mới sinh chệch choạng từ chái tây đi lại. Lông của nó mượt như nhung. Nó đi ra trong tiếng gào từng đợt của chị Lỗ. Nó dỏng tai lên, đuôi kẹp giữa hai chân, đến bên ang nước dưới gốc cây thạch lựu một cách vất vả, sợ hãi nhìn những người đàn ông ở trong sân. Không ai để ý đến nó. Thọ Hỉ bịt tai mà khóc. Ông Phúc Lộc bận đi vòng quanh sân. Malôa nhắm mắt cầu nguyện. Con lừa vục mõm vào ang nước, uống xong, nó chậm rãi đến chỗ làn lạc củ gác trên đống rơm, há miệng gặm vỏ lạc.
Tôn Đại Cô thò một tay vào âm đạo chị Lỗ, kéo nốt chân kia của đứa bé ra. Người mẹ gào lên và ngất xỉu: Tôn Đại Cô thổi vào mũi chị Lỗ một ít bột màu vàng, rồi hai tay cầm hai chân đứa bé, chờ đợi. Chị Lỗ tỉnh lại, rên rỉ, hắt hơi hên tục, người giật lên từng cơn. Chị cong người lên rồi lại thả phịch xuống. Chỉ đợi có thế, Tôn Đại Cô lôi đứa bé ra. Cái đầu vừa dẹt vừa dài của đứa bé khi ra khỏi bụng mẹ, thì một tiếng ục vang lên, máu tươi bắn đầy chiếc áo trắng của Tôn Đại Cô.
Treo ngược dưới tay Tôn Đại Cô là một bé gái toàn thân tím ngắt.
Bà Lã đấm ngực thùm thụp, cất tiếng gào. Bụng chị Lỗ co giật một cách đáng sợ, máu tươi lại vọt ra giữa hai chân, một đứa nữa tóc màu vàng tuồi ra như cá.
Bà Lã thoắt cái đã nhận ra cái chim bé tí như con nhộng giữa hai chân đứa bé. Bà hục lên một tiếng rồi quì xuống bên giường.
- Tiếc quá, cái thai này đã chết! - Tôn Đại Cô tỏ ý tiếc rẻ.
Bà Lã thấy trời đất quay cuồng, đầu va vào thành giường. Bà vịn vào thành giường đứng dậy một cách khó nhọc, nhìn thoáng một cái sắc mặt xám ngoét của con dâu, rồi rên rỉ đi ra khỏi buồng.
Ngoài sân im lìm như chết. Người con trai phủ phục dưới đất, cổ vươn dài, dòng máu rỉ ra chảy ngoằn ngoèo trên mặt đất, cái đầu ngay ngắn trên cổ giữ nguyên vẻ kinh hoàng trên nét mặt. Người chồng thì đang căn một mảnh ngói vỡ, một tay kẹp dưới bụng, tay kia xoài về phía trước, sau gáy là một vết nút vừa to vừa dài, chất nhầy màu trắng đỏ vương vãi trên lối đi. Mục sư Malôa quì dưới đất, tay làm dấu, tuôn ra hàng tràng những tiếng nước ngoài. Hai con ngựa cao lớn đủ yên cuồng đang nhai những thân cây lạc. Con lừa đen cùng con la mới đẻ co rúm ở một góc tường, đầu con la rúc vào bụng mẹ, cái đuôi ngắn ngủn ngoe nguẩy như rắn. Hai tên lính Nhật mặc binh phục màu vàng, một tên đang dùng khàn tay lau máu trên kiếm, tên kia đang rạch thủng những bao cói đụng lạc. Nhà Thượng Quan năm ngoái trữ được năm tạ lạc củ, đợi năm nay lên giá thì bán. Lạc chảy tung tóe dưới đất, hai con ngựa cúi xuống nhai lạc rau ráu, cái đuôi đồ sộ và đẹp mắt khẽ vung vẩy tỏ vẻ mãn nguyện.
Bà Lã bỗng thấy Trời đất quay cuồng. Bà định chạy đến cứu chồng và con trai, nhưng cơ thể đồ sộ của bà đã đổ ập xuống chẳng khác một bức tường bị sập.
Tôn Đại Cô đi vòng qua người bà Lã, bước những bước vững vàng ra cổng. Tên lính Nhật có cặp mắt rất xa nhau, lông mày rậm và cụt lủn, vứt khăn lau xuống đất, vụng về nhảy tới trước mặt Tôn Đại Cô, giơ thanh kiếm sáng loáng chĩa thẳng vào ngực bà. Tên lính chửi câu gì đó, vẻ mặt man rợ. Bà đứng im nhìn tên lính, thậm chí còn nhếch mép cuối giễu. Bà lui lại một bước, tên lính tiến lên một bước. Bà lui hai bước, hắn tiến hai bước. Thanh kiếm sáng loáng vẫn dí mũi trên ngực bà. Tên lính lấn từng bước, bà không nhẫn nại được nữa, tung một cú đá đẹp mắt đến mức khó tin, trúng cổ tay tên lính. Thanh kiếm văng đi. Tôn Đại Cô tung mình nhảy tới, cho tên lính một bạt tai. Hắn ôm mặt kêu như bị chọc tiết. Tên lính kia vác kiếm xông tới nhằm vào đầu bà mà chém. Bà nhẹ nhàng xoay người lại, chộp lấy cổ tay tên lính bóp mạnh, thanh kiếm rớt xuống đất, tên lính ăn luôn một bạt tai, cái bạt tai tuy có vẻ nhẹ, nhưng nửa mặt tên lính lập tức sưng vù.
Tôn Đại Cô đi thẳng ra cổng, không thèm nhìn lại. Tên lính Nhật giơ súng lên, lẩy cò. Bà dướn người một cái rồi ngã vật xuống.
Quãng trưa, một tốp lính Nhật kéo vào sân nhà Thượng Quan. Bọn lính tìm thấy trong gian chái có một cái sọt dan bằng cành liễu, bèn trút đầy lạc vào sọt rồi khênh ra ngõ cho ngựa ăn. Hai tên lính áp giải mục sư Malôa đi nơi khác. Tên bác sĩ quân y đeo kính gọng sùng đi theo viên chỉ huy bước vào căn buồng chị Lỗ. Tên bác sĩ cau mày, mở túi thuốc, đeo găng, dùng dao mạ kền cắt rốn cho đứa bé. Hắn cầm ngọc thằng bé, phát vào lưng cho đến khi thằng bé khóe oe oe như tiếng mèo kêu, mới đặt xuống. Tiếp đó, hắn xách đứa bé gái lên, lại phát bôm bốp, cho đến khi em bé hơi tỉnh. Tên bác sĩ bôi thuốc dỏ vào rốn cho hai đứa bé và băng lại. Cuối cùng, hắn tiêm cho chị Lỗ hai mũi cầm máu. Trong quá trình tên bác sĩ chữa cho sản phụ và hai đứa bé, tên phóng viên chụp nhiều pô ảnh từ những góc độ khác nhau. Một tháng sau, những tấm ảnh đó được đăng trên báo chí ở Nhật Bản.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 10
Vâng, tôi và chị Tám từng rơi vào tay viên quân y Nhật, vượt biển, xuất hiện trên báo chí Nhật bản. Sau đó mấy chục năm, các Hồng vệ binh dùng roi mây đánh tôi, tra hỏi: Nói! Quân y Nhật vì sao lại cứu mày? Tôi oan quá, vừa khóc vừa nói: Tôi không rõ, không biết gì hết. Đánh, đánh chết cái ngữ vừa lọt lòng mẹ đã làm Hán gian. Roi quất vun vút, mông đít tôi bật máu tươi. Oan tôi quá, tôi nói, oan cho tôi quá! Lại mấy chục năm sau, viên quân y Nhật đầu bạc phơ cùng ông Chủ nhiệm Kinh tế đối ngoai thị trấn Đại Lan đến gặp tôi, khi ấy tôi năm mươi hai tuổi: ông ta giở ra một tờ báo đã ố vàng cho tôi xem. Trên báo là ảnh hai đứa trẻ xấu xí hết cỡ, còn viên quân y Nhật thì sao mà đẹp, sao mà thanh nhã. Người phiên dịch bảo tôi, tiên sinh Koyoto là triệu phú Nhật Bản đến thị trấn ta để đầu tự Ông ta nói rằng cách đây hơn năm mươi năm đã từng đến thị trấn này, cứu sống một người mẹ và hai con.
- Chúng tôi đã rà soát bằng nhiều cách, thấy rằng, những người được cứu chính là mẹ con anh.
Đứng trước vị ân nhân này tôi chẳng thấy xúc động chút nào. Tôi nói vẻ lạnh nhạt:
- Xin lỗi, ông nhầm người rồi!
Tôi trông thấy vẻ lúng túng của viên bác sĩ quân y già. Ông ta cúi rạp vái tôi một vái, miệng lí nhí xin lỗi.
- Cút mẹ mày đi - tôi lẩm bẩm trong miệng, rồi quay lại đút mồi cho con yểng biết nói.
Sau khi tiêm thuốc cầm máu, mẹ tôi tỉnh lại, cái nhìn đầu tiên là nhìn tôi - chính xác hơn là nhìn cái chim bé như con nhộng ở giữa hai chân tôi, cặp mắt u tối của mẹ chợt bừng sáng. Mẹ bế tôi lên, áp mặt vào mặt tôi. Mặt tôi đẫm nước mắt của mẹ. Tôi khóc oe oe, miệng tìm vú. Mẹ nhét vú vào miệng tôi. Tôi mút vú thành thạo như đã được huấn luyện trước. Chỉ có mùi tanh của máu, không có sữa. Tôi khóc thét lên. Chi Tám cũng khóc. Mẹ tôi trông thấy chị nhưng không bế chị lên. Mẹ đặt hai chị em nằm kề nhau, rồi bước xuống giường, lảo đảo ra chỗ ang nước, vục đầu mà uống như lừa ngựa. Mẹ đờ đẫn nhìn các xác chết trong sân. Lừa mẹ và la con run rẩy bên vựa lạc. Mẹ thấy đất trời chao đảo. Các chị lếch thếch nhạy về, vây quanh mẹ, chỉ khóc được mấy tiếng rời rạc, rồi vì mệt quá, đều ngất xỉu dưới chân mẹ. Ống khói bếp nhà tôi tỏa khói trắng. Mẹ mở hòm của bà nội, lấy ra trứng gà, táo đỏ, đường phèn và một củ sâm đất để dành đã lâu. Nước trong nồi đã sôi, trứng gà nhào lộn trong nước. Mẹ gọi các chị lại ngồi xung quanh một cái chậu, múc thức ăn từ nồi vào chậu rồi bảo: Các con ăn đi! Các chị múc thức ăn ra bát, tranh nhau ăn. Người thì ăn trứng, ăn cả vỏ. Người ăn táo, nuốt chửng cả hột. Mẹ chỉ uống phần nước. Mẹ uống liền ba bát, chậu thức ăn đã cạn tới đáy. Mọi người ngồi yên một lát rồi ôm nhau khóc. Khóc chán, mẹ nói:
- Các con ơi, chúng ta có thêm một em trai và một em gái!
Mẹ cho tôi bú sữa. Tôi mút được một thứ sữa hỗn hợp có vị của táo, đường và trứng gà - một dịch thể vĩ đại và quí giá. Tôi mở mắt, các chị vui vẻ nhìn tôi. Tôi mơ hồ nhìn thấy các chị. Tôi ti cạn dòng sữa trong vú mẹ trong khi chị Tám khóc ngằn ngặt, mắt nhắm nghiền. Tôi nghe thấy mẹ thở dài bế chị lên:
- Con ơi, con là người thừa rồi!
Sáng sớm hôm sau, tiếng thanh la vang lên ngoài ngõ. Ông Cả Tư Mã Đình nhà Phúc Sinh Đường giọng khản đặc, thông báo:
- Bà con ơi, nhà nào có xác chết thì khênh ra!
Mẹ bế tôi và chị Tám đứng trong sân, tấm tức khóc trong họng. Tiếng khóc của mẹ khô khốc, đứt đoạn như những thân cây liễu bị chặt ra từng khúc, đầy cay đắng, không có nước mắt. Các chị vây quanh mẹ, người khóc, người không khóc. Trên mặt các chị cũng không có nước mắt.
Tư Mã Đình xách thanh la bước vào nhà tôi. Đó là một người như quả dưa héo, khó đoán tuổi, vì rằng trên khuôn mặt đầy nếp nhăn là một cái mũi tròn trịa như nấm rơm và cặp mắt sáng và đen như mắt trẻ. Lưng hơi gù có vẻ đã bước sang tuổi già, nhưng hai bàn tay thì vừa trắng vừa mập, lòng bàn tay có năm cái mụn cơm. Hình như để mẹ tôi chú ý, lão đứng cách mẹ chỉ một bước chân, gõ thật mạnh một dùi vào thanh lạ Tiếng thanh la khàn khàn, vỡ ra như vết nứt lò phóng xạ, xoáy vào từng mạch máu, từng đường gân thớ thịt. Mẹ ngừng bặt, họng cứng lại, ngưng thở trong một phút, tim cũng ngừng đập, máu không chảy. Thê thảm quá! Tư Mã Đình thở dài. Đôi môi và hai mép lão, gò má lão đều lộ vẻ đau xót và căm phẫn cùng cục, nhưng cái mũi và cặp mắt của lão thì lại lộ vẻ mừng thầm, cho rằng trong cái rủi có cái maỵ Lão bước đến bên cái xác đông cứng của Phúc Lộc, đứng lặng một lát. Rồi lão lại gần cái xác Thọ Hỉ đầu lìa khỏi cổ, cúi xuống nhìn vào đôi mắt đã mất hết ánh sáng, làm như muốn trao đổi tâm tình với Thọ Hỉ. Miệng lão trễ xuống để rớt một dòng nước bọt, nét mặt lão đần độn và man rợ, hoàn toàn tương phản với vẻ mặt thanh thản của Thọ Hỉ.
- Các người không nghe lời tôi, các người không nghe lời tôi!...
Lão lẩm bẩm trong miệng như trách cứ người đã chết, lại như đang nói một mình. Trở lại trước mặt mẹ, lão nói:
- Chị Thọ Hỉ này, tôi cho người khiêng hai cái xác đi. Thời tiết này, chị thấy đấy!
Lão ngửa mặt nhìn trời. Mẹ cũng ngẩng lên nhìn. Trên đầu là bầu trời màu chì đè nặng đến nghẹt thở, phía đông đỏ như máu bị những cụm mây đen dồn nén.
- Con sư tử đá nhà tôi chảy mồ hôi, mưa ập đến ngay bây giờ. Không đưa họ đi, dầm mưa dãi nắng, chị hiểu chưa?
Mẹ bế tôi quì trước mắt Tư Mã Đình, nói:
- Ông Cả, tôi mẹ góa con côi, xin nhờ vào ông! Các con ơi, lại đây, các con lạy bác đi!
Các chị tôi quì trúc mặt Tư Mã Đình. Lão gõ mấy tiếng thanh la thật to.
- Tổ sư chúng nó! Lão chửi, nước mắt ứa ra - Đây là bọn Sa Nguyệt Lượng gây ra đây! Chúng nó đánh phục kích, bọn Nhật liền nhè vào dân chúng mà trút giận! Này cô em, này các cháu, đứng cả dậy, đừng khóc nữa, tai họa không chỉ có nhà mình. Ai bảo tôi được ủy nhiệm thay chúc Trưởng trấn của Trương Duy Hán làm gì? Huyện trưởng bỏ chạy, Trấn trưởng thì không. Tổ sư nó!
Lão gọi với ra ngoài cổng:
- Ba Câu, Tư Diêu đâu, còn chần chờ gì nữa, chẳng lẽ phải dùng kiệu bát cống rước các anh vào đây hả?
Ba Câu và Tư Diêu rón rén bước vào sân, theo sau là một đám người vô công rỗi nghề trong thị trấn. Họ đều là tay chân của Trưởng trấn, thuộc đội danh dự và là tùy tùng của Trưởng trấn mỗi khi làm công vụ. Họ là hiện thân của oai phong và quyền lực của Trưởng trấn. Tư Diêu nách cắp quyển sổ mỏng đóng lề bằng dây gai, cài trên tai chiếc bút chì sọc màu. Ba Câu cố sức lật cái xác Phúc Lộc ngửa mặt lên bầu trời mây đen vần vũ. Anh ta dài giọng xướng:
- Thượng Quan Phúc Lộc - đầu bị chém vỡ đôi - chủ hộ.
Tư Diêu nhấm nước bọt giở sổ, lật đi lật lại, tìm hồi lâu mới thấy trang giấy ghi chép về nhà Thượng Quan, rồi gỡ bút chì trên vành tai xuống, chân quì chân không, dùng gối làm bàn viết, đặt quyển sổ lên, thấm bút bằng nước bọt, rồi câu một nét xóa tên Phúc Lộc...
- Thượng Quan Thọ Hỉ - giọng ba Câu đột nhiên trầm hẳn xuống - chết đầu lìa khỏi xác.
Mẹ khóc rống lên. Tư Mã Đình bảo Tư Diêu:
- Ghi đi, ghi đi, có nghe thấy không?
Nhưng Tư Diêu chỉ khoanh một vòng tròn lên tên Thọ Hỉ, không ghi nguyên nhân vì sao mà chết. Tư Mã Đình giơ dùi thanh la gõ vào đầu Tư Diêu, chửi:
- Đ. mẹ mày, ăn cắp ngày công cả với người chết, mày khinh tao không biết chữ hả?
Tư Diêu xịu mặt:
- Thưa ông, đừng đánh nữa, tôi đã ghi trong lòng rồi, nghìn năm nữa cũng không thể quên.
Tư Mã Đình trợn mắt:
- Sống dai thế! Những một nghìn năm, rùa hay ba ba mà sống lâu thế!
Tư Diêu nói:
- Thưa ông, đây chẳng qua là ví von. Việc lượm xác này của ông...
- Ai lượm cùng với mày!
Tư Mã Đình lại nện Tư Diêu một dùi. Ba Câu đứng bên thân thể bất động của bà Lã, ngoảnh mặt hỏi mẹ:
- Mẹ chồng chị tên họ là gì?
Mẹ lắc đầu. Tư Diêu dùng bút chì gõ gõ vào cuốn sổ, nói:
- Họ Lã...
Ba Câu cúi xuống kiểm tra thân thể bà Lã. Quái lạ, không bị vết thương nào, anh ta lẩm bẩm, rồi túm tóc bà Lã nâng đầu dậy. Từ miệng bà Lã lọt ra một tiếng rên yếu ớt. Ba Câu vội đứng thẳng lên, mắt trợn tròn, đi thụt lùi liền mấy bước, miệng lắp bắp:
- Đâu phải là... xác chết!
Bà Lã từ từ mở mắt, nhìn mà không hẳn nhìn vào chỗ nào như đứa trẻ sơ sinh. Mẹ gào lên:
- Mẹ Ơi.
Mẹ bế tôi đến bên bà nội. Đi được hai bước mẹ dùng lại, cảm thấy mẹ chồng rõ ràng là nhìn về phía mình, nhìn vào tôi. Tư Mã Đình nói:
- Cô em, bà bác như vậy là hồi quang phản chiếu, xem ra bác ấy muốn biết con em là trai hay gái?
Cái nhìn của bà nội khiến mẹ tôi rất khó chịu, tôi khóc, nước mắt ràn rụa. Tư Mã Đình bảo:
- Cho bà ấy ngó cháu nội một cái, để bà đi cho yên lòng. Mẹ quì xuống, lết bằng gối đến bên bà nội, giơ tôi lên trước mặt bà, vừa khóc vừa nói:
- Mẹ Ơi, con không còn cách nào khác mới ra thế này...
Dưới đít tôi, ánh mắt của bà bỗng lóe lên những tia giận dữ. Bụng bà réo ùng ục rồi xả ra một tràng rắm thối.
- Hỏng rồi, thoát khí rồi, thế là hết!
Tư Mã Đình nói. Mẹ bế tôi đứng dậy, trước c mặt những người đàn ông, mẹ vén áo cho tôi ti sữa. Bầu vú to bự phủ kín mặt, tôi lập tức ngừng khóc. Trưởng trấn Tư Mã Đình tuyên bố:
- Thượng Quan Lã thị, vợ Thượng Quan Phúc Lộc, mẹ đẻ Thượng Quan Thọ Hỉ, vì chồng con dâu tử nạn, nên đứt ruột mà chết! Được rồi, khiêng đi!
Mấy dội viên đội lượm xác vừa giơ móc câu lên thì bà nội từ từ bò dậy như một con rùa già. Nắng dọi trên khuôn mặt phù thũng, xanh như vỏ chanh của bà nội. Bà ngồi dậy tựa lưng vào tường, cười cay độc. Bà ngồi đó, vũng vàng như một quả núi nhỏ.
Tư Mã Đình nói:
- Bà bác ơi, mệnh của bà lớn lắm! Không chết, đừng xóa tên!
Những tùy tùng của Tư Mã Đình, người nào cũng bịt miệng bằng chiếc khăn tẩm rượu để chống lại mùi xác chết. Họ khiêng đến một chiếc cánh cửa trên đỏ còn lưu lại vết tích mờ nhạt của những câu đối, nếu không là Một đêm nối hai năm thì chắc chắn là: Tuyết đầu mùa báo hiệu được mùa. Mỗi người đều mang theo móc câu bằng sắt, họ dùng móc câu lôi xác lên cánh cửa. Bốn kẻ vô công rỗi nghề - giờ đây họ là đội viên Đội lượm xác của cơ quan Trấn, vội vã dùng móc câu móc chân tay Phúc Lộc rồi quẳng lên tấm cửa. Hai người, một trước một sau, khênh ra ngoài cổng. Một cánh tay đã cứng đờ của Phúc Lộc bỏ thõng ngoài mép ván, đung đưa chẳng khác quả lắc của đồng hồ treo tường.
- Kéo bà lão này sang một bên.
Một trong hai người khiêng kêu lên. Hai người khác lại chạy ra. Đó là Tôn Đại Cô, vợ Ông thợ đắp lò
- Bà này sao lại chết ở đây?. Người trong ngõ hỏi vậy. Hãy đem bà ta ra xe!
Cảnh tượng ồn ào diễn ra trong ngõ.
Tấm ván cổng đã đặt bên cạnh Thọ Hỉ. Anh ta giữ nguyên tư thế trước khi chết, từ cái lỗ trống hoác chĩa lên trời như kêu gọi trời xanh, phun ra từng đám bọt, y như có một con cua nấp trong đó. Các đội viên do dự, chưa biết giải quyết như thế nào. Một người nói:
- Ôi dào, cứ câu lên đi. Anh ta vừa nói vừa giơ móc câu lên.
Mẹ gào lên:
- Đừng dùng móc câu móc anh ấy!
Mẹ ấn vội tôi vào lòng chị Lai Đệ, vừa kêu gào vừa phủ phục bên xác chồng. Mẹ thử nhặt cái đầu lên, nhưng vừa chạm tay liền rụt lại:
- Thôi nào, bác ơi! Chẳng lẽ bác chắp được đầu vào thân? Bác ra ngoài xe mà xem, có người bị chó xé nát, chỉ còn mỗi một cái chân! Bác giai thế là còn khá.
Vì vướng khăn, nên giọng nói ồm ồm:
- Tránh ra, quay mặt đi, đừng nhìn! Họ lôi mẹ ra một cánh thô bạo, dồn mẹ và các chị vào một chỗ.
Anh ta nhắc:
- Nhắm mắt lại!
Khi mẹ và các chị mở mắt ra, các xác chết trong sân đã được dọn đi.
Chúng tôi đi sau cỗ xe ngựa chất đầy xác chết, trên đường phố đầy bụi. Ba con ngựa rất giống ba con mà buổi sáng hôm ấy chị Lai Đệ đã trông thấy: một con màu hoàng hạnh, một con màu táo hồng, một con màu lam ngọc, ba con ngựa hùng dũng béo tốt là thế, mà nay ủ rũ, xọm hẳn đi. Con hoàng hạnh bị thọt, mỗi bước đi đầu lại gật một cái. Chúng bước đi lặng lẽ, chậm chạp. Lão xà ích tay vịn dóng xe, tay thả lỏng cây roi. Lão có bộ tóc ba chòm, hai bên đen, giữa là một vệt trắng. Lão dẩu mỏ, y hệt một con sẻ rừng. Hai bên đường, những con chó mắt đỏ ngầu, nhìn chăm chằm vào những xác chết trên xe. Đi lẫn trong đám bụi sau xe, là thân nhân của những người bị hại, đi sau cùng là Trưởng trấn Tư Mã Đình cùng Đội danh dự của lão cầm đầu là Ba Câu và Tư Diêu, người vác xẻng, người cầm móc câu. Một người vác cây sào dài, đầu sào có những tua bằng vải đỏ. Tư Mã Đình tay xách thanh la, cứ khoảng mười bước chân lại gõ một tiếng. Và mỗi lần tiếng thanh la dóng lên, các thân nhân lại òa khóc. Họ khóc không tự nhiên, dư âm của thanh la vừa dứt thì tiếng khóc cũng ngừng, hình như không phải vì đau xót, mà là để hoàn thành nhiệm vụ do Trưởng trấn giao cho.
Và cứ như vậy, chúng tôi đi sau xe, khóc dứt quãng từng chặp, qua nhà thờ có gác chuông đổ nát, qua khu vực có cối xay gió mà cách đây năm năm, Tư Mã Đình cùng em trai là Tư Mã Khố lắp đặt thử để xay bột mì. Hơn chục chiếc cối xay gió chỏng chơ chĩa lên trời, cánh quạt kêu kèn kẹt. Chúng tôi bỏ lại sau lưng trụ sở Công ty trồng bông sản lượng cao mà cách đây hơn hai mươi năm một thương gia Nhật tên là Myamoto chủ trì, bỏ lại sân phơi nhà họ Mã cùng với khán đài mà Huyện trưởng Cao Mật Ngưu Đằng Tiêu đã đứng diễn thuyết trong phong trào xóa bỏ tục bó chân. Cuối cùng bỏ lại con đường song song với dòng sông Mực, rẽ vào cánh đồng rộng, bằng phẳng, chạy dài tới vùng đầm lầy. Gió nam ẩm ướt đưa tới mùi cỏ mục. ếch kêu ồm ộp dưới lòng mương và các vũng nước rải rác đây đó. Từng bầy những con gọng vó dầy đặc, làm nước sông thay đổi cả màu sắc. Xe tang vào đến cánh đồng thì tăng tốc độ. Lão xà ích biệt hiệu Sẻ Rừng vung roi thúc ngựa đi nhanh, ngay cả con ngựa đi cà nhắc cũng bị quất một roi. Mặt đường lồi lõm, xe lắc dữ dội, những xác chết trên xe dồn nén, bốc mùi nồng nặc, nước vàng rỉ xuống từ kẽ hở sàn xe. Tiếng khóc đã ngừng hẳn, các thân nhân kéo vạt áo bịt mũi. Tư Mã Đình cùng bọn tùy tùng lách lên vượt trước đoàn xe, khom lưng mà chạy, bỏ lại chúng tôi, bỏ lại mùi hôi thối đến tắt thở lại sau. Mười mấy con chó dại cùng cất tiếng sủa, nhảy như con choi choi trong đám lúa mạch ven đường, nhấp nhô chẳng khác những con hải cẩu lặn hụp trên sóng biển. Ruồi nhặng không chê xác chết. Hôm nay là ngày hội của quạ và diều hâu. Tất cả những con quạ trên vùng Cao Mật rộng lớn đều có mặt, đen kịt bầu trời phía trên xe. Chúng bổ nhào xuống đất, kêu quạ quạ chói tai, tỏ vẻ mừng rỡ. Những con dày dạn, dùng mỏ cứng mổ mắt xác chết, phát ra những tiếng bộp bộp. Sẻ Rừng dùng roi vụt, mỗi lần vụt là chết một con. Vài con ngã xuống đất bị bánh xe nghiền nát. Có khoảng bảy tám con diều hâu bay lượn trên không. Dòng khí lưu phức tạp khiến chúng có lúc sà xuống thấp hơn lũ quạ. Diều hâu cũng thích xác chết. Chúng là loài ăn thịt thối. Nhưng chúng không nhập bọn với lũ quạ mà giữ vẻ cao ngạo vờ vĩnh.
Mặt trời ló ra khỏi tầng mây, cánh đồng tiểu mạch trải đài tít tắp bừng sáng. Gió bắt đầu đổi chiều. Trong quá trình đổi hướng, có một khoảnh khắc lặng gió, sóng lúa đang dồn dập bỗng im lìm như ngủ, hoặc giả như chết. Một tấm thảm màu vàng rộng mênh mông kéo dài đến tận chân trời, phơi dưới nắng. Cơ man nào là râu của những hạt mạch chín, dựng tua tủa như kim, lấp lóa lấp lóa, một biển lấp lóa ngút tầm mắt. Chính lúc đó, cỗ xe rẽ vào con đường chật hẹp của cánh đồng lúa mạch. Xà ích chỉ có thể lội lúa mạch mà dị Hai con ngựa đi đầu không thể song hành, hoặc là con màu hoàng hạnh đi trên đường thì con màu lam ngọc đi trên ruộng, hoặc ngược lại. Hai con ngựa như hai đứa trẻ ngỗ nghịch, lúc thì con nọ huých con kia vào ruộng, lúc thì con kia huých con nọ vào ruộng. Xe đi chậm hẳn lại, lũ quạ càng điên cuồng. Vài chục con ngang nhiên đậu trên xác chết, dựng cánh lên mổ như máy. Lão Sẻ Rừng đuổi không kịp. Lúa mạch năm nay đặc biệt tốt, thân mập, bông nặng trĩu, hạt mẩy. Râu lúa quệt vào bụng ngựa, vào bánh xe cao su, vào thành xe loạt soạt, khiến người ta có cảm giác ngứa ngáy, tiếng quạ kêu cũng không át nổi. Tiếng rì rào của lúa là biển cả. Tiếng kêu của lũ quạ chỉ như một tấm ván trôi trên biển. Trong đám ruộng mạch thi thoảng lại nhô lên cái đầu của lũ chó. Chúng không dám mở to mắt, sợ mù vì râu lúa. Chúng nhờ vào khứu giác mà định hướng cho chuẩn xác.
Sau khi đi vào cánh đồng lúa mạch, đội hình chúng tôi dàn dài ra. Mọi người ngừng kêu gào từ lâu, ngay cả tiếng sụt sịt cũng chấm dứt. Thi thoảng lại có một em nhỏ vấp ngã, người đi bên cạnh bất kể là ai lập tức giơ tay vực dậy. Trong không khí đoàn kết trang nghiêm ấy, trẻ con vấp chảy máu môi cũng không khóc. Cánh đồng mạch êm ả, nhưng trong đó là sự căng thẳng. Đôi khi những con chim cút bị kinh động bởi cỗ xe hoặc lũ chó hoang bay vụt lên, là là một đoạn ngắn rồi lại mất hút trong đám lúa mạch. Rắn mạch tiêu! Mạch tiêu là loại rắn nhỏ, đỏ như lửa, nọc cực độc ở vùng đông bắc Cao Mật. Chúng thường phóng điện trên râu lúa để đùa rỡn. Ngựa trông thấy tia lửa điện trên râu lúa là run lẩy bẩy, gục đầu xuống rãnh ư ư? như chó, không dám ngẩng lên. Mặt trời mọi khi khuất một nửa trong mây thì nửa kia ánh nắng cực kỳ gay gắt. Những đám mây khổng lồ vội vã trôi qua trên cánh đồng lúa mạch, những chỗ được nắng vàng rục như lửa. Trong khoảng thời gian để gió đổi chiều, hàng tỉ tỉ cây lúa quấy đảo không khí, lúa đang rì rào, lúa đang thầm thì trao đổi những tin tức đáng sợ.
Thoạt tiên là một làn gió nhẹ từ hướng đông bắc lướt qua cánh đồng. Hình dáng của gió được biểu hiện qua hàng tỉ cây lúa run rẩy. Biển lúa im lìm, xuất hiện một số rãnh nhỏ như khe suối. Làn gió tiếp theo mạnh hơn, chia cắt biển lúa ra từng vệt. Túm vải do trên đầu sào bay phần phật, réo vù vù. Chân trời mạn đông bắc xuất hiện một con kim sà khổng lồ, đỏ như pha máu, tiếng sấm nặng nề vọng tới. Lại một khoảnh khắc yên lặng, những con diều hâu đang bay lượn bỗng sà xuống thấp, rồi mất hút trong đám lúa mạch. Lũ quạ thì bung ra như một quả trái phá, hốt hoảng tìm chỗ cao ẩn nấp, vừa bay vừa kêu. Rồi cơn bão ập tới, sóng lúa quằn quại, từ bắc dồn sang tây, từ tây dồn xuống nam. Sóng dài, sóng ngắn, xô đẩy nhau, dồn ép nhau xoắn lại thành xoáy lúa màu vàng. Biển lúa đang sôi sục. Đàn quạ tan biến. Những hạt mưa lớn, đơn độc, rơi lộp bộp, xen vào đó là những cục đá to bằng hạt hạnh đào. Thoắt cái, trời lạnh thấu xương. Những cục đá rơi rải rác trên những bông lúa mạch, trên mông và tai ngựa, trên bụng người chết và đầu người sống. Vài con quạ bị đá rơi trúng đầu, chết ngay trước mặt chúng tôi.
Mẹ Ôm chặt tôi vào lòng, che đầu tôi - cái đầu mong manh dễ vỡ, dưới cặp vú đồ sộ và ấm áp của bà. Mẹ thường đặt chị Tám - người mà từ khi sinh ra đã bị coi là người thừa - trên giường, làm bạn với bà nội nửa ngây nửa dại. Bà nội tự bò vào được chái tây bốc phân lừa để ăn. Các chị tôi cũng học theo người ta, cởi áo quấn lên đầu. Cặp vú rắn chắc, to bằng quả táo của chị Lai Đệ, đã phô vẻ đẹp bằng cách hằn qua ngực áo. Chị không cởi áo như những người khác. Chị hai tay ôm đầu, người ướt đẫm nước mưa, gió dán chặt áo vào người chị.
Lội bộ rất vất vả, cuối cùng chúng tôi cũng tới nghĩa trang. Đây là một khuôn viên mười mẫu đất, xung quanh là ruộng lúa. Trong nghĩa trang có mấy chục ngôi mộ lút trong cỏ dại, những tấm mộ chí bằng gỗ đều mục nát. Tạnh mưa, những đám mây rách bươm vội vã trôi. Qua kẽ mây, da trời xanh ngắt, nắng bỏng rát. Những cục đá chưa tan bốc hơi trong chớp mắt. Những cây lúa bị thương, có cây ngỏng dậy được, có cây nằm xuống vĩnh viễn. Gió lạnh chuyển nhanh sang gió nóng, thay đổi từng phút một.
Chúng tôi tụ tập ở rìa nghĩa trang nhìn Trưởng trấn Tư Mã Đình đi đi lại lại trong đó. Cào cào bay loạn xạ dưới chân lão, bên trong đôi cánh cứng là cặp cánh lụa màu hồng, chẳng khác năm mươi năm sau, bên trong váy của người đẹp là chiếc xi-líp màu hồng. Tư Mã Đình dừng lại bên khóm cúc vàng đầy những bông cúc nhỏ, chân dẫm dẫm mặt đất, nói to:
- Chỗ này, đào chỗ này! Bảy người đàn ông đen nhẻm, uể oải đi tới chỗ đã định, chống xẻng nhìn nhau, nhìn kỹ như để nhớ mặt nhau. Rồi, ánh mắt chuyển sang Tư Mã Đình.
- Các người nhìn gì tả Tư Mã Đình gầm lên - Đào đi!
Lão quẳng thanh la và dùi ra phía sau. Thanh la rơi xuống đám cỏ mao, một con dế hốt hoảng bỏ chạy. Chiếc dùi rơi vào đám lá cây đuôi chó. Tư Mã Đình giằng lấy một chiếc xẻng, cắm lưỡi xuống đất, đặt chân lên vai xẻng rồi dấn xuống. Lão khó nhọc bẩy tảng đất dầy đặc những rễ cỏ lên, rồi hai tay cầm chắc cán xẻng, trước tiên lão xoay trái 90 độ, sau đó xoay mạnh sang phải 180 độ, tảng đất bay đi rơi bụp xuống bụi bồ công anh như một con gà chết.
Lão trả lại chiếc xẻng cho người kia, vừa thở vừa nói:
- Đào mau lên! Các người có ngửi thấy mùi gì không?
Những người mặt đen cố sức đào, từng tảng đất bay đi dưới đất đã hình thành một cái hố ngày càng sâu.
Đã giữa trưa, không khí nóng bỏng. Giữa khoảng trời và đất là một màu sáng trắng, không ai dám ngước nhìn mặt trời. Mùi trên xe càng nồng nặc, dù chúng tôi đã đứng ở đầu gió, nhưng mùi hôi thối vẫn quẩn ngược lại, xáo trộn gan ruột mọi người, chỉ muốn nôn ọe. Lũ quạ lại kéo đến. Chúng như vừa tắm xong, bộ lông sạch tinh, màu xanh đen bóng loáng. Tư Mã Đình nhặt thanh la và cái dùi lên, chạy đến bên cỗ xe, bất chấp mùi hôi thối.
- Bọn súc sinh, xem chúng mày có dám sà xuống không? Ông đập cho nát bét bây giờ! Lão gõ thanh la, nhảy như choi choi, ngẩng lên trời mà chửi. Đàn quạ lượn vòng trên không ở độ cao mười mấy mét phía trên cỗ xe, kêu ầm ĩ, đồng thời vãi cút xuống. Lão Sẻ Rừng vớ lấy chiếc sào có những tua vải đỏ, khua lên trời đuổi đám quạ. Ba con ngựa khép chặt lỗ mũi, cái đầu vốn đã vụng về, vì cúi thấp, càng tỏ ra nặng nề hơn. Đàn quạ từng tốp lao xuống, kêu chói tai. Vài chục con bay quanh đầu Tư Mã Đình và lão Sẻ Rừng, mắt tròn xoe, cánh khỏe và rắn chắc, những cặp vuốt xấu xí bẩn thỉu, ấn tượng về chúng thật khó quên. Hai người dùng tay chiến đấu với lũ quạ. Những cái mỏ cứng mổ lên đầu họ. Họ bèn đánh quạ bằng thanh la, bằng dùi gõ, bằng cây sào có túm vai đỏ.
Những con quạ bị thương rơi xuống bãi cỏ xanh mượt điểm những bông hoa nhỏ màu trắng, cánh xõa ra, loạng choạng trốn vào đám lúa mạch. Nấp trong ruộng mạch là những con chó dại lao đến như tên bắn, xé tan xác con quạ bị thương. Chi trong chóp mắt, trên đám cỏ chỉ còn lại những cái lông quạ. Lũ chó phục trong ruộng lúa và ven rìa nghĩa trang, thè lưỡi đỏ như máu, thở hồng hộc. Lũ quạ chia lực lượng ra làm hai, một số quấy nhiễu Tư Mã Đình và lão Chim Sẻ Rừng, còn số lớn thì tề tựu trên xe kêu quạ quạ, rất sung sướng, rất đáng ghét, cổ như lò xo mỏ như mũi khoan thọc sâu vào các xác chết, ngon tuyệt, bữa tiệc của ma quỉ! Tư Mã Đình và lão Sẻ Rừng mệt đến nỗi nằm thẳng cẳng dưới đất, trên mặt bám một lớp bụi dầy, mồ hôi chảy thành rãnh trên đó, khiến khuôn mặt cực kỳ nhem nhuốc.
Cái hố đã sâu ngập đầu. Chúng tôi chỉ còn trông thấy những chỏm tóc khi ẩn khi hiện và từng xẻng đất nhão màu trắng bay lên. Chúng tôi còn ngửi thấy mùi dìu dịu của đất mới.
Một người đàn ông trèo lên miệng hố đến bên Tư Mã Đình, nói:
- Thưa ông, đã đào tới nước rồi!
Tư Mã Đình hé mắt nhìn anh ta, chậm rãi giơ một cánh tay lên. Anh ta lại nói:
- Ông Trưởng trấn, ông xem, sâu như vậy đủ rồi!
Tư Mã Đình cong ngón tay tróc mặt, anh ta tỏ vẻ không hiểu.
- Đồ khốn! - Tư Mã Đình nói Dựng tao dậy
Anh ta vội cúi xuống kéo Tư Mã Đình ngồi dậy. Lão rên rỉ quài tay đấm lưng. Người kia dìu lão trèo lên ụ đất mới đào.
- Cha mẹ Ơi! - Tư Mã Đình kêu lên. - Bọn bay lên hết cả đi, đào nữa thì đến suối vàng mất!
Những người dưới hố tranh nhau leo lên bờ. Vừa lên khỏi mặt đất đã tối tăm mặt mũi vì mùi hôi thối. Tư Mã Đình đá lão xà ích một cái, gọi:
- Dậy đi, vòng xe lại!
Lão xà ích nằm bất động. Tư Mã Đình quát to:
- Ba Câu, Tư Diêu đâu, quẳng thăng cha này xuống hố trước!
Ba Câu đứng lẫn trong đám phu huyệt, dạ lên một tiếng.
- Tư Diêu đâu? Tư Mã Đình hỏi.
- Chuồn rồi! - Ba Câu tức tối chửi.
- Về nhà đập vỡ bát cơm của nó đi!
Tư Mã Đình vừa nói vừa đá lão xà ích một cái nữa, hỏi:
- Chết thật hả?
Lão xà ích ngồi dậy, nét mặt thiểu não nhìn ra cỗ xe ngựa đỗ bên rìa nghĩa trang, trên xe dầy đặc những quạ bay loạn xạ, kêu ầm ĩ. Ba con ngựa phủ phục trên mặt đất giấu mõm trong bụi cỏ, những con quạ đậu đầy lưng. Trên bãi cỏ quanh xe, lũ quạ đang vươn cổ mà nuốt. Hai con quạ đang tranh nhau một khúc ruột, chúng như chơi trò kéo co, con này lui thì buộc con kia phải tiến hoặc ngược lại, có lúc cả hai cùng sững lại trong thế cân bằng. Chúng nhảy tâng tâng trên cỏ, cánh xõa, cổ vươn dài, lông ở cổ xù lên để lộ sắc da mai mái, hai cái cổ như lúc nào cũng có thể bứt ra khỏi thân. Một con chó xộc tới cướp lấy khúc ruột chạy đi, lôi theo hai con quạ lăn lông lốc.
- Thưa ông Trưởng trấn, xin ông mở lòng nhân đức mà tha cho tôi! - Lão xà ích quì xuống lạy Tư Mã Đình.
Tư Mã Đình cầm cục đất ném lũ quạ. Chúng không thèm để ý. Lão đến trước mặt thân nhân những người bị hại, nhìn họ bằng còn mắt thương cảm, nói lí nhí:
- Thế này nhé, các vị nên đi về!
Các thân nhân sững sờ. Mẹ là người đầu tiên quì xuống, mọi người hùa theo, tiếng khóc dậy đất. Mẹ nói:
- Thưa ông Tư Mã, phải cho họ mồ yên mả đẹp, ông ạ!
Mọi người nhao nhao:
- Xin ông cho yên nghỉ trong lòng đất! ối mẹ Ơi. Ối cha ơi! ới con ơi là con...
Tư Mã Đình đầu cúi gằm, mồ hôi chảy ròng ròng trên cổ. Lão khoát tay về phía chúng tôi tỏ vẻ bất lực rồi quay lại đám tùy tùng của lão, hạ giọng nói:
- Này các cậu này anh em! Các anh em cáo mượn oai hùm, theo Tư Mã Đình này bắt gà trộm chó, càn quấy đánh lộn, ăn hiếp bà góa, đào mả phơi thây, nghĩa là bao nhiêu chuyện thương luân bại lý! Nuôi quân nghìn ngày, dùng binh một buổi, hôm nay dù có bị quạ mổ lòi mắt, vỡ đầu sứt trán thì Tư Mã Đình cũng quyết đảm đương lấy chuyện này. Chẳng gì cũng là người đứng đầu một thị trấn, tôi xin xung phong! Kẻ nào lười nhác trốn tránh công việc tôi ỉa vào mười tám đời tổ tông nhà hắn! Xong việc, tôi khao các vị một bữa rượu! Dậy mau! - Lão xách tai xà ích lôi dậy - Quay xe đi! Anh em ơi thu vén cho xong, nào!
Lúc này có ba đứa trẻ rẽ lúa trườn đến. Tới gần, mới rõ đó là ba thằng câm của nhà Tôn Đại Cộ Chúng đểu cởi trần, quần cộc cùng màu. Trong tay đứa lớn nhất là thanh dao dài bằng thép dẻo, khi vung lên phát ra tiếng vù vù. Đứa thứ hai thấp hơn, cầm thanh yêu đao, đứa nhỏ nhất vác trên vai một thanh phác đao có cán dài. Chúng trợn mắt, miệng kêu a... a!... Tay làm hiệu tỏ ra vô cùng đau xót. Tư Mã Đình chợt hiểu, vỗ vai từng đứa, bảo:
- Các cháu ơi, bà nội và anh em cháu đều ở trên xe, bác phải chôn cất cho họ. Lũ quạ ác độc, khinh người. Các cháu ơi, bác đã đánh nhau với chúng. Các cháu rõ chưa nào?...
Tư Diêu từ một nơi nào đó chui ra, nói chuyện với lũ trẻ câm bằng những động tác. Nước mắt ứa ra, lửa giận bùng lên, bọn trẻ múa đao xông vào lũ qua.
- Quân láu cá! Tư Mã Đình túm vai Tư Diêu mà lắc -Nãy giờ mày trốn ở đâu?
- Oan cho tôi, thưa ông - Tư Diêu nói - Tôi đi gọi ba anh em chúng nó.
Ba anh em thằng câm leo lên xe. Những thanh đao múa lượn, những mảnh thịt quạ rơi lả tả.
- Đến cả đi! Tư Mã Đình gọi tọ Mọi người ùa tới chiến dấu với lũ quạ. Tiếng khóc, tiếng va chạm của gươm đao, tiếng vỗ cánh của những con quạ quyện vào nhau. Mùi tử khí, mùi mồ hôi, mùi máu, mùi bùn, mùi lúa mạch, mùi hoa dại trộn làm một.
Những mảnh thi thể chất đống dưới hố. Mục sư Malôa đứng trên ụ đất mới đào, đọc lời cầu nguyện: Lạy Chúa, hãy cứu vớt những linh hồn đau khổ! Nước mắt ứa ra từ cặp mắt xanh của ông, chảy trên khuôn mặt còn hằn những vết roi thâm tím, rỏ xuống chiếc áo chùng đen rách bươm, rớt xuống cây thánh giá nặng chịch đeo trước ngực.
Trưởng trấn Tư Mã Đình kéo ông mục sư xuống, nói:
- Ông ra kia nghỉ một lát! Ông cũng từ chỗ một chết một sống mà về đấy thôi!
Đám phu huyệt bắt đầu lấp đất. Ông mục sư chệnh choạng đi tới chỗ chúng tôi. Mặt trời đã ngả về tây, bóng ông trải dài trên mặt đất. Mẹ nhìn ông, trái tim mẹ ẩn sau cặp vú đập rộn lên.
Khi ánh nắng mặt trời chuyển sang màu đỏ, thì một nấm mồ lớn đã đắp xong. Theo sự hướng dẫn của Trưởng trấn Tư Mã Đình, thân nhân của những người tử nạn quì lạy trước mồ và khóc vài tiếng cho đúng bổn phận. Mẹ đề nghị họ vái tạ Tư Mã Đình và nhóm phu huyệt để tỏ lòng cảm ơn. Tư Mã Đình gạt đi:
- Thôi, thôi, miễn!
Nhóm phu huyệt ra về trong ráng chiều đỏ rực. Mẹ và các chị rớt lại sau. Mục sư Malôa thân hình cao lớn, ra về sau cùng. Đoàn người đứt quãng, kéo dài đến hơn một dặm, bóng đổ dài trên cánh đồng lúa mạch. Trong sự tĩnh lặng mênh mông của hoàng hôn, vang lên tiếng bước chân, tiếng gió xào xạc trên ngọn lúa, tiếng khóc khan của tôi, tiếng kêu ai oán của con cú vọ sau một ngày ngủ vùi trên cây đâu thân to bằng đầu người, ở chính giữa khu nghĩa trang. Tiếng kêu của con cú làm mọi người bủn rủn. Mẹ dừng bước, quay lại nhìn nấm mồ, nhìn bó huống đang cháy nghi ngút.
Mục sư Malôa cúi xuống bế chị Cầu Đệ, than thở:
- Khổ thân các con!
Ông vừa nói xong, bản dạ khúc của ngàn vạn côn trùng từ bốn phương tám hướng đã ùa tới.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 11
Cái hôm tôi và chị Tám vừa tròn trăm ngày đúng vào tết Trung thụ Buổi sáng, mẹ bế tôi và chị Tám đến chỗ mục sư Malôạ Cổng lớn mặt tiền - mặt quay ra đồng, đóng chặt. Cánh cổng viết đầy những câu tục tĩu phỉ báng thần linh. Chúng tôi men theo một lối nhỏ vòng qua sân trước của nhà thờ, khẽ gõ cổng xép nhìn ra cánh đồng. Một con dê gầy nhom buộc bên cổng. Mặt nó rất dài, không thể nhận ra đó là mặt dê, mà phải là mặt con lừa, mặt con lạc đà, mặt bà già! Nó ngẩng đầu lên, đưa cặp mắt u tối nhìn mẹ từ đầu đến chân. Mẹ dùng ngón chân cái dá nhẹ vào cằm dưới của con dệ Nó kêu lên một tràng dài rồi lại cúi xuống ăn cỏ. Trong sân có tiếng động rồi tiếng đặng hắng của ông mục sự Mẹ dập dập chiếc vòng sắt trên cánh cổng. Trong sân, mục sư cất tiếng hỏi ai? Mẹ trả lời khẽ Tôi đây.
Cánh cửa kẹt lên một tiếng, hé mở. Mẹ bế tôi nghiêng mình lách vào. Mục sư đóng cổng lại, quay sang ôm chầm lấy mẹ con tôi, nói bằng tiếng địa phương chính cống: Cục cưng của tôi đây!
Lúc này, đội quân dùng toàn súng bắn chim mới thành lập do Sa Nguyệt Lượng chỉ huy, đang men theo còn đường mà chúng tôi đã đi hôm chôn cất người chết, để về thôn. Hai bên đường, một bên là cao lương vụ thu gieo trồng trên đất lúa mạch dại trà, một bên là đồng cói kéo dài từ ven sông Mục. Một mùa hè nắng chói chang và mưa dịu ngọt, khiến cây cối hoa màu phát triển như điên. Cao lương thu lá mập, thân to khỏe, tốt bằng đầu người mà vẫn chưa trổ bông. Cói xanh rờn, mặt lá đầy lông tợ Tuy là giữa thu, nhưng không hề ngửi thấy mùi vị mùa thu trong gió, nhưng bầu trời thì cao vòi vọi và trong vắt, nắng vàng đúng là nắng của mùa thụ Trong không khí có vị tươi mát của cây xanh, vị ngọt của lá lục Đó là mùi vị của cói non và cây cao lương đang thì con gái. Đội ngũ của Sa Nguyệt Lượng có 28 người, đi thành hàng dọc. Tất cả đều cưỡi lừa đen, đặc sản của vùng Khưu Lăng phía nam huyện Ngũ Liên. Chúng to lớn, chân rắn chắc, chạy không nhanh bằng ngựa nhưng sức bền thì tuyệt, có thể chạy đường dài. Sa Nguyệt Lượng chọn lấy 28 con chưa thiến trong số hơn 400 con. Chúng có tiếng rống ồm ồm, sức trẻ bột phát, là chỗ dựa về sức tải của đội. Hai mươi tám con lừa nối đuôi nhau như một dòng chảy. Một làn sương màu sữa trùm lên mặt đường, thân lừa phản quang ánh nắng mặt trời. Khi trông thấy tháp chuông đổ nát của nhà thờ và tháp canh,
Sa Nguyệt Lượng đi đầu hàng quân, ghìm cương cho lừa dừng lại. Những con đi sau dồn cả lên. Anh ta ngoái nhìn nét mặt mệt mỏi của các đội viên, hạ lệnh dừng lại nghỉ, tiếp theo là lệnh đi rửa mặt mũi chân tay và tắm cho lừa. Khuôn mặt xương xương, nét mặt nghiêm nghị, Sa Nguyệt Lượng khiển trách nghiêm khắc những đội viên không chịu đi tắm rửa. Anh ta nâng vấn đề tắm rửa cho người và cho lừa lên một tầm cao, nói rằng, các đội du kích chống Nhật mọc lên như nấm, vì vậy Đội súng chim phải áp đảo các đội khác bằng phong cách độc đáo của mình. Điểm đóng quân cuối cùng là địa bàn Cao Mật. Các đội viên đọc đả thông, tất cả đều cởi trần, áo vắt trên lùm cói, tìm chỗ nước nông rửa mặt rửa người. Tất cả đầu cạo trọc, da đầu trắng xanh. Sa Nguyệt Lượng lấy trong xắc cốt một bánh xà phòng, cắt thành nhiều miếng nhỏ chia cho các đội viên. Tắm kỹ vào! Tắm thật sạch! Bản thân Sa Nguyệt Lượng cũng lội xuống nước, cởi trần, vai có một nốt ruồi to tướng, anh ta kỳ sạch ghét trên người, trên cổ. Trong khi người tắm thì những con lừa khoan khoái bút lá cao lương để ăn và gặm mông nhau. Có con đứng lặng như đang trầm tư mặt tưởng, cây gậy thò ra khỏi bìu, chốc chốc lại quật đánh bịch lên bụng. Trong khi những con lừa đi tìm lạc thú cho riêng mình, thì mẹ tôi vùng ra khỏi vòng tay ông mục sư, trách yêu:
- Đồ con lừa! Chết bẹp thằng bé bây giờ!
Mục sư Malôa mỉm cười tỏ vẻ biết lỗi, phô hàm răng trắng lóa. Ông chìa cánh tay vạm vỡ về phía chúng tôi, ngừng một thoáng rồi chìa nốt tay kia. Tôi mút ngón tay chùn chụt. Chị Tám lặng im như phỗng, không khóc cũng không cựa quậy. Chị bị mù bẩm sinh. Mẹ bế tôi bằng một tay, bảo:
- Con nó cười với anh đây này! Rồi tôi nằm gọn trong cánh tay hộ pháp của ông mục sự Ông cúi sát mặt tôi. Tôi trông thấy tóc đỏ trên đỉnh đầu, râu vàng dưới cằm, mũi khoằm như mũi chim ung và cặp mắt xanh biếc sáng ngời của ông. Chợt lưng tôi đau nhói. Tôi nhả ngón tay ra, khóc ầm lên, nước mắt ràn rụa. Cặp môi ẩm ướt của ông chạm nhẹ trên má tôi. Tôi cảm nhận đượm môi ông đang run rẩy, ngủi thấy mùi hăng hắc ở miệng ông.
Ông trả tôi cho mẹ, ngượng nghịu: Tôi làm nó sợ phải không? Chắc là tôi làm nó sợ! Mẹ trao chị Tám cho ông, đón lấy tôi vỗ nhẹ, đung đưa rồi nựng:
- Nín đi con, ông ấy là ai con biết không? Đừng sợ, ông là người tốt, là cha thân yêu của con!
Lưng vẫn đau buốt, tôi khóc khản cả tiếng. Mẹ vén vạt áo, nhét vú vào miệng tôi. Tôi như chết đuối với được cọc, ngoạm chặt đầu vú ra sức mút. Dòng sữa có mùi thơm của cỏ non chảy vào họng tôi. Lưng vẫn nhức buốt nên tôi lại nhả vú ra, tiếp tục gào khóc. Malôa vặn vẹo hai bàn tay, áy náy không yên. Ông chạy tới chân tường nhổ một cọng cỏ gà rồi ve vẩy trước mặt tôi: Chẳng ăn thua, tôi vẫn khóc dữ. Ông lại chạy tới góc sân ngắt bông hoa hướng dương to bằng mặt trăng viển bởi những cánh màu vàng, hươ lên trước mặt tôi. Lần này thì tôi thích. Trong lúc ông mục sư tất bật chạy tới chạy lui, chị Tám vẫn ngủ yên trong tay ông. Mẹ nói:
- Cưng, cha hái mặt trăng cho con đây này!
Tôi giơ tay ra, sau lưng lại đau buốt.
- Thằng bé làm sao thế nhỉ?
Môi mẹ nhợt nhạt, mặt đầy mồ hôi. Malôa nói:
- Xem có gì chọc vào người nó không?
Malôa giúp mẹ cơi bộ quần áo màu đỏ may cho tôi nhân dịp tôi được một trăm ngày tuổi, phát hiện một chiếc kim cài ở lưng áo, lưng tôi có vết kim đâm, máu vẫn đang rỉ ra. Mẹ vút cái kim đi, vừa khóc vừa nói:
- Khổ thân con tôi? Tôi dáng đánh đòn! Nói rồi, mẹ tự vả vào mặt mình hai cái thật đau. Malôa giữ tay mẹ lại, rồi từ phía sau ôm chặt cả hai mẹ con. Cặp môi mọng của ông thơm lên má lên tóc mẹ, nói nhỏ:
- Không ai trách em, mà nên trách tôi...
Được ông an ủi, mẹ bình tĩnh lại, ngồi xuống ngưỡng cửa phòng ông, nhét vú vào miệng tôi.
Một dòng sữa ngọt làm dịu cổ họng, vết kim châm trên lưng không còn đau nữa. Tôi ngậm một bên vú, tay chụp bầu vú bên kia, lại co một chân lên đạp lung tung để bảo vệ nó. Mẹ cầm chân tôi dằn xuống, nhưng bà vừa bỏ tay ra là tôi lại co chân lên. Mẹ tỏ vẻ nghi ngờ:
- Lúc mặc quần áo cho nó, em đã xem rất kỹ, làm sao lại có kim ở đó? Chắc chắn đây là trò của mụ già. Mụ rất căm hai mẹ con em!
- Mụ có biết chuyện giữa chúng ta không?
Mẹ nói:
- Em đã nói hết với mụ. Chính mụ đã ép em phải nói. Em chịu đựng đủ điều sỉ nhục! Mụ ấy bất nhân lắm!
Mục sư trả chị Tám cho mẹ:
- Cho nó bú mấy! Đều là quà tặng của Thượng đế, em không nên thiên vị quá!
Mẹ đỏ mặt, đón lấy chị Tám, định nhét vú vào miệng chị liền bị tôi đạp một cái vào bụng, chị khóc.
Mẹ nói:
- Hay chửa kìa, cái thằng lỏi, đúng là đồ bá đạo. Anh pha ít sữa dê cho nó vậy!
Ông mục sư cho chị Tám uống no sữa dê rồi đặt chị lên giường. Chị Tám không khóc, không cựa quậy, hiền quá.
Ông mục sư nhìn mớ tóc vàng mềm mại trên đầu tôi, nét mặt lộ vẻ kinh ngạc. Mẹ hiểu, ngẩng lên hỏi:
- Nhìn gì vậy? Không nhận ra mẹ con em hay sao?
- Không nhận ra. Ông mục sư lắc đầu, mặt nghệch ra - Thằng nhỏ này, ăn tham như chó sói vậy!
Mẹ lườm ông mục sư một cái, nũng nịu:
- Nó giống ai nào?
Ông mục sư càng ngẩn người ra:
- Chẳng lẽ giống tôi? Tôi hồi nhỏ như thế nào cũng chẳng nhớ!
Ông có cái nhìn đắm đuối như mắt thỏ, bồi hồi nhớ lại chuyện xưa xảy ra cách đây hàng vạn dặm, hai giọt nước mắt ứa ra.
- Anh sao thế - Mẹ ngạc nhiên, hỏi.
Ông cười gượng, giơ ngón tay mập mạp chùi nước mắt.
- Không sao! - Ông nói- Tôi đến Trung Quốc... bao nhiêu năm rồi nhỉ?
Mẹ nói giọng không vui:
- Em lớn lên thì đã thấy anh ở dây. Anh là dân bản địa cũng như em.
Ông nói:
- Không phải, tôi có quốc tịch của tôi, tôi là sứ giả của Thượng đế, tôi còn giữ những giấy tờ có liên quan đến công việc truyền giáo của tôi. Tôi đại diện cho giáo phái Thiên Chúa giáo Thụy Điển!
Mẹ cười:
- Anh Ma này, cô em bảo anh là ông Tây giả, những cái gọi là giấy tờ của anh đều do tay thợ vẽ ở huyện Bình Độ làm hộ.
- Nói bậy.
Ông nhảy dựng lên như chịu không nổi sự sỉ nhục quá lớn, chửi:
- Đ. mẹ thằng Vu Hộ pháp!
Mẹ tỏ ý không vui:
- Anh đừng chửi ông ấy, ông ấy là chú dượng em, có ơn lớn đối với em
Malôa nói:
- Nếu lão không phải là chồng dì em thì tôi đã vặt đứt con c. của lão.
Mẹ cười bảo:
- Một quả đấm của dượng ấy chết tươi một con lừa?
Malôa buồn rầu nói:
- Ngay cả em cũng không tin tôi là người Thụy Điển thì còn mong ai tin?
Ông ngồi xổm, lấy ống điếu và bao đựng thuốc lá ra tọng đầy nõ rồi lặng lẽ hút thuốc. Mẹ thở dài:
- Kìa anh, em tin anh là ông Tây chính cống, được chưa? Anh bực với ai vậy? Người Trung Quốc không ai giống anh, mình đầy lông lá.
Trên mặt Malôa nở một nụ cười như trẻ thơ:
- Rồi cũng có ngày tôi về nước! - Ông nói, vẻ trầm ngâm - Có điều, nếu cho tôi về thật thì tôi cũng không về, trừ phi em đi cùng tôi!
Ông nhìn mẹ. Mẹ nói:
- Anh không đi, em cũng không thể đi, đành yên tâm mà ở đây thôi! Hơn nữa, anh chẳng đã từng nói rằng, chỉ cần là người thì dù là tóc vàng, tóc đỏ hay tóc đen đều là con chiên của Chúa. Có cỏ là có thể giữ được dệ Vùng Cao Mật cỏ nhiều như thế, chẳng lẽ không giữ được anh ở lại?
- Em là cỏ Linh Chi nên tôi mới ở lại, tôi còn đi đâu nữa? Malôa vô cùng xúc động nói.
Mẹ chợt kêu to:
- Đuổi nó đi!
Con lừa kéo cối xay bột nhân lúc mẹ cùng Malôa trò chuyện, ăn vụng bột mì trắng. Malôa xốc tới, đánh con lừa một bạt tai. Con lừa chạy, cối quay rào rào. Mẹ nói:
- Bọn trẻ ngủ rồi, để em rây bột cho! Anh kiếm một cái chiếu trải dưới gốc cây cho chúng ngủ. Malôa trải chiếu dưới gốc cây ngô đồng. Khi mẹ đặt tôi xuống chiếu, tôi vẫn ngậm chặt vú mẹ, không nhả. Mẹ nói:
- Thằng nhỏ này như cái thùng không đáy, gần như nó hút hết xương tủy em!
Malôa giục con lừa đi nhanh, cối xay nghiền những hạt tiểu mạch thành bột thô rơi lả tả xuống vành cối. Mẹ ngồi dưới gốc cây ngô đồng, dựng một cái giá ba chân bằng cành liễu trên một cái nong rồi treo rây bột ở chính giữa, thong thả, từ tốn, có nhịp điệu hẳn hoi, mẹ đưa đẩy cái rây cho bột mịn rơi xuống; còn trấu thì ở lại. ánh nắng lọc qua kẽ lá ngô đồng rọi xuống mặt tôi, đậu trên vai mẹ. Trong sân nhà mục sư diễn ra cảnh gia dình êm ấm. Malôa vụt vào mông con lừa bằng cành liễu không cho nó ăn vụng bột. Con lừa này là của nhà tôi, ông mục sư mượn từ sáng sớm để xay bột. Nó chạy quanh cối, dưới làn roi, lông đổi màu vì mồ hôi ướt đẫm. Có tiếng con gì kêu ngoài cổng, tiếp theo là cánh cổng hé mở, con la xinh xắn sinh cùng ngày với tôi, ló đầu vào. Con lừa mẹ nổi khùng, cất vó đá hậu. Mẹ bảo:
- Đuổi con la đi!
Mục sư Malôa chạy ra, cố sức đẩy đầu con la lùi lại. Chiếc xích sắt tuột khỏi móc. Ông mục sư vội lánh sang một bên, con la xông thẳng đến chỗ mẹ nó, rúc đầu tìm vú. Con lừa mẹ đứng yên. Mẹ thở dài, nói:
- Con vật cũng như con người, có khác gì nhau?
Khi con lừa của nhà tôi cho đứa con lai của nó bú tí ở chỗ cối xay bột trong sân nhà mục sư Malôa, là lúc Sa Nguyệt Lượng cùng các đội viên đang kỳ cọ tắm rửa cho những con lừa đục của họ. Họ lấy vải bông lau khô mình lừa, dùng lược sắt chuyên dùng chải mượt bờm và cái đuôi lưa thưa của những con lừa, rồi bôi lên một lớp sáp ong. Hai mươi tám con lừa đẹp mã hẳn lên, tinh thần phấn chấn. Các đội viên người nào cũng đeo hai bầu hồ lô ở thắt lưng, một to một nhỏ. Bầu to đụng thuốc súng, bầu nhỏ đựng đạn ghém. Bầu nào cũng được sơn ba lớp dầu ngô đồng, thành thử có tất cả năm mươi sáu cái bầu bóng loáng. Các đội viên đều mặc quần màu vàng, áo khoác màu đen, đầu đội nón tám cạnh bện bằng cây cao lương. Chóp nón của Sa Nguyệt Lượng còn đính một cái ngù bằng những dải lụa đỏ để phân biệt với các đội viên, khẳng định vị trí của anh tạ Sa Nguyệt Lượng nhìn một lượt người và lừa, tỏ ý bằng lòng, nói:
- Hăng hái lên, anh em! Cho họ thấy dội Hỏa-mai-lừa- đen của ta oai phong đến mức nào!
Nói rồi anh ta nhảy lên mình lừa, phát cho con lừa một cái vào mông. Con lừa lập tức chạy nhanh như gió. Ngựa chiếm quán quân về chạy, lừa rất gương mẫu khi hành quân. Người cưỡi ngựa oai phong lẫm hệt, kẻ cưỡi lừa thư thái ung dung. Chỉ một thoáng, họ đã xuất hiện trên đường phố Đại Lan. Lúc này không phải đường phố giữa mùa gặt hái. Giữa mùa gặt, đường phố đầy bụi, chỉ cần một con ngựa chạy qua, bụi che khuất con đường, quang cảnh đúng như chị Lai Đệ từng trông thấy hôm mồng năm tháng năm. Đường phố hiện nay vừa qua một mùa hè mưa rào lèn chặt, mặt đường nhẵn nhụi, chỉ lưu lại một ít vết chân của đoàn lừa. Tất nhiên những tiếng gõ móng thì có. Những con lừa của Sa Nguyệt Lượng biết gõ móng xuống đất như ngựa. Đây là một phát minh của anh ta, giống như hai mươi năm sau, con cháu của Ba Cẩu là Cẩu Giải phóng đóng móng sắt cho bò. Trước tiên, tiếng vó ròn tan thu hút lũ trẻ, sau đó là Tư Diêu, người trông coi tài sản công sở của thị trấn. Anh ta mặc chiếc áo dài đã lỗi thời, chiếc bút chi có sọc vẫn giắt trên vành tai, từ trong nhà chạy ra cản đầu lừa của Sa Nguyệt Lượng, vái chào nhăn nhở:
- Đề nghị Ông chỉ huy cho biết đơn vị Ông là đơn vị nào? Lưu lại ở đây hay chỉ là qua đường? Ông có điều gì sai bảo tiểu nhân?
Sa Nguyệt Lượng từ trên mình lừa nhảy xuống đất, nói:
- Chúng tôi là Đội du kích Hỏa-mai-lừa- đen, đơn vị biệt kích của Tổng đội kháng Nhật, nhận lệnh cấp trên về đóng quân lâu dài ở trấn này để tổ chúc chống Nhật. Anh thu xếp chỗ ở cho chúng tôi, cái ăn cho lừa, tiếp tế cơm nước cho đội. Thức ăn không cần sang, chỉ trứng gà bánh tráng là được! Những con lừa là chỗ dựa chống Nhật, phải cho chúng ăn uống cho tốt, cỏ khô phải băm nhỏ sàng kỹ, trộn với đậu và cám, nước giếng phải là giếng mới đào, tuyệt đối không được lấy nước đục ở sông Thuồng Luồng cho lừa uống.
- Thưa ông chi huy, những việc lớn như vậy tôi không dám quyết, phải xin ý kiến ông Trưởng trấn, à mà không, ông ấy vừa được quân đội Thiên hoàng bổ nhiệm làm Trưởng An ninh thị trấn.
- Mẹ kiếp! - Sa Nguyệt Lượng sa sầm nét mặt, chửi:
- Làm việc cho Nhật là Hán gian, là chó săn!
Tư Diêu nói:
- Thưa ông chỉ huy, ông Trưởng trấn chúng tôi đâu có thích làm Trưởng An ninh. Nhà ông ruộng tốt hàng trăm khoảnh, lừa ngựa từng đàn, không lo thiếu ăn thiếu mặc, chẳng qua bị ép mà phải làm. Với lại dù sao thì cũng phải có người làm chức ấy, để người khác đảm nhiệm thì chẳng thà để ông Cả nhà chúng tôi làm còn hơn! '
- Dẫn tôi đi gặp ông ta! - Sa Nguyệt Lượng nói.
Đội du kích nghỉ lại trước cửa trụ sở. Tư Diêu dẫn Sa Nguyệt Lượng vào nhà Phúc Sinh Đường qua cổng chính. Khuôn viên Phúc Sinh Đường có bảy dãy nhà, mỗi dãy mười lăm gian, sân nọ thông sân kia, cửa sau liền cửa trước, tầng tầng lớp lớp chẳng khác mê cung. Sa Nguyệt Lượng trông thấy Tư Mã Đình giữa lúc lão đang cãi nhau với em trai là Tư Mã Khố, lúc này đang điều trị vết bỏng ở mông. Vết thương làm mủ, rất lâu không lành miệng, Tư Mã Khố chỉ còn mỗi cách là nằm sấp trên giường, chổng mông lên. Tư Mã Khố phóng tay xuống giường ngẩng đầu lên, mắt nẩy ẳa:
- Anh đúng là đồ ngu! Ngu khổ ngu sở! Trưởng An ninh là cái chức làm chó săn cho Nhật, làm đầy tớ cho du kích, trở đi mắc núi trở lại mắc sông chứ báu gì! Người khác không làm, sao anh lại nhận?
- Nói như cứt ấy! - Tư Mã Đình thấy mình bị mắng oan thì tủi thân, nói:
- Đồ đốn mạt mới thích cái chúc này! Bọn Nhật chĩa lưỡi lê vào bụng tôi qua ông thông ngôn Mã Kim Long, bảo tôi rằng: Em trai mày là Tư Mã Khố câu kết với tên thổ phỉ Sa Nguyệt Lượng phóng hỏa đốt cầu phục kích quân đội Thiên Hoàng. Lẽ ra phải đốt trụi cái Phúc Sinh Động này, chỉ vì thấy mày là con người thật thà nên bỏ quá cho! Tôi nhận cái chức Trưởng An ninh này một nửa là vì chú.
Tư Mã Khố đuối lý, quay ra chửi vết thương:
- Cái mông đít chết tiệt, bao giờ mới lành đây?
- Đừng sốt ruột! - Tư Mã Đình nói.
Lão quay ra thì trông thấy Sa Nguyệt Lượng đang mỉm cười với lão. Tư Diêu định giới thiệu thì Sa Nguyệt Lượng đã lên tiếng trước:
- Thưa ông Trưởng ban, tôi chính là Sa Nguyệt Lượng!
Tư Mã Đình chưa kịp phản ứng thì Tư Mã Khố đã quay mặt ra:
- Mẹ kiếp, Sa Nguyệt Lượng biệt hiệu Sa Hòa thượng đấy phải không?
- Bỉ nhân hiện giữ chức Đội trưởng Đội du kích Hỏa-mai-lừa- đen! - Sa Nguyệt Lượng nói - Cảm ơn ông Hai châm lửa dốt cầu, phối hợp với nhau như vậy là tuyệt!
- Mẹ kiếp, vẫn còn sống hả? Các anh đánh đấm như con cặc!
- Đánh phục kích đấy chức - Sa Nguyệt Lượng nói.
- Phục kích với chả mục kích! Bị chúng nện cho tan tác. Ta mà không đốt cầu thì...
- Tôi có bài thuốc chữa bỏng rất hay, lát nữa sai người mang đến cho ông Hai - Sa Nguyệt Lượng cười tít mắt.
Tư Mã Đình bảo Tư Diêu:
- Mở tiệc chiêu đãi Sa Đội trưởng!
Tư Diêu nhăn nhó:
- Ban An ninh mới thành lập, chưa có đồng nào.
Tư Mã Đình nói:
- Sao chú mày ngu vậy! Quân đội Thiên hoàng đâu phải quân đội của nhà ta! Của 800 hộ dân thị trân này đấy chứ! Đội Hỏa-mai-lừa- đen cũng không phải của riêng tạ Là của chung của toàn thể nhân dân thị trấn đấy chứ! Các gia đình góp gạo góp tiền, khách chung thì mọi người phải tiếp đãi, còn khoản rượu thì ta lo!
Sa Nguyệt Lượng cười:
- Ông Trưởng ban đúng là chẳng mất lòng ai, được cả chì lẫn chài!
Tư Mã Đình nói:
- Chẳng còn cách nào khác, như lão mục sư từng nói: Mình không xuống địa ngục thì ai xuống?...
Mục sư Malôa mở vung, thả những sợi mì vào nước sôi dùng đũa khuấy nhẹ, đậy vung lại, rồi nói với mẹ đang cho củi vào lò:
- Cho lửa to hơn nữa!
Mẹ làm theo, đẩy vào lò từng nắm thân lúa mạch vàng óng. Tôi ngậm đầu vú mẹ, liếc nhìn ngọn lửa rừng rực trong lò, lắng nghe tiếng nổ lép bép của củi, nhớ lại cảnh tượng ban nãy: Họ đặt tôi nằm trên nong, nhưng tôi lật mình nằm sấp để nhìn mẹ đang nhào bột trên bàn, thân thể nhún nhảy, hai bầu vú nhảy tâng tâng trước ngực như vẫy gọi, như trao đổi với tôi những thông tin thần bí. Hai núm vú màu táo đỏ có lúc chụm vào nhau như đang thầm thì điều gì đó còn phần lớn thời gian là nhún nhảy, vừa nhảy vừa phát thành tiếng, chẳng khác đôi chim bồ câu gù gù bên nhau. Tôi giơ tay về phía mẹ, miệng chảy đãi. Đôi vú đột nhiên có vẻ ngượng, bối rối, màu hồng lan nhanh khắp bầu vú. Những giọt mồ hôi đọng lại thành rãnh giữa khe vú. Tôi trông thấy có hai đốm sáng đi động trên bầu vú. Đó là cái nhìn của ông mục sự Từ cặp mắt xanh thò ra hai cánh tay bé xíu đầy lông lá định cướp miếng ăn của tôi, tôi giận đến nỗi mắt tóe lửa, mở miệng sắp khóc thì sự việc tiếp theo khiến tôi càng điên tiết. Đôi tay bé nhỏ được thu về, nhưng hai bàn tay mũm mĩm của ông thì lại luồn vào ngực mẹ, thân hình cao lớn của ông đứng phía sau, hai bàn tay thô bỉ ấp chặt đôi bồ câu trên ngực mẹ rồi sờ nắn một cách thô bạo, kẹp chặt núm vú vô cùng sống sượng. Ôi, đáng thương cho bầu hồ lô yêu quí của tôi! Đôi bồ câu mềm mại của tôi! Chúng vùng vẫy, chúng co lại, co tới mức không thể nhỏ hơn rồi đột nhiên lại nở phình ra, xù lông xù cánh khát vọng bay lên, bay tới những cánh đồng mênh mông tới trời xanh làm bạn với những đám mây lững lờ trôi, tắm trong làn gió nhẹ, được ánh nắng mơn trớn, rên rỉ trong gió, cười vui dưới nắng, rồi lặng lẽ rơi xuống, rơi xuống một vục thẳm không dáy. Tôi khóc ầm lên, nước mắt làm mờ cả hai mắt, mẹ và Malôa nghiêng ngả, mẹ rên lên.
- Bỏ em ra, đồ con lừa, con nó khóc kia kìa! - Mẹ nói.
Ông mục sư giận dỗi, nói:
- Thằng con lai!
Mẹ bế tôi lên, vội vã lật người tôi lại, vẻ biết lỗi.
- Cung của mẹ, thương cục cưng quá đi thôi!
Vừa nói vừa đẩy bầu vú về phía tôi. Tôi hối hả ngoạm chặt đầu vú, bú chùn chụt. Tôi há to miệng nhưng vẫn sợ còn nhỏ nên há hết cỡ, miệng phồng ra như con hổ mang bành, chỉ tiếc nỗi không thể nuốt chửng, không cho người nào khác xâm phạm bầu vú của tôi.
- Từ từ nào, con trai của mẹ!
Mẹ vỗ nhẹ lên mông tôi. Tôi bú một bên, tay nắm lấy bên vú còn lại. Nó giống hệt con thỏ trắng có con mắt hồng. Tôi nắn nó, cảm thấy tim của nó đập đập. Malôa thở dài:
- Thằng con lai này!
Mẹ nói:
- Anh không được gọi nó là con lai!
Malôa nói:
- Nhưng nó là con lai chính hiệu mà lại!
Mẹ nói:
- Em định bảo anh làm lễ rửa tội cho nó và đặt cho nó một cái tên. Hôm nay nó vừa tròn 100 ngày tuổi.
Malôa vuốt mặt theo thói quen, nói:
- Rửa tội? Tôi quên mất làm lễ rửa tội từ lâu rồi. Tôi làm mì kéo cho em ăn nhé. Cách làm này tôi học ở người đàn bà tộc Hồi đấy!
Mẹ hỏi:
- Anh thân với chị ta đến mức nào?
Malôa nói:
- Không để lại dây mơ rễ má gì cả, trắng tinh!
Mẹ nói:
- Đừng có bịp!
Malôa cười khà khà, vừa kéo vừa lăn cho cục bột mì thành sợi, quật bồm bộp xuống bàn cán rồi lại kéo.
- Nói mau! - Mẹ giục.
Cục bột vừa dẻo vừa tơi, lúc vồng lên như cánh cung, lúc loằng ngoằng như rắn trong hang, bàn tay thô có vẻ vụng về của một người ngoại quốc lại có thể thao tác thành thạo và khéo léo như người Trung Quốc, khiến mẹ vô cùng ngạc nhiên. Ông nói:
- Có lẽ tôi không phải là người Thụy Điển, những chuyện đã qua đều như trong mơ, em nói gì đi!
Mẹ cười nhạt, nói:
- Em hỏi chuyện anh với cái cô mắt có quầng đen, anh đừng có đánh trống lảng!
Malôa dàn mỏng cục bột rồi hai tay hai đầu nâng lên, căng ra rồi chùng lại, khi bỏ tay ra đã thành bó mì sợi to bằng thân cây lúa mạch, vung một cái: chúng xòe ra như đuôi ngựa. Malôa đang biểu diễn kỹ xảo của ông. Mẹ thở dài nói:
- Người đàn bà nào kéo được loại sợi mì như thế này, mới là đàn bà giỏi!
Ông mục sư nói:
- Thôi, mẹ thằng cu đừng nghĩ ngợi lung tung nữa. Nổi lửa lên, tôi nấu mì cho em ăn!
- Ăn xong thì làm gì?. Mẹ hỏi.
- Ăn xong thì làm lễ rửa tội và dặt tên cho thằng con lai!
Mẹ vùng vằng:
- Những đứa con mà anh đẻ với người đàn bà Hồi mới là những thằng lai.
Khi mẹ nói vừa dứt câu này, là lúc Sa Nguyệt Lượng chạm cốc với Tư Mã Đình. Trong bữa rượu, họ thỏa thuận với nhau những việc như sau: Những con lừa của Đội Hỏa-mai-lừa- đen sẽ được tập trung trong nhà thờ để chăm sóc. Các đội viên thì chia ra đến ở với các gia đình. Trụ sở của Đội đóng ở đâu thì Sa Nguyệt Lượng sẽ quyết định sau.
Sa Nguyệt Lượng được Tư Diêu dẫn đường và bốn đội viên bảo vệ, bước vào sân nhà tôi. Thoáng cái anh ta đã nhìn thấy chị Lai Đệ đang chải đầu bên ang nước in những bóng mây trôi qua trên bầu trời. Qua một mùa hè ăn uống no đủ và tương đối phẳng lặng, cơ thể chị thay đổi hẳn. Ngực nhô cao, làn tóc khô rám nay bóng mượt vòng eo nhỏ, mềm mại, mông nở và vổng lên. Trong một trăm ngày, chị đã trút bỏ bộ khung thiếu nữ gầy nhom, trở thành một cô gái đẹp như con bướm màu. Cái mũi dọc dừa của chị là của mẹ, cặp vú thây lẩy và cái mông nở nang cũng thuộc về mẹ. Đối mặt với cô gái trinh trắng trong ang, ánh mắt của chị đầy ưu tự Bàn tay thon thả đưa chiếc lược gỗ, nhìn bóng mình mà trăm mối tơ vò. Sa Nguyệt Lượng vừa trông thấy chị đã mê tít. Anh ta tuyên bố dứt khoát với Tư Diêu:
- Đây là trụ sở của Đội.
Tư Diêu hỏi:
- Lai Đệ, mẹ cô đâu?
Không đợi Lai Đệ trả lời, Sa Nguyệt Lượng khoát tay bảo Tư Diêu ra về. Anh ta đến bên ang nước nhìn chị, chị cũng nhìn lại anh ta.
- Cô em, cô còn nhận ra tôi không? - Anh ta hỏi. Chị gật đầu, mặt ửng hồng.
Chị quay vào trong nhà. Sau ngày mồng Năm tháng Năm, các chị dọn sang phòng của ông bà nội. Chái phía đông - nơi ở cũ của chị Bảy, được sửa thành nhà kho, chứa ba nghìn cân tiểu mạch. Sa Nguyệt Lượng theo chị tôi vào phòng trông thấy sáu chị của tôi đang ngủ trưa. Anh ta mỉm cười thân thiện, nói:
- Đừng sợ, bọn tôi là du kích chống Nhật, không sát hại dân chúng. Tôi chỉ huy chiến đấu như thế nào, các em cũng đã từng chứng kiến. Trận đó thật bi tráng hào hùng, lưu danh thiên cổ. Rồi sẽ có ngày người ta sẽ sáng tác về tôi.
Chị cúi đầu, tay mân mê đuôi sam, nhớ lại cái hôm mồng Năm tháng Năm không bình thường ấy, người đứng trước mặt chị quần áo rách bươm từng mảnh.
- Em nhỏ, không, em gái ơi ta có duyên với nhau đấy!
Anh ta buông một câu đầy ý tứ rồi đi trở ra sân. Chị theo ra đến cửa, thấy anh ta bước vào gian chái phía đông, lại sang chái phía tây. Ở chái tây, anh ta giật mình kinh hãi vì cặp mắt xanh lục của bà Lã, bịt mũi trở lui, lệnh cho các đội viên:
- Dọn đẹp các bao lúa mạch lại, dọn giường cho tôi ở đấy!
Chị Cả tựa cửa, ngắm người đàn ông xương xương, vai lệch một bên, đen nhẻm như cây hòe bị sét đánh.
- Cha em đâu? Anh ta hỏi.
Tư Diêu đứng nép ở góc sân từ tốn trả lời:
- Bố cô ấy bị giặc Nhật, à không, bị quân đội Thiên hoàng sát hại hôm mồng Năm tháng Năm, cùng ông nội cô là Thượng Quan Phúc Lộc.
- Quân đội Thiên hoàng cái cứt! Giặc thì có! Giặc Nhật!
Sa Nguyệt Lượng giận dữ quát tháo, vừa chửi vừa dậm chân bành bạch, tỏ ý căm thù bọn lính Nhật. Anh ta nói với chị tôi:
- Em gái ơi, mối thù của em cũng là mối thù của anh, phải trả mối thù này! Ai là chủ gia đình em?
Tư Diêu cướp lời:
- Bà Lã!
Tôi và chị Tám được làm lễ rửa tội trong giáo đường. Cửa sau phòng ngủ của mục sư thông sang giáo đường. Trên tường treo một số tranh đã phai màu vì năm tháng, vẽ những hài đồng trần truồng có cánh, béo mũm mĩm, về sau tôi mới biết đó là những thiên sứ. Tận cùng của phòng nguyện là một cái bục xây bằng gạch, một người đàn ông cởi trần tạc bằng gỗ táo bị đóng đinh trên giá. Do tài nghệ quá kém hoặc do gỗ táo quá rắn, nên cái tượng không giống người chút nào. Sau này tôi mới biết tượng gỗ ấy là Chúa Giêsu, một dại anh hùng, một thiện nhân. Ngoài ra, trong phòng nguyện còn để linh tinh những chiếc ghế băng, bám đầy bụi và phân chim. Mẹ bế tôi và chị Tám bước vào phòng nguyện, hàng đàn chim sẻ hốt hoảng bay loạn xạ đập cả vào cửa kính. Cửa chính của phòng nguyện hướng ra phố. Qua khe cửa, mẹ trông thấy những con lừa đen đi lại như con thoi.
Mục sư Malôa bê ra một chiếc bồn bằng gỗ, nước nóng chiếm lưng bồn, mẩu xơ mướp nổi lềnh phềnh. Hơi nước bay lên, ông mục sư lim dim mắt như một sợi chỉ. Ông còng lưng vì chiếc chậu quá nặng. Ông cố vươn dài cổ ra, hai chân loạng choạng, có lần suýt ngã, nước nóng trong bồn bắn lên mặt, nhưng ông vẫn gượng được. Dù bước đi khó khăn, nhưng cuối cùng ông đã bê được cái chậu lên bục giảng.
Mẹ bế chúng tôi bước tới. Malôa đón lấy tôi thả xuống bồn. Vừa chạm vào nước nóng, hai chân tôi lập tức co lên. Tiếng khóc của tôi vang dội phòng nguyện. Một tổ yến trắng trên đầu xà, những con yến còn năm trong tổ ló đầu ra quan sát chúng tôi bằng cặp mắt đen láy. Bố mẹ chúng bay vào bay ra qua chỗ kính vỡ, con côn trùng kẹp ở mỏ. Malôa trả tôi cho mẹ. Ông lấy tay khuấy nước trong bồn. Chúa Giêsu hiền từ nhìn chúng tôi, chăm chú. Những thiên sứ trên tường đuổi theo bọn chim sẻ, từ xà ngang bay sang cột dọc, từ tường đông bay sang tường tây, từ cầu thang gỗ cong queo đuổi tới gác chuông cũ kỹ, rối từ gác chuông trở lại nghỉ ngơi trên tường. Cái mông trần trụi lấp lánh mồ hôi. Nước trong bồn xoay tròn thành hình phễu. Malôa nhúng tay thử, nói:
- Nước được rồi, thả nó vào!
Tôi bị lột hết quần áo. Mẹ đủ sữa, mà sữa lại tốt, tôi rất bụ bẫm. Nếu như tôi chuyển nét mặt từ nhăn nhó sang giận dữ hoặc nghiêm nghị, nếu như tôi mọc thêm đôi cánh, thì tôi là thiên sứ. Những đứa trẻ trên tường sẽ là anh em tôi. Mẹ thả tôi vào bồn, tôi lập tức nín khóc vì nước ấm làm tôi khoan khoái. Tôi ngồi giữa bồn, tay vỗ nước, miệng reo lên a... a... Malôa vót cây thánh giá áp lên đỉnh đâu tôi, nói:
- Từ hôm nay, con là đứa còn gần gũi nhất của Chúa, Halilôa!
Ông dùng quả bầu nhỏ múc đầy nước dội lên đỉnh đầu tôi. Mẹ dọc theo như một con vẹt:
- Halilôa!
Tôi tiếp nhận nước thánh, mỉm cười hạnh phúc.
Mẹ vô cùng hân hoan thả chị Tám vào bồn nhẹ nhàng kỳ cọ cho chúng tôi bằng miếng xơ mướp. Ông mục sư dội hết bầu này đến bầu khác lên đầu chúng tôi, mỗi lần dội, tôi lại cười khanh khách. Chị Tám thì khóc ề à mấy tiếng. Tôi túm lấy chị bằng cả hai tay.
Mẹ nói:
- Chưa đứa nào có tên! Anh đặt cho chúng đi!
Malôa bỏ cái gáo bằng quả bầu xuống, nói:
- Đây là chuyện hệ trọng, để tôi nghĩ đã!
Mẹ nói: - Mẹ chồng em có lần bảo, nếu sinh con trai thì đặt tên là Cún, Tám Cún! Bà bảo đặt tên xấu cho con trai thì dễ nuôi!
Malôa lắc đầu lia lịa, nói:
- Không hay, không haỵ Cún với Miu, đặt tên vật là trái ý Thượng đế, trái với lời dạy của đức Khổng Tử. Thầy Khổng nói rằng: danh phận không rõ thì nói ai nghe!
Mẹ nói:
- Em nghĩ ra một cái tên, gọi nó là A Men được không?
Malôa cười:
- Không haỵ Em đừng nói nữa, để tôi nghĩ.
Ông mục sư đứng lên, tay chắp sau lưng, đi lại thoăn thoắt trong phòng nguyện sặc mùi ẩm mốc. Khi nào ông đi nhanh là lúc óc ông làm việc căng thẳng. Ông điểm lướt những tên người tên hiệu của Trung Quốc và nước ngoài, từ trên trời đến dưới đất, từ cổ chí kim. Mẹ nhìn ông, cười bảo tôi:
- Trông cha con kìa, ông đâu phải là đang tìm một cái tên, mà đang hối hả như nhà có tang!
- Mẹ cất tiếng hát khe khẽ, cầm cái gáo lên dội nước cho tôi và chị Tám.
- Nghĩ ra rồi!
Mục sư Malôa sau hai mươi chín lần đi tới cửa chính đóng chặt rồi lại trở lui, ông dùng lại, kêu lên với chúng tôi.
- Tên là gì? - Mẹ vui mừng hỏi.
Malôa chưa kịp trả lời thì có tiếng đập cửa rất mạnh và có tiếng người ồn ào bên ngoài. Mẹ hốt hoảng đứng lên, tay vẫn cầm chiếc gáo. Malôa nhìn qua khe cửa, khi đó tôi chưa rõ ông nhìn thấy gì, chỉ thấy ông đỏ mặt tía tai, không rõ ông bị xung huyết vì giận dữ hay vì căng thẳng, ông giục mẹ tôi:
- Ra sân sau, mau lên!
Mẹ vứt gáo xuống, bế tôi lên. Chiếc gáo nhảy tâng tâng trên mặt đất như con cóc đực đi tìm cái. Thanh dóng chặn cửa chợt gãy đôi, rớt xuống đất, tiếp theo là cánh cửa bật tung, cái đầu của một đội viên du kích lao vào như một viên đạn, húc giữa ngực ông mục sự Ông giật lùi đến tận bức tường đối diện, phía dưới các thiên sứ Khi chiếc dóng cửa rơi, tôi bị tuột từ tay mẹ xuống bồn, nước bắn tung tóe và chị Tám thì bị một cú trời giáng.
Năm đội viên Đội Hỏa-mai xông vào, có phần bớt hung hăng khi nhìn thấy quang cảnh trong phòng nguyện. Người húc phải mục sư Malôa xoa xoa đầu, nói:
- Sao thế này, ở đây vẫn có người à? Anh ta nhìn bốn người kia, nói tiếp: - Bảo rằng bỏ hoang đã lâu, nay sao lại có người?
Malôa chặn tay lên ngực đi tới trước mặt các đội viên. Dung mạo của ông đầy vẻ trang nghiêm, các đội viên có vẻ bàng hoàng, lúng túng. Nếu như ông tuôn ra một tràng tiếng tây và giơ tay ra hiệu, có thể các đội viên sẽ lặng lẽ rút lui, mà dù không nói tiếng tây, ông chỉ nói vài câu tiếng Trung Quốc với giọng lơ lớ, các đội viên cũng không dám ngang ngược. Nhưng ông mục sư đáng thương với giọng Cao Mật trăm phần trăm, hỏi các đội viên:
- Người anh em cần gì? Nói xong, ông vái các đội viên một vái.
Trong khi tôi khóc núc nở, chị Tám tuyệt nhiên không khóc tiếng nào - các đội viên Đội Hỏa-mai cười rộ lên.
Họ ngắm nghía ông mục sư từ đầu đến chân như ngắm một con khỉ. Tên đội viên méo miệng còn giật giật túm lông ở lỗ tai ông mục sư.
- Khỉ đột, ha ha, một con khỉ đột! - Một đội viên nói. Những người khác hùa theo - Con khỉ này còn giấu một phụ nữ xinh đẹp nữa chứ!
- Phản đối! Tôi phản đối! - Mục sư Malôa hét to - Tôi là người ngoại quốc.
- Ngoại quốc? Anh em có nghe thấy không? - Người đội viên méo miệng nói: - Người ngoại quốc mà biết nói thổ ngữ Cao Mật? Xem ra con khỉ đột này đã có một thằng con lai. Anh em ơi, dắt lừa vào đi!
Mẹ bế tôi và chị Tám, bước tới kéo tay mục sư Malôa nói:
- Đi thôi! Đừng trêu vào bọn chúng.
Malôa giằng tay ra, một mực xông tới, cố sức đẩy những con lừa ra ngoài cửa. Chúng nhe răng như răng chó gầm ghè với ông mục sư.
- Tránh ra - Một đội viên hích mục sư một cái, quát to.
- Giáo đường là nơi thánh địa, là mảnh đất tinh khiết của Chúa, ai cho các người nhốt lừa? - Mục sư phản đối.
- Thằng tây rởm! - Một đội viên mặt trắng bệch, môi thâm tím nói: - Bà nội tôi từng nói rằng, người này - Anh ta chỉ lên chúa Giêsu bằng gỗ táo - sinh ra trong chuồng ngựa. Lừa và ngựa rất gần gũi, Chúa của anh mắc nợ con ngựa, cầm bằng mắc nợ con lừa, chuồng ngựa có thể làm phòng sản thì tại sao giáo đường không trở thành chuồng lừa?
Anh ta vênh váo vì những lý lẽ của mình, nhìn chằm chằm ông mục sư, cười đắc ý.
Malôa làm dấu trước ngực, khóc:
- Xin Chúa hãy trừng phạt những kẻ ác này, sấm sét hãy giáng xuống đầu chúng rắn độc hãy cắn chết chúng, pháo đạn của Nhật hãy bắn chết chúng!...
- Thằng Hán gian chó chết!
Người đội viên méo miệng đánh ông mục sư một bạt tai. Anh ta định vả vào má nhưng lại trúng cái mũi chim ung của ông mục sư, máu tứa ra, nhỏ từng giọt. Ông mục sư đau đón kêu lên, giơ cao hai tay nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây thập ác:
- Chúa ơi, lạy Chúa toàn năng!...
Các đội viên Đội Hỏa-mai trước hết nhìn Chúa Giêsu đầy bụi và cứt chim rồi nhìn lại khuôn mặt ông mục sư loang lổ những máu. Cuối cùng, họ nhìn mẹ tôi từ đầu đến chân. Mẹ rùng mình, như có giòi bọ trên người. Tên đội viên biết chuyện Chúa Giêsu sinh trong máng cỏ thè lưỡi như lưỡi cóc, liếm cặp môi thâm. Hai mươi tám con lừa ùa vào phòng nguyện, con thì thủng thẳng đi dạo, con thì cọ lưng vào tường gãi ngứa, con thì ỉa đái, có con lại giở trò lưu manh, lại có con gặm vữa trên tường.
- Lạy Chúa tôi!
Mục sư Malôa rú lên, nhưng Chúa của ông vẫn như cũ. Mấy ông du kích giằng chúng tôi khỏi tay mẹ, quẳng vào giữa đám lừa. Mẹ chồm lên như một con sói, nhưng bọn chúng đã chặn mẹ lại và bắt đầu ra taỵ Tên méo miệng chộp vú mẹ. Tên môi thâm hích bật tên kia ra, hai tay chộp lấy hai con chim bồ câu trắng của tôi, bầu hồ lô của tôi. Mẹ gào khóc, cào rách mặt tên môi thâm. Tên này cười đểu, xé tan quần áo của mẹ.
Cảnh tượng tiếp theo là nỗi đau âm ỉ suốt đời tôi. Sa Nguyệt Lượng ve vãn chị Cả trong sân nhà tôi, bọn chó má Ba Cẩu trải đệm bằng thân cây mạch ở chái đông. Ở nhà thờ năm tên đội viên du kích - toàn thể tổ nuôi lừa, dằn mẹ tôi xuống đất. Tôi và chị Tám khóc khản cả giọng giữa đám lừa. Malôa nhảy dựng lên, vớ lấy thanh dõng cửa bị gãy, vụt một nhát lên đầu một tên du kích. Một tên nhằm vào đùi mục sư nổ súng. Một tiếng đoàng, cả nắm đạn ghém xuyên qua đùi ông mục sư, máu phọt ra. Thanh dóng cửa rớt xuống đất, ông mục sư từ từ khuỵu xuống. Ông ngước nhìn Chúa Giêsu trên đầu toàn cứt chim, lẩm bẩm cầu nguyện. Tiếng Thụy Điển mà ông quên từ lâu, tuôn ra hàng tràng từ miệng ông. Bọn du kích luân phiên làm nhục mẹ tôi. Bọn lừa đen luân phiên ngửi tôi và chị Tám. Tiếng kêu lảnh lói của chúng chọc thủng nóc nhà nguyện, bay lên bầu trời thê lương. Trên khuôn mặt Chúa Giêsu bằng gỗ táo, mồ hôi đọng từng giọt Bọn du kích đã thỏa mãn. Chúng quăng mẹ và chị em tôi ra ngoài đường. Đàn lừa cũng theo nhau xông ra, ngửi ngửi mẹ tôi rồi chạy tán loạn. Khi đám du kích chạy đi bắt lừa, mục sư Malôa lê đôi chân bị thủng lỗ chỗ như tổ ong, trèo lên cái thang bằng gỗ, các bậc nhẵn bóng vì không biết bao nhiêu lần ông trèo trên đó, lên gác chuông. Ông bám gờ cửa sổ, qua lần kính nhìn toàn cảnh thị trấn Đại Lan, thủ phủ của vùng đông bắc Cao Mật mà ông từng sống mấy chục năm, nơi nào cũng lưu vết chân ông: từng dãy nhà tranh vuông vắn, những ngõ to nhỏ màu xám, Những cây xanh trông như cụm khói, dòng sông lấp lánh ôm lấy thôn xóm, mặt hồ phẳng như gương, những đồng cói xanh mượt, những vạt cỏ dại khảm trên mặt đầm, những đầm nước màu dỏ quạch, thiên đường của các loài chim và cánh đồng tít tắp đến tận chân trời trải ra như bức họa, ngọn núi Trâu Nằm màu vàng dỏ, những ghềnh lớn hoa hòe nở rô... Ông nhìn xuống, thấy chị Lỗ phơi bụng nằm dưới đường như một con cá chết. Một nỗi đau cùng cực bóp chặt trái tim ông, hai dòng lệ ứa ra, mờ cả đôi mắt. Ông lấy ngón tay quệt máu trên đùi, viết lên tường bốn chữ lớn:
KIM ĐỒNG, NGỌC NỮ
Rồi ông kêu to:
- Xin Chúa hãy tha thứ cho con!
Mục sư Malôa nhào ra khỏi gác chuông, như một con chim khổng lồ gãy cánh, rơi cắm đầu xuống đường phố, óc tung tóe khắp mặt đất như bãi cút chim mới ỉa.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 12
Mùa đông năm nay đã tới gần, mẹ mặc chiếc áo bông bọc lụa xanh của bà nội. Chiếc áo được may nhân dịp bà nội sáu mươi tuổi, nhờ một bà con cháu đầy đàn trong thôn, may giúp. Giờ đây nó trở thành áo rét của mẹ. Bà nội đã mất khả năng nói năng, hành động, đánh bạn với lừa ngựa ở chái tây. Ở hai vạt trước của chiếc áo bông, mẹ khoét hai lỗ hình tròn để hai vú lộ ra ngoài, tiện cho tôi bú tí bất cứ lúc nào. Cái ngày thu phẫn nộ ấy, đôi vú của mẹ bị chà đạp, nhưng tai họa rồi cũng qua đi, bầu vú chân chính thì không thể bị hủy hoại, giống như có những người trẻ mãi, xanh tươi mãi mãi như cây tùng. Để che gió lạnh, giữ cho vú được ấm, mẹ đính hai miếng vải đỏ trước hai lỗ như rèm chẹ Phát minh của mẹ trở thành truyền thống, đến nay vẫn thịnh hành ở Cao Mật, có điều, bây giờ hai lỗ thật tròn, vải rèm càng mềm mại, hơn nữa còn thêu một bông hoa trên đó.
Trang phục mùa đông của Kim Đồng là một cái túi rất bền bằng vải bạt, có thể thắt miệng túi lại bằng một sợi dây. Thân túi đính hai quai thật chắc, quàng đuổi cặp vú của mẹ. Khi cho tôi bú, mẹ thót bụng lại, xoay cái túi ra trước ngực. Trong túi, tôi chuyển từ tư thế đứng sang tư thế quì là đầu tôi ngang tầm ngực mẹ, tôi chỉ việc ngoẹo đầu sang trái là ngoạm được đầu vú phải, ngoẹo đầu sang phải là bập được vào đầu vú trái, sang trái sang phải đều gặp nguồn sữa. Nhưng cái túi cũng có điều bất tiện. Tay tôi bị vướng, khiến tôi mất thói quen thường ngày: miệng ngậm bầu này thì một tay bảo vệ bầu kia. Quyền được bú tí của chị Tám đã bị tôi tước đoạt hoàn toàn. Hễ chị sán lại gần là tôi tay cấu chân đạp, khiến chị khóc suốt. Bây giờ chị sống bằng cháo. Thấy vậy, các chị đều rất không bằng lòng. Do vậy, cả một mùa đông dài đặc và khắc nghiệt, tôi luôn luôn nơm nớp lo sợ mỗi khi ti sữa. Khi ngậm vú trái, toàn bộ tinh thần tôi tập trung chú ý bầu vú bên phải, luôn cảm thấy những bàn tay lông lá đột nhiên thò vào lỗ thủng, bắt bầu vú đem đi. Vì lo sợ như vậy, tôi liên tục đổi bên, vừa mút cho chảy sữa ở bầu trái, tôi đã lập tức chuyển sang bầu phải. Mẹ đoán ra tâm trạng tôi, thơm tôi bằng cặp môi lạnh ngắt, nói khẽ:
- Kim Đồng, con cưng của mẹ. Sữa mẹ chỉ dành cho con, không ai cướp được của con!
Mẹ nói vậy khiến tôi đỡ lo nhưng vẫn không thể yên tâm hoàn toàn, tôi vẫn cảm thấy luôn luôn có những bàn tay lông lá rập rình bên vú mẹ.
Một buổi sáng, tuyết rơi nhẹ, mẹ mặc chiếc áo bông có khoét lỗ, địu Kim Đồng cuộn tròn trong cái túi ám áp trên lưng, chỉ huy các chị khuân củ cải vào hầm. Tôi không quan tâm củ cải từ đâu tới mà chỉ để ý hình dáng của chúng. Đầu nhọn, thân phình to đột ngột của chúng khiến tôi nghĩ đến bầu vú. Từ đó, trong ký ức về vú, ngoại trừ những bầu hồ lô bóng loáng, ngoại trừ con chim câu trắng mềm mại, đã có thêm hình ảnh những củ cải đỏ Chúng có màu sắc riêng, thần thái riêng và độ ấm riêng, tất cả đều có hình dáng như bầu vú, đều tượng trưng cho bầu vú trong bất cứ thời tiết nào, hoàn cảnh nào.
Bầu trời hết hùng sáng lại u ám, tuyết nhẹ lúc rơi lúc dừng. Các chị mặc quần áo mỏng, co ro trước gió bấc. Chị Cả chịu trách nhiệm nhặt củ cải từ trong sọt ra, chị Hai và chị Ba chịu trách nhiệm bê đến cửa hầm, chị Tư và chị Năm san đều củ cải trong hầm, chị Sáu và chị Bảy thì không làm gì. Chị Tám không có khả năng lao động, một mình trên giường trầm tư mặc tưởng. Chị Sáu mỗi lần bê bốn củ, chị Bảy mỗi lần bê hai củ. Mẹ và Kim Đồng đi lại trong khoảng từ đống củ cải đến cửa hầm, sai phái, rầy la các chị và than vãn. Những lời ca cám của mẹ, tựu trung xoay quanh trung tâm tư tưởng sau đây: cuộc sống gian truân, phải cố mà làm việc mới có thể vượt quạ Các chị có thái độ tiêu cực khi mẹ ra lệnh, bất mãn khi nghe mẹ than thở. Các chị thờ ở trước những lời than vãn của mẹ. Đến nay tôi vẫn không hiểu vì sao nhà tôi bỗng có nhiều củ cải đến thế! Sau này tôi mới rõ vì sao mẹ tôi dự trữ củ cải nhiều đến như vậy cho mùa đông năm ấy.
Công việc khuân vác sắp kết thúc, mặt đất chỉ còn lại một số củ vặn vẹo như những bầu vú dị dạng. Mẹ khom người quì trước cửa hầm, thò tay xuống lôi chị Tưởng Đệ và Phán Đệ lên. Trong quá trình đó, tôi bị hai lần chổng ngược, từ dưới nách mẹ tôi trông thấy mờ ảo những bông tuyết trắng. Cuối cùng, mẹ bê một cái ang sứt miệng, trong ang chất đầy những bông gòn và vỏ hến, đậy miệng hầm lại. Các chị xếp thành một hàng ngang đứng sát tường áp mái, như đang chờ lệnh mới. Mẹ lại than thở:
- Lấy gì may áo bông cho các con bây giờ?
Chị Ba nói:
- Mua bông, mua vải.
Mẹ nói:
- Chỉ có vậy thì hỏi các con làm gì? Mẹ nói là kiếm đâu ra tiền?
Chị Hai tỏ vẻ không bằng lòng, nói:
- Bán mẹ con con lừa đi!
Mẹ cắt ngang:
- Bán lừa và la đi thì sang xuân cày ruộng bằng gì?
Chị Cả Lai Đệ trước sau giữ thái độ im lặng. Mẹ liếc sang phía chị, chị cúi gằm xuống. Mẹ lo ngại nhìn chị, nói:
- Ngày mai, con và Chiêu Đệ dắt con la ra chợ mà bán?
Chị năm Phán Đệ thét lên, giọng the thé:
- Con la vẫn còn bú sữa mẹ. Sao nhà mình không bán thóc đi! Thóc nhà mình nhiều như thế cơ mà! Mẹ liếc sang chái đông, cửa buồng khép hờ, trên sợi dây thép căng ngang cửa sổ có đôi tất của Đội trưởng Sa Nguyệt Lượng. Con la lon ton chạy ra sân, nó cùng ngày tháng năm sinh với tôi, cũng như tôi, nó là con đực. Tôi vẫn còn đứng trong túi vải bạt trên lưng mẹ, nó đã cao bằng mẹ nó rồi.
- Vậy đấy, ngày mai bán con la đi! - Mẹ vừa nói vừa đi vào trong buồng. Có tiếng gọi sang sảng từ phía sau lưng chúng tôi:
- Mẹ nuôi ơi!
Sa Nguyệt Lượng mất tăm đã ba ngày, nay trở lại nhà tôi dắt theo con lừa đen của anh tạ Trên lưng lừa là hai bọc to tướng bằng vải hoa căng phồng, tù kẽ hở lộ ra những màu sắc rực rỡ.
- Mẹ nuôi ơi!
Anh ta tỏ vẻ thân thiện. Mẹ quay lại, nhìn khuôn mặt xương xương đen nhẻm với nụ cười ngọng nghịu của anh ta, nói dứt khoát:
- Sa Đội trưởng, tôi đã nói nhiều lần rồi, tôi không phải là mẹ nuôi của anh!
Sa Nguyệt Lượng không nao núng, nói:
- Không phải mẹ nuôi? Còn hơn cả mẹ nuôi nữa kìa! Mẹ nuôi không ưng tôi, nhưng tôi một lòng hiếu thuận với mẹ!
Nói rồi, anh ta gọi hai đội viên du kích vào đỡ hai bọc vải xuống, bảo họ dắt lừa về nhà thờ. Tôi cũng nhìn con lừa đực của Sa Nguyệt Lượng bằng cặp mắt căm giận. Nó hếch mũi lên, ngửi cái mùi tỏa ra từ con lừa cái nhà tôi. Sa Nguyệt Lượng cởi cái bọc, cầm lên một chiếc áo khoác băng lông cáo, giơ ra dưới tuyết. Sức nóng tỏa ra từ chiếc áo khiến những bông tuyết nhẹ tan thành nước cách cái áo một thước.
- Mẹ nuôi ơi! Sa Nguyệt Lượng cầm áo lại gần mẹ. - Mẹ nuôi ơi, đây là chút lòng hiếu thảo của tôi!
Mẹ vội vã né tránh, nhưng không tránh được, kết cục là chiếc áo khoác lên người. Mặt tôi tối sầm, mùi lông cáo và mùi long não khiến tôi nghẹt thở. Khi tôi lại thấy ánh sáng, sân nhà tôi đã trở thành một thế giới động vật: Chị cả Lai Đệ khoác chiếc áo lông tử điêu, cổ quấn khăn lông chồn còn nguyên hai mặt lóng lánh. Chị hai Chiêu Đệ khoác chiếc áo bằng lông điêu thử. Chị ba Lãnh Đệ khoác chiếc áo lông gấu đen. Chị tư Tưởng Đệ khoác chiếc áo da màu vàng rơm. Chị năm Phán Đệ khoác chiếc áo bằng lông sói đốm. Chị sáu Niệm Đệ khoác chiếc áo lông cừu. Chị bảy Cầu Đệ khoác chiếc áo bằng lông thỏ trắng. Chiếc áo khoác lông cáo của mẹ rơi xuống đất. Mẹ quát:
- Cởi hết ra cho tôi, cởi hết ra!
Các chị hầu như không nghe mẹ nói gì, đầu ngọ nguậy trong cổ áo, hai tay vuốt ve thân áo. Qua nét mặt, thấy rõ các chị như mụ đi vì ngạc nhiên và vui sướng, vui sướng trong ngạc nhiên. Mẹ run lên, thều thào:
- Chúng mày điên cả rồi hay sao?
Sa Nguyệt Lượng cầm lên hai chiếc áo khoác nhỏ cuối cùng, dùng tay phủi nhẹ mặt ngoài áo bóng như lụa, nền nâu điểm hoa đen, xúc động nói:
- Mẹ nuôi ơi, đây là da con mèo rừng, cả vùng Cao Mật chỉ có hai con. Cha con lão Cảnh Thuyên phải bỏ ra gần ba năm mới tóm được chúng. Đây là da con mèo rừng đực, đây là da con mèo rừng cái. Các em đã trông thấy con mèo rừng bao giờ chưa?
Anh ta đưa mắt nhìn một lượt các chị, không ai trả lời. Anh ta giảng giải cho các chị như một giáo viên tiểu học: Mèo rùng giống như con mèo nhưng lớn hơn nhiều, giống con báo nhưng nhỏ hơn báo, biết trèo cây, biết bơi, một cú nhảy cao một trượng, có thể bắt chim trên ngọn cây. Loài này chẳng khác yêu tinh. Hai con mèo rừng vùng Cao Mật này sống trong các hang bãi tha ma, bắt được chúng còn khó hon lên trời, nhưng cuối cùng đã tóm được. Mẹ nuôi ơi, hai chiếc áo này tôi tặng hai em Kim Đồng và Ngọc Nữ.
Anh ta vừa nói vừa vắt hai chiếc áo may bằng da con mèo rừng biết trèo cây, biết bơi, nhảy cao một trượng, lên cánh tay mẹ. Rồi cúi nhặt chiếc áo lông cáo đỏ như lửa, rũ bụi, cũng vắt lên tay mẹ, nói một câu khiến người cảm động:
- Mẹ nuôi ơi, hãy nể mặt tôi.
Đêm hôm ấy, mẹ chốt cửa buồng chính, gọi chị Lai Đệ sang buồng chúng tôi. Mẹ đặt tôi và Ngọc Nữ nằm sóng đôi trên đầu giường. Tôi giơ tay cào một cái vào mặt chị Tám. Chị khóc, co người lại một góc. Mẹ không kịp ngó đến chúng tôi. Mẹ quay lại chốt cửa buồng. Chị Cả khoác chiếc áo lông chồn, quấn chiếc khăn lông cáo của chị, dè dặt nhưng ương bướng đứng bên giường. Mẹ gác một chân lên giường, rút chiếc trâm sau gáy khêu bấc đèn. ánh đèn bùng lên. Mẹ ngồi xếp thẻ trên giường hỏi chị Cả, giọng mỉa mai:
- Thưa tiểu thư, tiểu thư ngồi xuống đi, đừng sợ làm bẩn chiếc áo da của tiểu thư!
Mặt chị Cả đỏ ửng, chị chành môi, ngồi xuống chiếc ghế băng cạnh giường. Con cáo của chị vênh cái mõm lên ở giữa ngực chị, hai mắt lấp lánh.
Ngoài sân là thế giới của Sa Nguyệt Lượng. Từ khi anh ta dọn đến ở chái đông nhà tôi, cái cổng lớn không bao giờ khép chặt. Đêm nay, ở chái đông càng ồn ào, ánh đèn măng-sông sáng trắng, xuyên qua giấy dán cửa sổ, soi sáng cả ngoài sân. Tuyết bay trong ánh đỡn. Trong sân, tiếng chân đi nhộn nhịp, cánh cổng kêu ken két, vó ngựa vang lên từng chặp trong ngõ. Trong gian chái vang lên tiếng cười ầm ĩ và thô lỗ. Những trò đố vui, nào là Đào viên kết nghĩa, nào là năm ông trạng nguyên, nào là tám đóa hoa mai, tám chú ngựa... Mùi cá thịt thơm lừng khiến sáu chị tập trung tại cửa sổ buồng phía đông thèm rỏ đãi. Mắt mẹ như tóe lửa, nhìn chị Cả không chớp. Chị Cả ngang ngạnh nhìn lại mẹ, hai luồng mắt gặp nhau, cùng tóe lửa xanh.
- Mày nghĩ như thế nào? Mẹ hỏi.
Chị Cả vuốt những chỗ lông xù ở đuôi khăn lông cáo, hỏi lại:
- Mẹ hỏi gì cơ?
Mẹ nói:
- Đừng có giả vờ!
Chị Cả nói:
- Mẹ, con không hiểu ý mẹ?
Mẹ đổi giọng rầu rĩ, nói:
- Lai Đệ, con có chín chị em, con là lớn, nếu xảy ra chuyện gì thì biết dựa vào ai?
Chị đứng phắt dậy, giọng xúc động chưa bao giờ thấy ở chị:
- Mẹ, mẹ còn muốn gì ở con? Trong trái tim mẹ chỉ có Kim Đồng, còn lũ con gái chúng con không bằng bãi cứt chó!
Mẹ nói:
- Con dùng nghĩ sai về mẹ. Kim Đồng là vàng, các con ít ra cũng là bạc, sao lại có thể không bằng bãi cứt chó? Đêm nay, mẹ con mình có gì cứ nói thẳng với nhau. Cái anh chàng Sa Nguyệt Lượng ấy chẳng khác cáo đến chúc Tết gà, tâm địa chẳng có gì tốt. Nó đang câu con đấy!
Chị Cả cúi đầu, vuốt ve cái đuôi con cáo, nước mắt đột nhiên ứa ra, chị nói:
- Mẹ, lấy được người như vậy là con mãn nguyện lắm rồi!
Mẹ như bị điện giật, nói:
- Lai Đệ, con lấy ai mẹ cũng đồng ý, nhưng đừng lấy Sa Nguyệt Lượng!
Chị Cả hỏi: - Vì sao hả mẹ?
Mẹ nói: - Chẳng vì sao cả!
Chị Cả với giọng day nghiến, không phù hợp chút nào với cái tuổi của chị:
- Tôi làm thân trâu ngựa cho nhà Thượng Quan đủ quá rồi!
Giọng gay gắt của chị khiến mẹ giật thót. Mẹ đưa mắt dò xét nhìn khuôn mặt đỏ gay vì giận của chị, rồi lại nhìn bàn tay nắm chặt đuôi con cáo của chị. Mẹ sờ soạng bên cạnh tôi, vớ được cái chổi quét giường giơ cao lên:
- Mày đổ đốn rồi! Tao thì đánh chết mày!
Mẹ nhảy xuống đất, giơ chổi vụt vào đầu chị Cả, chị giơ đầu ra, không tránh né cũng không chống lại. Tay mẹ dùng lại giữa chừng, khi hạ xuống thì đã mềm nhũn. Mẹ vút cây chổi, ôm vai chị mà khóc:
- Lai Đệ, ta với thằng Lượng không đi cùng đường. Mẹ không muốn nhìn thấy con gái của mẹ nhảy vào lửa!...
Chị Cả cũng nức nở khóc.
Cuối cùng, khóc đã chán, mẹ dùng mu bàn tay lau nước mắt, van nài:
- Lai Đệ, con hứa với mẹ đi, không quan hệ với thằng ấy nữa!
Nhưng chị Cả thì rất kiên quyết, nói:
- Mẹ cho con được làm theo ý mình. Con cũng muốn cho gia đình mình được tốt đẹp!
Chị liếc nhìn chiếc áo khoác bằng lông cáo và hai chiếc áo bằng da mèo rừng ở trên giường. Mẹ cũng kiên quyết:
- Ngày mai phải cởi hết những thứ ấy ra!
Chị Cả nói:
- Mẹ nỡ lòng nào nhìn các em con bị chết cóng!
Mẹ nói:
- Cái thằng buôn áo lông chết tiệt!
Chị Cả rút then cửa đi thẳng về buồng của chị, không ngoái lại.
Mẹ ủ rũ ngồi xuống mép giường, thở gấp.
Lúc này tiếng chân lạch bạch của Sa Nguyệt Lượng đã tới bên cửa sổ. Lưỡi líu, môi tê dại, anh ta cũng định từ tốn gõ cửa, nhẹ nhàng nói với mẹ về chuyện hôn nhân đại sự, nhưng rượu đã làm tê liệt thần kinh khiến cử chỉ phản lại ý muốn của anh tạ Anh ta gõ mạnh đến nỗi cửa sổ rung lên thủng cả giấy dán, gió lạnh từ sân lọt vào, hơi rượu từ miệng anh ta cũng lọt vào. Với giọng lè nhè dáng ghét đồng thời cũng đáng yêu của thằng say, anh ta gào lên:
- Mẹ Ơi!
Mẹ nhổm dậy trên giường, ngớ ra một thoáng rồi kéo tôi lùi xa cửa sổ. Sa Nguyệt Lượng nói:
- Mẹ, chuyện vợ chồng giữa tôi và Lai Đệ thì khi nào tổ chức?... Tôi sốt ruột lắm rồi
Mẹ nghiến rằng, nói:
- Anh Lượng, cóc ghẻ muốn ăn thịt ngỗng trời, có mà năm mơ!
Sa Nguyệt Lượng nói:
- Mẹ nói vậy là thế nào?
Mẹ nói:
- Ta bảo anh nằm mơ!
Sa Nguyệt Lượng chợt tỉnh rượu, nói rành rẽ:
- Mẹ nuôi ơi, Sa Nguyệt Lượng này chưa bao giờ hạ mình xin xỏ ai!
Mẹ nói:
- Ai bảo anh xin mà xin!
Sa Nguyệt Lượng nói: - Mẹ nuôi ơi, Sa Nguyệt Lương này định làm gì là làm bằng được.
Mẹ nói: - Vậy anh hãy giết tôi đi đã.
Sa Nguyệt Lượng cười:
- Tôi định lấy con gái thì làm sao lại giết mẹ vợ.
Mẹ nói:
- Vậy đến mạt kiếp anh cũng không lấy được
Sa Nguyệt Lượng nói:
- Con gái lớn rồi, mẹ cứ ý mình sao được? Mẹ vợ Ơi, chúng tôi bỏ đi cho mà xem!
Sa Nguyệt Lượng vừa cười vừa đi tới buồng phía đông, chọc thủng giấy dán cửa sổ, tung nắm kẹo to tướng vào trong, nói to:
- Các dì ơi, có anh rể của các dì đây, ngọt bùi ta sẽ có nhau!...
Đêm ấy Sa Nguyệt Lượng không ngủ, đi lại suốt đêm trong sân, chốc lại ho, chốc lại huýt sáo miệng. Tài nghệ xuất sắc, anh ta nhại được giọng mười mấy loại chim. Ngoài chuyện ho, huýt sáo, anh ta còn hát các tích tuồng cũ và cả những bài ca chống Nhật đang lưu hành, với giọng to hết cỡ. Lúc thì mắng Trần Sĩ Mỹ tại phủ Khai Phong, lúc lại hươi đao chém đầu quân giặc. Để đề phòng người hùng chống Nhật, tình duyên bị ngáng trở xông vào buồng, mẹ chèn cửa bằng cây chống, bễ thổi lửa, rương quần áo, gạch vỡ... Mẹ cho tôi vào túi, địu trên lưng, tay cầm dao phay đi đi lại lại trong nhà, từ buồng tây sang buồng đông. Các chị không ai cởi bỏ áo khoác, ngồi ôm nhau, mồ hôi lấm tấm trên mũi, rồi ngủ thiếp đi trong tiếng ồn đủ loại do Sa Nguyệt Lượng gây ra. Nước dãi của chị Cầu Đệ làm ướt áo lông sói của chị hai Chiêu Đệ. Chị sáu Niệm Đệ như con cừu non, rúc vào chiếc áo lông gấu của chị ba Lãnh Đệ.
Giờ dây nghĩ lại, tôi thấy cuộc đấu với Sa Nguyệt Lượng, mẹ đã thua ngay từ đầu. Sa Nguyệt Lượng dùng lông thú thuần phục các chị tôi, thành lập một mặt trận thống nhất rộng rãi, mẹ tôi mất quần chúng, bị cô lập.
Ngày hôm sau, mẹ địu tôi trên lưng, chạy như bay đến nhà ông Ba Phàn giải thích ngắn gọn: Để trả ơn Tôn Đại Cô đã đỡ đẻ cho, mẹ gả Lai Đệ cho thằng câm lớn, người hùng cầm nhuyễn đao chiến đấu với bầy quạ. Nói dứt khoát ngày thứ nhất chạm ngõ, ngày thứ hai đưa sính lễ, ngày thứ ba làm lễ thành hôn.
Ba Phàn cứ ngẩn ra mà nghe. Mẹ nói:
- Chú ơi, chú đừng căn vặn làm gì, rượu biếu chú, con đã chuẩn bị xong rồi!
Ba Phàn hỏi:
- Làm mối ngược à?
Mẹ bảo:
- Ngược!
Ba Phàn lại hỏi:
- Vì sao phải làm thế?
Mẹ nói:
- Chú ơi! Xin chú đừng hỏi. Chú bảo thằng câm trưa nay đem lễ đến.
Ba Phàn nói:
- Nhà nó có gì đâu?
Mẹ nói:
- Có gì đem nấy.
Chúng tôi chạy về nhà, dọc đường tim mẹ giật thon thót, vô cùng lo lắng. Mẹ linh cảm không sai. Vừa vào sân đã thấy một lô động vật: chồn, gấu đen, sói đốm, cừu, thỏ trắng... đang nhảy múa, chỉ không thấy tử điêu. Tử điêu trên cổ quấn con chồn đang ngồi trên bao lúa mạch ngắm viên đội trưởng du kích. Hắn ngồi lau súng, lau hồ lô trên đệm của hắn.
Mẹ kéo Lai Đệ đứng dậy, lạnh nhạt bảo Sa Nguyệt Lượng:
- Anh đội trưởng, nó đã có chủ rồi! Các anh là đội quân chống Nhật, chắc không dụ dỗ gái có chồng chứ?
Sa Nguyệt Lượng bình tĩnh nói:
- Điều này thì bác khỏi bận tâm.
Mẹ lôi chị Lai Đệ về căn buồng phía đông. Gần trưa, thằng câm lớn xách một con thỏ đến nhà tôi. Hắn mặc chiếc áo chẽn hở cả bụng, tay áo dài đến khuỷu, lộ hai bắp tay vạm vỡ. Cúc áo đứt sạch, hắn khép hai vạt bằng sợi dây thừng. Hắn cúi rạp chào mẹ, nụ cười ngơ ngẩn trên khuôn mặt. Hắn đưa con thỏ cho mẹ bằng cả hai taỵ Ba Phàn cùng đến với thằng câm, nói:
- Chị Thọ Hỉ, tôi đã làm như lời chị dặn.
Mẹ bàng hoàng nhìn con thỏ rừng miệng còn dính máu.
- Chú ơi, trưa nay chú ở lại, anh câm cũng ở lại đây.
Mẹ chỉ vào thằng câm nói:
- Củ cải ninh thịt thỏ, coi như lễ đính hôn cho bọn trẻ!
Trong căn buồng phía đông, tiếng khóc của chị Lai Đệ chợt vỡ ra. Lúc đầu khóc ti tỉ như trẻ con, vài phút sau chuyển thành tiếng gào thét, xen lẫn những câu chửi tục kinh khủng. Rồi mươi phút sau chỉ là tiếng gào khan, không có nước mắt.
Chị Lai Đệ ngồi bệt xuống đất bẩn trong buồng, quên phắt đang mặc chiếc áo quí. Mắt chị ráo hoảnh, miệng há ra như một cái giếng cạn, tiếng gào khan từ đó bật ra. Sáu chị khác của tôi cố ghìm giọng nức nở, nước mắt lăn trên áo lông gấu, nhảy trên áo lông chồn, lấp lánh trên áo lông sói, thấm vào áo lông cừu, dây bẩn áo lông thỏ.
Ba Phàn thò đầu vào buồng đông, mắt trợn trùng như gặp ma, môi run bần bật. Ông đi giật lùi ra giữa nhà rồi loạng choạng bỏ chạy.
Thằng câm lớn của nhà họ Tôn đứng giữa nhà tôi ngó ngang ngó dọc, trên khuôn mặt hắn, ngoài nụ cười ngớ ngẩn, còn gợn lên nét suy tư khó bề đoán trước, sự hoang văng như hóa thạch và một nỗi đau tê buốt. Sau này tôi còn chứng kiến vẻ mặt đáng sợ khi hắn nổi giận.
Mẹ lấy sợi dây thép nhỏ xâu miệng con thỏ rồi treo dưới mái hiên. Mẹ coi như không nghe thấy tiếng gầm của chị Cả, coi như không nhìn thấy nét mặt cổ quái của thằng câm. Mẹ cầm con dao gỉ, sút mẻ, lột da con thỏ. Sa Nguyệt Lượng khoác súng từ buồng đông đi ra, mẹ không ngoái lại, nói với giọng lạnh nhạt:
- Anh Đội, đứa lớn nhà tôi hôm nay đính hôn, con thỏ này là ăn lễ hỏi.
Sa Nguyệt Lông cười:
- Lễ hậu hĩ quá nhỉ!
Mẹ cắt phần đầu con thỏ, nói:
- Nó hôm nay đính hôn, mai đưa đồ cưới, ngày kia làm lễ thành thân!
Mẹ quay lại nhìn chằm chằm vào Sa Nguyệt Lượng, nói:
- Đừng quên uống rượu mừng đấy!
Sa Nguyệt Lượng nói: - Quên thế nào được!
Nói xong, hắn khoác súng lên vai, miệng huýt sáo lanh lảnh, bước ra cổng.
Mẹ tiếp tục lột da con thỏ, nhưng không còn hào húng như trước. Mẹ treo con thỏ trên khung cửa, địu tôi đi vào trong nhà. Trên bàn có mấy củ cải tọ Mẹ cầm dao đến gần, củ cải không phản ứng gì, năm im chờ đợi. Mẹ quát to:
- Lai Đệ, ân oán cũng thể mẹ con, mày cứ oán tao đi!
Nói xong câu dữ dằn đó, mẹ Ôm mặt khóc không thành tiếng, đôi vai run bần bật, nước mắt chảy ràn rụa. Mẹ bắt đầu bổ củ cải. Một nhát bổ xuống, củ cải bửa làm hai, lại một nhát nữa, củ cải bửa làm tự Bổ liên tiếp, động tác của mẹ ngày càng nhanh, ngày càng điệu nghệ. Củ cải bị băm nhỏ đầy bàn. Mẹ lại giơ cao còn dao lần nữa, nhưng động tác hạ xuống thì cực kỳ nhẹ nhàng. Con dao rời khỏi tay, nằm trên đống củ cải đã băm nhỏ, mùi hăng hắc tỏa ra khắp căn buồng.
Thằng câm giơ ngón tay cái lén tỏ ý khâm phục mẹ, miệng lắp bắp để bổ sung cho động tác. Mẹ kéo vạt áo lau nước mắt, bảo thằng câm:
- Anh về đi!
Thằng câm hoa tay, tung chân đá vào khoảng không. Mẹ cao giọng, chỉ về phía nhà hắn, quát to:
- Anh về đi, tôi bảo anh về đi!
Thằng câm hiểu ra. Hắn làm ngoáo ộp một cái với tôi như trẻ con, hàng ria đen nhánh trên cái môi dầy. Hắn làm bộ rất chuẩn xác động tác trèo cây, mô phỏng động tác tóm được con chim đang quẫy. Hắn cười, chỉ vào tôi, lại chỉ vào trái tim hắn.
Mẹ lại chỉ,về hướng nhà. Hắn ngẩn người, gục gặc đầu ra vẻ hiểu, rồi quì trước mặt mẹ - mẹ vội né sang một bên - hắn hướng về cái bàn để củ cải, dập đầu một cái thật kêu rồi vênh váo bước ra cổng.
Đêm ấy, mẹ mệt mỏi ngủ thiếp đi. Tỉnh dậy, đếm đủ tám mươi tám con thỏ béo mũm mĩm treo đây trên cây ngô đồng, cây hương xuân và cây hạnh trong sân.
Mẹ vịn khung cửa, từ từ ngồi xuống.
Thượng Quan Lai Đệ mười tám tuổi, mặc chiếc áo lông tử điêu, cổ quàng khăn lông chồn, đã bỏ đi cùng với Đội trưởng Sa Nguyệt Lượng từ đêm. Tám mươi tám con thỏ là sính lễ nộp cho mẹ, và cũng là cách ra oai của Sa Nguyệt Lương đối với mẹ. Chị Cả bỏ theo trai, chị Hai, chị Ba, chị Tư là đồng lõa. Sự việc.xảy ra khi đã quá nửa đêm như sau: Khi mẹ mệt mỏi hắt hơi thì chị Năm, chị Sáu chị Bảy đi vào giấc ngủ. Chị Hai nhổm dậy, chân trần, mò mẫm tháo gỡ những chướng ngại vật mà mẹ dựng sau cửa, chị Ba chị Tư kéo hai cánh cửa cho mở ra.
Lúc chiều tối, Sa Nguyệt Lượng đã đổ đầu vào cột cửa, cửa mở không một tiếng kêu. Dưới ánh trăng bàng bạc của nửa đêm về sáng, chị em ôm nhau từ biệt. Sa Nguyệt Lượng nhìn những con thỏ treo trên cây, cười thầm. Ngày thứ ba là ngày thằng câm và chị Cả làm lễ thành hôn. Mẹ bình tĩnh ngồi khâu vá trên giường. Gần trưa, không chờ đợi được nữa, thằng câm mò đến. Hắn dùng điệu bộ và cả nét mặt để đòi người. Mẹ bước ra sân, chỉ sang buồng phía đông, rồi chỉ lên cây treo đầy những còn thỏ đã đông cúng. Mẹ không nói câu nào, nhưng thằng câm hiểu hết.
Vào lúc hoàng hôn, cả nhà tôi đang ngồi trên giường ăn cháo mạch, bỗng có tiếng đập cổng đánh rầm. Chị Hai đút cơm cho bà nội ở chái tây hớt hải chạy vào, gọi:
- Mẹ, hỏng to rồi! Anh em nhà thằng câm đến đấy. Đem theo cả chó. Các chị hoảng sợ. Mẹ ngồi im như một tảng đá, dùng thìa đút cháo mạch cho chị Tám. Khi chị Tám đã no, mẹ bắt đầu nhai củ cải rau ráu. Trông mẹ thảnh thơi như một con thỏ cái có chửa. Tiếng ồn ngoài cổng bỗng lắng xuống. Khoảng hút tàn diếu thuốc, ba bóng đen vọt qua bức tường vây phía nam, nơi mặt tường rất thấp. Ba anh em nhà câm đến rồi Cùng vọt vào sân là ba con chó đen bóng như sơn then. Chúng như ba đạo hắc quang bay vào sân, không một tiếng động. Dưới ráng chiều đỏ rực, ba anh em nhà câm và ba con chó đứng yên trong khoảnh khắc y hệt một nhóm tượng. Thằng câm lớn tay cầm thanh nhuyễn đao Miến Điện ánh thép sắc lạnh. Thằng Hai câm chống thanh yêu đao. Thằng ba câm kéo lê thanh phác đao cán dài có tua đỏ. Trên vai đứa nào cũng khoác một bọc nhỏ bằng vải hoa nền xanh hoa trắng, hình như chúng sắp đi xạ Các chị sợ đến nghẹt thở, còn mẹ thì vẫn thản nhiên như không, húp cháo sùm sụp. Đột nhiên, thằng câm lớn gầm lên một tiếng, Hai câm và Ba câm cũng gầm theo, những con chó cũng lên tiếng sủa. Nước bọt bắn ra từ miệng người và mõm chó như những con trùng nhỏ, lấp lánh trong ánh hoàng hôn. Tiếp đó, thằng câm lớn biểu diễn dao pháp, giống như hôm đánh nhau với dàn quạ trong buổi tang lễ trên cánh đồng lúa mạch. Trong cái buổi hoàng hôn chớm đông xa xăm ấy, ánh đao loang loáng trong sân nhà tôi, ba thằng đàn ông hung hãn như ba con chó săn, liên tiếp nhảy vọt lên, vươn dài thân như tấm thép, chém nát những con thỏ treo trên cành cây. Những con chó của chúng gâu gâu mừng rỡ, lắc lắc cái đầu to bự giăng xé những xác con thỏ, thịt bay tứ tung. Ba thằng câm sát phạt chán chê, đứa nào đứa ấy tỏ vẻ thỏa mãn. Sân nhà tôi trở thành lò sát sinh. Mấy con thỏ chỉ còn cái đầu treo lủng lẳng trên cây như những quả khộ Những thằng câm cùng với mấy con chó diệu võ dương oai mấy vòng quanh sân, rồi cũng như khi đến, chúng vượt tường, mất hút trong màn đêm mờ ảo.
Mẹ bưng bát cháo, cười nhạt. Nụ cười đặc biệt của mẹ khắc sâu trong đầu tôi.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 13
Người phụ nữ già đi bắt đầu từ cặp vú, cặp vú già đi bắt đầu từ đầu vú. Vì chuyện chị Lai Đê bỏ theo trai, hai đầu vú của mẹ vốn dĩ ngỏng lên thì nay rũ xuống như bông kê chín. Đồng thời, màu phấn hồng cũng chuyển sang màu đỏ sậm. Những ngày ấy lượng sữa ít đi, mùi vị cũng kém phần thơm ngọt, trong vị sữa nhàn nhạt có mùi của gỗ mục. May mà cùng với thời gian tâm trạng mẹ có khá hơn, nhất là sau khi mẹ ăn con lươn to bự, đầu vú dần dà lại ngỏng lên, màu đỏ sậm cũng nhạt đi, lượng sữa trở lại như hồi mùa thu, trong sữa đã có nhiều vị sắt, ngoại trừ có vị tanh tanh, chất lượng sữa cao hơn trước. Điều không yên tâm là, lần suy yếu này để lại một nếp hằn giữa đầu và bầu vú như trang giấy bị gập, tuy đã được vuốt phẳng, nhưng nếp gấp không mất đi. Biến cố này là tiếng chuông cảnh tỉnh cho tôi, dựa vào bản năng, có lẽ là trời xui khiến vậy tôi phải thay đổi thái độ đối với bầu vú, phải trân trọng chúng, phải coi chúng như vật dễ vỡ mà nhẹ chân nhẹ tay.
Mùa đông năm nay lạnh kinh khủng. Nhờ có nửa gian buồng lúa mạch và một hầm củ cải, chúng tôi sống yên ổn cho đến khi sang xuân. Trong những ngày rét buốt nhất của mùa đông, tuyết rơi dầy đặc lấp kín cửa ra vào, đè gãy những cành cây trong vườn. Chúng tôi mặc áo lông của Sa Nguyệt Lượng cho, ngồi quây quần xung quanh mẹ, mơ màng trong trạng thái ngủ đông.
Một hôm, mặt trời ló ra, tuyết tan, những cột băng treo dưới mái hiên, những con chim sẻ từ chỗ nấp chui ra, nhảy nhót trên cành đầy tuyết. Chúng tôi bừng tỉnh sau thời kỳ ngủ đông. Chúng tôi đã trải qua nhiều ngày đun tuyết lấy nước, vài trăm lần ăn một món củ cải đun bằng nước tuyết, khiến các chị Ớn đến tận cổ. Chị hai Chiêu Đệ là người đầu tiên đề xuất đi lấy nước sông về ăn, vì tuyết năm nay có mùi tanh của máu, nếu không sẽ mắc bệnh mà không biết, ngay cả Kim Đồng chỉ ăn toàn sữa mẹ cũng không thoát. Chị Chiêu Đệ nghiễm nhiên thay thế vị trí của chị cả Lai Đệ. Chiêu Đệ có cặp môi đỏ mọng, giọng nói hơi rè cực kỳ hấp dẫn. Lời chị như mệnh lệnh, vì từ đầu mùa đông đến giờ chị cáng đáng toàn bộ chuyện ăn uống. Mẹ như một con bò cái bị thương, lúc nào cũng nơm nớp, đôi khi lại bao dạn hẳn lên, khoác chiếc áo quí phái lên người, ngồi trên giường sửa sang lại dáng vóc, quan tâm tới lượng và chất của sữa.
- Từ hôm nay trở đi lấy nước sông về mà dùng?
Chị Hai nhìn mẹ, nói bằng một giọng không dễ bác bỏ. Mẹ không phản úng gì. Chị ba Lãnh Đệ cau mày nhận xét cái mùi khó chịu của củ cải nấu bằng nước tuyết. Một lần nữa, chị lại dề xuất chuyện bán con la để lấy tiền mua thịt. Mẹ giễu cợt
- Băng tuyết thế này thì bán con la ở đâu?
Chị Ba nói:
- Vậy chúng ta đi săn thỏ rừng, trời đất này thỏ bị cóng không chạy được.
Mặt me đột nhiên đổi sắc:
- Các con hãy nhớ, cho đến khi chết, đừng để mẹ trông thấy thỏ rừng!
Thật ra, trong mùa đông khắc nghiệt, rất nhiều gia đình đi bắt thỏ về ăn thịt. Những con thỏ béo núc bò lê trong tuyết chứ không chạy, ngay các bà bó chân cũng bắt được. Mùa đông năm ấy là thời kỳ hoàng kim của cáo lông đỏ và cáo cỏ. Do chiến tranh, súng săn bị đủ các loại du kích tịch thu, người trong thôn không còn vũ khí. Cũng do chiến tranh, tình cảm thôn xóm bị tổn thương, nên giữa mùa săn cáo lấy lông, lũ cáo không lo bị giết hại như những năm trước. Trong những đêm dài, chúng thỏa sức vờn nhau trong đầm lầy, cáo cái có chửa nhiều hơn mức bình thường. Những tiếng hú thê thảm của chúng khiến người ta lo ngay ngáy.
Chị Ba và chị Tư khiêng thùng gỗ, chị Hai vác cái choòng ra bờ sông Thuồng Luồng. Qua nhà Tôn Đại Cô, ngó vào trong: mảnh sân hoang vắng, không một chút hơi hướng của con người. Đàn quạ đậu trên tường, cảnh tượng ồn ào trước dây của nhà họ Tôn một đi không trở lại những thằng câm cũng không biết lưu lạc đến phương nào. Các chị lội tuyết đến bắp chân, lần xuống mép nước. Mấy con mèo hoang nấp trong bụi tầm xuân nhìn các chị. Mặt trời chếch hướng đông nam, ánh nắng xiên xiên xuống lòng son, sáng lóa mắt. Băng gần bờ có màu trắng, dẫm lên có tiếng lạo xạo như bánh đa vỡ. Băng ở giữa dòng có màu xanh nhạt, rắn và trơn. Các chị loạng choạng trên băng, chị Tư ngã một cái. Chị Ba kéo chị Tư dậy, cũng ngã luôn. Đòn gánh, thùng gỗ và choòng kêu loảng xoảng trên băng, các chị cười rũ.
Chị Hai chọn chỗ sạch nhất, bắt đầu đục băng. Chiếc choàng to tướng tù thời cụ tổ để lại, nặng nề giáng xuống mặt băng, tiếng đục băng nhọn sắc như xé màng nhĩ, vọng tới tận cửa sổ nhà tôi, giấy dán cửa kêu lục bục. Mẹ vuốt ve mái tóc vàng trên đầu tôi, lông mèo rừng trên người tôi, nói:
- Kim Đồng, Kim Đồng, các chị đi phá băng, đục một lỗ to tướng, khiêng về thùng nước uống, đổ ra nửa thùng cá. Chị Tám khoác áo chẽn bằng lông con mèo rừng ngồi thu lu ở góc giường, mỉm cười vụng về, như một pho tượng Quan âm nhỏ. Chị Hai đục một nhát, mặt băng xuất hiện một điểm trắng bằng hạt hạnh đào. Vài hạt băng bám trên choòng. Chị lại giơ choòng lên, lúc lên thì găng gượng, thả xuống thì lẩy bẩy, mặt băng lại xuất hiện một điểm trắng, cách điểm trắng thứ nhất một thước. Khi mặt băng xuất hiện vài chục điểm trắng, chị Hai đã thở hồng hộc, thở ra từng luồng hơi trắng. Cố giơ cái choòng lên, chị đã kiệt súc ngã gục trên băng, mặt trắng nhợt, đôi môi mọng tím tái, mắt mờ đi, mồ hôi lấm tấm trên mũi.
Giữa lúc các chị tuyệt vọng gom nhặt thùng gỗ và đòn gánh để về nhà, chuẩn bị đun chảy tuyết lấy nước thổi cơm trưa, hơn chục cỗ xe trượt rẽ sương mù chạy như bay trên sông tới chỗ các chị. Vì mặt băng phản chiếu ánh nắng hắt trời, họ lại từ hướng đông nam chạy tới, nên chị Hai cho rằng họ từ trên trời theo tia nắng xuống trần gian. Kim quang chói lọi, nhanh như chớp giật vó ngựa cuồn cuộn, ánh bạc sáng ngời, móng sắt băm trên mặt băng ròn rã. Một mảnh băng bắn vào má chị Hai. Chị ngớ ra, quên cả né tránh. Ngựa lượn một vòng quanh các chị rồi dừng lại. Lúc này, các chị mới thấy rõ các xe trượt đều sơn màu hoàng hạnh phu một lớp dày đầu ngô đồng trông như kính màu. Mỗi cỗ xe có bốn người, đều đội mũ lông chồn. Râu, lông mày, lông mi bám đầy tuyết, miệng mũi phả ra từng làn hơi nóng hổi. Những con ngựa xinh đẹp, cẳng chân đều mọc lông dài. Qua dáng vẻ ung dung của bầy ngựa, chị Hai đoán chúng là giống ngựa Mông Cổ trong truyền thuyết. Một người cao lớn từ trên xe trượt nhảy xuống. Anh ta mặc chiếc áo bằng da dê thuộc không cài khuy, để lộ chiếc trấn thủ bằng da báo, cài sau thắt lưng da to bản,là khẩu súng lục kiểu cối xay và một chiếc búa có cán ngắn.
Chỉ mỗi anh ta không đội mũ lông, nhưng lại dội chiếc mũ ba cạnh bằng nỉ. Hai tai đeo chụp tai chống lạnh bằng da thỏ. Anh ta hỏi:
- Các cô nhà Thượng Quan đấy phải không?
Người này là ông Hai nhà Phúc Sinh Đường.
- Các cô ra đây làm gì? Anh ta hỏi.
Không đợi trả lời, anh ta tự giải đáp:
- à! Đục băng? Công việc này đâu phải của đàn bà con gái!
Anh ta gọi những người trên xe:
- Xuống cả đây! Giúp các cô hàng xóm một tí. Cũng là để ngựa Mông Cổ của ta uống nước!
Mấy chục người trên xe đều xuống. Họ ho, khạc nhổ. Vài người ngồi xổm rút búa ở thắt lưng chém băng chan chát, mảnh băng bay tung tóe. Đã xuất hiện mấy vết nút trắng trên mặt băng. Một người râu quai nón, lấy ngón tay gại gại lưỡi búa, nói:
- Tư Mã đại ca, thế này thì đến đêm cũng không được một lỗ!
Tư Mã Khố ngồi xuống rút búa ra chém thử vài nhát, chửi:
- Mẹ kiếp, rắn như thép ấy!
Râu quai nón nói:
- Đại ca, chúng ta mỗi người đái một bãi, nó sẽ tan!
Tư Mã Khố chửi:
- Nói năng cái con c. gì thế!
Nhưng ngay sau đó, anh ta vui vẻ hắn lên, vỗ mông đánh đét một cái, anh ta nhăn mặt vì vết thương ở mông chưa lành hẳn, nói:
- Có cách rồi! Kỹ sư Khương đâu rồi, lại đây?
Một người dong dỏng cao, có tên là kỹ sư Khương bước tới. Anh ta nhìn Tư Mã Khố không nói gì, nhưng qua nét mặt chừng tỏ anh ta sẵn sàng chờ sai bảo.
- Cái trò của anh có thủng được băng không?
Kỹ sư Thương cười khinh khỉnh, giong the thé như giọng đàn bà, nói:
- Dễ như đập trứng bằng búa đanh?
Tư Mã Khố phấn khởi, nói:
- Vậy thì mau lên, khoét cho tôi tám tám sáu mươi tư cái lỗ, để bà con nông dân được nhờ. Các cô ơi, đừng về vội - Anh ta bảo các chị.
Kỹ sư Thương mở gói vải bạt trên xe trượt thứ ba, lấy ra một khối sắt có hình dáng quả đạn pháo. Rất thành thạo, anh ta rũ tung cuộn ghen bọc vỏ đỏ, lắp một đầu ống ghen vào đầu khối sắt. Anh ta nhìn đồng hồ tròn trên đầu khối sắt. Chiếc kim nhỏ trên đồng hồ lắc lự Cuối cùng, anh ta đeo găng tay bằng vải bạt, cầm lên một vật tựa khẩu súng hơi, lắp hai đầu ống ghen vào bóp thử, lập tức một luồng khí phụt ra. Trợ thủ của anh ta, một cậu bé quá lắm chỉ mười lăm tuổi, người gầy nhom, quẹt diêm châm vào luồng khí. Ngọn lửa xanh, to bằng con nhộng, lập tức bùng lên, réo ù ù. Anh ta sai cậu bé lại chỗ cỗ xe trượt, điểu chỉnh cái nút trên đầu khối sắt, ngọn lửa xanh lập tức sáng trắng, chói hơn ánh sáng mặt trời. Kỹ sư Khương tay cầm cái gọi là đồ chơi đó, nhìn Tư Mã Khố, chờ đợi.
Tư Mã Khố nheo mắt, đẩy lòng bàn tay ra phía trước, hô to:
- Cắt!
Kỹ sư Thương xịt ngọn lửa xuống mặt băng. Một làn khói trắng bốc lên cao khoảng một thước cùng với tiếng nước rót rách. Cánh tay anh ta điều khiển cổ tay, cổ tay điều khiển súng phun lửa. Súng phun lửa phụt ra ngọn lửa trắng, cắt một đường tròn trên mặt băng. Anh ta ngẩng lên nói:
- Cắt được một lỗ rồi!
Tư Mã Khố chưa tin, cúi xuống nhìn, quả nhiên băng đã bị cắt một tảng bằng cái mâm, nước sông tràn lên từ vết cắt. Kỹ sư Thường dùng lửa cắt thêm hai nhát hình chữ thập, khối băng bị cắt làm tự Anh ta dùng chân ấn khối băng xuống, nó bị nước sông cuốn đi. Một cái lỗ hiện ra, nước sông tràn lên. Giỏi thật! Tư Mã Khố khen, những người xung quanh cũng nhìn anh kỹ sư bằng con mắt thán phục. Tư Mã Khố nói:
- Cắt tiếp!
Kỹ sư Khương giở tuyệt chiêu ra, cắt mấy chục cái lỗ trên băng dày nửa thước. Có lỗ hình tròn, có lỗ hình vuông, lỗ hình chữ nhật, hình tam giác, hình thang, hình bát giác, hình hoa mai... y hệt một giáo trình hình học. Tư Mã Khố nói:
- Kỹ sư Khương này, đây là chiến công đầu của anh sau khi rời khỏi túp lều tranh. Lên xe, các bạn ơi! Chập tối phải tới cầu sắt! Phải, cho ngựa uống nước ở sông Thuồng Luồng!
Họ lôi ngựa đến mương nước bên hố băng. Nhân khi đó, Tư Mã Khố hỏi chị Hai:
- Cô là thứ hai phải không? Cô về nói lại với mẹ, rằng một ngày nào đó, tôi đập tan cái thằng Sa Nguyệt Lượng chó đẻ ấy! Tôi sẽ cướp lại chị Cả của cô trao trả thằng câm lớn!
- Ông có biết chị em hiện giờ ở đâu không? - Chị Hai mạnh dạn hỏi.
Tư Mã Khố nói:
- Buôn bán thuốc phiện cùng Sa Nguyệt Lượng, mẹ kiếp, bọn Hỏa-mai đốn mạt.
Chị Hai không dám hỏi thêm, chỉ đứng nhìn Tư Mã Khố trèo lên xe trượt. Mười hai cỗ xe thành hàng dọc, lướt như tên bắn về hướng tây, mất hút sau khúc ngoặt của sông Thuồng Luồng.
Các chị mê mẩn trước quang cảnh kỳ lạ đó, phấn chấn đến nỗi quên cả rét, đi xem lần lượt cái lỗ, từ tam giác đến hình trụ, từ hình trụ đến hình vuông, từ hình vuông đến hình chữ nhật. Nước sông từ lỗ tràn lên thấm ướt giày của các chị, chỉ một loáng đã đông lại thành băng. Làn hơi tưới mát của dòng sông ùa lên miệng lỗ khiến lòng dạ lâng lâng. Chị Hai, chị Ba và chị Tư đều rất ngưỡng mộ Tư Mã Khố. Do chị Cả đã nêu gương, trong đầu chị Hai một ý nghĩ thoáng qua: Lấy Tư Mã Khố. Hình như có tiếng ai đó cảnh cáo chị: Tư Mã Khố đã có ba vơ... Vậy thì chị làm vợ thứ tử Tất nhiên đó là chuyện về sau này. Chị Tưởng Đệ hốt hoảng kêu:
- Chị Ơi, cây thịt kia kìa!
Cái mà chị Tư gọi là cây thịt là con lệch, một loại lươn to bự. Nó vụng về quẫy khúc, từ dưới đáy sông nổi lên. Cái đầu gần giống đầu rắn, to bằng nắm tay, hai mắt tối sầm khiến người ta nghĩ đến sự thâm hiểm của loài rắn. Nó ló đầu sát mặt nước, mũi sủi bong bóng. Chị Hai kêu lên:
- Một con lệch bự!
Và chị vung đòn gánh nhằm đầu con lệch bổ một nhát. Móc sắt ở đầu đòn gánh kêu lanh canh, nước bắn tung tóe. Con lệch chìm xuống nhưng lập tức nổi lên, một bên mắt dập nát. Chị Hai dùng đòn gánh đánh tiếp. Con lệch đuối sức dần, đờ ra. Chị Hai quẳng đòn gánh, tóm lấy đầu con lệch lôi lên. Lên khỏi mặt nước, con lệch đông cứng lại như một cây thịt. Chị Hai bảo chị Ba và chị Tư khiêng thùng nước, còn chị thì tay cầm choòng, tay kéo lê con lệch, mãi mới về đến nhà.
Mẹ dùng cưa cắt bỏ đuôi, chia phần thân làm mười tám khúc. Mỗi khúc khi rơi xuống đất, vang lên một tiếng bịch. Dùng nước sông Thuồng Luồng nấu lệch của sông Thuồng Luồng thơm ngon không thể tả. Từ hôm đó, hai bầu vú mẹ hồi xuân, dù rằng, như trên đã từng nói, vết hằn như nếp gấp tờ giấy vẫn còn.
Và cũng trong cái đêm ăn canh lệch thơm bổ ấy, mẹ thấy trong lòng khoan khoái, gương mặt hiền từ như Đức Mẹ, như Quan âm Bồ Tát. Các chị quây quần xung quanh, nghe mẹ kể chuyện vùng Cao Mật. Đêm xuân ấm áp, nhi nữ tình thương. Gió vi vu trơn theo lòng sông Thuồng Luồng, thổi vào ống khói như thổi sáo. Cây trong vươn rũ băng lắc rắc. Rèm băng dưới mái hiên rớt xuống tảng đá dùng để giặt quần áo vỡ vụn, vang lên một tiếng khô khốc.
Mẹ kể, những năm thời Hàn Phong triều Thanh, vùng này chưa có người đến định cự Mùa hè, mùa thu, người ta đến đánh cá, hái thuốc, chăn dê cừu. Tại sao gọi là Đại Lan? Vì đây là nơi đàn cừu nghỉ đêm.Những người chăn cừu dùng cành cây quây thành chuồng, nhốt đàn cừu lại, chuồng kiểu ấy, người ta gọi là đại lan. Mùa đông, người ta đến đây săn cáo, chồn, nhưng nghe nói họ đều chết bất đắc kỳ tử, không chết cóng trong tuyết thì cũng mắc những bệnh quái gở. Về sau, cũng không rõ năm nào tháng nào, có một người to khỏe, chân tay vạm vỡ, gan cóc tía. Người ấy chính là Tư Mã Răng-To, ông nội của anh em Tư Mã Đình và Tư Mã Khố. Răng-To là biệt hiệu của ông ta, tên thật thì không ai biết. Biệt hiệu là Răng-To nhưng răng cửa thì không còn chiếc nào, khi nói cứ uôm uôm, phát âm không rõ. Răng-To dựng một túp lều bên bờ sông, sống nhờ ngọn lao cá và khẩu súng săn. Thời bấy giờ cá nhiều vô kể, ngoài sông, trong rạch, trong đầm, nửa là cá, nửa là nước. Mùa hè năm ấy, Răng-To ngồi lao cá bên bờ sông, trông thấy một cái chum lớn từ thượng lưu trôi xuống. Ông giỏi bơi lội, có thể lặn dưới nước bằng thời gian hút tàn điếu thuốc. Ông nhảy xuống sông lôi cái chum vào bờ. Trong chum là một cô gái mù.
Chúng tôi nhìn chăm chăm vào Ngọc Nữ. Chị ngoẹo đầu, dỏng tai nghe, mạch máu trên vành tai rõ mồn một.
Cô gái đó cực kỳ xinh đẹp, nếu không bị mù, thì nên lấy vua, trở thành hoàng hậu. Về sau, cô gái mù sinh được một người con trai thì chết. Răng-To nuôi thằng nhỏ bằng canh cá, đặt tên là Tư Mã Ông, chính là cha đẻ của Tư Mã Đình và Tư Mã Khố bây giờ.
Tiếp theo, mẹ kể về lịch sử di dân đến quê hương đông bắc này, kể về ông thợ rèn - cụ tổ của chúng tôi - và tình thân hữu của cụ với Tư Mã Răng-To; kể về Nghĩa Hòa Quyền khuấy đảo miền đông bắc, kể về trận ác chiến cười nôn ruột ở Bãi-CátĐài phía tây thôn, giữa một bên là cụ tổ chúng tôi và Tư Mã Răng-To với một bên là người Đức, cho rằng quân Đức không có đầu gối, chân thẳng đuột không gập lại được. Còn nói quân Đức ưa sạch, rất sợ dính phân vào người, hễ dính phân là nôn oẹ cho đến chết. Lại nói bọn Tây đầu là con chiên. Chiên thì sợ hổ báo lang sói. Thế là hai vị tiên phong trong công cuộc khai phá vùng đông bắc, tụ tập một số bợm rượu, con bạc, du đãng... Tất nhiên họ đều là những kẻ không sợ chết, võ nghệ siêu quần, thành lập đội hổ Lang. Tư mã Răng-To và cụ tổ Thượng Quan Đẩu cùng đội Hổ Lang dụ quân Đức tới Bãi-CátĐài, nghĩ rằng chúng sẽ sa lầy vì chân chúng thẳng đuỗn như cây củi. Rồi đội Hổ Lang rung cây để những bọc phân rơi tung tóe lên đầu quân giặc, khiến chúng lợm giọng mà chết. Để chuẩn bị cho trận này, Răng-To và cụ tổ Thông Quan Đẩu bỏ ra một tháng gom nhặt phân người bỏ vào lọ đem đến Bãi-CátĐài. Họ đã biến nơi sực nức hương thơm của hoa hòe thành nơi xú uế không thể chịu nổi, khiến hàng ngàn vạn con ong mật bị sặc mùi thối mà chết.
Cũng trong cái đêm tuyệt diệu ấy, chúng tôi mê mẩn với lịch sử đầy hấp dẫn của vùng Cao Mật. Khi chúng tôi đang tưởng tượng ông Răng-To và cụ tổ Thượng Quan Đẩu với trận địa phân của hai vị, thì cháu đích tôn của ông Răng-To là Tư Mã Khố đang ở cách chúng tôi ba mươi dặm, dưới cây cầu đường sắt bắc qua sông Thuồng Luồng, viết trang sử mới cho vùng Cao Mật.
Con đường sắt Giao Đông-Tế Nam này do Đức xây dựng, các anh hùng hào kiệt của đội Hố Lang anh dũng chiến đấu, dùng những chiến thuật chưa từng thấy tự cổ chí kim, kéo dài thời han hoàn thành con đường. Nhưng rốt cuộc cũng không ngăn được con đường xẻ đôi cái bụng mềm mại của vùng Cao Mật, mà nói như Tư Mã Ông thì là: Mẹ kiếp, chẳng khác rạch một nhát dao lên bụng mẹ vợ mình! Con rồng khổng lồ bằng thép nhả khói, trườn qua vùng Cao Mật như dán trên ngực chúng tôi. Giờ đây, con đường này thuộc quyền quân Nhật, chở đi than và bông của chúng tôi, chở đến là vũ khí đạn được mà cuối cùng là để giáng lên đầu chúng tôi. Hành động phá cầu đường sắt của Tư Mã Khố, có thể nói là tiếp tục ý chí của ông nội anh ta, phát huy truyền thống vẻ vang của quê hương, có điều, thủ đoạn cao cường hơn tổ tiên mà thôi.
Sao Hôm đã ngả về tây, vầng trăng lưỡi liềm gác trên ngọn cây. Gió tây hoành hành trên sông, rít ù ù qua những thanh sắt trên cầu. Đêm ấy lạnh kinh khủng, băng trên sông nứt toác thành từng vệt. Tiếng băng vỡ còn ròn hơn tiếng súng. Cỗ xe trượt của Tư Mã Khố dùng lại chỗ bờ sông dưới chân cầu. Anh ta nhảy xuống trước, cảm thấy mông đau như bị mèo cắn. Trên trời là ánh sao yếu ớt, dưới đất là ánh sáng mờ mờ của dòng sông, khoảng giữa là màn đen giơ tay không nhìn thấy ngón. Tư Mã Khố vỗ tay một cái, xung quanh đáp lại tiếng vỗ tay rời rạc. Đêm đen thần bí khiến họ bị kích động, phấn chấn đến căng thẳng. Sau này người ta hỏi tâm trạng trước khi phá cầu như thế nào, Tư Mã Khố trả lời: Vui lắm, vui như Tết.
Các đội viên nắm tay nhau lần xuống chân cầu. Tư Mã Khố mò mẫm trèo lên trụ, rút búa ở thắt lưng chém một nhát vào dầm cầu. Lưỡi búa tóe lửa, Tư Mã Khố chửi:
- Đ. bà nó, toàn sắt là sắt!
Một ánh sao sa rạch dứt bầu trời, kéo theo một cái đuôi dài, ngọn lửa màu lam tuyệt đẹp khiến trời đất. bùng lên trong khoảnh khắc. Nhân lúc sao đổi ngôi, Tư Mã Khố trông rõ mố cầu bằng bê tông và những thanh sắt ngang dọc. Anh ta gọi:
- Kỹ sư Khương, lên đây!
Mọi người đùn kỹ sư Thương trèo lên mố cầu, tiếp theo là cậu thiếu niên trợ thủ của anh tạ Những cục băng trên cầu nhiều như nấm. Tư Mã Khố giơ tay kéo cậu nhỏ thì bị trượt chân, khi cậu ta gượng lại được trên mố thì Tư Mã Khố rớt xuống đất, máu tóe ra từ chỗ mông bị thương thấm đẫm băng vải.
- Ối mẹ Ơi! - Anh ta kêu - Đau quá, mẹ Ơi!
Các đội viên chạy đến nâng anh ta dậy. Anh ta tiếp tục kêu đau, giọng oang oang lan đi rất xạ Một đội viên khuyên:
- Nhịn đau một tí, đại ca, kẻo lộ mất!
Nghe nói vậy, Tư Mã Khố mới chịu im, người cứ run bần bật, ra lệnh:
- Kỹ sư Khương, cắt mau lên, cắt vài thanh rồi rút. Đ. mẹ thằng Sa Nguyệt Lượng, cho mình thuốc mà càng đắp càng đau?
Một đội viên nói:
- Đại ca bị trúng gian kế rồi!
- Lẽ nào cậu không biết câu có bệnh thì vái tứ phương hay sao? Tư Mã Khố cãi.
Đội viên ấy lại nói:
- Đại ca ráng chịu vậy. Về nhà tôi sẽ chữa cho, bị bỏng thì chỉ mỡ con hoan mới khỏi, bôi đâu khỏi đấy!
Một chùm nửa xanh bùng lên giữa các thanh dầm cầu, sáng chói, mắt chảy nước. Vòm cầu, mố cầu, dầm cầu, các thanh giằng, áo khoác da chó và mũ lông chồn, xe trượt màu vàng, ngựa Mông Cổ, tất cả rõ mồn một, sợi lông rơi trên băng cũng có thể nhìn thấy. Hai người, kỹ sư Phương và cậu giúp việc, leo lên dầm cầu như khỉ, dùng súng phun lửa cắt dầm cầu, khói trắng bốc trên mặt dầm thép, mùi kỳ lạ của thép bị nung chảy lan tỏa mặt sông. Tư Mã Khố ngây ra mà nhìn những tia lửa hồ quang, quên cả chỗ đau ở mông, lửa hàn ăn vào thép như tằm ăn dâu, chỉ một lát, một thanh dầm đã gục xuống, gác chênh chếch trên lớp băng dày.
- Cắt nữa đi! Tư Mã Khố quát to.
Công bằng mà nói, nếu như trước đó tin tức mà họ nhận được là chính xác, thì trận đánh bằng phân và nước tiểu chắc chắn là thắng. Mẹ nói, sau khi thất bại, đội Hổ Lang có mở cuộc điều tra nửa công khai nửa bí mật kéo dài đến nửa năm, thăm dò hàng nghìn người, cuối cùng mới biết đích xác người đầu tiên nhận được cái tin bậy bạ lính Đức không có đầu gối, dính phân là chết, lại chính là Đội trưởng Răng-To, mà người cung cấp tin này lại là Tư Mã Ông, thằng con trai ăn chơi đàng điếm, con của bà mù. Người điều tra lôi Tư Mã Ông ra khỏi chăn của một con điếm, hỏi nguồn tin do ai cung cấp. Hắn nói do Nhất Phẩm Hồng, cô điếm ở Lầu-quên-buôn nói với hắn. Người điều tra hỏi Nhất Phẩm Hồng, cô bảo cô không bao giờ nói như thế. Cô nói, cô đã tiếp tất cả kỹ sư và binh lính Đức trong đội đo đạc, từng bị đầu gối của chúng dằn nát đùi, làm sao có thế cái tin bậy bạ ấy lại từ miệng cô nói rả Đầu mối đến đây thì bị đứt, các đội viên thoát chết của đội Hổ Lang trở về với nghề cũ của mình, ai đánh cá thì đi đánh cá, ai cày ruộng thì về cày ruộng. Mẹ nói rằng, chồng của dì chúng tôi là Vu-Bàn-Vả khi ấy là một thanh niên cường tráng, tuy không tham gia đội Hổ Lang, nhưng có dự trận đánh phân và nước tiểu, cõng ba vò phân trên cây gậy. Ông kể, khi quân Đức qua cầu, Răng-To bắn về phía chúng một phát hỏa mai, Thượng Quan Đẩu bắn một phát súng săn, rồi dẫn toàn đội rút về Bãi-CátĐài. Bọn lính Đức đầu đội mũ đen cắm lông chim năm màu, mình mặc áo màu xanh lục đầy cúc đồng, quần bó ống màu trắng, chân vừa thon vừa dài, khi chạy không co gối, quả nhiên trông như không có đầu gối. Rút đến chân Bãi-CátĐài, toàn đội dàn hàng ngang mà chửi, chửi có vần có vè, đều do ông giáo trường tư thục Trần Đằng Giao soạn thảo. Đội Hổ Lang dàn trận chửi, bọn lính Đức nhất loạt quì một chân xuống. Sao bảo bọn Đức không biết quì? Ông chú dượng chúng tôi băn khoăn thầm nghĩ. Mẹ nói, ông chưa hiểu nếp tẻ ra sao, đã thấy những cụm khói trắng tỏa ra từ đầu nòng súng của bọn Đức, tiếp đó là hàng loạt tiếng nổ, vài đội viên của đội Hổ Lang đang chửi bỗng ngã gục, trên người chảy máu. Thấy tình thế bất lọi, Răng-To vội ra lệnh khênh những xác chết về phía sau Bãi-CátĐài. Cát lún sâu đến bắp chân, họ đang nghĩ đến chuyện bọn Đức không có đầu gối. Lính Đức rượt theo có thể trông rõ đầu gối to tướng hằn lên trong quần.
Chúng chạy trong cát không vất vả như các đội viên đội Hổ Lang. Các đội viên hoang mang, Răng-To cũng dâm hoảng nhưng nói cứng:
- Đừng sợ, anh em ơi, cát không vùi chúng nó, thì ta đã có chiêu khác!
Đúng khi ấy, bọn Đức vượt được bãi cát, xông vào rừng cây hòe. Cụ tổ nhà mình hô: Giật! Mấy chục đội viên cầm lấy đầu thừng giấu trong cát giật mạnh, những chum lọ đựng cứt đái treo lẫn trong những cụm hoa hòe ào ào trút xuống trên đầu trên người bọn Đức như mua, vài chum buộc không chặt rơi trúng đầu một tên Đức chết tại chỗ. Bọn Đức kêu rầm trời, xách súng bỏ chạy tán loạn. Chú dượng tôi nói, giá như dội Hổ Lang thừa thắng xông lên thì chẳng khác mãnh hổ xông vào đàn dê, tám mươi tên lính Đức chắc chắn không một tên sống sót. Đăng này các ông tướng lại cứ đứng đực ra mà vỗ tay hoan hô, mà cười hể hả, để mặc bọn Đức rút về mé sông. Chúng nhảy ào xuống nước, tắm gội thật sạch cứt đái trên người, rồi nâng súng bắn từng loạt. Một viên đạn xuyên từ miệng ra sau gáy ông Răng-To, ông chết ngay lập tức, không kêu được tiếng nào. Bọn Đức đốt trụi vùng Cao Mật. Viên Thế Khải đem quân đến bắt sống cụ tổ Thượng Quan Đẩu. Để hù dọa mọi người, chúng áp dụng hình phạt cực kỳ thảm khốc đối với cụ tổ dưới cây liễu cổ thụ giữa thôn: đi chân trần trên lưỡi mai nung đỏ. Hôm thi hành án, cả vùng Cao Mật rung động, người đến chứng kiến có cả hàng ngàn, dì chúng tôi cũng có mặt. Dì kể, bọn quan lại cho xếp đá để dặt trên đó mười tám cái lưỡi mai, chất củi ở dưới đốt cho lưỡi mai đỏ lên. Rồi bọn đao phủ dẫn cụ tổ đến, bắt đi trên lưỡi mai đỏ rục bằng chân trần. Bàn chân cụ tổ cháy khét lẹt, khiến dì tôi chóng mặt mấy ngày liền. Dì tôi kể rằng, Thượng Quan Đẩu không hổ danh là thợ rèn, xương đồng da sắt, hình phạt thảm khốc như vậy, tuy có khóc, có gào, nhưng tuyệt nhiên không một lời van xin. Cụ đi lại hai lượt trên lưỡi mai, đôi bàn chân không còn ra hình thù gì nữa... Sau đó, bọn quan lại giết chết cụ tổ, chặt lấy đầu đem đi triển lãm tại thủ phủ Tế Nam.
- Đại ca, hòm hòm rồi đấy - Anh đội viên hứa sẽ dùng mỡ con hoan chữa bỏng cho Tư Mã Khố, bảo với Tư Mã Khố như vậy - chuyến tầu trước lúc trời sáng sắp đến rồi.
Dưới chân cầu đã có hàng chục thanh sắt nằm ngổn ngang, tia lửa tràng xanh vẫn đang hoạt động phía trên.
- Mẹ kiếp! - Tư Mã Khố nói - Chúng tưởng bở! Cậu có đảm bảo cầu sẽ gục không?
- Đại ca, cắt nữa thì tầu chưa đến, cầu đã gục!
- Vậy thì thôi, kỹ sư Khương, kỹ sư Khương, xuống đi! - Tư Mã Khố nói to - Các cậu đỡ hai hảo hán này xuống, thưởng cho mỗi người một chai rượu!
Những tia lửa tắt phụt. Các đội viên đỡ kỹ sư Thương và cậu giúp việc xuống, dìu lại chỗ xe trượt. Trước khi trời sáng, gió ngừng thổi, trời càng lạnh, như cắt da cắt thịt. Những con ngựa Mông Cổ kéo xe trượt, mò mẫm đi trong bóng đêm. Chùng hai dặm, Tư Mã Khố ra lệnh dừng lại. Anh ta nói:
- Vất vả cả một đêm, xem cho đã mắt!
Khi mặt trời vừa ló thì đoàn tầu đến. Khúc sông hừng sáng. Cây cối hai bên bờ lấp lánh ánh vàng, ánh bạc. Chiếc cầu nằm im. Tư Mã Khố luôn xoa tay tỏ vẻ sốt ruột, miệng lẩm bẩm chửi tục. Con tầu đồ sộ Oai phong lẫm liệt trườn tới, gần tới cầu kéo một hồi còi vang dội. Đầu tầu nhả khói đen, phụt hơi trắng giữa khoảng cách các bánh, tiếng va đập khiến người rừng mình, rung cả mặt băng trên sông. Các đội viên thấp thỏm nhìn đoàn tầu. Ngựa Mông Cổ cụp tai ra phía sau, áp sát tận bờm. Đoàn tầu ngất ngưởng trườn lên cầu, thô bạo và man rợ. Chiếc cầu vẫn uy nghi, không hề rung chuyển. Trong một thoáng, Tư Mã Khố và các đội viên mặt trắng bệch, nhưng chỉ một giây sau đó, họ đã nhay cỡn trên băng mà hoan hộ Người to miệng nhất là Tu Mã Khố, nhảy lên cao nhất cũng là Tư Mã Khố, mặc dù vết thương ở mông quả thật trầm trọng. Chiếc cầu chỉ trong một giây rụng xuống cùng với tà vẹt, đường ray, đá dăm, bê tông và cái đầu tầu. Đầu tầu dập vào mố cầu, mố cầu đổ theo, sau đó mới nghe một tiếng ầm dinh tai nhúc óc, rồi sau đó mới thấy đất đá, những mẩu tà vẹt, những mẩu sắt cong queo, và những mảnh băng tung lên cao mấy chục trượng, loang loáng trong nắng sớm. Rồi tiếp đó là mấy chục toa chở đầy hàng tông vào nhau, toa rơi xuống sông, toa đổ kềnh bên đường ray, tiếng ầm ầm không dứt bắt đầu từ toa chở thuốc nổ rồi lan sang các toa chở đạn được. Băng trên sông nứt vỡ, nước sông trào lên, trong nước có tôm cá, có cả những con cua mai màu xanh. Một cẳng chân người còn nguyên cả giày ủng văng trúng đầu con ngựa Mông Cổ. Con ngựa bị choáng, hai chân khuỵu xuống mặt băng, ướt đẫm cả một mảng lông. Một bánh tầu nặng dễ hàng tấn văng xuống làm tung lên một cột nước toàn là đất bùn. Những tiếng nổ đanh làm cho Tư Mã Khố ù đặc cả hai tai, anh ta trông thấy lũ ngựa Mông Cổ chạy tán loạn cùng với những cỗ xe trượt chẳng khác những con nhặng bị ngắt đầu, các đội viên hoặc đứng hoặc ngồi, cứ ngẩn ra mà nhìn, có người chảy cả máu tai. Tư Mã Khố gào lên, chính anh ta cũng không nghe thấy tiếng của mình. Các đội viên há miệng, hình như cũng đang kêu lên, nhưng chính họ cũng không nghe thấy tiếng của họ.
Tư Mã Khố rất vất vả mới đưa được chiếc xe trượt của anh ta trở lại chỗ cắt băng hôm quạ Chị Hai dẫn chị Ba, chị Tư lại ra chỗ đó lấy nước bắt cá. Những cái lỗ băng hôm qua, chỉ qua một đêm đã bị lấp kín, băng dày một móng taỵ Chị Hai dùng choòng ngắn dập vỡ băng. Đội quân của Tư Mã Khố đã rút hết về đây, những con ngựa Mông Cổ tranh nhau uống nước. Vài phút sau khi uống no, những con ngựa chân lẩy bẩy ngã vật xuống, chỉ lát sau tất cả đều chết. Nước lạnh khiến những lá phổi nở hết cỡ của chúng bị vỡ.
Sáng sớm hôm đó, toàn bộ sinh linh vùng Cao Mật: người, lừa ngựa, trâu bò, gà chó, ngan ngỗng... ngay cả những con rắn đang ngủ đông trong hang, đều cảm nhận được tiếng nổ khủng khiếp từ phía tây nam dội tới. Những con rắn tưởng đó là sấm mùa xuân, tranh nhau bò ra khỏi hang, chết cóng hết ở ngoài đồng. Tư Mã Khố dẫn các đội viên về thôn để chấn chỉnh đội ngũ, chửi họ bằng tất cả những câu tục tĩu nhất của Trung Quốc, nhưng họ chẳng nghe thấy gì cả, còn tưởng rằng đang được biểu dương vì trông thấy nét mặt dương dương tự đắc của anh ta khi chửi. Ba cô vợ của Tư Mã Khố thi nhau đưa ra bài thuốc gia truyền của mình, chữa bỏng và chữa cóng ở mông cho anh chồng chung. Thường là cô vợ cả vừa dán miếng cao lên mông chồng, cô vợ hai đã bê lại một chậu nước thuốc, sắc từ hơn chục vị thuốc quí lột bỏ cao dán, rửa mông sạch sẽ, cô vợ ba đã lập tức đem tới thuốc bột tinh chế từ lá trắc bách diệp, đông thanh căn, trứng gà, râu chuột xù... Liên tục như vậy, khiến cái mông của Tư Mã Khố hết khô lại ướt, hết ướt lại khô, vết thương mới đỡ lên vết thương cũ, đến nỗi Tư Mã Khố phải mặc luôn quần vào, thắt hai thắt lưng, trông thấy bóng ba cô vợ là cầm ngay lấy búa hoặc lên cò súng. Vết thương ở mông chưa khỏi, nhưng thính lực thì đã khôi phục.
Khi tai đã nghe được, thì câu đầu tiên là câu chửi của anh trai:
- Mày là đồ chó chết! Cả thôn sẽ bị tai họa vì mày, cứ đấy mà xem?
Tư Mã Khố giơ bàn tay nhỏ nhắn nhưng mũm mĩm như bàn tay anh trai, nắm lấy cằm Tư Mã Đình. Anh ta nhìn mấy sợi râu trê trên mép anh trai, những sợi râu quăn queo vàng ệch và những vết nứt nẻ trên môi, lắc đầu thương hại:
- Tôi và anh đều là hạt giống của cha, chửi tôi tức là chửi anh, anh cứ chửi đi, chửi cho đã!
Nói xong bỏ tay ra.
Tư Mã Đình cứng họng, nhìn từ sau lưng thân hình to lớn của em trai, lắc đầu tỏ vẻ bất lực. Lão cầm thanh la, bước ra khỏi nhà, lóng ngóng trèo lên tháp canh, ngóng về hướng tây bắc.
Tư Mã Khố dẫn các đội viên trở lại chỗ cầu sắt một lần nữa lôi về những thanh đường ray cong queo, một bánh tầu hỏa còn nguyên sơn đỏ, và một đống đồng nát sắt vụn, bày ra trước cổng chính của giáo đường để khoe với bà con nông dân. Hai bên mép sùi bọt, anh ta kể đi kể lại anh ta đã phá cầu, lật đổ đoàn tàu của quân Nhật như thế nào, mỗi lần kể lại thêm những tình tiết mới, càng kể càng phong phú, càng thú vị, đến nỗi về sau không kém chuyện Phong Thần. Chị hai Chiêu Đệ trở thành thính giả trung thành của anh ta, lúc đầu là thính giả sau trở thành nhân chứng của vũ khí mới, rồi cuối cùng là người tham gia vào việc phá cầu, y như chị cùng Tư Mã Khố trèo lên mố cầu, rồi cùng bị ngã, khi Tư Mã Khố đau ở chỗ mông thì chị cũng cắn răng, như là chị cũng đau ở mông.
Đúng như mẹ nói, đàn ông nhà Tư Mã ai cũng điên điên khùng khùng. Cô gái mù trong chum, xinh đẹp vô cùng nhưng hai mắt thong manh, khi nói không ai hiểu là nói gì, không những không nghe rõ lời, mà cũng không hiểu ý tứ ra sao? Cô không phải là hồ ly tinh hiện hình thì cũng là bệnh tâm thần! Bạn thử nghĩ, con cháu của người đàn bà như vậy, làm sao bình thường được. Mẹ cũng nhận ra nỗi lòng của Chiêu Đệ, dự cảm sẽ tái diễn chuyện như Lai Đệ. Mẹ lo lắng nhìn rất lâu vào ánh mắt háo hức đáng ngại trong con mắt đen láy cùng với cặp môi đỏ mọng như thèm khát của chị. Đâu phải là một cô gái mới mười bảy tuổi? Rõ ràng là một con bò cái tơ đang động đực? Mẹ nói:
- Chiêu Đệ, con gái của mẹ, con đã làm là bao?
Chị mở to cặp mắt, cãi:
- Bằng tuổi con, mẹ đã lấy bố con rồi! Mẹ còn kể, năm mười sáu tuổi, dì đã đẻ sinh đôi, cả hai đứa trẻ đều rất mập.
Đến nước này thì mẹ cũng đành lắc đầu thở dài. Nhưng chị Hai vẫn dấn tới:
- Con biết mẹ đình nói anh ta đã có ba vợ. Con sẽ làm vợ thứ tự Con biết mẹ định nói anh ta nhiều tuổi hơn mẹ. Con với anh ta không cùng họ, càng không phải đồng tông, chẳng phải cái gì hết!
Mẹ từ bỏ quyền quản chế chị Hai, mặc chị muốn làm gì thì làm. Bề ngoài mẹ tỏ ra bình tĩnh, nhưng qua mùi vị của sữa, tôi biết trong lòng mẹ đang nổi gió. Trong những ngày chị Hai cặp kè với Tư Mã Khố, mẹ cùng sáu chị khác của tôi đào một đường hầm từ hầm củ cải thông ra bên ngoài bức tường phía nam, chỗ có một đống rơm rạ. Đất đào lên, phần thì đổ xuống hố phân, phần thì rải trong chuồng lừa, còn phần lớn thì đổ xuống giếng cạn chỗ cây rơm.
Tết Nguyên đán bình yên trôi quạ Trong đêm nguyên tiêu, mẹ địu tôi trên lưng, dẫn sáu chị ra phố xem đỡn. Trong thôn, nhà nào cũng treo đèn, nhưng đều là đỡn nhỏ, chỉ có nhà Phúc Sinh Đường treo hai chiếc đèn lồng to bằng hai cái ang đụng nước ở hai bên cổng, bên trong là hai cây nến to hơn bắp tay tôi, ánh nến lung linh, đẹp mắt. Chị Hai đi đâu, mẹ cũng không hỏi. Chị đã trở thành chiến sĩ du kích của gia đình tôi, có khi ba ngày không về nhà, có khi về bất chợt. Trong đêm trừ tịch, chúng tôi đang chuẩn bị đốt pháo mừng thần tài, chị khoác chiếc áo choàng đen trở về. Chị cố ý khoe chiếc thắt lưng da ôm chặt vòng eo và khẩu súng lục kiểu cối xay nặng chĩu, sáng ngời ánh thép. Mẹ nói mỉa:
- Không ngờ nhà Thượng Quan lại nảy nòi một con ngựa vía.
Nói rồi mẹ chau mày ủ rũ. Chị Hai lại cười, một nụ cười thiếu nữ, khiến mẹ cảm thấy còn có cơ cứu vãn bước đường sai lầm của chị. Thế là mẹ bảo:
- Chiêu Đệ, mẹ không bằng lòng cho con làm vợ bé Tư Mã Khố!
Chiêu Đệ cười nhạt, cái cười cay độc của đàn bà, niềm hy vọng vừa nhen lên trong mẹ, lập tức tắt ngấm.
Ngày mồng một tết, mẹ đến nhà dì chúc tết, nhắc đến chuyện Lai Đệ và Chiêu Đệ. Dì là một người từng trải. Dì nói:
- Chuyện bọn con gái cứ phải để vậy thôi. Với lại chị có hai con rể như Tư Mã Khố và Sa Nguyệt Lượng thì còn lo nỗi gì? Chúng là hai con đại bàng!
Mẹ nói:
- Cháu chỉ sợ chúng nó không được chết trên giường!
Bà dì nói:
- Chết trên giường phần lớn là đồ bị thịt!
Mẹ còn định ca cẩm, nhưng bà dì sốt ruột, xua tay như đuổi ruồi không cho mẹ nói tiếp. Bà nói:
- Cho dì xem thằng cu nào!
Mẹ bế tôi ra khỏi túi đặt trên giường. Tôi sợ hãi nhìn khuôn mặt nhỏ bé, đầy vết nhăn và cặp mắt xanh tinh tường nằm giữa hai hốc mắt của bà. Lông mày thì không có, trái lại, quanh viền mắt lại đầy những lông mi màu vàng. Bà giơ bàn tay khô khỏng xoa đầu tôi, kéo tai tôi bóp nhẹ mũi tôi, thậm chí thọc tay vào giữa hai dùi sờ chim tôi. Tôi rất ghét cái lối sờ soạng có tính chất hạ nhục ấy, cố bò ra mép giường. Bà túm lấy tôi, quát to:
- Thằng con lai, đứng lên xem nào!
Mẹ nói:
- Dì ơi, nó mới được bảy tháng, đứng lên thế nào được?
Bà nói:
- Tao lúc bảy tháng đã ra ổ gà lấy trứng cho bà ngoại rồi!
- Dì ơi đó là dì, dì không phải con người bình thường!
Bà nói:
- Thằng nhỏ này, ta thấy cũng không phải là người bình thường! Tiếc cái ông Malôa quá!
Mẹ đỏ mặt, rồi tái nhợt. Tôi bò đến bên cửa sổ, bám gờ cửa đứng lên. Bà dì vỗ tay:
- Xem kìa, ta bảo nó đứng dậy là nó đứng dậy. Quay lại đây, thằng con lai.
- Dì ơi, nó tên là Kim Đồng, sao dì cứ gọi là thằng con lai?
- Con lai hay không, chỉ có mẹ nó biết, phải không, cô cháu ruột của ta! Với lại ta thích gọi thằng con lai, thằng nước, thằng súc sinh, thỏ con... đều là gọi yêu. Thằng con lai, lại đây.
Tôi quay lại, hai chân lẩy bẩy, nhìn mẹ nước mắt đầm đìa. - Kim Đồng, con yêu của mẹ! - Mẹ giơ hai tay gọi tôi.
Tôi nhào vào lòng mẹ. Tôi biết đi rồi. Mẹ Ôm chặt tôi, lẩm bẩm:
- Con trai tôi biết đi rồi!
Bà dì giọng nghiêm trang, nói:
- Con cái như đàn chim, khi chúng đã biết bay thì có giữ cũng chẳng giữ nổi. Cháu thế nào? Ta nói là họ chết cả rồi, cháu sống ra sao?.
Mẹ nói:
- Cháu sống được.
Bà dì cao giọng, nói:
- Được hay không là ở chỗ khi có chuyện thì phải nghĩ rộng trên trời dưới biển, chí ít cũng phải ngang tầm quả núi, đừng tự mình làm khổ mình. Cháu có hiểu ý ta không?
Mẹ nói:
- Cháu hiểu.
Khi cáo từ ra về, bà dì hỏi:
- Mẹ chồng cháu còn sống không?
Mẹ nói:
- Còn sống, giường cứt chiếu đái trong chuồng lừa!
Bà dì nói:
- Cả đời hung hăng, ai ngờ đến nông nỗi ấy!
Nếu không có buổi trao đổi riêng tư hôm mồng một tết, thì tôi chưa thể bảy tháng đã biết đi, mẹ cũng khó mà vui vẻ dẫn chúng tôi đi xem đèn ngoài phố, chúng tôi chỉ ăn một cái tết nguyên tiêu vô vị, và như vậy lịch sử của gia đình tôi không phải như bây giờ. Người trên đường nườm nượp, nhưng hầu như toàn những khuôn mặt không quen. Một không khí đoàn kết yên vui giữa mọi người. Trẻ con dốt pháo chuột, len lỏi trong đám đông. Chúng tôi dừng lại trước cổng nhà Phúc Sinh Đường, ngắm nhìn hai quả đèn lồng to như hai chum nước treo hai bên cổng. ánh đèn rạng rỡ chiếu sáng tấm biển Phúc Sinh Đường. Cổng nhà Phúc Sinh Đường mở rộng, khoảng sân hun hút đèn nến sáng.trưng, tiếng ồn ào rộ lên từng đợt. Rất đông người tụ tập ngoài cổng, khoanh tay đứng im như đang chờ đợi. Chị Ba vốn lắm lời, hỏi người bên cạnh:
- Bác ơi, sắp phát chẩn hả bác?
Người đó không biết trả lời ra sao, chỉ lắc đầu. Một người đứng phía sau nói:
- Cô bé, làm gì có chuyện phát chẩn? Chị Hai quay lại hỏi:
- Không phải phát chẩn thì có chuyện gì vậy?.
Người kia nói:
- Diễn kịch hiện đại, nghe đâu có nghệ sĩ xuất sắc từ Tế Nam về biểu diễn.
Chị Hai còn định hỏi nữa, nhưng mẹ véo cho chị một cái, nên thôi.
Rồi, bốn người từ bên trong nhà Tư Mã đi ra, trên tay cầm bốn cây sào dài, đầu sào treo bốn vật đen sì, phun lửa chói mắt, sáng như ban ngày, không, sáng hơn ban ngày. Trên tháp chuông cách nhà Tư Mã không xa, đàn bồ câu bay tán loạn, vụt qua vùng sáng rồi mất hút vào màn đêm. Trong đám đông có người xuýt xoa đèn khí. Từ đó, chúng tôi mới biết, ngoài đèn đầu lạc, đèn đầu hỏa, đèn huỳnh quang, còn có đèn khí sáng nhức mắt. Bốn đại hán đen nhẻm chia nhau đứng thành một hình vuông trước cổng chẳng khác bốn cây cột nhà cháy. Trong cổng lại có mấy người khênh ra một tấm chiếu cói cuộn thành hình ống. Họ dặt cuộn chiếu xuống khoảnh đất hình vuông giữa bốn người kia, cơi dây buộc, tấm chiếu tự động mở ra. Họ cúi xuống túm lấy góc chiếu, còn hai chân thì đi chuyển những buộc ngắn mà nhanh. Do nhịp bước nhanh và ánh sáng những cây đèn quá mãnh liệt, nên chúng tôi bị hiện tượng lưu ảnh trong mắt, nhìn người nào cũng có ít nhất là bốn chân, giữa hai chân còn có luồng ánh sáng trong suốt và chằng chịt như mạng nhện, thành thử trông như họ đang giẫy giụa trong một cái mạng nhện khổng lồ. Trải chiếu xong, họ chào khán giả bằng điệu bộ của phường tuồng, mặt người nào cũng hóa trang thành một loại thú: báo, hươu sao, mèo rừng, có người hóa trang thành con hoan, một loại chồn khuôn mặt rằn ri, chuyên ăn vụng đồ cúng trong miếu. Chào xong, họ rút lui theo vũ điệu ương ca, hai bước tiến một bước lùi, vào trong sân nhà Phúc Sinh Đường.
Trong tiếng réo ù ù của đèn khí đốt, chúng tôi im lặng chờ đợi, chiếc chiếu mới tinh cũng đang chờ đợi. Bốn đại hán đen nhẻm, đã biến thành bốn tượng đá, tay giơ cao bốn cây đèn khí đốt. Một hồi não bạt rung lên, chúng tôi vô cùng náo nức, mọi ánh mắt đều nhìn vào trong cổng. Tôi có cảm tưởng chờ đợi đã nửa đời người mới thấy ông chủ Phúc Sinh Đường, Trưởng trấn Đại Lan, đương kim Trưởng An ninh thị trấn Tư Mã Đình với bộ mặt âu sầu bước ra. Lão xách trên tay chiếc thanh la méo mó vì bị gõ hàng tỉ lần, đi vòng quanh sân khấu một cách gượng gạo rồi dừng lại ở giữa chiếu, nói với khán giả:
- Các vị hương đảng, các cụ Ông cụ bà, các bác các chú, các anh các chị, các cô các dì và các em! Anh em Tư Mã tôi đánh sập cầu, diệt đoàn tàu, tin thắng trận bay đi muôn ngả! Xa gần đều hỉ hả, quà tặng thư khen chất đầy nhà. Để ăn mừng thắng lợi vĩ đại này, anh em tôi có mời một ban hát về biểu diễn. Họ sắp sửa phấn son trình diện, diễn tích mới để giáo dục chung, ăn tết vui chớ quên chống Nhật, quyết đánh Nhật gìn giữ quê hương! Tư Mã Đình là đấng nam nhi, không chịu làm tay sai cho giặc. Ới bà con, người Trung Quốc chúng ta, không bao giờ làm tay sai cho giặc!
Nói xong những lời có vần có vè ấy, Tư Mã Đình cúi chào, xách thanh la chạy vào va phải những người đang đi ra: một cây nhị, một cây sáo ngang, một cây tì bà. Các nhạc công này nách kẹp nhạc cụ, tay cầm ghế đẩu, tiến ra sân khấu.
Các nhạc công ngồi bên cạnh chiếc chiếu, so dây tưng tửng, lấy độ cao của sáo làm chuẩn. Cao thì hạ thấp, thấp thì tăng cao. Thống nhất giữa nhị, sáo và tì bà xong, họ dạo một đoạn tay ba, rồi dừng lại, chờ đợi. Rồi trống, thanh la, não bạt, phách kéo ra, ngồi đối diện với các nhạc công rồi tấu lên một hồi đinh tai nhức óc. Tiếng thanh la nhát gừng, tiếng trống điểm, tì bà, nhị, sáo cùng nổi lên, níu chân chúng tôi lại không cho bỏ đi, giữ hồn chúng tôi lại không cho nghĩ sang chuyện khác. Làn điệu lê thê, ai oán bi lụy, lúc thì nức nở, lúc não nuột. Đó là khúc gì nhỉ? Đó là một làn điệu vùng Cao Mật với giọng rướn cao, tục gọi là đóng cọc vợ. Điệu này mà hát lên là đảo lộn cương thường, nghe điệu này là quên cha quên mẹ. Thế là, cùng với tiếng phách, người nghe chân gõ nhịp, môi mấp máy và con tim thì lồng lên. Sự chờ đợi của chúng tôi căng thẳng như dây cung kéo hết cỡ... Một giọng rướn cao, lúc sắp kết thúc lại tăng lên một cung bậc nữa, vút tận trời xanh. Em là thiếu nữ dịu dàng... này... Trong dư âm của tiếng hát lả lơi, chị Hai Chiêu Đệ đầu cài bông hồng nhưng, mặc áo cài cúc lệch màu xanh sĩ lâm, quần chùng, giày thêu, tay trái khoác làn, tay phải cầm dùi gõ, bước đi như lưu thủy, từ trong cổng lướt ra sân khấu. Chị dừng lại giữa chiếu, ngay dưới ánh đèn, chào khán giả. Không phải lông mày mà là vầng trăng lưỡi liềm, mắt sắc như nước, mũi dọc dừa, cặp môi mọng, đỏ hơn hoa anh đào tháng Năm. Một khoảng im lặng, hàng vạn cặp mắt nhìn không chớp, hàng vạn trái tim ngừng đập, nín thở, rồi tất cả bật ra lời tán thưởng. Tiếp đó, chị Hai nhún chân nghiêng mình đảo một vòng quanh sân khấu, thân hình lả lướt như cây liễu bên hồ, chân bước nhẹ nhàng như rắn mạch tiêu trên ngọn lúa. Tối hôm đó tuy trời không gió, nhưng rất lạnh, chị Hai mặc bộ đồ mỏng, mẹ kinh ngạc khi nhận ra rằng, từ sau ngày ăn thịt con lệch, cơ thể chị Hai rất phát triển, hai trái lê đầy đặn và rất đẹp trước ngực, kế thừa truyền thống vú to mông nây của nhà Thượng Quan. Chị Hai dạo một vòng, hơi thở bình thường, thần sắc không thay đổi, hát tiếp câu thứ hai:.. kết duyên cùng anh hùng Tư Mã Khố. Câu này đều đều, không có đoạn vút lên cao, nhưng tác động thì lại ghê gớm. Khán giả thì thầm hỏi nhau:
- Con nhà ai thế!
- Con gái nhà Thượng Quan đấy!
- Con gái nhà Thượng Quan chẳng phải đã bỏ nhà đi theo đội trưởng Đội Hỏa-Mai rồi sao?
- Đây là đứa thứ hai.
- Làm vợ bé Tư Mã Khố từ hồi nào vậy?
- Đ. mẹ các vị, đây là diễn kịch! - Đ. mẹ các vị, câm mồm!
Chị ba Lãnh Đệ và các chị gào lên để thanh minh cho chị Hai. Đám đông tạm thời im lặng.
Chồng tôi là chuyên gia phá cầu. Tết Đoan dương dùng rượu đánh hỏa công, cầu Thuồng Luồng lửa xanh trùm kín, bọn giặc lùn kêu mẹ khóc cha! Mông bị thương chàng không bỏ cuộc, đêm hôm qua mưa gió đầy trời, chàng lại phá sập đường sắt...
Tiếp theo, chị Hai làm động tác đục băng, giặt giũ quần áo. Chị giả vờ xuýt xoa vì rét, chẳng khác chiếc lá khô còn vương trên cành giữa mùa đông. Khán giả như bị nhập cuộc, người thì xuýt xoa than thở, kẻ lau nước mắt. Đột nhiên, chị Hai đứng vụt dậy nhìn về phương xa...
Hướng tây nam tiếng nổ vang trời, ánh lửa hồng rừng rựectrong đêm, nhất định là chúng tôi đã thắng, lũ giặc lùn đi chầu Diêm vương. Tôi trở về nhanh tay hầm rượu, vặt con gà làm một bát ninh...
Rồi chị Hai làm bộ thu dọn quần áo, hát tiếp: Ngẩng lên nhìn, gặp một con lang... Những người khênh chiếu khi nãy mặt vẽ rằn ri, lộn vòng tròn ra sân khấu, vây quanh chị Hai, người cào người cấu, chẳng khác nào bốn con mèo vây quanh một con chuột. Người mặt vẽ sọc như con hoan hát giọng quái gở: đội trưởng Kaxi chính là ta, ta đang tìm cô gái mặt hoa. Nghe nơi đây người đẹp đầy đường, ngước mắt nhìn gặp ngay một ả Nương tử ơi, xin hãy dừng chân, theo ta về cùng nhau hưởng phúc. Liền sau đó, bốn người áp sát chị Hai. Chị Hai cứng người lại thẳng như một khúc gỗ, bốn tên giặc Nhật nâng chị cao quá đầu, đi vòng quanh chiếu. Thanh la não bạt dồn dập như giông bão. Khán giả kích động sán lại gần. Mẹ quát to:
- Để con gái tôi xuống - vừa quát vừa xông lên sân khấu.
Tôi đứng thẳng hai chân trong túi, có cảm giác giống như sau này tôi cưỡi ngựa. Mẹ giơ hai tay như chim ưng sắp vồ con thỏ, ghì chặt hai chân đội trưởng Kaxị Hắn kêu lên đau đớn rồi bỏ tay ra. Ba tên kia cũng rụt tay về. Chị Hai ngã thẳng cẳng trên chiếu, ba người kia bỏ chạy. Mẹ tôi ngồi lên bụng Kaxi, cào xé mặt anh tạ Chị Hai kéo tay mẹ, lớn tiếng trách:
- Mẹ Ơi, đây là diễn kịch, không phải thật!
Có mấy người chạy ra, gỡ Kaxi khỏi tay mẹ. Đội trưởng Kaxi mặt đầy máu, bỏ chạy vào trong cổng. Mẹ thở hồng hộc, vẫn chưa hết giận, nói:
- Dám hà hiếp con gái ta nữa thôi?
Chị Hai nổi cáu:
- Mẹ, kịch hay thế mà mẹ phá đám.
Mẹ bảo:
- Chiêu Đệ, về nhà đi con, con không nên diễn loại kịch này.
Mẹ giơ tay kéo chi Hai Chị gạt tay mẹ ra, rầu rĩ:
- Mẹ đừng bêu xấu con ở chỗ này! Mẹ nói:
- Chính con bêu xấu mẹ! Về nhà!
Chị Hai nói:
- Con không về.
Lúc này Tư Mã Khố hát giọng nam cao bước ra: Đánh sập cầu, ta thúc ngựa trở về... Anh ta đi ủng, dội mũ lính, tay cầm roi da, xuống ngựa - con tuấn mã tưởng tượng - chân di chuyển, người nhấp nhô như sóng, hai tay giữ dây cương vô hình, làm bộ phi ngựa. Chiêng trống rầm trời, đàn sáo réo rắt, nhất là cây sáo ngang khiến người tâm thần mê mẩn, không phải vì kinh sợ, mà vì sức truyền cảm. Tư Mã Khố mặt đanh lại, hát tiếp: Trên đê chợt nghe tiếng ồn ào, ra roi thúc ngựa đến xem sao?.. Hồ cầm mô phỏng tiếng vó ngựa, cộp cộp... cộp cộp... Lòng như lửa dốt, ngựa ruổi như bay, một bước gộp nửa, ba bước gộp hai... Chiêng trống càng gấp, đánh gót, nhích chân, đại bàng nghiêng cánh, trâu già vận hơi, sư tử hí cầu... Tư Mã Khố biểu diễn toàn bộ những tuyệt kỹ của anh ta, khó mà nghĩ rằng mông đít anh ta đang dán miếng cao nặng nửa cân.
Chị Hai sốt ruột đẩy mẹ ra. Mẹ vẫn chửi sơi sơi nhưng đã lui về chỗ cũ. Ba diễn viên sắm vai lính Nhật lách vào giữa lại định nâng chị Hai lên. Đội trưởng Kaxi đã mất tăm, ba người còn lại đành phải hai người khênh đằng đầu, một người khênh hai chân, mái tóc hoa râm của anh ta kẹp giữa hai chân chị Hai trông thật ngộ, khán giả cười rũ. Cái đầu kẹp giữa hai chân nháy mắt nhíu mày, khán giả càng cười, lại càng nhíu mày nháy mắt. Tư Mã Khố tỏ vẻ không bằng lòng, nhưng vẫn hát tiếp: Chợt nghe tiếng người huyên náo, giặc Nhật kia giở thói ngông cuồng, không kể hiểm nguy ta liều xông tới làm điệu bộ túm tay.
- Dừng ngay! Tư Mã Khố túm tóc trên cái đầu kẹp giữa hai chân chị Hai, quát tọ Tiếp đó là cảnh đấu võ, vốn là bốn đấu một, nay chỉ còn ba đấu một. Sau một trận đánh xáp lá cà, Tư Mã Khố đã đánh bại quân Nhật, cứu thoát vợ. Giặc Nhật quì trên chiếu, Tư Mã Khố dắt tay chị Hai trong tiếng nhạc tung bừng phấn khởi đi vào trong cổng. Sau đó bốn người cầm đèn khí đốt đột nhiên sống lại, vác sào chạy vào trong, ánh sáng không còn nữa, trước mắt chúng tôi là màn đêm đen kịt.
Sáng sóm hôm sau, quân Nhật chính cống bao vây thôn. Tiếng súng, tiếng pháo, tiếng ngựa hí lôi chúng tôi ra khỏi giấc ngủ. Mẹ bế tôi dẫn bảy chị xuống hầm, bò một đoạn tối tăm ướt át và lạnh, đến chỗ hầm rộng. Mẹ thắp đèn. ánh đèn vàng vọt, chúng tôi ngồi trên cỏ khô, lắng nghe động tĩnh bên trên. Không rõ thời gian đã trôi đi bao lâu, có tiếng thở phì phò ở đoạn hầm phía trước. Mẹ cầm lấy cái kìm rèn sắt, thổi tắt ngọn đèn trong hốc vách hầm. Trong hầm lập tức tối đen. Tôi khóc, mẹ nhét đầu vú vào miệng tôi. Tôi cảm thấy đầu vú của mẹ lạnh ngắt và cúng, mất hẳn tính đàn hồi, còn có vị vừa mặn vừa đắng.
Tiếng thở ngày càng gần, mẹ giơ cao chiếc kìm. Khi đó tôi nghe rõ tiếng chị Hai đã lạc cả giọng:
- Mẹ Ơi, mẹ đừng đánh, con dây mà!...
Mẹ thở ra một hơi, hai tay cầm kìm buông thõng:
- Chiêu Đệ, con làm mẹ sợ chết khiếp - mẹ nói.
- Mẹ thắp đèn lên đi, phía sau còn có người - chị Hai nói.
Mẹ rất vất vả mới thắp được đèn lên. ánh đèn vàng vọt lại chiếu sáng căn hầm. Chúng tôi nhìn chị Hai lấm bùn từ đầu đến chân. Trên má chị có một vết máu, trong tay ôm một cái bọc. - Bọc gì đấy? Mẹ hoảng sợ, hỏi. Miệng chị Hai chợt méo xệch, nước mắt chảy trên khuôn mặt lem luốc:
- Mẹ Ơi! chị nức nở, đây là con trai của bà Ba.
Mẹ sững người, nổi điên lên:
- Ở đâu thì đem trả về đó!
Chị lết bằng đầu gối, ngửa mặt nhìn mẹ:
- Xin mẹ mở lòng từ bi, anh ấy bị giết cả nhà, chỉ còn mỗi hạt giống này...
Mẹ lật một góc cái bọc, lộ ra khuôn mặt choắt vừa gầy vừa đen của thằng nhỏ nhà Tư Mã. Nó đang ngủ saỵ Nó thở đều đều, miệng chóp chép như đang bú. Tôi căm thằng nhỏ quá đỗi. Tôi nhả đầu vú ra, gào thật tọ Mẹ bịt miệng tôi bằng cái đầu vú càng đắng hơn.
- Mẹ có bằng lòng cho nó ở lại không? - Chị Hai hỏi.
Mẹ nhắm mắt, không trả lời.
Chị Hai dúi thằng nhỏ vào lòng chị Ba, quì xuống lạy mẹ một lạy, vừa khóc vừa nói:
- Mẹ Ơi, con sống là người của người ta, chết là ma của người tạ Mẹ cứu thằng nhỏ này, suốt đời con không quên ơn đức của mẹ.
Chị Hai vùng dậy bò ra ngoài. Mẹ níu chị lại, hỏi:
- Mày đi đâu bây giờ?
Chị Hai nói:
- Mẹ Ơi, chân anh ấy bị thương, hiện nấp ở chỗ cối xay bột. Con phải đi tìm anh ấy!
Lúc này, bên ngoài vọng lại tiếng chân ngựa và tiếng súng chói tai. Mẹ nghiêng người bịt lấy lối ra hầm củ cải, nói:
- Mẹ đồng ý với con bất cứ điều gì, nhưng không thể để con đến chỗ chết!
Chi Hai nói:
- Mẹ Ơi, chân anh ấy máu cứ chảy mãi. Con không đến thì anh ấy sẽ chết. Anh ấy mà chết, thì con sống còn có ý nghĩa gì? Mẹ, mẹ cho con đi...
Mẹ kêu trời, nhưng sau đó im bặt.
Chị Hai nói:
- Mẹ, con gái mẹ xin lạy mẹ đây!
Chị quì xuống, dập đầu lạy, ấp mặt vào bắp chân mẹ một thoáng, rồi chị nhắc chân mẹ sang một bên, chui ra ngoài.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 14
Cho đến tiết thanh minh ấm áp, mười tám cái đầu nhà Tư Mã vẫn treo lủng lẳng trên giá gỗ ngoài cổng Phúc Sinh Đường. Chiếc giá gỗ dựng bằng năm cây sam to và thẳng đuột, trông giống một cây đụ Những cái đầu xâu bằng dây thép, treo dưới cây gỗ bắc ngang. Tuy đã bị lũ quạ, chim sẻ, chim cút mổ hết thịt, nhưng vẫn rất dễ nhận ra đầu nào là đầu của vợ Tư Mã Đình; đầu hai đứa con ngơ ngẩn của Tư Mã Đình; của vợ cả, vợ hai và vợ ba của Tư Mã Khố; chín cái đầu của lũ con trai con gái do ba người vợ của Tư Mã Khố đẻ ra, đầu của bố mẹ bà Ba đến thăm con gái và đầu của hai người em của ông bà. Sau trận cướp phá, thôn xóm sặc mùi chết chóc, những người sống sót thì như hồn ma, ban ngày rúc vào chỗ tối, ban đêm mới dám mò ra. Chị Hai đi biệt, không một mẩu tin. Thằng nhỏ chị để lại cho chúng tôi đã gây biết bao phiền não. Trong những ngày nấp trong hầm tối, vì không nỡ để nó chết đói mẹ buộc phải cho nó bú sữa. Nó ngoác miệng, mở to cặp mắt thô lố, mút chùn chụt bầu vú vốn thuộc về tôi. Nó ăn nhiều kinh khủng, ti đến nỗi hai bầu vú chi còn như hai cái túi da lép, mà vẫn ngoác miệng ra khóc. Nó khóc như tiếng quạ, như tiếng ếch, tiếng cú kêu. Ve ngoài của nó giống chó sói, chó hoang, giống con thỏ rừng. Nó là kẻ thù không đội trời chung của tôi. Khi nó độc chiếm bầu vú của mẹ, tôi chỉ khóc. Khi tôi giành lại bầu vú của mẹ, nó cũng khóc. Khi gào khóc, nó vẫn mở to mắt. Mắt nó như mắt của thằn lằn. Chị Chiêu Đệ chết tiệt đã đem về một tiểu yêu do thằn lằn đẻ ra. Bị hai tầng xâu xé, mặt mẹ bủng ra trên người đã thấy những mầm mống của bệnh tật, chẳng khác những củ cải trải qua một mùa đông dài đặc dưới hầm. Trước tiên là ở hai bầu vú của mẹ. Sữa ngày một ít đi, trong sữa tôi cảm thấy mùi vị của củ cải thối. Cái thằng khốn nạn nhà Tư Mã, lẽ nào mi không cảm thấy mùi vị đáng sợ ấy Của ai thì người ấy tiếc, nhưng tôi không thể tiếc bầu vú của mẹ được nữa. Tôi không bú thì nó bú. Hồ lô của tôi, bồ câu non của tôi, lọ sứ của tôi đã nhăn nheo, thủy phần giảm, gân xanh chằng chịt, đầu vú thâm lại, rũ rượi chúc đầu xuống.
Vì tính mạng của tôi và của thằng khốn nạn, mẹ mạnh dạn đưa các chị tôi ra khỏi hầm, về với trần gian đầy ánh nắng. Lúa mạch ở chái đông không còn một hạt, lừa và la cũng không còn, nồi niêu bát đĩa vỡ nát, tượng Quan âm trên bàn thờ chỉ còn là cái xác không đầu. Mẹ quên không dám áo lông chồn xuống hầm, áo chẽn lông mèo rừng của tôi và chị Tám cũng mất. áo khoác của các chị, vì bất li thân, nên vẫn còn, nhưng lông rụng từng mảng, các chị giống như những con thú bị thương khắp người. Bà nội nằm dưới cái cối xay ở chái tây, ngốn hết hai mươi cân củ cải mẹ để lại, ị ra một đống phân lổn nhổn như đá cuội. Khi mẹ vào cho bà ăn, bà ném những cục phân khô vào người mẹ. Mặt bà nội như củ cải thối, tóc bạc bết lại như sợi thừng, có lọn dựng ngược, lọn thì rũ xuống lưng. Mắt bà nội có màu xanh lục. Mẹ chẳng còn cách nào, chỉ lắc đầu, đặt mấy củ cải trước mặt bà nội. Người Nhật, có lẽ là người Trung Quốc, chỉ để lại cho chúng tôi một phần nhỏ củ cải đã mọc mầm. Mẹ tuyệt vọng quá, bê ra một cái vại chưa bị đập vỡ, trong vại có gói bột thạch tín mà bà nội giấu kỹ. Mẹ đổ thạch tín vào nồi củ cải. Thạch tín tan ra, mặt nồi có váng như đầu, một mùi tanh bay lên. Mẹ dùng môi khuấy đều, múc lên một môi rồi rót xuống nồi: một thứ nước đục lờ chảy qua chỗ môi mẻ, rớt tong tỏng. Hai bên mép mẹ giật giật một cách kỳ quái. Mẹ múc củ cải ra cái bát mẻ, bảo chị Lãnh Đệ:
- Lãnh Đệ, đem bát củ cải vào cho bà nội.
Chị Ba nói:
- Mẹ cho thuốc độc vào củ cải à?.
Mẹ gật.
- Để bà nội trúng độc mà chết hả mẹ? Chị Ba hỏi.
Mẹ nói:
- Cả nhà cùng chết!
Các chị khóc ầm lên, chị Tám mù cũng khóc theo, tiếng khóc mảnh như sợi tơ, như tiếng vo ve của con ong mật. Chị Tám là thê thảm nhất của nỗi thê thảm, đáng thương nhất của sự đáng thương.
- Mẹ Ơi, chúng con không muốn chết!
Các chị van xin mẹ. Tôi cũng hùa theo khóc tấm tức:
- Me... me...
Mẹ nói:
- Khổ thân các con!...
Mẹ khóc òa lên, khóc rất lâu chúng tôi khóc theo. Mẹ hỉ mũi rõ kêu, quẳng cái bát cùng với thạch tín ra sân, nói:
- Không chết nữa! Chết đã không sợ, thì sống không có gì phải sợ cả!
Nói xong, mẹ đứng dậy dẫn chúng tôi ra phố tìm cái ăn. Chúng tôi là những người đầu tiên xuất hiện ngoài đường.
Lúc đầu, khi trông thấy những cái đầu của nhà Tư Mã, các chị còn có vẻ sợ; vài hôm sau, các chị coi như không có gì xảy ra. Thằng khốn nhà Tư Mã mẹ bế đằng trước, đối xứng với tôi ở phía sau lưng. Mẹ có lần chỉ vào những cái đầu treo lủng lẳng đó, khẽ bảo nó:
- Con ơi, hãy nhớ lấy!
Mẹ và các chị ra khỏi thôn, ra đồng đào rễ cỏ rửa sạch, đem về giã nhỏ nấu cháo. Chị Ba rất thông minh, chị tìm ra hang chuột đồng, không những thịt rất thơm, mà còn lấy được lương thực giấu trong hang. Các chị còn đan lưới bằng chỉ gai, bắt những con cá, con tôm gầy đét và thâm sì sau một mùa đông nhịn đói. Một hôm, mẹ thử đút cho tôi một thìa cháo cá, tôi lập tức nhổ ra và cất tiếng khóc. Mẹ đút thìa cháo vào miệng thằng khốn nhà Tư Mã, nó nuốt luôn. Mẹ lại đút cho nó thìa nữa, nó lại nuốt. Mẹ phấn khởi, nói:
- Tốt rồi, thằng oan nghiệt này ăn lấy được rồi!
- Còn con thì sao?
Mẹ nhìn tôi:
- Con cũng đã đến lúc cai sữa rồi!
Tôi kinh hoảng túm chặt bầu vú của mẹ.
Noi gương chúng tôi, những người trong thôn mò ra khỏi nhà. Tai họa khủng khiếp giáng lên đầu lũ chuột đồng, rồi tiếp theo là thỏ, cá tôm, ốc, hến, rắn, nhái. Trên những cánh đồng mênh mông, mọi sinh vật chỉ còn sót lại cóc tía có nhựa độc và loài chim có cánh. Nếu như rau dại không mọc kịp thời, thì quá nửa người dân trong thôn đã chết đói. Sau tết thanh minh, hoa đào rụng cánh, hơi nước lang thang trên mặt ruộng, đất đai đã cựa mình đợi gieo trồng, nhưng chúng tôi không có gia súc, không có hạt giống. Khi nước trong đầm đã đầy, những con nòng nọc béo mẫm bơi dày đặc ven hồ và ao chuôm, dân chúng bắt đầu bỏ quê, tha phương cầu thực. Đến tháng Tư gần như cả thôn bỏ đi hết, nhưng sang tháng Năm, phần lớn lại trở về. Ông Ba Phàn nói, dù sao thì nơi đây còn có rau dại, cỏ dại ăn đỡ đói, những nơi khác, ngay cả rau dại cỏ dại cũng không còn. Đến tháng Sáu có rất nhiều người nơi khác đến đây. Lúc đầu, họ ngủ trong nhà thờ, trong cái sân sâu hun hút của nhà Tư Mã, trong khu vục cối xay bột bỏ hoang. Họ điên khùng như những con chó đói, cướp giật hết thức ăn của chúng tôi. Về sau, ông Ba Phàn tập hợp những người đàn ông trong thôn mở đợt truy đuổi những kẻ ngụ cự Ông Ba Phàn là lãnh tụ của chúng tôi. Đám ngụ cư cũng cử ra lãnh tụ của chúng. Đó là một thanh niên có cặp lông mày rậm. Anh ta là một tay săn chim cừ khôi, lúc nào cũng có hai cây cung giắt ở thắt lưng, vai đeo chéo một túi vải, trong đó chứa đầy những viên dạn nặn bằng đất sét. Chị Ba khi đào rau dại đã chúng kiến tuyệt kỹ của anh ta: Hai con gà gô đang giao phối trên lưng chừng trời, anh ta rút cây cung, cũng không thèm ngắm, gần như bắn chơi một viên, con gà gô rơi thẳng đứng ngay dưới chân chị Bạ Anh ta cầm con gà gô bước tới chỗ chị Bạ Chị căm thù nhìn anh tạ Ông Ba Phàn đã tuyên truyền rất nhiều về những kẻ ngụ cư, nhen lên mối hận thù của chúng tôi với họ. Anh ta không những không nhặt con gà gô dưới chân chị, mà còn đưa nốt con gà gô trên tay rồi đi luôn, không nói câu nào.
Chị Ba cầm hai con gà gô về nhà, để mẹ ăn phần thịt, các chị và thằng khốn húp xương ninh nhừ, còn xương không thì dành cho bà nội. Bà nhai rôm rốp. Chị Ba giữ bí mật cho riêng mình về chuyện anh chàng ngụ cư cho chị gà gộ Rất nhanh, gà gô biến thành mùi vị thơm ngon của sữa, chảy vào dạ dày tôi. Một bận, nhân lúc tôi ngủ, mẹ thử nhét vú vào miệng thằng khốn Tư Mã, nhưng nó từ chối. Nó lớn lên nhờ rễ cỏ vỏ cây, ăn khỏe kinh khủng, thứ gì đưa vào là hắn ăn tuốt. Đúng là một con lừa, mẹ nói vậy, số mi là số ăn cỏ. Phân của nó thải ra cũng giống như phân lừa, phân ngựa. Hơn thế, mẹ còn cho rằng nó có những hai dạ dày, biết nhai lại. Thường trông thấy cỏ dại ợ ra trong miệng nó. Nó lim dim mắt nhai rào rạo có vẻ rất ngon lành, mép sùi bọt trắng. Nhai kỹ rồi, nó dưới cổ nuốt ục một cái vào bụng.
Dân làng trong thôn mở cuộc chiến với dân ngụ cự Trước tiên, ông Ba Phàn nói lý với bọn chúng, mời chúng đi khỏi địa phận chúng tôi. Đại biểu dân ngụ cư lại chính là chuyên gia về săn bắt chim, có biệt hiệu là Hàn Chim, người đã tặng chị Ba hai con gà gộ Tay giữ chặt cây cung bắn liên châu, anh ta cũng dùng lý lẽ để bác bỏ, không chút nhân nhượng. Anh ta nói rằng, vùng Cao Mật vốn là đất vô chủ, đất hoang, mọi người đều là dân từ nơi khác đến, các ông ở được, tại sao chúng tôi không được ở? Lời đi tiếng lại, thành ra cãi nhau, cãi hăng quá biến thành xỉa xói, giằng kéo. Trong thôn có một anh chàng hung hăng biệt hiệu là Sáu-bạo-phổi, từ phía sau ông Ba Phàn nhảy vọt ra, nhằm đầu bà mẹ Hàn Chim vụt một gậy sắt. Bà lão vỡ óc, chết tại chỗ. Hàn Chim rú lên một tiếng như con sói bị thương, rút cây cung bắn một phát đạn đôi, vỡ tung hai mắt của Sáu-bạo-phổi. Tiếp theo là một cuộc hỗn chiến. Những người ngụ cư yếu thế. Hàn Chim cõng xác mẹ, vừa đánh vừa rút lui về dưới chân Bãi-CátĐài. Hàn Chim đặt xác mẹ xuống, đặt đạn vào đây cung nhằm ông Ba Phàn, nói:
- Lão đầu sỏ kia, không nên cạn tàu ráo máng. Con giun xéo lắm cũng quằn đấy!
Lời chưa dứt, một tiếng phụt, viên đạn xé rách tai trái ông Ba Phàn. Hàn Chim nói:
- Ta nể lão cũng là người Trung Quốc, tha chết cho lão!
Ba Phàn ôm cái tai rách đôi, lẳng lặng rút lui.
Những người ngụ cư dựng lên mấy chục túp lều từ chân Bãi-CátĐài, giành lấy chỗ đứng cho mình. Mười mấy năm sau, nơi dây trở thành thôn trang. Lại qua đi mười mấy năm, trở thành một thị trấn phồn hoa, nhà cửa nối liền với trấn Đại Lan, chỉ một khoảng trống là cái đầm lớn và một con đường nhỏ. Những năm 90, Đại Lan trở thành thành phố, thị trấn Bãi-CátĐài trở thành khu Loan Tây của thành phố. Khi ấy, nơi đây xây dụng một Trung tâm nuôi chim phương Đông; những giống chim quý đã tuyệt chủng ở nhiều nước, có thể mua được ở đây. Đương nhiên, việc mua bán chim thú quí phải tiến hành bí mật. Người sáng lập Trung tâm Chim là con trai Hàn Chim, có biệt hiệu Hàn Vẹt. Hàn Vẹt giàu lên nhờ nuôi dưỡng, nhân giống và lai tạo giống mới, giống chim vẹt, và được sự trợ giúp của vợ là Cảnh Liên Liên, anh ta vang bóng một thời, sau đó bị ngồi tù.
Hàn Chim chôn mẹ trên Bãi-CátĐài. Tay xách cung, nói giọng vùng khác, anh ta đi hai vòng trên phố, miệng thì chửi bới, ý tứ như sau:
- Tao bây giờ là thằng độc thân, giết một người hòa vốn, giết hai người lãi một. Mong các người coi như không có chuyện gì xảy ra.
Tấm gương Sáu-bạo-phổi mù cả hai mắt và lão Ba Phàn đứt đôi vành tai sờ sờ ra đấy! Những người trong thôn không ai muốn dằn mặt anh tạ Với lại, chị Ba nói, người ta đã phải trả giá bằng cái chết của bà mẹ rồi.
Từ đó, dân ngụ cư và dân trong thôn chung sống hòa bình với nhau, tuy bằng mặt chẳng bằng lòng. Chị Ba và Hàn Chim hầu như mỗi ngày đều gặp nhau ở nơi lần đầu họ gặp nhau, tặng gà gô cho nhau, lúc đầu làm ra vẻ ngẫu nhiên, sau đó trở thành hẹn ước nơi điền dã, chưa gặp mặt thì chưa về. Hai bàn chân chị Ba đã biến nơi hẹn hò thành một mảnh đất trống trơn, không cỏ nào mọc được. Mỗi lần gặp, Hàn Chim đều không nói gì, chỉ bỏ chim lại rồi đi, lúc thì đôi chim gáy, lúc con vịt trời.
Một bận, anh ta bỏ lại một con chim cực lớn, dễ đến ba mươi cân, chị Ba vất vả lắm mới vác được nó về nhà. Ngay cả ông Ba Phàn là người hiểu rộng biết nhiều cũng không biết nó là chim gì. Tôi chỉ biết rằng thịt nó cực ngon, tất nhiên là tôi cảm nhận mùi vị ấy qua sữa của mẹ.
Ông Ba Phàn cậy vào mối quan hệ thân mật với gia đình tôi, đặc biệt lưu ý mẹ tôi về mối quan hệ giữa chị Ba với Hàn Chim. Những lời ông nói rất kém giá trị, thối tha nữa là khác:
- Cô cháu đâu này, con đĩ nhà mình với thằng bắt chim ấy mà... Hừm, bại hoại luân thường! Mọi người thấy chướng mắt lắm!
Mẹ nói:
- Nhưng nó còn nhỏ mà?
Ông Ba Phàn nói:
- Con gái nhà chị khác con nhà người ta!
Mẹ vặc lại một câu:
- Cái bọn rỗi hơi ấy cho chúng nó xuống địa ngục!
Tuy mẹ cãi lại ông Ba Phàn, nhưng khi chị Ba lễ mễ vác con sếu đầu đỏ về nhà, mẹ đã nói chuyện nghiêm chỉnh với chị:
- Lãnh Đệ! - Mẹ nói - nhà mình không ăn thịt chim của người ta nữa?
Chị Ba nhướng mắt hỏi:
- Sao thế, mẹ? Anh ấy bắt chim còn dễ hơn mình bắt rận ở trên người?
Mẹ nói:
- Dễ mấy cũng là người khác bắt, con không hiểu câu há miệng mắc quai hay sao?
Chị Ba nói:
- Sau này ta sẽ trả nợ anh ấy?
Mẹ hỏi:
- Lấy gì để trả?
Chị Ba nhẹ như không:
- Con lấy anh ấy.
Mẹ nghiêm sắc mặt:
- Lãnh Đệ, hai chị con đã đủ cho nhà Thượng Quan xấu hổ rồi, đến lượt con, nói gì thì mẹ cũng không chịu đâu?
Chị Ba vùng vằng:
- Mẹ nói hay nhỉ! Nếu không có anh ấy, liệu nó có được như vậy không?
Chị Ba chỉ vào tôi, lại chỉ vào thằng khốn nhà Tư Mã:
- Và cả nó nữa!
Mẹ nhìn khuôn mặt hồng hào của tôi và khuôn mặt hồng hồng của thằng nước nhà Tư Mã, không nói lại được câu nào. Lặng đi một lúc, mẹ nói:
- Lãnh Đệ, từ nay trở đi không thèm ăn thịt chim của nó nữa!
Hôm sau, chị Ba xách về một xâu chim cu ngói, giận dỗi quẳng dưới chân mẹ.
Thấm thoát đã sang tháng Tám, từng đàn chim nhạn từ phương xa bay về, đậu trên vùng đầm phía tây nam thôn tôi. Người trong thôn và dân ngụ cư dùng lưỡi câu, dùng lưới - những phương thức cổ lỗ - để bắt chim nhạn. Lúc đầu bắt được rất nhiều, đến nỗi chỗ nào cũng có lông nhạn, nhưng rồi những con nhạn tinh khôn ra, không đỗ ở những nơi rất sâu trong đầm lầy, ngay cả những con cáo cũng không thể đặt chân tới, khiến những mánh lới của mọi người đều đã tràng xe cát, chỉ có chị Ba mỗi ngày đem về một con nhạn khi còn sống, lúc đã chết, có trời mới biết Hàn Chim làm thế nào để bắt được chúng.
Trước sự thực đó, mẹ đành thỏa hiệp, vì rằng nếu không ăn thịt chim của Hàn Chim cho, chúng tôi sẽ thiếu dinh dưỡng; sẽ như phần lớn số người trong thôn, phù thũng, thở nặng nhọc, hai mắt đỏ như lửa cứ nháy liên tục. Mà nhận chim của Hàn Chim thì chắc chắn là có một con rể chuyên gia về săn bắt chim tiếp theo rể đội trưởng Đội Hỏa mai và rể chuyên gia phá cầu.
Buổi sáng ngày mười sáu tháng Tám, chị Ba lại ra chỗ cũ để lấy chim. Chúng tôi ngồi đợi ở nhà. Mọi người đã ngán ăn thịt nhạn có vị có xanh, hi vọng Hàn Chim đổi khẩu vị, cho chúng tôi loại chim khác. Chúng tôi không dám mơ ước chị Ba lại đem về một con chim cực lớn, thịt thơm ngon như ngày nào, nhưng rất có thể chị đem về đại loại như vịt trời, chim cút, cu gáy, ngỗng trời chăng hạn.
Chị Ba trở về tay không, hai mắt đỏ như hạt đào vì khóc. Mẹ hỏi nguyên do, chị nói:
- Hàn Chim đã bị một bọn mặc quân phục đen, đeo súng trường, cưỡi xe đạp bắt đi rồi... Cùng bị bắt là mười mấy thanh niên trai tráng. Họ bị trói thành một xâu. Hàn Chim cố vùng ra, bắp thịt ở vai gồng lên như những quả bóng nhỏ. Bọn lính dùng báng súng nện vào mông vào lưng, đá vào chân Hàn Chim. Anh ta vằn mắt lên, đỏ quạch như sắp bật máu hoặc sắp tóe lửa. - Các ông bắt tôi vì tội gì - Hàn Chim gào lên. Một tên tiểu đầu mục bốc một nắm bùn ném vào mặt Hàn Chim bịt kín cả hai mắt. anh ta gầm thét như con thú cùng đường. Chị Ba chạy vượt lên gọi to: Anh Hàn Chim... Dừng lại! Chị gọi nữa: - Anh Hàn Chim. Bọn lính nhìn chị, cười đểu cáng. Cuối cùng, chị Ba nói: - Hàn Chim, em đợi anh! Hàn Chim quát to: Cút mẹ cô đi, ai cần cô đợi?
Bữa trưa, nhìn nồi canh rau dại có thể soi gương, chúng tôi - tất nhiên trong đó có mẹ tôi - mới thấm thía tầm quan trọng của Hàn Chim đối với gia đình tôi. Chị Ba nằm sấp trên giường, khóc hai ngày hai đêm. Mẹ dùng mấy chục cách để chị nín nhưng không kết quả.
Sau ngày Hàn Chim bị bắt được ba hôm, chị Ba ngồi dậy, chân trần, chị để hở ngực mà không xấu hổ bước ra sân. Chị trèo lên ngọn cây thạch lựu, sức nặng uốn cành lựu cong như một cây cung. Mẹ vội kéo chị xuống, chị nhanh nhẹn chuyền sang cây ngô đồng, rồi từ cây ngô đồng chuyền sang cây trứng gà, từ cây trứng gà chị nhảy xuống nóc nhà. Chị nhanh nhẹn đến mức khó tin, như mọc thêm đôi cánh. Chị cưỡi trên nóc nhà, hai mắt ngây dại, nụ cười mê hồn nở trên khuôn mặt. Mẹ đứng dưới sân, van vỉ rất đáng thương:
- Lãnh Đệ, con gái yêu của mẹ! Xuống đi con, từ nay mẹ không bắt khoan bắt nhặt con nữa, con muốn làm gì thì làm!
Chị Ba không phản ứng gì, hình như chị đã biến thành chim, không hiểu tiếng người. Mẹ gọi chị Tư, chị Năm, chị Sáu, chị Bảy, chị Tám và cả thằng nhóc nhà Tư Mã ra sân, bảo các chị cùng gọi chị Bạ Các chị nước mắt ràn rụa, lên tiếng gọi. Chị Ba vẫn thản nhiên như không. Chị nghiêng đầu, gặm gặm vào vai như chim rỉa lông. Đầu chị quay đi, quay lại với một góc khá rộng, cổ linh hoạt như trục xoay, chị không những có thể gặm vào vai, mà có thể cúi xuống gặm hai đầu vú nho nhỏ. Tôi không nghi ngờ rằng chị có thể cúi xuống gặm mông, vào gót chân, hễ muốn là chị có thể tiếp xúc với bất cứ bộ phận nào trên cơ thể.
Trên thực tế, tôi cho rằng, khi chị Ba ngồi trên nóc nhà, chị đã nhập vào thế giới của loài chim, suy nghĩ là suy nghĩ của chim, hành vi là hành vi của chim, thái độ là thái độ của chim. Tôi cho rằng, nếu như mẹ không gọi một số người cương quyết như ông Ba Phàn, lấy máu chó đổ lên đâu chị Ba, chắc chắn chị sẽ mọc thêm đôi cánh tuyệt đẹp, biến thành một con chim đẹp, không là phượng hoàng thì là khổng tước, không là khổng tước thì là gà nấm, dù biến thành chim gì thì chị cũng cất cánh bay cao, đi tìm Hàn Chim của chị. Nhưng cuối cùng lại là một kết quả đáng hổ thẹn và đáng giận: ông Ba Phàn sai Trương Mao Lâm, một thanh niên có thân hình nhỏ bé, linh hoạt, có biệt hiệu là Lâm-khỉ, xách một thùng máu chó, bí mật trèo lên nóc nhà tiếp cận chị Ba từ phía sau rồi đổ úp lên đầu chị. Chị Ba nhảy dựng lên, giang rộng hai tay mang đầy ý niệm về bay lượn nhưng thân thể chị thì lại lăn lông lốc trên mái hiên rồi rơi xuống lối đi đầy gạch vỡ. Đầu chị thủng một lỗ to bằng hạt hạnh, máu chảy nhiều, chị ngất đi.
Mẹ vừa khóc vừa bốc một nắm tro đắp vào lỗ thủng trên đầu chị, rồi cùng với chị Tư chị Năm, rửa sạch máu chó trên người chị, khênh chị vào giường. Lúc chạng vạng tối, chị Ba tỉnh lại. Mẹ rưng rung nước mắt, hỏi:
- Lãnh Đệ, con khỏi hẳn chưa?
Chị nhìn mẹ, có vẻ như gật đầu lại hình như không phải là gật. Nước mắt chị rơi lã chã: Mẹ nói:
- Khổ thân con tôi.
Chị Ba lạnh lùng nói:
- Anh ấy bị bắt sang Nhật rồi, mười tám năm sau mới trở về. Mẹ lập bàn thờ cho con, con là Tiên Chim đấy!
Nghe chị nói vậy, mẹ như sét đánh ngang tai, lòng rối như tơ vò. Mẹ nhìn nét mặt đầy yêu khí của chị Ba, có bao nhiêu diều muốn nói, nhưng rồi mẹ lại thôi. Chỉ trong một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi vùng Cao Mật, từng có sáu người, toàn là nữ, vì tình duyên trắc trở, vì vợ chồng cơm chẳng lành canh chăng ngọt, đã đội bát nhang thờ thần cáo, thần chuột xù, thần rắn, thần hoan mặt rằn ri, thần đợi... sống một cuộc sống bí ẩn, người người kinh sợ. Nay một nàng Tiên Chim xuất hiện trong nhà tôi, mẹ vô cùng rầu ruột, một cảm giác nặng nề, nhưng mẹ chưa khi nào nói nửa chữ không, bởi vì cách đây mười năm đã có bài học xương máu: Cô vợ trẻ của anh chàng lái lừa Viên Kim Tiêu là Phương Kim Chi tư tình với một thanh niên kém tuổi hơn ở khu mộ địa. Người nhà họ Viên đánh chết tươi chàng thanh niên nọ, Phương Kim Chi cũng bị một trận thừa sống thiếu chết. Vừa thẹn vừa giận, cô uống thạch tín nhưng bị lộ, người ta đổ phân vào miệng để cô nôn hết ra, cô được cứu sống. Sau khi tỉnh lại, Phương Kim Chi tự xung là Nàng Tiên Cáo nhập hồn, đòi lập điện thờ. Nhà họ Viên không chịu. Từ đó nhà họ Viên thỉnh thoảng lại cháy nhà, nồi niêu xoong chảo vô cớ bị vỡ nát, cụ cố nhà họ Viên rót rượu uống thì trong be rượu chui ra một con thạch sùng, cụ bà nhà họ Viên hắt hơi văng ra hai chiếc răng cửa từ trong lỗ mũi, nhà họ Viên nấu sủi cảo, khi đổ ra là một chậu cóc chết. Họ Viên đành chịu thua, đặt thần vị Nàng Tiên Cáo, để Phương Kim Chi sống trong tĩnh thất.
Tĩnh thất của Nàng Tiên Chim đặt tại chái đông. Mẹ cùng chị Tư, chị Năm loại trừ tất cả chổi cùn rễ rách của Sa Nguyệt Lượng để lại, quét sạch mạng nhện trên tường, bụi bặm trên xà nhà, dán lại giấy cửa sổ, bày biện hương án ở góc trong phía bắc, thắp ba cây đàn hương còn thừa trên bàn thờ Quan âm Bồ Tát của bà nội. Nhưng còn Nàng Tiên Chim thì hình dáng như thế nào? Mẹ đành hỏi ý kiến của chị Bạ Mẹ quì trước mặt chị, thành tâm rất mục:
- Thưa Cô, thần tượng bày trên hương án thì thỉnh ở đâu?
Chị Ba ngồi ngay ngắn, mắt nhắm, mặt đỏ hồng, hình như đang trải qua một giấc mơ đẹp. Mẹ không dám sống sượng, hỏi lại lần nữa với thái độ chân thành. Chị Ba ngáp một cái thật dài, mắt vẫn nhắm, bằng một giọng lơ lớ nửa tiếng chim nửa tiếng người, nói:
- Ngày mai sẽ có.
Sáng hôm sau, một người ăn xin có khuôn mặt mũi quạ, mắt diều vào nhà tôi. Người ấy tay trái cầm gậy xua chó bằng trúc, tay phải cầm bát tộ mẻ hai chỗ ở miệng, mình lấm lem như từ vũng bùn chui ra hay mọi trải qua một cuộc hành trình vạn dặm ngay ở lỗ tai cũng bám đầy bụi đất. Ông ta không nói nửa câu, lừ lừ đi vào giữa nhà tự nhiên như đi vào nhà mình, mở vung, múc một bát rau dại húp sùm sụp. Ăn xong, vẫn không nói một tiếng, ông ta đưa ánh mắt sắc như dao nhìn như lột da mặt mẹ. Mẹ hơi hoảng, nhưng vẫn làm ra vẻ thản nhiên, nói:
- Thưa ông khách, nhà nghèo chẳng có gì đãi đằng, nếu ông không chê thì xin mời thứ này. Mẹ dưa cho ông một nắm rau dại, ông ta không nhận, liếm cặp môi khô nẻ, nhiều chỗ rớm máu, nói:
- Con rể nhà bà có nhờ tôi đem đến hai vật này! Nói rồi, ông ta cũng không ra ngoài. Chúng tôi nhìn manh áo mỏng rách bươm và lớp da mốc thếch, sần sùi và bẩn thỉu của ông lộ ra qua lỗ thủng trên áo, quả thực không hiểu ông cất hai vật đó ở chỗ nào. Mẹ sốt ruột hỏi:
- Con rể nào.
Mũi diều mắt quạ nói:
- Tôi cũng không rõ anh con rể nào, chỉ biết anh ta câm, biết chữ, biết sử dụng đao, cứu sống tôi một lần, tôi cũng cứu sống anh ta một lần, thế là hòa, chẳng ai nợ ai. Do vậy, trước đây hai phút, tôi còn lưỡng lự, xem có nên trả hai bửu bối cho bà không? Nếu như lúc nãy tôi tự tiện múc cháo ăn, bà tỏ ra khiếm nhã thì tôi lờ đi không trả. Nhưng bà không nói gì, lại còn cho tôi cả mớ rau dại. Tôi đành trả cho bà. Nói rồi ông ta cầm cái bát sứt đặt lên bếp, nói:
- Đây là cái bát sứ men xanh rạn vừng, nó là kỳ lân phượng hoàng trong đồ cổ, là của độc trong thiên hạ. Anh con rể bà không biết giá trị của nó. Anh ta được chia sau một trận vơ vét. Tôi lưu ý bà về giá trị của nó. Còn cái này... - Ông ta tông đầu gậy xuống đất, có tiếng kêu của vật rỗng.
- Có cần dao không? - Mẹ đưa con dao thái rau cho ông ta.
Ông ta đón lấy con dao chẻ đôi cây gậy một bức tranh cuộn tròn rơi ra, bức tranh sơn đầu. Ông ta mở bức tranh, một mùi ẩm mốc xộc lên mũi. Chúng tôi trông thấy chính giữa bức tranh bằng giấy quyến đã ngả màu vàng, vẽ một con chim lớn thì sũng người:. rất giống con chim thịt thơm phức mà có lần chị Ba đã đem về. Con chim trong tranh ngẩng cao đầu cặp mắt to vô cảm nhìn chúng tôi. Ông mũi diều mắt quạ không giải thích gì thêm về bức tranh và con chim. Ông cuộn bức tranh lại, gác nó lên miệng cái bát cổ rồi bước ra khỏi nhà, không ngoái lại. Hai tay ông đã được tự do, vung vẩy vụng về theo mỗi bước đi.
Mẹ như cây tùng, tôi như cây tầm gửi. Năm chị em như năm cây bạch hoa. Thằng nhóc nhà Tư Mã như cây tượng thu nhỏ. Chúng tôi tụm lại thành một nhóm hỗn hợp, đứng lặng trúc cái bát tộ men xanh và bức họa sơn dầu đầy bí ẩn. Nếu không có chị Ba cười khanh khách trên giường, có lẽ chúng tôi đã hóa thành cây.
Lời tiên tri của chị Ba đã ứng nghiệm. Chúng tôi kính cẩn rước chim vào tịnh thất, treo trên hương án. Cái bát cổ sứt miệng có một lai lịch không bình thường như vậy, người trần mắt thịt đâu dám dùng. Mẹ thành tâm dâng cái bát lên hương án, rót đầy nước trong để chim uống. Cái tin nhà tôi được Nàng Tiên Chim nhập vào chị Ba không cánh mà bay khắp vùng Cao Mật và còn lan xa hơn. Người ta nườm nượp đến xin thuốc, xem bói. Nàng Tiên Chim chỉ tiếp mỗi ngày mười người. Chị tự giam mình trong tịnh thất, những người đến cầu Tiên đều quì ngoài cửa sổ. Giọng nửa người nửa chim lọt qua lỗ thủng trên giấy dán cửa sổ, giúp người xem ra khỏi bến Mê, cho phương thuốc chữa bệnh. Những đơn thuốc của chị Ba, không, của Nàng Tiên Chim hết súc lạ lùng. Bài thuốc chữa đau mắt của Tiên như sau: Ong mật một con, dế mèn một cặp, bọ ngựa năm con, giun đất một con, giã nát đắp vào lòng bàn taỵ Người bệnh cầm lấy mảnh giấy bay ra từ trong cửa sổ, nhìn qua, nét mặt khinh khỉnh:
- Đúng là Tiên Chim, toàn là những thức ăn của chim.
Anh ta bất mãn ra về. Chúng tôi sợ thay cho chị. Cào cào châu chấu đều là thức ăn của chim, làm sao chữa được bệnh đau mắt? Chính lúc đang nghĩ ngợi miên man như vậy, người bệnh kia chạy trở lại như bay, quì sụp trước cửa sổ, dập đầu lạy như tế sao, luôn miệng khấn:
- Xin Tiên Cô tha tội! Xin Tiên Cô tha tội!
Chị Ba trong buồng cười nhạt. Về sau tôi nghe kể lại rằng, người bệnh lắm điều đó vừa ra khỏi cổng liền bị một con diều hâu từ trên trời lao thẳng xuống đầu, chộp lấy chiếc mũ của ông ta rồi bay mất. Lại có lần một người đàn ông không đứng đắn, giả vờ bị viêm niệu đạo, quì trước cửa sổ xin thuốc. Nàng Tiên Chim hỏi vọng ra:
- Ông bệnh gì?
Anh ta nói:
- Tôi bị bí đái, cứ cương lên!
Trong buồng yên lặng, hình như Tiên Cô đã thăng vì xấu hổ. Người kia ghé mắt qua lỗ thủng, nhòm vào trong buồng. Bỗng anh ta rú lên một tiếng thê thảm: một con rết to bự rơi trúng cổ và đợp cho anh ta một miếng. Thoáng cái, cổ anh ta sưng vù lên, mặt cũng sung, híp cả hai mắt, trông chẳng khác con cá oa oa, đầu người mình cá.
Chuyện về Nàng Tiên Chim giở phép thần thông, trừng phạt bọn lưu manh, khiến những người tử tế thích thú. Tiếng lành đồn xạ Những ngày tiếp theo, những người đến xin thuốc, xem bói, đầu là người vùng xạ Mẹ hỏi thăm, được biết người thì quê Đông Hải, người quê Bắc Hải. Hỏi họ từ đâu mà biết Tiên Cô hiển linh, họ chỉ mở to mắt, không biết trả lời thế nào. Người họ toát ra mùi mặn chát, mẹ bảo đó là mùi của biển. Những người ở xa thì ngủ đêm trong sân nhà tôi, kiên trì đợi đến lượt Nàng Tiên Chim rất ngang, mỗi ngày chỉ tiếp mười bệnh nhân rồi thăng. Khi Tiên Cô đã thăng, chái đông im lìm như chết. Mẹ sai chị Tư thay chị Ba bưng nước vào rồi lại sai chị Năm đem cơm vào thay chị Tự Cứ luân phiên như vậy khiến những người hành hương hoa cả mắt, không sao đoán nổi Tiên Cô là ai.
Sau thời gian xuất thần, chị Ba trở lại con người bình thường, nhưng cũng không ít những thái độ và cử chỉ khác người. Chị nói rất ít, mắt lim dim, thích ngồi xổm, uống nước lã, hơn nữa, mỗi lần nuốt lại vươn dài cổ ra, điển hình cho loài chim khi uống nước. Chị không ăn lương thực, quả thực chúng tôi cũng không ăn lương thục. Những người đến xin thuốc xem bói đều thuận theo tập tính của loài chim, đem đến nào là cào cào châu chấu, nào là nhộng tằm, sâu đậu, đom đóm, có người còn cung tiến hạt quả gai, quả thông, hạt hướng dương. Chị Ba ăn không hết, mẹ và các chị ăn chỗ còn lại. Các chị rất biết nhường nhịn, có khi chỉ một con nhộng mà cứ đùn đẩy cho nhau. Lượng sữa tiết của mẹ xuống tới múc thấp nhất, nhưng chất lượng sữa thì rất tốt. Trong thời gian đó, mẹ đã mấy lần định cai sữa cho tôi, nhưng tôi khóc dữ quá nên lại thôi.
Để cảm ơn chúng tôi đã cho nước sôi và giúp đỡ trong sinh hoạt, tất nhiên trước hết cảm ơn Nàng Tiên Chim đã giúp họ giải hạn, những người miền biển để lại một bao tải cá khô trước khi ra về. Chúng tôi vô cùng cảm kích, tiễn họ lên tận mặt đê, mới trông thấy trên dòng Thuồng Luồng êm ả có mấy chiếc thuyền đánh cá đang đậu cột buồm cao vút. Trong lịch sử sông Thuồng Luồng chỉ có mấy chiếc thuyền thúng bằng gỗ để dùng khi nước lũ. Nhờ Nàng Tiên Chim, sông Thuồng Luồng có quan hệ trực tiếp với những miền biển rộng lớn. Lúc này là đầu tháng Mười, từng đợt ngắn gió tây bắc thổi mạnh trên sông. Những người miền biển lên thuyền, kéo lên cánh buồm xám vá những miếng to tướng, nhích dần ra giữa dòng, bánh lái khuấy bùn đục ngầu. Từng đàn hải âu màu xám đến theo con thuyền, nay cùng đi. Chúng kêu lên những tiếng lảnh lót, lúc vọt lên cao lúc sà xuống thấp, có con còn biểu diễn bay ngửa hoặc dang cánh lượn vòng. Trong thôn có nhiều người lên mặt đệ Họ lên xem những con thuyền, vô hình trung trở thành những người đưa tiễn. Những cánh buồm căng gió, mái chèo mềm mại, con thuyền xa dần. Họ từ sông Thuồng Luồng rẽ sang sông đào, từ sông đào chuyển sang sông Bạch Mã, từ Bạch Mã ra Bột Hải. Toàn bộ hành trình là hai mươi mốt ngày. Những kiến thức về địa lý này là do Hàn Chim bảo tôi mười tám năm sau. Những người khách phương xa tìm đến vùng Cao Mật, có phần giống như chuyện Trịnh Hòa, Từ Phúc được tái diễn, là trang sử vẻ vang của vùng Cao Mật. Mà tất cả những cái đó là do Nàng Tiên Chim của nhà Thượng Quan mà có. Niềm vinh quang làm vợi nỗi buồn của mẹ, có thể mẹ còn mong xuất hiện Nàng Tiên Thú, Nàng Tiên Cá trong nhà, mà cũng có thể chẳng bao giờ mẹ muốn như thế.
Sau khi những người ngư dân ra đi, lại có một vị khách sang đến. Bà ta đi một chiếc xe du lịch đen bóng, đứng trên bậc lên xuống ở hai bên thành xe là hai đại hán tay cầm súng tiểu liên. Bụi tung mù mịt trên đường làng chào đón khách quí. Khổ thân cho hai đại hán, người bám đầy bụi như con lừa tắm khan ở bãi đất. Chiếc xe dùng lại trước cổng nhà tôi, vệ sĩ mở cửa xe. Một cái đầu đầy trâm ngọc chui ra trước rồi đến cái cổ, rồi một cơ thể béo tốt. Người phụ nữ này từ vóc dáng đến tinh thần, chẳng khác một con ngỗng cái tắm rửa sạch sẽ. Nghiêm chỉnh mà nói, ngỗng cũng thuộc loài chim.
Mặc dù thân thế khác người, nhưng khi gặp Nàng Tiên Chim, bà ta tỏ ra vô cùng cung kính. Tiên Cô chưa bói đã biết, nhìn thấu mọi sự, trước mặt Cô không được giả dối và kiêu ngạo. Bà quì trước cửa sổ, nhắm mắt, lẩm bẩm khấn. Khuôn mặt bà tươi như hoa, không phải người có bệnh, trên người đầy vàng ngọc, không phải đến cầu tài. Loại người như vậy đến cầu gì ở Tiên Cổ Một lát sau, từ lỗ hổng trên cửa sổ bay ra một mảnh giấy trắng. Người đàn bà cầm lên xem, mặt đỏ như mào gà trống. Bà ta để lại vài đồng rồi đi thẳng. Nàng Tiên Chim viết gì trên mảnh giấy? Chỉ có Tiên Cô và người đàn bà kia biết. Những ngày ngựa xe nườm nượp qua đi rất nhanh, bao tải cá khô cũng đã ăn hết. Một mùa đông lạnh giá bắt đầu. Sữa mẹ toàn một vị rễ cỏ và vỏ cây. Ngày mồng Bảy tháng Chạp, nghe tin giáo phái Thần Chiêu hội thuộc Cơ Đốc giáo trên huyện sẽ phát chẩn vào ngày mồng Tám tháng Chạp tại nhà thờ lớn Quan Bắc, mẹ cùng chúng tôi đem theo bát đũa, nhập vào đoàn người đói khát, đi suốt đêm về hướng huyện thành. Ở nhà chỉ còn hai người: chị Ba và bà nội, vì một người nửa Người nửa Tiên, còn một người nửa Người nửa Quỉ, nhịn đói nhịn khát giỏi hơn chúng tôi. Mẹ quẳng cho bà nội một bó cỏ khô, nói:
- Mẹ Ơi, nếu chết được thì mẹ chết nhanh đi, mẹ chịu cực cùng chúng con làm gì!
Đây là lần đầu tiên chúng tôi đi trên con đường dẫn tới huyện lỵ. Cái gọi là con đường chỉ là một lối mòn màu xám được tạo nên bởi những vết chân người và súc vật, không hiểu người đàn bà sang trọng kia cho xe chạy bằng cách nào?. Chúng tôi đi dưới trời sao lạnh. Tôi đứng trong túi trên lưng mẹ, thằng nhóc nhà Tư Mã trên lưng chị Tư, chị Năm cõng chị Tám, chị Sáu chị Bảy tự đi. Vào lúc nửa đêm, trên cánh đồng hoang dã, tiếng trẻ khóc liên miên không dứt. Chị Bảy chị Tám và thằng nhóc nhà Tư Mã cũng khóc. Mẹ lớn tiếng mắng các chị. Nhưng mẹ cũng lại khóc, chị Tư chị Năm chị Sáu đều khóc hết. Các chị loạng choạng gục xuống, mẹ dựng ngược chị này dậy thì chi khác lại gục xuống, kéo được chị kia dậy thì chị này lai đổ xuống. Về sau, mẹ cũng ngồi bệt trên mặt đất băng giá. Chúng tôi chụm lại một chỗ sưởi ám cho nhau. Mẹ xoay tôi ra phía ngực, dùng ngón tay tê cóng quệt mũi cho tôi. Chắc mẹ nghĩ tôi đã bị chết cóng. Tôi dùng hơi thở thoi thóp để báo cho mẹ biết là tôi vẫn còn sống. Mẹ nâng mảnh vải che, nhét đầu vú lạnh như băng vào miệng tôi, tôi tưởng như cục băng đang tan, miệng tôi mất hết cảm giác. Trong bầu vú của mẹ không có gì, tôi cố mút cũng chỉ rỉ ra một chất mảnh như tơ nhện. Rét ơi là rét! Trong giá lạnh, những con người đói khát tưởng tượng ra bao cảnh hấp dẫn: Lửa rừng rực trong lò, gà vịt trong nồi bốc hơi nghi ngút, từng mâm bánh bao, lại còn hoa tươi, lại còn cỏ xanh mượt. Trước mắt tôi lại toàn là những bầu vú đầy nhựa sống như trái hồ lô, tròn trịa như chim bồ câu bé nhỏ, nhẵn nhụi bóng bẩy như bình sứ. Mùi thơm của chúng, vẻ đẹp của chúng, nước cam lồ mà chúng tự động tiết ra rót đầy bụng tôi, thấm đẫm toàn thân tôi, tôi ôm lấy bầu vú, tôi bơi trong dòng sữa... Trên đầu, hàng tỉ tỉ ngôi sao đang xoay vần, xoay mãi, xoay tròn thành những bầu vú Bầu vú Thiên Lang, bầu vú Bắc Đẩu, bầu vú Người Đi Săn, bầu vú Chức Nữ, bầu vú Ngưu Lang, báu vú của Hằng Nga trong vầng trăng, bầu vú của me... Tôi nhả vú mẹ ra, nhìn thấy phía trước không xa, một người giơ ngọn được bằng da dê rách bó lại, nhảy như ngựa đến chỗ chúng tôi. Đó là ông Ba Phàn. Ông cởi trần, hét to, giọng khản đặc, trong mùi khét tức thở của da dê, dưới ánh sáng của ngọn được:
- Bà con ơi, đừng ngồi xuống... Đừng ngồi xuống? Ngồi xuống là chết cóng... Đứng dậy cả đi bà con ơi! Đi tiếp đi, bà con ơi!... Đi tiếp là sống, ngồi lại là chết!...
Lời kêu gọi cảm động của ông Ba Phàn khiến nhiều người cố thoát khỏi sự ấm áp giả tạo dẫn đến tử vong, trở lại cái rét khắc nghiệt nhưng là để sống. Mẹ đứng lên, xoay tôi ra sau lưng, ôm thằng nhỏ đáng thương nhà Tư Mã trước ngực, dắt tay chị Tám, rồi như một con ngựa điên, mẹ đá lia lịa vào chị Tư chị Năm chị Sáu chí Bảy, bắt các chị đứng lên. Chúng tôi đi theo ông Ba Phàn; người đã dùng trái tim mình làm ngọn được soi đường, không phải đi bằng chân, mà là bằng ý thúc, bằng tấm lòng, nhằm hướng huyện lỵ, nhằm nhà thờ lớn Bác Quan, hướng về Âm trạch của Thượng đế, hướng về bát cháo bố thí, đi tới.
Trong cuộc hành trình bi tráng đó, để lại dọc đường mấy chục xác chết, có xác vén áo lên, khuôn mặt ngời ngời hạnh phúc như được ngọn lửa sưởi ấm lồng ngực. Ông Ba Phàn chết giữa lúc vừng hồng vừa ló lên. Chúng tôi được ăn cháo bố thí của Thượng đế. Tôi được ăn qua bầu vú mẹ. Suốt đời tôi không thể quên cảnh húp cháo. Nhà thờ cao to sừng sũng. Lũ quạ đậu trên cây thánh giá. Xe lửa thở phì phò trên đường sắt. Hai cái chảo lớn có thể luộc cả con trâu, bốc hơi nghi ngút. Ông mục sư mặc áo chùng đen đứng bên cầu nguyện. Vài trăm người đói xếp hàng. Người hội viên hội Thần chiêu dùng cái muỗng có cán dài chia cháo, mỗi người một muỗng không kể bát lớn bát bé. Tiếng húp cháo soạn soạt, mùi cháo thơm phức. Bao nhiêu giọt nước mắt rơi xuống bát cháo. Hàng trăm cái lưỡi liếm sạch cháo trong bát. Húp xong một bát lại xếp hàng. Vài bao gạo, vài thùng nước lại đổ vào chảo. Lúc này, qua sữa mẹ, tôi biết rằng, bát cháo từ bi này được nấu bằng gạo tâms, cao lương mốc, đậu ủng và lúa mạch còn nguyên cả trấu.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 15
Sau khi ăn cháo trên huyện, trên đường trở về cái đói càng dữ dội. Người ta không còn sức để chôn những xác chết trên đường, thậm chí không còn tâm trạng nhìn mặt người chết chỉ mỗi xác ông Ba Phàn là ngoại lệ. Trong giờ phút nguy ngập, con người không được người ta ưa lắm này cởi phăng áo da dê làm thành bó đuốc, dùng ánh lửa và lời lẽ thức tỉnh lý trí của chúng tôi. Không thể quên cái ơn cứu mạng. Mẹ dẫn đầu, mọi người kéo cái xác gầy như que củi xuống vệ đường. Nấm mồ được đắp bằng đất vụn.
Về đến nhà, phát hiện đầu tiên của chúng tôi là chị Ba ôm một cái bọc mà vỏ ngoài là cái áo da báo, đi đi lại lại trong sân. Mẹ vịn mép cổng, gần như khuỵu xuống.
Chị Ba bước tới dưa cái bọc cho mẹ. Mẹ hỏi:
- Bọc gì đây? Chị nói bằng tiếng người tương đối chuẩn:
- Cháu bé.
Mẹ ra vẻ hiểu nhưng vẫn hỏi:
- Con ai?
Chị Ba nói:
- Còn ai vào đây nữa!
Chiếc áo da báo của Lai Đệ chỉ có thể bọc con của Lai Đê.
Đó là một đứa con gái đen như một cục than, hai con mắt phảng phất mắt gà chọi, cặp môi mỏng dính, hai vành tai to và trắng, rất không hòa hợp với da mặt. Đặc trưng này xác nhận không thể chối cãi nguồn gốc con bé. Nó là con của Sa Nguyệt Lượng với chị Cả, đứa cháu ngoại đầu tiên của gia đình tôi.
Mẹ tỏ ra ghét cay ghét đắng con bé. Nó, trái lại, mỉm cười như con mèo con, đáp lại thái độ của mẹ. Mẹ tức điên lên, quên cả chị Ba có phép thần thông, đạp cho chị Ba một cái vào chân.
Chị Ba ối lên một tiếng ngã chúi về phía trước. Khi chị ngoảnh lại, trên mặt lộ rõ sự tức giận của loài chim. Chị dẩu mỏ ra như sắp mổ, hai tay giơ cao như sắp sửa bay lên. Mẹ không đếm xỉa đến chị là người hay chim, chửi:
- Đồ khốn, ai cho mày nhận con của nó?
Chị Ba ngọ ngoạy đầu, như tìm kiếm sâu bọ trên cây ngô đồng. Mẹ lại chửi:
- Lai Đệ, mày là đồ thối thây không biết xấu hổ! Sa Hòa thượng, mi là đồ thổ phỉ lòng lang dạ sói? Chúng mày chỉ biết đẻ mà không nuôi! Chúng mày tưởng cứ quẳng cho ta là ta nuôi hộ? Có mà nằm mở Ta thì quẳng cái đồ con hoang này xuống sông cho ba ba nó ăn, ném ra đường cho chó nó xé xác, quẳng xuống đầm cho quạ nó rỉa. Hãy đợi đấy.
Mẹ bế con bé, miệng cứ lặp đi lặp lại cho ba ba ăn, cho chó xé xác, cho quạ na, vừa chạy như bay trong ngõ, chạy lên đê rồi chạy trở lại đường phố, từ đồng phố chạy trở lại đê... càng chạy càng chậm dần, tiếng gào ngày càng nhỏ như một chiếc máy kéo đã cạn đầu, mẹ ngồi phịch xuống đất, chỗ mục sư Malôa từ gác chuông rơi xuống. Mẹ ngước nhìn gác chuông, miệng lẩm bẩm:
- Người thì chết, người bỏ đi, để tôi chơ vơ một mình, tôi sẽ sống như thế nào, cả một lũ đang há miệng chờ ăn? Chúa ơi, ông trời ơi, xin hãy cho tôi biết, tôi sẽ sống như thế nào?
Tôi khóc, nước mắt rơi trên gáy mẹ. Con bé cũng khóc, nước mắt chảy vào tai. Mẹ dỗ tôi:
- Kim Đồng, con là hòn máu của mẹ, nín đi con.
Mẹ dỗ con bé:
- Tội nghiệp cháu, lẽ ra cháu không nên sinh ra ở đời này! Sữa của ngoại chỉ vừa đủ cho cậu của cháu. Thêm một nữa, cả hai đều chết đói. Không phải ngoại nhẫn tâm mà vì ngoại không còn cách nào khác...
Mẹ bỏ lại con bé bọc trong chiếc áo da báo ở cổng nhà thờ, rồi chạy về nhà như bị ma đuổi. Nhưng chỉ chạy được hơn chục buộc, chân mẹ đã cất không nổi nữa. Con bé khóc như lợn bị chọc tiết, tiếng khóc như sợi dây vô hình giữ chân mẹ lại...
Ba hôm sau, cả nhà tôi gồm chín người xuất hiện ở Chợ Người trong khu vực Chợ Lớn trên huyện. Mẹ địu tôi trên lưng, tay bế con súc sình nhà họ Sa, chị Tư cõng thằng lưu manh nhà họ Tư Mã. Chị Năm cõng chị Tám. Chị Sáu chị Bảy tự đi lấy.
Chúng tôi bới đống rác kiếm ít lá rau thừa để ăn, cố gắng đi cho đến Chợ Người. Mẹ cắm cây cao lương trên gáy chị Năm, chị Sáu, chị Bảy, đợi người đến muạ Trước mặt chúng tôi là những dãy nhà đơn giản bằng gỗ ván, tường và mái quét vôi trắng. Khói bốc cuồn cuộn từ ống khói nhô ra ở đầu thang. Làn khói bay lên không trung thay hình đổi dạng trước làn gió. Chốc chốc lại có những cô gái làm tiền, tóc xõa, hở ngực, môi đỏ chót, mắt ngái ngủ từ trong căn nhà gỗ chạy ra, hoặc bê chậu hoặc xách thùng, đến lấy nước ở giếng lộ thiên, trên giếng đặt ròng rọc, hơi nước nhẹ nhàng bốc lên. Họ kéo ròng rọc bằng hai cánh tay ẻo lả trắng nhợt. Sợi thừng miết trên con lăn rít lên khe khẽ. Khi chiếc thùng thô và nặng lên đến miệng giếng, họ dùng chân đi guốc móc lấy quai thùng rê ngang đặt lên tang giếng lổn nhổn những cục băng có hình bánh bao hoặc bầu vú. Đám phụ nữ bê nước chạy ra chạy vào, tiếng guốc cốp cốp ròn rã: Những bầu vú tỏa ra mùi khét của lưu huỳnh. Qua vai mẹ, tôi nhìn từ xa những người đàn bà kỳ quái đó, nhốn nháo những vú là vú như hoa thuốc phiện trên nương, như đàn bướm trong thung lũng. Họ rất hấp dẫn chị tôi. Tôi nghe chị Tư khẽ hỏi mẹ, nhưng mẹ không trả lời. Chúng tôi đứng trước bức tường cao, dầy và dài. Nó chắn gió tây bắc, chúng tôi cảm thấy dễ chịu. Mặt trời đỏ rực nhô khỏi đường chân trời màu xám nhạt khiến tôi nghĩ tới hình ảnh lá cờ đang bay trên mặt thành. Bên trái bên phải chúng tôi, một số người mặt xanh nanh vàng, đói khát như chúng tôi, đứng co ro, đàn ông và đàn bà, phụ nữ và trẻ con, có đủ. Đàn ông nhăn nheo như cây khô, quá nửa là bị mù, không mù thì toét mắt. Người nào cũng có một đứa nhỏ đứng bên cạnh, hoặc con gái hoặc con trai, thật ra rất khó phân biệt trai hay gái. Chúng đen nhẻm như từ ống khói chui ra, đen như một cục than. Sau gáy đứa nào cũng cắm một nhánh cỏ, phần lớn là cây cao lương với những lá khô vàng khiến người ta nghĩ đến mùa thu, nghĩ đến mùi rơm ra. ngựa nhai trong đêm tối, nghĩ đến tiếng động khiến người và ngựa đều vui thích. Cũng có trường hợp cắm đại một nhánh cỏ dại, cỏ đuôi chó, cỏ đuôi lừa: Phụ nữ thì quá nửa như mẹ, con cái vây xung quanh, nhưng không nhiều con như mẹ. Những nhóm trẻ ấy, có nhóm tất cả đều cắm cỏ sau gáy, có nhóm đứa cắm đứa không. Phía trên đầu đám trẻ là những cái đầu nặng nề của những con ngựa to lớn, những con lừa đại, với cặp mắt như những quả lục lạc cặp môi dày dâm đãng mọc tua tủa những lông cứng, hàm rằng đều và khỏe lấp lóa giữa đôi môi, cũng cắm đại lên đầu một nhánh cỏ dại, cỏ đuôi chó hoặc đuôi lừa. Chỉ riêng một phụ nữ thì khác. Chị này mặc bộ đồ trắng, sợi dây buộc tóc cũng trắng, mặt trắng nhọt, hốc mắt và môi tím tái. Chị không có trẻ con đứng bên cạnh. Chị đứng một mình dưới chân tường. Chị cầm trên tay - không phải, cài sau gáy - một nhánh cỏ đuôi chó hoàn chỉnh còn nguyên cả lá, tuy lá đã khô, nhưng đó là một nhánh cỏ đẹp, phát dục đầy đủ, lá còn giữ được màu xanh, tuy là xanh héo nhưng vẫn còn sức sống: chùm lông phất phơ mềm mại, vàng rực lên dưới nắng. Rất lâu, ánh mắt tôi như bị hút chặt vào bông cỏ đuôi chó, trái tim tôi như chìm trong cái đẹp thê thảm của bông cỏ đuổi chó, vì rằng tôi trông thấy những núm vú tí xíu trên thân và giữa những kẽ lá của bông có đuôi chó.
Phía dãy nhà quét vôi trắng nhốn nháo, tiếng chửi the thé chói tai, như lưỡi dao rạch vào không khí. Hai cô gái đang ẩu đả ở chỗ giếng nước. Một cô mặc quần màu hồng, một cô mặc quần màu xanh. Cô quần hồng cào vào mặt cô quần xanh. Cô quần xanh thụi cho cô quần hồng một quả vào ngực. Rồi, cả hai đều lùi lại nhìn nhau trong một phút. Tuy không nhìn thấy, nhưng tôi đoán được ánh mắt hai người như thế nào, chắc rất giống cái nhìn của chị cả Lai Đệ và chị hai Chiêu Đệ. Bỗng cả hai xông vào nhau như gà chọi, những thân hình nhấp nhô như chó chạy trong ruộng lúa mạch, tay vung, vú lắc, nước bọt bắn tung tóe, lấp loáng như những con thiêu thân dưới ánh đèn. Cô quần hồng túm được tóc cô quần xanh. Cô quần xanh theo đà ngoạm một miếng vào vai trái cô quần hồng, cô quần hồng cũng ngoạm luôn một miếng vào vai trái cô quần xanh. Hai bên đồng cân đồng lạng, tài sức ngang nhau, quần nhau bên giếng nước. Những cô khác, người thì tựa cửa hút thuốc, người đánh răng súc miệng nhổ bọt phì phì, người lại vỗ tay cười ngặt nghẽo, người phơi tất mỏng dính trên dây thép. Trên phiến đá hình tròn trước dãy nhà, một người đứng thẳng đuỗn, chân đi ủng đen bóng lộn, tay cầm roi mây, vụt trái đánh vút một cái, vụt phải đánh vút một cái. Hắn dùng roi thay đao để luyện đao thuật. Một đám đàn ông từ một rừng cờ phía tây nam đi tới, những người bụng lép vây quanh vài người thấp lùn bụng phệ, nung núc những mỡ. Người bụng phệ cười khùng khục như gà cục tác Tiếng cười quái gở đó cứ ám ảnh tôi, khiến tôi nhớ lại quang cảnh bên giếng nước. Những người bụng phệ cùng đám tùy tùng tiến đến ngôi nhà gỗ ván, tiếng cục tác nghe càng rõ. Người đang luyện đao thuật trên phiến đá nhảy vội xuống, lỉnh vào trong nhà. Một mụ béo lùn tịt lạch bạch chạy ra chỗ giếng nước, bàn chân nhỏ đến nỗi gần như không có, bắp chân cắm thẳng xuống đất. Qua hai cánh tay ngắn ngủn và mập như ngó sen vung vấy, có thể kết luận mụ đang chạy gằn, tốc độ thì như thế nhưng quãng đường đi thì không được bao nhiêu. Có bao nhiêu sức đều dồn cho những cái lắc của cơ thể và co rút của bắp thịt. Khoảng cách chừng một trăm thước, có lẽ hơn, chúng tôi đã nghe rõ tiếng thở của mụ, hơi nước thở ra trùm lên người giống như mụ đang ở trong nhà tắm. Cuối cùng thì mụ cũng đã tới giếng nước.
Tiếng chửi của mụ bị hơi thở làm đứt quãng, không rõ ý, chỉ nghe câu được câu chăng. Chúng tôi đoán mụ là chủ của hai cô đang đánh nhau, mụ đến để gỡ hai cô ra. Nhưng hai cô quyết không nhả miếng cắn, cuộc đấu của diều hâu với chim ưng, vuốt quặp lấy vuốt, khó mà gỡ. Họ đẩy nhau kẻ tiến người lui, kẻ lui người tiến, mấy bận suýt lăn xuống giếng nhưng không lăn vì vướng cái khung treo ròng rọc. Mụ béo đến gỡ họ ra cũng suýt bị rơi xuống giếng, sở dĩ không rơi cũng là nhờ cái khung ròng rọc giữ lại. Mụ nằm sấp trên cái khung, tìm cách đặt chân xuống đất. Chúng tôi trông thấy mụ bị trẹo chân khi nhảy ra dẫm phải cục băng tròn như cái bánh bao, ngã ngồi xuống đất, nghe thấy tiếng nheo nhéo từ miệng mụ phát ra. Chẳng lẽ mụ khóc? Mụ đứng dậy bê lấy chậu nước hắt lên người hai cô kia. Hai cô giật mình la lên rồi buông nhau ra. Cả hai đầu tóc rối bù, cả hai mặt mày xây xước, cả hai quần áo rách toạc, cả hai đều bị thương lốm đốm ở bầu vú. Người nọ nhổ máu của người kia ra, cơn giận vẫn chưa nguôi. Mụ béo lại bê chậu nước khác hắt lên người họ, làn nước uốn mình trong không trung như cánh chim, trong suốt. Mụ mất đà, ngã lần nữa, chiếc chậu sành văng đi, suýt rơi trúng đẩu những người đàn ông bụng phệ. Họ rất quen nhau, đùa bỡn chọc ghẹo sờ soạng cấu véo, cuối cùng cả hai vào trong căn nhà gỗ.
Tôi nghe thấy xung quanh thở dài, mới biết họ đều xem màn kịch bên giếng nước.
Giữa trưa, một cỗ xe ngựa từ hướng đông nam theo đường cái quan đi tới. Ngựa là ngựa trắng, ngẩng cao đầu, một lọn bờm màu bạc rủ trước trán, đôi mắt hiền lành, mũi màu phấn hồng môi đỏ tía, cổ đeo nhạc đồng. Vì vậy khi con ngựa kéo cỗ xe rẽ xuống đường cái quan, chúng tôi nghe thấy tiếng nhạc ngựa kêu ròn tan. Chúng tôi trông thấy cọc yên - Ở đây phải gọi là mỏm yên, dưới cao lên rất quí phái. Chúng tôi chưa bao giờ trông thấy một cái yên đẹp như thế. Dóng xe cũng không phải thanh dóng bình thường, mà là bọc đồng sáng loáng. Bánh xe cao cao, trục xe mạ kền, mui xe bằng vải trắng sơn nhiều lớp đầu ngô đồng. Chúng tôi chưa bao giờ trông thấy một cỗ xe sang trọng đến như vậy và nghĩ rằng, nguôi ngồi trên cỗ xe này còn sang trọng hơn người đàn bà ngồi xe du lịch đến gặp Nàng Tiên Chim. Chúng tôi cho rằng người ngồi bên ngoài mui có hàng ria vênh trên môi cũng không phải con người bình thường. Hắn vênh mặt lên, cặp mắt tóe lửa. Hắn thâm trầm hơn Sa Nguyệt Lượng, nghiêm túc hơn Tư Mã Khố, có lẽ Hàn Chim ăn mặc quần áo như hắn mới so được với hắn.
Xe từ từ dừng lại. Bà ta khoác áo lông điêu màu mận chín, cổ quàng khăn lông chồn. Tôi rất mong bà ta chính là Chị cả Lai Đệ. Nhưng bà ta không phải chị Lai Đệ. Đây là một phụ nữ nước ngoài, mũi cao, mắt xanh, tóc bạch kim. Tuổi ư? Chỉ có cha mẹ bà ta mới biết bà ta bao nhiêu tuổi! Xuống xe cùng với bà ta, là một thanh niên tuấn tú, mặc bộ đồng phục học sinh màu xanh, áo khoác bên ngoài cũng màu xanh, tóc đen như mun. Nhìn phong thái anh ta có vẻ là con trai bà kia, nhưng về dung mạo thì anh ta chẳng giống chút nào.
Những người xung quanh chúng tôi tranh nhau ùa tới, làm như định giành lấy bà ngoại quốc, nhưng chưa tới gần họ đã dừng lại, vẻ ngần ngại. Thưa bà, thưa quí bà, bà mua đứa cháu của tôi! Thưa bà, thưa bà lớn, xin bà hãy nhìn thằng con tôi, nó trung thành hơn con chó, việc gì cũng làm được... Đàn ông và đàn bà rụt rè rao bán con cái với người đàn bà ngoại quốc. Riêng mẹ vẫn đứng yên tại chỗ. Mắt mẹ như dại đi, nhìn chăm chằm chiếc áo lông điêu và chiếc khăn quàng lông cáo. Rõ ràng mẹ đang nhớ chị Lai Đệ. Mẹ đang bế đứa con gái của chị, trong lòng ngổn ngang, nước mắt lã chã. Bà đầm quí phái dùng khăn tay nửa che nửa bịt miệng, đi một vòng chợ người, người bà sực núc mùi nước hoa, khiến tôi và thằng lỏi nhà Tư Mã hắt hơi liên tục. Bà ta ngồi xổm trước ông lão mù, ngắm nghía con nhỏ cháu lão. Nó nhiều nhất cũng chỉ lên bốn. Nó khiếp đảm vì con cáo trên cổ bà ta, hai tay ôm chặt chân ông lão. Cặp mắt hốt hoảng của con bé khiến tôi nhớ mãi. Ông lão mù đã đánh hơi thấy quí nhân, giơ tay ra phía trước, nói:
- Thưa bà, thưa bà, xin bà hãy cứu cháu, ở với lão thì nó chết mất, thưa bà, lão một xu cũng không lấy, thưa bà...
Bà đầm đứng dậy, xì xô câu gì đó với người thanh niên mặc đồng phục học sinh, anh ta cao giọng hỏi ông lão:
- Lão là thế nào với con bé?
Ông già mù nói:
- Lão là ông nó, người ông vô dụng, người ông chết tiệt!...
Người thanh niên lại hỏi:
- Cha mẹ nó đâu?
Ông lão mù nói:
- Chết rồi, chết cả rồi. Người đáng chết thì chẳng chết, người không đáng chết thì lại chết, thưa ông, xin ông làm ơn đem cháu đi, lão không lấy xu nào đâu, chỉ xin ông cho cháu con đường sống!...
Người thanh niên quay sang xì xồ với bà đầm, bà đầm gật đầu, người thanh niên cúi xuống định kéo tay con bé, nhưng khi bàn tay vừa chạm vai thì con bé cắn ngay một miếng vào cổ tay anh tạ Anh ta rú lên, nhảy lùi lại. Bà đầm trọn mắt nhún vai, rồi dùng chiếc khăn tay bịt miệng, băng cổ tay cho anh ta.
Với tâm trạng không rõ là sợ hay là mừng, chúng tôi chờ như đến một nghìn năm, bà ngoại quốc vàng ngọc đầy người, nước hoa điếc mũi cùng với người thanh mến bị thương ở cổ tay, rốt cuộc đã dừng trước gia đình tôi. Và, sau lưng chúng tôi, ông lão mù đang vung gậy trúc đánh đứa cháu gái cắn nó. Con bé nhanh nhẹn chơi trò ú tim với ông nó, khiến cây gậy lúc thì vụt xuống đất, lúc vụt vào tường.
- Mi là cái số ăn mày! - Ông lão mù than thở.
Tôi hít lấy hít để mùi nước hoa, từ mùi hoa hòe nhận ra mùi hoa hồng, rồi từ mùi hoa hồng nhận ra mùi thoang thoảng của hoa cúc. Nhưng làm tôi mê mẩn chính là mùi tỏa ra từ cặp vú của bà ta, cái mùi hăng hăng khiến tôi lợm giọng, nhưng tôi vẫn hếch mũi hít lấy hít để. Không còn khăn tay, miệng bà lộ rõ hoàn toàn, một cái miệng rộng như của chị Lai Đệ, với đôi môi mọng như của chị Lai Đệ. Môi to son, mũi có những điểm tương đồng như mũi của các con gái nhà Thượng Quan: mũi dọc dừa. Chỗ không giống nhau là chóp mũi con gái nhà Thượng Quan có hình củ hành, ngây thơ mà dáng yêu, còn chóp mũi của người đàn bà ngoại quốc này thì khoằm xuống như mỏ diều, một loài chim ăn thịt. Trán ngắn, mỗi khi nhường mắt lên, trên trán hằn sâu những nếp nhăn. Tôi biết mọi người đang chăm chú nhìn người đàn bà ngoại quốc, nhưng tôi có thể tự hào mà nói rằng, không ai quan sát tinh tế hơn tôi, không ai thu hoạch nhiều hơn tôi. ánh mắt tôi xuyên qua lớp lông dày trên cơ thể bà ta, nhìn thấy cặp vú to bằng vú mẹ tôi mà vẻ đẹp của chúng khiến tôi quên cả đói rét.
- Vì sao bà phải bán con? - Người thanh niên giơ cánh tay quấn băng, chỉ vào các chị của tôi có cài cọng cỏ sau gáy
Mẹ không trả lời câu hỏi của anh tạ Chẳng lẽ trả lời một câu hỏi ngu xuẩn như vậy. Anh ta ngoảnh lại xì xồ với người đàn bà ngoại quốc, có thể là bà chủ cũng có thể là không của anh tạ Bà ta chú ý ngay chiếc áo lông điêu ủ cho con gái Lai Đệ. Bà ta sờ mặt áo, bắt gặp cặp mắt man dại và u sầu của con bé, bà ta vội quay đi.
Tôi rất muốn mẹ cho bà ta đứa con gái của Lai Đệ.
Chúng tôi cũng không lấy một xu, còn tặng thêm bà ta chiếc áo lông điêu. Tôi ghét con bé. Nó không có lý gì để ăn chia sữa mẹ với tôi. Ngay cả chị Tám cũng không đủ tư cách ăn chia, huống hồ nó! Hai bầu vú của chị Lai Đệ để làm gì? Sa Nguyệt Lương nhả đầu vú chị Lai Đệ, nhố máu cục ra, súc miệng bằng nước lã. Anh ta nói:
- Phải vậy thôi! Em bị chốc vú!
Chị Lai Đệ nước mắt ràn rụa, hỏi:
- Anh Lượng, chúng mình như con thỏ bị chó săn dồn đuổi, bao giờ mới kết thúc những chuyện này?
Sa Nguyệt Lượng ngồi hút thuốc, suy nghĩ rất lung nét mặt trở nên hung hãn, nói:
- Mẹ kiếp, ai có sữa người ấy là mẹ. Hãy chạy theo Nhật, hay thì ở dở thì xéo!
Bà ngoại quốc ngắm nghía các chị tôi một lượt, đầu tiên là chị Năm, chị Sáu, vì sau gáy có cắm cỏ, sau đó xem chị Tư, chị Bảy, chị Tám không có cỏ sau gáy, không thèm ngó thằng mất dạy nhà Tư Mã. Hình như bà có vẻ thích tôi. Tôi cho rằng ưu thế của tôi là cái đầu tóc vàng mềm mại. Cách thức xem xét của họ cũng rất lạ. Người thanh niên ra lệnh cho các chị tôi lần lượt thực hiện các động tác sau: cúi đầu, cúi gập người, hất chân, tay nọ nắm tay kia rồi giơ cao quá đầu, dưa hai vai ra trúc, ra sau, há to miệng kêu a... a... , cười một tiếng, đi vài bước, chạy vài bước. Các chị ngoan ngoãn thực hiện mệnh lệnh của anh tạ Bà ngoại quốc nhìn chăm chú, lúc gật gật, lúc lại lắc đầu. Cuối cùng bà chỉ vào chị Bảy, xì xồ với người thanh niên.
Người thanh niên chỉ vào bà ngoại quốc, bảo mẹ:
- Đây là bá tước phu nhân Roxtov, bà là một nhà từ thiện lớn. Bà muốn nhận một bé gái Trung Quốc làm con nuôi. Ưng đứa này, phúc cho gia đình bác!
Mẹ bỗng ứa nước mắt, chuyển con bé của Lai Đệ cho chị Tư, đang tay ôm lấy đầu chị Bảy:
- Bảy ơi, Cầu Đệ Ơi, con yêu của mẹ, con gặp may rồi!
Nước mắt mẹ tôi như mưa xuống đầu chị Bảy. Chị sụt sịt khóc:
- Mẹ Ơi, con không đi với bà đâu, người bà ấy khó ngửi lắm...
Mẹ nói:
- Con ngốc nghếch của mẹ, người ta thơm đấy con ạ!
Người thanh niên sốt ruột, nói:
- Thôi bác bàn chuyện giá cả đi!
Mẹ nói:
- Thưa ông, được làm con nuôi của bà đây thì chuột sa chĩnh gạo, tôi không lấy tiền đâu... Chỉ xin đối xử tốt với cháu!
Anh thanh niên dịch lại cho bà ngoại quốc nghe, bà ngọng nghịu nói bằng tiếng Trung Quốc:
- Không, vẫn cứ cho tiền.
Mẹ hỏi: - Thưa ông, ông hỏi bà phu nhân xem có thể nhận một đứa nữa không? Cho chúng có chị có em!
Người thanh niên dịch lại. Phu nhân Roxtov dứt khoát lắc đầu.
Người thanh niêndúi vào tay mẹ hơn chục tờ tiền giấy màu phấn hồng, rồi vẫy vẫy người đánh xe. Người đánh xe chạy tới, cúi chào anh thanh niên.
Người đánh xe bế chị Bảy ra xạ Lúc này chị mới khóc òa lên và giơ cánh tay khẳng khiu về phía mẹ. Các chị khóc òa theo, ngay cả thằng nhóc đáng thương nhà Tư Mã cũng nhếch miệng òa lên một tiếng, lát sau lại òa tiếng nữa. Người đánh xe đùn chị Bảy vào trong xe. Bà ngoại quốc cũng vào theo, lúc người thanh niên sắp lên xe, mẹ đuổi kịp, kéo tay anh ta, hỏi:
- Thưa ông, phu nhân ở đâu?
Anh ta trả lời lạnh nhạt:
- Cáp Nhĩ Tân.
Xe chạy lên đường cái quan, mất hút rất nhanh sau khu rừng. Nhưng tiếng gào khóc của chị Bảy, tiếng leng keng của nhạc ngựa, mùi hương trên vú của Bá tước phu nhân đọng mãi trong ký ức tôi.
Mẹ đã biến thành tượng đất, tay vẫn giơ cao nắm tiền, tôi cũng biến thành một bộ phận của tượng.
Đêm ấy chúng tôi không ngủ ngoài đường mà trọ trong một quán trọ. Mẹ sai chị Tư chạy đi mua hơn chục cái bánh mì. Chị lại mua về bốn mươi cái bánh bao, một gói thịt thủ lợn. Mẹ giận, nói:
- Con Tư, đây là tiền bán em mày đấy!
Chị Tư vừa khóc vừa nói:
- Mẹ, để các em ăn một bữa cho no, mẹ cũng phải ăn một bữa ho.
Mẹ vừa khóc vừa nói:
- Tưởng Đệ, mẹ làm sao nuốt nổi bánh này, thịt này...
Chị Tư nói:
- Mẹ không ăn gì thì Kim Đồng chết mất!
Lời khuyên của chị Tư rất có kết quả, mẹ kìm nước mắt ăn lấy được chỗ bánh bao và thịt để có sữa cho tôi, và cũng là có sữa cho con gái chị Lai Đệ và Sa Nguyệt Lượng, cái đồ cường đạo ấy, tối tối dùng bữa với bọn Nhật!
Mẹ Ốm rồi.
Mẹ nóng như lò than, đến nỗi Kim Đồng không lúc nào rời lưng mẹ cũng phải bỏ cuộc. Chúng tôi ngồi vậy quanh mẹ, chỉ biết giương mắt nhìn nhau. Mẹ nhắm mắt, bọt rãi trong suốt đùn ra hai bên mép, mẹ lắp bắp những câu ghê người, lúc thì gào toáng lên, lúc lại lẩm bẩm một mình. Có lúc nói oang oang phấn khởi, lúc lại đau xót kể lể. Thượng đế, Đức Mẹ đồng trinh, thiên sứ, ma quỉ, Thượng Quan Thọ Hỉ, mục sư Malôa, ông Ba Phàn, Tư Vu, dì lớn, cậu Hai, ông ngoại, bà ngoại... ma quỉ Trung Quốc và thần linh nước ngoài, người còn sống và người đã chết, những chuyện chúng tôi biết và những chuyện chúng tôi chưa biết, tuôn ra như suối từ miệng mẹ, lắc lư, uốn éo, làm diệu làm bộ, biến ảo trước mắt chúng tôi.
Tìm hiểu những câu nói mê của mẹ chồng khác tìm hiểu vũ trụ, ghi lại những điều nói mê của mẹ thì cầm bằng ghi lại toàn bộ lịch sử vùng Cao Mật.
Chủ quán, một người đàn ông trung niên da bèo nhèo, mặt đầy nốt ruồi, bị đánh thức vì tiếng rên la của mẹ. Ông ta vào buồng, sờ trán mẹ, lập tức rụt tay lại, nói:
- Đi mời thầy thuốc mau, khéo chết mất!
Ông nhìn chúng tôi hỏi chị Tư:
- Cô là chị Cả phải không?
Chị Tư gật đầu, ông hỏi:
- Tại sao không mời thầy thuốc? Này, sao cô không nói gì thế!
Chị Tư khóc òa lên, quì sụp trước mặt chủ quán, nói:
- Bác ơi, bác cứu mẹ cháu với?
Ông chủ quán nói:
- Tôi hỏi cô nhé, cô có bao nhiêu tiền?
Chị Tư lục túi mẹ, lấy ra mấy tờ tiền giấy đưa cho ông chủ quán:
- Bác ơi, đây là tiền bán em Bảy cháu?
Chủ quán cầm tiền, nói:
- Cô đi theo tôi. Đi mời thầy thuốc? -
Tiêu hết số tiền bán chị Bảy, mẹ mới mở được mắt. Mẹ mở mắt rồi, mẹ mở được mắt rồi? Chúng tôi rưng rung nước mắt, reo ầm lên. Mẹ giơ tay sờ mặt từng đứa.
- Mẹ, mẹ, mẹ, mẹ?... - chúng tôi gọi.
- Bà ngoại ơi, bà ngoại!...
Thằng nhóc đáng thương nhà Tư Mã cũng lắp bắp.
- Nó đâu? Nó... Mẹ chìa một tay ra, hỏi.
Chị Tư bế con bé được bọc trong cái áo lông điêu tới trước mặt để mẹ xoa đầu nó. Khi mẹ xoa đầu, nó nhắm mắt lại. Hai giọt nước mắt của mẹ ứa ra.
Ông chủ quán với bộ mặt rầu rĩ bước vào, bảo chị Tư:
Này cô, không phải tôi nhẫn tâm, nhà tôi cũng nhiều miệng ăn! Mười mấy ngày nay, nào tiền trọ, tiền cơm, tiền đầu đèn...
Chị Tư nói:
- Bác ơi, bác là ân nhân của gia đình cháu. Cháu nhất định sẽ trả bác đầy đủ, chỉ xin bác đừng đuổi mẹ cháu đi, mẹ cháu!...
Buổi sáng ngày Mười tám tháng Hai năm Một nghìn chín trăm bốn mươi mốt, Thượng Quan Tưởng Đệ đưa cho mẹ vừa khỏi bệnh một xấp tiền. Chị nói:
- Mẹ, con đã trả đủ nợ của bác chủ quán, chỗ này là tiền thừa...
Mẹ ngạc nhiên, hỏi: - Tưởng Đệ, con lấy đâu ra tiền thế này?
Chị Tư cười như mếu, nói:
- Mẹ cho các em về đi, nơi này không phải là nhà của ta!...
Mặt mẹ trắng nhợt, túm tay chị Tư, hỏi:
- Tưởng Đệ, cho mẹ biết...
Chị Tư nói:
- Mẹ, con đã bán mình rồi, bác chủ quán giúp con mặc cả đến nửa ngày trời...
Mụ chủ chứa kiểm tra toàn thân chị Tư như kiểm tra gia súc, nói:
- Gầy quá.
Ông chủ quán nói:
- Bà chủ ơi, chỉ một bao gạo là béo lên ngay đấy mà! Mụ chủ giơ lên hai ngón tay, nói:
- Hai trăm đồng! Tôi làm phúc để lấy đức!
Chủ quán nói:
- Bà chủ ơi, cô này có mẹ đang đau nặng, lại còn một đàn em, trả thêm cho cô ấy đi!
Bà chủ nói:
- Thời buổi này làm việc thiện khó quá!
Chủ quán nài nỉ, chị Tư quì sụp xuống. Bà chủ nói:
- Thôi được, tôi hay thương người, thêm một trăm nữa, kịch giá rồi đấy.
Mẹ lảo đảo rồi ngã sóng soài ra nhà. Khi ấy, chúng tôi nghe một giọng khàn khàn ngoài cửa:
- Đi nào cô bé. Ta không có nhiều thì giờ đợi cô đâu!
Chị Tư quì xuống, dập đầu lạy mẹ một lạy. Rồi chị đứng dậy xoa đầu chị Năm, vuốt má chị Sáu, kéo tai chị Tám, vội vàng nâng cằm tôi thơm một cái. Chị bóp nhẹ hai vai tôi, nỗi xúc động khiến khuôn mặt chị như hoa mai trong gió tuyết.
- Kim Đồng ơi, Kim Đồng - chị nói - em lớn mau lên, lớn nhanh lên, nhà Thượng Quan ta trông vào mỗi mình em!
Nói xong, chị nhìn quanh căn buồng, yết hầu nhô ra ở cổ như cổ gà. Chị bung miệng như buồn nôn, chạy vụt ra rồi mất hút không thấy nữa.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 16
Chúng tôi cho rằng, về đến nhà là trông thấy thi thể của chị Lãnh Đệ và bà nội, nhưng quang cảnh trước mắt hoàn toàn khác với dự đoán.
Trong sân cực kỳ ồn ào. Hai người đàn ông đầu cạo trọc, ngồi tựa lưng vào tường của gian chính, căm cúi vá quần áo đường khâu rất thành thạo. Hai người nữa, ngồi liền kề hai người vá quần áo, cũng đầu cạo trọc bóng loáng, cũng thái độ nghiêm chỉnh như thế, lúi húi lau hai khẩu súng đen bóng. Lại còn hai người nữa, một người đứng dưới cây ngô đồng, tay cầm lưỡi lê sáng loáng, người kia ngồi trên ghế đẩu, đầu cúi xuống, trên đầu đầy bọt xà phòng. Người cầm lưỡi lê nhún chân, liếc lưỡi lê vào quần mấy cái, rồi một tay giữ lấy cái đầu đầy xà phòng, tay kia giơ lưỡi lê ướm thử như tìm vị trí mở đầu. Rồi anh ta đặt lưỡi lê vào giữa đỉnh đầu, cạo một nhát từ đỉnh xuống gáy. Một mảng tóc đẫm bọt xà phòng rơi xuống, một mảng da đầu trắng hếu lộ ra. Còn một người nữa, tay cầm chiếc búa có cán dài ở chỗ nhà tôi vẫn cất lạc, trước mặt anh ta là một gốc cây dụ Sau lưng là một đống củi đã bổ. Anh ta dạng chân, giơ cao chiếc búa, dừng lại trên không một thoáng rồi bổ mạnh xuống cùng với tiếng hự thốt ra từ miệng. Lưỡi búa cắm ngập vào gốc cây. Anh ta dùng một chân chặn gốc cây cố súc rút lum búa, lùi lại hai bước, chuẩn bị tư thế, nhổ nước bọt vào lòng bàn tay rồi lại giơ búa lên. Cái gốc cây du nút toác một mảnh gỗ văng ra như vỏ đạn pháo, bắn trúng ngực Phán Đệ khiến chị hét toáng lên. Những người đang may vá và lau súng đều ngẩng đầu lên. Những người cạo đầu và bổ củi đều quay lại. Người ngồi cạo đầu ngẩng đầu lên nhưng bị người cạo đầu hộ dùng tay ấn xuống.
- Đừng cựa? - anh ta nói.
Người bổ củi nói:
- Ăn mày đến kìa! ăn mày đến kìa? Anh Trường ơi, những người đi ăn xin đây này!
Một người mặc tạp dề trắng, đội mũ xám, mặt đầy vết nhăn từ trong nhà chạy ra. Tay áo anh ta xắn rất cao, tay dính đầy bột, vẻ thân thiện:
- Chào bác Bác đi cửa khác mà xin, bộ đội chúng tôi ăn theo định suất, không bớt ra để cho được!
Mẹ điềm nhiên nói: - Đây là nhà của tôi!
Những người trong sân đứng ngẩn ra. Người đầy bọt xà phòng trên đầu nhảy dựng lên, kéo vạt áo lau những vết bẩn trên mặt, ú a ú ớ với chúng tôi. Anh ta là Tôn câm, con cả nhà họ Tôn.
Tôn câm chạy đến trước mặt chúng tôi, miệng ú ớ, tay làm hiệu rất nhiều điều mà chúng tôi không hiểu. Chúng tôi ngượng ngập nhìn khuôn mặt thô kệch như đẽo bằng rìu, trong lòng vẩn lên một nỗi lọ Tôn câm chớp chớp con người màu vàng xỉn, cằm dưới bạnh ra, miệng lập bập liên hồi. Anh ta chạy vào chái phía đông, cầm chiếc bát sứ men xanh và bức họa con chim ra khoe với chúng tôi. Người cạo đầu cho anh ta, cầm lưỡi lê đi tới, vỗ vai Tôn câm hỏi:
- Tôn câm, anh quen họ hả? Tôn câm đặt chiếc bát xuống, cầm mẩu củi viết nguệch ngoạc trên mặt đất hàng chữ xiên xẹo, thiếu cả nét:
- Bà ấy là mẹ vợ tôi!
- Thì ra bác đã trở về!
Người cạo đầu nhiệt tình nói:
- Chúng tôi là tiểu đội Năm, trung đội Một, đại đội phá đường sắt. Tôi là tiểu đội trưởng, họ Vương. Đại đội tôi về chỉnh quân ở đây, chiếm dụng nhà của bác, thật không phải quá. Con rể bác, chính ủy chúng tôi đã đặt cho một cái tên: Tôn Bất Ngôn. Anh là một chiến sĩ giỏi, anh dũng chiến dấu không sợ chết, là tấm gương cho chúng tôi học tập. Bác ơi, chúng tôi dọn khỏi buồng chính ngay bây giờ. Lão Lã, Tiểu Đỗ, Triệu Đại Ngưu, Tôn Bất Ngôn, Tần Tiểu Thất, dọn đồ đạc mau, để cho bác thu xếp giường chiếu!
Binh lính bỏ dở việc đang làm, đi vào gian chính. Họ đeo trên lưng những chiếc chăn gập vuông vức, quấn xà cạp vào chân, xỏ giày - loại giày vải đế nhiều lớp, khoác súng trường lên vai, cổ đeo mìn, xếp hàng ngay ngắn ngoài sân. Tiểu đội trưởng nói với mẹ:
- Mời bác vào nhà. Mọi người đợi ở đây, tôi đi thỉnh thị chính ủy.
Các chiến sĩ rất có kỷ luật, ngay cả anh chàng Tôn câm mà bây giờ gọi là Tôn Bất Ngôn cũng đứng thẳng đơ như một cây thông. Tiểu đội trưởng xách súng chạy đi. Chúng tôi vào trong nhà. Trong chảo đã bắc thêm hai ngăn bằng tre và cây sậy. Củi trong lò cháy rừng rục. Nước trong chảo sôi ùng ục, hơi nước bốc lên mờ mịt. Chúng tôi ngủi thấy mùi thơm của bánh bao. Bác cấp dưỡng gật đầu chào mẹ với vẻ biết lỗi. Bác rất hiền. Bác cho củi vào lò.
- Tha lỗi cho chúng tôi về việc đã tự tiện cải tạo cái bếp.
Bác chỉ cái rãnh sâu trước cửa lò, nói:
- Hàng chục cái quạt cũng không bằng một cái rãnh này! Ngọn lửa phần phật, chỉ e trôn chảo bị nung chảy.
Chị Lãnh Đệ mặt đỏ hồng ngồi trên ngưỡng cửa, mắt lim dim, chăm chú nhìn hơi nước phụt qua kẽ nắp cuồn cuộn bay lên, càng nhìn càng thấy đẹp
- Lãnh Đệ! - Mẹ thử gọi.
- Chị Ba ơi, chị Ba! - Chị Năm, chị Sáu gọi.
Chị Lãnh Đệ thờ ở nhìn chúng tôi, làm như chưa hề quen nhau, chưa hề có đợt xa nhau vừa rồi.
Mẹ nhìn căn buồng thu dọn sạch sẽ, cảm thấy áy náy, lại kéo chúng tôi ra sân.
Tôn câm đứng trong hàng, nhăn mặt làm trò với chúng tôi. Thằng nhóc Tư Mã mạnh dạn sờ chân quấn xà cạp cứng như gỗ của các chú lính.
Tiểu đội trưởng dẫn về một người đàn ông tuổi trung niên, giới thiệu với mẹ:
- Thưa bác, đây là chính ủy Tưởng.
Chính ủy có khuôn mặt trắng trẻo, không để râu, thân hình tầm thước, thắt lưng da to bản, túi ngực cài chiếc bút máy. Ông lịch sự gật đầu chào chúng tôi, lấy trong xắc cốt một nắm kẹo xanh đỏ, nói:
- Các cháu ăn kẹo đi.
Rồi ông chia kẹo cho chúng tôi, con bé bọc trong áo lông điêu cũng được chia hai cái do mẹ nhận hộ. Đây là lần đầu tiên tôi được biết mùi vị của kẹo. Chính ủy nói:
- Bác ơi, xin bác cho tiểu đội này ở nhờ hai chái đông và tây?
Mẹ gật đầu, đờ đẫn.
Chính ủy vén tay áo xem đồng hồ, hỏi to:
- Lão Trương, bánh bao được chưa?
Lão Trương chạy ra:
- Chín rồi ạ.
Chính ủy nói:
- Anh lấy bánh cho các cháu ăn. Cứ để các cháu ăn thỏa thích.
- Lát nữa tôi bảo Tư vụ trưởng bổ sung mức ăn cho các anh.
Lão Trương dạ luôn miệng.
Chính ủy bảo mẹ:
- Đại đội trưởng của chúng tôi muốn gặp bác. Mời bác đi cùng tôi.
Mẹ định trao con bé cho chị Năm. Chính ủy giơ tay ngăn lại, nói:
- Không, bác cứ bế cháu bé đi.
Chúng tôi, thực ra là chỉ mẹ tôi, đi theo chính ủy. Mẹ địu tôi trên lưng, bế con bé đằng trước, đi dọc theo ngõ ra phố, đến nhà Phúc Sinh Đường. Hai lính gác vội đứng nghiêm, bồng súng chào. Chúng tôi đi qua các phòng thông nhau, cuối cùng vào đến đại sảnh, chính giữa bày bàn bát tiên màu huyết dụ, trên bàn bày hai đĩa lớn, một đĩa là thịt gà rừng, đĩa kia là thịt thỏ rừng, một làn đầy bánh bao. Một người râu quai nón tươi cười ra đón, nó:
- Xin chào, xin chào!
Chính ủy giới thiệu:
- Thưa bác, đây là đại đội trưởng Lỗ!
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Nghe nói bác cũng họ Lỗ. Năm trăm năm trước chúng ta là một nhà!
Mẹ hỏi:
- Thưa quan lớn, chúng tôi phạm tội gì?
Đại đội trưởng ngớ ra, cuối sảng khoái, bảo mẹ:
- Bác hiểu lầm rồi? Mời bác đến đây chăng có ý gì khác. Mười năm trước, tôi và Sa Nguyệt Lượng là bạn nối khố. Sa Nguyệt Lượng là con rể bác. Vì vậy nghe tin bác trở về, cho đặt tiệc tây trần mời bác.
Mẹ nói:
- Anh ta không phải con rể tôi.
Chính ủy nói:
- Bác giấu làm gì? Bác đang bế con của Sa Nguyệt Lượng đấy thôi!
Mẹ nói:
- Đây là cháu tôi.
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Hãy ăn đã. Xem chừng bà cháu đói cả rồi.
Mẹ nói:
- Thưa quan lớn, chúng tôi về đây?
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Bác đừng vội đi, Sa Nguyệt Lượng có nhờ tôi giúp anh ta trong việc nuôi cháu bé. Anh ta biết bác có khó khăn. Cô Đường đâu rồi?
Một nữ binh xinh đẹp nhanh nhẹn bước ra.
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Bế lấy em bé cho bác, để bác xơi cơm!
Cô nữ binh bước tới trước mặt mẹ, giơ hai tay ra. Mẹ kiên quyết:
- Đây không phải con gái Sa Nguyệt Lượng. Đây là cháu tôi!
Chúng tôi đi trở lại các phòng thông nhau, ra phố, rẽ vào ngõ trở về nhà.
Liên tiếp mấy ngày sau, cô nữ binh có tên là Đường nhiều lần đem thực phẩm, quần áo đến nhà tôi. Những thùng bánh bích qui, mà mỗi cái bánh là một hình con vật: chó, mèo, hổ... , sữa bột đựng trong bình thủy tinh, mật ong trong suốt đựng trong vò sành. Quần áo bằng tơ lụa, vải bông viền dăng ten, mũ bằng lông thỏ còn nguyên cả hai tai dài dài. Những thứ này cô nói, đều là của đại đội trưởng Lỗ và chính ủy Tưởng gửi cho cháu gái. Cô chỉ vào con bé mẹ đang bế:
- Đương nhiên, em bé trai có thể cùng ăn - cô lại chỉ vào tôi nói vậy.
Mẹ thản nhiên nhìn cô Đường quá nhiệt tình, mặt hồng hào như quả táo, mắt như hai hạt hạnh. Mẹ nói:
- Cô đem những thứ này đi. Chúng tôi con nhà nghèo, không xài được của tốt đến thế!
Mẹ cầm hai đầu vú, một đầu nhét vào miệng tôi, một đầu nhét vào miệng con gái Sa Nguyệt Lượng. Nó đắc ý rên hừ hừ, tôi căm giận rên lên hừ hừ. Nó đập tay vào đầu tôi, tôi đạp cho nó một cái vào mông, nó ề à khóc. Tôi còn loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc dai dẳng, mảnh như sợi tơ của chị Ngọc Nữ, tiếng khóc mà mặt trời và mặt trăng đều lắng nghe vì nó ngọt hơn ánh nắng và thơm như ánh trăng.
Cô Đường nói rằng, chính ủy Tưởng đã đặt cho cô bé một cái tên. Ông ta là trí thức, tốt nghiệp đại học Triều Dương Bắc Bình, văn hay vẽ giỏi, rất giỏi tiếng Anh. Tên là Sa Tảo Hoa được đấy chứ!
- Bác ơi, bác đừng nghi ngại gì hết. Đại đội trưởng Lỗ là con người tốt. Nếu các ông ấy định cướp con bé thì dễ như trở bàn tay.
Cô Đường lấy trong bọc ra chiếc bình sữa bằng thủy tinh trên miệng có núm cao su màu vàng nhạt. Cô đổ mật ong và sữa bột màu trắng vào cái bát, đổ nước sôi vào, khuấy đều. Tôi đã có lần ngửi thấy mùi sữa này, đó là mùi ở vú bà ngoại quốc hôm bà đem chị Tưởng Đệ đi. Cô đổ sữa vào bình, nói với mẹ:
- Bác đừng cho nó bú chung với em trai, bác sẽ kiệt sức mất! Để cháu cho nó ti chai. Cô vừa nói vừa bế lấy Sa Tảo Hoa. Sa Tảo Hoa mút dài vú mẹ như cái dây cung của Hàn Chim. Cuối cùng núm vú tuột ra, co lại từ từ y hệt con đỉa bị nước đái, rất lâu mới trở lại hình dáng cũ. Tôi đau khổ là vì bầu vú, tôi căm giận Sa Tảo Hoa cũng là vì bầu vú. Nhưng con tiểu yêu này đã ti như điên, uống ừng ực từ cái bầu vú giả, ti ngon lành nhưng tôi không thèm. Một lần nữa, bầu vú của mẹ lại thuộc về tôi. Đã lâu tôi chưa bao giờ ngủ yên và ngủ ngon đến thế. Giấc mơ đã thay cho cái miệng của tôi, đắm đuối và hạnh phúc, toàn một mùi thơm của sữa! Tôi ngủ liền một mạch ba ngày.
Do vậy, tôi vô cùng cảm kích cô Đường. Hai bầu vú đội ngực áo quân phục khiến tôi cảm thấy cô vô cùng khả ái, tuy rằng vú của cô là loại vú bánh dầy, nhưng hình dáng vẫn là vú. Cho Tảo Hoa ăn xong, cô Đường mở cái bọc bằng áo lông điêu, một mùi khai như mùi lông chồn xông lên. Tôi nhìn thấy là da Sa Tảo Hoa trắng như sữa. Không ngờ con bé mặt đen như than mà da lại trắng đến thế. Cô Đường mặc quần áo, đội mũ, trang điểm cho Sa Tảo Hoa thành một cô bé xinh xắn. Cô Đường gạt cái áo lông điêu sang một bên, hai tay xốc nách Sa Tảo Hoa tung lên trời rồi đón lấy. Sa Tảo Hoa cười khanh khách. Thật không ngờ, tôi cảm thấy cô cháu ngoại này cũng có phần đáng yêu.
Cơ thể mẹ căng lên, chuẩn bị tư thế cướp lại Sa Tảo Hoa bất cứ lúc nào. Cô Đường trao trả Sa Tảo Hoa cho mẹ, nói:
- Bác ơi, Tư lệnh Sa mà nhìn thấy con bé thì chắc là vui lắm.
- Tư lệnh Sả Mẹ ngỡ ngàng nhìn cô Đường.
- Bác ơi, bác chưa biết đấy thôi. Con rể bác bây giờ là Tư lệnh cảnh vệ thành phố Bột Hải, hơn ba trăm người dưới quyền, có cả một chiếc xe Jeep Mỹ! - Cô Đường nói.
(đoạn đánh dấu dưới đây, không ăn nhập với bất kỳ tình tiết nào trong bài, có thể người dịch đã bỏ sót một đoạn dài hoặc nhà xuất bản có lỗi khi in- LENA)
Sa Nguyệt Lượng xé vụn bức thư, gầm lên:
- Lỗ- đại-bác, Tưởng-bốn-mắt, dùng tưởng bở!
Sứ giả của đại đội bộc phá từ tốn nói:
- Thưa ông Tư lệnh, thiên kim tiểu thư của ông, chúng tôi rất mến! Giam giữ con tin, vậy bản lãnh ở đâu?
Sa Nguyệt Lượng nói:
- Bảo Lỗ-tướng có giỏi thì đem quân đến đánh Bột Hải?
Sứ giả nói:
- Ông Tư lệnh không nên quên quá khứ vẻ vang của mình?
Sa Nguyệt Lượng nói:
- Ta đây thích đánh Nhật thì đánh, thích hàng Nhật thì hàng, thằng nào dám làm gì ta, còn lảm nhảm thì chớ trách!
Cô Đường lôi ra chiếc lược nhựa đỏ, chải đầu cho chị Năm, chị Sáu. Khi chải đầu cho chị Sáu, chị Năm nhìn cô với vẻ say mệ ánh mắt chị Năm như chiếc lược, chải tù đầu xuống chân, rồi chải từ chân lên đầu cô Đường. Khi cô Đường chải đầu cho chị Năm, thì trên mặt trên cổ chị Sáu nổi da gà. Chải xong, cô Đường ra về. Chị Năm bảo mẹ:
- Mẹ, con muốn đi bộ đội?
Hai hôm sau, chị Năm mặc quân phục, công tác chủ yếu của chị là cùng cô Đường thay tã lót và cho Sa Tảo Hoa bú sữa.
Đây là thời kỳ đẹp nhất trong cuộc đời tôi, như bài hát lưu hành lúc bấy giờ. Em ơi buồn làm chi, Hãy cùng đồng chí ra đi, Rau cải thìa nấu cùng thịt lợn, Chảo bốc hơi đầy ắp màn thầu... Rau cải thìa nấu với thịt lợn không thường xuyên, màn thầu trắng cũng không thường xuyên, nhưng củ cải om cá khô thì lúc nào cũng có, bánh bột ngô to bự thì lúc nào cũng có. Hạn hán không thể chết đói, đói không đến lính tráng!
Mẹ than thở:
- Tưởng Đệ Ơi, Cầu Đệ Ơi, các con tội nghiệp của me...
Mẹ rơi nước mắt khi nghe tiếng hát của chị Năm và tiếng cười vui vẻ của chị Sáu. Trong thời gian này, sữa của mẹ đặc biệt tốt và nhiều, Kim Đồng từ trong túi vải nhảy ra ngoài, đã đi được hai mươi bước, đi được năm mươi bước, đi được một trăm bước, không bò nữa. Miệng tôi cũng không ngượng ngập nữa, chửi người như ranh. Khi Tôn câm nắm lấy chim, tôi chửi liền:
- Đ. mẹ mày!
Chị Sáu theo học lớp xóa nạn mù chữ, hát: Mười tám, chị đi bộ đội, đi bộ đội vẻ vang biết mấy! Cắt đánh soạt vứt bỏ đuổi sam, chải lật tóc rẽ thành hai mái? Canh gác tuần tra khắp nẻo đường. Hán gian đặc vụ chạy té đái.
Lớp học đặt trong nhà thờ. Những ghế băng được sửa chữa ngay ngắn, những đống phân lừa được dọn sạch. Thiên sứ có cánh đã bay đi. Tượng Chúa Giêsu bằng gỗ táo đã bị lấy cắp. Trên tường treo bảng đen, trên bảng viết chữ trắng. Cô Đường gõ thước lên bảng cồm cộp, chống... Nhật... chống... Nhật. Các bà phụ nữ vừa cho con bú vừa khâu đế giày hoặc bện thừng. Chống Nhật... chống Nhật... Tôi nhảy cà chớn giữa các bà phụ nữ, len lỏi giữa bầy vú đủ các loại. Chị Năm nhảy lên bục, nói:
- Nhân dân là nước, bộ đội con em của dân là cá, đúng không nào?
- Đúng. - Cá sợ nhất gì nào?...
- Cá sợ gì nhỉ? Cá sợ lưỡi câu? Cá sợ chim bói cá? Cá sợ rắn nước?...
- Cá sợ lưới! Đúng rồi, cá sợ nhất là lưới? Sau gáy các bà các chị là cái gì vậy?
- Là cái búi tó.
- Trên búi tó có gì vậy?
- Là cái lưới.
Đám phụ nữ chợt tỉnh ngộ, mặt đỏ ửng, ghé tai nhau thì thào, cười rúc rích. Cắt phăng mái tóc, vút bỏ lưới, bảo vệ đại đội trưởng Lỗ và chính ủy Tưởng, bảo vệ đội bộc phá do hai người chỉ huy.
- Ai xung phong nào?
Chị Phán Đệ giơ cao cái kéo, còn dùng những ngón tay búp măng mở đóng kéo xoành xoạch như hàm con cá mập đang đói. Cô Đường nói:
- Thử nghĩ coi, các bà các bác, các cô các dì, các chị các em thử nghĩ coi, phụ nữ chúng ta bị ba ngàn năm áp bức, giờ đây đã đến lúc vùng lên! Hồ Tần Liên, chị cho biết, tên ma men Nhiếp-Nửa-Hũ chồng chị, còn dám đánh chị nữa không?
Một nữ thanh niên mặt vàng như nghệ bế con đứng dậy ngó nữ binh Đường và nữ binh Thượng Quan hiên ngang trên bục, rồi vội vàng cúi xuống, nói:
- Không đánh nữa.
Nữ binh Đường vỗ tay:
- Các bà các chị nghe rõ chưa, ngay cả Nhiếp-Nửa-Hũ cũng không dám đánh vợ nữa. Hội Phụ nữ cứu quốc là nhà của phụ nữ chúng ta, giải trừ những nỗi bất bình cho chúng tạ Hỡi chị em phụ nữ, cuộc sống bình đẳng hạnh phúc của ta hiện nay do đâu mà có? Từ trên trời rơi xuống chăng? Từ dưới đất đùn lên chăng? Không phải, quyết không phải. Nguyên nhân đích thực chỉ có một: Đó là từ khi đội bộc phá về đây xây dựng căn cứ địa vững chắc như tường đông vách sắt ở thị trấn Đại Lan, ở Cao Mật. Chúng ta đã tự lực cánh sinh, phấn đấu gian khổ để cải thiện cuộc sống, nhất là cuộc sống của phụ nữ. Chúng ta không mê tín kiểu phong kiến, nhưng chúng ta phải gỡ bỏ mọi trói buộc, không chỉ vì đội bộc phá mà vì bản thân chúng tạ Chị em phụ nữ, hãy cắt tóc ngắn, vút bỏ lưới bọc tóc, nhất loạt để tóc rẽ ngôi!
- Mẹ, mẹ xung phong đi! Chị Phán Đệ đưa kéo cho mẹ.
- Phải rồi, bà chị Thượng Quan cắt tóc ngắn thì chúng tôi cũng cắt tóc ngắn. Đám phụ nữ đồng thanh kêu lên.
- Mẹ Ơi, mẹ xung phong đi, cho con gái mẹ mở mày mở mặt! - Chị Năm nói.
Mẹ đảo mắt, đưa đầu về phía chị, nói:
- Cắt đi, Phán Đệ! Miễn là có lợi cho đại đội bộc phá thì đừng nói cắt bím tóc, ngay cả chặt đứt hai ngón tay, mẹ cũng dám chặt.
Chị Năm gỡ búi tóc của mẹ ra. Một cuộn lớn tóc đen thả dần trên cổ trên lưng mẹ như một dòng suối. Mẹ có những nét giống hoàn toàn Đức mẹ Ma ria trên tường, nghiêm trang, u sầu, lặng lẽ, dâng hiến với vẻ cam chịu và tự nguyện. Đó chính là tôn giáo, một đứa trẻ bụ bẫm hồng hào sinh trong máng cỏ. Ngôi nhà thờ mà tôi từng chịu lễ rửa tội có mùi phân vừa mục, cảnh tượng tôi nằm trong bồn nước cùng chị Tám lại hiện ra trước mắt. Đức mẹ chưa bao giờ giấu cặp vú, còn vú của mẹ tôi thì lại nửa che nửa đậy.
- Phán Đệ, cắt đi con, còn chần chừ gì nữa? Mẹ nói.
Thế là chị Năm mở rộng lưỡi kéo ngoạm vào suối tóc của mẹ. Soạt soạt, bím tóc rơi xuống. Mẹ ngẩng đầu lên, tóc mẹ trở thành hai mái chấm đái tai, cái cổ thon dài của mẹ hoàn toàn lộ rõ. Đột nhiên mất đi sức nặng của mái tóc dày, đầu mẹ trở nên linh hoạt, có phần nhanh nhẹn như Tiên Chim, thoắt ngoảnh sang bên này, thoắt ngoảnh sang bên kia. Mặt mẹ đỏ bừng, nữ binh Đường lấy ra chiếc gương nhỏ hình tròn đưa tới trước mặt để mẹ soi, nhưng mẹ ngượng, quay mặt đi, chiếc gương đưa theo, mẹ thẹn thùng khi nhìn thấy mái tóc của mình trong gương thu nhỏ đến chục lần mái đầu cũ. Mẹ lại vội quay mặt đi.
- Đẹp không bác? - Cô Đường hỏi.
- Xấu chết đi được! - Mẹ trả lời khẽ.
- Ngay cả bác Thượng Quan còn cắt tóc ngắn, các vị còn chần chờ gì nữa? - Nữ binh Đường nói to.
Cắt đi vậy thì cắt đi. Cắt đi cho hợp thời. Mỗi khi thay đổi triều đại là lại thay đổi đầu tóc. Triều Thanh, nam giới đều để bím. Cách mạng của ông Tôn Trung Sơn, trước tiên là cắt phăng cái bím. Tóc ngắn rẽ ngôi là sản phẩm của thời đại. Sản phẩm thời đại chính là mốt, mốt chính là cái đẹp. Cắt hộ tôi. Soạt soạt. Tiếng than. Tiếng tặc lưỡi. Tôi cúi xuống nhặt lên một lọn tóc. Tóc rải rác trên mặt đất, đen có, vàng có, thô có, mảnh có. Thô thì vừa cứng vừa đen, mảnh thì vừa mềm vừa vàng. Tóc đầy dưới đất, nhưng chỉ tóc mẹ tôi là đẹp nhất. Tóc mẹ tôi là một loại tóc tiết ra dầu.
Những ngày ấy vui nổ trời, ầm ĩ hơn những ngày Tư Mã Khố triển lãm chiến lợi phẩm đánh cầu đường sắt. Đại đội đường sắt là nơi tập trung nhân tài, hát hay, múa giỏi, thổi tiêu thổi sáo, chơi đàn, có tất. Tất cả những bức tường trong thôn đều kẻ khẩu hiệu chữ tọ Mỗi sáng, đều có bốn thiếu sinh quân trèo lên vọng gác, ngoảnh về phía mặt trời mà luyện kèn báo thức. Lúc đầu thổi như bò rống, dần dà nghe như chó sủa óc ách, cuối cùng nghe khúc chiết, lên bổng xuống trầm, làn diệu hẳn hoi. Các tiểu binh hít đầy lồng ngực, ngửa mặt, cổ vươn dài, phồng miệng lấy hơi. Kèn vàng chóe, dải lụa điều, vừa oai phong vừa đẹp mắt. Trong số bốn lính kèn, một chú đẹp trai nhất tên là Mã Đồng, miệng chúm chím, má lúm đồng tiền, hai vành tai tròn trịa. Chú nhanh nhẹn hoạt bát, môi ngọt như bôi mật ong. Chú triển khai một đợt nhận hơn hai mươi mẹ nuôi. Những bà mẹ nuôi ấy trông thấy chú là cặp vú rung động, chỉ hiềm nỗi không thể nhét núm vú vào miệng chú để chú cắn chú xé. Mã Đồng từng đến nhà tôi, truyền đạt mệnh lệnh gì đó cho tiểu đội trưởng. Hôm ấy tôi đang ngồi xổm dưới gốc cây thạch lựu xem đàn kiến trèo lên cây. Vì tò mò, chú cũng ngồi xuống xem. Chú còn chăm chú hơn tôi, giết kiến thành thạo hơn tôi, chú còn dẫn tôi đến đái vào tổ kiến. Trên đầu chúng tôi là cây lựu nở đầy hoa như những ngọn lửa. Lúc này là tiết đương xuân, tháng Tư, trời xanh xanh, mây trắng như bông, én lượn từng đàn trong gió nam lười nhác.
Mẹ linh cảm rằng, con trai mà đẹp và linh hoạt như Mã Đồng thì đa phần là chết yểu, Thượng đế ban phát cho nó nhiều quá, nó chiếm hết những thuận lợi của giống người, khó có thể đạt tới một kết cục thọ tỉ Nam sơn con cháu đầy đàn. Quả như lời mẹ đoán, một đêm, trời đã về khuya, sao dày đặc, ngoài phố bỗng có tiếng kêu của một thiếu niên:
- Xin đại đội trưởng Lỗ, chính ủy Thắng tha cho cháu lần này... Nhà cháu ba đời độc đinh, ông bà cháu chỉ có mỗi mình cháu là cháu nội, bố mẹ cháu chỉ có mình cháu là con... Cháu bị bắn chết thì gia đình cháu tuyệt tự?.. Mẹ Tôn ơi, mẹ Lý ơi, mẹ Thôi ơi, các mẹ nuôi ơi, ra xin cho cố!... Mẹ Thôi ơi, mẹ là chỗ giao tình với đại đội trưởng, mẹ hãy cứu con!...
Mã Đồng vừa kêu gào vừa đi ra khỏi thôn. Một tiếng nổ rất đanh, rồi tất cả yên lặng. Chú lính kèn đẹp như tiên đồng từ đó mất tăm. Mẹ nuôi nhiều như thế mà vẫn không thoát chết. Tội của chú là lấy trộm đạn đem bán.
Hôm sau, trên đường phố xuất hiện một cỗ quan tài màu đỏ son, một cỗ xe ngựa. Một đám binh sĩ khiêng quan tài lên xe. Cỗ quan tài rất nặng, dày năm tấc bằng gỗ bách, phủ chín lần véc ni, lót chín lần vải lót, ngâm nước mười năm không thấm, súng trường 3.8 bắn không thủng, chôn dưới đất nghìn năm không mục. Mười mấy bình sĩ nâng đáy quan tài, một tiểu đội trưởng hô khẩu lệnh, mới lẩy bẩy nâng lên khỏi mặt đất đưa lên xe. Quan tài lên xe rồi, một không khí căng thẳng trùm lên đại đội bộ, binh sĩ chạy ra chạy vào như mắc cửi, người nào người ấy nét mặt căng thẳng. Sau đó, một ông già râu bạc cưỡi lừa đi đến. Ông già xuống lừa, đến bên cỗ quan tài, vịn vào áo quan mà khóc rống lên, nước mắt chảy như suối, ướt đầm cả chòm râu. Đó là ông nội của Mã Đồng, đỗ cử nhân đời Thanh, trình độ văn hóa rất cao.
Đại đội trưởng Lỗ và chính ủy Tưởng bước tới, ngượng nghịu đứng bên cạnh ông già. Ông già khóc chán, quay lại nhìn như nuốt chủng Lỗ và Tưởng. Tưởng nói:
- Thưa cụ Mã, cụ đọc làu kinh thư, hiểu sâu đạo nghĩa. Chúng toi đành gạt nước mắt mà tử hình Mã Đồng.
Lỗ tiếp lời:
- Gạt nước mắt mà tử hình Mã Đồng.
Ông già nhổ bãi nước bọt đầy máu vào mặt Lỗ, nói:
- Mèo ăn vụng miếng mỡ thì giết, hổ bắt cả con lợn thì thả Chống Nhật mà rượu thịt chảy như suối!
Ông già ngửa mặt cả cười rồi bỏ đi, con lừa cúi đầu đi theo, cỗ xe chở quan tài đi sau con lừa, lặng lẽ. Tiếng xà ích quát ngựa nghe như tiếng ve sầu, như tiếng chuông bị bịt miệng không cho ngân. Sự kiện Mã Đồng như một trận động đất, làm lưng lay nền móng của đại đội bộc phá. Cái cảm giác giả tạo về hạnh phúc bị tiêu tan, tiếng súng hành quyết Mã Đồng bảo chúng tôi rằng, thời buổi loạn lạc, tính mạng con người như con sâu cái kiến! Sự kiện Mã Đồng thoạt nghe có vẻ biết cách rèn quân, chấp pháp nghiêm minh, nhưng nó lại phát sinh tiêu cực trong nội bộ đại đội bộc phá. Mấy ngày nay có đến mười mấy binh sĩ say rượu, có những vụ ẩu đả, tiểu đội ở nhà tôi đã bộc lộ dần tâm trạng bất mãn. Tiểu đội trưởng Vương nói công khai:
- Mã Đồng chẳng qua chỉ là vật hi sinh! Nó là thằng bé con, làm sao biết bán trộm đạn? Ông nội người ta là cử nhân, ruộng tốt nghìn khoảnh, lừa ngựa hàng đàn, thiếu gì mấy đồng tiền còm? Theo tôi, nó chết là vì hai trâu húc nhau dập đầu con muỗi. Chả trách lão cử nhân nói: Chống Nhật mà rượu thịt chảy như suối?
Tiểu đội trưởng nói câu này vào giữa trưa thì buổi chiều chính ủy Tưởng dẫn hai vệ binh đến nhà tôi. Chính ủy mặt sa sầm, nói:
- Vương Mộc Căn, lên đại đội bộ với tôi!
Vương Mộc Căn tròn mắt nhìn các chiến sĩ của mình, chửi:
- Đ. mẹ thằng chó chết nào bán đứng ông?
Các binh sĩ nhìn nhau mặt tái nhợt, duy chỉ có Tôn Bất Ngôn là cười khanh khách đi tới trước mặt chính ủy, hoa chân múa tay kể lại chuyện Sa Nguyệt Lượng cướp vợ của mình.
Chính ủy nói:
- Tôn Bất Ngôn, chỉ định anh làm quyền tiểu đội trưởng.
Tôn Bất Ngôn ngoẹo đầu nhìn miệng chính ủy. Chính ủy túm tay anh ta, rút bút máy viết mấy chữ to tướng. Tôn Bất Ngôn ngoẹo bàn tay lại, ngây người ra nhìn, con người vàng sáng rục, hoa chân múa tay mùng rỡ. Vương Mộc Căn cười nhạt nói:
- Cứ những trò này còn tiếp diễn, thằng câm sẽ mở miệng nói được.
Chính ủy vẫy tay, hai vệ binh hùng hổ tiến đến, áp sát hai bên Vương Mộc Căn. Vương Mộc Căn nói to:
- Các người ăn cháo đá bát, không còn nhớ khi ta đánh đoàn tầu bọc thép nữa rồi!
Chính ủy không thèm đếm xỉa những lời quát tháo của Vương Mộc Căn, vỗ vai Tôn câm. Tôn câm được sủng ái giật mình, đứng nghiêm chào chính ủy. Từ ngoài ngõ vọng lại tiếng gầm của Vương Mộc Căn:
- Trêu vào ông, ông sẽ cài mìn dưới gối chúng mày!
Công việc đầu tiên của Tôn câm sau khi được đề bạt làm tiểu đội trưởng là đòi mẹ tôi trả người. Lúc này, mẹ tôi đang nghiền lưu huỳnh cho đội bộc phá ở chỗ cối xay bột, nơi Tư Mã Khố ẩn nấp khi bị thương. Cách cối xay khoảng trăm thước, chị Phán Đệ trông nom mấy phụ nữ dùng búa nhỏ đập sắt vụn. Cách chỗ chị Phán Đệ khoảng trăm thước, viên kỹ sư của đại đội bộc phá chỉ huy bốn đội viên khỏe mạnh thụt cái bễ to tướng, đẩy gió vào lò nung. Bên cạnh họ, các khuôn đã vùi trong cát. Mẹ bịt miệng bằng chiếc khăn mặt, đi vòng quanh cối cùng với con lừa nhỏ. Mùi lưu huỳnh cay xé mũi, nước mắt mẹ chảy ròng ròng. Con lừa hắt hơi liên tục. Tôi và thằng con trai Tư Mã Khố ngồi trên bụi nhân trần, chị Phán Đệ giám sát chúng tôi nghiêm ngặt theo lời dặn của mẹ, không cho chúng tôi lại gần cái cối xaỵ Tôn câm khoác trên vai khẩu súng trường thô kệch do Hán Dương sản xuất, tay cầm thanh đao của báu gia truyền, khệnh khạng bước tới chỗ cối xaỵ Chúng tôi thấy hắn chặn con lừa lại, giơ đao chém vút một cái vào không khí ngay trước mặt mẹ. Mẹ dừng lại sau con lừa, nhìn hắn không chớp. Hắn chìa bàn tay có chữ ra, cười hô hố. Mẹ gật gật tỏ ý chúc mừng hắn. Tiếp đó, nét mặt hắn thay đổi nhiều kiểu, mẹ lắc đầu quầy quậy, hình như không chấp thuận yêu cầu gì đó của hắn. Hắn vung tay đấm một quả vào đầu con lừa. Con lừa từ từ khuỵu hai chân trước rồi gục xuống. Mẹ quát to: Đồ súc sinh? Hắn cười, miệng méo xệch rồi khệnh khạng bỏ đi. Phía bên kia, cửa đáy đã chọc thủng, dòng thép sáng chói chảy vào khuôn, từng cụm hoa lửa bắn tung tóe. Mẹ nắm hai tai con lừa giúp nó đứng dậy. Rồi mẹ bước tới chỗ chúng tôi, bỏ khăn bịt miệng vàng khè ra, vén áo nhét đầu vú bị lưu huỳnh hun trắng nhợt vào miệng tôi. Tôi đang phân vân xem có nên nhả đầu vú đắng ngắt ra không thì mẹ đẩy tôi ra, mạnh đến nỗi suýt nữa tôi bị gãy răng cửa mới mọc. Tôi nghĩ đầu vú mẹ đau kinh khủng, nhưng không phải, mẹ hoàn toàn không quan tâm tới đầu vú, mà chạy như bay về nhà, chiếc khăn mặt phất phơ theo nhịp chạy. Tôi hình dung bầu vú đầy bột lưu huỳnh của mẹ cọ xát dữ dội sau lần vải thộ Mẹ như mụ đi trong một cảm giác quái gở. Nếu là hạnh phúc thì đây là thứ hạnh phúc trong đau khổ tột cùng nên mẹ mới điên lên như vậy.
Băn khoăn của tôi được giải đáp ngay lập tức.
- Lãnh Đệ Ơi, Lãnh Đệ! Con ở đâu? - Mẹ gọi to, từ gian chính chạy sang gian chái.
Bà nội từ trong nhà bò ra, phục trên lối ngoài sân, đầu ngỏng lên như con ếch ộp. Chái tây của bà nội đã bị các binh sĩ chiếm. Ở đó, năm chú lính chụm đầu vào nhau bên bàn xay, đang xem một cuốn sách cũ đóng bằng giấy lề. Họ ngẩng lên, ngạc nhiên nhìn chúng tôi. Súng treo trên tường, địa lôi treo dưới xà nhà, đen xỉn, tròn tròn như những trứng nhện khổng lồ.
- Tôn câm đâu rồi? - Mẹ hỏi.
Các binh sĩ lắc đầu. Mẹ chạy vào chái đông. Bức tranh Nàng Tiên Chim để trên mặt bàn gãy chân, chặn bằng miếng bánh bao ăn dở và nửa củ hành đại, lá xanh biếc. Cái bát men xanh cũng ở trên bàn, trong bát có một nhúm xương, không rõ là xương chim hay xương thú. Khẩu súng của Tôn Câm treo trên tường, địa lôi treo dưới xà nhà.
Mẹ đứng giữa sân, gào lên một cách tuyệt vọng. Các binh sĩ từ gian chái chạy ra, dồn dập hỏi mẹ đã xảy ra chuyện gì.
Tôn câm từ dưới hầm củ cải chui lên, người bám đầy đất và mốc trắng, nét mặt hắn mệt mỏi nhưng đầy vẻ thỏa mãn.
Mẹ dậm chân, gào lên:
- Tôi lú lẫn mất rồi!
ở đoạn cuối hầm ngầm trong nhà, chỗ đống cỏ mục, thằng câm đã cưỡng dâm chị ba Lãnh Đệ.
Chúng tôi lôi chị dưới hầm lên đặt nằm trên giường. Mẹ vừa khóc vừa lấy khăn bám đầy bụi lưu huỳnh, thấm nước trong chậu, lau rửa từng li từng tí trên người chị. Nước mắt mẹ rơi trên mình chị, trên những vệt răng ở vú nhưng chị lại nở một nụ cười mê hồn, ánh mắt rạng rỡ đầy quyến rũ.
Chị Năm nghe tin chạy về, trố mắt nhìn chị Bạ Chị chẳng nói chẳng rằng chạy ra sân, móc quả lựu đạn ở thắt lưng, giật nụ xòe ném vào chái đông. Quả lựu đạn bị thối, không nổ.
Nơi xử bắn thằng câm cũng chính là nơi xử bắn Mã Đồng: bên bờ hố nước bẩn đầy rác rưởi, giữa hố mọc đầy cỏ bô, ở phía nam của thôn. Thằng câm bị trói theo kiểu trói trọng phạm ngay bên hố nước, mấy chục binh sĩ tay xách súng đứng thành hàng ngang, chính ủy diễn giải bằng lời lẽ hùng hồn trước quần chúng. Diễn thuyết xong, các binh sĩ lên cơ bẩm, đẩy đạn lên nòng... Chính ủy đích thân hô khẩu lệnh. Khi những viên đạn sắp sửa bay khỏi nòng thì chị Lãnh Đệ quần áo trắng tinh, phiêu diêu đi tới nhẹ nhàng như một Nàng Tiên. Nàng Tiên Chim đến rồi? Có người kêu lên. Mọi người lập tức nhớ lại thân thế kỳ lạ và những sự tích thần kỳ của Tiên Chim, quên bẵng thằng câm. Đây là giờ phút đẹp đẽ nhất trong cuộc đời Tiên Chim, chị nhảy múa trước mặt mọi người như một con tiên hạc, khuôn mặt tươi tắn như bông sen hồng, sen bạch. Thân hình cân xứng, cặp môi mọng đầy quyến rũ. Chị vừa múa vừa tiến lại gần thằng câm rồi đột nhiên dừng lại nghiêng đầu ngắm khuôn mặt hắn. Thằng câm nở một nụ cười ngơ ngẩn. Chị đưa tay vuốt nhe mái tóc dày như thảm, véo nhẹ cái mũi củ hành của thằng câm. Cuối cùng, chị công khai nắm lấy bộ sậu giữa hai chân, cái bộ sậu đã gây oan nghiệt, rồi nghiêng đầu nhìn quần chúng mà cười khúc khích. Đám phụ nữ vội quay mặt đi, đám đàn ông thì nhìn mê mẩn, nhếch mép cười hóm hỉnh. Chính ủy húng hắng ho, rất không tự nhiên, ra lệnh:
- Lôi cô ta ra! Thi hành lệnh xử bắn!
Thằng câm ngửa mặt lên, kêu ú ớ, hình như muốn kháng nghị.
Nàng Tiên Chim ta, y vẫn nắm cái của ấy, cặp môi mọng đầy vẻ ham muốn, phản ánh một dục vọng lành mạnh, tự nhiên. Không ai muốn chấp hành mệnh lệnh của chính ủy.
Chính ủy hỏi to:
- Cô kia, hắn cuồng dâm cô hay cô thuận tình?
Nàng Tiên Chim không trả lời.
Chính ủy lại hỏi:
- Cô có thích hắn không?
Nàng Tiên Chim vẫn không trả lời.
Chính ủy tìm mẹ trong đám đông, vẻ khó xử:
- Bác xem nên thế nào!... Theo tôi nghĩ, hay là cho chúng nó lấy nhau cho xong. Tôn Bất Ngôn tuy có sai lầm, nhưng không đáng tội chết, đó là điều chắc chắn!
Mẹ không nói gì, rẽ đám đông đi về. Mẹ bước rất chậm, vẻ nặng nhọc như cõng trên lưng một tấm bia. Mọi người nhìn theo, khi thấy mẹ kêu gào, mới không để ý nữa.
- Cởi trói cho anh tạ - Chính ủy mệt mỏi buông ra câu này, rồi bỏ đi .
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 17
Hôm ấy là ngày mồng Bảy tháng Bảy âm lịch, Ngưu Lang và Chúc Nữ gặp nhau. Trong nhà ngột ngạt, muỗi nhiều tới mức có thể quơ được cả nắm. Mẹ trải chiếu dưới gốc cây thạch lựu; lúc đầu chúng tôi ngồi, sau đó là nằm trên chiếu nghe mẹ thủ thỉ kể chuyện. Lúc chạng vạng tối, trời mưa nhẹ. Mẹ bảo đó là nước mắt Chúc Nữ. Không khí ẩm ướt, gió mát thổi đến từng cơn. Dưới gốc cây lựu, những chiếc lá lấp lánh. Ở trong chái dông và chái tây, các binh sĩ thắp những ngọn nến tự tạo. Muỗi cắn, mẹ xua chúng bằng lá bồ đề. Ngày hôm nay, tất cả chim khách đều bay lên trời xanh, tầng tầng lớp lớp, cắn đuôi nhau, bắc nhịp cầu Ô Thức trên sông Ngân phong ba cuồn cuộn. Chúc Nữ và Ngưu Lang qua cầu Ô Thức đến với nhau, mưa và móc là những giọt lệ nhớ thương của họ. Trong lời thủ thỉ của mẹ, tôi và Niệm Đệ, thằng nhỏ nhà Tư Mã, ngước nhìn bầu trời đầy sao. Chị Tám tuy bị mù nhưng cũng ngẩng mặt nhìn trời, mắt chị còn sáng hơn sao. Ngoài ngõ vang lên tiếng chân nặng nề của những người đổi gác trở về. Cánh đồng xa xa, ếch nhái đang hợp xướng. Trên dàn biển đậu chân tường, chim Thợ Dệt cất tiếng hỏi: - Chiu chiu chiu... chiu chiu. Trong màn đêm mờ ảo, một số chim lớn nặng nề bay qua, chúng tôi lờ mờ trông thấy bóng trắng của chúng và tiếng vỗ cánh rào rào. Những con dơi kêu chít chít, những giọt nước trên cành rơi tí tách. Sa Tảo Hoa nằm trong lòng mẹ, ngáy đều đều. Chái đông vang lên tiếng kêu như mèo của Lãnh Đệ, cái bóng đồ sộ của thằng câm lắc lư trước ánh đèn. Hai người đã lấy nhau. Chính ủy Tưởng là người làm mối. Tịnh thất thờ Nàng Tiên Chim trở thành phòng cô đâu với những cuộc truy hoan. Nàng Tiên Chim thường xuyên mình trần chạy ra sân. Thằng câm đeo trên hai núm vú chị hai quả lục lạc nhỏ, khi chạy kêu loong chong. Một binh sĩ nhìn trộm vú chị, suýt bị thằng câm đánh gãy cổ. Khuya rối, vào nhà ngủ đi, mẹ nói.
- Trong nhà nóng, lắm muỗi, cho chúng con ngủ ở đây. Chị Sáu nói.
Mẹ bảo, không được nhiễm sương là ốm, với lại, trên trời có...
Chúng tôi hình như nghe thấy có tiếng người đang trao đổi, bông hoa đẹp quá, hái đi! Lúc về hãy hái. Đó là tiếng của những con nhện thành tinh, chuyên cưỡng dâm những bông cúc vàng.
Chúng tôi nằm trên giường, không tài nào ngủ được. Điều kỳ lạ là chị Tám lại ngủ rất ngon lành, khóe miệng có một tia nước bọt trong suốt và thơm lựng. Cây ngải hun muỗi bốc khói cay caỵ Cây nến trên cửa sổ của các binh sĩ chiếu sáng cửa sổ chúng tôi, cảnh vật trong sân mờ ảo. Những con cá biển chị Lai Đệ gửi cho đã ươn, đang bốc mùi trong nhà xí. Chị còn gửi cho bao nhiêu của cải, vải vóc tơ lụa, đồ dạc, đồ chơi, nhưng bị đại đội bộc phá tịch thu tất. Then cửa buồng chính kêu khẽ.
- Ai đấy? - mẹ quát, thuận tay vớ con dao thái rau.
Không một chút động tĩnh. Có lẽ chúng tôi nghe lầm. Mẹ đặt con dao vào chỗ cũ. Cây ngải hun muỗi khẽ lóe lên những tia sáng ngắn ngay dưới chân giường.
Một bóng đen gầy gầy đột nhiên đứng ngay ở đầu giường. Mẹ kinh hoảng kêu lên. Chị Sáu cũng hoảng hốt kêu lên. Bóng đen chồm lên giường bịt miệng mẹ. Mẹ sờ soạng tìm con dao định chém thì bóng đen nói:
- Mẹ, con là Lai Đệ.
Con dao rơi xuống chiếu. Chị Cả về rồi! Chị Cả quì trên giường, khóc nức nở. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn khuôn mặt lờ mờ của chị. Tôi trông thấy có những gì lấp lánh trên đó.
- Lai Đệ, đúng là con đấy ư? Con là ma chăng? Con là ma mẹ cũng không sợ, để mẹ xem mặt con một tí.
Mẹ tìm bao diêm trên đầu giường. Chị Cả giữ tay mẹ lại, hạ thấp giọng, nói:
- Mẹ đừng thắp đèn.
- Lai Đệ, con nhẫn tâm lắm, những năm qua con với thằng Lượng đi những đâu? Con làm khổ mẹ quá!
- Mẹ Ơi, chuyện dài lắm. Chị Cả nói:
- Con gái con- Mẹ trao Sa Tảo Hoa đang ngủ say cho chị, nói: - Thế mà cũng là mẹ, đẻ mà không nuôi, không bằng con vật... Vì nó mà em Tư và em Bảy...
- Mẹ Ơi. Ân tình của mẹ thể nào cũng có lúc con đền đáp, cả em Tư và em Bảy nữa
Lúc này chị Sáu bước tới gọi:
- Chị Cả?
Chị Cả ngửng lên, vỗ vỗ chị Sáu, nói:
- Em Sáu. Còn Kim Đồng đâu, Ngọc Nữ đâu? Kim Đồng Ngọc Nữ còn nhớ chị không.
Mẹ nói:
- Nếu không có đại đội bộc phá thì cả nhà ta chết từ lâu rồi!
Chị Cả nói:
- Mẹ ạ, lão Tưởng và thằng tha Lỗ không phải con người!
Mẹ nói:
- Người ta không đối xử tệ với mình thì nói gì cũng phải có lương tâm chứ?
Chị Cả nói:
- Mẹ, đó là âm mưu của họ, họ viết thư cho anh Lượng ép phải đầu hàng, nếu không, sẽ bắt con gái của con làm con tin.
Mẹ hỏi:
- Lại có chuyện ấy hả? Họ đánh nhau thì việc gì đến con bé?
Chị Cả nói:
- Mẹ Ơi, con về lần này là để cứu cháu. Mẹ ạ, con có đem theo mười mấy người, chúng con đi ngay bây giờ, để cho bọn thằng Lỗ mừng hụt! Mẹ Ơi, công ơn của mẹ cao như núi, cho phép con được báo đáp sau này. Con đi đây!
Chị Cả chưa nói dứt câu, mẹ đã giằng lại bé Tảo Hoa, giận dữ nói:
- Lai Đệ, mày đừng đánh lừa tao. Trước kia mày quẳng con mày cho tao như quẳng một con chó. Tao không quản nguy hiểm nuôi nó đến bây giờ. Khá nhỉ, lại về đây ăn sẵn! Nào là đội trưởng Lỗ, chính ủy Tưởng, mày bịa ra tất! Mày muốn làm mẹ rồi hả? Đú đởn với thằng Lượng đủ rồi hả?
- Mẹ, anh ấy bây giờ là Lữ trưởng bộ đội liên hiệp Thiên hoàng, cai quản cả nghìn người?
- Tao không cần nó có bao nhiêu người, tao cũng chăng cần chức Trưởng của nó! - Mẹ nói - Mày bảo nó đến mà bế đi. Mày bảo nó, những con thỏ mà nó treo trên cây, tao vẫn để đó.
- Mẹ Ơi, đây là chuyện lớn, liên quan đến hàng ngàn vạn người, mẹ đừng lẩm cẩm!
- Tao lẩm cẩm cả đời người rồi, ngàn vạn người tao cũng thây kệ! Tao chỉ biết con Hoa là do tao nuôi, tao chẳng cho ai hết!
Chị Cả vồ lấy Tảo Hoa nhảy xuống giường chạy ra ngoài.
Mẹ quát:
- Đồ mất dạy, dám cướp hả?
Tảo Hoa òa khóc.
Mẹ nhảy xuống giường, đuổi theo.
Ngoài sân rộ lên những tiếng súng, cảnh hỗn loạn trên nóc nhà, có người rú lên thê thảm rồi lăn xuống sân.
Một bàn chân dẫm thủng nóc nhà chúng tôi, đất rơi xuống rào rào cùng với những ánh sao.
Trong sân cực kỳ hỗn loạn tiếng súng, tiếng gươm chạm nhau, tiếng quát tháo của đám binh sĩ:
- Không cho chúng nó thoát?
Binh lính của đại đội bộc phá cầm trong tay mười mấy cây được tẩm dầu chạy tới, trong sân sáng như ban ngày. Ngoài ngõ, sau nhà đều có tiếng đàn ông. Sau nhà có tiếng người thét:
- Trói nó lại, xem nó còn chạy nữa không?
Đại đội trưởng Lỗ bước vào sân, nói với chị Lai Đệ lúc này đang bế Tảo Hoa đứng nép vào chân tường:
- Bà Sa, bà làm vậy có đẹp không?
Sa Tảo Hoa khóc to.
Mẹ bước ra sân.
Chúng tôi bám cửa sổ nhìn ra ngoài.
Một người đàn ông nằm bên lối đi, trên người thủng lỗ chỗ, máu chảy thành vũng rồi bò ra tứ phía như rắn. Mùi máu tanh lợm, nóng hôi hổi. Mùi dầu hỏa xộc lên mũi. Máu vẫn chảy ra từ các vết đạn, sủi bọt. Anh ta chưa chết hẳn, một chân vẫn co giật. Miệng cạp đất, cổ vổng lên, không trông thấy mặt anh tạ Lá cây như dát vàng. Thằng câm tay cầm đao, vừa ú ớ vừa ra hiệu với Lỗ đại đội trưởng. Tiên Chim chạy ra, rõ khéo, khoác chiếc áo rõ ràng là áo của thằng câm, vạt áo dài đến đầu gối, cặp vú nửa kín nửa hở. Đôi chân thon dài, trắng muốt. Người chắc lẳn, bắp chân trắng mịn. Miệng hé mở, mắt lim dim, lúc nhìn cây đuốc này, lúc nhìn cây đuốc khác. Một tốp binh sĩ dẫn về ba người mặc quân phục xanh, một ngoi bị thương ở tay, máu đang chảy, mặt tái nhợt. Một người chân khập khiễng, một người bị trói vít đầu xuống. Anh ta cố súc ngẩng đầu lên, nhưng một bàn tay khỏe ấn đầu anh ta xuống. Chính ủy Tưởng cũng tới, trong tay cầm chiếc đèn pin có buộc dải lụa dỏ.
Mẹ nhón gót chạy ra vì không kịp đi giày. Mùn giun đùn lên từng đống trên mặt đất. Không hề sợ, mẹ mặt đối mặt với đại đội trưởng Lỗ:
- Có chuyện gì vậy?
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Chuyện này không liên quan gì đến bác!
Chính ủy Tưởng làm một động tác thừa là dùng miếng vải đỏ che mặt đèn pin. Anh ta chiếu đèn vào mặt Lai Đệ.
Lai Đệ thân hình mảnh đẻ như một cây bạch dương. Mẹ đi tới trước mặt chị Cả giằng lấy bé Hoa. Bé Hoa. Ôm chầm lấy bà ngoại. Mẹ dỗ nó:
- Cháu ngoan, đừng sợ, có ngoại đây!
Bé Hoa khóc nhỏ dần, rồi chỉ còn tiếng sụt sịt. Cánh tay chị Cả vẫn giữ nguyên tư thế bế con cứng nhắc, trông rất xấu. Mặt chị trắng bệch, hai mắt ngây dại. Chị mặc bộ quần áo xanh kiểu đàn ông, đôi vú đã trưởng thành nhô cao, không dẹt như vú mẹ.
- Bà Lượng, chúng tôi đối xử với vợ chồng bà có thể nói là chí nhân chí nghĩa? Không theo chúng tôi cũng chẳng ép, nhưng không nên đầu hàng bọn Nhật? - Đại đội trưởng Lỗ nói.
Chị Cả cười nhạt:
- Đó là chuyện của các ông, đừng nói với bọn đàn bà chúng tôi.
Chính ủy Tưởng nói:
- Nghe nói bà Lượng là tham mưu cấp cao của ông Lượng?
Chị Cả nói:
- Tôi chỉ biết đòi lại con gái tôi. Các ông có giỏi thì chơi nhau bằng gươm bằng súng. Đem trẻ con ra làm những trò mèo, không phải là bậc trượng phu?
Chính ủy Tiếng nói:
- Bà sai rồi! Chúng tôi đối với tiểu thư có thể nói cực kỳ chu đáo, có bà cụ làm chứng, có các em gái bà làm chứng, có đất dày làm chứng, có trời cao làm chứng! Bản chất của chúng tôi là yêu trẻ, vì trẻ, tất cả hành động của chúng tôi đều vì mục đích đó. Chúng tôi không muốn một cô bé xinh đẹp như thế này mà lại có bố mẹ là Hán gian!
Chị Cả nói:
- Ông đừng nhiều lời nữa. Tôi đã rơi vào tay các ông, muốn làm gì thì làm!
Thằng câm xông ra. Dưới ánh sáng của mười mấy cây đuốc, hắn cao to hung hãn lạ thường. Da đen thui như bôi một lớp mỡ con hoan. Ôà... Ôà... mắt hắn như mắt chó sói, mũi lợn, tai khỉ, mặt hung dữ như mặt hổ hắn vừa gào lên a... a... vừa giơ cánh tay hộ pháp lên lắc lắc nắm đấm, chạy một vòng tròn trước mặt mọi người. Hắn đá cái xác nằm trên lối đi và lần lượt đấm đá ba tù binh, mỗi người một đấm, vừa đấm vừa kêu ố ố. Quả đấm cuối cùng, người tù binh cố ngẩng đầu, ngã lăn ra bất tỉnh. Chính ủy Tưởng ngăn hắn lại, khiển trách:
- Tôn Bất Ngôn, không được đánh tù binh.
Thằng câm nhếch miệng cười, chỉ vào chị Lai Đệ, lại chỉ vào ngực hắn. Hắn đi tới trước mặt chị, tay trái bóp vai chị, tay phải làm điệu bộ với mọi người. Chị Ba nhìn đăm đăm ngọn lửa luôn thay hình đổi dạng. Chị Cả giơ tay trái tát đánh bốp vào má phải thằng câm. Hắn buông tay, ngơ ngác xoa má, hình như không hiểu cú đánh từ đâu tới. Chị Cả lại giơ tay phải tát đánh bốp vào má trái thằng câm, cái tát vừa nhanh vừa mạnh. Hắn loạng choạng lùi lại. Do lực phản hồi của cú tát, chị Cả cũng thoái lui một bước. Chị Cả dựng ngược mày liễu, trợn tròn đôi mắt phượng, nghiến rằng nghiến lợi, chửi:
- Đồ súc sinh, mày hủy hoại em gái tao!
Đại đội trưởng Lỗ bảo:
- Giải nó đi! Con nữ tặc, hung hăng khiếp!
Vài binh sĩ tiến đến kẹp chặt cánh tay chị Cả. Chị nói to:
- Mẹ lú lẫn rồi. Con Ba là chim phượng hoàng, thế mà mẹ gả cho thằng Câm!
Một binh sĩ thở hồng hộc chạy vào, báo cáo:
- Báo cáo đại đội trưởng, báo cáo chính ủy, đại đội nhân mã của Sa Nguyệt Lượng đã vào trấn Sa Lĩnh!
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Mọi người không được rối lên. Các trung đội trưởng chú ý, hành động theo kế hoạch đã bàn, gài tất cả số mìn hiện có.
Chính ủy Tưởng nói:
- Để đảm bảo an toàn cho bác và lũ trẻ, bác đến đại đội bộ với chúng tôi!
Mẹ lắc đầu, nói:
- Không, có chết cũng chết ở nhà?
Chính ủy Tưởng khoát tay, một tốp lính kèm chặt mẹ, tốp khác ùa vào trong nhà. Mẹ gào to:
- Chúa ơi, xin Chúa chứng giám!
Cả nhà tôi bị giam trong phòng xép nhà Tư Mã. Trước cửa có lính gác. Bên cạnh là đại sảnh, đèn khí sáng trung, người nói ầm ĩ. Bên ngoài thôn, tiếng súng nổ như ngô rang.
Chính ủy Tưởng xách chiếc đèn bão, chụp đèn bằng thủy tinh. Khói trong đèn bốc lên cuồn cuộn, khiến anh ta phải nheo mắt lại. Anh ta để đèn lên bàn, nhìn chúng tôi từ đầu đến chân, nói:
- Đứng làm gì nhỉ, ngồi xuống cả đi!
Anh ta chỉ những ghế tựa bằng gỗ hoa lê bày xung quanh chân tường, nói:
- Chàng rể thứ hai nhà bác ra vẻ đấy!
Anh ta ngồi xuống chiếc ghế tựa, hai tay ôm gối, nhìn chúng tôi bằng ánh mắt châm biếm. Chị Cả ngồi phịch xuống ghế, đối diện với anh ta qua chiếc bàn. Chị bĩu môi, nói:
- Thưa ông chính ủy, ông bắt tôi thì dễ nhưng thả tôi thì khó đấy!
Chính ủy Tưởng cười:
- Khó khăn lắm mới mời được bà đến đây, sao lại thả?
Chị Cả nói:
- Mẹ cứ ngồi đây, xem họ dám làm gì chúng ta?
- Chúng tôi quả thật không định làm gì các vị. - Chính ủy Tưởng nói: - Mời bác ngồi!
Mẹ bế Sa Tảo Hoa, ngồi xuống chiếc ghế ở xó nhà. Tôi và chị Tám cầm vạt áo mẹ đứng bên ghế. Công tử nhà Tư Mã thì ngoẹo đầu trên vai chị Sáu. Chị Sáu buồn ngủ đến nỗi người cứ lắc lư.
Mẹ kéo tay chị ngồi xuống ghế. Chính ủy Tưởng móc ra một điếu thuốc lá, gõ gõ đầu thuốc lên móng tay cái rồi lục lọi các túi rõ ràng là tìm diêm. Không thấy! Chị Cả cười nhạt, trong cái rủi có cái maỵ Anh ta đến bên chiếc đèn, miệng ngậm điếu thuốc, châm phía trên ngọn lửa. Anh ta nheo mắt, hít bập bập. Ngọn lửa kéo dài trong chụp. Đầu điếu thuốc đỏ lên rồi bắt cháy. Anh ta ngẩng lên, gỡ điếu thuốc trên miệng, ngậm miệng lại rồi tuôn khói ra hai lỗ mũi. Bên ngoài thôn vọng lại tiếng mìn nổ cửa kính rung leng keng, những đốm lửa nhảy múa trên không. Tiếng gào khóc, tiếng quát tháo lúc gần lúc xa, lúc rõ mồn một. Chính ủy Tưởng mỉm cười với thái độ khiêu khích, nhìn chị Lai Đệ.
Chị Lai Đệ như ngồi phải gai, nhấp nhổm trên ghế, đến nỗi cái ghế kêu kèn kẹt. Mặt chị trắng nhợt, hai tay bám thành ghế run bần bật.
- Đội kỵ binh của Lữ trưởng Lượng rơi vào trận địa mìn rồi! - Chính ủy Tưởng ra vẻ tiếc rẻ, nói tiếp - Tiếc mấy chục con ngựa quá!
- Các ông... đừng tưởng bở!
Chị Cả vịn ghế đứng dậy. Một loạt tiếng nổ dữ dội hơn, ấn chị ngồi xuống. Chính ủy Tưởng đứng lên, thanh thản gõ gõ tấm ngăn bằng ván gỗ giữa phòng xép với dại sảnh, làm như nói một mình:
- Toàn là thông dầu, ngôi nhà này dùng hết bao nhiêu gỗ? Anh ta ngước nhìn chị Cả, hỏi: - Bà đoán xem, dùng hết bao nhiêu gỗ: dầm xà, cửa ra vào, cửa sổ, sàn, ván thung, bàn ghế.
Chị Cả nhấp nhổm không yên. Phải cả một cánh rừng chứ chả chơi! Chính ủy Tưởng xót xa, làm như cánh rừng bị chặt quang đang trải ra trước mắt anh tạ Sớm muộn phải thanh toán chuyện này! - Nét mặt rầu rầu, rồi quên phắt cánh rừng bị tàn phá, anh ta đi tới trước mặt chị Cả, đứng dạng chân thành hình chữ A, tay phải chống nạnh, khuỷu tay gập lại thành một góc nhọn. - Tất nhiên, chúng tôi cho rằng Sa Nguyệt Lượng có khác với những kẻ cam tâm làm Hán gian. Ông ta có một lịch sử chống Nhật rất vẻ vang. Nếu ông ta quyết tâm sưa chữa sai lầm, chúng tôi vui lòng gọi ông ta là đồng chí. Bà Lượng này, lát nữa chúng tôi bắt được ông ấy, bà nên khuyên răn ông ấy một tí!
Chị Cả ngồi nhũn ra trên ghế, rít lên:
- Các ông không thể bắt được anh ấy! Tưởng bở! Xe Jeep Mỹ nhanh hơn ngựa của các ông!
- Mong rằng như thế.
Chính ủy Tưởng nói. Anh ta bỏ tay xuống, hai chân cũng đổi thế đứng. Anh ta rút một điếu thuốc dưa cho Lai Đệ. Lai Đệ co người lại theo bản năng, chính ủy Tưởng đưa dấn theo. Lai Đệ vênh mặt quan sát nụ cười khó hiểu trên khuôn mặt của chính ủy Tưởng. Chị rụt rè giơ tay ra, bàn tay có những ngón ám khói thuốc, dùng hai ngón tay kẹp điếu thuốc. Chính ủy Tưởng vẩy tàn điếu thuốc trên tay, thổi phù một cái cho nó đỏ lên, rồi đưa tới trước mặt chị Cả. Chị Cả lại vênh mặt lên, chính ủy Tưởng vẫn mỉm cười. Chị Cả vội ngậm điếu thuốc, dướn về phía thuốc, châm lửa ở đầu diếu thuốc trên tay chính ủy Tưởng. Tôi nghe rõ tiếng bập môi của chị. Mẹ thẫn thờ nhìn bức tường, chị Sáu và cậu ấm nhà Tư Mã nửa thức nửa ngủ, Sa Tảo Hoa không động cựa. Khói thuốc tỏa ra trên mặt chị Cả. Chị ngửa mặt, người ngả về phía sau, tay buông thõng. Ngón tay kẹp điếu thuốc ướtnhèm y hệt con cá trạch lôi ra khỏi nước. Lứa ở đầu điếu thuốc bén rất nhanh về phía môi chị. Đầu tóc rối bù, những nếp nhăn hằn hai bên mép, mắt thâm quầng. Nụ cười tắt dần trên môi chính ủy Tưởng như giọt nước cạn dần trên tấm thép nóng, từ xung quanh cạn vào giữa, cuối cùng còn như một mũi kim, lóe lên một cái rồi biến mất. Anh ta quẳng mẩu thuốc đã bén sát ngón tay, dùng chân đi cho tắt hẳn, rồi bước những bước dài, đi ra.
Có tiếng hét to từ phòng khách bên cạnh vọng lại:
- Nhất định phải bắt sống Sa Nguyệt Lượng, dù hắn rúc vào hang chuột cũng phải đào mà lôi ra!
Tiếp theo là tiếng đèn pin dằn mạnh xuống bàn.
Mẹ ái ngại nhìn chị Cả đang ngồi nhũn ra trên ghế như bị rút hết xương, buộc tới cầm lấy những ngón tay ám khói thuốc của chị, lắc đầu. Chị Cả tụt từ trên ghế xuống, quì trước mặt mẹ, miệng lập bập như đang mút vú, những tiếng kêu kỳ quặc tuôn ra, lúc đầu tôi tưởng chị cười, nhưng ngay lập tức tôi biết là chị khóc. Chị quệt nước mắt nước mũi vào chân mẹ. Chị nói:
- Mẹ Ơi, không có lúc nào là con không nhớ mẹ, nhớ các em...
Mẹ hỏi:
- Hối hận rồi ư?
Chị Cả do dự một thoáng, lắc đầu. Mẹ nói:
- Vậy là tốt, làm gì thì cũng do Chúa sắp dặt, hối hận là trái ý Chúa!
Mẹ trao Sa Tảo Hoa cho chị, nói:
- Ngắm nó một lúc đi!
Chị Cả vuốt nhẹ khuôn mặt đen nhẻm của con bé, nói:
- Mẹ, nếu họ xử bắn con thì mẹ nuôi cháu cho con.
Mẹ nói:
Họ không bắn chết con thì mẹ vẫn nuôi con bé!
Chị Cả định trao lại bé Hoa cho mẹ, mẹ bảo:
- Hãy bế nó một tí, mẹ còn cho Kim Đồng ti sữa.
Mẹ bước tới bên ghế, vén áo lên. Tôi quì trên ghế ti vú mẹ. Mẹ nâng tà áo, khom lưng xuống, nói:
- Bình tâm mà xét, tay Lượng không phải đồ tồi, chỉ riêng chuyện những con thỏ treo trên cây, mẹ cũng phải nhận anh ta là con rể. Nhưng anh ta không làm nên trò trống gì đâu, chỉ chuyện mấy con thỏ, mẹ biết anh ta không làm nên trò trống gì. Gộp cả hai đứa cũng không địch nổi lão Tưởng. Lão là loại thâm hiểm, mát nước thối đá.
Nhớ lại khi trước, những con thỏ treo đầy các cây trong vươn khiến mẹ tức điên lên. Vậy mà trong khoảnh khắc, chính những con thỏ đó lại là lý do để mẹ nhận Sa Nguyệt Lượng là con rể. Và cũng vẫn những con thỏ đó, là cơ sở để mẹ đoán chắc Sa Nguyệt Lượng sẽ thua chính ủy Tưởng.
Vào lúc tranh tối tranh sáng trước bình minh, một đàn chim thước đi bắc cầu trên sông Ngân trở về đậu trên nóc nhà, kêu chiêm chiếp vì mệt mỏi. Lũ chim thước làm tôi thúc giấc. Tôi nhìn thấy mẹ bồng Sa Tảo Hoa ngồi trên ghế, còn tôi thì ngồi trên đầu gối lạnh ngắt của chị Lai Đệ Chị Ôm chặt eo tôi bằng hai cánh tay thanh mảnh của chị. Chị Sáu và công tử nhà Tư Mã ngủ gối đầu lên nhau. Chị Tám ngồi tựa bên mẹ như cũ. Cặp mắt mẹ vô cảm, hai mép trễ xuống chúng tỏ đã quá mệt mỏi.
Chính ủy Tưởng bước vào đưa mắt nhìn chúng tôi, nói:
- Bà Lượng, có đi thăm ông Lượng một chút không?
Chị Cả đẩy tôi ra, đứng phắt dậy, giọng khản di:
- Ông nói láo?
Chính ủy Tưởng chau mày, nói:
- Láo hả? Vì sao tôi phải nói láo kia chứ? - Anh ta bước tới bên bàn, cúi xuống thổi tắt ngọn đèn. Những tia nắng lập tức ùa vào phòng. Anh ta ngả tay ra, lễ phép - chưa hẳn là lễ phép mời. - Xin mời, vẫn chỉ một câu thôi, chúng tôi không muốn bịt chặt tất cả các ngả đường. Nếu ông Lượng quay lại thì có thể cho ông giữ chức đại đội phó đại đội bộc phá.
Chị Cả bước ra như một cái máy, ra đến cửa, chị quay lại nhìn mẹ. Chính ủy Tưởng nói:
- Bác có thể đi cùng, cả các em bé nữa.
Chúng tôi đi qua rất nhiều lần cửa nhà Tư Mã, qua những sân trong mà sân nào cũng giống sân nào. Đi qua năm lớp sân, chúng tôi nhìn thấy ở sân chính có nhiều thương binh, cô Đường đang băng bó cho một thương binh bị thương ở chân. Chị Năm Phán Đệ đang phụ với cô Đường. Chị chăm chú đến nỗi không phát hiện ra chúng tôi. Mẹ nói nhỏ với chị Cả:
- Đó là em Năm của con.
Chị Cả liếc nhìn chị Năm. Chính ủy Tưởng nói:
- Chúng tôi đã phải trả giá quá đắt! Sân trong thứ sáu có kê một bộ ván trên đặt cái xác, che mặt bằng miếng vải trắng. Chính ủy Tưởng nói:
- Đại đội trưởng Lỗ của chúng tôi đã anh dũng hi sinh, tổn thất không thể lường được.
Anh ta lật miệng vải, chúng tôi trông thấy một khuôn mặt chữ điền, râu quai nón, đầy máu. Anh ta nói:
- Các chiến sĩ chỉ muốn lột da Sa Nguyệt Lượng, nhưng chính sách không cho phép. Bà Lượng này, sự chân thành của chúng tôi có lẽ trời đất quỉ thần cũng phải cảm động chứ nhỉ? Qua sân trong thứ bảy, vòng qua một bức tường làm bình phong, chúng tôi đã đứng ở cổng nhà Phúc Sinh Đường, trên bậc tam cấp.
Trên đường phố, những binh sĩ của đại đội bộc phá chạy đi chạy lại như kiến vỡ tổ. Mặt người nào người ấy lấm đầy bụi đất. Mười mấy binh sĩ dắt mười mấy con ngựa dọc theo phố đi từ dông sang tây. Có mấy binh sĩ chỉ huy mấy chục người dân, dùng dây thùng kéo một chiếc xe Jeep đi ngược lại từ tây sang đông. Hai tốp gặp nhau ở cổng nhà Phúc Sinh Đường, hai người có vẻ như tiểu đầu mục cùng chạy lên, cùng đứng nghiêm, cùng giơ tay chào, cùng báo cáo lên chính ủy. Một người báo cáo thu được mười ba con ngựa. Một người báo cáo tịch thu được một chiếc xe Jeep, đáng tiếc là bị vỡ két nước, đành cho trâu kéo về. Chính ủy Tưởng nhiệt liệt biểu dương họ. Trong khi biểu dương, các binh sĩ đứng ưỡn ngực, mắt sáng lên.
Chính ủy Tưởng dẫn chúng tôi đến cổng nhà thờ. Hai bên cổng có mười sáu binh sĩ bồng súng đứng gác. Tưởng giơ tay, đám lính gác đứng nghiêm, bồng súng chào. Đám phụ nữ trẻ con chúng tôi nghiễm nhiên trở thành những vị tướng đi quan sát chiến trường.
Có khoảng sáu mươi tù binh quân phục xanh chen chúc ở góc dông nam trong sân nhà thờ, trên đầu họ là những tấm liếp bị hư hỏng vì nước mưa, mọc đầy nấm. Trước mặt họ là bốn binh sĩ xếp hàng ngang, tay cầm tiểu liên, tay trái nắm băng đạn cong cong như sừng trâu, tay phải dặt trên báng súng bóng mịn như đùi phụ nữ, ngón tay trỏ lồng vào lẫy cò như chiến lưỡi vịt. Họ quay lưng về phía chúng tôi. Sau lưng họ là một đống thắt lưng bằng da bò trông như những con rắn chết. Các tù binh muốn đi lại, phải hai tay giữ cạp quần.
Một nét cười thoáng qua trên nét mặt chính ủy Tưởng. Anh ta húng hắng ho, có lẽ để gây sự chú ý. Các tù binh uể oải ngẩng đầu nhìn chúng tôi. ánh mắt họ chợt lóe lên, có người chớp một cái, người hai cái, người ba cái, người bốn năm cái, người nhiều nhất không quá chín cái Những ánh mắt lạ lùng đó là do sự có mặt của chị Lai Đệ, nếu như chị đúng như lời chính ủy Tưởng, là một nửa của Sa Nguyệt Lượng trong công tác chỉ huy bộ đội. Không rõ do một tình cảm nào đó chi phối, chị Cả đỏ hoe mắt, mặt trắng nhợt, đầu cúi gập xuống ngực. Những tù binh này khiến tôi phảng phất nhớ lại những con lừa đen của đội Hỏa-mai. Họ tụ tập trong nhà thờ này, và cũng thích cái góc này. Hai mươi tám con lừa ghép thành mười bốn cặp, con nọ gặm yêu mông con kia, chăm sóc cho nhau, yêu mến lẫn nhau, giúp đỡ lân nhau. Một đội lừa đoàn kết thân mật đã bị diệt ở nơi nào? Ai đã diệt đội lừa? Bị diệt ở núi Tai Ngựa bởi đội du kích của Tư Mã Khố, hay ở gò Khuỷu Tay bởi đội Tiện Y Nhật Bản? Trong cái ngày thiêng liêng làm lễ rửa tội cho tôi, mẹ bị cưỡng hiếp. Chúng là những tên lính quân phục xanh của đội Hỏa-mai, là kẻ thù của tôi. Giờ đây, nhân danh Cha, Con và thánh thần, phải trừng phạt chúng, A men!
Chính ủy Tưởng dọn giọng, nói:
- Các anh em lữ đoàn Sa Nguyệt Lượng, đã đói chưa?
Các tù binh lại ngẩng lên, có người định trả lời nhưng không dám, có người không thèm trả lời. Một vệ binh đứng bên cạnh chính ủy Tưởng nói:
- Các ông trẻ, điếc cả rồi hay sao? Chính ủy đại đội hỏi các người đấy!
- Không được mắng người ta!
Chính ủy Tưởng khiển trách nghiêm khắc anh vệ binh. Anh vệ binh đỏ mặt, cúi đầu xuống. Tưởng nói:
- Các anh em, biết anh em vừa đói vừa khát, người nào mắc bệnh dạ dầy chắc đang đau hoa cả mắt, lạnh cả sống lưng. Hãy kiên nhẫn, cơm sắp có rồi. Ở đây điều kiện thiếu thốn, chẳng có gì ngon, tạm nấu nồi cháo đậu xanh để anh em ăn cho đỡ đói, đỡ khát. Buổi trưa chúng ta ăn màn thầu bằng bột mì trắng, rau phỉ xào thịt ngựa.
Các tù binh tỏ vẻ vui mừng, vài người còn mạnh dạn nói chuyện riêng với nhau.
Chính ủy Tưởng nói:
- Ngựa chết nhiều lắm, toàn là ngựa tốt, rất tiếc, các anh đã sa vào bãi mìn của chúng tôi! Lát nữa thịt ngựa mà các anh ăn, rất có thể là con ngựa mình cưỡi. Nói rằng lừa ngựa là quân tử, những dù sao vẫn là lừa ngựa, các bạn cứ ăn thỏa thích, con người là chúa tể mà lại!
Đang nói chuyện ngựa thì hai người lính già khênh một thùng to từ ngoài cổng đi vào, vừa đi vừa hò nhường đường. Hai chú lính trẻ bê hai chồng bát to tướng cao đến tận cằm, chệnh choạng bước theo sau.
- Cháo đây, cháo đây? Người lính già hét to, làm như có ai cản đường không bằng. Chú lính trẻ ôm chồng bát trước bụng, loay hoay tìm chỗ đặt xuống. Hai người lính già cùng nhún thấp xuống, khi cái thùng chạm đất thì họ cũng vừa vặn ngồi xổm. Hai chú lính trẻ vẫn giữ cho thân ở tư thế thẳng đuỗn đồng thời khuỵu hai chân, đặt chồng bát xuống nền nhà, rồi loạng choạng đứng dậy, lấy tay áo lau mồ hôi trên mặt.
Chính ủy Tưởng cầm lấy chiếc môi lớn bằng gỗ, khuấy cháo cho đều, hỏi người lính già:
- Cho đường đỏ chưa?
Người lính già nói:
- Báo cáo chính ủy, không kiếm được đường đỏ, phải lấy đường trắng của nhà họ Tào. Bà cụ nhà họ Tào tiếc của, cứ ôm chặt cái hũ, không bỏ tay ra...
- Được, chia cháo đi - Chính úy vừa nói vừa đặt cái môi xuống, rồi như chợt nhớ ra, quay lại sốt sắng hỏi chúng tôi: - Nên chăng mỗi người làm một bát?
Chị Cả lạnh nhạt:
- Ông chính ủy mời chúng tôi đến đây, chắc không phải đến để ăn cháo?
Mẹ nói:
- Sao lại không ăn? Bác Trưởng, cho mẹ con chúng tôi mấy bát!
Chị Cả nói:
- Mẹ cẩn thận thuốc độc!
Chính ủy Tưởng cười lớn, nói:
- Bà Lượng tưởng tượng phong phú quá đấy?
Anh ta múc một môi đầy giơ lên rồi từ từ rót xuống để mọi người thấy cháo ngon như thế nào. Mùi thơm tỏa ra xung quanh. Anh ta đặt cái môi xuống, nói:
- Cháo này đã bỏ vào hai gói thạch tín, hai gói thuốc chuột, ăn vào bụng, đi năm bước đứt ruột đứt gan, đi bảy bước thất khiếu chảy máu, có ai dám ăn không nào?
Mẹ bước tới cầm bát lên, dùng ống tay áo lau sạch bụi đất, rồi cầm môi múc đầy bát cháo, đưa cho chị Cả. Chị Cả không cầm. Mẹ nói:
- Vậy mẹ ăn bát này.
Mẹ thổi phù phù, húp thử một ít, rồi húp nhiều hon. Mẹ múc ba bát nữa, đưa cho chị Sáu chị Tám và cậu ấm nhà Tư Mã.
Các tù binh nói:
- Múc cho chúng tôi, múc cho chúng tôi, độc hay không độc cũng xin ba bát.
Hai lính già cầm môi, hai lính trẻ đưa bát, bát nọ tiếp bát kia. Những chú lính cầm súng đứng dạt sang một bên, chênh chếch với chúng tôi. Chúng tôi nhìn được mắt họ. Mắt họ chỉ nhìn đám tù binh. Cái tù binh đứng cả dậy, tự động xếp thành hàng, một tay giữ quần, một tay buông thõng, đợi đến lượt. Người nào đã có bát cháo trong tay thì hết sức thận trọng, sợ ngón tay bị bỏng. Các tù binh, người nọ tiếp người kia, tay giữ quần, tay bê bát cháo đi vòng xuống phía sau, ngồi xuống, bê cháo bằng cả hai tay, vừa thổi vòng quanh vừa húp. Người nào có kinh nghiệm thì húp từng người nhỏ, húp người to là bỏng miệng. Cậu ấm nhà Tư Mã chưa có kinh nghiệm, húp ngay một người to, nhổ ra không được, nuốt vào không trôi, bỏng đến nỗi nước mắt ràn rụa. Một tù binh khi đưa tay ra nhận bát cháo, khẽ gọi:
- Chú dượng ơi!
Người lính già cầm môi ngẩng lên nhìn.
- Chú dượng không nhận ra cháu sao? Cháu là Xương đây mà!
Người lính già đập cái môi vào mu bàn tay chú tù binh, mắng:
- Ai là chú dượng của mày? Lầm rồi! Ta không có thằng cháu nào làm Hán gian, mặc quân phục xanh cả!
Tù binh Xương ái một tiếng, bát cháo đổ ụp xuống bàn chân, anh ta lại ái một tiếng nữa, vội bỏ tay giữ quần để xoa chân bị bỏng, cái quần tụt xuống đến đầu gối, để lộ chiếc quần lót đen bẩn, anh ta lại ối một tiếng, hai tay xốc quần lên. Khi anh ta đứng thẳng người lên, hai mắt đã mọng nước.
- Lão Trương, phải có kỷ luật chứ - Chính ủy Tưởng nổi giận - Ai cho phép lão đánh tù binh? Báo cho quân pháp, phạt giam ba ngày bây giờ?
Lão Trương lầu bầu:
- Nó dám bảo tôi là chú dượng nó!...
Chính ủy Tưởng nói:
- Lão đúng là chú dượng nó, úp mở mà làm gì?
Động viên nó tham gia đội bộc phá của ta! Chú em, bỏng ra sao? Lát nữa y tá đến, bôi tí thuốc mỡ 202 là khỏi. Cho chú ta bát khác, thêm ít đậu vào! Chú lính rủi ro được bát cháo ưu đãi, tập tễnh lui về phía sau. Những người khác nhích lên.
Giờ đây, tất cả tù binh đều đang ăn cháo, tiếng húp soạn soạt vang lên đây đó. Hai người lính già và hai chú lính trẻ tạm thời không có việc làm. Chú lính trẻ liếm môi, chú kia nhìn chúng tôi chằm chằm. Bác lính già dùng môi vét đáy thùng vì không biết làm gì, còn bác kia thì lấy túi thuốc và tẩu ra định hút thuốc. Tôi lợm giọng đẩy bát cháo ra. Cái miệng của tôi không quen với bất cứ thứ gì, trừ bầu vú của mẹ.
Chị Cả hừ lên một tiếng bằng giọng mũi, chính ủy Tưởng nhìn chị, nét mặt chị cũng biểu lộ sự khinh miệt cực dộ. Chị nói:
- Tôi cũng nên húp một bát chứ nhỉ?
Chính ủy Tưởng nói:
- Nên quá đi chứ, bà nhìn lại khuôn mặt bà xem, như một quả cà héo! Lão Trương, múc cho bà Lượng một bát, đặc đặc vào!
Chị Cả nói:
- Tôi thích loãng.
Chính ủy Tưởng nói:
- Loãng đấy!
Chị Cả bê bát cháo, húp một ngụm, nói:
- Có đường thật, chính ủy Tưởng, tôi khuyên ông cũng nên húp một bát, ông nói nhiều thế chắc khô cả cổ?
Chính ủy Tưởng nắn nắn cổ họng, nói:
- Đúng là hơi khát. lão Trương, cho tôi một bát, loãng thôi nhé!
Chính ủy Tưởng bưng bát cháo, cùng chị Cả thảo luận về các loại đậu. Anh ta kể rằng, ở quê anh ta có giống đậu xanh, đun sôi lên là nhuyễn thành bột, không như đậu xanh ở đây, phải ninh đủ hai tiếng đồng hồ mới nhuyễn. Hết chuyện đậu xanh lại bàn sang đậu vàng. Con người này như một chuyên gia về đậu. Hết tất cả các loại đậu chính ủy Tưởng chuyển sang bàn về lạc, nhưng vừa chuyển đê tài, chị Cả quăng cái bát xuống đất, hỏi:
- Anh Tưởng, anh chơi cái trò gì vậy?
Tưởng mỉm cười, nói:
- Bà Lượng, bà đa nghi quá! Ông nhà chắc sốt ruột vì chờ đợi rồi!
- Anh ấy ở đâu? - Chị Cả hỏi mỉa.
Tưởng nói:
- Tất nhiên là ở nơi mà các vị không thể quên!
Trước cổng nhà tôi, lính đứng gác còn nhiều hơn ở nhà thờ.
Ngay ở của vào chái đông còn một trạm gác nữa. Người trực gác là Tôn Bất Ngôn. Hắn ngồi trên khúc gỗ tròn dưới chân tường đùa nghịch thanh đao trong tay, Tiên Chim ngồi vắt vẻo trên chạc cây đào, tay cầm quả dưa chuột gặm từng tí một.
- Vào đi - Chính ủy Tưởng bảo chị Cả - Cố gắng khuyên ông ta, chúng tôi mong rằng, ông ta sẽ trở về với chính nghĩa.
Chị Cả bước vào trong chái đông, rú lên một tiếng. Chúng tôi chạy ùa vào: Sa Nguyệt Lượng treo cổ trên xà nhà. Anh ta mặc bộ quân phục bằng dạ xanh, chân đi ủng thúc ngựa bằng da bò bóng loáng. Trong trí nhớ của tôi anh ta không cao lắm, nhưng giờ đây trông anh ta dài thượt.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 18
Tôi trườn từ trên giường xuống, chưa mở mắt đã sà vào ngực mẹ, thô bạo lật áo mẹ lên, hai tay chộp lấy hai bầu vú, há miệng ngoạm một đầu vú. Một cảm giác cay xè lưỡi lan khắp miệng, nước mắt tôi ứa ra. Tôi nhả đầu vú ra ngửa mặt lên, vừa tủi thân vừa nghi hoặc. Mẹ vỗ nhẹ đầu tôi, cười tỏ vẻ hối lỗi, nói:
- Kim Đồng, con lên bảy rồi, là một trang hảo hán rồi, phải cai sữa thôi?
Lời mẹ chưa dứt, Kim Đồng đã nghe thấy tiếng cười ròn tan của chị Tám.
Mắt tối sầm, tôi ngã chổng bốn vó lên trời. Tôi tuyệt vọng khi thấy rằng, bầu vú với hai núm vú bôi ớt chẳng khác đôi chim câu mắt hồng đã vỗ cánh bay đi. Để giúp tôi cai sữa, mẹ bôi đủ các thứ lên núm vú: gừng sống, tỏi sống, nhớt cá; thậm chí cứt gà, lần này lại thêm tương ớt. Lần cai sữa nào mẹ cũng thất bại vì động tác giả chết của Kim Đồng. Tôi nằm trên mặt đất đợi mẹ đi rửa đầu vú như mọi lần. Cơn ác mộng hồi đêm hiện rõ mồn một trước mắt: Mẹ xẻo vú vút xuống đất, nói:
- Ti đi, mày ti nữa dỉ Một con mèo đen ngoạm bầu vú chạy mất. Mẹ dựng tôi dậy, ấn tôi ngồi xuống bên bàn ăn. Mẹ nghiêm mặt nói:
- Nói gì thì nói, con phải cai sữa. Chẳng lẽ con muốn mẹ chỉ còn như que củi, hả Kim Đồng?
Cậu cả nhà Tư Mã, Sa Tảo Hoa, chị Tám ngồi xung quanh bàn ăn miến. Họ nhìn tôi bằng cặp mắt khinh miệt. Bà nội cười nhạt trên đống tro bên cạnh bếp. Người bà gầy đét, da nhăn nheo như giấy bản, tróc ra từng mảng. Cậu ấm nhà Tư Mã giơ cao một sợi miến loằng ngoằng trước mặt tôi. Sợi miến như con giun chui vào miệng hắn. Tôi thấy lợm giọng.
Mẹ đặt lên bàn một bát miến bốc hơi nghi ngút, đưa cho tôi đôi đũa, nói:
- Ăn đi, nếm thử tài nghệ của chị.
Chị Sáu đang cho bà nội ăn bên bếp lò. Chị ngoẹo đầu nhìn tôi bằng ánh mắt thù địch, nói:
- Lớn rồi mà còn bú tí, đồ đốn mạt?
Tôi ném bát miến vào người chị Sáu.
Chị nhảy dụng lên, trên người đầy những sợi miến như những con giun. Chị giận dữ nói:
- Mẹ nuông chiều nó quá đấy.
Mẹ đứng phía sau cho tôi một bạt tai.
Tôi chồm lên người chị Sáu, hai tay chộp chính xác hai bầu vú của chị. Tôi nghe thấy bầu vú chị kêu chiếp chiếp chẳng khác gà con bị chuột cống ngoạm lấy cánh.
Chị Sáu vùng dậy, cúi gập ngoi vì đau. Tôi ra sức cấu véo, khuôn mặt hơi gầy của chị đổi thành màu vàng, chị vừa khóc vừa gọi:
- Mẹ, mẹ Ơi, mẹ xem thằng Kim Đồng!
Mẹ bọp cho tôi một cái vào sau gáy, giận dữ mắng:
- Thằng súc sinh!
Tôi ngã lăn ra, ngất đi.
Tôi tỉnh dậy, đầu như muốn vỡ ra. Cậu ấm nhà Tư Mã vẫn điềm nhiên biểu diễn trò ăn miến baỵ Sa Tảo Hoa ngẩng khuôn mặt dính đầy sợi miến do áp mặt vào gờ bát, sợ hãi nhìn tôi, đồng thời cũng để tôi cảm thấy rằng nó rất kính nể tôi. Chị Sáu bị thương ở vú, đang ngồi khóc trên ngưỡng cửa. Bà nội nhìn tôi, thâm hiểm. Bà Lã nét mặt đầy tức giận, cúi xuống xem những sợi miến rơi trên mặt đất.
- Đồ lộn giống, mày tưởng kiếm được bát miến dễ nắm phải không?
Bà bốc một nắm sợi miến dưới đất, bịt mũi tôi lại cho há miệng ra, rồi nhét nắm miến vào miệng tôi. Mày nuốt đi hộ tao, nuốt đi. Xương tủy tao bị mày hút cạn rồi, cái đồ oan nghiệt này!
Tôi nôn ọe, vùng ra khỏi tay bà, chạy ra vườn. Ngoài sân, chị Lai Đệ vẫn cái áo chùng đen bốn năm chưa cởi, đang gò lưng mài con dao găm. Chị nhìn tôi cười cười tỏ vẻ thân thiện, đột nhiên chị đổi sắc mặt, nghiến rằng nói:
- Lần này ta phải thịt nó bằng được. Con dao trong tay tôi sắc như nước, tôi phải cho nó biết giết người thì phải đền mạng!
Tôi trong lòng không vui nên không bắt chuyện với chị. Mọi người cho rằng chị bị bệnh tâm thần. Tôi biết chị giả điên nhưng không hiểu vì sao chi lại giả điên.
Một bận, trong gian chái chị Ở, chị ngồi vắt vẻo trên cối xay bột, thả hai chân khuất trong chiếc áo chùng đen, kể lại những ngày chị cùng Sa Nguyệt Lượng chu du khắp thiên hạ, nếm đủ phú quí vinh hoa, chứng kiến bao chuyện kỳ thú. Chị từng có một chiếc hộp biết hát, có một ống kính kéo được vật ở xa lại gần, khi ấy tôi cho rằng chị nói những chuyện điên khùng nhưng ngay sau đó tôi được trông thấy cái hộp biết hát. Đó là chiếc hộp chị Phán Đệ đem về. Chị là con cưng của đại đội bộc phá, béo quay ra, giống một con ngựa đang mang thai.
Chị để cái đồ chơi có gắn chiếc loa màu vàng lên giường, đắc ý gọi chúng tôi:
- Lại đây, cho các em mở rộng tầm mắt!
Chị bỏ miếng vải che màu đỏ ra. Đây là tất cả bí mật của chiếc hộp. Chị quay cái tay quay một chập, quay xong, chị nở một nụ cười bí ẩn, nói:
- Nghe nhé, người ngoại quốc đang cười. Tiếng người chợt vang lên trong hộp khiến chúng tôi giật thót, tiếng cười của người ngoại quốc không khác tiếng cười của ma quỉ!
- Đem đi, đem ngay đi! Mẹ quát to - Đem cái hộp ma quỉ ấy đi!
Chị Phán Đệ nói:
- Mẹ lạc hậu quá, đây là máy quay đĩa, không phải hộp ma quỉ?
Bên ngoài cửa sổ, chị Lai Đệ giọng lạnh như tiền:
- Kim mòn rồi, phải thay kim mới.
- Thưa bà Lượng! - Chị Năm hỏi mỉa - Bà khoác lác cái gì vậy?
- Cái trò này tôi đã chơi chán rồi! - Chị Cả giọng khinh miệt - Tôi đã đái vào cái loa, không tin cô ngửi xem.
Chị Năm ghé lại gần cái loa ngăn ngăn. Chị nhăn mặt. Chị không cho chúng tôi biết chị ngửi thấy mùi gì. Tôi tò mò ghé mũi ngửi, một mùi tanh như mùi cá biển xộc vào mũi. Chị Năm gạt tôi sang một bên.
- Con yêu tinh - chị Năm hằn học nói - Lẽ ra phải xử bắn chị, nhưng tôi đã xin cho chị thoát.
- Lẽ ra tôi có thể giết hắn, nhưng cô đã ngăn cản tôi!- Chị Cả nói - Các người xem, nó đâu còn là cô gái trinh trắng nữa! Hai cái vú của nó, thằng cha Tưởng đã biến thành hai nắm bã củ cải rồi?
- Đồ Hán gian chó chết! Con Hán gian! - Chị Năm cố ý lấy cánh tay che cặp vú mướp, chửi - Con vợ thối tha của thằng Hán gian chó chết!
- Chúng mày cút hết đi cho tao! - Bà Lã giận điên lên, nói - Cút hết đi, chết hết đi! Đừng để tao thấy mặt chúng mày nữa!
Tôi đâm ra kính nể chị Lai Đệ. Chị dám đái vào cái loa quí hiếm đến như thế. Cái ống nhòm có thể kéo vật ở xa lại gần thì cũng khẳng định là có thực. Đó là ống nhòm, người chỉ huy nào cũng có một cái đeo trước ngực. Chị Lai Đệ ngồi thoải mái trên máng cỏ đã trải lên một lớp cỏ khô, thân mật nói với tôi:
- Thằng ngốc! -
- Em không ngốc, em chẳng ngốc tí nào! - Tôi thanh minh.
- Chị cho rằng em rất ngốc?
Đột nhiên chị vén áo dài lên, giơ cả hai chân lên cao, bảo tôi:
- Em nhìn vào mà xem!
Một tia nắng soi rõ chân, bụng và cặp vú như hai con lợn sữa tí hon của chị.
- Rúc vào - chị mỉm cười bảo - Rúc vào mà bú tí! Mẹ cho con gái chị ti sữa mẹ, chị cho em ti sữa chị?
Tôi rụt rè nhích lại gần máng, chị ưỡn người ra như con cá chép lúc vọt lên mặt nước, hai tay nắm hai vai tôi, thả vạt áo xuống cho trùm lên đầu tôi. Trước mắt tôi là một màu đen, tôi dò dẫm trong bóng tối đó, vừa tò mò vừa sốt ruột, lại có vẻ bí ẩn, thú vị. Tôi ngửi thấy cái mùi giống như ở miệng loa máy quay đĩa. Chỗ này, chỗ này, tiếng nói của chị nghe như rất xa.
- Chú ngốc!
Chị nhét núm vú vào miệng tôi.
- Ti đi thằng chó con! Chú dứt khoát không phải giống nhà Thượng Quan, chú là đồ con lai.
Đất bụi đắng ngắt bám trên đầu vú chị tan trong miệng tôi. Nách chị tỏa ra một mùi chua chuạ Tôi cảm thấy sắp chết ngạt đến nơi, nhưng hai tay chí vít đầu tôi, người chị, dướn thẳng như muốn nhét cả bầu vú to bự và rắn chắc vào miệng tôi. Tôi chịu không thấu, cắn vào đầu vú chị. Chị đứng bật dậy, tôi chui ra khỏi áo dài, nằm co duỗi chân chị, chờ đợi một cú đá hoặc hai cú đá của chị. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt vừa đen vừa gầy của chị. Hai bầu vú co giật dữ dội bên trong chiếc áo dài, như hai con chim mái đập đập đôi cánh xinh xinh sau trận giao phối.
Tôi cảm thấy vô cùng ân hận, lấy ngón tay gại gại vào mu bàn tay của chị. Chị giơ tay xoa gáy tôi, nói khẽ:
- Em yêu, đừng nói chuyện này với ai nhé!
Tôi thành thật gật đầu.
Chị nói:
- Chị nói riêng với em chuyện này, anh rể em báo mộng cho chị, nói rằng anh ấy chưa chết, hồn vía anh ấy nhập vào một người đàn ông tóc vàng da trắng.
Tôi đi trong ngõ, trong đầu luôn nghĩ đến mối quan hệ bí mật giữa tôi và chị Lai Đệ. Năm đội viên của đại đội bộc phá chạy trên phố như những thằng điên, mặt mày rạng rỡ. Một anh béo trong khi chạy còn thụi tôi một quả, hét to:
- Thằng nhóc, bọn Nhật đầu hàng rồi! Mau về nhà cho mẹ mày biết, bọn Nhật đầu hàng rồi, kháng chiến thắng lợi rồi!
Tôi trông thấy từng đám binh sĩ nhảy múa trên đường phố, trong đó có lẫn mấy người dân. Nhật đầu hàng, Kim Đồng mất bầu vú? Thượng Quan Lai Đệ vui lòng cho tôi ti sữa của chị, nhưng vú chị không có sữa, đầu vú ghét bám đầy. Nghĩ tới đây tôi cảm thấy thất vọng ghê gớm. Thằng câm chồng chị Ba kéo chị chạy những bước dài từ đầu ngõ phía bắc chạy xuống. Hắn và tiểu đội của hắn bị mẹ đuổi khỏi nhà tôi sau vụ Sa Nguyệt Lượng chết. Hắn dẫn tiểu đội chuyển về ở trong ngôi nhà của hắn, Tiên Chim cũng đi theo hắn. Tuy đã dọn đi, nhưng tiếng rên la không biết xấu hổ của Tiên Chim cứ đêm đêm từ nhà thằng câm vọng ra, luồn theo ngõ phố ngoằn ngoèo đập vào tai tôi. Giờ đây hắn kéo chị cùng ra phố.
Chị phưỡn bụng ngồi trên cánh tay hắn, trên mình mặc một áo dài trắng, kích thước y hệt cái áo dài đen của chị Cả, chỉ khác ở màu sắc. Thế là từ cái áo dài của Tiên Chim tôi nghĩ tới cái áo dài của chị Lai Đệ, từ cái áo dài của chị Lai Đệ tôi nghĩ tới hai bầu vú của chị, từ bầu vú của chị tôi nghĩ tới bầu vú của Tiên Chim. Bầu vú của Tiên Chim là loại tốt nhất trong hàng loạt những bầu vú của nhà Thượng Quan, gọn ghẽ và lanh lợi, núm vú sống động như cái miệng con nhím và hơi vểnh lên. Bầu vú Tiên Chim thước loại cao cấp, vậy vú của chị Cả có huộc loại cao cấp không? Tôi không thề trả lời dứt khoát, bỏi vì từ khi tôi hành động có ý thức đến nay, tôi thấy cái đẹp của vú là một phạm trù rất rộng, không thể tùy tiện mà nói rằng vú nào xấu vú nào đẹp. Con nhím có khi cũng đẹp, lợn sữa cũng có khi đẹp. Thằng câm đặt chị Tiên Chim xuống trước mặt tôi, miệng kêu ồ... à...
Hắn giơ nắm đấm to như vó ngựa hươ hươ một cách thân thiện trước mặt tôi. Tôi hiểu ồ... à... của hắn đồng nghĩa với Nhật đầu hàng rồi!. Hắn lao ra đường phố chính như một con trâu rừng.
Tiên Chim ngoẹo đầu nhìn tôi. Bụng chị to đến phát khiếp, y hệt bụng con nhện khổng lồ.
- Em là chim cưu hay chim nhạn. - Chị hỏi tôi với giọng nhỏ nhẹ, và cũng khó nói là chị hỏi tôi.
- Con chim của em bay mất rồi! Chim của em bay rồi!
Chị bối rối thật sự. Chị đang rộng hai tay, bàn chân trần dí dí những cục đất dưới chân, miệng kêu chíp chíp chạy ra phố. Chị chạy rất nhanh, chăng lẽ bụng to không gây trở ngại gì sao? Nếu không vướng cái bụng to, chắc chị chạy đến lúc nào đó là bay lên trời. Nghĩ rằng mang thai ảnh hưởng đến tốc độ khi chạy là một ý nghĩ chủ quan, trên thực tế, khi đàn sói chạy hết tốc lực, bị tụt lại không phải là những con sói có chửa. Trong đàn chim bay cấp tập, dứt khoát có những con mái mang trứng. Tiên Chim như một con đà điểu khỏe mạnh, thoáng cái đã nhập vào đám người trên phố.
Chị Năm từ trên phố chạy về nhà. Bụng chị cũng tròn căng, quân phục đầy mồ hôi, vú ướt đẫm. Khi chạy, chị tỏ ra nặng nề, không như Tiên Chim. Tiên Chim vung tay khi chạy, chị Năm hai tay ôm bụng mà chạy. Chị Năm thở phì phò như con ngựa cái kéo xe lên dốc. Trong số chị em nhà Thượng Quan, chị Năm có thân hình đấy đà cao lớn hơn cả, hai bầu vú ngạo nghễ như được bơm đầy hơi, vỗ kêu bồm bộp. Chị Cả trùm mạng đen, mặc áo dài đen, vào một đêm tối trời giơ bàn tay không thấy ngón, chị từ con mương bò vào sân nhà Tư Mã. Chị lần theo mùi chưa chưa áp sát căn phòng đèn sáng trưng. Cái sân lát đá xanh mọc đầy rêu trơn, tim chị như muôn nhảy khỏi lồng ngực, bàn tay cầm dao tê dại, miệng tanh như ăn phải nhớt cá. Qua khe cửa, chị Cả chứng kiến một cảnh tượng kinh khủng, đồng thời cũng khiến chị tâm thần rung động: một cây bạch lạp đang nhỏ những giọt lệ bằng sáp, ánh nên lắc lư, bóng người thấp thoáng.
Mặt đất lát gạch men xanh vút bừa bãi quân phục màu xám của Thượng Quan Phán Đệ và chính ủy Tưởng, một chiếc tất bằng vải thô vắt ngang miệng thùng nước. Phán Đệ trần truồng, phục trên người Tưởng Lập Nhân: Chị Cả xô cửa xông vào nhưng sững lại khi trông thấy cái mông vổng lên của cô em và những hạt mồ hôi lấp lánh khoảng giữa sống lưng. Kẻ thù mà chị định giết, được che kín. Chị giơ dao quát to:
- Tao thì giết chúng mày? Tao thì giết chúng mày! Phán Đệ lăn xuống đất. Tưởng Lập Nhân vớ lấy cái chăn chụp lên người chị Cả, đè chị xuống. Hắn giật khăn trùm trên mặt chị, cười:
- Tôi đoán ngay là bà!
Chị Năm đứng ngoài cổng lớn, gào lên:
- Bọn Nhật đầu hàng rồi!
Khi chạy trở ra phố, chị kéo tôi theo, bàn tay chị mồ hôi nhơm nhớp, mùi chưa loét. Từ mùi chua ấy, tôi nhận ra mùi thuốc lá. Thuốc lá là mùi của Lỗ Lập Nhân. Để kỷ niệm đại đội trưởng Lỗ anh dũng hy sinh trong trận tiêu diệt Lữ đoàn Sa Nguyệt Lượng, Tưởng Lập Nhân đổi họ thành họ Lỗ. Cái mùi của Lỗ Lập Nhân tỏa ra trên phố qua mồ hôi chị Năm.
Đại đội bộc phá nhảy múa trên đường phố, nhiều người nước mắt ràn rụa. Người ta cố ý hích vào nhau, đấm vào vai nhau. Có người trèo lên tháp chuông chênh vênh, kéo chuông ầm ĩ. Người đổ ra đồng ngày càng nhiều, người xách thanh la, người dắt theo con dê sữa, có người bê cả một gói thịt còn tươi nguyên, gói bằng lá sen. Một phụ nữ đeo những quả lục lạc trên núm vú khiến mọi người đặc biệt chú ý. Chị ta nhảy một điệu quái gở, khiến bầu vú nhảy tưng tung, lục lạc rộ lên những âm thanh ròn rã. Bụi bay lên dưới chân, họng khản đặc. Tiên Chim ngó nghiêng trong đám đông. Thằng câm giơ nắm đấm thụi tất cả những ai đến gần hắn. Sau đó, một đám binh sĩ khênh Lỗ Lập Nhân như khênh một khúc gỗ từ trong sân nhà Tư Mã đi ra. Các binh sĩ tung hắn lên trời, ngang tầm ngọn cây, đón lấy rồi lại tung lên.
- Ôi, ố, ối! - Chị Năm ôm bụng, chảy nước mắt, gào lên: - Lập Nhân ơi, Lập Nhân - Chị định len vào đám binh sĩ, nhưng bị những cái mông đầy chai cứng của họ hất ra...
Cuộc vui như điên khiến mặt trời chạy nhanh hơn. Ông đã xuống sát mặt đất, tựa vào ngọn cây trên Bãi-CátĐài mà thư giãn, toàn thân một màu hồng, khắp người bọt nước, nhễ nhại mồ hôi, hơi nóng hùng hục, chẳng khác một ông già vừa ngồi thở vừa ngắm đám người trên đường phố.
Đầu tiên là một người ngã gục trong đám bụi, tiếp theo là cả một mảng người ngã xuống. Đám bụi bay lên rồi từ từ rơi xuống mặt, xuống tay, trên quần áo đẫm mồ hôi. Trong nắng chiều đỏ như máu, những người đàn ông nằm thẳng cẳng như những xác chết. Trời nhập nhoạng tối, làn gió mát từ đầm cói thổi tới, những tiếng va dập danh gọn của đoàn tàu chạy qua cầu. Mọi người lắng nghe, có lẽ chỉ mình tôi lắng nghe, kháng chiến thắng lợi rồi, nhưng Kim Đồng đã bị bầu vú vút bỏ. Tôi nghĩ đến cái chết, tôi muốn nhảy xuống giếng, tôi muốn nhảy xuống sông!
Trong đám người, một phụ nữ áo dài trắng từ từ ngồi dậy. Người ấy quì trên mặt đất, lôi ra một, rồi hai vật cùng màu với cái áo dài của chị ta, cùng với màu trên đường phố. Hai vật cất tiếng khóc như cá nhân ngự Chị ba Tiên Chim trong cuộc vui mừng kháng chiến thắng lọi, đã đẻ sinh đôi hai con trai.
Tiên Chim và những đứa con của chị khiến người ta tạm thời quên đi những điều phiền muộn, tôi nhẹ nhàng nhích tới gần để xem mặt hai đứa cháu gọi bằng cậu. Tôi lách qua những cẳng chân của đàn ông, bước qua những cái đầu dưới đất, cuối cùng, trông thấy hai đứa da màu vàng đất, những vết nhăn đầy trên mặt, trên người, đầu trọc lốc như quả bầu bẹ Chúng ngoác miệng ra khóc trông phát khiếp, tôi có cảm giác trên người chúng sẽ mọc đầy vảy như vảy cá. Tôi lùi lại, vô ý dẫm phải cánh tay một người đàn ông. Người này hừ lên một tiếng, không đánh cũng không chửi tôi. Anh ta từ từ ngồi dậy, rồi từ từ đứng lên, vuốt đất bụi trên mặt, tôi biết anh ta là ai. Là Lỗ lập Nhân, chồng chị Năm. Lỗ Lập Nhân tìm ai vậy? Tìm chị Năm tôi. Chị Năm nặng nhọc ngồi dậy trong đống cỏ khô, nhào vào lòng Lỗ Lập Nhân, ôm đầu anh ta mà vò tóc. Thắng lợi rồi, thắng lợi rồi, cả hai cứ nói lảm nhảm, vuốt ve nhau. Đặt tên con là Thắng Lợi, chị Năm nói.
Lúc này, mặt trời đã mỏi mệt đi ngủ, mặt trăng tỏa ánh sáng trong suốt, đẹp như người quả phụ thiếu máu. Lỗ Lập Nhân định dìu chị Năm đi về. Chính khi đó, chồng chị Hai là Tư Mã Khố dẫn đại đội biệt động của anh ta tiến vào thôn.
Đại đội biệt động của Tư Mã Khố có ba trung đội trực thuộc. Trung đội một là trung đội kỵ mã, có sáu mươi tư con ngựa lai giữa giống ngựa I-li với ngựa Mông Cổ, các chiến sĩ nhất loạt trang bị súng trường Mỹ, loại súng nhỏ nhắn, bắn liên thanh. Trung đội hai là trung đội xe đạp, có sáu mươi tư chiếc xe đạp nhãn hiệu lạc đà, trang bị loại tiểu liên Đức bắn hai mươi phát, có kính ngắm. Trung đội ba là trung đội la, gồm sáu mươi tư con la khỏe mạnh, chạy nhanh như gió. Ngoài ra, còn có một tiểu đội đặc biệt gồm mười ba con lạc đà, chuyên việc sửa chữa, thồ dụng cụ và phụ tùng sửa chữa xe đạp, súng ống và chuyên chở đạn được, chở Tu Mã Khô, Thượng Quan Chiêu Đệ và hai con gái của họ: Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng; chở một người Mỹ tên là Bác-bít. Con lạc đà cuối cùng chở Tư Mã Đình, mốc thếch như con khỉ đột. Lão mặc quần nhà binh, áo sơ mi lụa màu ngó sen, nét mặt rầu rĩ, hình như trong lòng có điều không vui.
Bác-bít có cặp mắt dịu dàng, mái tóc bạch kim mềm mại, đôi môi nhỏ, mình mặc áo da màu đỏ, quần vải bò có đến mười mấy cái túi to nhỏ, chân đi ủng bằng da thuộc mềm nhũn. Anh ta ăn mặc khác người như vậy, ngồi ngất ngưởng trên lưng con lạc đà đực cùng Tư Mã Khố, Tư Mã Đình đi vào thôn.
Trung đội kỵ binh của Tư Mã Khố ào tới như một cơn lốc Tiểu đội một sáu con ngựa đen tuyền, trên lưng sáu con ngựa ô này là sáu thanh niên tuấn tú, mặc quân phục màu da cam, cúc đồng sáng loáng trước ngực và trên tay áo, ủng đi ngựa cao cổ, bóng loáng, súng đeo trước bụng bóng loáng, mũ sắt trên đầu cũng bóng loáng, cái mông con ngựa cũng bóng loáng. Khi gần đền đám người năm ngổn ngang, đội kỵ mã đi chậm lại, những con ngựa đi đầu ngẩng đầu lên, chuyển sang chạy nước kiệu. Sáu lính kỵ chĩa súng lên trời, bắn một loạt đạn vào khoảng không mênh mang, những vỏ đạn sáng trưng bắn ra tứ phía. Súng nổ khiến tai điếc đặc, lá cây rụng ào ào. Lỗ Lập Nhân và Thượng Quan Phán Đệ giật mình, vội buông nhau ra. Lỗ Lập Nhân quát:
- Các anh thuộc đơn vị nào?
Một kỵ binh đáp:
- Ông già ở bộ phận nào vậy?
Lời chưa dứt, một tràng tiểu liên quét ngang ngay trên đầu Lỗ Lập Nhân. Anh ta luống cuống nằm xoài xuống đất, nhưng lập tức nhảy đứng lên, quát to:
- Tôi là đại đội trưởng kiêm chính ủy đại đội bộc phá, tôi cần gặp chỉ huy của các anh!
Tiếng nói của Lỗ Lập Nhân bị chìm trong hàng loạt tiểu liên bắn chỉ thiên. Các đội viên đội bộc phá nháo nhào ngồi dậy, đụng nhau ngã dúi dụi. Đội kỵ mã cho ngựa chồm lên, đường phố hỗn loạn nên đội hình của họ cũng hỗn loạn. Loại ngựa lai này thấp bé, linh hoạt, như một lũ mèo đực nhanh nhẹn và ngổ ngáo, hích ngã những người không kịp né tránh hoặc năm dưới đất vừa vùng dậy. Tiểu đội một vừa qua, tiểu đội hai ập tới, những người trên đường phố bị kỵ binh dồn đuổi, hích ngã, muốn chạy mà chạy không thoát.
Mọi người chưa hiểu sự thể ra sao, thì trung đội Lừa hàng ngũ tề chỉnh, các binh sĩ cầm ngang súng, vênh váo chẳng khác những con lừa. Ở đầu phố đằng kia, trung đội kỵ binh chỉnh đốn hàng ngũ, rồi quay lại, hình thành hai mũi giáp công, mọi người bị dồn vón cục ở giữa, có người định chạy vào ngõ, nhưng lập tức bị trung đội ba, những binh sĩ cưỡi xe đạp nhãn hiệu lạc đà, mặc tiện y hoa đỏ tía, súng tiểu liên băng đạn cối, ngăn lại. Họ xả súng ngay trước mặt những người chạy trốn, đất bụi mù mịt, mọi người hốt hoảng chạy trở lại đường phố. Cuối cùng, toàn bộ sĩ quan binh lính đại đội bộc phá bị dồn tới trước cổng nhà Phúc Sinh Đường. Vì sao họ không lợi dụng khu dinh cơ kín cổng cao tầng và những lô cốt ngầm, lô cốt nổi của nhà Phúc Sinh Đường để tổ chức chống cự. Vì rằng Tư Mã Khố đã cho điệp viên trà trộn vào hàng ngũ đội bộc phá, nhân lúc hỗn loạn đã đóng chặt cổng lớn cổng bé nhà Phúc Sinh Đường, hơn nữa, còn gài hàng loạt mìn trước cổng.
Theo lệnh, các binh sĩ nhất loạt nhảy xuống lừa, dàn sang hai bên để chừa một lối đi. Đây là dấu hiệu một nhân vật quan trọng sắp xuất hiện. Các binh sĩ của đại đội bộc phá nhìn con đường. Những người dân rủi ro bị kẹt giữa đám lính cũng nhìn con đường. Tôi mờ mờ cảm thấy rằng, nhân vật quan trọng đó chắc chắn có liên quan đến nhà Thượng Quan.
Mặt trời đã chìm một nửa dưới Bãi-CátĐài, chỉ còn lại một quầng đỏ làm nền cho bầu không khí bi thảm. Những con quạ bay vụt lên từ nóc lều những người ngụ cự Vài con đợi thỏa sức biểu diễn kỹ thuật phi hành trên không trung. Khoảnh khắc yên lặng là dấu hiệu của nhân vật quan trọng đã tới.
Thắng lợi? Thắng lợi!
Lính kỵ và lính lừa hô tọ Nhân vật quan trọng đã tới. Nhân vật quan trọng từ phía tây đi tới, trên mình con lạc đà. Trên đầu con lạc đà có ngù dỏ.
Tư Mã Khố mặc quân phục xanh bằng dạ cao cấp, đầu đội chiếc mũ mà chúng tôi gọi đùa là mũ trôn lừa, ngực đeo hai huân chương vàng chóe to bằng vó ngựa, lưng thắt một đai dạn, sườn bên phải đeo khẩu Xanhtêchiên. Con lạc đà vươn dài cổ rồng, rung cặp môi ngựa dâm đãng, dựng hai tai chó nhọn hoắt, lim dim cặp mắt hổ lông mi rậm, giơ ngược những móng guốc như móng trâu, ve vẩy đuôi rắn dài và mảnh, co rúm mông dê gầy guộc, bước những bước dài giữa hai hàng quân. Lạc đà như con thuyền nhấp nhô, Tư Mã Khố như một thủy thủ. Hắn duỗi thẳng hai chân, ngực ưỡn ra, người hơi ngả ra sau, giơ tay đeo găng trắng lên sát vành mũ trôn lừa, khuôn mặt dài màu đồng điếu rắn câng, những nốt ruồi trên má đỏ như lá phong uống no sương. Khuôn mặt hắn như tạc bằng gỗ dàn hương, quang đầu ba lớp để chống mục chống ẩm. Bọn lính kỵ và lính lừa bồng súng hoan hô.
Đi sau lạc đà của Tư Mã Khố là lạc đà của Tư Mã Khố phu nhân: Thượng Quan Chiêu Đệ. Mấy năm không gặp, nét mặt Chiêu Đệ chẳng đổi khác là bao, vẫn thanh tú và dịu dàng. Chị khoác chiếc áo gió bằng lụa trắng, bên trong là chiếc áo chẽn bằng đoạn màu vàng, quần lụa hồng, chân đi giày da nhỏ màu vàng cực kỳ tinh xảo. Hai cổ tay đeo hai vòng ngọc bích, trừ hai ngón tay cái, tám ngón khác đeo tám nhẫn vàng. Hai dái tai đeo hai hạt nho xanh biếc, sau này tôi mới biết đó là ngọc phỉ thúy. Không nên quên hai cháu ngoại cao quí của tôi. Lạc đà của chúng đi ngay sau lạc đà của Chiêu Đệ. Giữa hai bướu có một sợi dây thừng to buộc chặt hai giỏ có hình dáng như chiếc ghế dựa, ngồi bên trái đầu cài đầy hoa là Tư Mã Thượng, ngồi bên phải hoa cài đầy đầu là Tư Mã Hoàng.
Tiếp theo là Bác-bít, anh chàng người Mỹ. Cũng khó như đoán tuổi chim én, không thể đoán được tuổi anh chàng người Mỹ này. Nhưng cặp mắt mèo xanh biếc của anh ta vô cùng linh hoạt khiến tôi cảm thấy anh ta rất trẻ, rất giống chú gà trống choai vừa đạp mái. Tóc anh ta mới bóng mượt làm sao! Anh ta ngồi trên lưng lạc đà, người lắc lư theo nhịp, nhưng dù lắc lư đến mấy, thân của anh ta vẫn thẳng đuỗn, y hệt pho tượng gỗ buộc chặt vào cái phao thả trên sông. Cái biệt tài ấy của anh ta khiến tôi có ấn tượng sâu sắc, nghĩ mãi mà không hiểu. Sau này, khi tôi được biết Bác-bít là phi công của không lực Mỹ, tôi mới hiểu anh ta giữ thói quen ngồi trên buồng lái khi ngồi trên lưng lạc đà. Anh ta không nghĩ rằng ngồi trên lưng con lạc đà, mà ngồi trong máy bay khu trục nhãn hiệu lạc đà, bị rớt xuống một phố chính của thủ phủ vùng Cao Mật.
Đi sau cùng là Tư Mã Đình, tuy có vinh dự là thành viên của gia đình Tư Mã, nhưng ông ta rũ như táu lá héo, không phấn khởi chút nào. Con lừa của ông ta cũng xấu mã, thọt một chân.
Lỗ Lập Nhân cố làm ra vẻ chững chạc. Anh ta tới trước con lừa của Tư Mã Khố, ngạo nghễ giơ tay chào, nói to:
- Chi đội trưởng Tư Mã, hoan nghênh quí bộ đội đến thăm căn cứ địa của chúng tôi, trong cái ngày cả nước tưng bùng này!
Tư Mã Khố cười ngặt nghẽo, thiếu nước ngã lăn xuống đất.
- Ha ha ha...
Hắn vỗ vỗ đám lông trên bướu lạc đà, nói với đám lính và dân phố đứng trước và sau hắn:
- Các người có nghe hắn phun cút phun đái những gì chưa? Đồ giòi bọ! Căn cứ địa nào? Thăm ai? Thằng lạc đà nội địa kia, đây là nhà của ông, đây là đất thấm máu của ông! Đường phố này đã thấm máu của mẹ Ông khi đẻ ông! Chúng mày là đồ giòi bọ, hút no máu vùng Cao Mật, bây giờ là lúc phải cuốn xéo. Chuồn về cái hang thỏ của chúng mày, trả lại nhà cho ông!
Hắn nói rất hăng, lời lẽ đốp chát, nói một câu, vỗ vào bướu lạc đà một cái. Mỗi cái vỗ, cổ con lạc đà lại giật lên.
Mỗi cái vỗ, các binh sĩ của hắn lại gầm lên một tiếng. Mỗi cái vỗ, mặt Lỗ Lập Nhân lại tái thêm một ít. Cuối cùng, con lạc đà bị kích thích, rúm người lại, một chất nhầy như cháo, thối hoắc, từ hai lỗ mũi nó phun thẳng vào mặt Lỗ Lập Nhân.
- Tôi phản đối! - Lỗ Lập Nhân chùi mặt, giận điên lên - Tôi cực lực phản đối. Tôi sẽ kiện lên cấp cao nhất!
- Ở đây ông là cấp cao nhất! Ông tuyên bố, hạn trong nửa giờ phải cút khỏi thị trấn Đại Lan, quá hạn, ông sẽ sát giới!
Lỗ Lập Nhân lạnh lùng nói:
- Rồi sẽ có ngày gậy ông đập lưng ông!
Tư Mã Khố không thèm đếm xỉa câu nói của Lỗ Lập Nhân, lớn tiếng ra lệnh cho bộ hạ:
- Tiễn quân bạn ra khỏi địa giới!
Trung đội kỵ binh và trung đội lừa ken thành đội hình dày đặc, dồn các binh sĩ đại đội bộc phá vào ngõ nhà tôi. Hai bên đường dọc theo ngõ, cách vài thước lại có một lính tiện y cầm súng. Một số lính tiện y khác đứng trên nóc nhà, giám sát từ trên cao.
Sau nửa giờ, phần lớn đội viên của đại đội bộc phá bò lên bờ bên kia sông Thuồng Luồng, ướt như chuột lột. ánh trăng lạnh lẽo chiếu trên mặt họ. Một số ít đội viên lợi dụng lúc nhốn nháo chui vào những bụi rậm trên đê hoặc bơi xuôi dòng xuống phía dưới rồi lên bờ ở quãng không người, vắt nước trên quần áo, chạy suốt đêm về quê.
Mấy trăm đội viên đội bộc phá ướt lướt thướt trên bờ đệ Họ nhìn nhau, có người chảy nước mắt, có người mừng thầm. Lỗ Lập Nhân thấy bộ đội của mình đã bị giải giáp hoàn toàn, quay ngoắt lại định đâm đầu xuống sông, nhưng bị bộ hạ Ôm chặt. Anh ta im lặng hồi lâu, chợt ngẩng đầu hét to với những người thị trấn Đại Lan đang ồn ào bên kia sông:
- Tư Mã Khố, Tư Mã Khố, hãy đợi đấy, có ngày ta sẽ trở lại! Quê hương Cao Mật là của chúng tao, không phải của chúng mày? Bây giờ tạm thời là của chúng mày, nhưng cuối cùng là của chúng tao!
Hãy để Lỗ Lập Nhân liếm láp vết thương của anh ta, tôi phải trở về với những vấn đề của mình. Giữa nhảy xuống sông tự tử hay nhảy xuống giếng tôi chọn nhảy xuống sông, vì tôi nghe nói nhảy sông thì có thể trôi theo dòng nước mà ra biển. Thời Tiên Chim trổ phép thần thông, trên sông từng có những chiếc thuyền lớn hai cột buồm ngược dòng tới nơi này.
Tôi mục kích cảnh tượng các binh sĩ của Lỗ Lập Nhân tranh nhau bơi qua sông Thuồng Luồng dưới ánh trăng lạnh lẽo. Phì phà phì phèo, hết bò lại lăn, nhốn nháo nhộn nhạo, mặt sông sùi bọt. Người của Chi đội Tư Mã không tiếc đạn, bắn như vãi trấu xuống lòng sông, khiến mặt sông như một cái chảo đang sôi. Nếu họ định tiêu diệt đại đội bộc phá thì chắc chắn không sót một mống, nhưng họ chỉ thi hành chiến thuật dọa dẫm, không bắn chết ai. Vài năm sau, khi đại đội bộc phá biên chế lại thành trung đoàn độc lập trở lại Cao Mật, ai cũng bất nhẫn trước cảnh những binh sĩ và sĩ quan của Chi đội Tư Mã bị bắn chết.
Tôi lội chầm chậm ra chỗ sâu hơn, mặt sông trở lại êm đềm; hàng vạn tia sáng nhảy múa. Những bụi cỏ nước quẩn chân tôi, những con cá nhỏ đớp nhẹ đầu gối tôi. Tôi thử bước thêm mấy bước, nước sông ngang bụng, tôi cảm thấy ruột thắt lại, cái đói không chịu nổi đã hành hạ tôi. Thế là bầu vú đáng yêu đáng kính và đẹp vô cùng của mẹ đột nhiên hiện ra trong đầu tôi. Nhưng mẹ đã bôi ớt ở đầu vú, mẹ đã nhiều lần nhắc tôi:
- Con lên bảy rồi, phải cai sữa!
Vì sao tôi phải sống đến lên bảy nhỉ? Vì sao tôi không chết khi lên bảy? Tôi cảm thấy nước mắt chảy vào miệng. Vậy hãy để cho tôi chết, tôi không muốn để cho những thứ ô uế làm bẩn miệng tôi. Tôi mạnh dạn tiến thêm mấy bước nữa, nước đã ngập đến vai, cơ thể tôi đã cảm thấy lực xung kích của dòng nước ngầm. Tôi cố đứng vững hai chân chống lại sức đẩy của nước. Một cái xoáy lớn ngay trước mặt tôi, dụ tôi tiến lên. Tôi sợ. Tôi cảm thấy bùn dưới chân lở từng mảng, người tôi lún sâu hơn ngoài ý muốn, tiến lên, tiến vào cái xoáy nước đó. Tôi cố sức lùi lại và gào tướng lên! Lúc này tôi nghe thấy tiếng gọi thất thanh của mẹ:
- Kim Đồng, Kim Đồng! Con oi, con ở đâu?
Cùng với tiếng gọi của mẹ, tôi còn nghe thấy tiếng bơi của chị Sáu Niệm Đệ, chị Cả Lai Đệ và một giọng the thé vừa quen vừa lạ, tôi đoán đó là chị Chiêu Đệ tay đầy nhẫn vàng.
Khi tỉnh lại, đập vào mắt tôi đầu tiên là bầu vú căng tròn của mẹ, núm vú nhãi con mắt hiền từ, dịu dàng nhìn tôi, còn một bầu thì đang trong miệng tôi, nó chủ động mơn trớn đầu lưỡi tôi, hàm rằng tôi, sữa chảy vào họng tôi như những tia suối nhỏ. Tôi ngửi thấy mùi thơm sực núc từ bầu vú của mẹ. Về sau tôi mới biết mẹ dùng xà phòng thơm Hoa Hồng do chị Chiêu Đệ tặng rửa sạch ớt trên vú và xịt nước hoa giữa hai khe vú.
Trong nhà đèn được sáng trưng, trên giá nến cao cao có mấy cây nến đỏ. Tôi trông thấy nhiêu người đứng ngồi xung quanh mẹ. Ông anh rể Tư Mã Khố đang khoe với mẹ bửu bối của anh ta: chiếc bật lửa chỉ cần ấn một cái là tia lửa vọt ra. Cậu ấm Tư Mã đứng cách một quãng xa nhìn bố, thái độ lạnh nhạt, chẳng tỏ vẻ thân thiện chút nào.
Mẹ thở dài nói:
- Tôi phải trả nó cho anh chị, tội nghiệp thằng bé, đến nay vẫn chưa có tên.
Tư Mã Khố nói: - Bố là Khố (nhà kho) thì con là Lương (lương thực) đặt tên cho nó là Tư Mã Lương.
Mẹ nói:
- Nghe rõ chưa, cháu tên là Tư Mã Lương. Tư Mã Lương nhìn bố một thoáng, vẫn với thái độ lạnh nhạt.
Tư Mã Khố nói:
- Thằng nhóc, y hệt bố hồi nhỏ. Nhạc mẫu, xin cảm ơn nhạc mẫu đã giữ gìn cho nhà Tư Mã một người nối dõi. Từ nay, nhạc mẫu cứ mà hưởng phúc Cao Mật là giang sơn của ta rồi!
Mẹ không hiểu đầu đuôi ra sao, lắc đầu bảo Chiêu Đệ:
- Con định báo hiếu mẹ thì cho mẹ vài tạ kê, mẹ sợ đói lắm rồi!
Tối hôm sau, Tư Mã Khố tổ chức lễ mừng công, một là mừng kháng chiến thắng lợi, hai là mừng anh ta trở về nhà. Họ nối cả một xe pháo tép thành một dây pháo, quấn một vòng quanh tám cây hòe, lại nghiền nát trên hai chục cái chảo gang, đào lấy số thuốc nổ mà đại đội bộc phá chôn giấu, làm một quả pháo hoa lớn. Dây pháo nổ đúng một nửa đêm, vặt trụi cả cành lẫn lá tám cây hòe. Pháo hoa với những tia lửa lộng lẫy, chiếu sáng cả một khoảng trời. Họ giết mấy chục con lợn, vài con trâu, đào lên hơn chục hũ rượu. Thịt nhím bày đầy những mâm đặt trên bàn ngoài đường, bên cạnh để mấy con dao nhọn, ai thích ăn thì cứ việc xẻo thịt mà ăn, ngay cả cắt tai lợn quẳng cho chó cũng không ai can thiệp! Các hũ rượu đặt bên bàn thịt, miệng hũ treo gáo sắt, ai thích uống thì uống, tắm bằng rượu cũng không ai phản đối? Hôm ấy là ngày hội của những kẻ đói khát. Con trai cả nhà họ Trương là Trương Tiền Nhi chết vì bội thực ở trên phố. Khi mọi người đến lượm xác anh ta, rượu và thịt ứa ra ở miệng và mũi.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 19
Hơn mười ngày sau khi đại đội bộc phá bị đuổi khỏi thôn trấn, một buổi tối, chị Phán Đệ dúi đứa trẻ bọc trong chiếc áo quân phục cũ vào lòng mẹ. Chị nói:
- Mẹ, cho mẹ đấy!
Chị Phán Đệ ướt lướt thướt, bộ quần áo mỏng dính chặt trên người, cặp vú đồ sộ nặng trĩu mê hoặc con mắt tôi. Mái tóc chị bốc hơi ngùn ngụt, tỏa mùi men rượu. Núm vú đỏ hồng phập phồng sau lần áo lót. Tôi rất muốn xông tới ngoạm vào bầu vú chị, vuốt ve bầu vú chị, nhưng không dám. Chị Phán Đệ tính nết dữ dằn, hơi tí là bạt tai. Chị không hiền như chị Cả. Bạt tai thì bạt, tôi phải sờ được vú chị. Tôi nấp sau cây lê, cắn chặt môi dưới chờ đợi.
- Đứng lại! - Mẹ quát to - Quay lại tao bảo!
Chị Phán Đệ giương to mắt nhìn mẹ, nói:
- Mẹ, đều là con gái của mẹ, mẹ nuôi hộ các chị ấy, thì cũng phải nuôi hộ con.
- Tao nợ nần gì mày? - Mẹ giận dữ gào lên - Chúng mày đẻ xong là quẳng về đây, con chó nó cũng không thế?
- Mẹ Ơi - Khi chúng con gặp vận, mẹ đều được thơm lây. Giờ đây gặp hạn ngay cả con của con cũng không được nhờ vả chút gì hay sao? Mẹ Ơi, phải công bằng chứ!
Từ trong bóng tối, tiếng cười của chị Cả vọng ra, nghe ơn lạnh xương sống. Chị thản nhiên nói:
- Em Năm, hãy bảo cái thằng Tưởng là có ngày chị sẽ giết nó?
- Chị Cả - Phán Đệ nói - Chị vui mừng hơi sóm đấy! Thằng chồng Hán gian Sa Nguyệt Lượng của chị có chết cũng chưa hết tội. Tôi khuyên chị hãy cụp đuôi lại, dùng có lồng lên, nếu không, chẳng ai cứu nổi chị!
- Đừng cãi nhau nữa! - Mẹ thét to.
Mặt trăng muộn đỏ quạch, trườn lên nóc nhà, soi rõ những người đàn bà trong sân, mặt nhuốm đỏ như bôi máu. Mẹ buồn bã lắc đầu, vừa khóc núc nở vừa nói:
- Tao không hiểu tiền oan nghiệp chướng gì mà đẻ ra những của nợ này!... Chúng mày cút đi, đi cho khuất mắt tao!
Lai Đệ như một bóng ma màu xanh chạy vào chái tây, và cứ lảm nhảm một mình trong đó như đang nói chuyện với Sa Nguyệt Lượng. Chị Lãnh Đệ như mộng du từ ngoài đầm trở về, trong tay một xâu ếch kêu ộp oạp. Chị trèo qua tường phía nam, vào trong sân.
- Trông kìa! - Mẹ lầu bầu - Đứa thì điên, đứa thì dở người! Thế này thì làm sao mà sống được?
Mẹ cúi xuống, đặt đứa con chị Năm dưới đất rồi đi vào trong nhà. Đứa bé khóc oe oe, mẹ không thèm ngoảnh lại. Mẹ đá thằng Tư Mã Lương đang đứng bên cửa, phát đánh bốp vào đầu Sa Tảo Hoa.
- Chúng mày là những của nợ? Sao không chết cả đi!
Rủa xong, mẹ đi vào buồng ngủ, đóng cửa đánh sầm, tôi nghe thấy tiếng đồ đạc loảng xoảng. Và cuối cùng là một tiếng bịch nặng nề như bao lương thực bị rớt, tôi đoán rằng đó là tiếng bà Lã nằm vật trên giường sau khi trút hết cơn điên. Tôi không trông thấy cái dáng mẹ nằm trên giường, nhưng hai tay dang rộng, bàn tay xương xầu tấy đỏ, đầy những vết nứt nẻ. Bên tay trái là đứa con của Lãnh Đệ rất có thể bị câm, bên tay phải là hai đứa con xinh đẹp điên điên khùng khùng của chị Chiêu Đệ. ánh trăng chiếu trên đôi môi nhọt nhạt của mẹ, đôi vú mệt mỏi nằm bẹp trên xương ngực. Bên cạnh mẹ, chỗ đứa con gái nhà Tư Mã, vốn là chỗ của tôi, nhưng giờ đây bà Lã nằm dạng hai chân, nên chỗ đó đã bị lấn chiếm.
Ngoài sân, trên lối đi còn thấp hơn cả hai bên, đứa con bọc trong chiếc áo quân phục cũ của chị Phán Đệ, khóe ngằn ngặt. Không ai hỏi một câu. Mẹ đẻ ra nó là Phán Đệ hùng hổ nói qua cửa sổ buồng mẹ:
- Mẹ phải nuôi nó hộ con, con và Lỗ Lập Nhân sớm muộn sẽ trở về!
Mẹ đấm xuống chiếu, gầm lên:
- Nuôi hộ mày hả? Tao thì vứt nó, cái đứa con hoang của mày ấy, xuống sông cho ba ba nó ăn quẳng xuống giếng cho ếch nhái nó đớp, quẳng vào chuồng phân cho giòi bọ nó đục!
- Tùy mẹ - Chị Phán Đệ nói - Dù sao nó là con của con, mà con lại là con của mẹ, suy cho cùng, mẹ vẫn có trách nhiệm!
Nói xong, Phán Đệ toàn thân run bắn, cúi nhìn đứa con trên lối đi rồi loạng choạng chạy ra cổng. Khi chạy qua chái tây thông với gian giữa, chị vấp phải ngưỡng cửa ngã chúi. Cái vấp đau nhưng chị lồm cồm bò dậy, hai tay ôm chặt cặp vú bị thương, chửi vọng vào chái tây:
- Đồ đĩ, hãy đợi đấy?
Lai Đệ trong chái tây cuối khúc khích. Trong bóng tối, tôi đưa tay sờ vú chị, chị nhổ nước bọt vào mặt tôi rồi bỏ đi. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi thấy mẹ đang huấn luyện con dê trắng cho con chị Phán Đệ nằm ngửa trong cái sọt mà bú.
Những buổi sáng mùa xuân năm một nghìn chín trăm bốn mươi sáu, quang cảnh trong sân nhà Thượng Quan náo nức chết cười. Mặt trời chưa lên, ánh sáng ban mai bàng bạc. Lúc này thôn xóm còn đang ngủ, chim én còn đang nói mê trong tổ, những con dế còn đang gảy đàn trong hang ấm sau bếp, trâu bò nhai lại bên máng cỏ, Tư Mã Khố đang ngáy trong nách chị Hai... thì mẹ đã thức dậy, rên rỉ xoa bóp những ngón tay đau nhức rồi mò mẫm tìm áo khoác, vất vả gập cánh tay tê dại cài khuy nách. Xong xuôi, mẹ ngáp dài, xoa mặt, mở mắt, thò chân xuống giường tìm giày. Tìm thấy giày, mẹ xuống giường, người lắc lư, lại ngáp một cái nữa, cúi xuống kéo gót giày để xỏ chân vào, ngồi xuống ghế đẩu, đưa mắt nhìn một lượt những khuôn mặt chúng sinh. Rồi mẹ ra sân lấy gáo múc nước từ ang vào chậu. Òa, một gáo, òa, hai gáo, mỗi lần đều bốn gáo, đôi khi năm gáo. Rồi mẹ bê chậu nước đến chuồng, cho dê uống nước. Năm con dê cái, ba đen hai trắng, mặt dài ngoẵng, sừng cong như lưỡi liềm, cằm dài có râu dài. Chúng chụm đầu vào nhau, uống nước soàm soạp trong chậu. Mẹ cầm chổi vun phân dê lại rồi quét hết vào chuồng, xúc đất ngoài ngõ trải đều lên, lấy lược gỗ chải lông cho lũ dệ Trở lại lấy nước rửa thật sạch vú cho từng con. Lũ dê khoan khoái kêu be bẹ Lúc này, mặt trời đã nhô lên đỉnh núi, ánh hồng và ánh đỏ đuổi sạch màu bàng bạc của sớm mai. Mẹ trở vào nhà cọ chảo, đổ nước vào, lớn tiếng gọi:
- Niệm Đệ, Niệm Đệ, dậy đi!
Mẹ đổ kê và đậu xanh vào chảo, khuấy đều, cuối cùng bỏ thêm một nắm đậu vàng, lại khuấy. Đậy nắp chảo, cho củi vào lò, đánh diêm, mùi lưu huỳnh, bà nội mắt trắng đã ngồi trong nói, mẹ than thở. Lách tách, cây đậu đang cháy, mùi thơm xộc vào mũi. Tạch, một hạt đậu còn sót, nổ trong ngọn lửa
- Niệm Đệ đã dậy chưa?
Tư Mã Lương mắt nhắm mắt mở từ căn buồng phía đông đi ra sân, ra nhà xí ống khói tỏa khói xanh. Niệm Đệ đang ở sân, thùng chạm nhau lịch kịch, chị sắp ra sông lấy nước. Be, dê kêu? Oa, Lỗ Thắng Lợi khóc! Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng thì thầm. Hai con trai của Tiên Chim ậm ọe. Tiên Chim lười nhác đi ra cổng. Lai Đệ chải đầu bên cửa sổ. Đàn ngựa hí vang trong ngõ, đó là đám kỵ binh cho ngựa ra sông uống nước. Đàn la đi ngang qua ngõ, chúng ra sông uống nước trở về. Chuông xe đạp kính cong, trung đội xe đạp đang luyện tập. Mẹ sai Tư Mã Lương:
- Cháu đun bếp cho bà!
- Kim Đồng, dậy đi, dậy ra sông rửa mặt!
Mẹ bê năm cái sọt đan bằng nhành liễu như hình cái ghế ra, đặt năm đứa trẻ xuống ghế, ở tư thế nằm ngửa. Mẹ ra lệnh cho Sa Tảo Hoa:
- Thả đàn dê ra!
Sa Tảo Hoa chạy con cón, hai chân khẳng khiu, tóc rối bù, mắt mọng vì ngái ngủ, bước vào chuồng dệ Lũ dê lắc sừng tỏ vẻ thân thiện, thè lưỡi liếm đất bám trên gối nó.
Nó nắm tay đấm yêu lên đầu con dê, mắng:
- Đồ cộc đuôi!
Nó tháo bỏ thùng chạc ở cổ dê, vỗ tai dê, nói:
- Đi ra, mày là của Lỗ Thắng Lợi!
Con dê của Lỗ Thắng Lợi vui vẻ vẫy đuôi nhanh nhẹn gõ móng, chạy ào đến bên sọt của Lỗ Thắng Lợi. Thắng Lợi nằm chổng bốn vó lên trời, chờ đợi. Con dê dạng hai chân sau, bước lùi mấy bước để bầu vú sát mặt con bé. Đầu vú dê tìm miệng con bé, miệng con bé tìm đầu vú dê, động tác thuần thục, chuẩn xác. Núm vú con dê to và dài là thế, mà Lỗ Thắng Lợi đớp gọn trong miệng, y hệt một con cá quả tham ăn. Con dê của thằng Câm anh, của thằng Câm em, của Tư Mã Phượng, của Tư Mã Hoàng lần lượt đến bên chủ của mình, cùng một động tác như nhau tiếp cận miệng lũ trẻ, thành thạo và lặng lẽ. ánh nắng vàng óng trùm lên khung cảnh cho trẻ bú đầy xúc động. Lũ dê cong lưng? lim dim mắt, râu dưới cằm rung rung.
- Bà ơi, nước sôi... rồi? - Tư Mã Lương nói.
- Để sôi một lúc nữa mẹ đang rửa mặt ngoài sân.
Lửa liếm nhanh đáy chảo. Cái bếp này đã được bác cấp dưỡng của đại đội bộc phá cải tạo lại. Tư Mã Lương chỉ mặc quần đùi, cởi trần. Nó rất gầy, cặp mắt u sầu. Niệm Đệ gánh nước về, thùng nước nhún nhẩy theo đòn gánh. Chị đang để lại tóc, đã dài chấm lưng, đầu bím buộc dây ni lông theo thời thượng. Lũ dê nhất loạt đổi bên vú cho lũ trẻ.
- Ăn cơm thôi! - Mẹ bảo.
Sa Tảo Hoa ngả bàn, Tư Mã Lương lấy đũa bát. Mẹ múc cháo, một bát hai bát ba bát bốn bát năm bát sáu bát bảy bát. Sa Tảo Hoa và Ngọc Nữ lấy ghế ngồi. Niệm Đệ bón cháo cho bà Lã. Lai Đệ và Lãnh Đệ cầm bát của mình đi tới tự múc mỗi người một bát. Mẹ không nhìn nhưng lầu bầu:
- Khi ăn thì chẳng điên chút nào!
Hai chị bê cháo ra vườn ăn. Niệm Đệ nói:
- Nghe nói trung đoàn mười bảy thuộc trung đội tám sắp đánh đến đây!
- Ăn đi - mẹ ngắt lời chị.
Tôi quì trước mặt mẹ để ti sữa. Mẹ bị vướng phải quay mặt sang bên để ăn cháo.
- Mẹ nuông chiều nó quá đấy, nó định bú cho đến khi lấy vợ chắc? - Niệm Đệ nói.
- Có người bú tí mẹ đến lúc lấy vợ đấy- Mẹ nói - Đó là bố Bảo Tài ở ngõ Tây, bú tí mẹ đến lúc lấy vợ.
Tôi đổi bên vú.
- Kim Đồng, mẹ cũng rộng lượng cho đến ngày còn đủ sữa cho con!
- Mẹ đã nếm trải đủ mùi gian khổ, vậy mà sữa mẹ vẫn nhiều? - Khi nào quả thật không đủ sẽ kiếm cho nó một con dê - Chị Niệm Đệ nói.
- Niệm Đệ em hận chị!
- Cơm xong, đi chăn dê, kiếm ít hành dạ và rau săng, làm bữa trưa.
Mẹ dặn dò xong, bữa sáng kết thúc.
Lỗ Thắng Lợi nhích từng tí trên bãi cỏ, mông lết trên cỏ mịn như nhung. Mục tiêu của nó là con dê trắng đang đỏng đảnh bút từng ngọn cỏ non, khuôn mặt dài được rửa sạch bằng sương sớm có những nét ngạo mạn của tiểu thư quí tộc. Thời đại nhốn nháo, bãi cỏ im lìm. Những đóa hoa muôn màu điểm xuyết đây đó, bãi cỏ thật là đẹp, mùi thơm làm ta mê man. Chúng tôi chạy đã thấm mệt, nằm bò xung quanh chị Niệm Đệ. Tư Mã Lương nhai nhánh cỏ trong miệng, nhựa cỏ xanh dính hai bên mép. Mắt nó đồng tử màu vàng, lóe lên những tia trắng đục. Dáng dấp và động tác nhai cỏ khiến nó trở thành con cào cào khổng lồ. Cào cào cũng ăn cỏ, khi nhai cỏ, cũng ứa nước xanh ở mép. Sa Tảo Hoa đang quan sát một con kiến kềnh. Con kiến đứng trên ngọn cỏ mao, đang phân vân tìm lối xuống. Mũi tôi chạm phải một cụm hoa nhỏ xíu màu vàng, mùi thơm của nó khiến tôi chỉ muốn hắt hơi, quả nhiên tôi đã hắt xì hơi rõ tọ Chị Niệm Đệ nằm ngửa mặt, ở giữa chúng tôi, bị cái hắt hơi của tôi làm giật mình. Chị trố mắt liếc xéo tôi, tỏ ra không bằng lòng, bĩu môi, nhíu mũi, rồi lại nhắm mắt. ánh nắng mặt trời khiến chị hết sức khoan khoái. Hai gò má hơi cao, trắng mịn, không một nếp nhăn, lông mi dầy, môi trên mọc đầy lông tơ, cằm hơi dô một cách nghịch ngợm, vành tai chỉ có ở các cô gái nhà Thượng Quan, tròn đầy và trắng trẻo. Chị mặc chiếc áo ngoài bằng đoạn trắng của chị Chiêu Đệ cho, áo khép hai vạt đính khuy uyên ương là mốt thịnh hành đương thời, bím tóc to bằng con lệch thả trước ngực. Điều cần nhắc đến là cạp vú của chị. Vú chị không lớn nhưng chỉ nhìn cũng biết chúng rắn câng không nhão không xệ, vì vậy tuy cô chủ của chúng ở tư thế nằm ngửa mà chúng vẫn nhọn hoắt, trắng mịn giữa khe hở của hai vạt áo. Tôi bỗng nảy ra một ý muốn khó cưỡng lại, đó là lấy cọng cỏ chọc vú chị nhưng không dám. Chị Niệm Đệ xưa nay vẫn mặt trăng mặt trời với tôi, chị ghét cay ghét đắng chuyện tôi vẫn còn bú tí, chòng ghẹo chị thì chẳng khác sờ mông cọp. Tôi đấu tranh tư tưởng quyết liệt. Đứa nhai cỏ vẫn nhai cỏ, đứa chơi với kiến vẫn chơi với kiến, đứa bò lết vẫn bò lết. Con dê trắng như mụ quí tộc, con dê đen như bà quả phụ. Chúng ăn không ngon miệng vì thức ăn nhiều, không biết nên ăn món nào, cỏ nhiều không biết nên ăn cỏ nào. Hắt xì! Thì ra dê cũng biết hắt hơi, mà lại hắt hơi rõ kêu. Bầu sữa của chúng đã đầy. Trời đã gần trưa, tôi ngắt một cọng cỏ đuổi chó, quyết tâm sờ mông hổ. Không ai để ý đến tôi. Tôi khẽ buồn cọng cỏ vào giữa khe áo do vú đội lên. Trong tai tôi có tiếng ong ong, cảm thấy tim đập như con thỏ nhảy trong ngực. Cọng cỏ đã chạm vào lần dạ Chị không phản ứng gì, chẳng lẽ chị đang ngủ? Ngủ thì sao lại không có tiếng ngáy? Tôi xoay xoay cọng cỏ, chị giơ tay gãi ngực, không mở mắt ra.
Chắc chị cho rằng có con kiến bò giữa khe vú. Tôi chọc cọng cỏ sâu hơn nữa và ngoáy. Chị đập tay trên ngực đanh bốp một cái, bàn tay chạm cọng cỏ của tôi, chị rút nó ra. Chị nhìn cọng cỏ, trở mình ngồi dậy nhìn tôi, mặt đỏ bùng. Tôi ngoác miệng cười với chị.
- Đồ đốn mạt - chị mắng - Mẹ làm hư mày rồi?
Chị dúi đầu tôi xuống cỏ, phát hai cái vào mông tôi. - Mẹ nuông chiều mày nhưng tao thì không - Chị trợn mắt quát - Đời mày rồi cũng chết treo dưới vú me...
Tư Mã Lương hốt hoảng nhả cọng cỏ ra. Sa Tảo Hoa thôi không quan sát lũ kiến. Chúng nhìn tôi, không hiểu có chuyện gì xảy ra, đồng thời lại nhìn chị Niệm Đệ. Tôi khóc lên hai tiếng, hoàn toàn chỉ là hình thức vì tôi đã vớ bở. Chị đứng lên, dùng đầu hất bím tóc ra sau lưng vẻ ngạo nghễ. Lỗ Thắng Lợi đã bò đến bên con dê của nó, nhưng con dê không chịu, cứ né tránh, ngay cả lúc nó đã túm được núm vú, con dê quay lại húc con bé ngã lăn ra. Nó khóc như tiếng dê, không hiểu là khóc hay là gọi. Tư Mã Lương thì cắm cổ bỏ chạy làm kinh động những con cào cào có cánh trong màu hồng và mấy con chim chích màu vàng nhạt. Sa Tảo Hoa ngắt những bông tú cầu mịn như nhung. Tôi ngượng nghịu đứng lên, đi theo chị Niệm Đệ, đấm thùm thụp vào mông chị, vừa ăn vạ:
- Đấy nhé, chị đánh em, chị dám đánh em.
Mông chị rắn chắc, tôi đấm mà thấy đau những ngón taỵ Chị mất hết kiên nhẫn, quay lại nhe răng trợn mắt, gầm gừ như chó sói. Tôi sợ toát mồ hôi, chợt hiểu rằng, mặt người và mặt thú chỉ là hai mặt của một đồng tiền. Chị túm tóc tôi đẩy một cái thật mạnh, tôi ngã ngửa trên bãi cỏ. Chị tóm lấy sừng con dê trắng, con dê chỉ chống cự lấy lệ. Lỗ Thắng Lợi nhanh nhẹn bò tới nằm ngửa dưới bụng con dê, cố ngóc đầu lên để ngậm đúng đầu vú, hai chân cũng đạp ngược dần lên bụng con dệ Chị Niệm Đệ vuốt ve cái tai của con dê, nó vẫy đuôi tỏ ý thuần phục. Tôi đói bụng, trong lòng buồn rũ. Tôi hiểu ra rằng, những ngày sống dựa vào mẹ không còn lâu nữa, phải tìm ra một loại thức ăn cho mình. Tôi lập tức nghĩ đến những sợi miến ngoằn ngoèo như những con giun mà lợm giọng chỉ muốn nôn ọe, và tôi đã ọe khan hai tiếng. Chị Niệm Đệ ngẩng lên nghi ngờ nhìn tôi:
- Mày sao thế hả? - chị hỏi bằng một giọng ngán ngẩm.
Tôi xua tay, tỏ ý không thể trả lời chị. Tôi lại nôn khan mấy tiếng nữa. Chị rời con dê, bảo tôi:
- Kim Đồng, lớn lên rồi em sẽ như thế nào?
Tôi nhất thời không hiểu ý tứ trong câu nói của chị. Chị nói:
- Chị thấy em nên thử ăn sữa dê xem sao?
Tôi nhìn Lỗ Thắng Lợi đang mút vú dê chùn chụt, trong bụng có phần suy nghĩ.
- Em định để mẹ chết à? - Chị lắc vai tôi, hỏi - Em có biết cái gì biến thành sữa không? Sữa tức là máu! Em đang hút máu của mẹ! Nghe lời chị, ti sữa dê đi!
Tôi nhìn chị, gật đầu gượng gạo. Chị túm lấy con dê đen của thằng câm lớn, bảo tôi:
- Lại đây, mau lên? Chị vỗ vỗ lưng con dê cho nó đứng yên - Lại đây!
Chị nhìn tôi bằng ánh mắt khích lệ. Tôi do dự, tiến lên một bước rồi lùi lại hai bước. Lại đây, chui vào bụng dê, học cách nó chui ấy!
Tôi nằm ngửa tì gót xuống cỏ đầy người trườn đi.
- Câm lớn, câm lớn, lùi mấy bước nào - Chị Niệm Đệ vừa nói vừa đẩy lùi con dê đen.
Tôi nhìn thấy bầu trời Cao Mật trong vắt, những con chim nhỏ màu vàng kim bay trong nàng, lượn vòng, cất tiếng hót vui tai. Nhưng tầm nhìn của tôi lập tức bị che khuất, bầu vú màu phấn hồng của con dê đã treo lủng lẳng trên mặt tôi. Hai đầu vú to như hai con đại trùng đung đưa tìm miệng tôi. Chúng chạm vào môi tôi, sự cọ xát khiến môi tôi tê tê như chạm vào một dòng điện nhỏ, tôi mê đi trong một cảm giác sung sướng. Trước kia tôi cứ cho rằng đáu vú của dê rất mềm, không co giãn, mềm như bông, ngậm trong miệng lập tức biến thành hồ nhão. Giờ đây tôi mới biết chúng rất cứng, cứng mà dẻo, sức co dãn vào loại ưu việt, chẳng kém vú mẹ tôi chút nào. Trong khi va chạm, tôi cảm thấy một làn hơi ấm thấm ướt môi tôi, sữa có mùi gây gây khiến tôi không thích, nhưng trong cái mùi gây đó có mùi thơm, mùi thơm của hoa dại trộn lẫn mùi nhựa cây mọc trên đồng cỏ. Tôi mềm lòng, hé mở hàm răng cắn chặt, dòng sữa dê tia thẳng vào họng tôi, nhảy múa trong vòm miệng, tôi tức thở nhả đầu vú ra, nhưng đầu vú khác lập tức thay thế, sữa của nó tia càng mạnh hơn...
Con dê ve vẩy đuôi, rời tôi một cách thanh thản. Tôi ứa nước mắt. Mùi gây gây phảng phất trên mặt, tôi buồn nôn. Miệng thơm mùi cỏ và hoa dại, tôi không nôn nữa. Chị Sáu kéo tôi đứng dậy, bế tôi xoay một vòng. Tôi trông thấy khuôn mặt chị nổi lên những đốm đỏ vì vui sướng.
Mắt chị đen láy như hòn cuội vừa vớt dưới nước lên. Chị xúc động nói:
- Thằng ngốc, em được cứu rồi!...
- Mẹ Ơi, mẹ! chị Sáu phấn khởi gọi to - Kim Đồng ăn được sữa dê rồi! Kim Đồng ăn được sữa dê rồi!
Trong nhà vọng ra tiếng chát bụp.
Mẹ vút chiếc chày cán bột dính đầy máu tươi lên mép lò há miệng thở hồng hộc, bộ ngực đồ sộ phập phồng dữ dội.
Bà Lã nằm sõng sượt trên đống cho cạnh bếp, đầu vỡ toác chẳng khác cái hột đào bị dập vỡ.
Chị Tám Ngọc Nữ ngồi co rúm ở cửa bếp, tai chị bị mất một mẩu như bị chuột gặm, chỗ rách không gọn, máu nhỏ từng giọt, nhuộm đỏ má và ngực chị. Chị khóc ti tỉ, cặp mắt thong manh mọng nước.
- Mẹ, mẹ đánh chết bà nội rồi! - chị Sáu kinh hoảng kêu lên.
Mẹ đưa tay rờ vết nút trên đầu bà nội, rồi như bị điện giật mẹ ngồi phịch xuống đất.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 20
Chúng tôi với tư cách là khách mời đặc biệt leo lên đèo Trâu Nằm, xem Tư lệnh Tư Mã Khố và thanh niên Mỹ Bác-bít biểu diễn kỹ thuật baỵ Hôm ấy có gió dông nam, nắng đẹp. Tôi cưỡi la chung với chị Lai Đệ. Chị Chiêu Đệ thì cưỡi chung với Tư Mã Lương. Tôi ngồi phía trước, chị Lai Đệ vòng tay ôm ngực tôi Chị Chiêu Đệ ngồi trước, Tư Mã Lương chỉ níu dưới nách áo chị, không sao ôm vòng cái bụng to tướng đang mang thai cửa chị. Đội ngũ chúng tôi men theo đuôi, leo dần lên sống lưng núi Trâu Nằm mọc đầy cỏ lau sắc cạnh và cây bồ công anh nở hoa vàng. Những con la chở chúng tôi tỏ ra nhẹ nhõm.
Tư Mã Khố và Bác-bít cưỡi ngựa vượt lên trước chúng tôi. Hai người tỏ ra vô cùng phấn chấn. Tư Mã Khố còn giơ nắm tay lên hươ hươ với chúng tôi. Trên đỉnh núi có một tốp người mặc quần áo vàng hét lên gì đó với những người ở dưới. Tư Mã Khố giơ cái roi ngắn vụt cho con ngựa lai liền hai roi, con ngựa từng bước trèo lên đèo. Ngựa của Bác-bít theo sau. Bác-bít ngồi trên lưng ngựa rất giống tư thế ngồi trên lưng lạc đà, dù lắc lư đến mấy, phần thân của anh ta vẫn thẳng đợ Hai chân dài ngoẵng, bàn đạp gần như sát mặt đất, con ngựa kẹp giữa hai chân trông vừa thương hại vừa buồn cười, vậy mà nó chạy rất nhanh.
- Chúng mình cũng phải nhanh lên! - Chị Hai nói.
Chị dùng gót chân thúc vào bụng con lạ Chị là thủ lĩnh của đoàn khách, đường đường là Tư lệnh phu nhân, ai dám không tôn trọng? Đám đại biểu dân chúng, những nhân vật nổi tiếng của địa phương đi phía sau, tuy thở phì phò nhưng không một ai ca thán. Con la của tôi và chị Lai Đệ theo sát con la của chị Chiêu Đệ và Tư Mã Lương, cặp vú lẩn sau lần áo choàng đen cọ vào lưng tôi, khiến tôi nhớ lại trò chơi vỡ lòng bên máng cỏ, tôi cảm thấy rất vui.
Lên tới đỉnh núi, gió mạnh hơn. Lá cờ do hướng gió bay phần phật, dải cờ màu đỏ múa lượn trong gió như cái đuôi con gà gấm. Hơn chục lính khuân vác các thứ trên lưng lạc đà xuống. Những con lạc đà mặt mày đau khổ, đuôi và khuỷu chân dính phân lỏng. Cỏ vùng Cao Mật vỗ béo những con la của chi đội Tư Mã Khố, vỗ béo bò dê của dân trong vùng, nhưng lại làm khổ những con lạc đà Chúng không quen thủy thổ, gầy lõ đít, chân như que củi, cái bướu trên lưng rắn chắc là thế mà nay nhăn nheo, xẹp lại như cái túi vải.
Bọn lính trải rộng một tấm thảm cực lớn trên mặt đất. Tư Mã Khố ra lệnh:
- Dìu bà đến đây? Bọn lính dìu Chiêu Đệ với cái bụng to tướng, bế Tư Mã Lương, rồi đỡ Lai Đệ, cậu Kim Đồng, dì Ngọc Nữ xuống đất. Chúng tôi là khách quí được ngồi trên thảm, còn những người khác thì đứng đằng sau. Tiên Chim cứ thập thò đằng sau, chị Hai giơ tay vẫy, chị giấu mặt sau lưng Tư Mã Đình. Tư Mã Đình bị đau răng, tay ôm má sưng vù. Chỗ chúng tôi ngồi tương đương với đầu trâu, phía trước là mặt. Con trâu này cố ý rúc đầu vào ngực, mặt nó là vách đá cheo leo, ở độ cao năm trăm thước so với mặt biển. Gió lướt trên đầu thổi về hướng thôn trấn, những đám mây mỏng như sương lơ lửng trên bầu trời. Tôi tìm ngôi nhà của tôi nhưng lại tìm thấy khối nhà bảy lớp sân của nhà Tư Mã. Tháp chuông nhà thờ, vọng gác kết cấu gỗ trông nhỏ bé như đồ chơi. Cánh đồng, dòng sông, ao đầm, vạt cỏ, những vạt cỏ khảm gương là những ao chuôm. Có một đàn ngựa chỉ to bằng con dê, một đàn la chỉ to bằng con chó, cả hai đàn đều là gia súc của nhà Tư Mã. Có sáu con dê chỉ to bằng con thỏ, đó là đàn dê nhà tôi. Con dê trắng to nhất trong đàn là con dê của tôi, con dê mà theo lời yêu cầu của mẹ, chị Hai cử phó quan phụ trách quân nhu của anh rể, phó quan quân nhu cử người đi Kỳ Mông mua về. Đúng bên con dê trắng của tôi là một bé gái, đầu nó bé hơn quả bóng nhỏ bằng dạ Nhưng tôi biết đó không phải cô gái nhỏ, mà là một cô gái lớn, đầu cô ta lớn hơn quả bóng dạ Đó là chị Niệm Đệ. Hôm nay chị chăn dê rất xạ Chị đi xa thế không phải vì lũ dê, mà vì chị. Chị cũng muốn xem biểu diễn. Tư Mã Khố và Bác-bít đã xuống ngựa từ lâu. Hai con ngựa đang đi lại thung dung trên đầu trâu, tìm ăn cỏ linh lăng hoa tía. Bác-bít đến bên bờ vục nhìn xuống hình như đang ước lượng độ cao, một thái độ trang nghiêm hiện trên khuôn mặt trẻ thơ của anh tạ Anh ta hết cúi nhìn vực thẳm, lại ngẩng lên nhìn trời. Trời xanh ngắt, không còn gì phải tính toán chi li nữa. Anh ta lim dim mắt, giơ một tay lên hình như để ước lượng sức gió. Tôi cho anh ta làm như vậy là thừa, cờ bay phấn phật, áo bị thổi phồng lên, diều hâu bị lật cánh xoay như chong chóng, vậy thì còn giơ tay làm gì? Trong khi Bác-bít làm như vậy, Tư Mã Khố đi theo anh ta từng bước chân và cứ tự nhiên lặp lại những động tác của anh tạ Nét mặt Tư Mã Khố cũng rất căng thẳng, nhưng tôi cảm thấy anh ta chỉ làm ra vẻ thế thôi.
- Được rồi? - Bác-bít giọng cứng nhắc - Nào, bắt đầu!
- Được rồi - Tư Mã Khố giọng cứng nhắc - Nào, bắt đầu!
Các binh sĩ khênh hai cái bọc đến, mở một cái ra. Đó là một tấm lụa rộng mênh mông, phía dưới là những dây màu trắng.
Bác-bít chỉ huy bọn lính buộc dây vào ngực vào mông Tư Mã Khố. Buộc xong, anh ta kéo những sợi dây xem đã chắc chưa. Tiếp theo, anh ta mở tấm lụa ra, bảo đám lính cầm lấy hai góc. Gió thốc tới, tấm lụa hình chữ nhật loạt soạt căng phồng lên. Các binh sĩ bỏ tay ra, tấm vải phồng lên như một cánh buồm hình cánh cung, kéo căng tất cả những sợi đây, kéo theo Tư Mã Khố. Tư Mã Khố muốn đứng lên nhưng không đứng được, lăn lông lốc như một con lừa đang tắm khan. Bác-bít chạy đến sau lưng anh ta, túm lấy sợi thùng ở sau lưng, bảo:
- Giữ chặt sợi dây này, đây là dây điều khiển.
Tư Mã Khố như chợt tỉnh, cất giọng chửi:
- Tiên sư nhà mi, Bác-bít, định hại ông hả?...
Chị Hai chồm dậy đuổi theo Tư Mã Khố. Mới chạy được vài bước, Tư Mã Khố đã lăn xuống mép vực, tiếng chửi cũng ngừng bặt. Bác-bít gào to:
- Kéo sợi dây bên trái, kéo đi, đồ ngu!
Chúng tôi chạy ra mép vục, cả chị Tám cũng chạy theo. Chị bước đi loạng choạng, chị Cả vội giữ lại. Tấm lụa đã biến thành một đám mây trắng như bông, lắc lư, bồng bềnh trôi đi. Tư Mã Khố ở phía dưới, giãy giụa như con cá mắc câu. Bác-bít gọi với theo:
- Giữ cho ổn định, đồ ngu! Chú ý động tác tiếp đất.
Đám mây trắng bay theo chiều gió, vừa bay vừa hạ độ cao, cuối cùng hạ xuống bãi cỏ xa tít, màu trắng lóa mắt trùm lên cỏ xanh.
Chúng tôi há hốc miệng, nín thở, mắt dõi theo mảng màu trắng cho đến khi nó tiếp đất mới thở ra một hơi. Nhưng tiếng khóc của chị Hai khiến chúng tôi lúng túng. Sao chị lại khóc? Chắc hẳn chị không vì vui mà khóc, mà vì buồn. Tôi nghĩ ngay đến chuyện Tư Mã Khố bị ngã chết. Thế là mọi người chú mục vào mảng trắng trên bãi cỏ, mong chuyện thần kỳ xảy ra. Chuyện thần kỳ đã xảy ra thật: Mảng trắng động đậy, nhô cao, một vật đen chui ra, đứng dậy. Anh ta khua cả hai tay về phía chúng tôi, tiếng reo vọng lên đình núi, chúng tôi đồng thanh hoan hô.
Bác-bít đỏ mặt, chóp mũi bóng lộn như thoa một lớp đầu. Anh ta tự buộc dây cho mình, cõng cái bọc trắng lên lưng, đứng lên co giãn hai cánh tay, chậm rãi lùi lại. Chúng tôi đều nhìn vào anh tạ Anh ta không thèm nhìn ai, mặt vác lên nhìn về phía trước. Anh ta đi giật lùi đến mười mấy bước thì dừng lại, nhắm mắt, môi run run, chắc là cầu nguyện. Cầu nguyện xong, anh ta mở mắt, cất bước chạy, khi chạy ngang qua chỗ tôi, anh ta dướn người lên một cái rồi như một mũi tên lao vào khoảng không. Trong một thoáng, tôi có cảm giác không phải anh ta rơi xuống, mà là vách đá dâng lên, đồng cỏ dâng lên. Đột nhiên một đóa hoa trắng nở bung ra, lần đầu tiên tôi trông thấy một đóa hoa lớn đến như thế nở giữa trời xanh và đồng cỏ. Chúng tôi vỗ tay hoan hộ Bông hoa từ từ trôi, bên dưới là Bác-bít bình ổn như một quả cân bằng sắt. Rất nhanh, quả cân tiếp đất, rơi đúng chỗ đàn dê nhà tôi. Đàn dê chạy tán loạn. Quả cân chỉ di chuyển một đoạn ngắn, bông hoa trắng đã xẹp lại, chỉ còn như một cái phao khổng lồ, trùm lên người Bác-bít, đồng thời trùm luôn cả Niệm Đệ. Niệm Đệ hoảng hốt kêu lên, trước mắt chỉ là một màu trắng, chị trông thấy nụ cười nở bừng trên khuôn mặt hồng hào của Bác-bít. Đúng là thiên thần giáng thế Chị nghĩ. Chị ngước nhìn anh ta, trong lòng rộn lên niềm kính phục và ngưỡng mộ.
Mọi người đều chạy đến bên bờ vực nhìn xuống.
- Hôm nay mới được chứng kiến chuyện lạ như thế này? - Ông chủ hiệu nhà đòn Hoàng Thiên Phúc nói - Thiên thần, lão sống đã bảy mươi tuổi, giờ mới được xem thiên thần giáng thế!
Thầy giáo Tần, từng dạy ở trường tư thục, vừa vuốt râu vừa nói:
- Tư lệnh Tư Mã từ nhỏ đã khác người, khi là học sinh của tôi, tôi đã biết ông ấy sẽ làm nên chuyện!
Những người có vai vế trong trấn đứng xung quanh thầy giáo Tần và ông chủ nhà đòn đều ca ngợi Tư Mã Khố băng những lời lẽ khác nhau, tán thưởng kỳ tích vừa được chứng kiến.
- Các vị không thể tưởng tượng ông ấy khác người như thế nào đâu? - Thầy Tần cao giọng át cả những lời bàn tán, tỏ ra thầy có mối quan hệ đặc biệt với nhà Tư Mã- Ông ấy bỏ hai con cóc vào trong cái bô đi tiểu của tôi. Còn nữa, ông ấy sửa lại lời thánh hiền. Thánh nhân nói: Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính dễ gần, thói dễ xa, nếu không dạy, thiện tiêu mạ Ông ấy sửa lại ra sao, cái vị không đoán nổi đâu. Ông ấy sửa là: Nhân chi sơ, nói lăng nhăng, chó không dạy, mèo không học, tẩu thuốc nồi chảo xào trứng gà, thầy giáo xực, học trò ngó... Ha ha ha...
Thầy Tần cười ha hả, vênh váo nhìn mọi người xung quanh.
Giữa khi ấy, một tiếng kêu thất thanh vang lên, tiếng kêu như tiếng chó con sục tìm vú mẹ, càng giống tiếng kêu của con hải âu năm xưa theo đoàn thuyền đến bãi sông Thuồng Luồng. Thầy giáo Tần sững người nụ cười vụt tắt, vẻ vênh váo cũng tan biến. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía có tiếng kêu. Đó là chị ba Lãnh Đệ, nhưng những nét đặc trung của chị Ba không còn nữa. Giờ đây chị đã nhập vào trạng thái Tiên Chim, mũi khoằm xuống, con người chuyển sang màu vàng, cổ rụt giữa hai vai, tóc biến thành lông mao, hai tay biến thành hai cánh. Chị giương hai cánh, miệng kêu như chim, chạy theo sườn dốc rồi lao xuống vực. Tư Mã Đình giơ tay túm lấy chị nhưng không trúng, chỉ giữ lại được một mẩu vạt áo. Khi chúng tôi chợt tỉnh, thì đã thấy chị bay - tôi thích nói là chị bay, mà không nói là rơi. Đám cỏ dưới vực tung lên một làn bụi nhỏ.
Chị Hai khóc đầu tiên. Tôi không thoải mái khi nghe chị khóc. Tiên Chim ba xuống vực là chuyện bình thường, sao lại khóc? Tiếp theo, chị Cả, con người điên điên khùng khùng, coi trời bằng vung, cũng khóc, thậm chí chị Tám không hề nhìn thấy gì, không hiểu đầu đuôi ra sao, nhưng bằng vào sự mẫn cảm, cũng khóc òa lên. Chị Tám khóc, kèm theo những lời như trong cơn mê sảng, những lời cầu xin cho chị được khóc cho đã. Về sau, chị nói với tôi, chị nghe rõ tiếng rơi rất gọn của chị Ba, còn tôi khi ấy chỉ nhìn thấy những giọt nước mắt tuôn ra như suối của chị. Đám người đang ồn ào, bỗng tất cả ngây ra như phỗng, mặt băng giá, mắt như có màng bao phủ. Chị Hai gọi đám lính dắt la lại, không cần ai giúp, chị Ôm cái cổ vừa ngắn vừa thô của con la, trèo lên, dùng gót chân thúc cho nó chạy. Tư Mã Lương chạy theo được hai bước thì một binh sĩ xốc nách nó đặt lên lưng con ngựa của Tư Mã Khố.
Chúng tôi như một đám lính thất trận thất thểu xuống núi. Lúc này, Bác-bit còn đang bận làm gì đó với chị Niệm Đệ dưới đám mây trắng? Trên đường xuống núi, tôi vắt óc tưởng tượng ra cảnh tượng Bác-bit và chị Niệm Đệ dưới cái dù. Tôi mường tượng Bác-bit quì bên chị, tay cầm nhánh cỏ đuôi chó với những túm lông, cà vào vú chị như trước đây tôi đã từng làm. Còn chị thì nằm đuổi thăng, mắt nhắm, miệng rên lên khoan khoái như con chó cái gãi ngứa. Trông kìa, hai chân chị giơ lên, cái đuôi quệt trái quệt phải trên cỏ, chị đã dâng hiến cho thằng cha Bác-bit trời đánh? Vậy mà cách đây không lâu, tôi lấy cọng cỏ chọc chị, chị gần như đánh dập đít tôi. Nghĩ tới đây, trong lòng tôi đầy uất hận, cũng không hoàn toàn là uất hận, mà là một tình cảm ngang trái như những ngọn lửa đốt cháy tim tôi.
- Đồ chó cái! - tôi chửi, đồng thời hai tay xiết chặt như đang bóp cổ chị.
Chị Lai Đệ ngoảnh lại, hỏi:
- Em làm sao thế!
Vì vội xuống núi, đám lính đặt tôi lên sau lưng chị. Tôi ôm chặt hai bầu vú lạnh ngắt của chị, áp mặt vào tấm lưng gầy guộc của chị, miệng lẩm bẩm:
- Bác-bit, Bác-bit, tên giặc Mỹ Bác-bit, hắn đã phủ lên người chị Sáu rồi! Chúng tôi đi một vòng dài lê thê mới đến chỗ thảm cỏ Tư Mã Khố và Bác-bit đã tháo gỡ xong dây nhợ trên người. Cả hai đầu cúi gằm, trước mặt là bãi cỏ xanh mượt và dầy. Chị Ba như khảm trên đám cỏ, nằm ngửa, mình lún trong bùn. Xung quanh chị, bùn bắn tung tóe cùng với những khóm cỏ bật rễ. Dáng dấp của loài chim không còn thấy trên khuôn mặt chị. Mắt mở hé, nét mặt bình thản, phảng phất nụ cười, hai tia mắt hồi quang như xuyên vào ngực tôi. Sắc mặt chị trắng bợt, trán và môi bôi một lớp phấn trắng. Máu rỉ ra từ lỗ mũi, lỗ tai và hai bên mép. Một con kiến càng màu đỏ hốt hoảng chạy trên mặt chị. Đây là nơi những người chăn súc vật rất ít đến, cỏ hoa mặc sức mọc, ong bướm không sợ người, mùi mục rữa vấn vương đây đó. Trước mặt mười mấy thước là vách đá dựng đứng màu nâu, chân lõm vào thành một đầm nước đen kịt. Những giọt nước từ vách đá rơi xuống tí tách.
Chị Hai chồm tới, quì bên chị Ba, gọi:
- Em Ba, em Ba, em Ba!
Chị luồn tay dưới đầu chị Ba định nâng dậy, nhưng cổ chị Ba như biết co giãn vươn dài ra, chẳng khác con thiên nga đã chết. Chị Hai lập tức để đầu chị Ba lại chỗ cũ, kéo tay, nhưng tay chị Ba dàn hồi như cao su Chị Hai khóc rống lên, vừa khóc vừa gào:
- Em Ba ơi, em Ba, em như thế này mà đi hay sao?
Chị Cả không khóc, cũng không gào. Chị quì bên chị Ba, ngẩng nhìn mọi người xung quanh, nhìn mà không nhìn vào đâu. Tôi nghe chị thở dài, thấy chị quài tay sang bên ngắt một bông tú cầu to bằng quả trứng gà, cầm bông hoa lau máu trên mắt, mũi, tai cho chị Ba.
Lau xong, chị đưa bông hoa lên mũi ngửi rồi lại ngửi, tôi trông thấy một nét cười quái đản lẽ ra không nên có trên mặt chị, còn ánh mắt thì chỉ người nào đang chìm đắm trong một tâm thức nào đó mới có ánh mắt như thế. Tôi mơ hồ cảm thấy rằng, qua bông hoa tú cầu đỏ tía, tinh thần siêu phàm thoát tục của chị Ba đã chuyền sang chị Lai Đệ.
Tôi để ý nhất chị Sáu. Chị rẽ đám dông, chậm rãi bước tới bên thi thể chị Bạ Chị không quì cũng không khóc, chỉ im lặng cúi đầu, hai tay vặn bím tóc, mặt hết đỏ lại trắng nhợt, y như chị đã làm điều sai trái gì đó. Nhưng chị đã là một cô gái bước vào thời kỳ sung mãn, tóc đen nhánh, mông vổng lên như buộc khóm hồng mao vào đốt xương cùng. Chị mặc chiếc áo dài bằng lụa trắng của chị Chiêu Đệ cho, chiếc áo mở kích rất cao, lộ ra cặp dùi thon dài. Chị đi chân đất, bắp chân có những vết xước do cỏ lau để lại, vạt sau còn in dấu vết của cỏ non và hoa dại bị đổ nát, xanh có, đỏ có...
Sự suy nghĩ của tôi chợt nhảy sang cái dù đã trùm lên chị và Bác-bit, nhánh cỏ đuôi chó, cái đuôi cỏ đầy lông tơ... Mắt tôi như mắt ruồi trâu, dính vào ngực chị. Hai núm vú như hai hạt anh dào nhô lên sau lần áo. Tôi ứa nước miếng, tôi khao khát được nâng bầu vú lên để ngậm miệng vào đấy. Tôi khao khát được quì trước những bầu vú đẹp đẽ trên đời này, được làm đứa con trung thành của chúng... Chính giữa chỗ nổi cộm trên áo còn lưu một vết ố như nước bọt của chó. Trong lòng tôi cuộn đau, hình dung sống động đến nỗi như phơi bày trước mắt cái cảnh Bác-bit cắn xé bầu vú chị Sáu, cặp mắt xanh biếc của hắn ngước nhìn lên cằm chị, còn chị thì vuốt ve mái tóc bạch kim của hắn. Chính bàn tay đã từng phát vào mông tôi đau điếng, mà tôi chỉ mới chọc khẽ nhánh cỏ vào ngực chị, còn hắn thì đang cắn chị. Nỗi đau không chính đáng khiến tôi tê liệt trước cái chết của chị Ba, cảm thấy rối bời trước tiếng khóc của chị Hai. Tiếng khóc của chị Tám như tiếng của đất trời, khiến người ta nhớ lại vẻ đẹp mê hồn của chị Ba khi còn sống, những hành vi khác người quỉ khóc thần sầu của chị. Bác-bit tiến lên mấy bước, tôi nhìn càng rõ đôi môi của hắn đỏ mọng khiến tôi không ưa chút nào, và khuôn mặt hồng hào, trên má phủ một lớp lông tợ Những sợi lông mi trắng, cái mũi cao, cái cổ dài đều khiến tôi không thích. Hắn ngả hai tay làm như định cho chúng tôi thứ gì đó nói:
- Rất tiếc rất tiếc, đây là điều tôi không thể ngờ!...
Hắn nói một tràng tiếng Tây mà chúng tôi không thể hiểu, rồi lại nói mấy câu tiếng Trung Quốc:
- Đây là chứng hoang tưởng, cô ta tưởng mình là chim nhưng cô ta không phải là chim!...
Những người đứng bên bắt đầu bàn tán. Tôi đoán họ chỉ xoay quanh mối quan hệ giữa Tiên Chim và Hàn Chim, có lẽ còn bàn đôi câu về Tôn Bất Ngôn hoặc đề cập đến hai đứa con trai. Tôi không thích nghe từng câu, mà cũng không sao nghe được từng câu, tai tôi có tiếng vo ve, mấy con ong đất đang bay, chúng có tổ cực lớn trên vách đá, phía dưới tổ có một con sơn miêu ngồi chồm hổm, trước mặt nó là con chuột chũi hai chân trước phát triển quá cỡ, béo mập, hai mắt ti hí rất gần nhau. Quách Phúc là ông thầy cúng của thôn, biết lên đồng, biết trừ tà, hai mắt ti hí gần sát nhau, có biệt hiệu là Chuột Chũi. Ông ta bước ra khỏi đám đông, nói:
- Thưa ông trẻ, người thì đã chết rồi, có khóc cũng không sống lại được! Trời nóng nực nên khênh về ngay để nhập liệm, chôn cất cô ấy mồ yên mả đẹp.
Không hiểu dây mơ rễ má ra sao mà ông ta gọi Tư Mã Khố bằng ông trẻ? Tôi không rõ, và cũng không ai biết vì sao ông ta gọi Tư Mã Khố bằng ông trẻ? Tư Mã Khố gật đầu, xoa xoa tay, nói:
- Mẹ kiếp, mất cả hứng!
Chuột Chũi đứng phía sau chị Hai, đảo cặp mắt ti hí, giọng làm ra vẻ rầu rĩ:
- Bà trẻ, người chết thì đã chết, còn phải nghĩ đến người sống. Bà trẻ đang bụng mang dạ chửa, khóc lóc quá, ốm ra đấy thì nguỵ Với lại bà dì đâu phải người thường! Dứt khoát bà không phải người thường, bà vốn là Tiên của các loài chim, vì ăn bàn đào của Tây vương mẫu bị đày xuống trần, giờ đây niên hạn đã hết, bà lại trở về cõi tiên. Mọi người thử nghĩ coi, ai cũng thấy bà rơi xuống vục nhẹ nhàng như không, yên ngủ cùng trời đất, người trần mắt thịt làm sao ung dung thanh thản như thế!
Chuột Chũi nói những chuyện trên trời dưới đất, vực chị Hai đứng dậy.
Chị Hai núc nở:
- Em Ba, em chết thảm quá!
- Thôi, thôi - Tư Mã Khố sốt ruột xua tay về phía chị Hai - Đừng khóc nữa. Người như cô ấy, sống chịu tội sống, chết thành Tiên.
Chị Hai nói:
- Tại anh cả, bày ra cái thí nghiệm người bay.
Tư Mã Khố nói:
- Tôi chẳng đã bay rồi đấy sao? Chuyện tày trời này, phụ nữ các người không hiểu được! Tham mưu Mã, khiêng cô ấy về, mua quan tài khâm liệm cho cô ấy. Phó quan Lưu, cuộn dù đem lên núi, ta và cố vấn Bác-bit phải bay lần nữa.
Chuột Chũi xốc chị Hai dậy, oai vệ bảo mọi người:
- Tất cả giúp một tay!
Chị Cả vẫn quì mà ngửi bông hoa dính máu chị Bạ Chuột Chũi nói:
-Thưa bà Cả, bà đừng nên đau xót quá, bà Ba trở về cõi Tiên, ta phải vui mới phải.
Chuột Chũi chưa nói hết câu, chị Cả đã ngẩng lên mỉm cười bí hiểm nhìn ông tạ Ông ta lúng búng trong miệng không dám nói tiếp, vội vã lẫn vào đám dông. Chị Cả giơ cao bông tú cầu vừa cười vừa đứng lên, bước qua thi thể Tiên Chim, đăm đăm nhìn Bác-bit, cặp mông uốn éo sau lần áo dài đen, thái độ nôn nóng chẳng khác người ta mót đi tiểu. Chị tiến lên, vứt bông tú cầm trong tay, ôm choàng lấy cổ Bác-bit, ép sát vào người hắn, miệng lảm nhảm như nói mê sảng:
- Chết rồi?... đau xót quá!
Bác-bit gỡ mãi mới thoát khỏi vòng tay chị, mặt đầy mồ hôi, tiếng tây xen lẫn tiếng địa phương:
- Không... không nên... người mà tôi yêu không phải cô!...
Chị Cả mắt đỏ như mắt chó điên, miệng lảm nhảm những lời dâm đãng, chồm tới định ôm Bác-bit. Hắn né, né mãi rồi nấp sau lưng chị Sáu. Chị Sáu trở thành cái bình phong mà chị không muốn. Chị Sáu cứ xoay tròn chẳng khác con cún định rũ bỏ cái lục lạc mà lũ trẻ tinh nghịch buộc vào đuôi nó, chạy quanh đến nỗi mắt tôi nảy đom đóm, chỉ thấy những cái mông vổng lên, những bộ ngực ưỡn ra, những cái gáy trắng mịn, những bộ mặt đầy mồ hôi, những cẳng chân vụng về. Tôi đầu váng mắt hoa, tâm trí rối bời. Tiếng quát tháo của chị Cả, tiếng kêu của chị Sáu, tiếng thở của Bác-bit, những cặp mắt ngây dại của đám đông. Thái độ cười cợt của bọn lính, những cái miệng há ra, những cái cằm rung rung. Đàn dê thủng thẳng đi về nhà, đi đầu là con dê của tôi với bầu sữa lặc lè. Đàn ngựa, đàn la bóng mượt. Những con chim kêu thất thanh lượn vòng trên đầu chúng tôi, chắc chắn có trứng hoặc chim non trong đám cỏ. Cỏ mục. Những bông hoa dại bị xéo gãy cổ. Cuối cùng, chị Hai túm được áo chị Cả. Chị Cả cố giằng ra, hai tay vươn về phía Bác-bit, miệng tuôn ra những câu còn hạ lưu hơn. Chiếc áo dài đen bị rách toạc, lộ ra mảng vai và lưng. Chị Hai vọt tới trước mặt, đánh chị Cả một bạt tai. Chị Cả không giằng ra nữa, nước bọt sùi hai bên mép, mắt đờ đẫn. Chị Hai tát liên hồi, ngày càng mạnh. Chị Cả đổ máu mũi, đầu gục xuống như bông hướng dương, ngã sóng soài trên cỏ.
Chị Hai mệt mỏi ngồi thở trên bãi cỏ rất lâu. Tiếng thở chuyển thành tiếng khóc, hai tay vỗ đầu gối như đánh nhịp cho tiếng khóe của chị.
Tư Mã Khố không giấu được niềm vui trên khuôn mặt. Mắt anh ta nhìn như đóng đinh vào mảng lưng để lộ của chị Cả, thở dồn dập, hai tay cà vào quần làm như tay bị dính chất keo rửa không sạch.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 21
Lúc chạng vạng tối, tiệc rượu được cử hành sau hôn lễ, trong nhà thờ. Hơn chục bóng đèn treo dưới xà nhà, gian đại sảnh sáng như ban ngày.
Trong khu vườn nhỏ của mặt trước giáo đường, máy nổ đang chạy xình xịch, dòng điện bí ẩn phát ra từ cỗ máy chảy qua dây điện tới bóng đèn, phát ra ánh sáng dụ dỗ bọn thiêu thân. Những con thiêu thân chạm phải bóng đèn là bị chết cháy, rơi xuống đầu các sĩ quan của Chi đội Tư Mã và các nhân sĩ hương nhân của thị trấn. Tư Mã Khố mặc quân phục, mặt bóng loáng, từ ghế chủ tọa đứng dậy, đăng hắng mấy tiếng, nói to:
- Thưa anh em, thưa các vị hương thân. Hôm nay tổ chức bữa tiệc rượu này mừng lễ thành hôn của ông bạn tôn quí Bác-bit kết duyên cùng cô em Niệm Đệ của tôi. Đây là niềm vui lớn, đề nghị mọi người vỗ tay hoan nghênh.
Đám đông nhiệt liệt vỗ taỵ Ngồi bên cạnh Tư Mã Khố là anh chàng thanh niên Mỹ Bác-bit mặc lễ phục trắng, túi ngực cài hoa đỏ, mặt tươi cười. Tóc hắn được thoa một lớp đầu lạc, bóng lộn như có con chó vừa thè lưỡi liếm vào đấy. Bên cạnh Bác-bit là chị Niệm Đệ. Chị mặc bộ váy màu trắng, hở cổ để lộ quá nửa cặp vú. Nước bọt tứa ra trong miệng tôi. Nhưng tôi phát hiện môi chị Tám khô như vỏ củ hành. Lúc ban ngày, lúc cử hành hôn lễ, tôi và Tư Mã Lương nâng gấu váy sau của chị Niệm Đệ như nâng cái đuôi của con gà rừng. Trên đầu chị cài hai bông nguyệt quế, mặt thoa phấn. Phấn son cũng không giấu được vẻ đắc ý và niềm vui trên mặt chị. Chị chẳng ra sao cả, Tiên Chim chết chưa nguội thây, chị đã cưới ngay người Mỹ.
Tôi rất buồn, mặc dù Bác-bit tặng tôi con dao nhọn có chuôi nhựa, nhưng tôi buồn. Đèn điện là đồ tồi, ánh sáng xuyên qua váy, nhìn rõ hai núm vú hồng hồng của chị, trở thành mục tiêu của mọi người. Tôi biết, cánh đàn ông đều nhìn vào đấy, vậy mà chúng không biết, cứ rung rinh hoài. Tôi muốn chửi, nhưng chửi ai bậy giờ? Chửi thằng khốn Bác-bit? Đêm nay chúng sẽ bị thằng khốn chiếm làm của riêng. Bàn tay nhơm nhớp mồ hôi của tôi mân mê con dao nhọn trong túi. Giả dụ tôi xông lên rạch phăng váy, cắt lấy hai bầu vú thì sự thể sẽ ra sao nhỉ? Tư Mã Khố còn mải diễn thuyết nữa không? Bác-bit còn tỏ ra xúc động nữa không? Chị Niệm Đệ còn cảm thấy hạnh phúc nữa không? Tôi sẽ giấu hai bầu vú đi, nhưng giấu ở đâu? Không ổn, lũ chuột sẽ ăn mất. Giấu ở hốc tường, lũ chuột sẽ tha đi, giấu trên chạc cây, lũ cú vọ sẽ mổ mất...
Có người khẽ chọc vào sườn tôi. Đó là Tư Mã Lương. Hắn mặc lễ phục màu trắng, tay nâng bó hoa dại rất to, tặng chị Niệm Đệ. Hắn ăn mặc y hệt tôi. Hắn bảo:
- Cậu ngồi xuống đi, chỉ mỗi cậu là đứng!
Tôi nặng nề ngồi xuống ghế băng, nhớ lại mình đứng dậy từ lúc nào và vì sao mà đứng dậy. Sa Tảo Hoa cũng mặc rất đẹp. Nó tặng chị Niệm Đệ một bó hoa dại rất tọ Nhân lúc mọi người đang lắng nghe Tư Mã Khố diễn thuyết, lúc mọi người đang chú mục vào ngực chị Niệm Đệ, lúc mọi người đang ngửi mùi rượu thịt, Sa Tảo Hoa liền giơ tay nhón lấy một miếng thịt rồi giả vờ lau nước mũi, nó đút vội miếng thịt vào miệng.
Tư Mã Khố tiếp tục diễn thuyết. Anh ta nâng cốc rượu, thứ rượu vang mua tận Đại Trạch đem về, màu hồng lên trong cốc pha lê, nâng hồi lâu mà không cảm thấy mỏi. Anh ta nói:
- Ông Bác-bit là từ trên trời rơi xuống, trời rơi xuống một ông Bác-bit? Về thuật phi hành của ông, các vị đều đã được mục kích. Ông làm cho đèn phát sáng, như trên đầu chúng ta đây...
Anh ta chỉ các bóng đèn điện trên xà nhà, đám đông tạm thời rời mắt khỏi cặp vú tròn trặn đầy ma lực của chị Niệm Đệ, nhìn bóng điện sáng chói:
- Đây là diện, lấy cắp từ chỗ ông Thiên Lôi. Chi đội du kích của chúng tôi từ khi có Bác-bit, có thể nói thuận buồm xuôi gió. Bác-bit có phúc tướng, nhiều tài nghệ tuyệt vời, lát nữa ông sẽ mở rộng tầm mắt cho các vi...
Anh ta quay lại chỉ lên cái bục, xưa kia là bục giảng của mục sư Malôa, sau đó là bục giảng của cô Đường những khi lên lớp cho các nữ du kích chống Nhật, phía sau cái bục là bức tường có căng một tấm phông bằng vải trắng. Chúng tôi cảm thấy lóa mắt, không dám nhìn lâu.
- Với vị thiên tài này, chúng tôi quyết không nhả. Sau khi kháng chiến thắng lợi, chúng tôi hết sức nhiệt tình giữ Bác-bit ở lại, đây cũng là lý do vì sao tôi chủ trương gả cô em vợ đẹp hơn Tiên cho Bác-bit. Giờ đây, tôi đề nghị, để chúc mừng hạnh phúc của ông Bác-bit và cô Niệm Đệ, mọi người hãy cạn chén!...
Mọi người ào ào đứng dậy chạm cốc, ngửa cổ uống cạn.
Niệm Đệ giơ bàn tay đeo nhẫn cầm cốc rượu lên, chạm cốc với Bác-bit, rồi với Tư Mã Khố, với Chiêu Đệ. Chiêu Đệ vừa sinh con, chưa lại người, mặt nhợt nhạt, hai bên má nổi quầng đỏ. Tư Mã Khố nói:
- Cô đâu chú rể phải uống cho ra trò, đề nghị giao bôi!
Rồi hướng dẫn Bác-bit và Niệm Đệ ngoắc tay nhau mà uống hết chén rượu. Mọi người vỗ tay vui vẻ. Tiếp đó là cười nói ầm ĩ, những đôi đũa múa may, những cái miệng nhai ngấu nghiến, những giọng lè nhè, mỡ bóng nhẫy trên môi trên má. Bàn chúng tôi có tôi, Tư Mã Lương, Sa Tảo Hoa, chị Tám và mấy tiểu yêu không rõ từ đâu tới. Ngoại trừ tôi, tất cả đều ăn. Tôi không ăn, chỉ quan sát. Sa Tảo Hoa là người đầu tiên bỏ đũa, tay trái vớ lấy cái đùi gà, tay phải nhón luôn cái móng lợn, ngoạm một miếng đùi gà lại một miếng móng lợn. Tôi phát hiện ra rằng, để tập trung tinh lực, lúc nhai chúng nhắm mắt lại như chị Tám. Chị Tám hai má đỏ hây, môi mọng, còn đẹp hơn cô đâu. Nhưng tôi thấy buồn khi thấy lũ trẻ tranh nhau ăn thịt, tức là ăn xác động vật.
Chị Sáu lấy Bác-bit, mẹ không tán thành. Chị Sáu nói:
- Mẹ, mẹ đánh chết bà nội, con giữ bí mật cho mẹ chuyện ấy đấy nhé!
Mẹ lập tức nhũn như con chi chi, không nói gì nữa. Thái độ im lặng khiến mẹ như tàu lá héo, mẹ không hỏi gì đến chuyện hôn nhân của chị Sáu, khiến chị phấp phỏng mất mấy hôm.
Lúc này tiệc rượu chuyển sang trạng thái tự nhiên, không còn chuyện bắt mối làm quen giữa bàn nọ với bàn kia, mà bàn nào biết bàn ấy, mỗi bàn là một trung tâm, rượu chảy như suối, thức ăn hết món nọ tiếp món kia, những người phục vụ mặc áo trắng chạy gằn từ bàn này sang bàn khác, cao giọng xướng tên món ăn: Đầu sư tử xào đây, chim câu rán đây, gà tần đây...
Mâm chúng tôi toàn những kiện tướng ăn bốc.
- Chân giò đây!
Một đĩa thịt giò vừa đặt xuống bàn, những bàn tay đẫy mỡ nhất tề vươn tới. Bỏng thì thổi phù phù như rắn hổ mang, nhưng không ai chịu bỏ cuộc, lại nhón tiếp. Miếng thịt rơi ra bàn, lập tức có người nhặt lên bỏ vào miệng nuốt đánh ực không chậm trễ, ứa cả nước mắt. Trong khoảnh khắc, da hết đằng da, thịt hết đằng thịt, trên đĩa chỉ còn lại vài cái xương. Cũng lại giành nhau xương để gặm sụn. Người không giành được thì ngẩn ngơ mút ngón taỵ Bụng chúng căng như quả bóng, hai chân lẻo khoẻo buông thõng dưới ghế một cách thảm hại. Chúng ợ hơi, bụng lục ục như mèo gừ. Món cá quế đây, một người phục vụ bụng to chân ngắn, mặc áo đuôi tôm trắng bong, bê chiếc mâm gỗ, trên mâm là một đĩa sứ, trong đĩa sứ là một con cá lớn rán vàng. Hàng chục người phục vụ cao bằng nhau, cùng mặt áo đuôi tôm, cùng bê mâm gỗ, cùng những đĩa sứ, cùng những con cá to rán vàng, trông chẳng khác một dãy cột điện. Người phục vụ đặt đĩa cá lên bàn của chúng tôi, nháy mắt với tôi. Tôi cảm thấy người này hơi quen. Cái miệng méo, một mắt nhắm một mắt mở, mũi đầy những nếp nhăn. Cái kiểu nháy mắt này mình đã thấy ở đâu nhỉ? Phải chăng trong tiệc cưới của Lỗ Lập Nhân và Phán Đệ Ở đại đội bộc phá.
Con cá quế trong đĩa với những nhát khía đầy mình, rưới đầy nước sốt màu da cam, con mắt mờ đục ẩn dưới đám lá hành xanh mơn mởn, cái đuôi hình tam giác thò ra ngoài đĩa một cách thảm hại như đang run rẩy. Những ngón tay nhờn mỡ lại thò ra. Tôi không đành lòng nhìn cảnh xâu xé con cá quế, quay mặt đi.
Bác-bit và chị Niệm Đệ từ bàn chủ tọa đứng dậy, trong tay mỗi người là một cái ly chân cao đầy rượu vang đỏ, tay không cầm ly thì khoác vào nhau. Họ trông thật trang nhã, dịu dàng tiến lại bàn chúng tôi. Những ánh mắt đều dán vào con cá quế, khổ thân con cá, nó đã bị xâu xé hết một bên, lộ ra những xương dăm màu xanh nhạt. Nửa còn lại của con cá bị xâu xé chỉ trong chớp mắt. Trước mặt mỗi đứa là một mảng thịt của con cá, chẳng ra hình thù gì, bốc hơi nghi ngút. Bọn trẻ tham lam như những con cá nhỏ, lùa hết vào miệng rồi mới bắt đầu nhai. Trên đĩa chỉ còn lại cái đầu cá to sụ, một cái đuôi thanh tú, mỏng tanh, khoảng giữa là bộ xương vẫn dính liền các đốt. Chiếc khăn bàn trắng tinh đầy vết bẩn, chỉ có góc của tôi là còn sạch, một cốc rượu vang vẫn đặt ngay ngắn ở chính giữa.
- Các bạn nhỏ thân mến - Bác-bit chìa cốc rượu đến trước mặt tôi, thái độ thân mật - Cùng cạn chén nào!
Vợ anh ta cũng chìa cốc rượu đến trước mặt tôi, bàn tay chị ngón cong ngón thẳng như một đóa hoa lan, chiếc nhẫn vàng lấp lánh trên đóa hoa đó. Phần vú lộ ra có màu men sứ. Tim tôi đập thình thịch.
Bọn trẻ ngồi cùng bàn với tôi miệng nhét đầy cá, rối rít đứng lên. Má, mũi, thậm chí trên trán nhoe nhoét mỡ. Tư Mã Lương ngồi bên tôi vội vàng nuốt chủng miếng cá, kéo góc khăn bàn lên lau miệng. Hai bàn tay tôi trắng và thon, bộ lễ phục của tôi không một vết bẩn, mái tóc tôi vàng rực. Dạ dày tôi chưa bao giờ tiêu hóa xác chết, răng tôi chưa bao giờ nhai rau cỏ. Những ngón tay nhờn mỡ lóng ngóng câm cốc rượu chạm vào cốc rượu của Bác-bit. Chỉ có tôi đứng bên bàn mê mẩn nhìn cặp vú của chị Niêm Đệ. Hai tay tôi bám chặt mép bàn, cố gắng kìm chế để từ bỏ ý nghĩ - sờ vú chị.
Bác-bit ngạc nhiên nhìn tôi:
- Sao cậu không ăn không uống gì cả?
Chị Niệm Đệ tạm thời không làm bộ làm tịch, trở về với thái độ chị Sáu hàng ngày. Chị đưa bàn tay rảnh rỗi xoa gáy tôi, nói với anh chồng mới toanh:
- Em trai của em một nửa là thần tiên, nó không ăn mặn!
Mùi nước hoa sực nức trên người chị Sáu khiến tôi tâm thần rối loạn, tay tôi đã phản lại ý chí của tôi. Tôi chộp vào ngực chị. Cái áo lụa của chị sao mà trơn thế!
Chị Sáu kinh hoảng kêu lên, hắt ly rượu vào mặt tôi. Chị Sáu mặt đỏ như gấc. Chị vuốt lại chỗ áo bị tôi làm nhàu, khẽ mắng:
- Đồ khốn!
Rượu vang chảy trên mặt tôi, trước mắt tôi là một màu hồng trong suốt. Cặp vú chị Sáu như hai quả khí cầu màu hồng ngay trước mắt tôi, chính xác hơn là hiện ra trong óc tôi.
Tôi né tránh bàn tay hộ pháp của Bác-bit, căm hờn nhìn khuôn mặt vừa hài hước vừa xấu xa của hắn. Nỗi đau khổ trong lòng tôi không thể nói bằng lời. Cặp vú của chị Sáu, trắng mịn, được chế tác bằng ngọc thạch, bảo bối bậc nhất của thế gian, đêm nay sẽ rơi vào tay tên quỉ Mỹ, mặc cho hắn sờ nắn, mặc cho hắn vầy vò. Bầu vú của chị Sáu, trắng như cục bột, chứa đầy mật ngọt, đi khắp chân trời góc biển không tìm đâu ra của quí như thế, đêm nay sẽ rơi vào miệng tên quỉ Mỹ, mặc cho hắn ngậm, mặc cho hắn mút, hắn sẽ ti cạn sữa, bầu vú chị chỉ còn là cái túi da lép kẹp. Hơn nữa, điều mà tôi không thể nén giận được, là chị Sáu lại rất tự nguyện. Này, chị Niệm Đệ, tôi lấy cọng cỏ chọc chị một cái, chị đét tôi hai cái; tôi sờ vú chị một cái, chị hắt rượu đầy mặt tôi! Vậy mà Bác-bit sờ chị, cắn chị thì chị lại tiếp nhận một cách vui vẻ! Vậy còn gì là công bằng trên đời này! Các vị là đồ bần tiện, sao không hiểu nỗi khổ tâm của tôi? Trên đời này, không ai hiểu bầu vú, yêu bầu vú, biết bảo vệ bầu vú như tôi! Vậy mà các người coi nó như một thứ giẻ rách. Tôi khóc vì tủi thân.
Bác-bit nhún vai, làm xấu trên mặt một cái, khoác tay chị Niệm Đệ sang bàn khác. Người phục vụ bê đến một tô canh nổi lềnh bềnh trứng rán thái chỉ, còn có thứ gì đó mảnh như sợi tóc. Bọn trẻ cùng mâm học tập bàn bên, dùng thìa múc canh. Chúng ra sức múc phần đặc, làm canh bắn tung tóe. Chúng đưa thìa canh lên miệng, vừa thổi vừa húp từng tí một. Tư Mã Lương huých tôi một cái, bảo:
- Cậu ăn một chút đi, ngon lắm, không kém gì sữa dê!
- Không - tôi nói - tao không ăn!
- Vậy cậu ngồi xuống đi, họ đang nhìn cậu đấy! Nó lại nói.
Tôi nhìn ra xung quanh như khiêu khích, chẳng có ai nhìn tôi, Tư Mã Lương thông báo sai. Tôi trông thấy giữa các bàn đều có hơi nước bốc lên, đến gần bóng đèn thì biến thành sương mù và tan đi, bóng người mờ ảo, mùi rượu khiến tôi choáng váng. Vợ chồng Bác-bit đã trở về bàn chủ tọa. Tôi trông thấy chị Niệm Đệ ghé sát tai chị Chiêu Đệ nói gì đó. Nói gì nhỉ? Liệu có liên quan đến tôi không? Chiêu Đệ gật đầu, Niệm Đệ không ghé sát Chiêu Đệ nữa, trở lại trạng thái nghiêm trang như cũ. Chị múc một thìa canh đưa lên miệng nếm thử, rồi khoan khoái húp tiếp. Niệm Đệ mới kết bạn với Bác-bit chưa đầy một tháng mà đã như một người khác, ra vẻ dài các. Cách đây một tháng, chị còn húp cháo oàm oạp, vậy mà thay đổi nhanh thế!
Tôi nghĩ mãi mà chưa có câu trả lời. Người phục vụ đem món ăn chính đến, có sủi cảo có mì sợi loằng ngoằng như con giun đã làm tan biến cái thú ẩm thực của tôi, còn có bánh mì trắng điểm những chấm xanh đỏ. Tôi đã ngán khi phải miêu tả mọi người ăn uống ra sao, cảm thấy buồn buồn, bụng đói. Chắc là mẹ sốt ruột lắm, lại còn con dê của tôi nữa. Hỏi vì sao tôi không bỏ về, tôi định về thì không ai ngăn được, vì chỗ tôi ngồi rất gần cổng chính của nhà thờ. Nhưng vì Tư Mã Khố đã tuyên bố, tiệc xong, Bác-bit sẽ giới thiệu để mọi người biết thế nào là văn minh vật chất và văn hóa của phương Tây. Tôi biết anh ta định chiếu phim, nghe nói là những hình người biết nói, biết cử động. Đó là lời chị Hai khi mời mẹ đến dự tiệc cưới. Mẹ lại nói rằng, cách đây hai mươi năm, mẹ đã từng xem người Đức đem nó đến chiếu để quảng cáo cho phân hóa học, một loại bột trắng dựng trong bao tải xác rắn, nghe nói bón ruộng có thể tăng sản lượng lương thực nhưng không ai tin. Mùa màng là phải nhờ vào phân chuồng. Người Đức cho không phân hóa học, nhân dân đem nó đổ xuống hồ ao. Mùa hè năm ấy, sen trong hồ mọc như điên, vừa mập vừa dày đặc, nhưng hoa thì lại không có, hoặc rất ít. Rất may là dân chúng không bị lừa, người Đức đến đây định hại ta, phân hóa học chẳng qua chỉ là thứ thuốc độc, chỉ tốt lá, không ra hoa, tất nhiên làm gì có hạt.
Tiệc cưới rồi cũng kết thúc. Những người phục vụ khênh những cái sọt tới, nhặt nhạnh ào ào bát đũa mâm chén cho vào sọt. Bưng đổ đi là những mảnh vỡ. Hơn chục binh sĩ nhanh nhẹn cũng phụ giúp cuộn tròn các khăn bàn rồi đem đi. Những người phục vụ trải khăn bàn mới, bày lên rượu vang và dưa hấu, dưa chuột, lệ Lại có cà phê Braxin thơm một mùi thơm kỳ lạ mà màu sắc thì như nước nâu, hết hồ nọ đến bình kia, đếm không xuể; hết cốc nọ đến cốc kia, tính không hết. Khách khứa đã ăn no, lại ngồi xuống, dẩu môi ra mà nếm, mà thử, do dự một thoáng, rồi uống cà phê như uống thuốc bắc, nhíu mày nhăn mặt, từng người từng người, từng cốc từng cốc. Các binh sĩ khiêng đến một chiếc bàn, trên đặt cỗ máy phủ vuông vải đỏ.
Tư Mã Khố vỗ tay nói:
- Buổi chiếu phim sắp bắt đầu, anh em, hãy hoan nghênh ông Bác-bit cho chúng ta xem một môn tuyệt kỹ.
Bác-bit đứng dậy trong tiếng vỗ tay, cúi chào cử tọa rồi bước đến bên chiếc bàn kéo vuông vải ra: một cỗ máy kỳ lạ, gớm ghiếc lồ lộ trước mặt mọi người. Những ngón tay của Bác-bit thoăn thoắt trên những bánh răng lớn, bánh răng con. Bụng cỗ máy phát ra những tiếng rào rào, một luồng ánh sáng sắc như dao đột nhiên rọi thẳng lên mặt tường phía tây của nhà thờ. Mọi người vỗ tay rào rào, tiếp theo là tiếng dịch ghế ầm ầm. luồng ánh sáng trắng ấy như gắn chặt trên khuôn mặt Chúa Giêsu tạc bằng gỗ táo, khiến bức tượng thiêng liêng không còn rõ mặt mũi, chỗ hốc mắt mọc cây cỏ linh chi nhỏ xíu. Bác-bit là tín đồ trung thành đạo Cơ đốc, đòi bằng được làm lễ cưới ở nhà thờ. Ban ngày, cỏ linh chi mọc trên hốc mắt Chúa chúng kiến cuộc nhân duyên giữa Bác-bit và Niệm Đệ, ban đêm dùng linh quang của dòng điện soi mắt Chúa, khiến cỏ linh chi bốc khói trắng. Luồng ánh sáng đi chuyển xuống dưới, từ mặt xuống ngực, từ ngực xuống bụng, từ bụng xuống chỗ kín mà người Trung Quốc tạc thành một cái lá sen, cho xuống đến các đầu ngón chân. Cuối cùng, luồng sáng rọi vào chiếc phông trắng hình chữ nhật có viền đen, chui vào trong viền, dán ra một chút rồi đứng yên. Lúc này, tôi nghe tiếng máy chạy như tiếng giọt gianh khi trời mưa. Tắt đèn! Bác-bit nói to.
Một tiếng tách, các bóng đèn tắt phụt, chúng tôi đột nhiên chìm trong bóng tối, nhưng luồng sáng phát ra từ cỗ máy của Bác-bit càng sáng hơn, càng trắng hơn. Từng đám côn trùng bay trong luồng sáng đó. Một con thiêu thân bay chập choạng, trên màn ảnh, hình ảnh của nó lập tức được phóng to lên nhiều lần. Thấy đám đông hoan hô, tôi cũng buột miệng hùa theo. Đúng là tôi được xem diện ảnh rồi. Lúc này, một cái đầu nhô lên trong cột ánh sáng, đó là đầu của Tư Mã Khố. Hai vành tai anh ta trông rõ từng tia máu. Anh ta quay mặt về phía nguồn sáng nên mặt như bẹt lại, trắng nhợt như tờ giây nến. Trên màn ảnh hiện lên cái đầu mỏng dính của anh tạ Lại một trận vỗ tay, tôi cũng vỗ theo.
- Ngồi xuống, ngồi xuống! Bác-bit bực bội quát. Lúc đó, một bàn tay ló ra trong luồng sáng, cái đầu Tư Mã Khố chìm xuống. Trên tường có những tiếng lụp búp, màn ảnh nhấp nhoáng những chấm đen như là đang nổ súng. Âm nhạc vọt ra từ hai cái hộp hai bên màn ảnh, hơi giống tiếng nhị, tiếng sáo; không phải, âm thanh này bèn bẹt, dài lê thê, chẳng khác những sợi miến tòi ra từ khung vắt miến sợi.
Từng hàng chữ, to có, nhỏ có, chạy trên màn ảnh từ trên xuống dưới. Chúng tôi vỗ taỵ Người ta có câu: Nước chảy về chỗ thấp. Nhưng những chữ Tây này thì ngược lại từ thấp chảy lên cao, chúng chảy ra ngoài màn hình, lên tường rồi mất hút trong bóng tối. Ngày mai, nếu phá bức trong của nhà thờ, liệu có thể moi được những chữ ấy ra không nhỉ? Tôi đang nghĩ vớ vẩn như vậy thì trên màn ảnh xuất hiện một dòng sông nước chảy ào ào, bờ sông có cây, trên cây có chim, những con chim đang nhảy nhót, kêu chiêm chiếp. Tôi há hốc miệng, ngây như phỗng quên cả vỗ taỵ Sau đó xuất hiện một người đeo súng, áo mở phanh để lộ bộ ngực vạm vỡ mọc đầy lông.
Anh ta ngậm điếu thuốc ở miệng, điếu thuốc đang tỏa khói, tất nhiên mũi anh ta phà khói thuốc ra, trời ạ, kỳ lạ thật! Một con gấu chó từ trong rừng chui ra, chạy tới vồ anh tạ Trong nhà thờ vang lên tiếng kêu thét của phụ nữ và tiếng lên cò súng rôm rốp. Một người xuất hiện trong cột ánh sáng, lại là Tư Mã Khố. Anh ta rút súng bắn con gấu chó. Nó rách nát phía trên lưng người trên màn ảnh.
- Ngồi xuống, ngồi xuống! Đồ ngu, đây là phim? Bác-bit thét to.
Sau khi Tư Mã Khố ngồi xuống, con gấu chó đã chết trên màn ảnh, máu chảy đỏ lòm trên ngực, người đi săn ngồi bên cạnh con gấu, đang nạp đạn vào súng.
- Mẹ kiếp, bắn giỏi thật! - Tư Mã Khố kêu to.
Người đi săn trên màn ảnh ngẩng đầu lên, nói một câu gì đó mà tôi nghe không hiểu, rồi anh ta cười một tiếng tỏ vẻ khinh miệt. Anh ta hất súng lên vai, đút ngón tay vào miệng huýt lên một tiếng chói tai, tiếng huýt đội lại từ các bức tường nhà thờ. Một cỗ xe ngựa men theo con đường đất dọc bờ sông chạy tới, người đánh xe rất ngổ ngáo nhưng hơi đần. Cái tay vịn trông quen quá, hình như đã trông thấy ở đâu. Một người đàn bà đứng trên thùng xe, tóc dài bay bay nhưng không rõ màu tóc, khuôn mặt rộng, lưỡng quyền cao, cặp mắt tuyệt đẹp, lông mi cong cong và cứng như râu mèo, miệng rất rộng, môi mọng. Tôi có cảm tưởng người đàn bà này rất phóng đãng. Hai bầu vú nhảy tưng tung như hai con thỏ bị tóm đuôi. Chị ta phóng thẳng xe về phía tôi. Tôi bàng hoàng, môi tê tê, hai bàn tay đầy mồ hôi. Tôi đứng vụt dậy, nhưng lập tức có một bàn tay ấn đầu tôi xuống buộc tôi ngồi xuống ghế. Ngoảnh nhìn lại, đó là một người lạ, miệng mở tọ Sau lưng anh ta chật ních những người là người, bịt kín cả cổng chính. Có vài người gần như đánh đu trên khung cửa. Ngoài đường tiếng người ồn ào, có rất nhiều người đang lách vào trong.
Người phụ nữ dùng xe, bám dóng xe nhảy xuống. Chị ta vén váy, để lộ bắp chân tường ngần, gọi to, chắc chắn là gọi người đàn ông kia. Gọi, chạy. Quả nhiên là gọi người đàn ông. Anh ta bỏ mặc con gấu, vứt súng, chạy về phía người phụ nữ. Mặt, mắt, miệng, răng trắng, ngực phập phồng của người phụ nữ. Mặt, lông mày rậm, mắt diều hâu, râu quai nón xanh biếc, vết sẹo bóng loáng cắt đôi lông mày và trán người đàn ông. Lại khuôn mặt người phụ nữ, lại khuôn mặt người đàn ông. Bàn chân đã đá tung giày đi của người phụ nữ. Sau đó, người phụ nữ nhào vào lòng người đàn ông. Vú chị ta bị ép bẹp. Miệng người đàn ông bịt chặt miệng người phu nữ. Rồi, miệng chị Ở ngoài, miệng anh ở trong, rồi lại đôi chỗ. Hừ hừ, đó là tiếng rên của người phụ nữ. Lại còn tay của chị ta, ôm cổ ôm eo thì không nói làm gì, lại còn sờ soạng lẫn nhau, cuối cùng, hai người lăn lông lốc trên thảm cỏ xanh, lúc thì nam ở trên, lúc thì nữ ở trên, cứ thế mà lăn, được một dặm thì không lăn nữa. Bàn tay lông lá của người đàn ông thọc vào ngực áo của người đàn bà, chụp lấy một bên vú. Tôi thấy trong lòng đau nhói, những giọt nước cay xè ứa ra khỏi mắt tôi. Một tia sáng trắng, trên màn ảnh không thấy gì nữa. Tách một cái, đèn điện bật sáng, mọi người thở hồng hộc. Trong nhà thờ đầy ắp người, ngay cả trên cái bàn trước mặt tôi, cũng ngồi đầy những trẻ con cởi truồng. Bác-bit đứng bên cỗ máy như một vị thần. Bánh xe vẫn còn chạy, cuối cùng, xạch một tiếng, dùng hẳn. Tư Mã Khố nhảy dựng lên, cười lớn:
- Đ. bà nó, chưa đã, chưa đã, chiếu lại!
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 22
Tối ngày thứ tư, địa điểm chiếu phim chuyển đến chỗ sân phơi rộng lớn của nhà Tư Mã. Toàn thể sĩ quan, binh lính Chi đội Tư Mã và gia quyến của Tư lệnh đều ngồi ở vị trí danh dự, vị trí vàng. Những nhân vật tai mắt của thị trấn ở vị trí bạc, dân chúng thì đứng ở vị trí đồng hoặc sắt. Phía bên kia của màn ảnh dựng rất cao là đầm sen. Sau đầm sen, những người già yếu hoặc tàn tật đứng ngồi lố nhố. Họ xem phim trên mặt sau của màn hình, xem luôn cả những người xem phim.
Đây là một ngày lịch sử của Cao Mật. Nhớ lại, đó là một ngày không bình thường. Buổi trưa, không khí ngột ngạt, mặt trời đen lại, cá trên sông ngửa bụng lên, chim trên trời rơi thẳng đứng. Chú lính dựng cột chiếu phim bị trúng thử, ôm bụng lăn lộn dưới đất, nôn mật xanh mật vàng, đó là điều không bình thường. Hơn chục con rắn cạp nia rồng rắn kéo qua phố, đó là điều không bình thường. Những con giang trong đầm bay lên đậu trên cây đầu thôn, hết đàn nọ đến đàn kia, gãy cả cành, những đôi cánh vỗ, những cái cổ như cổ rắn, những cặp chân dài thẳng đuỗn, đó là điều không bình thường. Người khỏe nhất trong thôn là Trung Đại Đởm bê mười mấy cái trục lúa bằng đá quẳng xuống đầm, đó là điều không bình thường. Khoảng giữa chiều, một toán người lấm lem từ nơi khác tới. Họ ngồi trên đê Thuồng Luồng ăn một thứ bánh mỏng như giấy cùng với củ cải. Hỏi họ đến đây để làm gì, họ nói họ đến xem phim, hỏi họ làm sao biết có chiếu phim, họ nói tiếng lành đồn xa, đó là điều không bình thường! Mẹ phá bỏ thường lệ, kể một chuyện cười về chàng rể ngốc cho chúng tôi nghe, đó là điều không bình thường! Nước sông Thuồng Luồng đỏ như máu, đó là điều không bình thường! Lúc hoàng hôn, muỗi tập trung thành đàn như một đám mây trên sân đập lúa, đó là điều không bình thường. Lúc chạng vạng tối, ráng chiều đỏ như lửa, biến ảo thiên hình vạn trạng, đó là điều không bình thường? Những đóa hoa sen nở muộn trong đầm hiện lên như những linh vật trên trời, đó là điều không bình thường! Sữa của con dê của tôi có mùi tanh, đó là điều không bình thường!
Buổi chiều, ăn sữa xong, tôi cùng Tư Mã Lương chạy như bay đến sân phơi. Phim đã choán hết tâm trí tôi. Chúng tôi chạy ngược nắng chiều, mặt nhuốm đỏ. Những phụ nữ tay xách ghế, tay bế con, những ông già chống gậy, đều là những mục tiêu để chúng tôi vượt. Ông mù Từ Tiên Nhi có giọng hát rè rè vô cùng cảm động, sinh sống bằng nghề hát rong, tay chống cây gậy dài, lệch người mà đi rất nhanh. Bà chủ hiệu dầu ăn, người đàn bà chỉ có một vú, hỏi ông ta:
- Ông mù, đi đâu mà tất bật thế!
Ông mù đáp:
- Tôi mù, chị cũng mù sao?
Ông già Đỗ Bạch Kiểm làm nghề đánh cá, quanh năm mặc áo tơi, tay xách chiếc đôn bện bằng cỏ bồ, nói xen vào:
- Ông mù, ông thì xem phim gì?
Ông mù cả giận, chửi:
- Lão mặt trắng kia, sao dám bảo ta mù, ta nhắm mắt nhìn nhân tình thế thái đấy chứ!
Ông vung gậy quật đánh vút một cái, suýt nện gãy cẳng chân khẳng khiu của ông lão đánh cá. Ông Đỗ định quật lại một đòn, nhưng Phương-Nửa-Mặt - bị gấu liếm mất nửa mặt khi đào sâm ở núi Trường Bạch, can:
- Ông Đỗ, ông đánh nhau với ông mù chẳng hóa ra quên mất mình là ai hay sao? Là hàng xóm, tắt lửa tối đèn có nhau, bỏ qua cho nhau những chuyện vặt ở núi Trường Bạch, chưa nói đến gặp một người cùng làng, ngay cả cùng huyện cũng đã sướng lắm rồi!
Đủ các loại người kéo về sân phơi nhà Tư Mã. Hãy nghe, bên bàn ăn của các gia đình đều nói về sự nghiệp của Tư Mã Khố, trong câu chuyện của các bà các cô đều nói đến chị em nhà Thượng Quan. Chúng tôi phơi phới như cánh én, tinh thần lâng lâng, chỉ muốn phim cứ chiếu mãi.
Phía trước cỗ máy của Bác-bit là chỗ của tôi và Tư Mã Lương. Khi chúng tôi ngồi vào chỗ của mình, ráng chiều đỏ rực vẫn chưa tắt hẳn, gió đêm lành lạnh đem tới mùi tanh. Trước mặt chúng tôi còn một khoảng trống đã được khoanh lại bằng vạch vôi. Anh chàng đánh thuê Lung Hán Quốc, tay cầm cây gậy bằng gỗ ngô đồng, đuổi những người dân tràn vào vạch vôi. Miệng sặc sụa hơi rượu, kẽ răng còn dính thức ăn, mắt giương như mắt bọ ngựa, thẳng tay vụt bay chiếc nơ đỏ trên đầu cô mắt hiếng từng có quan hệ xác thịt với tay phó quan quản trị của Chi đội. Cô mặc chiếc áo lót bằng lụa của viên phó quan tặng, miệng vẫn còn mùi khói thuốc lá của viên phó quan. Cô ta vừa phủi vừa cúi nhặt chiếc nơ, thuận tay bốc một nắm cát ném giữa mặt Lưng Hán Quốc. Hán Quốc quẳng cây gậy, nhổ đất cát trong miệng ra, vừa lấy tay dụi mắt vừa chửi:
- Con hiếng, đồ giẻ rách! Tao thì đ. con gái của mẹ mày! Tao thì đ. em gái của thằng anh mày?
Triệu Giáp làm nghề bán vỏ bếp lò vốn nhanh miệng, nói khẽ:
- Lung Hán Quốc, sao anh cứ quanh co thế! Anh đ. thẳng cô hiếng không được sao?
Triệu Giáp nói chưa dứt lời, một chiếc ghế đẩu bằng gỗ hòe đã quật vào vai anh tạ Triệu Giáp kêu ối một tiếng, quay lại. Người đánh anh ta là thằng Gật, anh trai của cô hiếng. Anh ta mặt mày vàng võ, tóc rẽ giữa, đường ngôi thẳng tắp, bóng như một vết sẹo. Anh ta mặc chiếc áo ngoài màu tàn thuốc, rộng thùng thình. Tóc chải đầu bóng, mắt lươn.
- Anh ta tằng tịu với cô em ruột- Tư Mã Lương khẽ bảo tôi như vậy.
Tù đâu mà Tư Mã Lương biết được điều bí mật ấy?
- Cậu ạ bố cháu bảo ngày mai tử hình viên phó quan quản trị tài vụ - Tư Mã Lương nói khẽ.
- Vậy thằng Gật có bị bắn không? - Tôi hỏi khẽ.
Thằng Gật từng chửi tôi là đồ con lai, tôi thù anh tạ Tư Mã Lương nói:
- Để cháu nói với bố cháu, bắn bỏ cái đồ ấy đi!
- Phải, bắn bỏ cái đồ ấy đi - tôi nói cho hả giận.
Lung Hán Quốc hai mắt ướt nhèm, vung gậy loạn xạ vì không trông thấy gì. Triệu Giáp giằng lấy chiếc ghế đẩu trong tay thằng Gật quẳng ra xa.
- Đ. em gái mày! - Anh ta chửi thẳng.
Thằng Gật giơ những móng tay như vuốt chim ưng chộp lấy cổ họng Triệu Giáp. Triệu Giáp túm lấy tóc thằng Gật. Hai người quần nhau dịch dần ra chỗ trống mà Chi đội Tư Mã để chừa ra, không ai khuyên giải được. Cô hiếng nhảy ra, định xông vào giúp anh trai, nhưng mấy lần đều đấm nhầm vào lưng thằng Gật. Cô hiếng chộp đúng thời cơ, như một con dơi lướt tới sau lưng Triệu Giáp, luồn tay dưới háng túm lấy hạ bộ của anh tạ Quan Lưu Tinh, một tay biết võ, lớn tiếng khen:
- Giỏi! Đó là miếng trẩy đào dưới lá.
Triệu Giáp rú lên, gập người lại như con tôm, chân tay mềm nhũn, mặt vàng ệnh trong cảnh nhập nhoạng tối. Cô hiếng dùng sức vặn một cái, hùng hổ:
- Định đ. kia mà, bà đang đợi mày đấy?
Triệu Giáp mềm nhũn, ngã lăn ra. Lung Hán Quốc vớ lấy cây gậy, rồi như một tướng tiên phong mở đường, bất kể trắng đen, bất kể hoàng thân quốc thích, vụt tất, rủi ai người ấy bị. Gậy vung tới tấp, già khóc trẻ kêu, người ở vòng ngoài thì len vào trong để xem, người ở trong thì chạy thoát thân ra ngoài, nhất thời người như nước lũ, dồn thành đống, vón thành cục, anh dẫm lên tôi, tôi thúc vào anh. Tôi đặc biệt chú ý khi cô hiếng bị một gậy vào mông, cô ta vội rúc vào đám đông, liền bị những người đánh hôi, những người ngứa mắt nện cho một trận tơi bời, kêu oai oái.
Đoàng, một tiếng súng nổ. Người nổ súng là Tư Mã Khố. Anh ta mặc áo choàng đen, một vệ sĩ theo sau, nối tiếp là Bác-bit và Chiêu Đệ, Niệm Đệ, giận dữ bước vào.
- Yên lặng - Một vệ sĩ hét lên - Mất trật tự thì không chiếu nữa?
Mọi người nháo nhác rồi im. Tư Mã Khố dẫn người của anh ta vào chỗ ngồi. Bầu trời chuyển sang màu tím, sắp tối mịt. Vầng trăng như lưỡi liềm, ánh sáng ảm đạm, phía tây nam có một ngôi sao rất sáng nằm trong chỗ khuyết của vầng trăng. Trung đội kỵ mã, trung đội lừa, trung đội tiện y đều đến đủ, xếp hàng đôi, ôm súng hoặc khoác súng, ngó nghiêng đám phụ nữ. Một đàn lang sói rồng rắn kéo vào. Mây đen nuốt chửng trăng sao, bóng tối trùm lên mặt đất. Côn trùng kêu thê thảm trên cây, nước cuồn cuộn trên sông.
- Phát điện! - Tư Mã Khố ở phía trúc bên trái tôi, ra lệnh. Anh ta bật lửa châm thuốc. Châm xong, vẩy một cái thật mạnh, tắt ngọn lửa.
Máy phát đặt ở ngôi nhà bỏ hoang của người đàn bà Hồi. Vài bóng đen lay dông. Một ánh đèn pin. Cuối cùng, máy nổ. Thoạt đầu, nổ to rồi nổ nhỏ, sau nổ đều. Một bóng điện phía sau đầu tôi phát sáng. Chà chà, quần chúng xúc động kêu lên. Tôi trông thấy những người phía trước đều ngoái lại nhìn ánh điện, những cặp mắt lóe sáng.
Cũng như đêm thứ nhất, một luồng ánh sáng tìm màn hình, những con thiêu thân va dập vào nhau trong cột sáng, bóng chúng to lên rất nhiều trên màn hình, các binh sĩ và dân chúng ngạc nhiên thán phục. Chỗ khác nhau so với đêm thứ nhất rất nhiều: Tư Mã Khố không nhảy dựng lên để ánh sáng xuyên qua vành tai trong suốt. Bốn bên bóng tối càng dày đặc thì ánh sáng càng chói lọi. Không khí ẩm ướt, hơi nước từ cánh đồng pha vào mặt. Gió rì rào trên ngọn cây. Tiếng chim ăn đêm lia ngang trên bầu Trời. Tiếng cá búng nước lóc bóc. Còn nữa, tiếng hắt hơi của những con lừa dưới chân đê, đó là những người ở rất xa đến. Tiếng chó sủa trong ngõ sâu. Chớp màu xanh lục ở phương nam như một tấm rèm, tiếng sấm nặng nề vọng tới sau khi tia chớp đã tắt. Chuyến tàu hỏa chở đầy pháo đạn chạy ầm ầm qua cầu Thuồng Luồng, tiếng bánh sắt đập vào đường ray hòa quyện với tiếng máy chiếu phim. Điều khác biệt lớn nhất là tôi không còn hứng thú với những hình ảnh trên màn hình. Buổi chiều, Tư Mã Lương nói nhỏ với tôi:
- Cậu này, bố cháu vừa mua một phim mói từ Thanh Đảo về, toàn là phụ nữ trần truồng.
- Bịa? - tôi nói.
- Thật mà, chú Đỗ nói vậy, đội trưởng đội Tiện y cưỡi mô tô đi lấy, lát nữa là đem về.
Kết quả là bịp, Tư Mã Lương nói không đúng. Tôi véo đùi hắn.
- Cháu không bịp cậu đâu, có lẽ chiếu phim cũ trước phim mới sau. Ta hãy đợi xem!
Tôi đã biết con gấu bị đạn như thế nào, cũng đã biết người đi săn và cô gái lăn lộn như thế nào, chỉ cần nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung ra tất cả. Thế là tôi đưa mắt dò xét tình hình phía trước và những người xung quanh.
Chiêu Đệ sau khi đẻ xong còn yếu, chị mặc chiếc áo khoác bằng dạ xanh hoa trắng, ngồi ghế thái sư màu tía dành riêng eho chị. Bên trái là Tư lệnh Tư Mã Khố, anh ta cũng ngồi ghế thái sư, áo khoác ngoài vắt trên thành ghế. Bên trái anh ta là Niệm Đệ, ngồi trên chiếc ghế mây. Chị mặc váy trắng không phải chiếc váy có đuôi dài. Chiếc này này cổ cao, dán chặt vào người. Thoạt tiên chị ngồi thẳng, cổ cũng duỗi thẳng. Cái đầu to của Tư Mã Khố ngoảnh sang bên phải làm như ngẫu nhiên, nói thầm gì đó vào tai Chiêu Đệ. Khi người đi săn trên màn hình hút thuốc, chị Chiêu Đệ đã mỏi cổ, lưng cũng mỏi, người chị lún sâu trong ghế, tôi thoáng thấy viên ngọc phỉ thúy long lanh trên đầu chị, thoáng ngửi thấy mùi long não trên quần áo chị, nghe rõ tiếng thở đều đều của chị.
Chị Niệm Đệ vẫn ngồi thẳng, cánh tay trái Tư Mã Khố động dậy, từ từ đưa tay sang, mờ mờ, như một nhánh cỏ đuôi chó. Tôi đã trông thấy tay anh ta đặt trên đùi chị Niệm Đệ. Chị vẫn ngồi ngay thẳng, làm như không biết chuyện gì. Tôi trong lòng không vui, giận không phải giận, sợ cũng không phải sợ. Cổ họng tôi khô bỏng, muốn họ Một ánh chớp xé rách tầng mây trên đầm, cái tay của Tư Mã Khố vội rụt lại nhanh hơn chớp. Anh ta ho lên một tiếng như tiếng dế kêu, người lắc lư, nghiêng đầu nhìn cỗ máy chiếu phim. Tôi cũng nhìn sang, Bác-bit đang ngẩn tò te dòm vào cái lỗ trên máy chiếu.
Người đàn ông và người đàn bà trên màn hình ôm nhau, hôn nhau. Bọn lính của Tư Mã Khố thở phì phò. Bàn tay Tư Mã Khố thọc một cách thô bạo vào giữa hai đùi chị Niệm Đệ. Chị từ từ giơ tay trái lên sau gáy làm như sửa lại tóc, nhưng tôi trông thấy chị không sửa lại tóc, mà rút trâm cài đầu đâm thẳng xuống, dáng ngồi vẫn thẳng, như vẫn đang mê mải xem phim. Tư Mã Khố giật vai một cái, hít một hơi, không hiểu hơi lạnh hay hơi nóng. Anh ta từ từ rút tay trái về, lại ho một tiếng như tiếng dệ Anh ta giả vờ ho đấy thôi! Tôi thở ra như cất được gánh nặng, mắt vẫn nhìn lên màn ảnh nhưng không nhìn rõ những gì trên đó. Hai bàn tay tôi nhơm nhớp mồ hôi. Có nên cho mẹ biết điều bí mật kia không nhỉ? Không, không nên cho mẹ biết. Nhưng điều bí mật ấy mẹ đã đoán ra.
Những tia chớp sáng trắng, loằng ngoằn như thép chảy, soi sáng Bãi-CátĐài, nơi mà Hàn Chim và đồng đội của anh đã chiếm cứ, những cây, những nhà tranh vách đất. Dòng thép tung tóe, đội xuống những cây cối đen sẫm và những ngôi nhà màu vàng. Sấm động ầm ầm như gõ chiếc thùng sắt rỉ. Người đàn ông và người đàn bà lăn lộn trên bãi cỏ bên sông, khiến tôi nhớ lại câu chuyện đêm qua.
Đêm qua, Tư Mã Khố và chị Hai đã thuyết phục được mẹ đến xem phim ở nhà thờ: Cũng đến đoạn lăn lộn trên bãi cỏ, Tư Mã Khố lặng lẽ rút khỏi nơi chiếu phim. Tôi bám theo anh tạ Anh ta đi dọc theo bờ tường như một tên trộm, không giống viên Tư lệnh chút nào. Chắc hẳn xưa kia anh ta là tên trộm vặt. Anh ta nhảy vào vườn nhà tôi, từ bức tường thấp phía nam. Tôn Bất Ngôn cũng vào nhà tôi bằng con đường này, tiên Chim cũng rất quen thuộc. Tôi không nhảy tường. Tôi có cách vào của tôi. Mẹ để chiếc chìa khóa ở kẽ gạch bên cổng, tôi nhắm mắt là có thể sờ thấy. Nhưng tôi không vào bằng cổng. Phía dưới cánh cổng có một cái lỗ để chó chui ra chui vào, đó là khi bà nội còn sống. Chó không còn nữa nhưng lỗ thì vẫn còn. Tôi có thể chui quạ Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa cũng có thể chui quạ Xong rồi, tôi đã ở bên sau cổng. Đây là phòng xép, một bộ phận của dãy chái phía tây. Bước hai bước là vào chái. Gian chái vẫn ngổn ngang như cũ, cối xay bột, máng cỏ, đệm cỏ của Lai Đệ Chị phát bệnh cuồng dâm ngoài bãi cỏ. Để dề phòng chị phá lễ cưới của Bác-bit, Tư Mã Khố đã lấy thùng buộc một tay chị lên khung cửa sổ. Ba hôm rồi, chưa cởi. Tôi cho rằng em rể định cởi trói cho chị đi xem phim. Nhưng sau đó thì thế nào?
Thân hình hộ pháp của Tư Mã Khố càng tỏ ra đồ sộ dưới ánh sao. Anh ta đã mò đến nơi. Anh ta không phát hiện ra tôi. Tôi nấp sau cánh cổng. Anh ta bước vào gian chái, vấp phải chiếc thùng sắt tây. Đó là chiếc thùng để chị Lai Đệ đi tiểu. Lai Đệ cười khanh khách trong bóng tối. Một đốm lửa lóe lên, rất sáng, soi rõ chị Lai Đệ nằm trên đệm cỏ, đầu tóc rối bù, rằng trắng nhởn, chiếc áo ngoài che không kín da thịt. Sợ quá, như một con quỉ. Tư Mã Khố giơ tay vuốt má chị, chị không hề sợ. Bật lửa tắt, dê ở chuồng bên gõ móng. Tiếng cười của Tư Mã Khố.
- Chị vơ ơi! - Tư Mã Khố nói- Chị chẳng cuồng lên rồi đó sao? Có tôi đây...
Lai Đệ gào lên, như điên như cuồng, vẫn những điều tục tĩu như hôm ngoài bãi cỏ, chết khát thôi, chết thèm thôi...
Tư Mã Khố nói:
- Chị Ơi, chị khát thì tôi thừa nước, chị là sóng thì tôi là thuyền, chị khô hạn thì tôi là mưa, tôi là cứu tinh của chị đây!
Hai người cuộn lấy nhau. Tiếng kêu của Lai Đệ còn lảnh lót hơn cả tiếng kêu của Tiên Chim trước kia...
Tôi lặng lẽ chui qua lỗ cổng ra ngõ, mồ hôi ướt đầm...
Khi phim sắp chiếu xong, Tư Mã Khố lẳng lặng trở về chỗ ngồi. Mọi người trông thấy Tư lệnh, bèn nhường lối. Khi anh ta đi qua chỗ tôi, tiện tay xoa đầu tôi một cái tôi ngửi thấy mùi vú của chị Lai Đệ trên tay anh tạ Anh ta ngồi xuống, ghé tai chị Hai nói câu gì đó, hình như chị Hai cười. Lúc này đèn điện bật sáng. Mọi người ngẩn ra một thoáng hình như chưa biết nên làm gì. Tư Mã Khố đứng lên nói to:
- Đêm mai chiếu ở ngoài, tôi muốn mọi người cùng hưởng phúc, biết thế nào là văn minh phương Tây! Mọi người như bừng tỉnh, tiếng ồn ào át cả tiếng máy chạy.
Sau đó, khi những người khác đã về hết, Tư Mã Khố hỏi mẹ:
- Thế nào, cụ? Không uổng đã đến xem chứ? Rồi đây tôi sẽ xây rạp chiếu phim ở Cao Mật. Thằng cha Bác-bit quả là giỏi. Có một chàng rể như thế, cụ nên cảm ơn tôi mới phải?
Chị Hai nói:
- Thôi, đưa mẹ về nhà.
Mẹ nói:
- Hãy cụp đuôi lại, chàng rể hiền của tôi, người vui chuyện gở, chó vui tranh phân, chưa hẳn đã tốt đâu!
Tôi không đoán ra từ đâu mẹ biết bí mật từ hồi đêm.
Sáng sớm hôm sau, Tư Mã Khố và chị Hai đem lương thục đến cho, mẹ bảo:
- Rể Hai này, anh nán lại một lúc, tôi có chuyện muốn nói với anh!
Chị Hai nói:
- Chuyện gì mà sợ người khác nghe thấy?
Mẹ nói:
- Mày đi đi!
Mẹ dẫn Tư Mã Khố vào trong buồng nói:
- Anh tính như thế nào về nó?
Tư Mã Khổ nói:
- Ai cơ?
Mẹ nói: - Anh đừng giả vờ nữa!
Tư Mã Khố nói:
- Tôi không giả vờ!
Mẹ bảo:
- Hai con đường, anh hãy chọn lấy một.
Tư Mã Khố hỏi:
- Hai con đường nào?
Mẹ nói: Nghe đây! Một là anh lấy nó, vợ lớn hay vợ bé, hoặc không phân lớn bé, anh bàn với con Hai. Hai là anh giết nó đi!
Tư Mã Khố hai tay xoa ống quần, nhưng lần này khác hẳn cái hôm ở bãi cỏ. Mẹ nói:
- Sau ba hôm, anh phải chọn lấy một Anh về đi!
Chị Sáu ngồi im, như không có chuyện gì xảy ra. Tôi nghe tiếng ho như tiếng dê của Tư Mã Khố, vừa phấn khởi lại vừa buồn. Trên màn ảnh trước mặt, người đàn ông và người đàn bà nằm sát bên nhau dưới gốc cây, người nữ gối đầu trên cánh tay người nam. Người nữ ngước nhìn những quả lúc lỉu trên cây. Người đàn ông hình như có tâm sự gì đó, cắn cắn một nhánh cỏ. Người đàn bà chống tay ngồi dậy, nghiêng người nhìn thẳng vào mặt người đàn ông, nửa bầu vú lộ ra từ cổ áo, giữa hai vú là một rãnh sâu như đường đi của con lươn ở chỗ nước nông gần bờ. Tôi đã bốn lần trông thấy loại đường đó. Tôi khao khát được ngó vào trong rãnh. Nhưng người đàn bà đã dịch người sang một bên, cái rãnh biến mất. Chị ta lắc lắc người đàn ông, gào toáng lên. Người đàn ông nhắm mắt, miệng tiếp tục nhai cọng cỏ. Rồi người đàn bà tát vào mặt người đàn ông, ngoác cái miệng rộng ra khóc, tiếng khóc không khác là bao với tiếng khóc của phụ nữ Trung Quốc. Người đàn ông mở mắt, nhổ cọng cỏ vào mặt người đàn bà. Gió lắc dữ dội cây trên màn ảnh, những quả đập vào nhau, lá xào xạc từ bờ đê vọng lại. Không hiểu tiếng gió trên màn ảnh hay là tiếng gió từ ngoài sông ào tới, một ánh chóp xanh, tiếp theo là tiếng sấm nặng nề. Gió ào ào, mọi người có vẻ nhốn nháo, những phẩy trắng xuyên qua luồng ánh sáng. Mưa rồi, có người kêu lên. Người đàn ông đi về phía cỗ xe, người đàn bà chân trần, quần áo nhàu nát, vịn vào tay người đàn ông.
- Không chiếu nữa, hỏng mất máy chiếu!
Tư Mã Khố đứng chặn luồng ánh sáng. Mọi người hét lên, anh ta lại ngồi xuống. Trên màn ảnh, nước bắn tung lên, người đàn ông và người đàn bà nhảy xuống sông. Lại những tia chớp kéo dài, ánh đèn chiếu bị mờ hẳn đi. Mười mấy vật đen sì bay tới như những cục phân vãi ra từ tia chớp, một loạt tiếng nổ dữ dội trong đám đông, chủ yếu là nổ giữa Chì đội Tư Mã Khố. Tiếng nổ oàng oàng, chớp xanh chớp vàng, mùi thuốc súng nồng nặc xảy ra cùng một lúc. Không rõ từ lúc nào, tôi ngồi trên bụng một người. Tôi cảm thấy nhớp nháp trên đầu. Tôi sờ má, má dính nhơm nhớp, ngủi thấy mùi tanh của máu. Lập tức những tiếng kêu thất thanh, những người sợ đến mất trí chạy tán loạn, thấp thoáng những cái lưng, những cái đầu dẫm máu!
Những bộ mặt hoảng sợ trong luồng ánh sáng. Đôi nam nữ đang đùa rỡn trong nước trên màn ảnh bị xé ra từng mảnh vụn. Chớp. Sấm. Máu tươi, xương thịt tung tóe. Phim Mỹ. Lựu đạn. Đầu nòng súng phụt ra những con rắn lửa.
- Anh em, không được mất trật tự!
Lại một loạt tiếng nổ.
- Ối mẹ Ơi! ối con ơi!
Một cánh tay giãy đành đạch. Chân vướng ruột người. Những hạt mưa to như đồng bạc trắng. Những ánh chớp chói mắt. Một đêm đầy bí ẩn.
- Bà con, không được động đậy! Sĩ quan, binh lính Chi đội Tư Mã không được động đậy! Nộp súng đầu hàng thì không giết! Hàng thì sống, chống thì chết?
Tiếng gọi từ bốn phía dồn tới, dồn tới...
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 23
Tiếng nổ chưa dứt hẳn, vô số ngọn đuốc sáng rực đã từ tứ phía ập tới. Trung đoàn 17 thuộc trung đội 8 áo mưa màu đen, lưỡi lê lắp trên đầu súng, đi đều bước miệng hô khẩu hiệu, hùng dũng tiến vào. Cầm đuốc là những người dân quấn khăn mặt trắng trên đầu trong đó quá nửa là phụ nữ tóc cắt ngắn. Họ giơ cao ngọn đuốc, soi đường cho các binh sĩ trung đoàn 17. Đuốc làm bằng giẻ rách tẩm đầu, cháy như đình liệu. Chi đội Tư Mã nổ một loạt súng, các binh sĩ trung đoàn 17 đổ như ngã rạ, nhưng lập tức những người phía sau dồn lên lấp chỗ trống. Lại mấy chục quả lựu đạn ném tới, đất trời như vỡ tung. Tư Mã Khố kêu to:
- Đầu hàng thôi, anh em! Đừng làm hại đến dân!
Thế là súng vút ngổn ngang dưới đất, chỗ những ngọn đuốc chiếu sáng. Hai bàn tay đầy máu, Tư Mã Khố bế chị Chiêu Đệ lên, gọi to:
- Chiêu Đệ, Chiêu Đệ, tỉnh lại đi!
Một bàn tay run run nắm lấy cánh tay tôi. Tôi ngẩng lên, qua ánh lửa tôi nhìn thấy chị Niệm Đệ mặt trắng nhợt nằm dưới đất, trên người là mấy xác chết cụt chân cụt tay.
- Kim Đồng, Kim Đồng!... Chị gọi tôi một cách khó khăn - Em còn sống đấy chứ?
Chị vươn hai tay về phía tôi, cầu khẩn:
- Em yêu, kéo giúp chị ra!
Tay tôi toàn máu là máu. Tay chị cũng đầy máu, nắm lấy như nắm con lươn, mạnh một tí là tuột. Lúc này mọi người đều nằm bẹp dưới đất không ai dám đứng dậy. Luồng ánh sáng trên máy chiếu vẫn rọi trên màn bạc, cảnh ân oán của đôi nam nữ người Mỹ đã đến hồi cao trào, người đàn bà giơ thật cao thanh đao trước mặt người đàn ông đang ngủ. Bác-bit đứng bên máy chiếu sốt ruột gọi:
- Niệm Đệ Niệm Đệ, em ở đâu?
- Em ở đây, Bác-bit, em ở đây!
Chị Sáu giơ một tay về phía Bác-bit của chị. Chị thều.. thào trong miệng, nước mắt nước mũi đầy mặt. Bác-bit. gắng gượng đi về phía chị Niệm Đệ, anh ta đi rất khó khăn, y hệt con ngựa bị lún trong bùn lầy.
- Đứng lại - Một tiếng gầm vang lên. Đoàng, một tiếng súng bắn chỉ thiên. Không được mất trật tự! Bác-bit như bị chém ngang lưng, đổ gục trên mặt đất.
Tư Mã Lương không biết từ đâu bò tới, tay trái rách thành một cái lỗ, máu me đầy mặt, tóc và cổ. Nó kéo tôi dậy, dùng bàn tay rắn rỏi sờ nắn khắp người tôi.
- Cậu còn nguyên vẹn cả, tay còn, chân còn - nó nói.
Nó cúi xuống lôi những cái xác nằm đè lên chị Sáu, đỡ chị dậy. Bộ quần áo chị Sáu dính đầy máu.
Dưới trời mưa nặng hạt như những mũi tên, chúng tôi bị dồn vào căn nhà để cối xay gió. Đây là công trình kiến trúc to nhất của thôn trấn. Giờ đây, nó bị biến thành trại tạm giam. Giờ nghĩ lại, khi đó chúng tôi có nhiều cơ hội trốn thoát, vì rằng mưa rào dập tắt nhanh chóng những cây đuốc trong tay dân phu của trung đoàn 17, các binh sĩ trong trung đoàn bị mưa quất không mở được mắt, chúng loạng choạng, lo thân còn chưa xong. Ở đầu hàng quân chỉ có ánh sáng của hai cây đèn pin. Vậy mà không một ai chạy trốn. Kẻ bắt người và người bị bắt cùng lúng túng như nhau. Khi đến gần cánh cổng nhà xay, các binh sĩ của trung đoàn 17 tranh nhau vào trước, vượt cả chúng tôi.
Nhà xay rung lên dưới mưa. Qua ánh chớp, tôi nhìn thấy nước đổ như trút qua kẽ hở của những tấm tôn lợp. Nhìn ra ngoài hiên, dòng nước chảy cuồn cuộn, từ rãnh thoát nước trước cửa đến ngoài đường, trắng xóa một màu. Trong quãng đồng từ sân phơi đến nhà xay, tôi bị lạc chị Sáu và Tư Mã Lương. Trước mặt tôi là tên lính của trung đoàn 17, anh ta lộ xỉ, môi không che kín lợi, răng trắng nhởn như răng thỏ lộ hết ra ngoài. Cặp mắt màu xám của anh ta bị phủ một lớp hơi nước. Tôi cảm thấy nỗi tuyệt vọng và sợ hãi khiến tim anh ta như bị sâu bọ gậm nhấm. Sau một ánh chớp, anh ta hắt hơi một cái rõ kêu trong bóng tối, phả vào mặt tôi mùi thuốc lá lẫn mùi củ cải. Mũi tôi vừa cay vừa ngứa. Tiếng hắt hơi râm ran trong bóng tôi. Tôi muốn tìm chị Sáu và Tư Mã Lương, nhưng tôi không dám gọi, chỉ dựa vào tia chớp lóe lên trong khoảnh khắc để tìm trong tiếng sấm như bắt lấy hồn phách người ta và mũi thì ngửi toàn mùi lưu huỳnh. Tôi trông thấy sau lưng một tên lính bé nhỏ, là bộ mặt gầy guộc của thằng Gật. Hắn trông như quỉ nhập tràng vừa chui ra từ trong mộ, sắc mặt tím tái, tóc bết lại như hai cái bàn chải, quần áo dán chặt vào người, cổ dài ngoẵng, yết hầu như một quả trứng gà, xương ngực lồi lên, mặt hắn như đốm lửa lân tinh.
Khi trời gần sáng thì ngớt mưa, những tiếng ầm ầm trên mái tôn đã chuyển sang tiếng tí tách của giọt nước lọt qua kẽ hở. Sấm chớp giảm, màu sắc từ xanh lét đáng sợ chuyển sang màu vàng trắng ấm áp. Tiếng sấm xa dần, gió thổi theo hướng đông bắc, lạnh thấu xương, mọi người áp sát nhau, bất kể ai. Phụ nữ và trẻ con khóc trong bóng tối. Tôi cảm thấy như kiến bò ngược từ dưới chân lên, bụng dưới đau quặn, rồi toàn thân như một tảng băng. Giả dụ khi ấy có ai muốn ra khỏi nhà xay, chắc chắn không bị ngăn trở. Nhưng không có người nào bỏ trốn.
Sau đó, ngoài cổng có người đi tới. Trong trạng thái tê dại, tôi dựa vào cái mông đít của ai đó, người ấy cũng dựa vào tôi. Tiếng lội nước oàm oạp bên ngoài, tiếp đó mấy luồng ánh sáng vàng vọt rọi vào. Vài người trùm áo mưa chỉ hở hai con mắt hiện ra trước cổng, gợi vào trong:
- Các binh sĩ trung đoàn 17 ra hết bên ngoài chấn chỉnh đội ngũ.
Tiếng gọi khàn khàn, không phải giọng của anh tạ Giọng anh ta vốn oang oang, đầy kích động. Tôi nhận ra ngay một trong những người mặc áo mưa đó chính là Lỗ Lập Nhân, đại đội trướng kiêm chính ủy đại đội bộc phá. Cái tin anh ta thăng cấp, gia nhập trung đoàn 17, tôi đã có nghe hồi mùa xuân, bây giờ thì đã rõ ràng.
- Mau lên! - Lỗ Lập Nhân nói - Các đại đội đã nhận xong phòng ở, các đồng chí về ngay để ngâm chân, uống nước gừng!
Các binh sĩ trung đoàn 17 chen nhau ra khỏi nhà xaỵ Họ xếp hàng ngoài đường, vài người có vẻ cán bộ, tay cầm đèn bão, tranh nhau hô:
- Đại đội ba theo tôi! Đại đội bảy theo tôi! Bộ phận trục thuộc trung đoàn theo tôi!
Các binh sĩ lội bì bõm đi theo những chiếc đèn bão. Mười mấy binh sĩ mặc áo mưa, bồng súng bước tới, người trực ban báo cáo:
- Báo cáo trung đoàn trưởng, trung đội một, đại đội cảnh vệ đến canh gác tù binh.
Lỗ Lập Nhân giơ tay chào lại, nói:
- Canh gác cẩn mật, không cho đứa nào trốn thoát. Sẽ điểm danh khi trời sáng. Nếu tôi không lầm thì... - Hắn ngó vào trong nhà xay - Ông bạn Tư Mã Khố cũng trong đó.
- Tiên sư nhà mày! - Tư Mã Khố từ sau chiếc cối xay lớn chửi vọng ra - Thằng Tưởng Lập Nhân ti tiện kia, ông ở đây!
Lỗ Lập Nhân cười:
- Hẹn gặp lại khi trời sáng!
Lỗ Lập Nhân vội vã bỏ đi. Tay trung đội trưởng cảnh vệ to như hộ pháp đứng dưới ánh đèn, nói vào trong:
- Tôi biết có người có súng lục. Tôi ở chỗ sáng, các người ở trong tối, có thể bắn trúng tôi? Nhưng tôi khuyên các người hãy bỏ ý nghĩ đó đi, vì nếu có bắn thì chỉ bắn ngã một mình tôi, nhưng... - Anh ta quay lại chỉ đám binh sĩ - mười mấy băng tiểu liên này xả vào thì ngã xuống không chỉ có một. Chúng tôi ưu đãi tù binh, trời sáng sẽ phân loại không có tội và nếu tự nguyện tham gia đội ngũ, chúng tôi hoan nghênh. Người nào không muốn tham gia, chúng tôi cấp tiền lộ phí, cho về với gia đình.
Trong nhà xay không ai nói gì, chỉ có tiếng nước chảy ào ào. Đại đội trưởng chỉ huy đám lính kéo cánh cổng đã biến dạng, đóng cổng lại. ánh sáng vàng vọt của cây đèn bão lọt qua khe cửa, chiếu vào trong.
Các binh sĩ của trung đoàn 17 rút hết đi, trong nhà xay dễ thở hơn. Tôi mò mẫm lần đến chỗ có tiếng nói của Tư Mã Khố, vấp phải những cẳng chân nóng như lửa, nghe thấy những tiếng rên hừ hừ. Khu nhà xay này là kiệt tác của anh em Tư Mã Khố. Sau khi khánh thành, nhà xay không xay được một bao bột nào. Những cánh quạt chỉ một đêm giông bão đã gãy sạch, còn trơ lại cái trụ với những cánh nứt gãy, bốn mùa kêu kèn kẹt. Khu nhà xay rộng đến mức có thể làm nơi đua ngựa, mười hai chiếc cối xay như mười hai quả núi nhỏ ngồi chồm hổm trên bệ. Chiều qua tôi cùng Tư Mã Lương vừa đến quan sát nơi này. Tư Mã Lương nói nó sẽ đề nghị bố nó sửa chữa nhà xay thành rạp chiếu bóng. Khi bước chân vào trong nhà xay, tôi bất chợt rừng mình. Trong khu nhà rộng thênh thang có một đàn chuột hung tợn xông thẳng vào chúng tôi. Khi chỉ còn khoảng hai bước chân, chúng dùng lại. Một con chuột già lông trắng mắt đỏ, giơ những vuốt chân đẹp như điêu khắc băng ngọc thạch, vuốt râu. Cặp mắt ti hí của nó đảo như chớp. Sau lưng nó, mươi mấy con chuột xếp thành hình cánh cung, mắt vằn lên, chuẩn bị xông lên cắn xé. Tôi hoảng sợ lùi lại, đầu như muốn vỡ ra, lưng toát mồ hôi lạnh. Tư Mã Lương đứng chắn trước mặt tôi, nó chỉ đứng đến cằm tôi. Nó cúi xuống, rồi sau đó nó ngồi xổm, chiếu tướng con chuột già. Con chuột cũng không chịu lép, nó không vuốt râu nữa, ngồi chồm hổm như chó, cặp râu rung rung. Con chuột già nghĩ gì? Tư Mã Lương, thằng nhỏ tôi vốn không ưa rồi dấn dà trở thành thân cận của tôi, nghĩ gì? Chỉ đơn thuần là cuộc đấu giữa hai cặp mắt hay sao? Nó và con chuột đang tiến hành một cuộc đọ sức về tinh thần, chĩa mũi nhọn vào nhau xem ai nhụt trước. Tôi hình như nghe thấy con chuột nói rằng, đây là địa bàn của chúng tôi, các ông không nên thâm nhập. Tôi nghe Tư Mã Lương nói: Đây là nhà của ta, do bác ta và cha ta xây dựng nên. Ta về đây tức là về nhà, ta là chủ của ngôi nhà này. Chuột già nói: Được làm vua, thua làm giặc! Tư Mã Lương nói: Yếu trâu còn hơn khỏe bò. Chuột già nói: Ông là người chứ không phải trâu. Tư Mã Lương nói: Kiếp trước ta là mèo, nặng tám ký, mèo đực. Chuột già nói: Ông làm sao cho tôi tin kiếp trước của ông là mèo? Tư Mã Lương chống hai tay xuống đất, trợn mắt há miệng kêu meo meo. Tiếng dội lại meo meo. Chuột già kinh hoàng hạ hai chân trước xuống định bỏ chạy. Tư Mã Lương nhanh nhẹn vồ lấy con chuột quật chết tươi trong khi nó chưa kịp cắn. Những con còn lại chạy tán loạn. Tôi bắt chước Tư Mã Lương, vừa kêu meo meo, vừa đuổi đánh lũ chuột. Trong chớp mắt, lũ chuột chạy mất dạng. Tư Mã Lương cười, ngoảnh lại nhìn tôi. Trời ơi, mắt nó giống hệt mắt mèo, lóe lên những tia dữ dằn trong ánh hoàng hôn. Nó quẳng con chuột già vào lỗ cối xaỵ Hai chúng tôi mỗi thằng bám một tai cối, hết sức bình sinh mà đẩy nhưng cái cối không nhúc nhích, đành bỏ cuộc. Chúng tôi đi vòng một lượt các cối, cái nào cũng tốt. Tư Mã Lương nói:
- Cậu Kim Đồng, ta chung nhau mở nhà xay, cậu thấy thế nào?
Tôi không biết trả lời nó ra sao. Ngoại trừ vú và sữa, tôi chẳng thấy cái gì có ích cho tôi.
Buổi chiều hôm đó thật huy hoàng, ánh nắng xuyên qua khe hở và các ô cửa sổ, chiếu trên gạch lát nền men xanh. Trên nền có cứt chuột. Trong cứt chuột chắc chắn là có cứt dơi, vì rằng trên xà nhà treo lủng cẳng những con dơi cánh dỏ. Một con dơi quá to bằng chiếc đấu đang bò trên vì kèo. Tiếng kêu của nó tương xứng với cơ thể nó, lảnh lót và kéo dài, khiến tôi sởn gai ốc. Chính giữa cối đều đục một lỗ tròn bằng miệng bát, là đoạn gỗ sam chọc thẳng qua nóc chĩa lên trời, đầu đoạn gỗ lắp bánh xe gió. Tư Mã Khố và Tư Mã Đình cho rằng, chỉ cần có gió là những cánh trên bánh xe chuyển động, bánh xe sẽ chuyển theo, khúc gỗ sam tất nhiên cũng chuyển động. Nhưng thực tế đã nghiền nát ảo tưởng của anh em nhà Tư Mã. Tôi đi vòng quanh cối để tìm Tư Mã Lương, trông thấy mấy con chuột trèo lên trèo xuống thoăn thoắt chỗ cột gỗ sam. Trên thớt trên của cối có người đang ngồi. Đó là Tư Mã Lương, ánh mắt sáng rực. Nó thò bàn tay lạnh ngắt xuống năm lấy tay tôi. Được nó giúp sức, tôi đặt chân lên tai cối, trèo lên đỉnh thớt trên. Mặt thớt trên ẩm ướt, nước đầy lỗ.
- Cậu Kim Đồng, cậu còn nhớ con chuột già không
Nó hỏi tôi, vẻ thần bí. Tôi gật đầu trong bóng tối.
- Nó ở đây - Tư Mã Lương nói nhỏ - Cháu định lột da nó để bà ngoại may cái chụp tai chống lạnh!
Một tia chớp yếu ớt lóe lên từ phương nam xa xôi, trong nhà xay rạng lên một thoáng. Tôi trông thấy con chuột trong tay Tư Mã Lương ướt đẫm nước, cái đuôi nhỏ và dài buông thõng một cách đáng ghét.
- Vứt nó đi! - tôi bảo.
- Sao lại vứt? - nó hỏi lại, giọng bất mãn.
- Kinh khủng, lẽ nào mày không thấy lợm giọng hay sao? - tôi nói.
Nó im lặng, trầm ngâm. Tôi nghe thấy tiếng con chuột rơi xuống lỗ cối.
- Cậu Kim Đồng này, họ sẽ làm gì bọn mình? - nó hỏi, vẻ lo ngại.
Đúng vậy, họ sẽ làm gì chúng tôi? Ngoài cửa, bọn lính đang đổi gác. Nước chảy ào ào trên đường. Tên lính thay gác hắt hơi như ngựa. Một tên nói.
- Lạnh thật, đâu phải là thời tiết tháng Tám, hay là sắp đóng băng?
- Nói nhảm - một tên khác nói.
- Cậu nhớ nhà không? - Tư Mã Lương hỏi tôi.
Một luồng hơi cay xộc lên sống mũi. Chiếc giường ấm sục, vòng tay ấm áp của mẹ, giấc mộng du của Câm-anh Câm- em, con dế sau bếp lò, sữa dê ngọt lịm, xương cốt mẹ kêu răng rắc và tiếng ho nặng nề, tiếng cười điên loạn của chị Cả, bộ lông mượt của con cú vọ, rắn ráo bắt chuột trong nhà kho... Tôi không nhớ nhà sao được! Tôi cố khịt cho thông lỗ mũi bị tắc.
- Cậu Kim Đồng, ta trốn đi! - Nó rủ tôi.
- Có lính ngoài cửa, trốn sao được? - tôi khẽ hỏi.
Nó nắm cánh tay tôi, bảo:
- Cậu xem cái cột gỗ sam này - Nó đặt tay tôi vào cái cột gỗ sam chọc thẳng lên mái nhà. Cái cột đẫm nước. Nó bảo: - Ta theo cái cột này mà lên, dỡ mái tôn chui ra!
Tôi do dự, nói:
- Lên rồi thì sao?
Nó bảo:
- Nhảy xuống là có thể về nhà.
Tôi tưởng tượng cái cảnh đứng trên mái tôn han rỉ phát ra những tiếng như tiếng trống mà rủn cả hai chân.
- Cao như thế... - tôi thì thào - nhảy xuống thì gãy cẳng!
Nó bảo:
- Không sao đâu, cháu đảm bảo vô sự. Mùa xuân vừa rồi cháu đã có lần nhảy xuống. Dưới hiên là những bụi đinh hương co dãn như lò xo!
Tôi nhìn lên chỗ tiếp giáp giữa cột và mái, nơi đó có một khoảng ánh sáng, nước mưa từ đó chảy xuống theo cái cột.
- Cậu ơi, trời sắp sáng, lên đi!
Nó sốt ruột giục tôi. Tôi gật đầu vì chẳng còn cách nào khác.
- Cháu lên trước, đội mái tôn lên - Nó tỏ vẻ thành thạo, vỗ vỗ vai tôi, nói: - Cho cháu đứng lên vai cậu?
Rồi hai tay ôm cột gỗ sam, hai chân đặt trên vai tôi, giục:
- Đứng dậy!
Tôi vịn cột lẩy bẩy đứng lên. Mấy con chuột tụ tập quanh chân cột ngã lăn ra. Tôi cảm thấy Tư Mã Lương dùng sức nhún trên vai tôi một cái, ôm cột trèo lên như một con thạch sùng. Cột rất trơn, lên rồi lại tụt, nhưng cuối cùng nó cũng lên được tới nóc nhà. Nó dùng tay đấm tấm tôn lợp, nước đọng chảy qua kẽ hở, trút xuống dưới nhà. Mặt tôi, miệng tôi đầy nước có mùi tanh của gỉ sắt và cả những gỉ vụn. Tư Mã Lương thở nặng nhọc trong bóng tối, mái tôn cạch lên một tiếng, nước đổ xuống như thác, tôi phải ôm chặt lấy cây cột mới không bị ngã. Tư Mã Lương dùng đầu đội tấm tôn lên để mở rộng lỗ hổng. Tấm tôn cong dần rồi bật ra, một mảng trời hình tam giác méo mó hiện ra trên đỉnh đầu ánh sáng màu trắng đục soi qua kẽ hở, tôi trông thấy mấy ngôi sao mờ mờ trên nền trời.
- Cậu Kim Đồng! Nó đứng trên xà nhà gọi với xuống - để cháu lên trước thăm dò rồi quay xuống cứu cậu lên! Nó dướn mình lên, thò đầu ra khỏi cái lỗ hình tam giác.
- Có người trên nóc nhà! - Các binh sĩ ngoài cửa kêu lên. Tiếp đó là những luồng lửa sáng rực, đạn bắn bôm bốp vào mái tôn. Tư Mã Lương ôm cột tụt vội xuống, suýt đè gãy cổ tôi. Nó vuốt nước trên mặt, nhổ gỉ sắt khỏi miệng, hàm răng va vào nhau lập cập, nói:
- Lạnh quá, lạnh quá?
Giờ phút tối lại để sáng đã qua, trong nhà xay sáng dần lên. Tôi và Tư Mã Lương ôm chặt lấy nhau, tôi cảm thấy trái tim của nó áp sát ngực tôi, đập thình thịch như chim sẻ. Tôi khóc vì tuyệt vọng. Nó đụng khẽ cái đầu trọc vào cằm tôi, nói:
- Cậu đừng khóc! Chúng nó không dám hại cậu đâu. Chồng dì Năm là quan to của chúng!
Giờ đây đã nhìn rõ quang cảnh trong nhà xaỵ Mười hai thớt cối xay màu xanh xám dáng vẻ uy nghị Tôi và Tư Mã Lương chiếm một thớt. Chóp mũi nó có một giọt nước, lung linh trước mặt chúng tôi. Trên tất cả những cối xay còn lại đều có chuột. Chúng co cụm lại một chỗ, những cặp mắt ti hí đen láy, đuôi như những con giun. Chúng vừa đáng thương vừa đáng ghét. Mặt đất lõm bõm những nước. Nước trên mái nhà vẫn tiếp tục rỏ giọt. Các sĩ quan và binh lính Chi đội Tư Mã Khố đứng tựa vào nhau, quân phục màu xanh trên người biến thành màu đen. ánh mắt và sắc mặt của họ giống lũ chuột trên cối đến kinh người. Những người dân bị kẹt, phần lớn tụm lại một chỗ, chỉ một số ít trà trộn trong đám binh sĩ của Tư Mã Khố chẳng khác kê mọc lẫn ngô ở ngoài đồng. Đàn ông xen lẫn đàn bà, nam nhiều hơn nữ, mấy đứa trẻ nằm trong lòng mẹ, rên hừ hừ như con mèo hen. Đám phụ nữ đều ngồi dưới đất, đám đàn ông có người ngồi xổm, người đứng tựa vào tường. Tường trong nhà xay đều quét vôi, vôi ẩm dính đầy lưng áo đám đàn ông, khiến những chỗ đó biến thành màu khác. Tôi phát hiện ra cô mắt hiếng trong đám đông. Cô ngồi duỗi hai chân trong vũng nước, lưng tựa vào lưng một phụ nữ khác. Cô ngoẹo đầu như cổ đã bị gãy. Cô Kim Một Vú thì ngồi trên mông một người đàn ông. Người đàn ông ấy là ai? Anh ta phủ phục trên mặt đất, áp má trong vũng nước, bộ râu bạc phơ phất, xung quanh chòm râu có những cục máu rung rinh như bọ gậy. Cô Kim chỉ có một bên vú phải, ngực bên trái phẳng lì, khiến vú phải càng đồ sộ, chẳng khác quả núi mọc giữa đồng băng. Núm vú cô vừa to vừa cứng, đội căng làn áo mỏng, lúc hưng phấn có thể treo một lọ nước hoa mà không rơi, nên cô Kim mới có biệt hiệu Lọ-nước-hoa. Mấy chục năm sau, khi tôi phủ trên tấm thân không một mảnh vải của cô, mới phát hiện ra vú trái cô thoái hóa tới mức không để lại mọt vết tích, đầu vú chỉ như một nốt ruồi để chứng tỏ cái vú đã từng tồn tại. Cô ngồi trên cái mông người chết, hai tay vuốt mặt như người bị tâm thần, cứ vuốt một cái trên mặt lại chùi hai cái trên đầu gối, làm như cô vừa chui ra khỏi mạng nhện, mặt vướng đầy tợ Những người khác thì mỗi người một vẻ, người khóc người cười, người nhắm mắt nói lảm nhảm, người lắc cổ không lúc nào ngừng như con rắn dưới nước, như chim hạc trên bờ. Người có thân hình thanh mảnh kia là vợ anh bán mắm tôm Cảnh Đại Lạc, quê Bắc Hải. Người phụ nữ đầu nhỏ cổ cao, cái đầu nhỏ đến nỗi hoàn toàn không tương xứng với thân thể. Có người bảo chị ta là rắn hóa thành người. Cái đầu và cổ của chị qua thật giống rắn, ló hẳn lên trên đầu đám phụ nữ, trong ánh sáng mờ mờ, cái đầu lắc lư chúng tỏ chị ta đúng là rắn. Chị lại rụt cố xuống. Tôi không dám đến xem thân hình chị ta, mắt trợn tròn vì sợ, hình ảnh chị cứ lởn vởn trong đầu tôi.
Một con rắn to màu xanh vỏ chanh từ trên cột gỗ sam bò xuống. Đầu nó dẹt như cái muỗng xúc cơm, lưỡi đỏ chót không ngừng bắn ra khỏi miệng. Khi đầu nó vừa chạm thớt trên của cối, liền trườn ra một cách mềm mại thành một góc vuông rồi nhẹ nhàng bò đến gần lũ chuột ở giữa cối. Lũ chuột giơ chân trước lên kêu chí chí. Khi cái đầu con rắn trườn đi, phần thân của nó quấn quanh cột vẫn tiếp tục chuyển động, trông như không phải con rắn mà là cái cột chuyển động xoay tròn. Cái đầu con rắn đến giữa thớt cối thì ngóc lên cao đúng một thước, bạnh cổ bằng hai bàn tay chập lại, những hoa văn trên cổ dồn đuổi nhau không ngừng bạnh ra thu vào, cái lưỡi phóng ra càng nhanh, càng đáng sợ, rít lên thành tiếng. Lũ chuột chôn chân tại chỗ, rúm người lại chỉ còn một nửa. Một con đứng thẳng lên bằng hai chân sau, hai chân trước vươn ra như cầm sách để đọc, rồi đột nhiên nhảy vào miệng rắn khi ấy há to như cái phễu. Sau đó, con rắn ngậm miệng lại, một nửa con chuột thò ra ngoài, cái đuôi dài ve vảy một cách tức cười.
Tư Mã Khố ngồi trên một khúc gỗ sam đầu cúi gằm, tóc tai rối bù. Chị Hai nằm dài vắt qua gối đầu ngả vào nách anh tạ Da cổ chị nhăn thành nhiều nếp, mặt trắng bệch, miệng há hốc. Chị đã chết. Bác-bít ngồi kề bên Tư Mã Khố, những nét già nua hằn trên khuôn mặt trẻ thơ của anh tạ Nửa người trên của chị Sáu nằm đè lên đầu gối Bác-bít, run lên từng cơn. Bác-bít dùng bàn tay hộ pháp nhăn nhúm vì nước mưa, ve vuốt bờ vai chị Sáu. Sau cánh cổng mục, một người gầy guộc đang tính chuyện tự vẫn, chiếc quần dài tụt dưới mông, quần lót màu cháo lòng lấm đầy bùn. Ông ta định buộc đầu thắt lưng bằng vải lên khung cổng, nhưng vì khung quá cao, ông ta cứ kiễng mãi mà không tới. Nhìn sau gáy, tôi biết ông tạ Đó là Tư Mã Đình, bác của Tư Mã Lương. Cuối cùng, ông ta mệt, xốc quần lên, thắt lại thắt lưng, quay lại nhìn chúng tôi cuối, tỏ vẻ xấu hổ, ngồi phệt xuống bùn mà khóc tướng lên.
Gió sớm mai từ ngoài đồng thổi vào như con mèo đen ẩm ướt. Con mèo đen miệng ngậm chú cá giếc long lanh vẩy bạc, ung dung đi trên mái tôn. Mặt trời đỏ như máu nhô lên từ đầm lầy mênh mông những nước là nước, vẻ mệt mỏi. Lũ tràn lên, sông Thuồng Luồng réo ào ào, phá tan bầu không khí tĩnh mịch của ban mai. Chúng tôi ngồi trên thớt cối, bắt gặp ánh nắng màu hồng mờ mờ sương. Sau một đêm mưa xối xả, những ô kính cửa sổ sạch bong, cánh đồng tháng Tám không bị cây che khuất hiện rõ mồn một. Bụi bậm trên đường trôi sạch, lộ ra nền đất cứng. Mặt đường trơn bóng, hai con cá chép bị mắc cạn nằm ườn ra trên đường, chưa chết hẳn, cái đuôi thỉnh thoảng lại quẫy một cái. Hai người đàn ông mặc quân phục màu xám, một cao một thấp, người cao gầy người thấp béo, khênh sọt loạng choạng đi tới, trong sọt có mười mấy con cá to, toàn là cá chép và trắm cỏ ngoài ra còn có một con lươn to màu kim nhũ. Họ sung sướng khi phát hiện hai con cá chép trên đường phố, vội khênh sọt chạy tới, dáng chạy vất vả, y như con vịt buộc vào con hạc.
- Cá chép? Người béo và lùn kêu lên.
Khi họ cúi nhặt cá, tôi trông thoáng khuôn mặt họ. Đúng là hai người phục vụ hôm tiệc cưới. Họ là hai tên nội ứng của trung đoàn 17. Bọn lính gác đứng nhìn những người nhặt cá. Người trung đội trưởng phụ trách canh gác ngáp dài, bước tới bảo:
- Lưu béo, Hầu gầy này, các anh đúng là lấy trứng trong đũng quần, bắt cá trên cạn.
Hầu gầy nói:
- Trung đội trưởng Mã, anh vất vả quá?
Trung đội trưởng Mã nói:
- Vất vả thì kể gì, đói mềm người ra đây!
Lưu béo nói:
- Phải khao quân một bữa canh cá mới được, thắng to thế kia mà?
Trung đội trưởng Mã nói:
- Vài con cá thì ăn nhằm gì, chỉ béo bọn nhà bếp!
Hầu gầy nói:
- Anh to nhỏ gì cũng là cán bộ, cán bộ thì phải nói có sách mách có chứng, phê bình phải chú ý khía cạnh chính trị, không nên nói bừa!
- Đùa thôi mà, sao lại cho là thật? - Trung đội trưởng Mã nói - Hầu gầy này, mới có mấy tháng không gặp nhau mà cậu mồm mép khác hẳn!
Trong khi bọn lính đang cãi vã, mẹ chậm rãi đi tới, dáng đi nặng nề nhưng vững vàng dưới ánh nắng ban mai.
- Mẹ Ơi! - Tôi vừa khóc vừa nhảy xuống, muốn bay tới sà vào lòng mẹ, nhưng tôi đã bị ngã sóng soài trên vũng bùn.
Khi tôi tỉnh lại, đầu tiên tôi trông thấy là khuôn mặt xúc động của chị Sáu, Tư Mã Khố, Tư Mã Đình, Bácbít, Tư Mã Lương.
- Mẹ đến đấy? - tôi bảo chị Sáu - chính mắt em trông thấy!
Tôi nhoài khỏi cánh tay chị Sáu chạy ra cửa, loạng choạng va phải một người, chạy tiếp, lại va phải vai một người nữa, lại chạy, cố sức rẽ đám đông. Cánh cổng chặn đường ra của tôi. Tôi đấm cửa thình thình, gào to:
- Mẹ Ơi, mẹ!
Một tên lính gác thò đầu súng tiểu liên qua lỗ hổng, quát to:
- Không được ồn, sau bữa sáng sẽ thả các ngươi. Mẹ nghe thấy tiếng gào khóc của tôi, nhịp bước nhanh hơn. Mẹ nhảy qua cái rãnh bên đường, nhăm cổng nhà xay đi tới. Trung đội trưởng Mã ngăn mẹ lại:
- Đề nghị bác dùng lại!
Mẹ giơ tay gạt trung đội trưởng ra, không nói một lời tiếp tục tiến lên. Mặt mẹ đỏ rực như bôi lên một lớp máu, miệng méo xệch vì giận dữ.
Bọn lính gác vội vàng nhích lại gần nhau dàn thành một hàng ngang như bức tường sơn đen.
- Đứng lại, các bà đứng lại!
Trung đội trưởng Mã túm vai mẹ. Mẹ dưới lên cố giằng khỏi tay anh ta.
- Bà là ai! Bà muốn gì? - Trung đội trung Mã giận dữ hỏi, đẩy ngược mẹ một cái, mẹ lùi lại mấy bước, suýt ngã.
- Mẹ Ơi! - Tôi gào lên sau cánh cổng.
Mẹ đứng thẳng lên, miệng mở to, tiếng gừ gừ trong họng. Mẹ bất chấp tất cả, lao tới.
Trung đội trung Mã đẩy một cái thật mạnh, mẹ ngã lăn xuống rãnh. Nước bắn tung tóe. Mẹ lộn một vòng trong rãnh rồi ngồi dậy, nước lút đến bụng. Mẹ trườn lên bờ rãnh, ướt như chuột lột, tóc bết bùn và nước bẩn. Một chiếc giày của mẹ đã mất, bàn chân tàn phế để trần, mẹ cà nhắc xông tới.
- Đứng lại? - Trung đội trưởng Mã lên cò súng, chĩa tiểu liên vào giữa ngực mẹ, hầm hầm: - Mụ định cướp tù hay sao?
Mẹ nhìn hắn bằng con mắt hằn học, nói:
- Tránh ra!
- Vậy mụ muốn gì? - Trung đội trưởng hỏi.
Mẹ gào lên:
- Tôi tìm con trai tôi!
Tôi càng gào to hơn, Tư Mã Lương đứng bên tôi cũng gọi:
- Bà ngoại ơi!
Chị Sáu cũng gọi:
- Mẹ Ơi!
Bị lây tiếng khóc của chúng tôi, tất cả phụ nữ trong nhà xay đều khóc ầm lên. Tiếng khóc của phụ nữ xen
lẫn tiếng hỉ mũi của đàn ông và tiếng chửi của những tên lính.
Các binh sĩ vội vàng đằng sau quay, chĩa súng vào cánh cổng.
- Không được ồn! - Trung đội trưởng Mã quát - lát nữa sẽ thả các người?
- Bác ơi - Trung đội trưởng Mã ôn tồn bảo mẹ - Bác cứ về trước, chỉ cần con trai bác không tầm bậy là chúng tôi thả.
- Con tôi! - Mẹ chạy vòng qua trung đội trưởng Mã, gào to.
Trung đội trưởng Mã nhảy một bước đứng chặn trước mặt mẹ, nghiêm giọng nói:
- Tôi cảnh cáo bác, nếu bác tiến lên một bước là tôi không khách khí đâu đấy?
Mẹ nhìn thẳng vào mặt trung đội trưởng, hỏi khẽ:
- Ông có mẹ không? Ai đẻ ra ông?
Mẹ giơ thẳng cánh, cho trung đội trưởng Mã một bạt tai, rồi bỏ đi. Bọn lính gác rẽ sang hai bên nhường đòng cho mẹ.
Trung đội trưởng ôm mặt ra lệnh:
- Chặn mụ lại! Bọn lính gác bất động, làm như không nghe tiếng. Mẹ đứng trước cổng, tôi thò tay qua kẽ hở vừa gọi vừa vẫy rối rít.
Mẹ rút cái then cổng bằng sắt, tôi nghe thấy tiếng thở nặng nhọc của mẹ. Chiếc then cửa rung lên, một tràng đạn bắn vào phía trên cánh cổng, tiếng súng chói chang, những mảnh gỗ rơi xuống đầu tôi.
- Mụ kia, đứng im, cử động là ta bắn! - Trung đội trưởng Mã gầm lên, lại bắn chỉ thiên một tràng nữa.
Mẹ rút bỏ then sắt, đẩy cổng ra. Tôi mất đà, chúi vào lòng mẹ. Tư Mã Lương và chị Sáu cũng nhào tới. Lúc này, trong nhà xay có tiếng người hô:
- Anh em ơi xông ra, lát nữa là chết tất?
Các binh sĩ của Chi đội Tư Mã ùa ra như nước lũ. Chúng tôi bị những người đàn ông khỏe mạnh hất bắn sang bên. Tôi ngã, mẹ nằm đè lên tôi.
Trong nhà xay nhốn nháo, tiếng khóc, tiếng gầm, tiếng rú thê thảm hòa làm một. Bọn lính gác của trung đoàn 17 bị xô ngã dúi dụi, các binh sĩ của Chi đội Tư Mã tước lấy súng. Tiếng nổ làm cửa kính rung lên lanh canh. Trung đội trưởng Mã ngã xuống rãnh. Hắn đứng trong nước quét một vòng, hơn chục binh sĩ trong Chi đội Tư Mã đổ gục như ngả rạ. Các binh sĩ Chi đội Tư Mã chồm lên người trung đội trưởng Mã, đè hắn xuống rãnh đấm đá loạn xạ.
Binh mã của trung đoàn 17 chạy tới, vừa chạy vừa lên cò súng bắn vung vãi. Các binh sĩ của Chi đội Tư Mã chạy tán loạn, những viên đạn vô tình đuổi theo họ. Chúng tôi áp sát lưng vào tường nhà xay, dùng tay đẩy lui những người lấn tới.
Một người lính của trung đoàn 17 quì bắn dưới gốc cây bạch dương, tay giương súng, mắt nhằm bắn, cứ mỗi lần cây súng nẩy lên là một binh sĩ của Chi đội Tư Mã ngã xuống. Súng nổ đoàng đoàng, những vỏ đạn nóng bỏng rơi xuống nước bốc khói. Người lính lại nhằm một người thân hình cao lớn, đen nhẻm. Người đó đã chạy được mấy trăm thước. Anh ta nhảy trên ruộng đậu như con chuột túi. Đến chỗ ruộng dâu tiếp giáp với ruộng cao lương, người lính già từ tốn lẩy cò, một tiếng đoàng, người đang chạy cắm đầu xuống đất. Người lính già kéo cơ bẩm, một vỏ đạn văng ra.
Trong đám người nhốn nháo, Bác-bít nổi lên như một con la giữa đàn dê, cứ ngơ ngơ ngác ngác. Đàn dê kêu be be, xô đẩy nhau mà chạy. Bác-bít cất đôi chân dài ngoẵng với những bước nặng nề, chạy theo đám người, chân dẫm bùn nhem nhép. Anh chàng câm Tôn Bất Ngôn hung hãn như một con hổ đen, cùng với hơn chục đội viên cảm tử hò hét, múa đao chặn đàn dệ Đàn dê không kịp tránh bị chém bể đầu mấy con, tiếng kêu thê thảm vang vọng khắp cánh đồng. Đàn dê mất phương hướng, tiện đâu rúc đó. Bác-bít sợ tái người, nhìn tứ phía trong khoảnh khắc. Tôn Bất Ngôn xông tới. Bác-bít chợt tỉnh, bèn bỏ chạy thục mạng, mép sùi bọt, thở hồng hộc. Người lính già dưới gốc cây bạch dương nhằm bắn Bác-bít.
- Lão Tào, đừng bắn? - Lỗ Lập Nhân từ trong đám đông nhảy vọt ra, quát - Các đồng chí, không bắn người Mỹ đó!
Các binh sĩ khép dần vòng vây như người ta kéo lưới, các tù binh vẫn chạy nháo nhào trong khoảng hẹp đó chẳng khác đàn cá trong lưới, dần dà dồn cục lại ở quãng đường trước cổng nhà xay.
Thằng Câm nhảy xổ vào đám tù binh, đấm Bác-bít một quả. Bác-bít bị xoay một vòng, lại đối diện với Thằng Câm. Bác-bít xổ ra một tràng toàn tiếng tây, không hiểu anh ta chửi hay phản kháng. Thằng Câm giơ đao lên, ánh thép lấp lóa. Bác-bít giơ cánh tay lên làm như che ánh sáng lạnh của thanh đao.
- Bác-bít? - Chị Sáu từ chỗ mẹ loạng choạng chạy ra, nhưng chỉ được mấy bước liền ngã vật xuống, bàn chân trái của chị ló ra phía bên chân phải, người ngã nghiêng xuống đống bùn.
- Chặn Tôn Bất Ngôn lại - Lỗ Lập Nhân ra lệnh.
Mấy đội viên cảm tử đứng sau thằng câm níu lấy cánh tay thằng câm. Hắn gào thét điên cuồng, hất văng các đội viên cảm tử như những bó rạ. Lỗ Lập Nhân nhảy qua rãnh nước sang đứng bên đường, giơ một tay lên rất cao, gọi:
- Tôn Bất Ngôn, chú ý chính sách đối với tù binh!
Trông thấy Lỗ Lập Nhân, Tôn Bất Ngôn không vùng vẫy nữa. Các đội viên cảm tử bỏ tay hắn ra. Hắn giắt đao vào thắt lưng, giơ những ngón tay như gọng kìm túm lấy áo Bác-bít lôi đến trước mặt Lỗ Lập Nhân. Bác-bít nói mấy câu tiếng tây với Lỗ Lập Nhân. Lỗ Lập Nhân cũng nói lại vài câu ngắn gọn và giơ bàn tay chém vào không khí. Bác-bít im lặng. Chị Sáu giơ hai tay về phía Bác-bít tỏ vẻ cầu cứu miệng rên rỉ:
- Bác-bít!...
Bác-bít nhảy qua rãnh nước, xốc chị Sáu dậy. Cái chân trái của chị như đã chết. Bác-bít ôm eo chị, cố súc xốc chị dậy, chiếc váy lấm bê bết tụt xuống hở cái mông thâm tím. Chị Ôm cổ Bác-bít. Bác-bít đỡ hai bên nách chị, rồi cả hai đứng lên. Bác-bít nhìn thấy mẹ, anh ta dìu chị Sáu nhích về phía mẹ, nói bằng tiếng Trung Quốc:
- Mẹ Ơi! - môi anh ta run run, những giọt nước mắt lăn trên má.
Nước trong rãnh bắn tung tóe. Trung đội trưởng Mã gạt mấy cái xác đè trên người, lồm cồm bò dậy như một con cóc khổng lồ, bùn nước và máu dính trên áo mưa như những đốm trên thân con cóc, hai chân khuỳnh ra, run rẩy đứng lên, trông vừa đáng thương vừa tội nghiệp, thoạt trông như một con gấu, trông kỹ giống người anh hùng. Một mắt anh ta bị đánh lòi ra ngoài, con ngươi trong như thủy tinh lủng lẳng trên sống mũi. Anh ta gãy hai răng cửa, cằm rắn như thép rỉ máu.
Một nữ binh đeo túi chạy tới đỡ trưởng đội trưởng Mã đang ngật ngưỡng.
- Thưa đội trưởng, ở đây có thương binh nặng! - Người nữ binh gọi, thân hình mảnh dẻ của cô ta oằn xuống dưới sức nặng của trung đội trưởng Mã.
Lúc này, Phán Đệ to béo dẫn hai dân phu vác cáng chạy tới. Chiếc mũ lính bé tí đội trên đầu, dưới vành mũ là khuôn mặt rộng, béo núc ních, chỉ có hai vành tai lộ ra dưới mái tóc ngắn là giữ được vẻ thanh tú của phụ nữ nhà Thượng Quan.
Không do dự, chị dứt bỏ con ngươi lòi ra của trung đội trưởng Mã, tiện tay vứt ngay bên cạnh. Con mắt đảo một cái rồi nằm yên, nhìn chúng tôi bằng ánh mắt căm thù.
- Đội trưởng ơi, nói với Lỗ đoàn trưởng là... - Trung đội trưởng Mã chỉ mẹ nói - chính mụ ta mở cổng?
Chị Phán Đệ băng quanh đầu cho trung đội trưởng Mã hết vòng nọ đến vòng kia, cho đến khi không thể há miệng.
Chị Phán Đệ đứng trước mặt chúng tôi, lúng búng gọi mẹ.
Mẹ nói:
- Tôi không phải là mẹ của bà!
Chị Phán Đệ nói:
- Con đã nói rồi, mười năm Hà Đông, mười năm Hà Tây, phải xem lại mình đã chứ?
Mẹ nói:
- Tôi xem rồi, tôi đã thấy tất cả?
Chị Phán Đệ nói:
- Nhà có chuyện gì con đều biết. Mẹ không đối xử tệ với con gái của con, con sẽ giải thoát cho mẹ?
Mẹ nói:
- Chị không cần giải thoát cho tôi, tôi sống quá đủ rồi!
Chị Phán Đệ nói:
- Chúng con đã lấy lại được thiên hạ rồi!
Mẹ nhìn lên bầu trời đầy mây, lẩm bẩm...
- Chúa ơi, Người hãy nhìn kỹ đi, nhìn kỹ cái thế giới này đi!
Chị Phán Đệ bước tới, lạnh lùng xoa đầu tôi. Tôi ngửi thấy trên tay chị cái mùi thuốc mà tôi không ưa. Chị không xoa đầu Tư Mã Lương, tôi đoán chắc Tư Mã Lương không cho chị xoa đầu nó. Hàm răng như răng thú nhỏ của nó nghiến ken két, chắc chắn sẽ cắn đứt ngón tay chị khi chị xoa đầu nó. Chị Phán Đệ mỉm cười châm biếm, bảo chị Sáu:
- Đẹp mặt, đế quốc Mỹ đang cung cấp máy bay đại bác cho kẻ thù của chúng ta tàn sát nhân dân vùng giải phóng!
Chị Sáu ôm Bác-bít, nói:
- Chị Năm tha cho chúng em! Các người đã giết chết chị Hai, chẳng lẽ định giết hết chúng tôi hay sao?
Lúc này, Tư Mã Khố bế xác chị Chiêu Đệ, cười như điên loạn, từ trong nhà xay đi ra. Nhân lúc binh sĩ của anh ta ùa ra cổng, anh ta lẳng lặng ở lại trong nhà. Con người xưa nay vẫn ăn mặc tươm tất, đánh bóng từng cái cúc áo vậy mà chỉ qua một đêm đã khác hẳn, mặt hằn những vết nhăn, mắt thâm quầng, tóc đốm bạc. Anh ta quì trước mặt mẹ, hai tay nâng cái xác của chị Hai đã cạn máu.
Miệng mẹ càng méo xệch đi, miệng run lên không nói được một câu cho trọn nghĩa, nước mắt đầm đìa. Mẹ giơ tay sờ trán chị Hai, tay kia đõ lấy cằm nói:
- Chiêu Đệ, con của mẹ! Người là do con chọn, con đi đường của con, mẹ không ngăn được con, cũng không cứu nổi con, các con đều... thôi thì phó mặc cho trời!
Tư Mã Khố đặt thi thể chị Hai xuống đất, tiến về phía Lỗ Lập Nhân đang đi tới, xung quanh là mười mấy vệ binh. Hai người còn cách nhau vài bước chân thì dừng lại, bốn mắt nhìn nhau tóe lửa, hồi lâu mà vẫn không bên nào chịu thua bên nào. Lỗ Lập Nhân cười khan ba tiếng:
- Ha ha, ha ha, ha ha ha!
Tư Mã Khố cũng cười nhạt ba tiếng: - Hà hà, hà hà, hà hà hà?
- Tư Mã huynh, xin chớ trách? Chưa đầy một năm kể từ khi huynh đuổi ta ra khỏi vùng này, không ngờ hôm nay số phận đó lại rơi trên đầu huynh!
Tư Mã Khố nói:
- Vay nóng trả vội thôi, có điều, huynh phải trả một giá quá đắt đấy!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Về chuyện quí phu nhân bất hạnh qua đời, ta cũng rất đau xót, nhưng biết làm thế nào! Cách mạng như mổ cái ung nhọt, tránh sao cắt bỏ ít da thịt! Nhưng ta không thể vì sợ phương hại đến da thịt mà không cắt bỏ cái ung, huynh nên hiểu điều đó!
Tư Mã Khố nói:
- Đừng nhiều lời nữa, cho ta chết quách cho rồi!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Chúng tôi không thể xử tử huynh một cách đơn giản như vậy.
Tư Mã Khố nói:
- Vậy thì xin lỗi, ta tự giải quyết vậy. Anh ta móc khẩu súng mạ bạc ra, lên cò, quay lại nhìn mẹ nói:
- Thưa nhạc mẫu, tôi đã trả thù hộ bà! - Rồi đưa súng lên thái dương.
Lỗ Lập Nhân cười lớn:
- Rốt cuộc cũng chỉ là thằng hủ nhỏ Tự sát hả, đồ hèn?
Tay cầm súng của Tư Mã Khố run bắn lên.
Tư Mã Lương gào to: - Bố ơi!
Tư Mã Khố ngoảnh nhìn con trai một thoáng, tay cầm súng từ từ buông xuôi. Anh ta mỉm cười tự giễu mình, quăng khẩu súng cho Lỗ Lập Nhân, nói:
- Cầm lấy!
Lỗ Lập Nhân giơ tay bắt lấy khẩu súng tung trong tay, nói
- Đây là đồ chơi của phụ nữ - Hắn ném khẩu súng cho người ở phía sau một cách khinh miệt, rồi dận đôi giày da sưng phồng vì nước mưa và bùn, nói: - Quả thực khi đã nộp súng, ta không có quyển bắn chết huynh nữa. Cấp trên của ta sẽ chọn cho huynh một con đường, hoặc lên trời, hoặc xuống địa ngục!
Tư Mã Khố lắc đầu, nói:
- Ngươi nói không đúng rồi, thiên đường hay địa ngục đều không dành cho chúng tạ Chỗ của ta là khoảng giữa thiên đường và địa ngục. Rồi thì ngươi cũng như ta thôi!
Lỗ Lập Nhân bảo người đứng bên:
- Giải hắn đi!
Vệ binh bước tới, chĩa súng vào Tư Mã Khố và Bác-bít, nói:
- Đi!
Tư Mã Khố gọi Bác-bít:
- Đi thôi! Chúng có thể giết tôi một trăm lần, nhưng không dám đụng đến cái lông chân của anh đâu?
Bác-bít dìu chị Sáu đến bên Tư Mã Khố. Lỗ Lập Nhân nói:
- Phu nhân Bác-bít có thể ở lại.
Chị Sáu nói:
- Đoàn trưởng Lỗ, ông hãy thể tình mẹ tôi đã nuôi nấng Lỗ Thắng Lợi mà tha cho vợ chồng tôi!
Lỗ Lập Nhân lấy tay đẩy cái kính gãy gọng trên mũi, nói với mẹ:
- Mẹ nên khuyên cô ấy?
Mẹ kiên quyết lắc đầu, ngồi xuống, bảo tôi và Tư Mã Lương:
- Đặt lên lưng giúp ta?
Tôi và Tư Mã Lương khênh thi thể chị Chiêu Đệ đặt lên lưng mẹ.
Mẹ cõng chị Hai trên lưng, chân trần bước đi trong bùn trở về nhà. Tôi và Tư Mã Lương, đứa bên trái đứa bên phải đỡ lấy hai chân lạnh cúng của chị Hai để cho mẹ đỡ nặng.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 24
Nước sông Thuồng Luồng dâng cao. Từ trên giường nhà tôi nhìn qua cửa sổ sau nhà, có thể nhìn thấy nước lũ ngang mặt đê, cuồn cuộn chảy về đồng. Các binh sĩ của trung đoàn 17 thuộc Trung đội 8 đứng quay mặt ra sông đang bàn tán về chuyện gì đó. Trong sân, mẹ đang chuẩn bị nướng bánh. Sa Tảo Hoa giúp mẹ nhóm lò. Củi bị ẩm, ngọn lửa vàng vọt, khói nồng nặc, che khuất cả ánh nắng.
Tư Mã Lương cùng với mùi hăng hắc của cây hòe bước vào nhà. Mùi hắc của cây hòe khiến chúng tôi phấn chấn lên. Nó nói:
- Chúng định giải bố cháu và dì Sáu lên quân khụ Chồng dì Ba và bọn lính đang kết bè, chuẩn bị vượt sông.
- Lương này. - Mẹ từ ngoài sân nói vào - Cháu dẫn cậu và dì út lên đê, bảo họ đừng sang vội, để bà ra tiễn.
Nước sông đục ngầu, cuốn theo rơm rạ, rác rưởi, dây khoai lang, xác súc vật, giữa dòng còn có cả một cây lớn. Cây cầu bị Tư Mã Khố đốt cháy ba khúc đã bị cuốn, chỉ còn dòng nước cuồn cuộn với tiếng réo ào ào chứng minh nó đã từng tồn tại. Những lùm cây trên thân đê đã bị nhận chìm đôi chỗ, chỉ còn vài cành ló lên mặt nước.
Mặt sông rộng mênh mông, từng dàn hải âu màu xám đuổi theo bọt sóng, chốc chốc lại bắt được một con cá nhỏ. Bên kia bờ sông chỉ còn như một sợi chí, bập bềnh trên sóng nước lóa mắt. Nước chỉ còn cách mặt đê vài đốt ngón tay, đôi chỗ cái lưỡi màu vàng của nó đã liếm mặt đê thành rãnh nhỏ, róc rách chảy vào trong đồng.
Khi chúng tôi lên tới mặt đê, thằng câm Tôn Bất Ngôn đang đái xuống sông, bộ máy sinh dục của hắn to quá cỡ, nước đái vàng khè, chảy tong tỏng xuống mặt nước. Trông thấy chúng tôi, hắn mỉm cười thân mật, móc túi lấy ra chiếc còi làm bằng vỏ đạn, thổi lên ríu rít những tiếng chim, tiếng trầm của họa mi, tiếng líu ríu của vàng anh, tiếng nức nở của bách linh. Tiếng chim quyến rũ, khuôn mặt có vết bớt của hắn tỏ ra đôi chút dịu dàng. Thổi đã rồi, hắn vẩy cho hết nước bọt trong còi, đưa cho tôi, miệng ú ớ ý tứ rất rõ, hắn tặng tôi chiếc còi. Tôi lùi lại, khiếp đảm nhìn hắn. Chị Tám nấp sau Tư Mã Lương, bàn tay trắng nhợt túm chặt cánh tay của nó. Bộ mặt nhà ngươi khi vung đao chém người, ta không bao giờ quên? Đồ quỉ? Hắn lại đưa chiếc còi cho tôi, miệng ú ớ tỏ ra bồn chồn không yên. Tôi lùi thì hắn tiến. Tư Mã Lương nói nhỏ sau lưng tôi:
- Đừng lấy cậu ạ, cái còi của thằng câm là để gọi ma, khi nào chiêu hồn ngoài nghĩa trang thì người ta thổi?
- Âu, âu! - Thằng câm giận dữ nhét chiếc còi vào tay tôi rồi đi tới chỗ những người đang kết bè.
Tư Mã Lương giằng lấy cái còi, xem rất kỹ dưới nắng xem có gì bí mật không. Nó bảo tôi:
- Cậu ạ, cháu là linh miêu, không thuộc con nào trong mười hai con giáp, chẳng ma nào hại nổi cháu! Để cháu giữ cái còi này hộ cậu!
Nói xong, nó bỏ cái còi vào túi quần. Nó mặc chiếc quần xanh chỉ ngắn đến đầu gối, phía trên cạp may thêm rất nhiều túi, to có nhỏ có, kín có hở có. Trong túi nó đụng rất nhiều thứ kỳ quặc, viên đá đổi màu dưới ánh trăng, lưỡi cưa nhỏ có thể cưa đứt mẩu gạch, hạt hạnh các cỡ, lại còn có đôi chân chim sẻ, xương đầu một con ếch. Lại có cả răng người, có cái là của nó rụng, có cái là của chị Tám, có cái là của tôi. Mẹ thường ném răng rụng của tôi qua mái nhà, nhưng nó vẫn đi nhặt về. Răng chị Tám thì chị để trên bậu cửa sổ, nó đến nhặt bỏ túi. Tìm một cái răng trong đám cỏ um tùm và đầy rác rưởi sau nhà đâu phải dễ? Nhưng Tư Mã Lương bảo tôi:
- Nếu mình có ý định tìm kiếm vật gì đó thì nó sẽ nhảy ra trước mặt.
Bây giờ trong túi của nó có thêm một chiếc còi gọi ma cho bộ sưu tập. Tôi đi đôi guốc mộc - mẹ nói nó là quà tặng của mục sư Malôa cho Thọ Hỉ. Chị Tám không có giày. Tư Mã Lương đi chân đất. Chúng tôi đến gần những người đang làm bè.
Hơn mười binh sĩ của trung đoàn 17 như lũ kiến khuân mồi, khênh cây gỗ thông nặng đi trong ngõ. Trên phố có tiếng lắc rắc, tháp canh của Tư Mã Đình đang bị dỡ. Tôn Bất Ngôn là thủ lĩnh cả đám binh sĩ, hắn chỉ huy họ ghép các cây gỗ thông lại với nhau, rồi dùng dây thép liên kết lại. Ông già Tôn Long là thợ mộc nổi tiếng trong vùng, đảm nhiệm cố vấn kỹ thuật. Tôn Bất Ngôn đang nổi cáu với ông già, nhảy chồm chồm như con hắc tinh tinh, miệng sùi bọt. Ông già Long đứng nghiêm, tay buông thõng một cách chịu đựng, tay trái cầm đanh móc, tay phải cầm búa. Hai đầu gội đầy những vết sẹo của ông chụm lại, bóng gân xanh nổei lên to tướng ở bắp chân. Ông đi guốc, đôi guốc ông tự làm lấy khi tạc tượng Chúa Giêsu còn thừa một đoạn gỗ táo, theo lời khuyên của mục sư Malôa.
Lúc này, một vệ binh cưỡi xe đạp, khoác tiểu liên trên lưng, từ phía ngõ đi tới. Đến chân đê, anh ta dựa xe, khom người đi lên. Anh ta bị thụt một chân xuống lỗ chuột đồng, khi rút chân lên, cái lỗ đùn lên toàn là nước đục. Tư Mã Lương bảo:
- Xem kìa, đê sắp vỡ rồi!
Anh vệ binh cũng kêu lên:
- Nguy rồi, ở đây có một lỗ hổng?
Các binh sĩ trung đoàn 17 nhốn nháo cả lên, bỏ dở công việc đang làm, chạy xuống xem cái lổ hổng đùn nước. Trên mặt Tôn Bất Ngôn lộ vẻ kinh hoàng ít khi thấy ở hắn. Hắn nhìn dòng sông cuồn cuộn, cao hơn nóc nhà cao nhất trong thôn. Hắn cởi yên đao quẳng xuống mặt đê, cởi vội áo, quần dài, chỉ mặc chiếc quần đùi, rồi hắn ú ớ với bọn lính. Đám lính ngẩn người ra nhìn hắn như gà nuôi lấy thịt. Một tên lông mày rậm hỏi Tôn Bất Ngôn:
- Anh bảo sao, bảo chúng tôi xuống nước hả?
Thằng Câm nhảy tới trước mặt anh lính túm lấy ngực áo anh ta xoắn đứt các cúc áo. Trong lúc khẩn cấp ấy, Thằng Câm buột miệng nói ra được một tiếng:
- Cởi!
Ông già Tôn Long nhìn cái lỗ hổng rồi lại nhìn cái xoáy nước phía ngoài đê, nói:
- Thưa các ông, đây là cái hang chuột, bên trong còn to hơn cái chum, vị thủ lĩnh bảo các ông cởi quần áo phụ với ông ta lấp lỗ hổng, vậy các ông cứ cởi ra, chùng chình là vô phương cứu chữa. Ông già cởi chiếc áo vá chằng vá đụp ra quẳng xuống trước mặt Thằng Câm. Các binh sĩ vội vàng cởi quần áo.
Một chú lính trẻ chỉ cởi áo khoác ngoài, không cởi quần dài. Thằng Câm nổi giận, lại gầm lên cái từ ban nãy: - Cởi!
Chó cùng dứt giậu, mèo cùng trèo cây, thỏ cùng cắn người, Thằng Câm cùng thì nói thành tiếng 'Cởi, cởi, cởi!, cứ thế mà gầm lên.
Chú lính trẻ run rẩy:
- Thưa tiểu đội trưởng, em không mặc quần đùi!
Thằng Câm nhặt thanh đao lên kề vào gáy chú lính, quay ngược sống đao gõ hai cái. Tên lính mặt vàng như nghệ, lắp bắp nói:
- Ông câm ơi, em xin cởi, xin cởi mà!
Chú lính cúi xuống tháo xà cạp, cởi quần, phơi ra cái bụng trắng hếu và con chim bé tí mới mọc lông. Chú lính xấu hổ lấy tay che nó lại. Thằng Câm tiến đến định bắt tên lính cưỡi xe đạp cởi quần áo, tên này nhảy vội lên xe, chỉ hai cái ấn là phóng như bay xuống chân đê, hắn vừa đạp vừa kêu to:
- Vỡ đê rồi! Vỡ đê rồi!
Thằng Câm xếp quần áo thành đống, lấy xà cạp buộc lại. Ông già Long kéo đổ dàn biển đậu dưới chân đê, bó cọc dàn cùng với dây biển đậu thành từng bó. Các binh sĩ giúp ông vác lên mặt đệ Thằng Câm ôm bọc quần áo định nhảy xuống nước. Ông già chỉ cái xoáy nước rồi lục lọi trong hòm đồ nghề của ông, lấy ra cái chai mật lợn màu xanh, mở nút, mùi rượu xộc lên. Ông già đưa chai rượu cho Thằng Câm, hắn ngửa cổ uống cạn rồi giơ ngón tay cái biểu dương ông già, hét to:
- Cởi!
Hắn nói Cởi trường hợp này có nghĩa là tốt, những người có mặt ai cũng hiểu như thế. Thằng Câm ôm bọc quần áo nhảy xuống nước. Mặt nước dãn ra. Cái lỗ hổng bên ngoài đê giờ đây đã to bằng cái cổ con ngựa, dòng nước hung hãn chui vào trong lỗ, rồi vọt ra phía ngõ trong đê, chảy thành một dòng sông nhỏ nước đục ngầu đã tràn tới cổng nhà tôi. So với con đê Thuồng Luồng cao ngất đằng sau, nhà cửa trong thôn chỉ như đồ chơi của trẻ con. Thằng Câm vừa xuống nước đã biến mất. Chỗ hắn lặn xuống là cái xoáy đầy bọt và rơm rác. Những con hải âu láu cá bay lượn trên cao. Cặp mắt tinh tường bằng hạt đậu đen của chúng chú mục vào chỗ Thằng Câm lặn xuống như chờ đợi điều gì đó. Tôi trông rõ cái miệng đỏ lòm và cặp chân đen sì dưới cái bụng trắng của chúng.
Chúng tôi sốt ruột nhìn mặt nước. Một vật như quả dưa hấu đen sì đảo một cái trên mặt nước rồi lại chìm nghỉm nhưng lại xuất hiện rất nhanh ở phía trước. Một vật như con ếch khô khổng lồ đạp chân đúng kiểu bơi của ếch, bơi chéo vào bờ. Khi đến chỗ nước tương đối lặng sát thân đê, hai chân lại đạp tạo nên những ngấn nước rất đẹp. Các binh sĩ trung đoàn 17 căng mắt để nhìn, cổ vươn ra. Do tất cả đều cởi trần, nên trông giống những phạm nhân đang chờ hành quyết. Quần lót của họ chẳng khác quần lót của Thằng Câm vải cứng như tôn lá. Chú lính cởi truồng hai tay ôm lấy bộ tam sự, cũng vươn cổ nhìn xuống nước. Ông già Tôn Long thì nhìn lỗ hổng trong đệ Nhân dịp này Tư Mã Lương lén gại thử vào lưỡi dao của Thằng Câm, sắc như nước, chém đầu như bổ dưa.
- Tốt rồi, bịt được rồi - Ông già Tôn Long kêu to.
Nước chảy chậm dần qua cái lỗ hổng, sức nước giảm đi nhiều, từ chỗ chảy ồ ồ chỉ còn róc rách. Thằng Câm vọt lên khỏi mặt nước như một con cá quả khổng lồ, đám hải âu hoảng sợ vọt lên cao. Hắn dùng bàn tay hộ pháp vuốt nước trên mặt, nhổ phì phì đất cát trong miệng ra. Ông già Tôn gọi binh lính quẳng các bó biển đậu xuống sông. Thằng Câm túm lấy từng bó dìm xuống rồi nhô người lên một cái, quẫy hai chân lặn theo. Lần này thì thời gian dưới nước tương đối ngắn, hắn đã ngoi lên lấy hơi. Ông già Tôn Long đưa xuống một cành cây dài định kéo hắn lên, nhưng hắn xua tay, lại lặn xuống. Tiếng thanh la dồn dập trong thôn. Tiếng thanh la chưa dứt đã vang lên tiếng hô khẩu lệnh, từng đội vác súng từ các ngõ chạy lên mặt đệ Lỗ Lập Nhân và đội bảo vệ của anh ta chạy từ ngõ nhà tôi lên. Vừa lên đến nơi, anh ta hỏi:
- Vỡ chỗ nào?
Ông già Long nói với Lỗ Lập Nhân:
- Thưa trưởng quan, may mà có ông Tôn, nếu không, làm mồi cho ba ba!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Nhân dân làm mồi cho ba ba thì chúng tôi cũng làm mồi cho cua cái!
Anh ta bước tới chỗ Thằng Câm, giơ ngón tay cái biểu dương hắn. Thằng Câm toàn thân nổi da gà, môi dính bùn, nhìn Lỗ Lập Nhân cười hềnh hệch.
Lỗ Lập Nhân ra lệnh cho các binh sĩ đào đất gia cố thân đệ Công việc ghép bè tiếp tục tiến hành, nhất định đến trưa phải đưa được tù binh sang sông. Đội áp giải của quân khu sẽ tiếp ứng ở bờ sông bên kia. Những binh sĩ không có quần áo thay thì về chỗ trú quân nghỉ ngơi. Những binh sĩ được biểu dương càng hăng hái, thề chết hoàn thành nhiệm vụ. Lỗ Lập Nhân lệnh cho cần vụ chạy về đoàn bộ lấy một cái quần cho chú lính trẻ thaỵ Lỗ Lập Nhân cười hì hì, nói với chú lính trẻ:
- Chỉ toàn lông tơ, chứ đã đủ lông đâu mà xấu hổ?
Trong khi liên tiếp ra hàng loạt mệnh lệnh, Lỗ Lập Nhân còn tranh thủ hỏi tôi:
- Mẹ có khỏe không? Thắng Lợi có ngoan không?
Tư Mã Lương kéo tay tôi, tôi không hiểu ý của nó, nó bảo Lỗ Lập Nhân:
- Bà ngoại yêu cầu được tiễn bố cháu, bác đợi bà ngoại ra hãy sang sông!
Ông già Tôn Long tinh thần phấn chấn, chỉ trong nửa tiếng đồng hồ đã ghép xong chiếc bè rộng mười mấy mét vuông. Không có bơi chèo, ông già đề nghị thay thế bằng xẻng, dùng những chiếc mai gỗ càng tốt. Thế là Lỗ Lập Nhân lại ra lệnh đi lấy xẻng.
- Cháu về bảo với bà ngoại - Lỗ Lập Nhân nói với Tư Mã Lương - Ta chấp thuận yêu cầu của bà!
Anh ta giơ tay xem đồng hồ, nói:
- Các cháu có thể về được rồi!
Nhưng chúng tôi không về vì đã trông thấy mẹ khoác trên tay một cái làn trên phủ vuông vải trắng, tay xách bình nước trà, bước ra khỏi cổng. Sau lưng mẹ là Sa Tảo Hoa. Nó ôm trong tay một bó hành sống. Đi sau bó hành là chị em sinh đôi Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng; sau Phượng và Hoàng là hai con trai của Thằng Câm, anh em sinh đôi: Câm-lớn, Câm-bé; sau Câm-lớn, Câm-bé là Lỗ Thắng Lợi vừa lẫm chẫm biết đi; sau Lỗ Thắng Lợi là chị Lai Đệ trát bự son phấn. Cái đội ngũ ấy đi rất chậm.
Hai đứa con gái sinh đôi thì chăm chú nhìn các dàn biển đậu xen kẽ với hoa khiên ngưu, chúng đang tìm bắt chuồn chuồn, bươm bướm và những cái xác ve sầu. Hai đứa con trai sinh đôi thì mắt như dán vào các cây hai bên ngõ, những cây hòe, cây liễu và những cây dâu thân có màu vàng nhạt, chúng tìm những con sên, thức ăn rất ngon mà chúng ưa thích. Lỗ Thắng Lợi thì tìm những chỗ có nước mà bước vào. Nó dẫm trên nước lép nhép, những tiếng cười ngây thơ vang lên khắp ngõ. Dáng đi đoan trang của chị Lai Đệ cho tôi biết rằng thái độ của chị rất trịnh trọng, mặc dù ở trên đê, chúng tôi không thể nhìn rõ nét mặt chị, mà chỉ nhìn thấy xanh đỏ lòe loẹt trên mặt chị.
Lỗ Lập Nhân cầm lấy chiếc ống nhòm trên cổ một vệ binh, nhìn sang bờ bên kia, một cán bộ dưới quyền đứng bên anh ta sốt ruột hỏi:
- Đã đến chưa?
Lỗ Lập Nhân tiếp tục quan sát, nói:
- Chưa, chẳng có ma nào cả, chỉ có mỗi con quạ đang mổ phân!
- Liệu có chuyện gì chăng? - Người cán bộ lo lắng.
- Không có chuyện gì đâu - Lỗ nói - Đội áp giải của quân khu toàn là những tay súng cừ khôi, bán đảo Sơn Đông không có ai là đối thủ?
Cán bộ kia nói:
- Quả có vậy. Khi tôi tập huấn trên quân khu, đội áp giải tù binh có biểu diễn cho xem. Tôi phục nhất là cái môn chọc thủng gạch của họ. Anh nghĩ coi, viên gạch rắn là thế mà họ chỉ dùng một ngón tay khoan ngay một lỗ xuyên qua, ngay cả mũi khoan cũng không nhanh bằng. Họ định giết ai thì chỉ một ngón tay là chọc thủng một lỗ, không cần đến vũ khí. Đoàn trưởng, nghe tin một số cán bộ sẽ chuyển ngành sang tổ chúc chính quyền...
- Đến rồi! - Lỗ Lập Nhân nói - Báo cho tiểu đội thông tin, phát tín hiệu cho bên kia!
Một binh sĩ tầm vóc nhỏ bé nhanh nhẹn giơ khẩu súng lục nòng to kỳ lạ chĩa lên khoảng không trên sông bắn một phát. Một quả cầu lửa màu vàng bay vọt lên không trung, đứng lại một thoáng rồi xì ra một làn khói trắng, kéo theo một tiếng nổ, rơi xuống giữa lòng sông. Khi quả cầu lửa rơi xuống, một con hải âu đảo cánh định đớp, nhưng nó kêu lên một tiếng lảnh lói, lảng ra xạ Bờ bên kia, một đám người nhỏ li ti đang đứng, sóng nước rập rờn khiến tôi nghĩ rằng họ đang đứng trên mặt nước chứ không phải trên mặt đê.
- Đổi tín hiệu! - Lỗ Lập Nhân nói.
Chú lính lấy ngọn cờ đỏ giắt bên người, buộc vào cành liễu mà ông già Long quẳng dưới đất. Chú ta phất ngọn cờ đỏ với bờ bên kia, bờ bên kia vọng lại tiếng hoan hô.
- Tốt rồi! - Lỗ Lập Nhân đeo ống nhòm vào cổ, quay sang lệnh cho người cán bộ dưới quyền: - Tham mưu Tiền, chạy về bảo Tham mưu trưởng Đỗ giải tù binh ra!
Người cán bộ chạy đi.
Lỗ Lập Nhân nhảy lên bè, ra sức dẫm mạnh để thử độ bền. Anh ta hỏi ông già Tôn Long:
- Ra đến giữa sông, bè không vỡ chứ?
Ông già Tôn Long nói:
- Xin thượng quan yên tâm, năm Dân quốc thứ mười, cái bè đưa dân biểu Triệu qua sông, chính là do tôi ghép.
Lỗ Lập Nhân nói:
- Hôm nay ta phải đưa một tên phạm nhân do thượng cấp chỉ đích danh, không thể để xảy ra bất cứ sơ suất nào.
- Thủ trưởng yên tâm, nếu bè vỡ thì cứ chặt chín ngón tay của tôi đi!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Không nhất thiết phải như thế, nếu bè vỡ thì có chặt cả mười ngón tay của tôi cũng vô dụng.
Mẹ dẫn đội ngũ của mẹ trèo lên mặt đệ Lỗ Lập Nhân chạy tới đón, rất khách sáo:
- Bà ơi, bà đợi một lát, họ ra ngay bây giờ!
Anh ta cúi xuống làm thân với Lỗ Thắng Lợi, nhưng nó sợ, khóc toáng lên. Lỗ Lập Nhân lúng túng sửa lại dây kính thay cho gọng, nói:
- Con bế này, ngay cả bố đẻ nó cũng không nhận ra!
Mẹ thở dài:
- Rể! Năm nay, các anh cứ quần nhau như vậy biết khi nào mới thôi?
Lỗ Lập Nhân đã có chủ ý, nói:
- Bà mẹ yên tâm, lâu là ba năm, chóng là hai năm, mẹ có thể sống trong hòa bình rồi!
Mẹ nói:
- Tôi là đàn bà, lẽ ra không nên nhiều lời, liệu anh có tha cho họ không? Nói gì thì nói, các anh là anh em cọc chèo với nhau.
Lỗ Lập Nhân cười:
- Nhạc mẫu ơi, tôi không có quyền, ai bảo mẹ chiêu mộ những chàng rể không yên phận ấy làm gì?
Nói xong, anh ta lại cười. Tiếng cười của Lỗ Lập Nhân làm dịu bớt không khí trang nghiêm trên đê.
Mẹ bảo:
- Anh nói với quan trên của anh, tha cho họ.
Lỗ Lập Nhân nói:
- Gieo gió gặt bão, trồng tật lê thì đừng sợ gai đâm vào taỵ Mẹ vợ Ơi xin mẹ đừng bận tâm làm gì!
Các vệ binh áp giải Tư Mã Khố, Bác-bít và Niệm Đệ từ ngõ lên đệ Tư Mã Khố bị trói giật cánh khuỷu bằng thừng. Bác-bít thì hai tay bị trói ra phía trước bằng một đoạn xà cạp. Niệm Đệ không bị trói. Một vệ binh bước tới ngáng đường bị Tư Mã Khố nhổ nước bọt vào mặt, quát:
- Tránh ra, để ta từ biệt người nhà của ta!
Lỗ Lập Nhân bắt tay làm loa nói to về phía ngõ:
- Tư lệnh Tư Mã, đừng vào đấy nữa. Họ Ở cả đây rồi?
Tư Mã Khố làm như không nghe tiếng cứ ưỡn ngực bước vào nhà tôi, theo sau là Bác-bít và Niệm Đệ. Họ loay hoay trong sân nhà tôi rất lâu. Lỗ Lập Nhân chốc chốc lại xem đồng hồ. Bờ bên kia đội áp giải liên tục phất cờ hồng, đánh tín hiệu sang bên này. Thông tin viên bên này cũng phất cờ, đánh tín hiệu trả lời. Động tác của họ luôn thay đổi, chúng tỏ nghiệp vụ rất thành thạo.
Bọn Tư Mã Khố rồi cũng ra khỏi nhà tôi, trèo rất nhanh lên mặt đệ Lỗ Lập Nhân hạ lệnh:
- Cho bè hạ thủy! Mười mấy tên lính hè nhau bẩy chiếc bè xuống nước. Mặt nước chấn động mạnh, chiếc bè chìm xuống rồi từ từ nổi lên. Nước ven bờ chảy chậm, chỉ làm cho bè dập dềnh. Mấy binh sĩ níu chặt dây neo bè bằng vải xà cạp phòng chiếc bè bị nước cuốn đi. Lỗ Lập Nhân nói:
- Tư lệnh Tư Mã, ông Bác-bít, quân đội chúng tôi chí nhân chí nghĩa, thể tất tình người nên mới cho phép các ông chia tay với người nhà, mong các ông gặp phiên phiến thôi!
Tư Mã Khố, Bác-bít, chị Niệm Đệ đi tới trước mặt chúng tôi. Tư Mã Khố mặt mày vui vẻ, Bác-bít đầy vẻ lo âu. Chị Niệm Đệ nét mặt nặng nề và trang nghiêm như một kẻ tử vì đạo. Lỗ Lập Nhân nói khẽ:
- Dì Sáu, dì có thể ở lại. Chị Niệm Đệ lắc đầu tỏ ý nhất quyết đi cùng chồng.
Mẹ bỏ vuông vải dậy làn ra. Sa Tảo Hoa đưa tới một củ hành đã lột vỏ. Mẹ bẻ củ hành làm hai, gói trong một miếng bánh bột mì trắng, sau đó lấy từ trong làn một bát tương ớt, đưa cho Tư Mã Lương, bảo:
- Lương, bê cái bát này! Tư Mã Lương đón cái bát, ngẩn nhìn mẹ. Mẹ nói:
- Đừng nhìn bà, hãy nhìn cha cháu đi!
ánh mắt của Tư Mã Lương chuyến sang Tư Mã Khố. Tư Mã Khố cúi nhìn đứa con trai khỏe mạnh, đen như củ súng, một thoáng buồn lướt trên khuôn mặt chữ điền xưa nay chưa hề biết thế nào là buồn tủi. Anh ta nhích vai một cái có lẽ định giơ tay xoa đầu đứa con. Tư Mã Lương mở miệng gọi khẽ:
- Bố ơi!
Tư Mã Khố chớp chớp cặp mắt có con ngươi vàng, đẩy nước mắt xuống khoang mũi và họng. Anh ta đá nhẹ vào mông Tư Mã Lương, nói:
- Con yêu, hãy nhớ rằng, dòng họ nhà Tư Mã chúng ta không ai chết trên giường, con cũng phải như thế.
Tư Mã Lương hỏi:
- Bố ơi, liệu họ có bắn bố không?
Tư Mã Khố liếc nhìn dòng sông đục ngầu, nói:
- Bố thua thiệt vì bố giữ chữ nhân. Con nên nhớ rằng muốn làm kẻ ác thì phải lòng lim dạ sứa, giết người không ghê tay? Muốn làm người thiện thì đi đường cũng tránh dẫm phải kiến. Tuyệt đối không nên làm con dơi, chim không ra chim, thú không phải thú. Con nhớ chưa?
Tư Mã Lương cắn môi, nghiêm trang gật đầu.
Mẹ đưa chiếc bánh đã cuốn hành cho chị Lai Đệ. Chị cầm lấy, ngẩn người nhìn mẹ. Mẹ bảo:
- Con đút cho anh ấy ăn! Chị ngượng, chị chưa quên cái đêm hai người cuồng hoan cách đây ba hôm, chắc hẳn thế, vì cái ngượng của chị là ngượng trong hạnh phúc. Mẹ nhìn chị, lại nhìn Tư Mã Khố, ánh mắt mẹ như con thoi, móc hai người lại với nhau. Sự giao lưu băng ánh mắt giữa hai người còn nhiều hơn nói ngàn vạn lời! Chị Lai Đệ cởi bỏ áo khoác màu đen, bên trong chị mặc áo chẽn màu hồng, quần hồng viền đăng ten, đôi giày thêu hoa cũng màu hồng, thân hình yểu điệu, khuôn mặt thanh tú. Tư Mã Khố chữa khỏi cho chị chứng khùng, nhưng chị lại rơi vào bệnh tương tự Chị vẫn đẹp, một phụ nữ góa chồng đầy quyến rũ. Tư Mã Khố đắm đuối nhìn chị, nói:
- Chị cố gắng giữ gìn nhé!
Chị Lai Đệ nói một câu chẳng ăn nhập vào đâu:
- Anh là mũi khoan kim cương, hắn là cây gỗ mục! Chị đến trước mặt Tư Mã Khố, chấm miếng bánh vào bát tương ớt trong tay Tư Mã Lương, để tiếng khỏi rớt, chị múa cổ tay hai ba vòng rồi đưa đến trước miệng Tư Mã Khố. Như một con ngựa, Tư Mã Khố hất đầu lên một cái, rồi cúi xuống há miệng cắn một miếng. Anh ta nhai một cách khó nhọc, phồng hai má vì đầy thức ăn, hai giọt nước mắt to tướng lăn trên má. Anh ta vươn cổ ra nuốt đánh ục, miệng hít hà:
- Hành cay đến là cay!
Mẹ đưa cho tôi một chiếc bánh, đưa cho chị Tám một chiếc, lại đưa cho chị Sáu một chiếc, tất cả đã quấn hành. Mẹ bảo:
- Kim Đồng, con đút cho chồng chị Sáu. Ngọc Nữ, con đút cho chị Sáu.
Tôi bắt chước chị Lai Đệ, chấm bánh trong bát tương ớt của Tư Mã Lương, rồi đưa đến trước miệng Bác-bít. Bác-bít trễ môi trông rất khó coi, ghé răng cắn một tí bánh, những giọt nước mắt long lanh rơi lã chã. anh ta cúi xuống, ghé miệng còn dính tương ớt lên trán tôi hôn một cái rõ kêu. Rồi anh đi tới bên mẹ, tôi đoán là anh định ôm hôn mẹ, nhưng tay bị trói, đành phải cúi xuống hôn vào trán mẹ, môi dẩu ra như con dê bứt lá cây. Anh nói:
- Mẹ Ơi, con không bao giờ quên mẹ!
Chị Tám mò mẫm đến trước mặt Tư Mã Lương để chấm bánh. Tư Mã Lương giúp chị. Chị cầm bánh băng hai tay, trán bóng như mai cua, mắt sâu thăm thẳm, mũi cao miệng rộng, đôi môi chúm chím như nụ hoa hồng. Chị Tám mà xưa nay vẫn bị tôi rẻ rúng thật đáng thương. Chị thì thào:
- Chị Sáu ăn đi!...
Chị Sáu nước mắt như suối, ôm chị Tám nức nở:
- Cô em tội nghiệp của chi...
Tư Mã Khố đã ăn hết một cái bánh. Lỗ Lập Nhân trước sau vẫn đứng bên, quay mặt ra ngoài sông nhìn sang bờ bên kia. Lúc này, anh ta quay lại nói:
- Thôi, xin mời lên bè!
Tư Mã Khố nói:
- Không được, tôi chưa ăn xong. Xưa kia mỗi khi quan phủ chém phạm nhân đều cho ăn no rồi mới chém. Trung đoàn 17 các anh là trung đoàn nhân nghĩa, chắc hẳn phải cho tôi ăn một bữa no chứ? Huống hồ đây là bữa bánh do mẹ vợ chúng ta làm.
Lỗ Lập Nhân nhìn đồng hồ nói:
- Thôi được, ông cứ ăn cho căng bụng. Tôi cho ngài Bác-bít sang trước.
Thằng Câm và sáu binh sĩ tay cầm xẻng gỗ làm bơi chèo, thận trọng bước lên bè. Chiếc bè dập dềnh, chao đảo choán nước rất nhiều, nước tràn trên mặt bè. Hai binh sĩ giữ dây neo, ngửa người ra sau để ghìm chiếc bè lại.
Lỗ Lập Nhân lo lắng, hỏi ông già Tôn:
- Cụ Ơi, thêm hai người nữa được không?
Ông già đáp:
- Hầy, theo lão thì nên bớt đi hai người chèo. Lỗ Lập Ngôn ra lệnh:
- Hàn hói, Phan Vĩnh Vượng, hai người lên bờ!
Hàn và Phan chống xẻng nhảy ra khỏi bè. Chiếc bè chòng chành, người trên bè đứng không vững, suýt ngã xuống nước. Thằng Câm cởi trần, chỉ mặc mỗi quần đùi cứng như mo nang, gầm lên:
- Cởi, cởi, cởi!
Từ hôm ấy trở đi, hắn không à uôm nữa.
- Được chưa? Lỗ Lập Nhân hỏi ông già Tôn.
Ông già đáp:
- Được rồi!
Ông cầm lấy chiếc xẻng trong tay một binh sĩ, nói:
- Qúi quân nhân nghĩa khiến lão rất phục! Năm Dân quốc thứ Mười, lão đã từng đưa một vị nghị sĩ qua sông. Nếu trưởng quan không chê thì lão đem thân trâu ngựa ra giúp!
Lỗ Lập Nhân xúc động nói:
- Cụ Ơi, đây là điều tôi muốn nhờ nhưng ngại chưa dám mở miệng. Cụ mà điều khiển thì coi như yên tâm. Ai có rượu đấy không?
Lính cần vụ chạy tới, đưa cho Lỗ Lập Nhân chiếc bi đông bẹp dúm. Anh ta xoay nút mở ra, ghé mũi ngửi, nói:
- Rượu cao Lương chính hiệu! Cụ Ơi, tôi đại diện cho thủ trưởng quân khu mời cụ một chén.
Anh ta hai tay cầm bi đông đưa cho ông già Tôn. Ông già cũng xúc động, phủi bụi trên cánh tay đón lấy bi đông rượu, òng ọc một hơi mười mấy ngụm rồi đưa trả bi đông cho Lỗ Lập Nhân. Ông quệt mép bằng mu bàn tay, từ mặt đỏ đến cổ, từ cổ đỏ đến ngực.
- Thưa trưởng quan, uống rượu này của trưởng quan, trái tim tôi đã gắn với trưởng quan rồi!
Lỗ Lập Nhân vừa cười vừa nói:
- Đâu chỉ có trái tim? Mà là gan liền gan, phổi liền phổi, ruột liền ruột.
Ông già ứa nước mắt, nhảy vọt lên cuối bè một cách vững vàng. Chiếc bè khẽ chòng chành. Lỗ Lập Nhân gật đầu tán thưởng.
Lỗ Lập Nhân đến trước mặt Bác-bít nhìn hai tay bị trói của anh ta, cười gượng:
- Tội cho ông quá, ông Bác-bít, ông được Chủ nhiệm Hòa Trọng thuộc Tư lệnh quân khu chỉ đích danh, chắc chắn ông sẽ được đối xử đúng nghi lễ.
Bác-bít giơ hai tay lên:
- Có nghi lễ này không?
Lỗ Lập Nhân thản nhiên nói:
- Đây cũng là một nghi lễ, mong ông bỏ quá chọ Xin mời, ông Bác-bít!
Bác-bít nhìn chúng tôi một thoáng, dùng ánh mắt để từ biệt. Rồi anh bước những bước dài, leo lên bè. Chiếc bè chòng chành rất dữ khiến anh ta loạng choạng đứng không vững. Ông già Tôn dùng chiếc mai gỗ chống đít anh ta cho khỏi ngã.
Chị Niệm Đệ cũng bắt chước Bác-bít, vụng về hôn trán tôi rồi hôn trán chị Tám. Chị giơ những ngón tay thanh mảnh gỡ những lọn tóc rối như búi sợi của chị Tám, than thở:
- Em yêu, trời sẽ phù hộ em!
Rồi chị gật đầu với mẹ và lũ trẻ lau nhau đứng sau lưng mẹ, quay lại bước lên bè. Lỗ Lập Nhân lại khuyên:
- Dì Sáu, dì không nhất thiết phải đi!
Niệm Đệ Ôn tồn nói:
- Anh rể, tục ngữ có câu cán cân đâu quả cân đấy, chồng không thể rời vợ, anh và chị Năm chẳng phải như hình với bóng đó sao?
Lỗ Lập Nhân nói:
- Tôi là tôi muốn điều tốt cho dì. Thôi, để cho dì được toại nguyện, mời lên bè!
Tư Mã Khố làm bộ đã no, nói: - No rồi! Xin cảm ơn mẹ? Cảm ơn chị Cả, cảm ơn các em Kim Đồng Ngọc Nữ? Cảm ơn con, con đã bê bát tương ớt cho bố? Phượng ơi, Hoàng ơi, hãy nghe lời bà ngoại và bác Cả. Có gì khó khăn thì đi gặp dì Năm. Dì đang gặp vận đỏ, còn bố các con thì đang trong vận đen. Cậu Kim Đồng, hay ăn chóng lớn nhá. Khi còn sống, chị Hai rất yêu em, chị thường nói với anh rằng, em sẽ nên người! Em đừng phụ lòng chị Hai nhá?
Tôi thấy sống mũi cay cay trước những lời của anh. Chiếc bè đã cặp bờ, ngồi giữa bè là một tiểu đầu mục gân bắp cuồn cuộn. Anh ta nhẹ nhàng nhảy xuống, giơ tay chào Lỗ Lập Nhân theo điều lệnh. Lỗ Lập Nhân cũng chào lại rất khách sáo, rồi hai người nhiệt liệt bắt tay nhau, xem ra họ là bạn cũ. Người kia nói:
- Lão Lỗ, trận này thắng ròn rã, tư lệnh Phùng rất vui, chính ủy Lệ cũng biết tin rồi!
Anh ta lấy từ xắc cốt đeo bên người một phong thư đưa cho Lỗ Lập Nhân. Lỗ cầm lấy bức thư, nhét khẩu súng lục mạ bạc vào xắc cốt của anh ta, nói:
- Chiến lợi phẩm đấy, đem về cho con Vu nó chơi!
- Tôi thay mặt con nhỏ cảm ơn anh. - Tiểu đầu mục nói.
Lỗ Lập Nhân chìa tay nói với người kia:
- Đưa đây!
Người kia ngẩn ra, hỏi:
- Đưa gì cơ?
Lỗ Lập Nhân nói:
- Giải tù binh của tôi đi thì phải cho tôi cái giấy biên nhận chứ!
Người kia lấy giấy bút trong xà cột ra, viết vội mấy dòng rồi đưa cho Lỗ Lập Nhân:
- Huynh anh chắc lép quá!
Lỗ Lập Nhân cười:
- Con khỉ Tôn Ngộ Không có ranh mãnh đến mấy cũng không qua được bàn tay Đức Phật Như Lai!
Người kia nói:
- Vậy thì tôi là con khỉ Tôn Ngộ Không hay sao?
Lỗ Lập Nhân nói:
- Chính tôi là con khỉ!
Hai người thụi nhau một cái rồi cười ha hả. Người kia nói nhỏ:
- Lão Lỗ, nghe nói anh thu được một bộ máy chiếu phim? Quân khu đã biết rồi!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Tai các anh dài thật. Về thưa lại với thủ trưởng quân khu là đợi nước rút, tôi sẽ cho người đưa lên!
Tư Mã Khố rủa thầm: - Mẹ nó, ki cóp cho cọp nó xơi!
Người kia tỏ vẻ khó chịu, hỏi:
- Anh nói gì vậy?
Tư Mã Khố nói:
- Chẳng nói gì cả!
Người kia nói:
- Nếu tôi đoán không lầm, thì anh chính là Tư Mã Khố khét tiếng gần xa, là Tư lệnh Chi đội Tư Mã.
Tư Mã Khố nói: - Chính tôi!
Người kia nói:
- Ông Tư lệnh này, dọc đường chúng tôi sẽ chăm sóc ông chu đáo, mong ông phối hợp với chúng tôi cho tốt, chúng tôi rất không muốn khiêng xác ông về quân khu!
Tư Mã Khố cười:
- Không dám, đội áp giải các ông toàn là những tay súng cừ khôi, tôi không muốn làm tấm bia sống cho các ông!
Người kia nói:
- Đúng là hảo hán! Vậy nhé, đoàn trưởng Lỗ. Nào, mời Tư lệnh lên bè!
Tư Mã Khố thận trọng bước lên bè, thận trọng ngồi xuống giữa. Tiểu đầu mục trong đội áp giải bắt tay Lỗ Lập Nhân rồi lên bè. Anh ta ngồi phía cuối, đối diện với Tư Mã Khố, tay đặt trên báng súng ở thắt lưng. Tư Mã Khố nói:
- Ông không cần phải cẩn thận đến như thế, tôi hai tay bị trói, nhảy xuống sông chỉ có mà chết đuối! Ông ngồi gần tôi một tí, khi bè chòng chành giữ tôi khỏi lăn xuống nước.
Người kia không làm theo lời Tư Mã Khố, chỉ giục đám lính:
- Chèo mau lên?
Cả nhà tôi đứng tụm lại một chỗ, giấu kín một điều bí mật, nóng lòng chờ đợi kết cục.
Chiếc bè rời bờ, nước lên rất thuận. Hai binh sĩ kéo bè chạy ngược theo bờ sông, vừa chạy vừa thả từng vòng dây neo trên cánh tay.
Bè ra đến giữa sông, nước chảy rất mạnh, mép bè sóng ngầu bọt. Ông già Tôn hô nhịp cho các binh sĩ gò lưng mà chèo, những con hải âu bay rất thấp trên đầu họ. Đến đoạn nước xiết, chiếc bè chòng chành dữ đội, ông già Tôn bật ngửa văng xuống nước. Tiểu đầu mục lóng ngóng đứng lên định rút súng ra thì Tư Mã Khố cựa đứt tung dây trói, chồm lên anh ta như hổ vồ mồi. Hai người lăn xuống dòng nước chảy xiết giữa lòng sông. Thằng Câm và những binh sĩ trên bè cuống cả lên, lần lượt nhảy xuống nước. Chiếc bè như một con cá khống lồ, vùn vụt lao về phía hạ lưu.
Tất cả những chuyện đó gần như xảy ra cùng một lúc.
Đến khi Lỗ Lập Nhân và các binh sĩ trên bờ có phản ứng thì trên bè đã không còn ai.
- Bắn chết hắn đi! - Lỗ Lập Nhân ra lệnh dứt khoát. Giữa dòng nước đục ngầu, thỉnh thoảng một cái đầu nhô lên, nhưng các binh sĩ không thể nhận ra đầu nào là của Tư Mã Khố nên không dám nổ súng. Tất cả có chín người rớt xuống nước, mỗi lần có đầu nhô lên, khả năng đó là đầu Tư Mã Khố chỉ là một phần chín, chưa nói gì đến nước chảy xiết như thế, bắn trúng là rất khó. Tư Mã Khố đã trốn thoát, đó là điều chắc chắn? Anh ta sinh ra và lớn lên bên sông Thuồng Luồng, bơi lội như rái cá, lặn dưới nước mười phút mới cần ló đầu lên lấy hơi. Huống hồ anh ta vừa đánh một bữa căng bụng. Lỗ Lập Nhân tái mặt, mắt tối sầm, nhìn từng người chúng tôi. Tư Mã Lương vẫn bê bát tương ớt trên tay, làm bộ khiếp hãi, nép vào chân mẹ.
Mẹ không nói câu nào, bế Thắng Lợi trên tay đi xuống chân đê, chúng tôi líu ríu đi theo.
Mấy hôm sau chúng tôi nghe tin chỉ có ông già Tôn và Thằng Câm là bơi được vào bờ, những người khác mất tích, nếu còn sống thì không thấy người, nếu đã chết thì không thấy xác, nhưng tất cả mọi người đều hiểu rằng Tư Mã Khố đã trốn thoát, dứt khoát anh ta không chết đuối, những người khác hiển nhiên là chết cả, trong đó có anh chàng tiểu đầu mục áp giải tù binh.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 25
Mùa thu rục rỡ của vùng Cao Mật, nước lũ mênh mông cuối cùng rút đi. Những vạt cao lương đỏ một màu đỏ- đen, những vạt hoa lau trắng một màu trắng-vàng. Nắng sớm trải trên cánh đồng mênh mông lởn vởn làn sương nhẹ. Toàn bộ binh mã của trung đoàn 17 lặng lẽ chuyển quân. Họ dắt lừa dắt ngựa nhón bước qua cây cầu mục nát trên sông Thuồng Luồng rồi khuất sau con đê ngoại vi Hà Bắc, không bao giờ còn thấy bóng dáng của họ nữa.
Đại đội binh mã của trung đoàn 17 rút đi, nguyên trung đoàn trưởng của nó là Lỗ Lập Nhân thì chuyển ngành, giữ chức vụ huyện trưởng kiêm đại đội trưởng dại đội của huyện Cao Mật mới thành lập. Thượng Quan Phán Đệ được bổ nhiệm làm khu trưởng khu Đại Lan, Thằng Câm được đề bạt làm tiểu đội trưởng tiểu đội của khụ Thằng Câm dẫn tiểu đội đến nhà Tư Mã Khố, khuân hết bàn ghế giường tủ của nhà Tư Mã chia cho các nhà trong thôn, nhưng ban ngày chia cho thì ban đêm họ lại đem trả ở cổng nhà Tư Mã. Thằng Câm sai người khênh đến nhà tôi một cái giường chạm trổ rất đẹp.
Mẹ bảo:
- Tôi không cần, khiêng về đi!
Thằng Câm bảo: - Cởi, cởi, cởi!
Mẹ quay sang bảo chị Phán Đệ:
- Con đem cái giường đi cho mẹ?
Trưởng khu Phán Đệ nói:
- Mẹ Ơi, đây là phong trào, mẹ không nên từ chối?
Mẹ nói:
- Phán Đệ, Tư Mã Khố là chồng của chị Hai, mẹ đang nuôi con trai và con gái chúng nó ở đây. Rồi đây khi trở về nó sẽ nghĩ thế nào!
Những lời của mẹ khiến chị Phán Đệ suy nghĩ. Chị bỏ cái tất đang mạng dở xuống, dắt theo khẩu súng lục, vội vã đi ra cổng. Tư Mã Lương lén đi theo, trở về nói:
- Dì Năm lên huyện!
Tư Mã Lương còn nói, có một cỗ kiệu hai người khiêng, ngồi kiệu là một nhân vật cỡ bự, mười tám lính cầm súng đi bảo vệ. Huyện trưởng Lỗ trông thấy ông ta run cầm cập như chuột thấy mèo, cung kính như Tôn Tử gặp ông nội. Nghe nói ông này là chuyên gia nổi tiếng về cải cách ruộng đất.
Thằng Câm dẫn một số người đến khiêng cái giường đi.
Mẹ thở dài cất được gánh nặng. Tư Mã Lương nói:
- Ngoại ơi, ta chạy thôi! Cháu cảm thấy có chuyện lớn sắp xảy ra!
Mẹ nói:
- Phúc hay họa, là họa thì có chạy cũng không thoát! Lương này, con cứ yên tâm đi, dù thiên binh thiên tướng xuống trần thì cũng chẳng làm gì mẹ góa con côi nhà mình!
Nhân vật cỡ bự chưa thấy ló mặt. Trước cổng nhà Tư Mã có hai lính bồng súng đứng gác, các cán bộ huyện, khu ra vào như mắc cửi.
Một hôm, khi chúng tôi đi chăn dê về, gặp tiểu đội của khu và mấy cán bộ huyện, khu áp giải ông bán quan tài Hoàng Thiên Phúc, thợ đắp lò Triệu Giáp, chủ hiệu dầu Hứa Bảo, chủ hiệu dầu thơm Kim- Một-Vú, giáo viên tư thục Tần Nhị, đi trên đường. Những người bị bắt mặt mày ủ rũ. Triệu Giáp vươn cổ cãi
- Anh em ơi, thế này là thế nào? Nợ tôi cả bao tiền mà lại sổ toẹt là thế nào!
Một người nói giọng vùng Ngũ Liên, răng đồng vàng chóe, giang thẳng cánh tát Triệu Giáp một cái tát nảy lửa, chửi:
- Đ. mẹ mày! Ai nợ mày cả bao tiền? Tiền của mày từ đâu mà có?
Những người bị áp giải không dám hé răng, lùi lùi bước đi, đầu cúi gằm. Đêm, mưa lạnh rả rích. Một bóng người vượt qua tường, mẹ trầm giọng hỏi:
- Ai đấy!
Người đó bước nhanh mấy bước, quì xuống lối đi, nói:
- Thím ơi, cứu tôi mấy!
Mẹ hỏi:
- Có phải ông Cả đấy không?
Tư Mã Đình nói:
- Chính tôi, thím ơi, thím cứu tôi mấy! Ngày mai họ họp mít tinh xử bắn tôi? Chỗ dân làng với nhau, thím cứu cái mạng chó của tôi mấy?
Mẹ rên lên, mở cửa buồng, Tư Mã Đình lẻn vào. Ông ta run cầm cập trong bóng tối, nói:
- Thím ơi, cho tôi ăn chút gì đi, tôi đói chết mất!
Mẹ đưa cho ông ta cái bánh, ông ta vồ lấy nhai ngấu nghiến. Mẹ thở dài. Tư Mã Đình nói:
- Hừ, chỉ trách thằng Hai nhà tôi gây thù chuốc oán với Lỗ Lập Nhân. Thực ra họ còn là thân thích với nhau nữa đấy!
Mẹ nói: - Đừng nói nữa, đừng nói gì nữa, ông trốn vào trong này đi, hay dở gì thì tôi cũng là mẹ vợ của anh ấy!
Nhân vật bí ẩn, cuối cùng đã xuất hiện. Ông ta ngồi chính giữa mái che, tay trái nghịch chiếc nghiên mực màu chu sa, tay phải nghịch cây bút lông. Trên cái bàn trước mặt ông ta có bày một nghiên mực cỡ đại, chạm trổ rồng phượng. Nhân vật bự đeo kính gọng đen, hai má gần như không có thịt, cằm nhọn hoắt, mũi gầy nhọn, cặp mắt ti hí lấp lánh sau cặp kính. Ngón tay vờn trên nghiên vừa mảnh vừa dài, trắng như bột.
Hôm ấy, đại biểu của những người nghèo nhất ở mười tám thôn trấn vùng Cao Mật chen chúc trên một nửa sân phơi nhà Tư Mã. Xung quanh đoàn người, ba bước một trạm gác, năm bước một trạm tuần tra, đều do đại đội trên huyện và tiểu đội trên khu đảm nhiệm. Mươi tám vệ sĩ đứng trên bục đất, người nào cũng mặt lạnh như tiền, đằng đằng sát khí, y hệt mười tám La hán trong truyền thuyết. Phía dưới im phăng phắc, những đứa trẻ đã biết sợ thì không dám khóc, những đứa chưa biết sợ thì vừa oe lên là mẹ chúng nhét vú vào miệng.
Chúng tôi ngồi vây quanh mẹ. Khác với những người nhớn nhác xung quanh, mẹ bình tĩnh đến kinh người, chăm chú xe chỉ để khâu đế giày. Những tơ gai trắng lăn tròn trên bắp dùi mẹ, săn vào nhau đều đặn dài ra mãi. Hôm ấy trời lạnh, gió đông bắc như cắt vào da thịt, hơi nước từ ngoài sông Thuồng Luồng tràn vào, những người trên sân phơi run lập cập.
Trước khi đại hội chính thức khai mạc, có sự lộn xộn phía ngoài sân. Thằng Câm và mấy đội viên của tiểu đội khu áp giải Hoàng Thiên Phúc, Triệu Giáp... cộng mười tám người đợi phía ngoài sân phơi. Những người bị giải đều bị trói theo kiểu trọng tội, sau gáy cắm lá chỉ bài, gạch chéo đỏ trên chữ đen. Trông thấy những người này, dân chúng vội cúi đầu xuống, không ai dám bàn tán nửa câu.
Nhân vật bự ngồi bệ vệ trên ghế, đưa mắt nhìn một lượt những người trên sân. Mọi người rụt cổ lại, chỉ sợ Ông ta nhìn thấy mặt mình. Trước sự uy hiếp của nhân vật bự, mẹ vẫn thản nhiên xe chỉ, làm như dồn hết tâm trí vào đó. Tôi cảm thấy rất rõ rằng: ánh mắt của nhân vật bự dừng lại trên khuôn mặt mẹ tôi khá lâu.
Lỗ Lập Nhân buộc chiếc khăn đen trên đầu, diễn thuyết một hồi trước đám đông, nước bọt bắn tung tóe. Anh ta bị chứng đầu thống, mặt luôn đỏ quạch ánh lên sau cặp kính như nụ hoa hồng. Nói xong, anh ta đến bên nhân vật bự xin chỉ thị. Nhân vật bự chậm rãi đứng lên. Lỗ Lập Nhân nói:
- Hoan nghênh đồng chí Trương Sinh chỉ thị cho chúng ta.
Anh ta vỗ tay trước, dân chúng ngơ ngác nhìn lên bục, không hiểu ý tứ ra sao.
Nhân vật bự đằng hắng một tiếng, chậm rãi, mỗi tiếng đều kéo dài ra y như những sợi mì kéo của mục sư Malôa năm xưa. Giọng ông ta lê thê như lá cờ phướn bay lượn trong gió đông bắc. Trong suốt mấy chục năm, mỗi khi nhìn thấy lá cờ phướn bằng giấy trắng viết tên tuổi người chết trong buổi lễ cầu hồn, tôi lại nhớ lần nói chuyện của nhân vật bự. Những lời của ông ta bay lượn trong gió như lá cờ phướn. Ông ta ngồi xuống đã lâu mà lá cờ ấy vẫn bay lượn, thậm chí còn nghe thấy tiếng nghiến răng kèn kẹt trong đó.
Tiếp theo, Lỗ Lập Nhân ra lệnh, Thằng Câm và những đội viên của tiểu khu và mấy cán bộ súng pạc-hoọc đeo trễ đít, giải những người bị trói lên bục. Họ đứng chật cả cái bục, che khuất tầm nhìn lên khán đài của những người dưới sân. Lỗ Lập Nhân ra lệnh:
- Qùi xuống!
Trong số họ, người hiểu thì quì ngay, người còn đứng lớ ngớ thì bị đá vào khoeo chân, khuỵu xuống.
Những người đứng dưới sân đều cúi đầu, đưa mắt nhìn sang hai bên. Người nào dám mạnh dạn nhìn lên thì lại vội cúi đầu xuống khi trông thấy những giọt nước mũi chảy dài từ chóp mũi những người đang quì. Mẹ không xe chỉ nữa, kéo ống quần xuống che bắp đùi lạnh tím, thở dài. Lúc này, một người gầy gò rụt rè đứng lên, cất giọng khàn khàn run rẩy nói:
- Thưa bà trưởng khu, tôi có chuyện oan ức muốn tố cáo...
- Tốt! - Chị Phán Đệ phấn khởi kêu lên: - Đừng sợ, có chuyện oan ức thì nói, chúng tôi sẽ giải oan cho anh!
Quần chúng đều nhìn về phía người gầy. Đó là Thằng Gật. Chiếc áo ngoài của anh ta đã rách như tổ đỉa, thậm chí một ống tay áo gần như mất hẳn, bờ vai đen đủi lộ hẳn ra ngoài. Đường ngôi vốn thẳng như kẻ chỉ, bây giờ rối như tổ quạ. Anh ta run lẩy bầy trước gió lạnh, cặp mắt mờ đục lo ngại nhìn ra xung quanh.
- Lên trên này mà nói - Lỗ Lập Nhân nói.
- Chuyện thì không lớn - Thằng Gật nói - tôi đứng dưới này nói cũng được!
- Lên đi - Phán Đệ giục - Anh tên là Trương Đức Thành phải không? Tôi nhớ là mẹ anh từng xách làn đi ăn xin, khổ lớn thù sâu mà, lên kể đi!
Trương Đức Thành hai chân ríu vào nhau, lẩy bẩy ra khỏi đám người đang chú mục nhìn anh tạ Cái bục đất cao một thước, anh ta nhảy lên nhưng bị trượt, đất bám đầy ngực. Một vệ sĩ đứng trên bục cúi xuống thò tay lôi anh ta lên. Hai chân anh ta như đứng trên lò xo, lắc lư một hồi mới dừng lại. Anh ta nhìn xuống dưới thấy bao nhiêu ánh mắt phức tạp đang nhìn mình thì bủn rủn cả tay chân, mặt nổi lên từng đám màu xám nhạt, lắp bắp hồi lâu không nói được câu nào. Anh ta định chạy xuống thì Phán Đệ với thân hình to béo, khỏe không kém đàn ông, túm lấy vai đẩy ngược lại khiến anh ta loạng choạng suýt ngã. Anh ta trông rất thảm hại, van xin:
- Bà trưởng khu tha cho tôi, tôi chỉ là một cái rắm, bà hãy tha cho tôi?
Phán Đệ nói:
- Trương Đức Thành, anh sợ gì cơ chứ?
Trương Đúc Thành nói:
- Tôi sống độc thân, quanh ra quanh vào chỉ có một mình, chẳng sợ cái gì hết?
Phán Đệ nói:
- Chẳng có gì làm anh sợ, vậy tại sao anh không nói?
Trương Đức Thành nói:
- Chuyện chẳng to tát gì, thôi không nói nữa.
Phán Đệ nói:
- Anh tưởng đây là chuyện đùa hay sao?
Trương Đức Thành nói:
- Xin bà đừng nổi nóng để tôi nói. Hôm nay tôi coi như không có cái mạng tôi được chưa?
Trương Đức Thành đi đến trước mặt thầy giáo Tần, nói:
- Thầy Nhị, ông cũng coi là có học, cái hồi tôi học ông, đã có lần tôi ngủ gật, đúng không? Ông đã dùng thước kẻ đánh dập bàn tay tôi, còn đặt biệt hiệu cho tôi, khi ấy ông nói những gì, ông còn nhớ không?
- Hãy trả lời đi! - Phán Đệ nói to.
Thầy giáo Tần ngẩng lên, bộ râu vểnh ra phía trước như râu dê, lẩm bẩm:
- Lâu quá rồi, không nhớ
- Tất nhiên là ông không nhớ, nhưng tôi thì nhớ cho đến lúc chết - Thằng Gật hăng lên, lời lẽ bắt đầu trôi chảy. - Ông già, khi ấy ông nói như vầy: Trương Đức Thành cái gì anh, tôi gọi anh là Thằng Gật. Chỉ một câu ấy của ông mà suốt đời tôi mang cái tên Thằng Gật. Ông già gọi tôi là Thằng Gật, bà lão gọi tôi là Thằng Gật. Ngay cả những đứa trẻ hỉ mũi chưa sạch cũng gọi tôi là Thằng Gật? Vì gánh trên lưng cái biệt hiệu ấy mà đến nay ba mươi tám tuổi tôi vẫn chưa vợ! Ông nghĩ coi, ai đời lại gả con gái cho Thằng Gật! Khốn nạn thân tôi, rủi ro suốt đời vì cái biệt hiệu này?
Cơn xúc động dâng lên, Thằng Gật nước mắt nước mũi ràn rụa. Tay cán bộ huyện có hàm răng đồng túm tóc hoa râm của thầy giáo Tần giật ngược để thầy ngửa mặt lên, bộ râu dê rung rung.
- Nói? - Tay cán bộ huyện nghiêm giọng hỏi - Trương Đức Thành tố cáo có đúng không?
- Đúng, đúng ạ! - Thầy giáo Tần vâng dạ luôn miệng.
Tay cán bộ huyện dúi tay một cái, ấn đầu thầy xuống, miệng thầy đầy đất.
- Tiếp tục tố cáo - Cán bộ huyện nói.
Thằng Gật dùng mu bàn tay dụi mắt, vắt mũi bằng ngón tay cái và ngón tay trỏ rồi vẩy một cái, mũi dãi như một bãi cứt chim bay vèo tới nóc rạp. Nhân vật bự cau mày ngán ngẩm, rút khăn tay lau kính. Ông ta lạnh lùng như một hòn đá tảng. Thằng Gật nói:
- Tần Nhị, ông còn nhớ khi Tư Mã Khố học ông, hắn bắt cóc bỏ vào lọ của ông, đặt vè chửi ông rồi trèo lên dầm nhà mà đọc, ông có đánh hắn roi nào không? Có chửi hắn câu nào không có đặt biệt hiệu cho hắn không?
- Không, không, hoàn toàn không!
- Hay lắm! - Phán Đệ phấn khởi nói - Trương Đức Thành đã tố ra một vấn đề sâu sắc. Vì sao Tần Nhị không phạt Tư Mã Khố? Vì Tư Mã Khố nhiều tiền! Tiền của gia đình Tư Mã Khố do đâu mà có? Hắn không trồng mạch nhưng ăn bánh mì, không nuôi tằm nhưng mặc đồ tơ lụa, không nấu rượu nhưng ngày nào cũng say, thưa bà con, chính là mồ hôi xương máu của chúng ta đã nuôi sống bọn địa chủ. Chúng ta phân chia đất đai của chúng, của cải trong nhà chúng, thực tế là chúng ta thu hồi những gì của chúng ta!
Nhân vật bự vỗ tay khẽ tỏ ý tán thưởng lời lẽ khảng khái của Phán Đệ. Trên bục, các cán bộ huyện, khu và các đội viên vũ trang vỗ tay theo.
Thằng Gật nói tiếp:
- Chỉ riêng thằng Tư Mã Khố đã lấy bốn vợ, còn tôi thì một vợ cũng không. Như vậy có công bằng không?
Nhân vật bự cau mày, lắc đầu.
Lỗ Lập Nhân nói:
- Trương Đức Thành, không nói những chuyện này?
- Không, đây mới là nguồn gốc nỗi khổ của tôi! Thằng Gật tôi cũng là thằng đàn ông, phải vậy không? Giữa hai đùi cũng lủng lẳng cái của ấy...
Lỗ Lập Nhân đứng chắn trước mặt Thằng Gật, không cho nói nữa. Anh ta cất cao giọng, át cả tiếng gào của Thằng Gật, nói:
- Thưa bà con, Trương Đức Thành tuy nói năng có đôi chút thô lỗ, nhưng đã nêu lên một lý lẽ, vì sao có người lấy đến bốn vợ, thậm chí nhiều hơn, còn những người như Trương Đúc Thành một vợ cũng không.
Dưới sân bàn tán sôi nổi, rất nhiều ánh mắt nhìn về phía mẹ. Mặt mẹ xanh mét, con mắt vô cảm, không thù không oán, phẳng lặng như nước hồ thu.
Phán Đệ đẩy nhẹ Thằng Gật một cái, nói:
- Anh có thể xuống được rồi!
Thằng Gật tiến lên hai bước định bước xuống, nhưng lại chợt nhớ ra điều gì, quay lại xách tai Triệu Giáp đánh một bạt tai, chửi:
- Đ. mẹ mày! Mày cũng có ngày hôm nay, mày còn nhớ những khi theo đóm ăn tàn, dựa vào thế lục Tư Mã Khố khinh rẻ người khác chứ!
Triệu Giáp dùng đầu húc Thằng Gật một cú vào bụng dưới. Thằng Gật kêu thét lên, ngã lăn mấy vòng xuống sân phơi..
Thằng Câm xông tới đá Triệu Giáp ngã lăn ra rồi dùng chân chặn cổ Triệu Giáp. Khuôn mặt Triệu Giáp co rúm lại một cách đáng sợ. Anh ta thở phì phò gào thét như điên: - Tôi không phục, tôi không phục. Các người là đồ vô lương tâm, trời hại các người?...
Lỗ Lập Nhân cúi xuống hỏi nhân vật bự. Nhân vật bự cầm nghiên mực gõ xuống bàn đánh chát một tiếng. Lỗ Lập Nhân lôi ra một mảnh giấy, đọc:
- Xét phú nông Triệu Giáp, sống bằng bóc lột, thời kỳ Nhật ngụy hắn đã cung cấp cho ngụy quân khối lượng lớn lương thực. Thời Tư Mã Khố thống trị, hắn đã nhiều lần tiếp tế bánh bao cho bọn phỉ. Từ cải cách ruộng đất đến nay, hắn tung ra bao nhiêu lời đồn nhảm, công khai chống lại chính quyền nhân dân. Với phần tử ngoan cố như vậy không triệt đi thì không xoa dịu được sự căm phẫn của dân. Tôi thay mặt Chính phủ nhân dân huyện Cạo Mật tuyên bố tử hình Triệu Giáp, lập tức thi hành!
Hai đội viên khu đội lôi Triệu Giáp như lôi một con chó chết đến mép đầm đầy rác rưởi và cỏ mục. Hai đội viên tránh sang hai bên, Thằng Câm nhằm gáy Triệu Giáp nổ một phát súng. Nhanh như chớp, Triệu Giáp lộn đầu xuống đầm. Thằng Câm cầm khẩu pạc-hoọc miệng súng vẫn còn nhả khói, trở lại chỗ bục đất.
Những người quỳ trên bục dập đầu lạy như tế sao, sợ vãi cứt đái ra quần. Mùi hôi thối xông lên, những người trên bục và những người ở gần dưới sân đều bịt mũi.
- Tha cho tôi, tha cho tôi? - Chủ hiệu dầu thơm Kim-Một-Vú lết hai đầu gối đến trước mặt Lỗ Lập Nhân, hai tay ôm chặt lấy chân anh ta, vừa nói vừa khóc - Ông huyện trưởng tha cho tôi, tôi nguyện đem toàn bộ đầu thơm, toàn bộ số vàng, toàn bộ gia sản, ngay cả cái máng cho gà ăn cũng không để lại, chia hết cho bà con, chỉ cần tha cho mạng sống nhỏ nhoi của tôi. Tôi không bao giờ buôn bán để bóc lột mọi người nữa!...
Lỗ Lập Nhân muốn rút chân ra khỏi vòng tay của Kim-Một-Vú, nhưng chị ta cứ ôm riết lấy chân anh tạ Mấy cán bộ huyện ùa tới gỡ các ngón tay Kim-Một-Vú đan vào nhau như gọng kìm, giải phóng cho huyện trưởng Lỗ. Kim-Một-Vú lại lết đến bên nhân vật bự. Lỗ Lập Nhân kiên quyết:
- Lôi nó đi!
Thằng Câm quay ngược khẩu pạc-hoọc gõ một phát vào thái dương Kim-Một-Vú, chỉ một cái gõ chị ta đã ngã lăn ra, mắt trợn ngược, bầu vú duy nhất chĩa thẳng lên bầu trời u ám.
- Ai còn nỗi khổ nào không? - Phán Đệ hỏi to.
Dưới sân một người cất tiếng khóc. Đó là ông già Từ Tiên Nhi, tay chống cây gậy trúc vàng óng.
- Đỡ ông già lên bục! - Phán Đệ nói to.
Không ai đến dìu ông tạ Ông mù khóc, dùng gậy dò đường, mò mẫm bước lên bục. Cây gậy của ông ta dò đến đâu mọi người tranh nhau dãn ra đến đó. Hai cán bộ bước xuống kéo ông ta lên.
Từ Tiên Nhi cầm gậy bằng hai tay, vì uất hận, ông ta chọc gậy liên hồi xuống mặt đất. Mặt đất lỗ chỗ những vết gậy.
- Nói đi, bác Từ! - Phán Đệ nói.
Từ Tiên Nhi nói:
- Thưa trưởng quan, quả thực các ông báo thù cho lão chứ?
Chị Phán Đệ nói: - Cụ cứ yên tâm. Vừa nãy chẳng phải chúng tôi đã báo thù cho Trương Đức Thành rồi đấy sao?
Từ Tiên Nhi nói:
- Để tôi nói. Cái thằng khốn kiếp Tư Mã Khố đã bức tử vợ tôi, khiến mẹ tôi uất mà chết, hắn nợ tôi hai mạng người?...
Nước mắt ứa ra từ cặp mắt ông già mù.
- Bác cứ nói. - Lỗ Lập Nhân nói.
- Năm Dân quốc thứ mười lăm, mẹ tôi đã bỏ ra ba mươi đồng bạc trắng cưới vợ cho tôi, đó là con gái của bà ăn xin ở thôn tây. Mẹ tôi bán bò, lợn, hai tạ lúa mạch, đổi lấy ba mươi đồng bạc trắng đưa cho bà ăn mày. Ai cũng bảo vợ tôi xinh xắn, nhưng chính cái đẹp đã gây tai họa! Khi ấy Tư Mã Khố cũng khoảng mười sáu mười bảy chứ mấy. Hắn không chịu học, ỷ vào quyền thế của gia đình, cứ đến nhà tôi xoành xoạch, hát xướng, chơi hồ cầm, rồi đưa vợ tôi đi xem hát, trên đường trở về hắn cưỡng đoạt vợ tôi... Sau đó vợ tôi nuốt thuốc phiện tự tử, mẹ tôi uất quá thắt cổ chết.. Tư Mã Khố nợ tôi hai mạng người, xin Chính phủ phân xử việc này cho tôi?...
Ông mù quì trên bục.
Một cán bộ khu kéo ông ta đứng dậy. Ông ta nói:
- Không trả thù cho tôi thì tôi cứ quì ở đây!
- Bác ơi - Lỗ Lập Nhân nói - Tư Mã Khố chạy đâu cho thoát bắt được nó chúng tôi sẽ giải oan cho bác!
Ông mù nói:
- Tư Mã Khố như con chim diêu bay cùng trời cuối đất, các ông không bắt được nó đâu? Tôi yêu cầu Chính phủ cứ là mạng đổi mạng, bắn bỏ con trai và con gái nó. Thưa ông huyện trưởng, lão biết ông và Tư Mã Khố có hơi hướng gia đình, nếu ông là Bao Thanh Thiên thì xin ông chuẩn y lời đề nghị của tôi. Nếu ông còn tình nghĩa riêng tư thì tôi xin về nhà treo cổ tự vẫn, để Tư Mã Khố khỏi hành hạ tôi khi hắn trở lại!
Lỗ Lập Nhân đắng họng, cố phân bua:
- Bác ơi, nợ có đầu oan có chủ, ai làm người ấy chịu. Tư Mã Khố hại người thì chỉ có thể là Tư Mã Khố phải đền mạng, trẻ con không có tội!
Ông mù chọc gậy xuống đất nói:
- Bà con đã nghe rõ chưa? Đừng bao giờ bị mắc lừa, Tư Mã Khố chạy rồi, Tư Mã Đình trốn rồi, con cái của chúng chả mấy chốc mà lớn lên, huyện trưởng Lỗ với hắn là anh em cọc chèo, phải thân với nhau chứ! Bà con ơi, lão Từ này sống với một cây gậy, chết thành thức ăn cho chó, bà con không bì được với tôi đâu. Bà con, đừng mắc lừa..
Phán Đệ giận dữ quát:
- Thằng mù ăn nói bậy bạ cái gì thế?
Từ mù nói:
- Cô nương Phán Đệ, họ Thượng Quan nhà cô quả là giỏi! Thời Nhật thì có chàng rể Sa Nguyệt Lương đắc thế, thời Quốc dân đảng có rể thứ hai Tư Mã Khố đắc thế, bây giờ có cô và Lỗ Lập Nhân đắc thế. Gia đình cô không bao giờ bị mất ngọn cờ, không bao giờ bị lật thuyền. Rồi đây người Mỹ chiếm Trung Quốc, gia đình cô còn có chàng rể tây...
Tư Mã Lương mặt trắng nhợt, túm chặt tay mẹ. Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng rúc vào nách mẹ. Sa Tảo Hoa khóc, Lỗ Thắng Lợi cũng khóc. Chị tám Ngọc Nữ là người khóc cuối cùng.
Tiếng khóc của chúng khiến người trên bục và dưới sân để ý. Nhân vật bự cũng nhìn chúng chằm chằm. Từ Tiên Nhi tuy mù nhưng rất chuẩn xác quì trước mặt nhân vật bự, gào khóc:
- Thưa trưởng quan, hãy phân xử cho lão mù này?
Lão vừa khóc vừa dập đầu lia lịa, trán lão dính đầy đất.
Lỗ Lập Nhân nhìn nhân vật bự bằng con mắt cầu cứu. Nhân vật bự lạnh lùng nhìn anh ta, cái nhìn sắc như dao. Lỗ Lập Nhân mồ hôi chảy đầy mặt, mất hẳn cái vẻ ung dung thanh thoát, khi thì cúi nhìn cái đầu ngón chân, chốc lại ngẩng nhìn những người dưới sân phơi anh ta không đủ dũng khí nhìn thẳng vào mặt nhân vật bự.
Thượng Quan Phán Đệ cũng mất đi vẻ oai vệ của một trưởng khu, mặt đỏ như gấc, môi dưới run bần bật như lên cơn sốt. Chị chửi bới như một mụ nhà quê đanh đá:
- Lão Từ kia, lão định làm loạn phỏng? Gia đình ta có chỗ nào đắc tội với lão? Con vợ thối thây của lão đã mồi chài Tư Mã Khố, bậy bạ với nhau trong ruộng lúa mạch bị người ta tóm được không còn mặt mũi nhìn mọi người, nên mới uống thuốc phiện mà chết! Ta còn nghe nói lão cắn xé cô ta suốt đêm như một con chó. Vợ lão đã cho biết bao nhiêu người xem những vết cắn thâm tím ở ngực, lão có biết không. Bức hại vợ lão chính là lão. Tư Mã Khố có tội nhưng thủ phạm là lão. Nếu tử hình, trước tiên đem lão ra bắn bỏ!
- Thưa trưởng quan! - Từ mù nói - Ông nghe thấy chưa, cháy nhà ra mặt chuột.
Lỗ Lập Nhân vội đỡ đòn cho Phán Đệ. Anh ta định kéo Từ Tiên Nhi xuống nhưng Từ Tiên Nhi như cục kẹo kéo, lôi dậy người dài ra, buông tay người vón cục. Lỗ Lập Nhân nói:
- Bác ơi, bác đề nghị bắn bỏ Tư Mã Khố là đúng, nhưng đòi bắn bỏ con cái của Tư Mã Khố là sai, trẻ con không có tội!
Từ Tiên Nhi cãi:
- Triệu Giáp làm gì có tội? Triệu Giáp chẳng qua chỉ là anh thợ bếp lò? Chẳng phải Triệu Giáp có chút tư thù với Trương Đức Thành đấy sao? Chẳng phải là các người nói bắn là lôi ra bắn đó sao? Thưa ông huyện trưởng, không bắn chết con cháu Tư Mã Khố thì lão không chịu!
Những người dưới sân bảo nhau:
- Bà cô của Triệu Giáp là mẹ đẻ Từ Tiên Nhi, hai người là anh em họ.
Lỗ Lập Nhân cười ngượng, dè dặt tới bên nhân vật bự, lúng búng điều gì đó với ông tạ Nhân vật bự xoay xoay cái nghiên mục, không nói nửa câu, nhưng hai vết hằn bên khóe miệng kéo dài xuống tận dưới cằm và cái bĩu môi của ông ta thì đầy sát khí. Lỗ Lập Nhân lại lúng túng trình bày gì đó. Lúc này cặp mắt trắng đã của ông ta ngước lên nhìn Lỗ Lập Nhân, cất giọng rè rè nói rất to:
- Cái chuyện vặt này mà phải làm hộ anh sao?
Lỗ Lập Nhân rút khăn tay lau mồ hôi trên trán, hai tay quài ra sau thắt chặt dải vải đen, mặt vàng bệch, ra phía trước bục, lớn tiếng tuyên bố.
- Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, thực hiện ý nguyện của nhân dân. Bây giờ tôi xin trưng cầu ý kiến của các vị, ai đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố thì giơ tay lên?
Phán Đệ giận dữ chất vấn Lỗ Lập Nhân:
- Anh điên hay sao?
Phía dưới, mọi người cúi gằm, không ai giơ tay, cũng không ai nói gì.
Lỗ Lập Nhân đưa mắt hỏi ý kiến nhân vật bự.
Nhân vật bự thoáng nét cười nhạt trên khuôn mặt, bảo Lỗ Lập Nhân:
- Anh hỏi lại lần nữa, ai không đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố?
Lỗ Lập Nhân hỏi: - Ai không đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố thì giơ tay?
Quần chúng vẫn im lặng, đầu cúi gằm, không giơ tay, không ai nói câu gì.
Mẹ chậm rãi đứng lên, nói:
- Từ Tiên Nhi, nếu dứt khoát phải đền mạng thì xin bắn chết tôi! Mẹ Ông không thắt cổ chết, mà chết vì băng huyết. Nguồn gốc bệnh của bà là từ thời loạn thổ phỉ để lại.
Nhân vật bự đứng dậy đi vào phía trong.
Lỗ Lập Nhân vội vã đuổi theo.
Trên một khoảnh đất trống phía sau bục, nhân vật bự lúc nói chậm lúc nói nhanh, cánh tay khẳng khiu mềm oặt của ông ta lúc giơ lên lúc hạ xuống, như một lưỡi dao chém vào không khí.
Các vệ sĩ xúm xít xung quanh, hộ tống ông ta bỏ đi. Lỗ Lập Nhân đứng như trời trồng, đầu cúi gằm. Anh ta đứng rất lâu rồi như sực tỉnh, lê những bước nặng nề, đờ dẫn trở về vị trí huyện trưởng của anh tạ Anh ta nhìn chúng tôi bằng ánh mắt điên dại, nhìn rất lâu, trông thật đáng thương. Lâu lắm, anh ta mới mở được miệng, ánh mắt thì như con bạc khát nước, nói:
- Tôi tuyên bố, tử hình con trai Tư Mã Khố là Tư Mã Lương, lập tức thi hành; tử hình hai con gái Tư Mã Khố là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng, lập tức chấp hành!
Người mẹ chúi một cái, nhưng mẹ vẫn đứng vững. Mẹ nói:
- Để ta xem mày có dám không?
Mẹ Ôm chặt Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng. Tư Mã Lương nhanh nhẹn nằm rạp xuống đất rồi bò lùi. Mọi người lắc lư làm như không để ý, che khuất cho Tư Mã Lương bỏ trốn.
- Tôn Bất Ngôn? - Lỗ Lập Nhân quát to - Sao không chấp hành mệnh lệnh của tôi?
Phán Đệ chửi: - Anh lú lẫn rồi, lệnh gì mà như thế!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Tôi không lú lẫn, tôi rất tỉnh? - Anh ta vừa nói vừa đấm vào đầu.
Thằng Câm ngần ngại buộc xuống bục, theo sau là hai đội viên của tiểu khu.
Tư Mã Lương bò ra khỏi đám đông, lách giữa hai trạm gác rồi chạy vụt lên đê.
- Chạy rồi, chạy rồi. - Các đội viên trên bục kêu lên. Các lính gác hạ súng trên vai xuống, kéo cơ bẩm, đẩy đạn lên nòng, rồi bắn mấy phát chỉ thiên. Tư Mã Lương mất hút trong những lùm cây lúp xúp trên đê.
Thằng Câm dẫn các đội viên, gạt những tấm lưng đen đủi ken nhau, đến trước mặt chúng tôi. Hai đứa con câm của hắn - Câm Anh, Câm Em - giương đôi mắt cô độc và ngạo mạn nhìn hắn. Hắn giơ vuốt trước như thép nguội ra, mẹ nhổ vào mặt hắn một bãi nước bọt. Hắn rụt tay lại chùi nước bọt trên mặt, chùi xong lại chìa tay ra, mẹ lại nhổ bãi nữa nhưng lần này súc yếu hơn, nước bọt chỉ đến ngực hắn. Hắn ngoảnh lại nhìn những người đứng trên bục. Lỗ Lập Nhân hai tay chắp sau lưng, đi đi lại lại. Phán Đệ thì ngồi xổm, hai tay bưng mặt. Các cán bộ huyện và khu thì nét mặt vô cảm như tuồng đất. Cái cằm dưới rắn như thép của Thằng Câm lập bập như thường ngày, miệng quát:
- Cởi, cởi, cởi?
Mẹ ưỡn ngực, thét lên chói tai:
- Thằng súc sinh, giết tao trước đi!
Mẹ xông tới trước mặt Thằng Câm cào vào mặt hắn. Mặt hắn xuất hiện bốn rãnh màu trắng, sau đó máu từ trong rãnh tứa ra.
Thằng Câm vuốt mặt một cái rồi đưa ngón tay ra trước mặt ngây ra mà nhìn, hình như để xem cái gì dính trên ngón taỵ Xem xong, hắn lại đưa ngón tay lên mũi - cái mũi sư tử - để ngửi, hình như để biết trên ngón tay có mùi gì. Ngửi xong, hắn thè lại liếm đầu ngón tay như để xem mùi vị nó ra sao. Lát sau, hắn ầu ầu lên mấy tiếng, đấm mẹ một quả, mẹ ngã bay về phía chúng tôi.
Chúng tôi vừa khóc vừa phủ phục trên mình mẹ.
Thằng Câm xách từng đứa chúng tôi quẳng sang một bên. Tôi rơi trên lưng một phụ nữ, Sa Tào Hoa rơi trên bụng tôi. Lỗ Thắng Lợi rơi trên lưng một ông già. Chị Tám rơi trên vai một bà lão. Câm anh đeo dưới cánh tay của bố nó, bố nó vẩy rất mạnh cũng không rơi, nó bám chặt cổ tay không nhả. Câm em thì ôm chặt chân Thằng Câm Bố, cắn vào gối của bố. Bố nó hất chân, Câm em bay vào đầu một ông trung niên. Thằng Câm Bố giằng mạnh tay, Câm Anh văng ra, kéo theo trong miệng một miếng thịt của Câm Bố, rơi đánh bộp vào lòng một bà lão
Thằng Câm tay trái xách Tư Mã Phượng, tay phải xách Tư Mã Hoàng đi như đi trong bùn lầy, chân giơ cao rồi mới đặt xuống. Hắn đi đến trước cái bục, giơ tay trái quẳng Tư Mã Phượng lên, giơ tay phải quẳng Tư Mã Hoàng lên. Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng gào khóc, miệng gọi bà ngoại. Hai đứa muốn trườn xuống nhưng bị thăng Cầm chặn lại. Mẹ lồm cồm bò dậy loạng choạng chạy tới nhưng vừa được hai bước, mẹ ngã lăn ra.
Lỗ Lập Nhân dừnglại, giọng thê thảm:
- Các ông các bà nghèo khổ ơi, các vị nói đi, Lỗ Lập Nhân tôi có còn là con người hay không Bắn chết hai đứa trẻ này, trong lòng tôi như thế nào? Tôi đau lắm, xót xa lắm! Chúng nó là trẻ con, huống hồ lại là thân thích với tôi! Nhưng chính bởi vì chúng là họ hàng, tôi buộc phải rớt nước mắt mà tử hình chúng! Các ông các bà ơi, hãy tỉnh lại, tử hình con cái Tư Mã Khố là chúng ta không còn đường lui nữa. Thoạt nhìn, chúng ta bắn hai đứa trẻ, kỳ thực không phải là đứa trẻ, mà là chế độ lạc hậu cũ kỹ, chúng ta bắn là bắn cái chế độ đó, bắn hai dấu hiệu đó? Các ông các bà ơi, hãy vùng lên, không cách mạng thì là phản cách mạng, không có còn đường thứ ba!
Anh ta nói to quá nên ho sặc sụa, mặt đỏ gay, nước mắt ràn rụa. Một cán bộ huyện bước tới định đấm lưng cho anh ta, nhưng anh ta khoát tay từ chối. Rồi anh ta cũng điều khiển được nhịp thở, nhổ nước bọt, hổn hển như mắc bệnh lao, nói:
- Chấp hành đi!
Thằng Câm nhảy lên bục, hai tay kẹp hai đứa trẻ rảo bước đến bờ đầm. Hắn đặt hai đứa xuống rồi lùi lại hơn chục bước. Hai đứa trẻ ôm lấy nhau, khuôn mặt hẹp và dài như bôi lên lớp phấn vàng, bốn con mắt nhỏ xíu kinh hoàng nhìn Thằng Câm. Thằng Câm rút khẩu pạc-hoọc ra từ từ giơ lên, bàn tay hắn đầy máu run run như khẩu súng nặng đến hai mươi cân, vất vả mới giơ được lên. Pằng, hắn bắn một phát, cổ tay cầm súng nẩy lên một cái đầu nòng bốc khói, cánh tay hắn lập tức nhũn ra, viên đạn bay trên đầu hai đứa trẻ, làm bắn tung một chỗ bùn trên đầm.
Một phụ nữ với hai bàn chân không bị bó, người hơi nghiêng như thuyền buồm ăn gió, chạy như bay theo con đường mòn kẹp giữa hai vạt cỏ rậm, vừa chạy vừa gào thét như con gà mái chạy đến bảo vệ cho đàn con. Tôi nhận ra đó là chị Cả, vì chị từ chân đê chạy tới. Chị được coi là tâm thần không bình thường nên không dự đại hội đấu tranh. Là vợ chưa chết của Hán gian Sa Nguyệt Lượng, chị đáng bị đem xử bắn. Nếu mọi người biết chị đã từng nhất dạ phong lưu với Tư Mã Khố, chị đáng bị bắn hai lần. Tôi lo thay cho chị. Chị đang đâm đầu vào lưới. Chị chạy thẳng đến ven đầm, đứng chặn trước mặt hai đứa trẻ:
- Bắn tôi đi, giết tôi đi! - Chị gào thét điên cuồng - Tôi đã từng qua đêm với Tư Mã Khố, tôi chính là mẹ của chúng.
Cái hàm dưới của Thằng Câm lại lập cập dữ dội, chứng tỏ sóng gió đang nổi lên trong lòng hắn. Hắn chĩa súng, quát bằng giọng khàn khàn:
- Cởi, cởi, cởi!
Không chút do dự, chị Cả cởi nút áo để lộ cặp vú tuyệt mỹ của chị, Thằng Câm giương to mắt, cằm dưới của hắn như rơi xuống đất vỡ thành từng mảnh, to như cục gạch, nhỏ như mầu gạch. Hàm dưới mà mất, Thằng Câm trông thật dáng sợ. Hắn lấy tay nâng hàm dưới, chỉ sợ nó rơi xuống, nói mà không phải nghĩa như thế:
- Cởi, cởi, cởi?
Chị Cả ngoan ngoãn cởi bỏ áo, mình trần. Mặt chị đen nhưng mình thì trắng, trắng như ngà. Trong bầu không khí u ám, chị thi gan với Thằng Câm. Thằng Câm ngập ngừng đi tới, đi tới ngay trước mặt chị, một thằng đàn ông như đúc bằng thép phút chốc tan ra nước như người tuyết dưới ánh nắng mặt trời, chân một nơi tay một ngả, ruột lòng thòng như những con rắn, chỉ còn mỗi trái tim đỏ rực được nâng bằng hai tay là đang đập. Gắng gượng lắm những bộ phận đó mới trở về vị trí cũ thành hình người nguyên vẹn. Thằng Câm quỳ trước mặt chị Cả, hai tay ôm vòng mông của chị, hôn lấy hôn để cái rốn của chị.
Trước tình huống bất ngờ đó, bọn Lỗ Lập Nhân giương mắt nhìn nhau, miệng như bị bỏng, tay như chạm phải gai nhím. Dân chúng nhìn trộm về phía đầm, không hiểu tâm trạng của họ ra sao.
- Tôn Bất Ngôn! - Lỗ Lập Nhân ngán ngẩm cất tiếng gọi, nhưng Thằng Câm không thèm để ý.
Phán Đệ nhảy xuống bục chạy tới ven đầm nhặt chiếc áo cánh khoác lên người chị Cả. Chị định lôi chị Cả đi, nhưng nửa người dưới của chị Cả đã gắn chặt vào Thằng Câm, Phán Đệ gỡ ra sao được? Phán Đệ quay ngược báng súng đập vào vai Thằng Câm. Thằng Câm ngẩng mặt lên, nét mặt dịu dàng, nước mắt lưng tròng.
Sự việc xảy ra sau đó cho đến nay vẫn còn là một ẩn số có đến mười mấy nghiệm, không ai biết đích xác thật giả như thế nào. Giữa lúc chị Phán Đệ ngẩn người trước cặp mắt đầy lệ của Thằng Câm; giữa lúc chị em con Phượng líu ríu ôm nhau đứng dậy tìm bà ngoại, giữa lúc mẹ tỉnh lại - vừa kêu vừa chạy tới ven đầm; giữa lúc Từ Tiên Nhi nói: Ông huyện trưởng, đừng giết chúng, mẹ tôi không thắt cổ chết, vợ tôi chết không phải hoàn toàn do Tư Mã Khố, giữa lúc hai con chó hoang đang cắn nhau trong căn nhà bỏ hoang của người đàn bà Hồi; giữa lúc tôi đang nhớ lại khung cảnh ngọt ngào mà ấm ức bên máng cỏ, miệng tôi mặn mùi bụi đất ở đầu vú chị Cả và cái đầu vú nẩy như cao su của chị, thì có hai người cưỡi ngựa lướt tới như một cơn lốc. Hai con ngựa, một con trắng như tuyết, một con đen như mun. Người cưỡi ngựa trắng mặc áo đen, che nửa mặt dưới bằng vuông vải đen, đầu đội mũ đen. Người cưỡi ngựa đen mặc áo trắng, che nửa mặt dưới bằng vuông vải trắng, đầu đội mũ trắng. Mỗi người hai tay hai súng, tài cưỡi ngựa thì tuyệt diệu, hai chân thẳng băng trên mình ngựa, người hơi ngả về phía trước. Khi gần đến ven đầm, họ bắn một băng lên trời, các cán bộ huyện khu hoảng sợ đến nỗi nằm rạp dưới đất. Họ điều khiển dây cương cho ngựa lượn một vòng, thân ngựa hơi nghiêng vẽ thành một vòng cung đẹp mắt. Mỗi người trong họ nổ một phát súng rồi bỏ đi, đuôi ngựa bay bay, như sương như mù, chỉ chớp mắt đã biến mất, quả là đến như gió xuân, đi như gió thu, hư hư thực thực y như một giấc mộng! Họ đi rồi, mọi người mới dần dần định thần lại. Kết quả cuối cùng là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng mỗi đứa bị một phát đạn vào đầu viên đạn từ trán chui ra gáy, lỗ đạn không sai nhau mảy may, mọi người ngạc nhiên thán phục mãi.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 26
Ngày đầu tiên khi rút lui, dân chúng mười tám thôn trấn vùng Cao Mật dắt ngựa ôm gà, dìu già dắt trẻ, tập trung ở bãi đất phèn ở bờ bắc sông Thuồng Luồng. Mặt đất phủ một lớp vảy như những mảnh băng chưa tan. Những loại cây cỏ chịu được mặn như cỏ lác, cỏ mao, cây sậy thì cành lá khô héo, lắc lư trong gió lạnh. Những con quạ thích ồn ào sà thấp trên đầu mọi người mà nhòm ngó, thậm chí còn kêu vang quạ quạ như những thi sĩ lãng mạn.
Bị giáng chúc làm phó huyện trưởng, Lỗ Lập Nhân đứng trên bệ tế ở đầu nấm mộ của vị cử nhân Đan Đình đời Tiền Thanh, gân cổ ra mà gào bài phát biểu có tính động viên cho cuộc rút lui. Chủ đề diễn thuyết của anh ta là: Mùa đông năm nay đã bắt đầu, vùng Cao Mật trở thành chiến trường, không sơ tán đi nơi khác thì cầm chắc cái chết? Lũ quạ đậu kín những cây tùng, đậu trên các mộ, trên người đá ngựa đá. Chúng quà, chúng quạ ầm ĩ, phá đám cuộc diễn thuyết của Lỗ Lập Nhân, khiến dân chúng càng kinh hoảng, góp phần tăng thêm quyết tâm cùng chính quyền huyện, khu rút chạy.
Một tiếng súng nổ vang, cuộc rút chạy bắt đầu. Đám người đông như kiến ồn ào tản ra. Thế là lừa kêu ngựa hí, gà bay chó chạy, bà già khóc mếu, trẻ con kêu gào: Một thanh niên nhanh nhẹn tay cầm cờ đỏ, cưỡi ngựa trắng, chạy ngược chạy xuôi trên con đường đất phèn kéo dài vô tận về phía dông bắc, chốc chốc lại phất ngọn cờ chỉ hướng cho dòng người tiến lên. Đi đầu là đơn vị gồm hơn chục con la chở hồ sơ giấy má của huyện phủ, dưới sự điều khiển của hơn chục chú lính, uể oải cất bước. Cuối đoàn la là những con lạc đà còn lại từ thời Tư Mã Khố, với bộ lông dài bẩn thỉu màu vàng xỉn, thồ hai hòm sắt tây. Ở vùng Cao Mật đã lâu, nó đang từ lạc đà biến thành trâu. Đi liền sau lạc đà, là đội dân phu khênh cỗ máy in của huyện và một số máy móc của xưởng sửa chữa cơ khí huyện. Hơn chục dân phu, đều là đàn ông, quần áo đều mỏng, trên vai mỗi người đều có tấm đệm vai hình lá sen. Qua bước chân loạng choạng và cái dáng mắm môi mắm lợi của họ, thì biết máy móc rất nặng.
Sau đội dân công, là đội ngũ tạp nham của dân chúng. Đám cán bộ huyện, khu như Lỗ Lập Nhân và Phán Đệ thì cưỡi lừa hoặc ngựa chạy lên chạy xuống trên những vạt đất phèn, cố duy trì tình trạng có trật tự. Nhưng mặt đường quá hẹp, quá chật chội, mà hai bên đường thì lại rộng rãi bằng phẳng, dân chúng bèn bỏ con đường, mở rộng đội hình theo hàng ngang dẫm lép bép trên những vảy đất đi về hướng đông bắc. Ban đầu là một cuộc rút lui, nhưng nhanh chóng biến thành một cuộc tháo chạy vô cùng lộn xộn.
Cả nhà tôi bị kẹt trong dòng người đông đặc, lúc thì đi trên đường, về sau cùng không rõ là đang đi trên đường hay đi dưới ruộng. Mẹ đeo bao đay trước ngực, đẩy chiếc xe cút kít bánh gỗ hai càng cách nhau khá xa, mẹ phải đang rộng tay hết cỡ. Hai chiếc sọt hình hộp buộc hai bên xe, sọt bên trái là Lỗ Thắng Lợi và chăn gối, quần áo của cả nhà, sọt bên phải là Câm anh và Câm em. Tôi và Sa Tảo Hoa mỗi người một bên, vịn vào sọt mà đi cùng xe. Chị Tám mù thì bám vạt áo mẹ, lếch thếch đi cuối cùng. Chị Lai Đệ lúc tỉnh lúc lú thì đi trước xe, vai khoác dây, lưng gập lại, cổ ươn ra như kiếp trâu kéo. Chiếc xe rít kin kít chói tai, mẹ và chị Cả thở như kéo bễ, bàn chân nhỏ khiến chị và mẹ cực kỳ vất vả. Ba đứa trẻ trên xe đầu ngất ngưỡng, quay hết bên nọ đến bên kia xem cảnh huyên náo. Chúng tôi dẫm chân lên đất phèn lạo xạo, mũi ngửi mùi mặn của muối, lúc đầu rất thú, nhưng đi được vài dặm thì đầu váng mắt hoa, chân tay bủn rún, mồ hôi ướt đầm trong nách. Con dê trắng khỏe mạnh như lừa của tôi ngoan ngoãn theo sau, nó rất hiểu ý người, không cần dùng đến thừng chạc. Hôm ấy có gió bấc nhẹ nhưng buốt như cắt tai. Trên cánh đồng mênh mông cuộn lên những làn bụi trắng. Đó là hỗn hợp của muối, phèn và kiềm. Vào mắt, mắt chảy nước, vào da, da đau rát, ăn vào miệng thì chẳng ngon lành gì? Mọi người ngược gió mà đi, mắt nhíu lại. Những dân phu khiêng máy người ướt đẫm quần áo, nhất loạt biến thành người trắng. Mẹ cũng đã thành người trắng, lông mi lông mày trắng toát, tóc cũng trắng.
Khi tiến vào vùng trũng và ẩm ướt, bánh xe chuyển động khó khăn. Chị Cả phía trước đánh vật với con đường, sợi dây kéo hằn sâu vào thịt. Không trông thấy mặt chị, chỉ nhìn thấy lưng áo mồ hôi từng mảng. Tiếng thở của chị khiến người ta phát hoảng. Còn mẹ thì sao? Nói rằng đẩy xe, thực ra mẹ chẳng khác Chúa Giêsu chịu cực hình.
Cặp mắt u buồn của mẹ đẫm nước mắt. Nước mắt trộn mồ hôi chảy từng vệt dài trên mặt mẹ. Chị Tám đeo sau mẹ như một cái bị. Chúng tôi để lại phía sau vết hằn rất sâu của bánh xe, nhưng nó lại bị xóa hoặc mờ đi bởi những bánh xe, chân người và gia súc của những toán đi sau. Phía trước, phía sau, bên phải, bên trái chúng tôi đều là những người tị nạn. Những khuôn mặt quen và không quen đều trở nên mơ hồ. Tất cả đều vất vả, người vất vả ngựa vất vả, lừa vất vả. Tương đối dễ chịu là con gà mái trong bọc bà lão, và con dê của tôi. Nó nhanh nhẹn, trên đường đi nó tranh thủ ăn được một ít lá khô.
Mặt trời rọi những tia nắng xuống mặt đất nhiễm phèn, ánh phản quang làm lóa mắt, làn sáng trắng đi động trên mặt đất từng mảng màu bạc. Cánh đồng hoang mênh mông làm cho phía trước giống như biển bắc trong truyền thuyết.
Đến trưa, y như bệnh hay lây, mọi người không ai bảo ai mà cũng chẳng hiệu lệnh nào cả, nhất loạt ngồi xuống nghỉ. Không có nước, cổ họng khô bỏng, lưỡi rát như bị dao cứa, đưa đẩy trong miệng rất khó khăn. Mũi phả hơi nóng nhưng lưng và bụng thì lạnh toát, gió thổi khô mồ hôi, quấn áo cứng như tôn lá. Mẹ ngồi trên một càng xe, lấy trong sọt một cái bánh bột ngô, bẻ đôi chia cho chúng tôi. Chị Cả cắn một miếng, đôi môi khô nẻ của chị tóe máu, vài giọt thấm vào bánh. Ba sinh vật nhỏ trên xe mặt mày xanh tái chẳng khác lũ quỉ trong đền, chẳng còn ra hình người. Chúng không chịu ăn, cau có. Chị Tám nhe hàm răng trắng, đều dặn, nhấm từng tí một chiếc bánh khô cứng.
Mẹ thở dài, nói:
- Đây là những chủ trương tốt đẹp của các ông bố bà mẹ yêu quí của các cháu?
Sa Tảo Hoa sụt sịt:
- Ngoại ơi, mình về nhà đi! Mẹ nhìn đoàn người đông như kiến cỏ mà thở dài, không nói gì. Mẹ bảo tôi:
- Kim Đồng, từ nay phải thay đổi cách ăn.
Mẹ lấy trong bọc ra chiếc bình gốm có in ngôi sao năm cánh đi đến phía sau con dê, dùng tay phủi sạch cát bụi trên vú nó. Con dê không chịu, mẹ bảo tôi ôm lấy đầu nó. Tôi ôm lấy cái đầu lạnh như đá của nó, xem mẹ vắt sữa. Sữa rỏ tưng giọt vào bình. Con dê chắc là không thoải mái, nó đã quen với việc cho tôi nằm ngửa dưới bầu vú nó mà bú. Cái đầu nó lắc lắc trong tay tôi, lưng nó cong lên, cựa quậy như con rắn. Mẹ nhắc lại câu nói mà tôi rất sợ:
- Kim Đồng, khi nào thì con có thể ăn cơm?
Những năm tháng qua tôi đã từng ăn thử, nhưng dù tôi ăn những thức ngon đến mấy, dạ dày tôi vẫn không chịu, ăn vào là nôn ọe, nôn ra mật xanh mật vàng. Tôi xấu hổ nhìn mẹ, tự kiểm điểm nghiêm khắc bản thân, vì cái tật này mà thêm biết bao phiền toái cho mẹ, đồng thời cho tôi. Tư Mã Lương đã từng hứa chữa khỏi tật này cho tôi, nhưng từ khi nó bỏ trốn, tôi không gặp lại nó. Bộ mặt láu cá và đáng yêu của nó ẩn hiện trước mặt tôi. Lổ đạn có vết gỉ đồng xanh trên trán Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng phát ra những tia đáng sợ. Tôi nhớ lại khung cảnh hai đứa nằm chung trong một quan tài nhỏ bằng gỗ liễu. Mẹ lấy miếng giấy hồng điều dán vào lỗ đạn, biến vết đạn thành nốt ruồi trang điểm của người.
Mẹ đã vắt được nửa bình sữa, đứng dậy tìm cái chai mà ngày trước cô Đường cho Sa Tảo Hoa bú, mở nút, đổ sữa vào chai. Mẹ đưa chai sữa cho tôi. Để khỏi phụ lòng mong mỏi của mẹ, vì tự do và hạnh phúc của tôi, tôi kiên quyết nhét đầu vú cao su màu vàng nhạt vào miệng. Chiếc đầu vú cao su không súc sống làm sao sánh được bầu vú màu phấn hồng đẹp tuyệt của mẹ tôi, đó là sự yêu thương, là thơ ca, là bầu trời cao vời vợi, là mảnh đất thuần hậu dập dềnh sóng lúa; cũng không sánh được bầu vú to tướng, căng phồng, đầy những vết tàn nhang của con dệ Bầu vú cao su là một vật chết, tuy bóng loáng nhưng không mịn màng. Cái đáng sợ nhất là nó là không mùi vị. Một cảm giác lạnh tanh và lờm lợm trong miệng. Vì mẹ và vì bản thân, tôi cố nén cảm giác ngán ngẩm, cắn nó một cái, nó hăng hái rít lên một tiếng khe khẽ, một ít sữa mằn mặn rỉ ra một cách khó khăn thấm trên khoang miệng và đầu lưỡi tôi. Tôi lại ti một ngụm nữa. Tôi nhủ thầm: ngụm này cho mẹ, ngụm này cho Kim Đồng. Tôi tiếp tục ti, vì Lai Đệ này, vì Lãnh Đệ này, vì Tưởng Đệ này, vì tất cả những người trong nhà Thượng Quan đã yêu tôi, đã thương tôi, đã giúp đỡ tôi vì Tư Mã Lương, thằng nhỏ thông minh nhanh này, cũng có quan hệ máu mủ gì với nhà Thượng Quan chúng tôi. Tôi nín thở, dùng công cụ đưa chất nuôi sống vào cơ thể. Khi tôi đưa trả mẹ cái chai, nước mắt ràn rụa trên mặt mẹ. Chị Lai Đệ cười sung sướng. Sa Tảo Hoa nói:
- Cậu lớn rồi!
Tôi cố gắng kiềm chế cảm giác buồn nôn và cái đau âm ỉ ở dạ dày, coi như không có chuyện gì xảy ra, tiến lên vài bước như một trang tu mi nam tử và đứng đái theo chiều gió, và hứng lên, tôi bơm chất nước màu vàng đó đi thật xạ Tôi trông thấy con đê: trên sông Thuồng Luồng nằm vắt ngang, cái nóc nhọn của nhà thờ và cây bạch dương chọc trời của nhà Tư Phạm. Chúng tôi vất vả cả một buổi sáng, vậy mà chỉ mới đi được một đoạn đường ngắn đến thảm hại.
Bị giáng xuống làm Chủ nhiệm Hội phụ nữ cứu quốc khu, chị Phán Đệ cưỡi con ngựa chột mắt trái, trên mông phải có đóng đấu bằng chữ số ả rập, từ phía tây đi đến. Con ngựa của chị vẹo cổ một cách quái gở, vụng về cất bước với những bộ vó lóng ngóng phát ra những tiếng lạch cạch, khập khiễng đi lại chỗ chúng tôi. Nó là con ngựa ô đực, sau khi bị thiến, nó trở thành con ngựa thái giám, giọng the thé, tính tình quái đản. Bốn chân và cái bụng của nó dính một lớp đất phèn màu trắng, yên cương thấm đẫm mồ hôi bốc lên mùi chua loét. Trong một thời gian dài, con ngựa rất nhu mì, nhu mì đến nỗi bọn trẻ tinh nghịch có thể vặt lông đuôi của nó. Nhưng một khi nó đã nổi máu thì có thể làm những chuyện động trời.
Mùa hè năm ngoái, khi ấy là thời đại của Tư Mã Khố, nó cắn một miếng vào đầu Phùng Lan Chi, con gái ông lái ngựa Phùng Quí, cô bé đã tưởng không sống được, trán và sau gáy để lại những vết sẹo khủng khiếp. Loại ngựa như vậy lẽ ra phải giết quách, nhưng nghe nói nó từng lập chiến công nên ân xá. Nó đứng trước cỗ xe nhà tôi, giương con mắt độc nhỡn nhìn con dê của tôi. Con dê của tôi cảnh giác lùi lại chỗ có đất phèn dày nhất, liếm những phấn trắng trên mặt đất. Chị Phán Đệ vẫn tỏ ra nhanh nhẹn dù rằng cái bụng của chị đã lùm lùm. Chị xuống ngựa. Tôi nhìn bụng chị, đoán thử hình dáng đứa trẻ trong đó, nhưng không đoán nổi, chỉ nhìn thấy những vết ố trên bộ quân phục màu xám của chị.
- Không nên dừng lại ở đây. Mẹ Ơi, chúng con đã chuẩn bị nước nóng, cơm trưa ở thôn trước mặt, ta phải đến đó - Phán Đệ nói.
Mẹ nói:
- Phán Đệ, mẹ bảo này, mẹ không muốn rút với các con nữa!
Phán Đệ cuống quít lên:
- Mẹ, dứt khoát không được, quân địch trở lại lần này hoàn toàn khác với những lần trước, một ngày giết bảy ngàn người ở khu vực Bột Hải. Bọn Hoàn Hương Đoàn hiếu sát, giết cả mẹ đẻ.
Mẹ nói:
- Tao không tin lại có người giết cả mẹ đẻ.
Chị Phán Đệ nói:
- Mẹ, dù thế nào chăng nữa cũng không thể để mẹ quay lại, quay lại là tự đâm đầu vào lưới, chắc chắn là chết! Mẹ không lo cho mẹ thì thôi, nhưng phải nghĩ đến những đứa này chứ?
Chị lấy trong xắc cốt cái lọ nhỏ mở nút đổ ra mấy viên thuốc màu trắng đưa cho mẹ, nói:
- Đây là vitamin, một viên bằng một cây cải bẹ và hai quả trứng, mẹ, khi nào mệt mỏi chịu không nổi thì mẹ uống một viên, chia cho bọn trẻ một viên. Ra khỏi vùng đất phèn là đường dễ đi, bà con Bắc Hải sẽ nhiệt tình đón tiếp chúng tạ Mẹ, đi ngay đi, đừng ngồi ở đây nữa!
Chị túm lấy bờm ngựa, lồng chân vào bàn đạp nhảy lên yên vội vã chạy đi, vừa chạy vừa nói to:
- Bà con ơi, dậy mà đi, trước mặt là Vương Gia Khưu, có nước nóng có dầu mỡ, có củ cải có hành tây, chuẩn bị sẵn cả rồi!...
Được khuyến khích, mọi người đứng dậy, tiếp tục cuộc hành trình.
Mẹ lấy khăn tay gói mấy viên thuốc chị Phán Đệ cho, bỏ vào túi, rồi vớ lấy hai càng xe:
- Nào, ta đi các con.
Đội quân rút lui ngày càng dài ra, nhìn trước không thấy đầu, nhìn sau không thấy cuối. Chúng tôi đã tới Vương Gia Khưu. Vương Gia Khưu không có nước nóng cũng không có dầu, càng không có củ cải hành tây! Đội la của huyện đã rời đây trước khi chúng tôi đến, cỏ khô và phân la vung vãi là vết tích của họ để lại. Dân chúng đốt đống lửa ở giữa sân để nướng lương khộ Mấy đứa con trai dùng cành cây đào hành dại ở ngoài đồng. Khi chúng tôi rời Vương Gia Khưu thì bắt gặp Thằng Câm dẫn hơn chục đội viên đi vào. Hắn không xuống ngựa, móc trong túi hai củ khoai lang chín dở và một củ cải đỏ ném vào sọt trên xe, suýt bươu đầu Thằng Câm em.
Tôi đặc biệt chú ý cái cười nhe cả lợi của hắn với chị Cả, cái cười của sài lang hổ báo? Gì thì chị Cả từng đính hôn với hắn. Những người có mặt không bao giờ quên màn trình diễn kinh hồn giữa hắn với chị bên bờ đầm. Các đội viên đều đeo súng tiểu liên, Thằng Câm đeo lủng lẳng trước ngực bốn quả địa lôi đen bóng.
Khi mặt trời gác núi, chúng tôi kéo theo cái bóng dài lê thê, lần tới một thôn nhỏ. Trong sân tiếng người ồn ào tất cả các ống khói của các gia đình đều tuôn khói trắng. Nhân dân nằm đầy đương, ngổn ngang như củi. Một số cán bộ mặc quần áo xám len lỏi giữa đám đông. Bên giếng nước đầu thôn, người xếp hàng dài chờ lấy nước, người len vào đã đành, súc vật cũng len vào. Mùi nước giếng trong lành khiến mọi người phấn chấn, con dê của tôi cũng hếch mũi lên, hắt hơi rõ tọ Chị Lai Đệ cầm cái bát rạn vừng men xanh, nghe nói cái bát này là đồ cổ có giá len vào lấy nước. Mấy bận đã tưởng chị len vào được lại bị người ta dẩy bật ra. Một dân phu làm cấp dưỡng cho huyện nhận ra chúng tôi, bèn xách đến một thùng nước. Sa Tảo Hoa và chị Cả là những người đầu tiên chạy tới quì xuống vục đầu vào trong thùng uống nước, vội đến nỗi cụng đầu vào nhau. Mẹ không bằng lòng, trách chị Cả:
- Cho bọn nhỏ uống trước chứ!
Chị Cả sững lại, Sa Tảo Hoa đã uống ừng ực như con bê, chỉ khác con bê ở chỗ hai tay bám lấy mép thùng.
- Thôi cháu, uống ít thôi kẻo đau bụng - Mẹ khuyên, nắm vai nó đẩy ra.
Nó liếm môi như vẫn còn thèm, nước reo ùng ục trong bụng nó. Chị Cả uống một trận, lúc đứng lên, bụng chị lớn hơn nhiều. Mẹ múc nước bằng bát cho Câm anh, Câm em và Sa Tảo Hoa uống. Sau đó là chị Tám, chị đánh hơi lần đến chỗ thùng nước, quì xuống, vục đầu mà uống. Mẹ hỏi:
- Kim Đồng, con có uống không?
Tôi lắc đầu. Mẹ múc một bát nước. Tôi thả con dê, nó rất muốn xông tới, nhưng bị tôi ôm chặt cổ. Con dê của tôi khát nước là đúng vì nó ăn rất nhiều đất phèn, nó cắm đầu uống, nước trong thùng cạn rất nhanh, bụng nó thì phình dần lên. Ông già cấp dưỡng vô cùng cảm khái, nhưng ông chỉ thở dài không nói gì. Mẹ cảm ơn ông ta, ông thở dài càng dữ.
- Mẹ, sao mẹ đến muộn thế? Chị Phán Đệ phê bình mẹ.
Mẹ không giải thích. Chúng tôi đẩy xe, dắt dê đi theo chị, quanh co luồn lách giữa đám đông, nghe đủ những lời nguyền rủa và oán trách, cuối cùng vào trong một cái sân có tường vây bằng đất, cổng gỗ. Phán Đệ giúp mẹ bế mấy đứa trẻ ra khỏi sọt. Chị định đưa cái xe và con dê ra ngoài, nơi có mười mấy con lừa và ngựa, rơm cỏ chẳng có, thức ăn thì không, lũ lừa ngựa đành gặm vỏ cây. Chúng tôi để xe trong ngõ, con dê theo tôi vào trong sân. Phán Đệ nhìn tôi không nói gì, chị biết con dê là nguồn sống của tôi.
Gian giữa ánh đèn sáng trưng, một bóng người to lớn dưới ánh đèn. Các cán bộ huyện đang tranh cãi điều gì đó, trong đó có tiếng khàn khàn của Lỗ Lập Nhân. Ngoài sân, mấy chú lính bồng súng đứng gác, không chú nào đứng thẳng vì chân bị đau. Trời đầy sao, màn đêm nặng trĩu. Phán Đệ dẫn chúng tôi vào một gian chái, trên tường treo ngọn đèn leo lét. Một bà già nằm ngay ngắn trong chiếc quan tài mở nắp, thấy chúng tôi vào, bà mở mắt bảo:
- Làm ơn đậy nắp lại hộ tôi, tôi phải chiếm cái nhà này của tôi!
Mẹ nói:
- Bà ơi, sao bà lại làm vậy?
Bà già nói:
- Hôm nay là ngày lành tháng tốt của tôi, làm ơn đậy cái nắp lên hộ tôi một tí.
Phán Đệ nói:
- Phiên phiến thôi mẹ, so với ngủ ngoài đường còn tốt chán!
Đêm ấy chúng tôi ngủ không ngon giấc. Cuộc tranh cãi ngoài gian giữa đến nửa đêm mới chấm dứt. Tranh cãi vừa dứt thì ngoài đường có tiếng súng nổ, cảnh nhốn nháo vừa tạm yên thì giữa thôn có đám cháy, ngọn lửa phần phật như những dải lụa đỏ, soi rõ mặt mọi người, soi rõ cả khuôn mặt bà già nằm trong quan tài. Lúc trời sáng, bà già không động cựa gì cả, mẹ gọi, bà không mở mắt, bắt mạch thì thấy bà lão đã chết. Mẹ nói:
- Số như vậy là số tiên!
Mẹ và chị Cả đậy nắp quan tài cho bà lão.
Mấy ngày tiếp theo lại càng gian khổ. Khi tới chân núi Đại Trạch, mẹ và chị Cả đã phồng rộp cả hai bàn chân. Câm anh và Câm em đều bị họ Lỗ Thắng Lợi bị sốt và đi ỉa chảy. Mẹ nhớ tới mấy viên thuốc của chị Năm, liền nhét một viên vào miệng nó. Chỉ có chị Tám tội nghiệp là chẳng ốm đau gì. Đã hai ngày nay chúng tôi không trông thấy bóng dáng của chị Phán Đệ. Cán bộ huyện, khu cũng không thấy một ai. Một bận trông thấy Thằng Câm, hắn cõng một đội viên bị thương từ phía sau chạy lên. Người đó gãy cả hai chân, máu rỏ giọt xuống đường qua hai ống quần rỗng, khóc mếu nài nỉ Thằng Câm:
- Đội trưởng giúp tôi một tí cho thanh thản, đau chết mất, mẹ Ơi!
Khoảng ngày thứ năm kể từ khi chạy nạn, chúng tôi trông thấy dãy núi lớn phía bắc, trên núi có những lùm cây, đỉnh núi hình như có một cái miếu nhỏ. Từ con đê Thuồng Luồng sau nhà, vào những hôm đẹp trời, tôi có thể nhìn thấy quả núi này, nhưng khi đó nó có màu xanh đen. Ngọn núi đã ở trước mặt, hình thế của núi, khí hậu mát mẻ của núi khiến chúng tôi hiểu rằng mình đã rời quê rất xạ Chúng tôi đi trên con đường rải đá rất rộng, trúc mặt có một chi đội người ngựa đi ngược chiều, các binh sĩ ăn mặc như binh sĩ của trung đoàn 17. Bộ đội đi ngược chiều chứng tỏ ở quê chúng tôi đã trở thành chiến trường. Sau đội kỵ mã là bộ binh, sau bộ binh là những con la kéo pháo, đầu nòng cắm một bó hoa, các pháo thủ vênh váo ngồi trên nòng pháo. Sau pháo là đội cứu thương. Sau đội cứu thương là những xe nhỏ xếp hàng hai, trên xe là những bao bột mì hoặc bao gạo, ngoài ra còn có một số bao cỏ.
Những người dân tị nạn vùng Cao Mật sợ hãi đứng nép hai bên nhường đường cho đại quân. Trong đoàn bộ binh, có mấy người đeo súng pạc-hoọc tách ra khỏi đội ngũ, đến hỏi thăm tình hình trong đám dân tị nạn. Anh thợ cắt tóc Vương Siêu đẩy cỗ xe bánh cao su rất thời thượng, dọc đường đã trải qua ung dung, nhưng đến đoạn đường này thì anh ta gặp vận xui. Một chiếc xe trong đội vận chuyển Lương thảo bị gãy trục, người đàn ông đẩy xe tuổi trung niên lật nghiêng xe, tháo cái trục ra ngắm nghía mãi, hai bàn tay đen sì dầu mỡ. Làm bò kéo xe là một thiếu niên khoảng mười lăm tuổi trên đầu có cái nhọt mạch lươn, hai khóe mép lở loét, mình mặc chiếc áo cộc không có cúc, thắt lưng băng sợi dây thừng.
Chú hỏi:
- Sao vậy, bố?
Thì ra đó là hai bố con. Người bố mặt mày rầu rĩ, nói:
- Trục gãy rồi, con ạ!
Hai cha con hè nhau lôi cái bánh xe nặng chịch ra.
- Bố ơi làm thế nào bây giờ - chú hỏi.
Người bố ra chỗ cây bạch dương bên đường, chùi tay vào vỏ cây:
- Chẳng còn cách nào? Lúc này, một người đeo tiểu liên, cụt một tay, mặc quân phục mỏng đã cũ nhưng trên đầu lại đội một chiếc mũ da chó, người nghiêng nghiêng đi tới.
- Vương Kim, Vương Kim! - Người cụt tay giận dữ quát - sao tụt lại đằng sau hả? Có phải anh định làm mất mặt đại đội gang thép của chúng tôi?
- Thưa chỉ đạo viên - Vương Kim nhăn nhó - Xe tôi gãy trục rồi?...
Chỉ đạo viên cụt tay giận điên lên:
- Đ. mẹ, không gãy vào lúc khác mà lại nhằm vào lúc ra mặt trận? Đã bảo anh phải kiểm tra xe cho kỹ?
Chỉ đạo viên cụt tay càng nói càng cáu, khuôn mặt xám ngoét của anh ta khiến tôi lại nhớ tới Sạ nguyệt Lượng. Anh ta giơ cánh tay đặc biệt phát triển đánh Vương Kim một bạt tai. Vương Kim ối lên một tiếng, gục đầu xuống, máu chảy ra từ hai lỗ mũi.
- Ông là ai mà đánh bố tôi? - Chú bé chất vấn chỉ đạo viên. Chỉ đạo viên nói.
- Sao, không chịu hả? Giao Lương không đúng kỳ hạn thì tao bắn chết cả hai bố con!
Chú thiếu niên nói:
- Ai muốn gãy trục xe làm gì? Nhà cháu nghèo, chiếc xe này cháu mượn của cô cháu.
Vương Kim moi một ít bông trong tay áo đứt nút lỗ mũi, lầu bầu:
- Chỉ đạo viên, ông bất chấp cả lẽ phải!
- Lẽ phải nào? - chỉ đạo viên nghiêm mặt hỏi - đưa được lương thực ra mặt trận là lẽ phải, không đưa được lương thực ra mặt trận là không có lẽ phải. Các người đừng có ca cẩm nữa, dù phải cõng phải vác, cũng phải đưa hai trăm bốn mươi cân kê này tới trấn Đào Quan trong ngày hôm nay!
Vương Kim nói:
- Chỉ đạo viên, ông thường hay nói phải thực tế hai trăm bốn mươi cân... cháu lại nhỏ... tôi van ông đấy
Chỉ đạo viên ngẩng lên nhìn mặt trời, cúi xuống xem đồng hồ, ngoảnh nhìn ra tứ phía, bất chợt trông thấy cỗ xe nhà tôi, nhìn tiếp thấy cỗ xe bánh cao su của Vương Siêu. Vương Siêu có nghề cắt tóc kiếm tiền cũng khá, lại độc thân, có tiền mua thịt mua cá, dinh dưỡng tốt nên mặt mũi đầy đặn, nước da hồng hào chẳng ra dáng người làm ruộng. Chiếc xe nhỏ bánh cao su của anh ta, một bên là cái hòm đựng đồ nghề cắt tóc, bên kia là chiếc chăn hoa, bên ngoài chiếc chăn còn được bọc một tấm da chó. Chiếc xe được đóng bằng gỗ hòe gai; đánh một lớp véc ni, gỗ hòe nhẵn bóng, không những đẹp mắt mà còn rất thơm. Trước khi lên đường, anh ta còn bơm bánh xe thật căng đi trên đường rải đá, chiếc xe nhảy tâng tâng, xe nhẹ người khỏe, trong bọc giắt bình rượu, đi vài dặm lại gác càng xe mở nút làm vài ngụm, chân nhẹ tênh, miệng nghêu ngao dăm câu hát, anh ta là quí tộc trong đám dân tị nạn. Cặp mắt đen của chỉ đạo viên đảo như chớp, vừa mỉm cười vừa bước tới tỏ vẻ thân thiện:
- Các vị từ đâu tới?
Không ai trả lời anh ta, vì rằng khi hỏi câu ấy, anh ta nhìn vào cây bạch dương, thân cây có vết dầu mỡ mà anh dân phu vừa bôi lên. Những cây bạch dương màu xám, cây nọ tiếp cây kia, các cành vươn lên cao trong tư thế chọc trời. Nhưng ánh mắt anh ta nhanh chóng chuyển sang Vương Siêu, nét thân thiện trên mặt biến mất, thay vào đó là thái dộ nghiêm nghị như tượng trong đền.
- Anh thành phần gì? - Anh ta nhìn khuôn mặt bóng nhẫy của Vương Siêu hỏi.
Vương Siêu choáng váng, không hiểu đầu đuôi ra sao.
- Trông bộ anh - Anh cụt tay nói như đinh đóng cột - không địa chủ thì cũng là phú nông, không phú nông thì tiểu chủ, nghĩa là cái loại người ngồi mát ăn bát vàng chứ không sống bằng sức lao động của mình.
- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Oan cho tôi, tôi là thợ cắt tóc, sống bằng tay nghề, nhà chỉ có hai gian, ruộng không có, vợ con cũng không, một người ăn, no cả nhà, ăn hôm nay không biết có ngày mai. Nơi tôi vừa vạch xong thành phần, trên khu qui tôi là thợ thủ công, tương đương trung nông lớp dưới, thành phần cơ bản mà!
- Nói láo - Anh cụt tay nói - anh bẻm mép như vẹt cũng không qua được mắt tôi. Chúng tôi trưng dụng cái xe của anh!
Anh ta quay lại gọi cha con Vương Kim:
- Mau dỡ hàng xuống, chất lên xe này!
- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Chiếc xe này tôi tích cóp nửa đời người mới có, ông không được tước đoạt người nghèo.
Anh cụt tay nổi giận nói:
- Vì thắng lợi, ông đã hiến cả cánh taỵ Cái xe rách của anh đáng mấy đồng? Các chiến sĩ ngoài tiền tuyến đang chờ lương thực mà anh dám chống lệnh hả?
- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Ông với tôi không cùng khu, cũng không cùng huyện, ông quyền gì mà trung dụng xe của tôi?
Anh cụt tay nói:
- Huyện nào khu nào cũng phải phục vụ tiền tuyến!
Vương Siêu nói:
- Không được, tôi không đồng ý!
Anh cụt tay quì một chân xuống đất, rút bút máy ra, dùng miệng mở nắp bút, lại lấy ra một mảnh giấy bằng bàn tay đặt lên đùi, nguệch ngoạc viết mấy chữ, hỏi:
- Anh tên gì? Huyện nào, khu nào?
Vuông Siêu trả lời từng điểm một.
Anh cụt tay nói:
- Tôi với Huyện trưởng Lỗ Lập Nhân là chiến hữu. Thế này nhé, xong trận này anh đưa giấy này cho ông ta, ông ta sẽ đền cho anh một chiếc xe.
Vương Siêu chỉ vào chúng tôi, nói:
- Thưa ông, đây là mẹ vợ Lỗ huyện trưởng, đây là cả gia đình!
Anh cụt nói:
- Bác ơi, nhờ bác làm chúng hộ, nói rằng tình hình khẩn cấp, chỉ đạo viên Quách Mạt Phúc của Đoàn dân công chi viện tiền tuyến khu Bột Hải có trưng dụng một chiếc xe của Vương Siêu, đề nghị anh Lỗ giải quyết chuyện đền bù cho thỏa đáng!
- Tốt rồi - Anh cụt nhét mảnh giấy vào tay Vương Siêu rồi giận dữ quát cha con Vương Kim - Còn chần chừ gì nữa? Mẹ kiếp! Giao lương không đúng hẹn, cha con anh thì ăn roi, còn tôi thì ăn đạn!
Quách Mạt Phúc chỉ vào mũi của Vương Siêu, nói:
- Mau dỡ đồ đạc của anh xuống!
Vương Siêu nói: - Thưa ông, ông bảo tôi làm thế nào bây giờ?
Quách Mạt Phúc vỗ tay vào báng súng lục, sầm mặt lại nói:
- Cứ phải lẩy cho anh một phát vào đầu mới xong phải không? Dỡ xuống! Mẹ kiếp, sao mà giác ngộ thấp thế! Tôi từng uống rượu tiết gà, kết bạn sinh tử với huyện trưởng nhà anh, anh xấu hay tốt tôi chỉ cần đá lưỡi một cái là xong!
Vương Siêu nhăn nhó nhìn mẹ:
- Bác ơi, bác làm chứng cho tôi nhé?
Mẹ gật đầu.
Cha con Vương Kim đẩy chiếc xe của Vương Siêu, vui như mở cờ trong bụng.
Anh cụt lịch sự gật đầu chào mẹ, không thèm ngó Vương Siêu - người đã hiến chiếc xe, rảo bước chạy theo đội ngũ.
Vương Siêu ngồi phịch xuống bó chăn, mặt dài như mặt khỉ, lẩm bẩm một mình: Sao mà mình xui thế không biết? Người khác chẳng sao, lại rơi đúng vào đầu mình? Mình có chơi xấu ai đâu mà đến nông nỗi này! Nước mắt chảy dài theo cặp má phúng phính, anh ta khóc như đứa trẻ lên ba.
Chúng tôi đã tới dưới chân quả núi lớn, con đường rải đá tẽ thành hơn chục con đường nhỏ ngoằn ngoèo bò lên núi. Buổi tối, những người tị nạn tụm năm tụm ba bàn luận những tin tức trái ngược nhau bằng đủ các giọng. Đêm ấy, mọi người ngủ qua đêm trong các bụi quán mộc. Từ mạn nam và mạn bắc vọng tới những tiếng nổ nặng nề, những tia chớp đầu nòng xé rách màn đêm. Vào lúc nửa đêm, không khí quánh lại và ẩm ướt, gần như có thé quơ tay mà nắm như nắm những sợi bông. Gió như những con rắn, luồn theo khe núi trơn tới, rung những lá vàng còn dính trên cây xào xạc. Tiếng cáo kêu thê tham trong hang. Tiếng hú của những con sói trong khe núi. Những đứa trẻ sắp chết rên như tiếng mèo hen. Ông già ho như gõ thanh lạ Đúng là một đêm kinh khủng. Lúc trời sáng đã thấy mấy xác chết vứt trong khe núi, trẻ con có, người già có có cả trung niên. Cả nhà tôi sống sót là do chúng tôi đã chiếm được một bụi cây khá đặc biệt: những cây khác rụng hết lá, riêng nó thì còn nguyên, lại còn có một đống cỏ khô rất dày. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau, chiếc chăn duy nhất trùm lên dấu, con dê nằm sát sau lưng thành một bức tường che gió cho tôi. Cơ cục nhất là lúc nửa đêm về sáng, pháo nổ đùng đoàng phía nam càng tăng thêm cảnh tĩnh mịch trong những bụi cây, tiếng rên như cứa vào tim, khiến người nổi gai ốc, tai ong ong như có tiếng hát bội trong đó. Thực ra, đó là tiếng khóc ti tỉ của một phụ nữ.
Sương mù bám lấy chiếc chăn lạnh giá trên đầu. Trời mưa, mưa đông, những hạt mưa rơi trên chăn, mưa rơi loạt soạt trên những lá vàng khô của bụi quán mộc, rơi trên sườn núi, trên đầu dân tị nạn, rơi trên bộ lông vàng rộm và dày của những con sói đang hú. Hạt mưa rơi giữa chừng biến thành bột xốp, đến mặt đất lập tức đóng thành băng, hạt mưa tí tách, bóng đêm chứa ẩn bao điều huyền bí. Tôi chợt nhớ lại cái đêm ông ba Phàn giơ cao ngọn đuốc dẫn đắt chúng tôi ra khỏi cõi chết. Ngọn đuốc như con ngựa hồng nhảy nhót trong đêm tối. Đêm ấy tôi chìm trong hơi ấm của sữa, ôm bầu vú vĩ đại mà tưởng mình bay lên thiên đàng. Giờ đây ảo mộng đáng sợ lại bắt đầu. Luồng sáng màu vàng xuyên qua màn đêm như luồng ánh sáng trên máy chiếu phim của. Bác-bít, côn trùng bay trong luồng sáng như những chám trắng, một phụ nữ tóc dài tha thướt, áo màu mây hồng đính hàng ngàn vạn viên ngọc lấp lánh, lúc thì giống chị Lai Đệ, lúc giống Tiên Chim, lúc lại gíông Kim-Một-Vú, đột nhiên lại biến thành bà người Mỹ. Bà ta mỉm cười dịu dàng, ánh mắt sao mà đẹp, duyên dáng, mê hoặc, như đớp lấy hồn người ta, những giọt nước mắt lấp ló bên bờ mi, hàng lông mày cong vút, hàm răng trắng bóng cắn nhẹ môi dưới, đôi môi đỏ hồng. Sau đó bà lần lượt cắn nhẹ các ngón tay tôi, cắn nhẹ các ngón chân tôi. Thấp thoáng cái eo nhỏ, cái rốn xinh xinh như hạt anh đào. Tôi nhìn ngọc lên và bất giác nước mắt đâm đìa, nức nở thành tiếng: Hai bầu vú như đúc bằng vàng khối nạm hai viên ngọc thấp thoáng sau làn áo mỏng. Tiếng nói của người dẹp từ trên cao dội xuống, lạy đi, thằng nhỏ nhà Thượng Quan, đây là Thượng đế của nhà ngươi. Thì ra Thượng đế là hai bầu vú. Thượng đế có thể biến hóa, biến hóa đến vô cùng, anh mê say cái gì, Thượng đế sẽ biến thành nó để anh xem, nếu không, sao gọi là Thượng đế? Tôi không vươn tới được Người, Người cao quá!
Thế là bà ta sà thấp xuống, vén làn áo mỏng trước mặt tôi, mỏng như nước, vấn vương quanh núi. Thân hình bà chập chờn bất định, cặp vú Thượng đế của tôi có lúc chạm vào trán tôi, có lúc quệt ngang má tôi, nhưng không bao giờ chạm vào môi tôi. Tôi máy lần dưới lên như con cá vọt lên mặt nước, miệng há to nhưng toàn đớp hụt. Tôi giận dỗi, tôi sốt ruột, nhưng là giận dỗi trong hạnh phúc, sốt ruột trong hy vọng tràn trề. Bà mỉm cười, nụ cười ranh mãnh và đầy quyến rũ. Tôi không ghét sự ranh mãnh đó, vì sự ranh mãnh đó là mật ong, là búp sen hình bầu vú, là quả thảo mai ngậm sương có hình búp sen, là bầu vú có hình quả thảo mai bôi mật ong. Cái lúm đồng tiền của bà làm tôi mê mấn, chỉ một tiếng cười khiến tôi cảm động tới mức quì xuống ăn phân chó. Vì bà, tôi có thể ăn phân chó, dù rằng tôi là thằng con trai sống toàn bằng sữa. Bà không nên dập dờn như thế, tôi xin bà cho tôi cắn vào bà, tôi nguyện cùng bà bay lên chín tầng mây xem những con Ô Thước bắc cầu. Vì bà tôi có thể nắn miệng thành mỏ, khuôn mặt trở nên gớm ghiếc, trên người mọc lông tơ, hai vai mọc đôi cánh, hai chân mọc thêm vuốt, bọn trẻ nhà Thượng Quan chúng tôi, ai cũng có cảm tình với loài chim. Vậy thì người hãy mọc lông mọc cánh đi! Thế là toàn thân tôi đau đớn một cách kỳ lạ và sốt cao vì mọc lông mọc cánh.
- Kim Đồng, Kim Đồng!
Mẹ đang gọi tôi. Mẹ kéo tôi ra khỏi ảo giác. Mẹ và chị Cả xoa bóp chân tay tôi trong bóng tối, kéo tôi trở về từ chỗ ranh giới giữa cái sống và cái chết.
Trời mờ sáng. Tiếng khóc vang lên trong các bụi cây. Mọi người dùng tiếng khóc để biểu thị sự xót thương đối với người chết. Dưới tán lá khô vàng của bụi quán mộc và cái chăn có phủ lớp vải dầu, trái tim của bảy người trong gia dình tôi đang đập. Số thuốc của chị Phán Đệ cho, mẹ chia cho mỗi người một viên. Tôi không uống, mẹ nhét viên thuốc vào miệng con dệ Nó nuốt viên thuốc rồi ăn những lá khô trên bụi quán mộc. Băng bám đầy trên lá, trên cành cây, phủ một lớp trong suốt lên những hòn đá quạ dưới khe núi, tất cả đều phủ một lớp băng mỏng. Không có gió, mưa lạnh tiếp tục rơi, cành cây loạt soạt đường trên núi bóng loáng có thể soi gương.
Một người tị nạn dắt con lừa, trên lưng con lừa là cái xác của một phụ nữ, định men theo một lối mòn lên núi. Con lừa của anh ta ngã lên ngã xuống vì trượt chân.
Anh ta giúp con lừa, nhưng dùng súc quá mạnh nên ngã theo. Người và lừa trở nên lóng ngóng, cái xác của người phụ nữ lăn xuống khẹ Trong thung lũng, một con báo gấm đang ngậm một cái xác trẻ con, đầu nặng đít nhẹ nên con báo ngất ngưỡng nhảy trên những tảng đá, nó nhảy liên tiếp cho khỏi ngã xuống nước. Người phụ nữ tóc xõa vừa gào khóc vừa đuổi theo con báo. Chị vừa lăn vừa bò trên tảng đá đóng băng, cằm rách, răng cửa gãy, gáy rỉ máu, móng tay gãy, cổ chân bị trẹo gân, tay trật khớp, lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo, nhưng chị không cho con báo được thở, đuổi đến cùng cuối cùng, chị tóm được đuôi con báo.
Mọi người rơi vào cảnh khó khăn, cử động là ngã, không cử động thì chết cóng. Không ai muốn chết, vậy là cái ngã đã làm mất mục tiêu của cuộc rút chạy. Ngôi miếu nhỏ trên đỉnh núi đã biến thành một đốm trắng lấp lánh, cây cối trên sườn núi cũng biến thành màu trắng. Trên độ cao ấy, mưa lạnh đã biến thành tuyết. Mọi người không dám trèo lên, chỉ loay hoay dưới chân núi. Chúng tôi nhìn thấy thi thể anh thợ cắt tóc Vương Siêu dưới gốc cây tượng thụ, anh ta dùng thắt lưng treo cổ dưới cành thấp nhất, cành cây cong như cánh cung, có thể gãy bất cứ lúc nào. Ngón chân anh ta chớm mặt đất chiếc quần dài tụt xuống đầu gối, chiếc áo khoác ngoài phủ kín mông nên không đến nỗi khó coi. Tôi chỉ nhìn thoáng qua khuôn mặt to bè tím ngắt và cái lưỡi lè ra như một mẩu vải rách rồi vội quay mặt đi. Vậy mà những hình ảnh ấy cứ ám ảnh tôi trong giấc ngủ. Không ai để ý đến anh tạ Mấy người có vẻ hiền lành đang tranh nhau cái chăn và tấm da chó của anh tạ Giằng đi kéo lại cuối cùng cắn xé nhau. Người to con đột nhiên hét tướng lên, cái tai vểnh của anh ta đã bị người bé nhỏ cắn đứt. Người bé nhỏ nhổ cái vành tai vào lòng bàn tay, cầm lên ngắm nghía, quăng trả người to con, rồi anh ta ôm bọc chăn và tấm da chó bỏ chạy, khéo léo tìm chỗ đặt anh sao cho khỏi ngã. Anh ta chạy đến bên một ông già, ông già giơ cây chống càng xe vụt cho anh ta một cái vào đầu. Anh ta ngã lăn ra như một bao tải gạo. Ông già tựa lưng vào thân cây, tay cầm cây gậy ba chạc bảo vệ cái chăn. Mấy kẻ liều mạng định đến cướp nhưng bị Ông già chọc nhẹ một cái là ngã chổng bốn vó. Ông già mặc chiếc áo bông dài, thắt quanh người sợi thừng to bự, đầu thừng lủng lẳng cái tẩu và túi đựng thuốc hút. Ông có chòm râu bạc trắng bám đầy băng.
- Không sợ chết thì cứ xông vào!
Ông già thét chói tai, mặt dài ra, mắt đổi màu xanh lục. Mọi người hoang mang dãn ra.
Mẹ quyết định dứt khoát:
- Quay về, về nhà! Mẹ dựng xe lên rồi chập choạng đẩy đi. Trục xe sau khi bị nước mưa rít lên chói tai khi lăn bánh. Chúng tôi ra những người đầu têu. Nhiều người, cứ lặng lẽ đi theo chúng tôi, có người nhanh chóng vượt cả chúng tôi, lại rong ruổi trên con đường trở về quê cũ.
Băng vỡ dưới bánh xe, băng bắn sang hai bên, trời bổ sung bằng mưa lất phất, rồi đột nhiên trong mưa có những cục đá đánh rát vành tai và da mặt, cuối cùng là mưa đá. Cánh đồng hoang mênh mông rào rào như xay lúa. Chúng tôi giữ nguyên cung cách như khi đi, mẹ đẩy xe, chị Cả làm bò, gót chân chị nút nẻ gần như trông thấy xương. Chị kéo xe mà như múa ương cạ Mỗi khi xe bị chao nghiêng, chị cũng chao nghiêng, lần nào cũng như lần nào. Lục phản hồi của sợi thừng kéo căng làm chị ngã liền mấy bận. Chị vừa kéo vừa khóc hu hụ Tôi và Sa Tảo Hoa cũng khóc. Mẹ không khóc, hai mắt thâm quầng, mẹ mắm môi mắm lợi dồn hết tinh lục, vừa thận trọng vừa kiên quyết biến hai bàn chân tí xíu như hai bàn xẻng nhỏ tí bám mặt đất tiến lên từng bước chắc chắn. Chị Tám lặng lẽ đi sau mẹ, tay túm vạt áo, lon ton như một quả cà ủng trôi theo dòng nước.
Con dê của tôi là một con dê sáng giá. Nó theo tôi không rời nửa bước. Nó cũng ngã xoành xoạch, nhưng mỗi lần ngã lại bật dậy ngay lập tức. Để bảo vệ bầu vú cho nó, mẹ lấy miếng vải trắng trùm ngược vú, thắt hai nút trên lưng, lại còn lồng vào giữa hai miếng da thỏ để giữ hơi ấm. Tấm da thỏ khiến người ta nhớ lại thời kỳ yêu như điên như cuồng của Sa Nguyệt Lượng. Con dê ứa nước mắt, mũi phát ra những tiếng rên rỉ, đó là ngôn ngữ của nó. Hai tai nó nứt nẻ vì băng giá, bốn chân màu phấn hồng. Từ khi bầu vú được che ấm, nó trở thành con dê hạnh phúc nhất. Miếng vải và tấm da thỏ, ngoài tác~ dụng giữ hơi ấm, còn là vật để đỡ vú. Đó là một sáng tạo. Sau này, khi tôi là chuyên gia về nịt vú, tôi đã thiết kế kiểu nịt vú da thỏ cho phụ nữ vùng cao rét buốt.
Chúng tôi trở về với những bước chân vội vã, dự kiến giữa trưa thì về tới chỗ đường rải đá có ca bạch dương. ánh nắng chưa chọc thủng mây, nhưng đất trời đã hửng sáng. Con đường rải đá long lanh như ngọc lưu lỵ Sau đó, băng mỏng bị những bông tuyết thay thế. Mặt đường, ngọn cây, đồng ruộng hai bên đường, rất nhanh chuyển sang màu trắng. Thường xuyên gặp những xác chết trên đường, xác người và xác súc vật, đôi khi có cả xác chim sẻ, chim thước, gà rừng. Chỉ có chim quạ là không chết, trên nền tuyết trắng, bộ lông con quạ càng đen nhánh. Chúng mổ xác chết, mỏ bị đau nên cất tiếng kêu than thở.
Vận may đã đến. Đầu tiên là tôi nhặt được nửa bao thức ăn gia súc, bã đậu trộn với cám mạch. Con dê ăn một bữa căng bụng, chỗ còn thừa để trên chân Câm anh, Câm em, che gió và tuyết cho chúng. Con dê ăn xong, liếm tuyết, nhìn tôi gật đầu. Tôi hiểu nó định nói gì.
- Tiếp tục tiến lên?
Sa Tảo Hoa nói nó ngửi thấy mùi lúa mạch cháy. Mẹ động viên nó lần theo mùi đó mà tìm, trong một căn nhà nhỏ dùng để trông phần mộ, chúng tôi lượm được hai bao lương khô trên người một binh sĩ đã chết. Thấy người chết nhiều nên không còn cảm giác sợ. Chúng tôi quyết định ngủ lại trong căn nhà đó. Mẹ và chị Cả kéo cái xác anh lính trẻ ra ngoài. Anh ta tự sát. Anh ta ôm súng trong lòng, miệng ngậm đầu nòng, dùng ngón chân cái lòi ra ngoài bít tất đẩy cò cho súng nổ. Viên đạn phá vỡ xương chẩm phía sau gáy. Chuột gặm hết tai của anh ta, gặm cả mũi, xương ngón tay trắng hếu như cành liễu bị bóc vỏ. Khi mẹ và chị Cả kéo cái xác ra ngoài, lũ chuột vằn mắt chạy theo. Để cảm ơn anh lính đã cho lương khô, mẹ dùng lưỡi lê của anh ta đào một cái huyệt nông choèn trên mặt đất băng giá chôn phần đầu của anh ta xuống đấy. Nấm đất nhỏ đối với vua đào hang là lũ chuột chỉ là trò đùa, nhưng lòng mẹ cũng đôi phần thanh thản.
Căn nhà chỉ chứa nổi cả nhà tôi và con dệ Chúng tôi dùng xe chặn cửa. Mẹ Ôm khẩu súng trường dính óc của anh lính ngồi ngoài cùng. Lúc trời sắp tối, từng tốp dân tị nạn định chen vào trong đó không ít người có máu đạo tặc nhưng nhìn thây cây súng lăm lăm trong tay mẹ, họ đều sợ hãi bỏ đi. Một người đàn ông miệng rộng, mắt gườm gườm nhìn mẹ vẻ khinh miệt, hỏi:
- Biết bắn không? - Anh ta vừa hỏi vừa xông vào nhà. Mẹ giơ súng cản lại, mẹ không biết bắn. Chị Lai Đệ giăng lấy khẩu súng trong tay mẹ, giật cơ bẩm, cái vỏ đạn văng ra; đẩy cơ bẩm một viên đạn lên nòng, bẻ gập qui lát xuống, chĩa súng phía trên đầu hói đàn ông nổ một phát. Viên đạn cùng với tia lửa vút lên trời. Động tác thành thạo khiến tôi nhớ lại trang sử vẻ vang của chị trong những năm tháng cùng Sa Nguyệt Lượng nam chinh bắc chiến. Người đàn ông miệng rộng bỏ chạy như chó ăn đòn. Mẹ nhìn chị Lai Đệ băng ánh mắt cảm kích rồi nhích vào phía trong, nhường vị trí canh gác cho chị.
Đêm ấy tôi ngủ rất ngon, mãi khi mặt tròi tỏa nắng trên đại lục tuyết mới tỉnh dậy. Tôi muốn quì xuống van nài mẹ không nên rời căn nhà này, căn nhà mà phía trước có ngôi mộ sùng sững, không nên rời rừng tùng đen đội mũ bằng tuyết trắng. Đây là nơi đất lành, là phúc địa. Nhưng mẹ đã lên đường, khẩu súng có nước thép xanh dựng bên Lỗ Thắng Lợi, dưới tấm chăn rách. Trên đường, tuyết đầy đến nửa thước, lạo xạo dưới mỗi bước chân của chúng tôi và dưới bánh xe. Vấp ngã giảm hẳn, chúng tôi đi nhanh hơn. Tuyết chói mắt dưới nắng, người trông càng đen hơn, bất luận mặc quần áo màu gì cũng trở thành đen. Có thể, vì khẩu súng trong sọt và tài bắn súng của chị Lai Đệ khiến mẹ trở nên cứng cổ.
Buổi trưa, bọn tàn quân bỏ chạy từ hướng nam định lục soát xe của chúng tôi, mẹ dang thẳng cánh cho tên lính giả vờ cụt tay một cái tát nẩy lửa, bay cả mũ xuống đất. Tên lính bỏ chạy, không kịp nhặt mũ. Mẹ tiện tay nhặt cái mũ còn mới, chụp lên đầu con dê của toi. Nó chạy nhảy tung tăng với chiếc mũ lính trên đầu. Dân tị nạn đứng xung quanh mặc dù đói rét mụ cả người, cũng há cái miệng đen ngòm ra mà cười, tiếng cười thê thảm như tiếng khóc.
Lúc trời rạng sáng tôi uống no sữa dê, tinh thần sảng khoái, trí tuệ minh mẫn. Tôi phát hiện ra máy in và hòm công văn giấy tờ của huyện bỏ lại bên đường. Những người phu đi đâu cả rồi? Không rõ. Đội la đi đâu? Không rõ.
Mặt đường bắt đầu nhộn nhịp. Từng đội cứu thương từ phía nam rút về, trên cáng là những thương binh luôn miệng rên rỉ. Những dân công tải thương mồ hôi đầm đìa trên mặt, thở như kéo bễ, bước đi loạng choạng trên tuyết
Một số nhân viên áo bơ lu trắng, mũ trắng chạy theo đội tải thương. Một phu khiêng ngã bệt xuống đất, cái cáng lật sang bên, người bị thương ngã lăn ra. Người này băng kín mặt, chỉ hở hai con mắt và cái miệng tê tái. Anh ta vừa khóc vừa chửi:
- Đ. mẹ chúng mày, chết tao rồi?...
Anh ta khóc rồi chửi, chửi rồi khóc. Một nữ quân nhân có khuôn mặt trái xoan đeo túi cứu thương chạy tới. Thoạt nhìn tôi đã nhận ra đó là cô Đường, bạn chiến đấu của chị Phán Đệ. Cô chửi bới người phu khiêng thậm tệ, dịu dàng khuyên nhủ người thương binh. Những nếp nhăn đã xuất hiện rất nhiều trên trán, trên khóe mắt, cô nữ binh tươi tắn xưa kia, giờ đây đã trở thành một bà già khô héo. Cô hoàn toàn không nhận ra chúng tôi, mẹ cũng không nhận ra cô.
Những đội cứu thương kéo đi nườm nượp như không bao giờ hết. Chúng tôi đứng nép bên vệ đường để khỏi làm vướng họ. Cuối cùng, họ cũng đi hết, mặt đường phủ tuyết trắng tinh khiết giờ đây bẩn tới mức khó mà hình dung nổi, toàn là bùn và nước bẩn. Những chỗ tuyết còn nguyên trông chẳng khác làn da bị bỏng vì có những giọt máu rơi vào. Mũi chỉ ngửi thấy mùi tuyết tan và mùi máu, mùi mồ hôi chua loét. Chúng tôi đi tiếp, cứ phấp phỏng trong bụng, ngay cả con dê của tôi khi nãy nhảy tâng tâng vì được đội mũ lính, giờ đây cũng lấm lét chẳng khác lính mới lần đầu ra trận. Những người tị nạn tỏ ra do dự, tiến thoái lưỡng nan. Không nghi ngờ gì nữa, trước mặt là chiến trường, đi về phía nam có nghĩa là ra mặt trận, vào nơi rừng tên mũi đạn, mà đạn thì không có mắt, nó không nể gì anh, còn lính tráng thì như một lũ hổ, có kiêng dè ai. Mọi người đưa mắt nhìn nhau, không ai muốn cho người khác biết ý tứ của mình. Mẹ không nhìn ai, kiên quyết đẩy xe theo hướng về nhà. Tôi nhìn lại, thấy dân tị nạn có người đi ngược lên hướng đông bắc, có người đi theo chúng tôi.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 27
Trận tuyết đầu tiên của những năm hòa bình đã che lấp những xác chết. Những con bồ câu đói đi lại vụng về trên tuyết, tiếng kêu buồn bã của chúng chẳng khác tiếng núc nở của người đàn bà góa. Buổi sáng có tuyết, bầu trời trong suốt như nhìn qua lớp băng, trông vừa cao nhã vừa mới mẻ. Phương đông đỏ rục, mặt trời lên, bầu trời như ngọc lưu ly cao vạn trượng. Tuyết phủ kín mặt đất. Người ra khỏi nhà, hơi thở ra màu phấn hồng, đi trên tuyết lạo xạo, tay dắt bò dê, lưng địu hàng hóa, men theo cánh đồng phía đông của thôn đi về hướng nam, vượt con sông Mục đầy cua ốc và ếch nhái, đến khoảnh đất cao không có tên rộng chừng năm mươi mẫu để họp chợ, phiên chợ kỳ lạ của vùng Cao Mật: Chợ Tuyết, chợ họp trên tuyết, giao dịch mua bán trên tuyết và cử hành những lễ nghi trên tuyết. Đây là một nghi thức im lặng tuyệt đối, bất kể tình huống nào cũng không được nói, mở miệng nói là chuốc lấy tai họa. Ở chợ tuyết, mọi người chỉ được nhìn thấy, được ngủi, được sờ mó, cảm thụ bằng trái tim, mà không được phép nói thành lời. Còn như nếu lỡ miệng nói một câu thì hậu quả như thế nào? Không ai hỏi, cũng không ai giải thích, làm như ai cũng biết, ai cũng hiểu, có điều không nói ra miệng đấy thôi.
Những người Cao Mật còn sống sót, phần lớn là phụ nữ và trẻ con, đều mặc quần áo ngày tết, lội tuyết đến chợ. Mùi tuyết lạnh xộc vào mũi như kim châm, phụ nữ đều lấy tay áo rộng che mũi và miệng, tuồng như để che hơi lạnh của tuyết, nhưng tôi thì cho rằng để không cho lời buột ra khỏi miệng. Trên đồng tuyết mênh mông chỉ có tiếng lạo xạo, người không nói nhưng súc vật thì không ai cấm đoán. Dê be be, bò ẩm bò, những con lừa ngựa sống sót sau chiến tranh hí hí, Những con chó điên cào bới xác chết, ngửa nhìn mặt trời tru lên như chó sói.
Trong thôn chỉ còn mỗi con chó mù của lão đạo sĩ Môn Thánh Vũ là không điên, chệnh choạng đi theo chủ. Trên khu đất cao có một ngọn tháp xây bằng gạch xanh, phía trước có ngôi nhà tranh ba gian, người chủ ngôi nhà là Môn Thánh Vũ, năm nay một trăm hai mươi tuổi. Ông cụ luyện phép tịch cốc, không ăn lương thực đã hai mươi năm naỵ Người gầy như con ve sầu, ông cụ chỉ sống bằng những hạt sương. Sau này đi học, được biết con ve sống bằng nhựa cây, tôi suy ra rằng ông cụ không thể sống bằng những hạt suông. Một mình sống trên đồi cao, trước mặt là hàng vạn mẫu hoa màu, sau lưng là dòng sông đầy tôm cá và cái đầm mùa xuân và mùa hạ có bao nhiêu trứng chim, ông cụ thích ăn cái gì thì ăn. Nghiên cứu sự thần kỳ đã biến thành trần tục như thế nào thì có ý nghĩa gì? Thêm một ông thánh không ăn lương thực thì có gì xấu? Chiến tranh đã làm tổn thương ghê gớm trí tưởng tượng của người dân Cao Mật. Giờ đây đã hòa bình, là lúc nên khôi phục lại trí tưởng tượng đó. Nhóm lại Chợ Tuyết là một việc được mọi người hoan nghênh.
Trong con mắt người dân, lão đạo sĩ là một cao sĩ nửa người nửa tiên. Hành tung bí ẩn, bước đi nhẹ nhàng, đầu trọc như bóng đèn, chòm râu bạc rậm như bụi tơ hồng, đôi môi dày như môi la con mới đẻ, răng có màu như mặt trong của vỏ sò, mặt đỏ mũi đỏ, lông mày trắng và dài như cánh chim, mỗi năm đạo sĩ xuống thôn một lần, vào ngày đông chí. Cụ có một nhiệm vụ đặc biệt: Chọn Công tử Tuyết cho phiên chợ Tuyết, mỗi năm họp một lần. Nói được chọn là Công tử Tuyết có một chức trách thiêng liêng và được thù lao vật chất, vì vậy thôn dân ai cũng mong con trai mình được chọn. Công tử Tuyết năm nay là tôi, Thượng Quan Kim Đồng. Lão đạo sĩ đi khắp mười tám thôn vùng Cao Mật, cuối cùng chọn tôi. Điều này chứng tỏ tôi không giống mọi người. Mẹ tôi khóc vì sung sướng! Đôi khi ra phố, đám phụ nữ nhìn tôi bằng con mắt kính nể. Họ ngọt ngào hỏi:
- Công tử Tuyết ơi, khi nào thì có tuyết?
- Tôi cũng không rõ, không biết khi nào thì tuyết rơi!
- Công tử Tuyết mà không biết khi nào thì có tuyết?
- Hừm, không thể tiết lộ thiên cơ!
Mọi người mong có tuyết, riêng tôi lại càng mong. Chiều tối hôm trước mây hồng dầy đặc, chiều hôm qua tuyết bắt đầu rơi, lúc đầu nhỏ, về sau thì to, như những chiếc lông ngỗng, như những quả cầu nhưng. Tuyết bay đầy trời, che lấp tất cả. Vì có tuyết nên trời tối rất sớm. Cáo kêu ngoài đầm, những oan hồn đi vật vờ trên đường to ngõ hẻm, kêu khóc ầm ĩ. Tuyết rơi trên cửa sổ hồ giấy. Những đã thú trắng toát ngồi chục dưới bậu cửa, cái đuôi to tướng quật vào khung cửa bồm bộp. Đêm hôm ấy bụng tôi cứ phấp phỏng không yên, tôi trông thấy nhiều cảnh tượng kỳ lạ không hiểu thực hư ra sao. Nói ra thì thấy nó thường quá, chẳng thà không nói là hơn.
Trời chưa sáng hẳn mẹ đã đun nước cho tôi rửa mặt, rửa taỵ Mẹ rửa rất kỹ hai bàn tay tôi, nói rằng rửa sạch tay cho con cún của mẹ. Mẹ còn lấy kéo sửa móng tay cho tôi. Cuối cùng, in vân tay màu đỏ lên trán tôi như cái nhãn hàng hóa. Mẹ mở cổng, thấy lão đạo sĩ đang đứng đợi. Cụ đem đến một chiếc áo dài màu trắng, một chiếc mũ màu trắng, đều may bằng lụa trơn bóng, sờ mát taỵ Cụ còn đem cho tôi một chiếc phất trần bằng lông đuôi ngựa trắng. Cụ đích thân mặc quần áo cho tôi, bảo tôi đi vài bước trong sân
- Thiện tai - Cụ nói - Thế mới là Công tử Tuyết đích thực!
Tôi rất vênh váo, mẹ và chị Cả cũng rất vui. Sa Tảo Hoa nhìn tôi bằng con mắt ngưỡng mộ. Chị Tám nở một nụ cười mê hồn. Tư Mã Lương cười nhạt.
Hai người đàn ông khiêng chiếc kiệu bên trái vẽ rồng, bên phải vẽ phượng đến kiệu tôi đi. Người đi trước là phu kiệu chuyên nghiệp Vương Thái Bình, người đi sau là anh trai Vương Công Bình. Hai anh em đều có tật nói lắp. Mấy năm trước, để trốn quân dịch, Vương Thái Bình chặt đứt ngón tay trỏ, Vương Công Bình lấy bã đậu bôi vào dái, giả vờ bị bệnh sa dì. Trò bịp bị bóc trần, chủ nhiệm thôn Đỗ Bảo Thuyền chĩa súng trường vào mặt, cho hai anh em chọn lấy một trong hai con đường: một là bị xử bắn, hai là làm dân công thường trực, ra mặt trận cáng thương, vận tải đạn được. Hai người lắp bắp, không bao giờ nói được một câu hoàn chỉnh. Ông bố là Vương Đại Hải bị thọt chân vì ngã thang khi xây dựng nhà thờ, chọn giúp hai con trai con đường thứ hai. Phu kiệu chuyên nghiệp mà cáng thương thì còn phải nói, êm và nhanh, ai cũng ca ngợi. Hai anh em đều lập công. Khi phục viên, đoàn trưởng đoàn cứu thương Lục Thiên Lý tự tay viết giấy chúng nhận công lao của hai anh em. Cùng đi dân công với anh em Vương Thái Bình, có em trai của Đỗ Bảo Thuyền là Đỗ Kim Thuyền bị bạo bệnh mà chết. Hai anh em không quản đường xa ngàn dặm, khiêng thi thể Đỗ Kim Thuyền về quê, dọc đường trải qua bao gian khổ mới về tới nhà Đỗ Bảo Thuyền. Hai anh em vì nói lắp nên không nói rõ được đầu đuôi câu chuyện, mỗi người ăn hai cái tát của Đỗ Bảo Thuyền. Đỗ Bảo Thuyền cho rằng hai anh em mưu sát Đỗ Kim Thuyền. Hai anh em chìa giấy xác nhận của đoàn trưởng ra, Đỗ Bảo Thuyền giật lấy xé tan ra từng mảnh, khoát tay:
- Đào ngũ thì lúc nào cũng là đào ngũ!
Hai anh em oan ức quá mà không thể nói cho người khác hiểu nỗi khổ tâm của mình. Đôi vai được rèn luyện rắn như thép, chân bước rất có bài bản, ngồi trên cáng của họ êm như ngồi trên con thuyền trôi xuôi dòng nước. Cánh đồng tuyết trắng vang lên tiếng chó sủa xen kẽ tiếng thanh la.
Trên sông Mục cũng có một cây cầu đá, dầm cầu bằng gỗ thông. Chủ nhiệm phụ nữ thôn Sa Lương là Cao Trường Anh đang đứng trên cầu. Chị ta để tóc ngắn, cặp tóc dính con bướm nhựa, môi cong hở lợi màu tím. Chị ta có khuôn mặt thô như đẽo bằng rìu, cằm có râu. Chị ta nhìn tôi bằng ánh mắt nóng bỏng. Tôi biết chị đang ở góa, chồng chị bị xe tăng nghiền nát. Cây cầu rung rinh, những phiến đá lát cầu chạm vào nhau lạch cạch. Tôi qua cầu, ngoảnh lại nhìn, thấy từng hàng dọc dấu chân trên cánh đồng tuyết. Rất nhiều người vẫn cố đi về phía bên này. Tôi trông thấy mẹ và chị Cả cùng lũ trẻ nhà tôi, và cả con dê nữa. Mẹ không quên che bầu vú cho nó. Quên thì nó sẽ khổ. Tuyết dầy lút gối, chắc chắn bầu vú nó lết trên tuyết. Từ nhà tôi đến chợ Tuyết gần mười dặm, nó chịu sao nổi?
Anh em phu kiệu khênh kiệu lên đồi. Những người đến sớm mắt sáng lên chào đón tôi. Đàn ông, đàn bà, trẻ con mím chặt miệng để không nói, người lớn tỏ vẻ trang nghiêm, trẻ con nhăn nhó như khỉ.
Dưới sự hướng dẫn của lão đạo sĩ, họ khiêng tôi đến chỗ bệ đất hình vuông ở chính giữa cao điểm, trên bệ kê hai chiếc ghế băng, phía trước hai ghế băng là một cái lư trong có ba thẻ hương. Họ gác đòn kiệu lên ghế, tôi vẫn ngồi trong tư thế lơ lửng dưới đòn kiệu. Cái rét lặng lẽ cắn các ngón chân tôi như mèo đen, cắn tai tôi như mèo trắng. Hương cháy phát ra những tiếng động mơ hồ nghe như tiếng giun, từng đám tàn rơi xuống như nhà bi cháy sập. Khói hương chui vào lỗ mũi trái, chui ra lô mũi phải. Phía dưới bệ có chiếc lò đốt vàng mã, lão đạo sĩ đang đốt một thếp tiền giấy, ngọn lửa như những con bướm vàng, tàn giấy như những con bướm đen nhẹ nhàng bay lên, bay mệt thì rơi xuống tuyết và chết. Lão đạo sĩ cúi lạy trước đàn rồi đưa mắt ra hiệu cho hai người phu kiệu. Họ khiêng tôi lên, lão đạo sĩ trao cho tôi một cái gậy bọc giấy trang kim, đầu gậy treo chiếc bát bằng thiếc. Đây là quyền trượng của công tử Tuyết. Tôi vung cây gậy này là có tuyết rơi hay sao? Chỉ định tôi là Công tử Tuyết xong, lão đạo sĩ giới thiệu với tôi về người đã sáng lập ra chợ Tuyết. Đó là lão đạo sĩ Trần, sư phụ của lão đạo sĩ. Theo chỉ thị của Thái Thượng Lão Quân, lão đạo sĩ Trần sáng lập ra Chợ Tuyết, công đức viên mãn rồi, cụ hóa thành tiên, cư ngụ trên ngọn núi chọc trời, ăn quả thông, uống nước suối, từ cây tùng bay sang cây bách, từ cây bách bay vào trong động. Lão đạo sĩ giảng giải cặn kẽ cho tôi về nhiệm vụ của Công tử Tuyết. Bước thứ nhất là lập đàn thụ phong, việc này vừa làm xong; bước thứ hai là tuần du trong chợ, bước này đang tiến hành.
Đây là giờ phút oai vệ nhất của Công tử Tuyết, mười mấy tiểu hiệu mặc quần áo xanh đỏ, trong tay không cầm vật gì, nhưng giữ tay ở tư thế cầm loa, kèn, trống, thanh la, phùng mang trợn mắt như đang tấu nhạc, tay trái giơ cao ngang tầm vai, tay phải giơ chiếc dùi tưởng tượng, cứ ba bước lại gõ một tiếng y như thật. Anh em họ Vương chân như lò xo, mỗi bước lại nhún nhảy. Những người đi chợ tạm ngùng công việc giao dịch thầm lặng, trố mắt mà ngắm Công tử Tuyết. Những khuôn mặt quen và những khuôn mặt không quen trên nền tuyết trắng, đỏ như táo chín, đen như than củi, vàng như sáp ong, xanh như lá rau. Tôi khua quyền trượng trước mặt mọi người. Họ có vẻ hốt hoảng, giơ tay lên như để che chắn, miệng há to như chực kêu lên, nhưng không một ai dám kêu lên một tiếng. Một trong những nhiệm vụ thiêng liêng mà lão đạo sĩ yêu cầu ở tôi là, nêu có kẻ nào dám kêu lên một tiếng thì dùng cái bát bằng thiếc treo ở đầu quyền trượng úp vào miệng hoặc vào cằm của kẻ vi phạm bẩy ra một cái là người đó đứt lưỡi.
Tôi nhìn thấy mẹ, chị Cả, chị Tám, Sa Tảo Hoa, Tư Mã Lương trong đám đông câm lặng. Con dê của tôi không chỉ đeo nịt vú mà còn đeo khẩu trang hình chóp nón chụp kín cả miệng của nó, có hai dây bằng vải buộc lên sau tai. Những người nhà của Công tử Tuyết tuân thủ lệnh cấm nói đã đành, ngay cả con dê cũng im hơi lặng tiếng như người. Tôi hươ gậy về phía những người thân của tôi, họ cũng giơ tay lên chào lại. Thằng quỉ Tư Mã Lương khum bàn tay làm thành ống nhòm, nhìn về phía tôi. Sa Tảo Hoa mặt mũi tươi tắn như con cá biển vừa lên khỏi mặt nước.
Hàng hóa trong Chợ Tuyết có đủ các loại, chia theo nhóm hàng. Theo sự hướng dẫn ngầm của đội nghi trượng, tôi bước vào gian hàng giày dép. Gian này toàn là dép bện bằng cỏ bồ, nhân dân vùng Cao Mật đi giày này suốt mùa đông. Ông Hoàng Thiên Qúi có năm con trai thì bốn người bị xử bắn, một người bị khổ sai. Lão chống cây gậy bằng cành liễu, râu bám đầy tuyết, trùm đầu bằng vuông vải trắng, chiếc bao tải rách khoác trên người. Lão cúi xuống giơ hai ngón tay để mặc cả với chủ quầy Cầu Hoàng Tản một đôi dép cỏ bồ. Lão Cầu giơ ba ngón tay đè hai ngón tay của lão Quí. Lão Qúi khăng khăng giữ ý, lật hai ngón tay lên đè trên ba ngón tay của lão Cầu, lão Cầu lại lật ba ngón tay đè lên hai ngón tay của lão Quí. Bốn năm lần như vậy, lão Cầu tỏ vẻ bất lực, chọn trong xâu dép lấy ra một đôi đã mốc xanh. Hoàng Thiên Qúi nghiến răng lại để biểu thị sự tức giận. Lão vỗ ngực chỉ lên trời, chỉ xuống đất, không hiểu nghĩa là gì hoặc không có nghĩa gì cả. Lão giơ gậy chỉ vào một đôi thật tốt, bện bằng phần gốc cỏ bồ. Lão Cầu gạt chiếc gậy của lão Quí, giơ bốn ngón tay kiên quyết đòi đúng giá. Lão Qúi chỉ trời, vạch đất, lộn trái chiếc túi gai đeo bên mình. Lão cúi xuống tháo lấy đôi dép mà lão ưng ý, tụt chân khỏi đôi giày da há mõm, rồi lập cập xỏ chân vào dép. Sau đó, lão moi trong chiếc túi may thêm vào quần lấy ra một tờ giấy bạc nhàu nát ném xuống trước mặt lão Cầu. Lão Cầu mặt giận bừng bừng, chửi nhưng không dám chửi thành tiếng, chỉ giẫm bành bạch. Nhưng rồi lão cũng nhặt tờ giấy bạc lên, vuốt mép cho phẳng giơ cho mọi người xem. Những người xung quanh, kẻ đồng tình thì lắc đầu, kẻ hồ đồ thì cười mỉm. Lão Qúi chống gậy đi ra, bước chân lệt sệt, chỉ cách nhau một tấc, hai chân lão cứng đờ như que củi. Tôi không có cảm tình với lão Cầu. Lão ta đã nói là miệng cứ như tép nhảy. Tôi thầm mong lão trong cơn tức giận buột miệng nói thành lời là tôi dùng cái bát thiếc kẹp lưỡi lão. Nhưng lão rất tinh, hình như đoán ra ý đồ của tôi. Lão nhét tờ giấy bạc vào chiếc dép rõ ràng là đã chuẩn bị từ trước, treo ở đầu đòn gánh. Hắn lấy cả đôi dép xuống, chỉ tay vào từng người thợ bện dép xung quanh đang trố mắt ra nhìn tôi, rồi lại chỉ vào những đồng tiền lẻ trong dép, rồi bằng một thái độ cung kính, lão lẳng đôi dép về phía tôi. Đôi dép rơi trúng bụng, lăn xuống chân tôi, mấy tờ giấy bạc lẻ văng ra, trên mỗi tờ đều có những con cừu béo tốt, đứng ngơ ngẩn như đang đợi cắt lông hoặc đem giết thịt. Tiếp tục tiến lên, lại có mấy đôi dép ném tới, trong dép có tiền lẻ.
Đến gian hàng bán cơm, người vợ góa của Triệu Giáp là Phương Mai Hoa đang rán bột mì trong một cái chảo đáy bằng. Hai đứa con của chị ta, một trai một gái ngồi trên chiếu, quấn quanh người bằng một chiếc chăn. Bốn con mắt mở thao láo. Bên cạnh bếp bày mấy chiếc bàn long chân, sáu người đàn ông bán chiếu đang ngồi ăn nhồm nhoàm. Bánh bột mì hai mặt rán vàng, ăn với súp rau, cắn một miếng bánh lại húp một miếng súp. Súp nóng, những người đàn ông miệng nhờn mỡ. Những gian hàng bên cạnh không có khách, chủ hàng đứng suông, gõ xoong nồi cho đõ buồn, nhìn sang gian hàng chị góa bằng ánh mắt ghen tỵ.
Khi chiếc cáng của tôi đi qua, chị góa Phương Mai dán đồng tiền vào chiếc bánh bao, nhẹ nhàng liệng về phía tôi. Tôi vội cúi đầu xuống, chiếc bánh rơi trúng ngực Vương Công Bình. Chị góa tỏ vẻ xin lỗi, lau tay bằng mảnh khăn đầy mỡ. Trên khuôn mặt tái xanh của chị là đôi mắt hõm sâu, xung quanh có quầng đen. Một người đàn ông cao và gầy đi tắt qua quầy bán gà, bước tới. Những con gà mái hoảng hốt kêu cục cục, bà bán gà nhìn ông ta gật đầu. Dáng đi của ông ta rất lạ, người thẳng đuỗn, cứ mỗi bước đi lại rướn lên một cái. Tôi nhận ra ông tạ Ông ta là Trương Thiên Tứ, môn đồ của đạo Hoạt nạn. Mọi người đặt cho ông ta cái biệt hiệu là Ông trời. Ông ta theo đuổi một nghề kỳ quặc: dẫn độ người chết về quệ Ông ta dùng tà thuật khiến người chết đi lại được. Vùng Cao Mật có rất nhiều người chết nơi đất khách quê người, nhờ ông ta dẫn về. Rất nhiều người nơi khác chết ở Cao Mật, nhờ ông ta dẫn về quê cũ của họ. Ai mà không kính nể một con người có khả năng dẫn người chết vượt trăm núi nghìn sông. Trên người ông ta lúc nào cũng phảng phất mùi tử khí. Những con chó dữ nhất trông thấy ông ta cũng cụp đuôi lỉnh mất. Ông ta ngồi xuống ghế băng trong gian hàng của chị góa, giơ hai ngón tay lên, chị góa cũng ra hiệu đáp lại, chị hiểu rằng ông ta định ăn hai mẻ năm mươi cái, chứ không phải hai hoặc hai mươi cái. Chị góa vội vàng chuẩn bị bánh bao cho ông ta vì ông thực khách to bụng này khiến chị mừng rơn, mắt sáng lên, còn những gian hàng bên cạnh thì mắt tối sầm. Tôi rất mong họ mở miệng, nhưng ghen tức mấy thì ghen tức, họ không chịu hé răng. Trương Thiên Tứ im lặng ngồi nhìn chị góa chuẩn bị, hai tay đặt trên đầu gối, một cái túi bằng vải đen lủng lẳng ở thắt lưng.
Không ai biết rằng, hồi cuối thu ông ta vừa có chuyện làm ăn lớn, dẫn độ một vong hồn khách thương Quan Đông làm nghề buôn bán tranh niên họa chết ở thôn Ngải Khưu vùng Cao Mật. Con trai người khách thương sau khi ngã giá với ông ta liền về trước để chuẩn bị. Đường đi trăm núi ngàn sông, ai cũng nghĩ ông ta không về được. Vậy mà ông ta đã trở về, xem ra thì mới về, cái túi vải kia chắc là túi tiền. Ông ta đi đôi giày cỏ rách tả tơi, để lộ những ngón chân sưng tấy bằng quả bí đỏ mới rụng rốn, gót chân to như khuỷu chân trâu. Em gái thằng Gật ôm một cây cải bẹ lớn đi ngang qua cáng, cặp mắt đa tình của cô ta liếc xéo tôi. Cánh tay ôm cây cái đỏ tía lên vì lạnh. Khi cô ta đi qua chỗ bếp của chị góa, tôi thấy tay chị góa run bắn. Kẻ thù gặp nhau. Nhưng cái thù giết chồng cũng không làm chị góa vi phạm qui ước của Chợ Tuyết, chị không nói thành lời nhưng tôi trông thấy máu đang sôi lên trong huyết quản chị. Căm thù nhưng không để lỡ chuyện kinh doanh, đó là cái giỏi của chị góa. Chị hốt trọn cả mẻ bánh vào cái liễn sứ, bê đến trước mặt Trương Thiên Tứ. Trương Thiên Tứ chìa tay ra, chị góa hơi ngạc nhiên nhưng lập tức chị hiểu ra. Chị vỗ vỗ trán tự trách mình sơ ý. Chị dốc trong lọ lấy ra hai củ dưa hành vỏ tím đưa tận tay Trương Thiên Tứ và lấy cái bát nhỏ đổ đầy tương ớt coi như ưu đãi đặc biệt, đặt trước mặt Trương Thiên Tứ. Những người đàn ông bán chiếu bất mãn nhìn chị góa, lườm nguýt chị về thái độ ưu ái này. Trương Thiên Tứ thoải mái ngồi nhấm nháp một cách chậm rãi củ dưa hành, đợi bánh nguội. Ông ta kiên nhẫn tách từng nhánh hành, xếp chúng lên bàn ăn thành một hàng dọc theo thứ tự lớn nhỏ, thỉnh thoảng lại đổi vị trí của các nhánh cho phù hợp với trình tự đã định. Sau đó, lúc tôi đi sang gian hàng rau, từ xa tôi trông thấy Trương Thiên Tứ bắt đầu ăn bánh bao, ăn nhanh kinh khủng, không phải là ăn mà y như bỏ bánh vào chum!
Về chuyện Trương Thiên Tứ gọi hồn, đối với tôi, nó như một cái xương cá mắc trong họng, chừng nào chưa lấy ra thì tôi còn khó chịu. Đó là một buổi trưa gió rét căm căm, con trai của người khách thương Quan Đông thuê một cỗ xe ngựa và bốn người khỏe mạnh, chở thi thể bố anh ta từ thôn Ngải Khưu đến thôn tôi, hỏi thăm nhà Trương Thiên Tứ. Lúc đó, tôi cùng Tư Mã Lương đang chơi đùa trên phố. Tư Mã Lương dẫn đường cho họ. Ngôi nhà của Trương Thiên Tứ tọa lạc ở góc tây nam của thôn, tách hắn với những nhà khác. Tường vây rất cao, cổng đóng im ỉm, cánh cổng dán hai đạo bùa vẽ trên giấy vàng. Tư Mã Lương trỏ cái cổng cho con trai người khách thương rồi né sang một bên. Con trai người khách thương móc túi lấy ra một tờ giấy bạc nhét vào tay Tư Mã Lương rồi bước tới trước cổng, chần chừ một thoáng, cuối cùng cầm lấy cái vòng đập vào cánh cổng. Đập lần thứ hai, cánh cổng hé mở, ló ra khuôn mặt Trương Thiên Tứ bôi đầy chu sa.
- Đến rồi hả? - Ông ta hỏi.
Con trai người khách thương mặc chiếc áo dài cổ lông chồn, hất đầu về phía cỗ xe ngựa, không trả lời. Trương Thiên Tứ chìa tay ra, nói:
- Đưa đây!
Con trai người khách thương lôi trong bọc ra một gói giấy, nói:
- Đây là tiền đặt cọc. Nếu ông đưa đến ngày mồng Bốn tháng Chạp thì tôi thưởng cho ông thêm một khoản nữa, khoản này là...
Trương Thiên Tứ nói:
- Không phải khoan kim cương thì khoan sao nổi vật rắn! Ông yên tâm đi, chuẩn bị ngày mồng Bốn tháng Chạp đón hỉ thần!
Con trai người khách thương nói:
- Nếu lỡ hẹn...
Trương Thiên Tứ nói:
- Lỡ hẹn thì tôi không lấy một xu.
Con trai người khách thương nói:
- Nếu như thiếu chân thiếu tay thì...
Trương Thiên Tứ nói:
- Thiếu gì trên người ông già thì cứ xẻo lấy trên người tôi mà bù vào?
Con trai người khách thương nói:
- Tôi vẫn cứ phấp phỏng thế nào ấy, từ đây đến quê tôi chí ít cũng nghìn dặm, trèo đèo vượt suối, qua sông qua đò...
Trương Thiên Tứ nói:
- Ông có gọi hồn hay không thì bảo? Không gọi nữa thì cuốn xéo! Đạo Hoạt nạn chúng tôi ba nghìn thầy trò, gọi hồn khắp cái đất nước Trung Quốc này chưa hề sai sót điều gì?
Con trai người khách thương nói:
- Xin ông đừng nóng, sao tôi lại không tin ông. Không tin ông thì tôi chở đến đây làm gì?
- Thôi được, thỏa thuận như vậy nhé, ngày mồng Bốn tháng Chạp tôi bày cơm rượu đón hỉ thần, anh em, khênh vào đi!
Bốn người đàn ông mặc áo chẽn, thận trọng chuyển cái xác sang một cái cáng tạm bợ. Xác chết to bằng con trâu, bụng bằng cái chum đựng nước, đầu hói quá nửa, trên mặt đậy tờ giấy vàng. Ông ta dễ nặng đến hai tạ, khi còn sống chắc là đi đứng khá vất vả, nay chết rồi thì làm sao vượt hàng nghìn dặm để về quê ở Quan Đông? Nhân tiện xin nói thêm, vùng đông bắc Cao Mật, kề một bên thôn lớn thuộc châu Bình Độ, đó là thôn Ngải Khưu. Bắt đầu từ đời Minh, họ sáng tác tranh niên họa vẽ trên giấy điệp, bán khắp ba tỉnh Quan Đông.
Hàng năm cứ vào đầu mùa đông, các lái tranh vùng đông bắc đều về đây trong khi đợi lấy hàng thì uống rượu chơi gái vì họ rất nhiều tiền. Thôi, không nói dông dài nữa. Cái xác của ông chủ thương nặng trĩu bên phải, hai người khiêng bên phải mồ hôi đầm đìa, hai người khiêng bên trái thì lại tương đối nhẹ nhàng. Đây chính là hiện tượng người chết nặng một bên. Bốn trai tráng khênh cáng vào trong cổng liền đặt xuống theo lệnh của Trương Thiên Tứ, đặt trên một chiếc chiếu cói đã chuẩn bị sẵn. Trương Thiên Tứ không lịch sự gì cả, nói luôn:
- Các vị ra ngay để tôi tiếp linh khí.
Con trai người khách thương còn định nói gì nữa, nhưng Trương Thiên Tứ đẩy tất cả ra ngoài cổng rồi đóng sập cổng lại. Bốn trai tráng như bị trúng tà khí, đứng ngây ra như phỗng. Con trai người khách thương rút tiền trả bốn người. Anh ta lại bước tới bên cổng ghé mắt nhìn vào trong. Không nhìn thấy gì, vì cổng nhà Trương Thiên Tứ không một kẽ hở. Lại áp tai vào cánh cổng nghe động tĩnh, nhưng bên trong im ắng như nghĩa địa. Tường vây xây bằng gạch cao hơn mái nhà, trên tường chăng dây thép gai, ngôi nhà của Trương Thiên Tứ khiến người ta kính nể, ngay cả Lỗ Lập Nhân và chị Phán Đệ khi phát động phong trào Bần Nông Đoàn cũng không dám vào nhà, mặc dù rất biết mức sinh hoạt của Trương Thiên Tứ hơn hẳn trung nông. Nhân vật bự thích nghịch nghiên mực từng tặng Bần Nông Đoàn một câu như sau: Đấu một trung nông hơn đập chết mười con thỏ đồng. Con trai người khách thương không biết làm thế nào, đành phải ra về cùng với bốn trai tráng. Mười mấy đứa trẻ chúng tôi nhìn những phù chú quái gở trên cánh cổng mà rợn tóc gáy, lặng lẽ rút lui. Không biết ai đã kêu lên: Ma đấy? Thế là chúng tôi co giò chạy, để đối phó với quỉ nhập tràng, chúng tôi chạy thẳng vào gốc cây cổ thụ, sắp chạm gốc thì rẽ đột ngột. Chạy ngay sau lưng tôi là Tư Mã Lương né không kịp, vêu cả môi lên khi dập vào gốc cây liễu.
Cái hôm Trương Thiên Tứ dẫn người chết ra đi, người trong thôn đã đến đợi sẵn ngoài cổng. Trời chưa sáng hẳn, vầng trăng tròn vành vạnh vẫn chưa lặn, chân trời phía đông lảng vảng mấy đám mây mỏng màu hồng, mặt trời chua mọc. Chúng tôi đứng im, cố nén cả tiếng hắt hơi. Không có gió, chỉ có hơi lạnh thấu quang, người khác thì tôi không rõ, riêng tôi run cầm cập. Phía đầm xa xa là màu kim nhũ. Mấy con ngỗng trời vươn cổ cong cong trên băng mỏng rúc mỏ vào trong cánh. Khói trắng cuồn cuộn trên ống khói nhà Trương Thiên Tứ, từng đám tàn giấy theo khói bay lên cao, một mùi lạ khiến người lộn mửa tỏa ra khắp nơi. Rồi lửa tắt, khói trắng cũng không bốc lên nữa, trong sân sáng mờ mờ, không một tiếng động, có thể nghe rõ tiếng đánh rắm của con ngỗng trời ngoài đầm. Cái mùi lạ càng đậm đặc khiến người ta phải lấy tay áo bịt mũi. Đợi rất lâu, cuối cùng cánh cổng mở ra, kẹt lên một tiếng như tiếng xé vải. Trương Thiên Tứ mình mặc áo chẽn màu đen, phía dưới mặc quần hẹp ống cũng màu đen, chân đi giày gai, đầu đội mũ dạ đen giống như cái nón, bước ra cổng. Ông ta khoác trên tay trái một chiếc làn, tay phải xách chiếc đèn lồng phết bằng giấy bồi. Trong đèn có ánh sáng leo lét ông ta đứng nghiêng bên cổng, nói nhỏ vào trong bằng một giọng cực kỳ nghiêm trang:
- Xin mời hỉ thần đi ra?
Dưới ánh trăng, cái xác chết to béo đứng trước bức tường ngăn làm bình phong, mặc chiếc áo dài đen rộng thùng thình không tay, cái đầu hói tròn xoay được quấn bằng một chiếc khăn đen, chụp lên khăn là một chiếc mũ cói. Phần dưới của áo choàng quét đất, do vậy không nhìn thấy chân. Các xác như một cây tháp biết đi. Chúng tôi không tin vào mắt mình. Cái xác cứng đơ nhưng rõ ràng là biết đi. Nó đi động theo ánh trăng, ra đến cổng thì dừng lại, thân hình to lớn chao đi một cái như sắp ngã. Nó có vẻ đầu nặng chân nhẹ, cái mùi rất gắt là từ trong áo choàng tỏa ra. Trương Thiên Tứ khóa cổng lại bằng một chiếc khóa to tướng bằng đồng. Ông ta đến trước mặt hỉ thần, ngồi xuống đốt một thếp tiền giấy. Chiếc áo dài của người chết phất phơ trong ánh lửa. Đốt vàng mã xong, Trương Thiên Tứ cúi lạy một lạy rồi đứng lên niệm thần chú. Niệm chú xong, ông ta đi trước, mặt xoay nghiêng, nói nhỏ: Hỉ thần, hỉ thần, xin hãy lên đường, trở về cố hương, chôn cùng tổ tiên. Con hiền cháu thảo, đêm ngày ngóng trông. Hỉ thần, hỉ thần, lên đường may mắn?. Đọc xong, ông ta rắc nắm tiền giấy rồi chậm rãi đi trước. ánh sáng leo lét của chiếc đèn lồng chấp chới như ma trơi. Cái xác hưởng ứng lời kêu gọi của Trương Thiên Tứ một cách miễn cưỡng, chậm rãi đi theo ông ta.
Cho phép tôi trở lại Chợ Tuyết. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, kiếm được một món tiền lớn trở về, Trương Thiên Tứ liền đi với cô hiếng trong tay ôm cây cải bẹ. Ông ta rửa sạch bụi đường trong ánh mắt tình tứ của cô tạ Nhiệm vụ tuần du Chợ Tuyết của tôi đã xong, dàn nhạc câm lại đưa tôi về trước cây tháp. Anh em họ Vương gác cáng vào chỗ cũ. Tôi cảm thấy hai chân tê dại, bàn chân buốt đến nỗi không dám chạm đất. Trong võng có mười mấy đôi giày cỏ và những tờ giấy bạc nhàu bẩn. Những tiền này là tiền dâng lên Công tử Tuyết, là của tôi vì đây là tiền thù lao cho tôi sắm vai Công tử Tuyết. Bây giờ nhớ lại, Chợ Tuyết đúng là ngày Tết của phụ nữ. Tuyết như một tấm chăn trùm lên mặt đất, tưới cho đất, khiến đất đai sinh sôi nảy nở. Tuyết là thứ nước của sinh nở, là tượng trưng của mùa đông, càng là báo hiệu của mùa xuân. Tuyết rơi, nghĩa là mùa xuân đầy sức sống đã nhảy lên lưng con tuấn mã, tới gần.
Dưới chân tháp có một tịnh thất nho nhỏ. Trong tịnh thất không thờ cúng thần tiên nào cả, thực tế là cúng vái ở ngoài tháp. Trong tịnh thất thắp hương vòng mùi thơm nhẹ nhàng, trước lư hương có một chậu gỗ to đầy tuyết trắng tinh, không một vết bẩn. Phía sau cái chậu là một chiếc ghế đẩu, đây là chỗ ngồi của Công tử Tuyết.
Tôi ngồi xuống ghế, nghĩ ngay đến nhiệm vụ cuối cùng khiến tôi vô cùng xúc động. Lão đạo sĩ vén tấm ri đô ngăn tịnh thất với bên ngoài, bước vào. Lão trùm lên đầu tôi chiếc khăn sa mỏng màu trắng. Theo lời dặn của lão, tôi hiểu trong khi thực hành chức trách, tôi không được vén chiếc khăn sa lên. Tôi nghe thấy tiếng chân lão đạo sĩ nhẹ nhàng đi ra. Trong tịnh thất chỉ có tiếng thở, tiếng tim dập của tôi. Bên ngoài, vọng tới tiếng chân dẫm lên tuyết lạo xạo của mọi người.
Một phụ nữ nhẹ nhàng tiến lại phía tôi. Qua tấm sa mỏng, tôi lờ mờ nhìn thấy người này có thân hình thanh mảnh, trên người toát ra cái mùi lông lợn cháy. Người này chắc không phải là dân trấn Đại Lan, rất có thể là người thôn Sa Lương. Thôn này có một cơ sở sản xuất bàn chải bằng lông lợn. Bất kể là người ở đâu, Công tử Tuyết đều coi như nhau. Tôi lập tức thọc hai bàn tay vào chậu tuyết để tuyết thiêng rửa sạch những gì ô uế trên tay tôi, rồi tôi giơ hai tay ra phía trước. Theo qui định, những phụ nữ đến cầu tự, đến xin được có nhiều sữa, đều vén áo lên, đưa vú đến tận tay Công tử Tuyết. Quả nhiên, hai khối thịt ấm và mềm mại đã chạm vào bàn tay lạnh giá của tôi. Tôi cảm thấy chóng mặt, qua hai bàn tay, luồng hơi ấm hạnh phúc lan khắp cơ thể tôi. Tôi nghe thấy tiếng thở khó kìm hãm của người phụ nữ. Hai bầu vú mềm mại như đôi chim bồ câu chững lại một thoáng rồi tuột khỏi tay tôi.
Cặp vú thứ nhất tôi sờ chưa đã, thì đã bay mất. Tôi hơi thất vọng nhưng càng hy vọng nhiều hơn, nhúng hai tay vào chậu tuyết để lấy lại sự tinh khiết thiêng liêng. Tôi hơi sốt ruột chờ đợi cặp vú thứ hai. Cặp vú thứ hai đã tới, lần này tôi không để chúng bay đi một cách dễ dàng! Tôi giơ bàn tay rắn chắc chộp lấy chúng. Chúng xinh xắn và rất dàn hồi, không mềm cũng không rắn, như chiếc màn thầu mới ra lò, không nhìn rõ chúng nhưng tôi biết chúng rất trắng, rất mịn, núm vú rất nhỏ, chỉ như hai cái nấm tí hon. Tôi nắm lấy chúng, thầm chúc cho chúng những lời tốt đẹp nhất. Bóp một cái, chúc chị đẻ sinh ba - ba đứa con bụ bẫm; bóp hai cái, chúc sữa chị tuôn trào như suối, bóp ba cái, chúc sữa chị vừa ngọt vừa thơm. Chị rên lên khe khẽ rồi giật mạnh ra. Tôi sững sờ vì bị giáng một đòn vào tình cảm, trong lòng rất đỗi hổ thẹn. Để tự trừng phạt, tôi thọc hai tay thật sâu vào chậu tuyết. Ngón tay tôi chạm vào đáy chậu trơn tuột cho đến khi hai tay tôi tê dại hẳn đi, tôi mới rút chúng ra. Công tử Tuyết giơ cao hai tay chúc phúc cho tất cả phụ nữ vùng đông bắc Cao Mật. Tình cảm của tôi bị tổn thương, hai bầu vú lõng thõng như hai cái bị chạm vào tay tôi. Tôi sờ chúng, chúng không chịu, kêu trong họng như con gà mái, mặt da nhăn lại. Tôi dùng hai ngón tay kẹp lấy cái đầu vú to tướng rồi nhả ra luôn. Người đàn bà phả vào mặt tôi hơi thở sặc mùi gỉ sắt. Công tử Tuyết coi ai cũng như ai, chúc bà thực hiện được nguyện vọng, thích sinh con trai thì sinh con trai, thích sinh con gái thì sinh con gái, muốn có bao nhiêu sữa thì có bấy nhiêu sữa? Bầu vú của bà sẽ luôn luôn khỏe mạnh, nhưng nếu muốn trở lại thời thanh xuân thì Công tử Tuyết bất lực!
Cặp vú thứ tư tính tình bạo liệt như con điều hâu, lông cánh màu nâu, mỏ cứng, cổ ngắn và khỏe. Cái mỏ cưng của chúng cứ mổ mổ vào lòng bàn tay tôi. Bên trong cặp vú thứ năm hình như có cả một tổ ong vò vẽ. Tay tôi vừa sờ vào, bên trong hến nổi lên những tiếng vù vù. Do va đập của lũ ong, nên bề mặt của vú nóng hôi hổi. Tay tôi rân rân như kiến bò, tôi gửi tới chúng những lời chúc mừng tốt đẹp!
Ngày hôm đó tôi sờ khoảng một trăm hai mươi cặp vú những ấn tượng về một số cặp tiếp nối nhau như một quyển sách, có thể giở từng trang. Nhưng tất cả những ấn tượng rõ nét ấy bị một chiếc vú cuối cùng làm đảo lộn tất cả. Nó như một con tê giác húc lung tung, tạo nên một trận động đất trong kho ký ức của tôi, hay như một con trâu rừng xông vào vườn rau, đẫm bẹp tất cả.
Khi đó hai bàn tay tôi đờ đẫn ra vì những cảm giác nóng bỏng, chờ đợi cặp vú sau để thực hiện chức trách của Công tử Tuyết. Vú chưa tới mà tôi đã nghe tiếng cười rúc rích quen thuộc. Má hồng môi thắm, mắt đen láy khuôn mặt ăn chơi của người phụ nữ trẻ có biệt hiệu là Kim Một Vú bỗng hiện ra trong đầu tôi. Tay trái tôi sờ trúng vú phải đồ sộ của chị, còn tay phải thì sờ vào khoảng không. Vậy là tôi biết chắc chắn Kim-Một-Vú đây rồi. Người phụ nữ phong lưu góa chồng buôn bán dầu thơm này suýt bị tử hình trong đại hội đấu tranh. Sau đó, chị lấy một người nghèo nhất trong thôn, nhà không một gian, đất không một tấc cắm dùi, một hành khất, tên là Nhỡn Phương Kim, trở thành vợ của cố nông đỏ. Chồng chỉ có một mắt, vợ chỉ có một vú, thật là một cặp trời sinh. Kim-Một-Vú được gọi là mụ Kim, mụ nhưng không già, về cách chơi độc đáo của chị ta vẫn được lưu truyền trong giới đàn ông trong thôn, tôi đã được nghe nhiều lần, hiểu mà không hiểu. Tay trái tôi nắm vú chị, chị dùng tay trái dẫn tay tôi sang bên phải. Hai tay tôi nâng bầu vú nặng chịch, to quá cỡ, cảm thấy hết sức nặng của nó. Chị hướng dẫn tôi sờ nắn từng phần da trên vú chị. Nó như một quả núi đơn côi, nghễu nghện trên ngực trái, nửa trên là bờ dốc thoai thoải, nửa dưới là nửa quả cầu hơi chúc xuống. Nó là chiếc vú ấm nhất trong những cái vú mà tôi đã sờ, nóng bỏng như da con gà trống bị bệnh đậu. Nó thật mịn màng, nếu không quá nóng, nó sẽ mịn hơn nữa. Ở đầu mút của bán cầu dưới, trước hết là bộ phận nhô ra như một cái chén úp ngược, và phần cong ngược lên chính là núm vú. Nó khi mềm khi cứng như viên đạn bọc cao su, vài giọt sữa lành lạnh bám trên đầu ngón tay tôi. Tôi bỗng nhớ lại câu nói của Thạch Tân, anh chàng từng đi buôn lụa mãi tận miền nam xa xôi, nói với tôi trong lò sấy cỏ. ánh ta nói rằng, Kim Một Vú dâm như quả đu đủ xanh, hễ động tới là chảy nhựa trắng ra. Quả đu đủ giống Kim Một Vú ư? Tôi chưa trông thấy quả đu đủ, nhưng bằng vào cảm giác tôi hiểu rằng đu đủ là xấu, là mê hoặc người ra. Nhiệm vụ thiêng liêng của Công tử Tuyết đã bị Kim Một Vú lái trệch sang một lối khác. Bàn tay tôi như miếng bọt biển thấm lấy sức nóng trên vú chị, còn chị hình như thỏa mãn đến mức cao nhất qua những ve vuốt của tôi. Chị rên rỉ như lợn con, ghì nhặt đầu tôi vào ngực chị, ấp bầu vú nóng bỏng lên mặt tôi. Tôi nghe thấy chị lẩm bẩm:
- Bạn thân yêu, bạn thân yêu của tôi...
Qui ước của Chợ Tuyết đã bị phá.
Một câu nói là một tai họa.
Một chiếc xe Jeep màu xanh lá cây dừng lại trên bãi trống trước cửa nhà lão đạo sĩ, từ trên xe nhảy xuống bốn nhân viên công an mặc quân phục màu vàng, huy hiệu trắng đeo trước ngực. Họ nhanh nhẹn như những con báo, xông vào nhà lão đạo sĩ. Vài phút sau, lão đạo sĩ tay bị còng sấp ngửa chui ra. Lão đạo sĩ buồn bã nhìn tôi không nói gì, nhẫn nhục chui vào xe. Ba tháng sau, lão đạo sĩ Môn Thánh Vũ, tên đầu sỏ của một đạo phản động, tên gián điệp nằm vùng thường xuyên bắn pháo hiệu trên định dốc, bị bắn dưới cầu Đoạn Hồn ở huyện. Con chó mù của đạo sĩ bị bắn bể sọ khi nó rượt theo chiếc xe Jeep.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 28
Tôi hắt hơi một cái rõ kêu rồi tỉnh ngủ. ánh đèn dầu vàng vọt chiếu trên tường. Mẹ ngồi dưới đèn, tay mân mê tấm lông chồn, chiếc kéo lớn để trên đầu gối, cái đuôi con chồn rập rình trên tay mẹ. Tôi nhảy xuống giường, lập tức nước chảy như xối vào bô tiểu. Một người đàn ông mặc quân phục màu vàng, mặt mũi lấm lem, dáng như khỉ đột ngồi trên chiếc ghế đẩu bên cạnh giường. Ông ta gãi bộ tóc hoa râm bằng những ngón tay co quắp, nét mặt nhăn nhó khó sở.
- Kim Đồng phải không? - Ông ta thận trọng hỏi tôi, cặp mắt đen tỏ vẻ thân thiện.
Mẹ bảo:
- Kim Đồng, đây là anh Tư Mã của con!...
Thì ra là Tư Mã Đình. Mấy năm không gặp, không ngờ ông ta thay đổi đến nông nỗi này. Còn đâu một Tư Mã Đình oai phong lẫm liệt khi làm trưởng trấn cầm súng quan sát trên chòi canh? Những ngón tay mũm mĩm như quả dưa chuột đâu rồi?
Khi hai người bí ẩn bắn vỡ đầu Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng thì Tư Mã Đình đang nấp sau máng cỏ trong chái hiên nhà tôi, nhảy dựng lên như con cá chép vọt lên khỏi mặt nước. Tiếng súng chát chúa như dùi nhọn đâm vào màng nhĩ. Ông ta sốt ruột đi vòng quanh cối xay như con lừa, hết vòng này đến vòng khác. Tiếng vó ngựa râm ran trong ngõ rồi xa dần như sóng thủy triều. Ông ta nghĩ, bỏ bà rồi, phải trốn thôi, không thể ở đây chờ chết? Sau đó ông ta may mắn chạy thoát. Sau khi được tin Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng đều bị bắn chết, ông ta cứ xuýt xoa mãi về sự may mắn của mình. Rơi vào tay họ, Tư Mã Đình này chắc chết! Khoan hãy nhắc đến chuyện là trưởng trấn, trưởng ban an ninh, chỉ riêng chuyện là anh trai Tư Mã Khố cũng đủ để họ băm vằm mình ra! Ngụy trang trên đầu bằng một nắm rơm, ông ta trèo qua mặt tường vây phía nam là nơi thấp nhất, rơi đúng một đống phân chó, ngã như trời giáng. Lúc này, nghe thấy tiếng ồn ào đầu ngõ, ông ta vội rúc vào một đống rơm, nằm đè lên một con gà mái và ổ trúng của nó. Ngay sau đó là tiếng đập cửa rất mạnh, rất thô bạo. Rồi có mấy người cao to, mặt bịt khăn đen, vòng ra chân tường, những cụm cỏ khô bị nghiền nát dưới những bàn chân hộ pháp. Người nào cũng tiểu liên trong tay, hùng hùng hổ hổ, vọt qua tường nhanh như én liệng, trông rất giống những vệ sĩ của nhân vật bự. Ông ta không hiểu bọn này vì sao lại che mặt. Sau khi được tin Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng đầu bị bắn chết, cái đầu rối tinh của ông ta chợt lóe lên, hình như ông ta đã rõ chuyện. Những người kia nhảy vào trong sân. Tư Mã Đình cố sống cố chết rúc sâu hơn nữa, chờ đợi tình hình ngã ngũ ra sao.
- Chú Hai là chú Hai, tôi là tôi! - Tư Mã Đình bảo mẹ - chuyện ai người ấy bàn!
Mẹ bảo:
- Vậy thì gọi là bác vậy. Kim Đồng, đây là bác Tư Mã!
Tôi gật đầu nhìn những ngón tay co quắp của ông ta rồi lại lồm cồm bò lên giường chui vào trong chăn. Trong lúc mơ màng để đi vào giấc ngủ, tôi nhìn thấy ông ta lấy ra một tấm huân chương đưa cho mẹ, giọng ề à có vẻ ngượng:
- Thím này, tôi đã lập công chuộc tội rồi đấy?
Tư Mã Đình lợi dụng bóng đêm chạy ra khỏi thôn. Nửa tháng sau, ông ta bị đưa vào đội tải thương, cặp đôi với một thanh niên mặt đen, khiêng một cáng. Tôi nghe ông ta thì thào kể lại những điều kỳ lạ mà ông ta đã trải qua như một thiếu niên dựng chuyện để biện bạch cho những sai lầm của mình. Cái đầu nặng trĩu tóc của mẹ lắc lư dưới ánh đèn, da mặt như dát vàng, đôi môi đường nét phân minh hơi cong lên, mẹ mỉm cười tỏ vẻ châm biếm.
- Những chuyện tôi kể đều rất thật - Tư Mã Đình phân bua - Tôi biết thím không tin, nhưng cái huân chương này thì chắc chắn không phải tôi làm ra, mà phải đổi bằng cái đầu của tôi đấy?
Có tiếng kéo cắt tấm lông chồn, mẹ nói:
- Anh Tư Mã, có ai bảo anh bịa chuyện đâu?
Tư Mã Đình và chàng thanh niên mặt đen cáng ông trung đoàn trưởng bị trúng đạn ở ngực, sấp ngửa chạy qua cánh đồng. Máy bay lượn trên trời, sáng lóa màu xanh của thép. Đạn pháo và các cỡ đạn kéo theo những đuôi lửa dài vạch dọc vạch ngang bầu trời, đan thành một lưới lửa dày đặc và biến hóa muôn màu muôn vẻ. ánh chớp của đạn pháo và tiếng nổ rền như sấm, soi rõ những bờ ruộng ngoằn ngoèo và mặt ruộng mấp mô đầy cuống ra. rắn đanh sau khi gặt hái. Các dân công tải thương chạy tán loạn trên cánh đồng, nháo nhào không còn biết chạy theo huống nào. Tiếng kêu thê thảm của thương binh râm ran trong đêm tối.
- Ối mẹ Ơi, đau chết mất?... Tiểu đội trưởng ơi, làm ơn cho tôi một phát, tôi không chịu nổi nữa!...
Chỉ huy dân công là một phụ nữ tóc cắt ngắn, tay cầm đen pin có tua lụa đỏ, đứng trên bờ ruộng thét to:
- Không được chạy lung tung, phải bảo vệ thương binh!...
Giọng chị ta rất rè, như miết gót giày trên cát khộ Những ánh chớp xanh soi rõ khuôn mặt chị tạ Chị quàng chiếc khăn mặt trắng quanh cổ, thắt lưng da cài hai quả lựu đạn chày và chiếc ca sứ. Đây là một phụ nữ cực kỳ tháo vát. Ban ngày, chị mặc chiếc áo màu đỏ ớt dẫn đội cáng thương chạy như sóc trên hỏa tuyến. Chị như một con bướm màu không ăn nhập với cảnh trận mạc chút nào.. Hàng vạn phát đại bác cày xới cánh đồng, biến mặt đất đông cứng thành tơi xốp như trong vụ xuân. Lúc trời còn sáng, Tư Mã Đình trông thấy một đóa hoa bồ công anh nở bên cạnh đám tuyết bị máu nóng làm tan thành nước. Dưới chiến hào ngột ngạt, các binh sĩ đang xúm lại ăn cơm, nhưng bánh màn thầu trắng tinh, những củ hành muối màu trắng ngà, miệng nhai rau ráu, ăn như vũ bão. Mùi thức ăn khiến Tư Mã Đình rỏ nước miếng. Những phu tải thương lôi những nắm cao lương khô cứng ra để gặm, nét mặt nhăn nhó khổ sở. Họ trông thấy chiến hào trước mặt, vị nữ đại đội trưởng nhởn nhơ như con bướm đang cười đùa với một cán bộ thắt lưng giắt khẩu súng lục, vừa cười vừa đi theo chiến hào tới chỗ họ.
Nữ đại đội trưởng nói:
- Thưa các đồng chí, trung đoàn trưởng Lã đến thăm các đồng chí!
Đám dân công gượng đứng dậy. Tư Mã Đình nhìn đôi lông mày rậm trên khuôn mặt đỏ như táo chín của trung đoàn trưởng, nghĩ mãi không ra lai lịch của người này.
Trung đoàn trưởng tỏ vẻ khách sáo:
- Mời các đồng chí ngồi xuống!
Đám dân công ngồi xuống, tiếp tục ăn. Trung đoàn trưởng nói:
- Cảm ơn bà con, các vị vất vả quá?
Đám dân công phần lớn im lặng, chỉ có mấy người hô to:
- Thủ trưởng khỏe!
Tư Mã Đình vẫn không nhớ ra đã gặp người này ở đâu.
Trung đoàn trưởng tỏ vẻ quan tâm bữa ăn đạm bạc và những đôi giày rách nát của đám dân công. Trên khuôn mặt như tạc bằng gỗ đàn hương của ông ta, thoáng một chút thương hại. Ông ta gọi to:
- Liên lạc đâu? Một chiến sĩ thân hình nhỏ bé, men theo chiến hào chạy tới.
- Bảo lão Điền đem tất cả bánh bao còn lại đến đây. Chú liên lạc chạy đi như bay.
Trung đoàn trưởng nói:
- Bà con cố chịu đựng một chút. Cách mạng thắng lợi, chúng ta sẽ có màn thầu ăn hàng ngày.
Trung đoàn trưởng đích thân chia bánh, mỗi người một chiếc kèm theo nửa củ hành. Khi trung đoàn trưởng đưa cho Tư Mã Đình chiếc bánh màn thầu còn bốc hơi, bốn mắt gặp nhau, Tư Mã Đình liền nhớ ra người trung đoàn trưởng mặt như táo chín này chính là Lã Thất, trung đội phó trung đội lừa thuộc Chi đội Tư Mã Khố mấy năm về trước. Lã Thất cũng nhận ra Tư Mã Đình. Anh ta nắm vai Tư Mã Đình bóp mạnh một cái, nói nhỏ:
- Ông Cả, ông cũng ra mặt trận à?
Tư Mã Đình thấy cay nơi sống mũi, định nói câu gì đó với Lã Thất, nhưng Lã Thất đã quay sang nói với đám dân công:
- Thưa bà con, xin cảm ơn, không có sự ủng hộ của bà con thì cách mạng không thể thắng lợi!
Khi cuộc tổng công kích bắt đầu, Tư Mã Đình và người bạn khiêng cáng của ông ta phục trong chiến hào thứ hai nghe tiếng rít của pháo bầy bay qua đầu và tiếng nọ long trời chuyển đất xa xạ Kèn hiệu vang lên, các binh sĩ hò hét xông lên. Nữ đại đội trưởng đứng thẳng dậy hét to:
- Xông lên cứu thương binh
Chị ta vọt khỏi chiến hào, tay giơ cao quả lựu đạn. Đạn vãi như trấu xung quanh, cắm phầm phập xuống đất. Sắc mặt chị trắng nhợt nhưng không phải vì sợ. Đám dân công dè đặt đứng lên trong hào sâu đến ngang ngực, khom người theo bản năng. Một dân công nhỏ con vụng về trèo lên mép chiến hào, tràng đạn nổ xung quanh khiến anh ta lại lăn xuống vừa khóc vừa gọi:
- Đại đội trưởng, tôi bị thương rồi?
Nữ đại đội trưởng nhảy xuống hào hỏi:
- Bị thương ở chỗ nào?
Anh dân công nói:
- Đũng quần tôi nóng ran lên.
Nữ đại đội trưởng kéo anh ta đứng dậy. Chị nhíu cặp lông mày tuyệt đẹp, nhăn mũi đánh hơi, giọng khinh bỉ:
- Đồ thỏ đế, ỉa đùn ra quần rồi!
Chị ta đập nhẹ quả lựu đạn vào vai anh dân công, nói to: -
Các đồng chí, các vị đều là bậc tu mi nam tử, chẳng lẽ không bằng một phụ nữ như tôi?
Lời khích của nữ đội trưởng quả nhiên có tác dụng, đám dân công ào ào xông lên.
Tư Mã Đình đứng lên, trông thấy người khiêng cáng với mình nằm run như cầy sấy dưới chiến hào.
- Anh bạn, anh làm sao thế? - Ông ta hỏi nhưng người kia không trả lời.
Tư Mã Đình cúi xuống lật ngửa anh ta lên, chỉ thấy anh ta mặt tái nhợt, răng nghiến chặt, hàm răng đánh cầm cập, nước bọt sùi ra hai bên mép.
- Tư Mã Đình, ông còn đợi gì nữa? Sợ chết hả? - Nữ đại đội trưởng trợn mắt hỏi.
- Đại đội trưởng,... - Tư Mã Đình lúng túng - Có lẽ anh ta trúng gió độc?
- Mẹ kiếp, lúc nào chẳng trúng, lại trúng ngay lúc này! - Nữ đại đội trưởng vừa chửi vừa nhảy xuống hào, đá vào người anh kia. Anh ta nằm yên. Chị ta lấy lựu đạn gõ vào đầu gối, anh kia vẫn không cựa quậy. Chị ta lồng lên, y hệt con báo gấm trong chuồng. Chị ta vặt một nắm cỏ ở mép chiến hào nhét vào miệng anh bị trúng gió, dỗ dành: ăn đi, ăn đi, trúng gió ăn cỏ là tỉnh, ăn đi nào! Chị ta dùng chuôi lựu đạn đẩy cỏ vào trong miệng anh kia, Anh kia rên lên một tiếng rồi ngước cặp mắt trắng đã lên. Cách này hóa ra hiệu nghiệm. Nữ đại đội trưởng nói, vẻ đắc ý:
- Hứa Bảo, Hứa Bảo, lên đi, thương binh đã chuyển xuống rồi?
Anh thanh niên có tên là Hứa Bảo này rên rỉ vịn mép hào đứng lên. Chân tay anh ta hãy còn run, các bắp thịt trên mặt co giật, khi trèo lên mép hào, chân tay anh ta mềm nhũn. Tư Mã Đình lôi chiếc cáng lên, kéo anh thanh niên chạy theo. Hứa Bảo mỉm cười nhìn Tư Mã Đình tỏ vẻ cảm kích. Nhìn nụ cười quái dị của Hứa Bảo, Tư Mã Đình thấy trong lòng đau nhói. Ông ta không bao giờ quên được nụ cười đó.
Họ xách cáng, loạng choạng chạy theo nữ đại đội trưởng. Tuyết bị dẫm nát trộn lẫn với bùn, từng đống vỏ đạn va vào nhau lạo xạo. Đạn bay chíu chíu, đạn pháo dựng lên từng cột khói, những tiếng nổ lớn rung chuyển cả đất dưới chân. Theo sau ngọn cờ hồng, các binh sĩ ùa lên như nước vỡ bờ. Phía trước, khẩu liên thanh đặt sau bức tường đất cao, rống lên ông ổng như chó dại, những tia lửa xòe ra như nan quạt, các binh sĩ xung phong bị đốn gục từng mảng. Khẩu súng phun lửa từ sau bức tường phụt lửa cuồn cuộn như rồng lộn, các binh sĩ xung phong như nhảy múa trong vầng lửa, la hét khiến người nghe sởn gai ốc. Có binh sĩ thoát được ra ngoài, lăn lộn dưới đất để dập lửa trên người. Có binh sĩ bị rồng lửa trùm lên, nhảy nhót như điên, mặt méo xệch vì đau rát và vì sợ hãi, rồi chỉ trong chớp mắt là gục xuống, mùi khét của thịt người cháy xộc vào mũi và lan rộng ra, khiến đám binh lính và dân công lộn mửa. Trong tầm nhìn hạn hẹp của Tư Mã Đình, đã thấy đám binh sĩ đổ rạp như những cây gỗ mục. Hứa Bảo bỗng ngã lăn ra, kéo Tư Mã Đình ngã theo. Miệng ông ta vừa chạm đất thì một loạt đạn nóng bỏng quật ngã mấy người dân công phía sau. Súng phun lửa réo ù ù, những quả thủ pháo xì khói, lăn lông lốc, phát nổ đùng đoàng, những mảnh đạn bằng hạt đậu xé rách không khí.
- Mẹ Ơi, hôm nay không thoát chết, mẹ Ơi!
Hứa Bảo hai tay ôm đầu, chổng mông lên, chiếc quần bông thủng lỗ chỗ, lòi cả bông bẩn ra. Những binh sĩ xung phong đều là những tay cừ khôi. Họ hò hét vừa cúi xuống thấp vừa nhả đạn, dẫm lên thi thể chiến hữu của mình và băng tuyết nhuốm đầy máu, xông lên chỗ bức tường vây theo hiệu kèn và ngọn cờ hồng rách tơi tả bất kể sống chết leo lên tường, trèo bằng thang, bằng dây thừng. Những thân hình từ trên cao rơi xuống cùng với tiếng rú thê thảm. Những thân người rơi xuống dưới chiến hào đóng băng, co quắp, lăn lộn, lết đi bất kể đi đâu.
Nữ đại đội trưởng nằm cách Tư Mã Đình một khoảng không xa, hai tay thọc sâu vào bùn, mông chị bốc khói trắng. Quần chị bén lửa. Chị lăn tròn trên tuyết, bốc đất nhét vào lỗ thủng trên quần. Các chiến binh trèo lên bức tường vây, tiếng reo đinh tai nhức óc, súng bắn như vãi đạn. Nữ đại đội trưởng chạy lên được mấy bước bỗng gục xuống như bị trúng đạn, chắc là rất đau. Chị bật dậy chạy tiếp, chị khom người mà chạy như cây cao lương đã thành thực. Chị lôi ra một người từ đống xác chết rồi kéo trở lui. Chị kéo một cách vất vả như con kiến tha mồi, đến trước mặt Tư Mã Đình và Hứa Bảo. Đó là trung đoàn trưởng Lã Thất. Anh bị mấy vết thương ở ngực, máu chảy, bọt máu đùn ra, vết thương rộng đến nỗi trông thấy phổi đang phập phồng.
- Cáng về tuyến sau, mau lên! - Nữ đại đội trưởng ra lệnh.
Hứa Bảo cứ đứng ngẩn ra mà nhìn nữ đại đội trưởng. Nữ đại đội trưởng giận điên lên, quát to:
- Đồ khốn!
Tư Mã Đình vội vàng mở cáng ra đặt trung đoàn trưởng Lã lên. Cặp mắt nâu của trung đoàn trưởng Lã nhìn Tư Mã Đình một thoáng tỏ vẻ áy náy rồi nhắm lại.
Họ khiêng cáng chạy trở lui, đạn đuổi theo chíu chíu như tiếng chim. Tư Mã Đình khom người xuống mà chạy, nhưng chạy như vậy rất khó, ông ta liền đứng thẳng lên mà chạy, sống chết có số, ông ta nghĩ. Vậy là bạo dạn hẳn lên, chân bước thanh thoát hơn.
Tại trạm cứu thương, các y tá băng tạm cho trung đoàn trưởng rồi cho cáng tiếp về phía sau để đưa vào bệnh viện. Lúc này mặt trời đã ngả về tây, nơi đường chân trời có vầng mây hồng, dày và đặc quánh. Cây dâu cổ thụ đứng trơ trọi giữa đồng không mông quạnh, cành lá vấy đầy máu, thân cây ướt mèm như đổ mồ hôi. Dưới sự chỉ huy của nữ đại đội trưởng, các cáng tải thương dần dần tập trung ở một ruộng lúa. Máy bay đã bay đi. Trên nền trời màu tím, những ngôi sao nhấp nháy trong ánh chớp của đạn pháo. Cuộc chiến vẫn tiếp tục Các dân công vừa đói vừa mệt. Tư Mã Đình dù sao thì tuổi đã cao, lại cặp đôi với một anh vừa bị trúng gió, nên càng mệt đứt hơi. Ông đứng mà ông không cảm thấy mình có chân hay không, mồ hôi trong người đã chảy hết từ ban ngày, giờ đây tại ruộng lúa, trên người ông chỉ còn rỉ ra một chất nước dính và sau đó ông cảm thấy lục phủ ngũ tạng khô héo đi như quả mướp khộ Trung đoàn trưởng Lã là con người thép, anh cắn răng chịu đau không rên một tiếng. Tư Mã Đình luôn cảm thấy mình khiêng trên vai một xác chết, mùi tử khí thi thoảng lại tạt vào mũi ông.
Nữ đại đội trưởng chỉnh đốn lại đội ngũ rồi ra lệnh xuất phát về tuyến sau. Chị ta khuyên mọi người không nên dừng lại để nghỉ, vì dừng lại là không dậy nổi nữa. Họ theo nữ đội trưởng qua sông. Mặt băng rạn vỡ vì đạn pháo. Hứa Bảo bước hụt, ngã xuống nước. Tư Mã Đình cũng ngã theo. Chàng thanh niên này như cố ý tự tử hay sao mà cởi luôn dây cáng trên người, chui luôn xuống lỗ băng mất hút. Trung đoàn trưởng Lã đau quá chịu không nổi, bật ra những tiếng rên rỉ. Nữ đại đội trưởng túm lấy một đầu cáng, cùng khiêng với Tư Mã Đình, thất thểu về đến bệnh viện hậu phương. Chuyển thương binh xong, đám dân công liền nằm lăn ra đất. Nữ đại đội trưởng nói:
- Đừng nằm, các đồng chí ơi!
Nhưng chửa nói hết câu, chính chị cũng nằm lăn ra.
Trong một chiến dịch sau đó, Tư Mã Đình bị mảnh đạn tiện đứt ba ngón tay phải. Ông ta cắn răng chịu đau, cõng một trung đội trưởng bị gãy chân về tuyến sau.
Sáng sớm, lúc ngủ dậy, trước tiên tôi ngửi thấy mùi thuốc lá, rồi trông thấy mẹ ngồi ngủ trong ghế dựa kê sát tường, một dòng nước bọt trong suốt chảy ra từ khóe mép. Tư Mã Đình ngồi ngủ gật trên chiếc ghế bên giường như con điều hâu đậu trên chạc cây. Mặt đất vương vãi những mẩu thuốc.
Cô Kỷ Quỳnh Chi mà sau này là cô giáo chủ nhiệm lớp tôi, từ huyện về trấn Đại Lan phát động phong trào cải giá cho phụ nữ. Cô đem theo một số cán bộ nữ hung hăng như ngựa hoang, tập trung tất cả phụ nữ lại để giảng giải ý nghĩa của chuyện cải giá. Sau đó, như phân phối gà mái, họ ghép đôi những phụ nữ góa chồng với những người đàn ông độc thân. Ngay cả ông Đỗ thọt cũng được chia một chị góa trẻ măng, da trắng nõn, mắt có nhài quạt. Khi chị góa này trông thấy cái chân đầy mủ hôi thối của ông Đỗ, chị khóc như mưa như gió, xin chị cán bộ cho phép không lấy ông tạ Chị cán bộ sốt ruột nói:
- Khóc cái gì? Chân rỉ ra mủ thì có gì đáng sợ? Chỉ cần chim không chảy mủ là được rồi?
Trong cuộc vận động này, những phụ nữ góa chồng nhà Thượng Quan trở thành vật cản. Chị Cả Lai Đệ không ai lấy, vì các vị biết rằng chị đã từng có quan hệ với Tư Mã Khố, cũng là người đã hứa hôn với Tôn Bất Ngôn, mà hai người này đều không hiền lành chút nào. Mẹ Ở trong độ tuổi mà Kỷ Quỳnh Chi qui định phải tái giá nhưng mẹ kiên quyết không chịu. Cô cán bộ La Hồng Hà vừa bước vào nhà liền bị mẹ chửi cho một trận, đuổi ra.
Mẹ mắng:
- Cút, tôi còn lớn tuổi hơn mẹ cô!
Điều kỳ lạ là khi Kỷ Quỳnh Chi đến khuyên nhủ thì mẹ lại nhẹ nhàng hỏi: - Cô định gả tôi cho ai? Thái độ của mẹ đối với Kỷ Quỳnh Chi so với La Hồng Hà khác nhau một trời một vực, chỉ xảy ra cách nhau vài tiếng đồng hồ.
Kỷ Quỳnh Chi nói:
- Bác ạ, người trẻ thì không xứng đôi người lớn tuổi một tí thì chỉ có Tư Mã Đình. Lý lịch ông ta tuy có vết, nhưng sau đó ông ta đã lập công, lấy công bù tội. Hơn nữa, quan hệ của hai nhà không xa lạ như những gia đình khác.
Mẹ cười buồn:
- Cô này, em trai ông ta là rể của tôi?
Kỷ Quỳnh Chi nói:
- Thế thì đã sao?
Lễ cưới tập thể của bốn mươi lăm phụ nữ góa chồng được tổ chức trong nhà thờ dột nát. Tôi căm lắm, nhưng tôi vẫn đến dự. Mẹ ngồi trong đám các bà góa, một thoáng đỏ mặt trên sắc da tái xanh của mẹ. Tư Mã Đình đứng trong đám đàn ông, luôn vuốt tóc bằng những ngón tay cụt không hiểu là để khoe mẽ hay để che giấu sự bối rối.
Kỷ Quỳnh Chi thay mặt Chính phủ tặng khăn mặt và xà phòng cho các cặp vợ chồng mới cưới. Trưởng trấn phát cho họ giấy đăng ký kết hôn. Mẹ cầm khăn mặt, giấy đăng ký kết hôn mà mặt đỏ như gấc, như một cô gái cả thẹn.
Trong lòng tôi bùng lên ngọn lửa căm ghét. Mặt tôi nóng bừng, xấu hổ thay cho mẹ. Trên tường nhà thờ, nơi xưa kia treo tượng chúa Giêsu thì nay toàn là bụi. Trên cái bục mà xưa kia mục sư Malôa làm lễ rửa tội cho tôi thì nay chen chúc một lũ đàn ông đàn bà không biết xấu hổ. Họ co ro cúm rúm, lấm la lấm lét như kẻ cắp. Mẹ tóc đã hoa râm mà phải kết hôn cùng anh trai con rể. Không, ý nghĩa thật sự của kết hôn là Tư Mã Đình ngủ cùng giường với mẹ một cách công khai. Bầu vú to bự của mẹ sẽ bị Tư Mã Đình chiếm hữu, giống như Tư Mã Khố, Bác-bít, Sa Nguyệt Lương, Tôn Bất Ngôn đã chiếm hữu bầu vú của các chị tôi. Nghĩ đến đây, nỗi đau như khoan vào tim, những giọt lệ căm phẫn ứa ra khỏi mắt tôi. Một nữ cán bộ rắc những cánh hoa nguyệt quế lên đầu các cô dâu, những cánh hoa khô héo rơi lả tả như một trận mưa bẩn thỉu, như những lông chim rơi xuống đầu mẹ, mái đầu hoa râm nhưng trơn bóng vì mẹ chải bằng dầu vỏ cây du.
Tôi chạy ra khỏi nhà thờ như một con chó dại. Trên đường phố già cỗi, tôi trông thấy rất rõ mục sư Malôa với chiếc áo chùng đen đang thủng thẳng bước đi, mặt đầy bùn đất, mái tóc đầy những mầm lúa mạch. Hai con mắt ông như hai quả nho tím, lạnh băng, ánh mắt đau xót.
Tôi lớn tiếng thông báo cho ông về việc Tư Mã Đình đã kết hôn với mẹ, nhìn thấy những thớ thịt co giật trên khuôn mặt đau khổ của ông, thân hình ông và cả chiếc áo choàng đen trong khoảnh khắc tan ra từng mảnh rồi biến thành một cụm khói đen, bay đi.
Trong sân, chị Cả đang vươn cái cổ trắng nõn để gội mái tóc dày của chị. Khi chị cúi xuống, hai bầu vú trắng hồng tuyệt đẹp của chị khoan khoái cất giọng du dương như chim vàng anh. Khi chị đứng thẳng lên, những giọt nước nối đuôi nhau chảy giữa khe vú. Chị đưa hai tay ra sau gáy vấn tóc, nheo mắt nhìn tôi rồi cười nhạt.
- Biết chưa? Mẹ lấy Tư Mã Đình - Tôi bảo chị.
Chị không nói gì, chỉ cười nhạt một tiếng. Mẹ dắt chị Ngọc Nữ, trên tóc còn vương những cánh hoa nhục nhã, bước vào trong nhà. Tư Mã Đình len lén theo sau. Chị Cả bưng chậu nước gội đầu hắt mạnh ra sân, nước bay thành vòng cung, trắng xóa. Mẹ thở dài, không nói gì. Tư Mã Đình móc trong túi ra tấm huân chương đưa cho tôi, không hiểu là để lấy lòng hay để khoẹ Tôi nghiêm nghị nhìn vào mặt ông ta, trên mặt ông là một nụ cười giả dối. Mắt ông né tránh cái nhìn của tôi, ông giả vờ ho khẽ để che giấu sự lúng túng. Tôi ném chiếc huân chương đi, nó bay như con chim qua nóc nhà.
Mẹ giận dữ nói:
- Đi nhặt về đây!
Tôi vùng vằng, nói:
- Không nhặt!
Tư Mã Đình nói:
- Thôi, để cũng chẳng làm gì!
Mẹ đánh tôi một bạt tai.
Tôi nằm lăn xuống đất, lăn lộn như con lừa tắm khan. Mẹ dùng chân đá tôi, tôi chửi cay độc:
- Đồ mặt dày, đồ mặt dày!
Mẹ sững người, đầu gục xuống ngực rồi đột nhiên gào khóc ầm ĩ, vừa khóc vừa đi vào trong nhà. Tư Mã Đình thở dài, ngồi xổm hút thuốc dưới gốc cây lệ Hút xong mấy điếu thuốc, Tư Mã Đình đứng dậy bảo tôi:
- Cháu khuyên mẹ đừng khóc nữa!
Ông móc túi lấy tờ đăng ký kết hôn xé vụn, quẳng xuống đất rồi bỏ đi. Nhìn từ sau lưng, ông đã già thật sự.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 29
Chiếc kính lão mà mắt kính bằng đá thạch anh là quà của Tư Mã Khố thời hoàng kim tặng thầy dạy vỡ lòng Tần Nhị nhân dịp sinh nhật của thầy. Giờ đây thầy đeo món quà phản cách mạng đó ngồi trên bục giảng xây bằng gạch, hai tay cầm quyển sách giáo khoa dạy chữ quốc ngữ, kéo dài cái giọng run rẩy yếu ớt như đôi chân của thầy, giảng cho lớp Một chúng tôi - lớp Một đầu tiên của vùng Cao Mật, gồm những học sinh cao thấp không đều, tuổi tác chênh nhau khá xạ Chiếc kính nặng, trễ xuống giữa sống mũi cong queo của thầy, một giọt nước trong vắt treo lủng lẳng ở chóp mũi và cứ ở đấy không chịu rơi. Con dê to to... , thầy ngân ngạ Mặc dù đang là tháng Sáu nóng nực, thầy vẫn đội chiếc mũ lông, mặc chiếc áo chùng màu đen. Con dê to to... , chúng tôi nhại giọng thầy đọc theo, hai tay cầm sách nhưng mắt không nhìn vào sách. Con dê bé bé... , thầy dẫn đọc bằng một giọng buồn thảm. Nóng ngột ngạt, trong nhà thờ vừa tối vừa ẩm, chúng tôi cởi trần, chân đất, mồ hôi mồ kê đầm đìa, nhưng thầy vẫn khăn áo chỉnh tề, mặt tái nhợt, đôi môi thâm tím như đang bị rét cóng. Con dê bé bé... chúng tôi đọc rõ tọ Mùi khai nồng nặc, nhà thờ chẳng khác cái chuồng dệ Dê to dê bé chạy trên núi... Dê to chạy, dê bé kêu... Tôi hơi nghi ngờ sách giáo khoa. Căn cứ vào kinh nghiệm phong phú của tôi về loài dê thì con dê nào bầu vú quết đất thì không thể chạy, nó đi còn khó, nói gì đến chạy? Dê bé kêu thì có thể, chạy cũng có thể. Trên những vạt cỏ hoang, dê lớn ung dung gặm cỏ, dê nhỏ vừa chạy vừa kêu. Tôi rất muốn giơ tay hỏi thầy nhưng không dám. Trước mặt thầy là một cái thước kẻ, chuyên để đánh vào lòng bàn taỵ Dê to ăn nhiều... dê bé ăn ít... Câu này thì đúng, dê to tất nhiên ăn nhiều hơn dê bé, dê bé tất nhiên ăn ít hơn dê tọ Dê to to, dê bé bé, dê ăn no cỏ, dê quay đầu về.
Thầy vẫn đọc không mệt mỏi, nhưng trong lớp thì dần dần trở nên mất trật tự. Vu Vân Vũ mười tám tuổi, con trai một cố nông, to cao khỏe mạnh như con ngựa choai. Anh ta đã lấy Lam Thủy Liên, vợ góa một ông bán đậu phụ làm vợ. Lam Thủy Liên lớn hơn anh ta mười tuổi, bụng đã mang trống. Anh ta sắp làm bố. Anh chàng sắp sửa làm bố Vu Vân Vũ rút khẩu súng lục đã han gỉ giắt ở thắt lưng, giơ lên nhắm vào cái ngù đỏ trên mũ thầy. Dê to chạy... dê to... pằng!, ha ha hạ Thầy ngẩng lên, nhìn qua phần trên của mắt kính nên thầy chăng nhìn thấy gì cả. Thầy lại đọc tiếp. Dê to... pằng! Vu Vân Vũ bắn một phát súng miệng, chiếc ngù đỏ trên mũ thầy lắc lự Cả lớp cười ầm, thầy vớ lấy cái thước đập đánh chát xuống bàn, quát to như quan tòa:
- Yên lặng!
Lại tiếp tục đọc.
Quách Thu Sinh mười bảy tuổi con trai một bần nông rời chỗ ngồi, lom khom trèo lên bục ra phía sau lưng thầy, hai chiếc răng cửa dài như răng thỏ cắn môi dưới, hai tay làm bộ Ôm lấy đầu thầy giơ lên hạ xuống như thả đạn súng cối mà đầu thầy thì như nòng pháo, bắn liên hồi. Cả lớp hỗn loạn, học sinh cười nghiêng ngả, thằng Từ Liên Hợp to bự đấm xuống bàn rầm rầm, thằng Phương Thư Trai béo quay thì xé nát sách vở tung lên trời, những mẩu giấy bay như bươm bướm.
Thầy giáo đập thước liên hồi xuống mặt bàn cũng không làm sao hết cảnh nhốn nháo. Thầy nhìn xuống dưới lớp để tìm nguyên nhân. Quách Thu Sinh như một thằng điên, liên tục làm những động tác nhục mạ thầy trên đầu thầy. Những đứa trên mười lăm tuổi gào thét như điên cuồng.
Bàn tay Quách Thu Sinh chạm vào vành tai thầy. Thầy ngoảnh lại túm ngay được.
- Đọc thuộc lòng đi! - Thầy nghiêm giọng bảo.
Quách Thu Sinh đứng thõng hai tay trên bục làm ra vẻ hiền lành, nhưng khuôn mặt thì làm ngáo ộp. Nó chụm miệng cho môi dẩu ra như một cái rốn, nhắm một mắt lại cho miệng méo xệch sang một bên, nghiến chặt răng để hai tay vẫy vẫy.
- Đọc thuộc lòng đi! - Thầy gầm lên.
Quách Thu Sinh đọc: Bà to to, bà bé bé, bà to rượt đuổi bà bé té...
Trong tiếng cười như điên của bọn học trò, thầy Tần cầm thước, chụp lấy tay Quách Thu Sinh để lên bàn.
- Thằng ranh con này, bốp!
Cái thước vụt mạnh vào lòng bàn tay Quách Thu Sinh. Nó chỉ kêu lên một tiếng cộc lốc. Thầy nhìn nó một cái rồi lại giơ thước lên, nhưng tay thầy dừng lại giữa chừng vì trông thấy nét mặt hung hãn của tên lưu manh, cặp mắt đen rầm, những tia mắt hằn học đầy vẻ khiêu khích. Cặp mắt gà của thầy Tần đột nhiên dịu lại, cái tay cầm thước rũ xuống. Thầy lẩm bẩm điều gì đó, gỡ kính bỏ vào chiếc hộp kính bằng sắt, đậy chiếc giẻ lau kính lên trên, đậy nắp lại rồi bỏ vào túi. Thầy cũng cho luôn vào túi cái thước đã từng đánh Tư Mã Khố, rồi thầy bỏ mũ vái Quách Thu Sinh một vái, quay xuống lớp vái một vái nữa, nói với lớp bằng một giọng chua loét, nghe vừa khó chịu vừa thương hại:
- Thưa các ông lớn, Tần Nhị tôi chậm hiểu ngu lâu, không lượng súc mình, dám châu chấu đá xe, đánh chết mà không chết, mà không chết thì là đạo tặc. Tôi biết tội đã nhiều, rất mong các vị lượng thứ!
Nói xong thầy chắp tay trước bụng vái mấy vái rồi khom lưng tôm, nhón gót nhẹ nhàng đi ra khỏi nhà thờ. Từ bên ngoài vẳng lại tiếng ho đầy nước mắt của thầy. Bài học đầu tiên kết thúc là như vậy. Bài thứ hai là âm nhạc.
Âm nhạc. Cô giáo Kỷ Quỳnh Chi trên huyện cử về, dùng chiếc thước chỉ vào hai chữ viết bằng phấn trắng trên bảng đen, giọng lanh lảnh:
- Tiết này chúng ta học âm nhạc. Không có sách giáo khoa, sách giáo khoa ở đây ở đây ở đây! - Cô chỉ vào đầu, ngực và bụng mình. Cô quay mặt lại bảng đen, vừa viết vừa nói. - Âm nhạc bao gồm nhiều thứ, thổi sáo này, kéo nhị này, ca hát này, diễn kịch này... đều là âm nhạc, bây giờ các em chưa hiểu thì sau này sẽ hiểu. Ca hát là hát nhưng không hoàn toàn là hát, ca hát là một hoạt động âm nhạc quan trọng, và cũng có thể nói là một nội dung quan trọng của môn nhạc ở một trường tiểu học hẻo lánh như trường chúng tạ Hôm nay ta học một bài hát. Cô viết cành cạch trên bảng. Qua cửa sổ nhìn ra cánh đồng, tôi trông thấy Tư Mã Lương bị tước quyền đến trường vì là con phần tử phản cách mạng, thấy Sa Tảo Hoa, con gái Hán gian đang chăn dê, ngẩn ngơ nhìn vào lớp học. Chúng đứng trong vạt cỏ cao lút đầu gối, sau lưng là mười mấy cây hướng dương thân mập, lá to bản, hoa vàng rực. Cái bản mặt hoa hướng dương sao mà buồn, lòng tôi càng buồn hơn. Tôi liếc nhìn những cặp mắt long lanh trong cảnh u ám mà ứa nước mắt. Tôi ngắm nghía chiếc khung cửa sổ bằng gỗ liễu, thầm mong mình biến thành con chim họa mi, tắm mình trong ánh nắng rực rỡ của một chiều tháng Sáu, đậu trên dài hoa hướng dương đầy những con sâu nhỏ. Bài hát hôm nay chúng tôi học là bài Phụ nữ giải phóng cạ Cô giáo cúi viết nốt những lời cuối cùng của bài hát. Bờ vai của cô tròn lẳn như mông ngựa. Một mũi tên bằng gỗ, phần đuôi cắm lông gà, phần mũi gắn cục nhựa đào, bay vụt bên tôi, trúng vào mông cô giáo. Lớp học nổ ra một trận cười khả ố. Thằng Đinh Kim Câu ngồi sau lưng tôi là thằng bắn phát tên đó. Nó giơ cây cung lên để khoe, rồi giấu vội đi. Cô giáo dạy nhạc rút cái tên ở mông ngắm nghía, cười một tiếng rồi phóng xuống mặt bàn, cái tên rung lên rồi đứng yên.
- Bắn giỏi đấy! - Cô bình tĩnh nói.
Cô bỏ roi xuống, cởi áo quân phục đã bạc màu để lên bục giảng, một cô giáo hoàn toàn khác trước với chiếc áo sơ mi trắng bỏ trong quần, thắt lưng da to bản, vì dùng lâu ngày nên lên nước đen bóng. Vòng eo nhỏ, ngực nhô cao, mông nở, chiếc quần bộ đội ống rộng, giặt nhiều đến nỗi biến thành màu trắng, chân đi đôi giày thể thao hợp thời trang. Cô ăn mặc sao mà thanh thoát, sao mà gọn ghẽ. Để càng thanh mảnh hơn, cô còn thít thêm một nấc dây lưng. Miệng mỉm cười, cô đẹp như con hồ ly trắng. Nụ cười vụt tắt cô tàn nhẫn như con cáo trắng.
- Các em vừa làm cho thầy Tần tức giận bỏ đi, anh hùng nhỉ?
Cô nói mỉa, rút cái tên ở bàn lên, dùng ba ngón tay nắn nắn, nói:
- Một cung thủ đáng gờm đây, Lý Quảng hay Hoa Vinh đây? Có dám đứng dậy xưng tên xưng họ không? Cặp mắt đẹp của cô lướt trên đầu chúng tôi. Không ai đứng lên. Cô cầm chiếc roi quật đánh bốp lên bục giảng. Tôi cảnh cáo các em, cô nói, cái trò lưu manh mà các em thi thố ở lớp tôi thì hãy gói ghém lại cho kỹ rồi đưa cho mẹ các em cất đi!...
- Thưa cô, mẹ em chết rồi ạ! - Vu Vân Vũ nói to.
- Mẹ của ai chết rồi? Cô giáo hỏi, đứng dậy!
Vu Vân Vũ đứng lên, thái độ tỏ ra bất cần.
- Đi lên trên này- Cô nói - Lên đây, để tôi nhìn kỹ em một tí.
Vu Vân Vũ đội một chiếc mũ đơn bóng nhẫy như da trăn để che những cái sẹo trên đầu, nghe nói bốn mùa trong năm, chiếc mũ này không bao giờ bỏ ra, ngay cả khi ngủ, khi tắm dưới sông. Với chiếc mũ đó, Vu Vân Vũ nghênh ngang bước lên bục giảng.
- Em tên là gì? - Cô cười giọng ôn tồn hỏi.
Vu Vân Vũ xưng tên như một anh hùng.
- Các em, cô nói, tôi họ Kỷ, tên là Quỳnh Cái, từ nhỏ đã không cha không mẹ, lớn lên bên bãi rác, đến năm lên bảy tuổi thì theo một gánh xiếc rong phiêu bạt giang hồ, từng thấy lưu manh đủ loại. Học lái mô tô bay, đi trên dây, nuốt kiếm, phun ra lửa, rồi sau chuyển sang dạy thú, lúc đầu dạy chó, rồi dạy khỉ, rồi dạy gấu, cuối cùng là dạy hổ. Tôi có thể bắt chó nhảy tròng, bắt khỉ trèo cây, gấu cưỡi xe, hổ nhào lộn. Năm mười bảy tuổi tôi tham gia cách mạng, từng quần nhau với kẻ thù, đâm vào dao trắng, rút ra dao đỏ. Năm hai mươi tuổi tôi học trường đại học quân chính Hoa Đông, học đánh bóng, vẽ tranh, nhảy múa ca hát. Năm hai mươi lăm tuổi, tôi kết hôn cùng trưởng phòng trinh sát cục Công an Mã Thắng Lợi, anh tinh thông nghiệp vụ, khả năng chiến đấu không kém gì tôi.
Cô nói tất cả mọi chuyện, chỉ trừ chuyện về trấn Đại Lan phát động phong trào cải giá là không nói.
- Hừ, các em cho rằng tôi nói khoác phải không?
Cô giơ tay sửa lại mải tóc ngắn trên đầu. Nước da cô nâu bóng, khỏe mạnh, bầu vú tràn trề sức sống đẩy ngực áo sơ mi căng phồng. Mũi thanh tú, đôi môi đường nét rõ ràng, răng trắng bóng. Kỷ Quỳnh Chi này hổ còn không sợ - cô khinh bỉ nhìn Vu Vân Vũ, giọng anh chị - Chẳng lẽ sợ em?
Trong khi nói vậy, cô giơ cái roi dài luôn rất khéo vào viền mũ của Vu Vân Vũ rồi lắc cổ tay một cái hất chiếc mũ ra khỏi đầu như một bánh rán trong chảo. Tất cả chỉ diễn ra trong một giây. Vu Vân Vũ vội ôm lấy cái đầu đầy những sẹo, vẻ ngang tàng biến mất, mặt thộn ra. Nó nước mắt tìm cái mũ. Cô giơ cao cái oi rung rung cho cái mũ quay tít trên đầu roi một cách tài tình, khiến hồn vía Vu Vân Vũ bay đi đâu mất. Cô hất roi một cái, chiếc mũ bay lên không trung, rồi lại rơi một cách chính xác xuống đầu roi, tiếp tục quay tít. Tôi thấy hoa cả mắt. Cô lại hất cái mũ lên cao, đợi khi nó rơi xuống nửa chừng, khẽ vụt một cái khiến nó rơi dưới chân Vu Vân Vũ.
- Đội mũ vào, cút về chỗ của em! - Cô ngán ngẩm bảo nó - lượng muối tôi ăn còn nhiều hơn số bột mì em đã ăn, những cây cầu tôi đã đi qua còn nhiều hơn những con đường mà em đã đi. Rồi cô nhổ mũi tên cắm trên bàn, nói:
- Em, chính là em! Đem cái cung lên đây!
Đinh Kim Câu hốt hoảng đứng dậy, ngoan ngoãn cầm cái cung lên để trên bục giảng của cô giáo.
- Về chỗ! - cô nói.
Cô cầm cây cung lên giọng thử, nói:
- Cánh cung mềm quá, dây cũng không đủ căng. Dây cung phải dùng gân bò mới tốt. Cô lắp tên trên sợi dây cung kết bằng lông đuôi ngựa, kéo khẽ, nhằm thẳng vào đầu Đinh Kim Câu, nó vội vàng rúc xuống gầm bàn. Một con nhặng xanh đang bay trong tia nắng từ cửa sổ lọt vào. Kỷ Quỳnh Chi ngắm chuẩn con nhặng, dây cung bật đánh tách một tiếng, con nhặng bị bắn rơi xuống đất.
- Còn ai không phục nữa thôi? - Cô hỏi.
Lớp học im như thóc. Cô mỉm cười ngọt ngào, cái lúm đồng tiền trên má đầy quyến rũ. Cô nói:
- Bây giờ ta chính thức lên lớp, tôi đọc một lượt lời của bài hát: Xã hội cũ, như giếng sâu vạn trượng, nằm dưới đáy là các tầng lớp nhân dân, đáy của đáy là chị em phụ nữ? Xã hội mới, như mặt trời chói lọi, nắng trùm lên người làm ruộng chúng ta, vươn mình là phụ nữ chúng ta.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 30
Trong môn nhạc của cô Kỷ Quỳnh Chi, tôi đã tỏ ra có một trí nhớ xuất chúng và tố chất âm nhạc rất tốt. Mặc dù khi mới hát đến câu đáy của đáy là chị em phụ nữ trong bài Phụ nữ giải phóng ca, mẹ bê bình sữa bọc trong chiếc khăn mặt trắng đến dưới cửa sổ bằng gỗ liễu, luôn miệng gọi khẽ:
- Kim Đồng, Kim Đồng, uống sữa đi này?
Tiếng gọi của mẹ và mùi sữa đã phân tán ghê gớm sức chú ý của tôi, nhưng đến cuối tiết học, tôi là người duy nhất hát trọn vẹn bài Phụ nữ giải phóng ca một cách chuẩn xác. Cô Kỷ Quỳnh Chi biểu dương tôi trước lớp học bốn mươi học sinh. Cô hỏi tên tôi, bảo tôi đứng lên hát lại lần nữa. Cô vừa tuyên bố hết giờ thì mẹ đã đưa bình sữa vào bên trong cửa sổ. Tôi do dự, mẹ bảo:
- Con uống đi! Con giỏi giang như vậy, mẹ mừng lắm!
Trong lớp có tiếng cười rúc rích.
- Cầm lấy đi con, có gì mà ngượng kia chứ? - Mẹ nói.
Cô Quỳnh Chi thơm mùi kem đánh răng đi tới, chiếc roi chống trên nền nhà rất điệu nghệ, nói ra ngoài cửa sổ:
- Bác đấy ạ, khi đang lên lớp bác đừng đến làm mất trật tự nữa nhé!
Nghe giọng nói của cô, mẹ sững người, cố dướn lên ngó vào trong, lễ phép nói:
- Thưa cô, đây là thằng con một của tôi, đợt sữa đầu sáng này ít quá, nó ăn không đủ no, sợ nó không cầm cự được đến chiều!...
Cô Quỳnh Chi nhìn tôi cười, nói:
- Em cầm lấy đi, kẻo mẹ mỏi tay.
Tôi đỏ bừng mặt đón lấy bình sữa. Cô Quỳnh Chi nói với mẹ:
- Thế này mãi sao được? Phải cho em nó ăn cơm. Lớn lên đi học trung học, học dại học, chẳng lẽ vẫn phải dắt theo một con dê?
Cô tưởng tượng cái cảnh một sinh viên đại học dắt theo một con dê vào lớp mà bật cười không chút ác ý.
- Em nó bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Cô hỏi.
- Mươi ba tuổi rồi, tuổi Tý - Mẹ nói - Tôi cũng buồn lắm cô ạ, nhưng mà nó ăn vào thứ gì là nôn ra thứ ấy, bụng lại còn đau nữa, đau đến nỗi toát mồ hôi hột, sợ phát khiếp!...
Tôi bảo mẹ, giọng không vui:
- Thôi mà mẹ, mẹ dùng nói nữa, con không uống đâu!
Tôi đưa trả cái bình. Cô Quỳnh Chi búng búng tai tôi, nói:
- Trò Kim Đồng, đừng làm thế, thói quen sẽ sửa dần, uống đi!
Tôi nhìn cặp mắt long lanh của cô trong ánh sáng mờ mờ, trong lòng cảm thấy vô cùng xấu hổ. Cô Quỳnh Chi nói:
- Các em nhớ nhé, không được giễu cợt nhược điểm của người khác!
Nói xong, cô bỏ đi.
Tôi quay mặt vào tường, uống thật nhanh hết sạch bình sữa rồ tôi trả cái bình cho mẹ, nói:
- Lần sau mẹ đừng đến nữa!
Giờ nghỉ giữa hai tiết học, Vu Vân Vũ và Đinh Kim Câu vốn dĩ càn quấy, bây giờ trở nên nghiêm chỉnh, ngồi như phỗng trên ghế. Thằng Phương Thư Trai béo ị cởi dây lưng trèo lên bàn, buộc một đầu dây lên xà nhà, còn đầu kia làm thành cái thòng lọng, biểu diễn trò thắt cổ. Nó nhại giọng the thé của bà góa, khóc lảnh lót, kể lể: Anh ơi là anh, anh nhắm mắt xuôi tay về Tây phương cực lạc bỏ lại thân em vò võ một mình, trong lòng như có con trùng ngọ nguậy, chẳng thà em xuống suối vàng cho xong.
Khóc lóc, kể lể, hai má nó bạnh ra như hai má lợn, rồi thì nó khóc thật, hai dòng nước mắt chảy ròng ròng, nước mũi cũng chảy tràn qua môi.
- Tôi chẳng thiết sống nữa!
Nó gào lên, nhón gót chui đầu vào thòng lọng. Hai tay nắm hai bên thòng lọng, nó nhảy dựng lên, mỗi lần nhảy một lần kêu lên:
- Tôi chẳng thiết sống nữa!
Lớp học ồ lên tiếng cười quái dị. Thằng Vu Vân Vũ vẫn chưa hết bực, nó ấn tay xuống bàn, rồi như ngựa đá hậu, nó giơ chân đạp lại đằng sau một cái, chiếc bàn đổ kềnh. Thân hình to béo của thằng Phương Thư Trai treo lủng lẳng dưới xà nhà. Nó rú lên, hai tay cố ghì lấy dây thừng, hai chân ngắn ngủn quẫy lia lịa, rồi chậm dần lại, mặt tím ngắt, miệng sùi bọt, phát ra tiếng òng ọc của người đang giẫy chết.
- Treo cổ chết rồi! - mấy đứa nhỏ hốt hoảng kêu lên, vừa kêu vừa chạy ra ngoài sân, dẫm bành bạch mà gào:
- Treo cổ chết rồi! Phương Thư Trai treo cổ chết rồi!
Hai tay thằng Phương Thư Trai buông thõng, hai chân không quẫy đạp nữa, mình nó như dài ra, một tiếng rắm rất kêu vọt ra khỏi dũng quần. Ngoài sân, bọn học sinh chạy tán loạn, không biết làm gì. Cô giáo Kỷ Quỳnh Chi và mấy giáo viên không biết tên, càng không biết các thầy dạy môn gì, từ phòng giáo viên chạy ra.
- Ai chết? Ai treo cổ chết? - Họ vừa hỏi to vừa chạy về phía lớp học, những đống rác trên sân níu chân họ.
Kỷ Quỳnh Chi nhảy tâng tâng như con hươu cái, chỉ trong vài giây cô đã vào đến lớp học. Đang từ ngoài nắng chạy vào chỗ tối, cô thoáng vẻ ngỡ ngàng, hỏi to:
- Ở đâu?
Thân hình nặng nề của Phương Thư Trai rơi bịch xuống đất dải thắt lưng đen đứt tung vì không chịu nổi sức nặng của nó.
Cô Kỷ Quỳnh Chi ngồi xổm bên cạnh thằng Phương Thư Trai, luồn tay vào nách lật nó nằm ngửa. Tôi trông thấy cô chau mày, môi trên dẩu ra che lấy mũi. Người Phương Thư Trai thối hoắc. Cô đưa tay trước mũi xem nó còn thở hay không, rồi ấn huyệt nhân trung, nét mặt cô tỏ ra vô cùng bực bội. Phương Thư Trai giơ tay gạt tay cô ra. Cô chau mày đứng dậy, đá cho nó một cái, nói:
- Đứng dậy?
- Ai đá đổ chiếc bàn? - cô Quỳnh Chi đứng trên bục, nghiêm giọng hỏi.
- Em không biết, em không biết, em không biết!
- Vậy thì ai trông thấy? Hoặc ai đã đá đổ? Thử dũng cảm một lần xem nào?
Mọi người cúi gằm, Phương Thư Trai khóc òa.
- Có câm miệng lại không - cô Quỳnh Chi đập bàn quát - muốn chết thì quá dễ, lát nữa tôi sẽ cho em biết vài kiểu chết. Tôi không tin là không ai trông thấy kẻ đã đá đổ chiếc bàn. Kim Đồng, em là một học sinh thực thà, em nói đi!
Tôi cúi đầu.
- Em hãy ngửng lên nhìn cô đây này - cô nói - Cô biết là em sợ, cô chịu trách nhiệm về chuyện này, em đừng sợ?
Tôi ngẩng nhìn đôi mắt rất dẹp của người chiến sĩ cách mạng, nhớ lại mùi kem đánh răng tỏa ra từ miệng cô, trong lòng dễ chịu như đứng trước luồng gió mát.
- Cô tin rằng em có đủ can đảm tố cáo người xấu việc xấu, vậy mới là phẩm chất của thanh thiếu niên của nước Trung Quốc mới.
Cô nói rất hào hùng. Tôi liếc ngang, bắt gặp ánh mắt uy hiếp của Vu Vân Vũ. Tôi lại gục đầu xuống ngực.
- Vu Vân Vũ, đứng dậy? - cô bình tĩnh gọi
- Không phải em! - Vu Vân Vũ kêu to.
Cô mỉm cười hỏi:
- Sao em cuống lên thế? Sao em lại gào lên?
- Dù sao cũng không phải là em! - Vu Vân Vũ xiết móng tay xuống mặt bàn, nói khẽ.
Cô Quỳnh Chi nói:
- Vu Vân Vũ, có gan ăn cắp có gan chịu đòn!
Vu Vân Vũ đứng dậy, từ từ ngẩng đầu lên, nét mặt trở nên dữ dằn. Nó quăng sách vở xuống đất cho bảng đả và phấn viết vào chiếc cặp màu xanh kẹp dưới nách, giọng khinh miệt:
- Tôi đá đổ cái bàn đấy làm gì tôi nào? Tôi đ. vào học nữa! Ông có thích học đâu tại các người cứ vận động ông đấy chứ!
Hắn nghênh ngang bước ra cổng, người nó mới cao làm sao, xương cốt nó mới to làm sao, nó hoàn toàn có dáng vóc của một thằng đàn ông ngạo mạn và ngỗ ngược. Cô Quỳnh Chi đứng chặn lối ra cổng, nó quát:
- Tránh ra! Nhà người dám làm gì ông?
Cô Kỷ Quỳnh Chi cười mát:
- Ta phải cho cái thằng hèn này biết tay! Rồi phóng chân đá trúng đầu gối Vu Vân Vũ. Nó ối lên một tiếng quị xuống.
- Kẻ ác thì phải bị trừng phạt - cô Quỳnh Chi nói.
Vu Vân Vũ móc cái bảng đá trong túi xách liệng trúng ngực cô Quỳnh Chi, cô rên lên một tiếng, ôm lấy bầu vú bị thương.
Vu Vân Vũ nói:
- Mày tưởng tao sợ mày hả? Nhà tao ba đời cố nông, cô dì bà ngoại tao đầu là bần nông, mẹ tao đẻ ra tao trên đường đi ăn xin.
Cô Quỳnh Chi xoa xoa bầu vú, nói:
- Ta thật tình không muốn nhà ngươi làm bẩn tay ta - Hai bàn tay cô đan vào nhau, những đốt ngón tay kêu răng rắc - Đừng nói nhà mi ba đời cố nông mà ba mươi đời cố nông thì ta cũng phải cho mi một bài học!
Cô vừa nói vừa tung một quả đấm như chớp trúng cằm Vu Vân Vũ. Hắn rú lên một tiếng, lảo đảo. Quả đấm thứ hai mạnh hơn, trúng giữa ngực, tiếp theo là một cú đá trúng mắt cá chân. Hắn ngã lăn ra, khóc hu hu như một đứa trẻ. Cô Quỳnh Chi túm cổ áo dựng hắn dậy, xoay hắn lại rồi thúc gối vào bụng dưới của hắn, đồng thời phóng tay ra. Vu Vân Vũ ngã ngửa trên một đống gạch vụn. Cô Quỳnh Chi tuyên bố:
- Mi đã bị đuổi học!
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 31
Chúng nó mỗi đứa đều cầm trong tay một cành liễu, chặn tôi trên con dương mòn từ trường về thôn. ánh nắng xiên khoai, mặt đứa nào đứa ấy vàng như sáp. Vu Vân Vũ với chiếc mũ da trăn và một bên mặt sưng vù, Quách Thu Sinh cặp mắt độc ác, Đinh Kim Câu với vành tai quăn như mộc nhĩ, lại còn tên nổi tiếng gian giảo trong thôn Ngụy Sùng Dê với hàm răng đen xỉn. Mỗi thằng một vẻ hiện ra lồ lộ dưới ánh nắng đã dịu của buổi chiều tà. Hai bên đường là rãnh nước bẩn, mấy con vịt lông cánh tơi tả, kêu cạc cạc. Tôi lánh ra tận mép đường, định đi vòng qua chúng nó. Ngụy Sừng Dê giơ cái gậy bằng cành liễu ra chặn tôi.
- Các anh làm gì thế? - tôi run run hỏi.
- Làm gì hả, thằng con lai? - trợn trừng cặp mắt gà chọi, nó nói - Hôm nay chúng tao phải dạy cho thằng con lai của lão mục sư tóc đỏ một bài học!
- Tôi có trêu chọc gì các anh đâu? - tôi nói, cảm thấy mình bị Oan.
Thằng Vu Vân Vũ quất tôi một roi vào mông. Tôi thấy rát như phải bỏng.
- Tôi sao thế này?...
Bốn ngọn roi dâu thi nhau quật lên cố, lên lưng, lên mông, lên chân tôi. Tôi gào khóc. Thằng Ngụy Sừng Dê rút trong túi ra con dao cán bằng xương khua khua trước mặt tôi, dọa:
- Câm mồm! Mày mà khóc ông cắt lưỡi, khoét mắt, xẻo mũi mày đi! Con dao lóe ánh thép xanh, tôi sợ quá im thin thít.
Chúng thúc gối vào mông tôi, vụt roi vào bắp chân tôi, như bốn con sói quần một con dê, dồn tôi vào sâu hơn trong cánh đồng. Nước trong rãnh hai bên đường lặng lẽ chảy, bốc lên mùi khăn khẳn của những thứ bị thối rữa, những bọt khí nối đuôi nhau chạy lên mặt nước. Tôi mấy lần quay lại van xin:
- Các anh tha cho tôi?
Nhưng mỗi lần như vậy lại hứng thêm một trận đòn, định khóc to nhưng lại sợ con dao của thằng Ngụy Sừng Dệ Tôi chỉ còn cách duy nhất là cắn răng mặc cho chúng nó đánh, đến cái nơi mà chúng nó bắt phải đến.
Qua chiếc cầu ken bằng những bó cây cao lương, chúng bắt tôi dừng lại trước một bụi tì mạ Đũng quần tôi dính nhom nhớp, không biết là máu hay nước đái. Nắng hồng nhuốm đỏ mặt chúng. Chúng dàn thành hàng ngang, những chiếc roi đã gãy nát phần ngọn, vỏ trước hết chỉ còn phần lõi màu xanh. Những chiếc lá tì ma to bằng cái quạt, con cuốc lặc lè cái bụng, kêu thê thảm trong đám lá. Mùi hăng hăng của lá cây tì ma khiến tôi chảy nước mắt. Ngụy Sừng Dê hỏi lấy lòng Vu Vân Vũ:
- Đại ca, ta nên xử lý thằng lỏi này như thế nào?
Vu Vân Vũ sờ bên má sung tím, nói:
- Theo tao thì nên giết quách nó đi.
- Không nên, không nên - Quách Thu Sinh nói - anh rể nó là phó huyện trưởng, chị nó cũng làm quan, giết chết nó thì ta cũng không sống nổi!
Ngụy Sừng Dê nói:
- Giết nó rồi kéo xác ra sông Mục, vài ngày sau là trôi ra biển làm mồi cho cá, chẳng ma nào biết?
Đinh Kim Câu nói:
- Tôi không tham gia vào việc giết nó. Anh rể nó là Tư Mã Khố cái tên ma vương giết người như ngóe ấy không biết lúc nào trở về, giết em vợ nó, e rằng nhà chúng ta sẽ không sót một mống!
Trong khi chúng nó thảo luận về số phận của tôi, tôi đứng bên như người không liên quan, không sợ mà cũng không bỏ chạy, đầu tôi mụ đi. Thậm chí tôi còn có thời gian nhìn ra xa, nơi cánh đồng cỏ đỏ rực như máu và ngọn núi Trâu Nằm màu vàng kim, và cả cánh đồng hoa màu xanh ngắt rộng mênh mông ở phía chính nam. Con đê sông Mực như một con rồng uốn khúc, ẩn hiện phía sau những vạt hoa màu cao, lộ hẳn ra nơi những vạt hoa màu thấp. Những con chim trắng bay là là mặt nước như những mẩu giấy trắng. Biết bao chuyện cũ lần lượt lướt qua trong đầu, tôi bỗng cảm thấy mình đã sống ở trên đời hàng trăm năm.
- Các anh giết tôi đi, giết đi, tôi sống thế đủ rồi!
Trong ánh mắt chúng lóe lên những tia ngạc nhiên. Chúng nhìn nhau rồi nhìn tôi, làm như chưa nghe rõ tôi nói gì. Tôi nhắc lại, kiên quyết, và khóc hu hu, nước mắt đặc quánh chảy vào miệng tôi, mặn và tanh như máu. Lời đề nghị thành thực của tôi khiến chúng khó xử. Chúng lại nhìn nhau, đưa mắt dò hỏi nhau. Tôi được thể, bốc lên:
- Tôi van các ông, cho tôi rảnh nợ đi, giết kiểu nào cũng được, miễn là nhanh, đừng hành hạ tôi?
- Mày tưởng chúng ông không dám giết mày phỏng? - Vu Vân Vũ bóp cằm tôi băng những ngón tay cứng như thép, nhìn thẳng vào mắt tôi để uy hiếp.
Tôi nói:
- Tôi đâu dám, tôi đâu dám, tôi chỉ yêu cầu các ông nhanh lên, giết tôi đi!
Vu Vân Vũ nói:
- Anh em, hôm nay dính vào cái thằng này, xem ra không giết không được rồi Đã nói là làm, giết quách nó đi!
Quách Thu Sinh nói:
- Phải giết thì anh giết, tôi không nhúng vào
- Thằng ranh, mày định phản bội phải không? Vu Vân Vũ túm lấy cánh tay Quách Thu Sinh mà lắc - Chúng ta như bốn con chuồn chuồn cột chung một sợi chỉ, đừng ai nghĩ tới chuyện bỏ chạy? Mày mà chạy là tao tố cáo mày hiếp dâm con bé dở người nhà họ Vương?
Ngụy Sùng Dê nói:
- Thôi, xin hai đại ca dùng cãi nhau nữa, ta đang giết người mà? Nói thật nhé, bà già ở Tiểu Thạch Kiều là tớ giết đấy, tớ không có thù oán gì với bà ta, chỉ là thử xem lưỡi dao của tớ có sắc không thôi. Trước kia tớ cứ tưởng giết người là tốn sức lắm, thực ra hết sức đơn giản, tớ dùng con dao này đâm vào bụng bà ta, con dao lút cán, như đâm vào tảng đậu phụ. Tớ rút lưỡi dao ra thì bà ta đã chết, không kịp kêu một tiếng!
Nó liếc lưỡi dao vào quần, nói:
- Xem đây! - rồi chĩa mũi dao vào bụng tôi đâm tới.
Tôi khoan khoái nhắm mắt lại, hình dung máu tươi vọt ra từ bụng tôi bắn vào mặt chúng. Chúng chạy đến bên mép nước, xắn quần xắn áo rửa máu trên mặt. Nước đầm mà chúng vốc lên quánh như mật mía, không những không sạch máu, mà làm cho mặt càng bẩn thêm. Cùng với máu vọt ra, ruột của tôi cũng đùn ra một đống, trườn qua vạt cỏ rơi xuống lòng mương. Rồi sau đó là mẹ vừa kêu gào vừa nhảy xuống nước vớt ruột tôi lên vắt từng vòng trên cánh tay, vừa vắt vừa đi tới trước mặt tôi, thờ phì phò vì nặng. Mẹ nhìn tôi đau xót, hỏi: - Con ơi, con làm sao thế này? - Mẹ, chúng nó giết con rồi? Nước mắt mẹ rơi lã chã trên mặt tôi. Mẹ quì xuống, nhét từng khúc ruột vào bụng tôi, nhưng chúng ương ngạnh, nhét vào lại chui ra. Mẹ bực phát khóc, nhưng cuối cùng cũng nhét hết ruột vào trong bụng, rồi mẹ lấy kim chỉ cài trên mái tóc xuống khâu vết thương lại như người ta khâu quần áo. Tôi cảm thấy bụng đau nhói, mở mắt nhìn thì ra không phải mơ ngủ, mà hiện thực sỗ sàng là tôi bị chúng đá ngã lăn dưới đất, bốn thằng vạch chim đái vào mặt tôi, mặt đất bồng bềnh quay đảo tôi cảm thấy thân thể tôi như dầm trong nước.
- Cậu ơi cậu!
- Cậu ơi, cậu!
Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa đứa giọng cao đứa giọng thấp vang lên từ phía sau bụi tì mạ Tôi mở miệng định gọi chúng nó thì miệng tôi đã đầy nước dái. Bọn Vu Vân Vũ vội kéo quần lên, nấp trong bụi tì ma.
Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa như một cặp Kim Đồng Ngọc Nữ, đứng bên cầu ghép bằng cây cao lương mà gọi. Tiếng gọi vang xa khắp cánh đồng, khiến tôi thấy mủi lòng, nghèn nghẹn trong họng. Tôi lồm cồm bò dậy, chưa đứng vững đã lại gục xuống. Tôi nghe thấy tiếng reo phấn khởi của Sa Tảo Hoa:
- Đây rồi! Hai đứa xốc nách tôi đứng dậy, người tôi cứ lắc lư như con lật đật. Sa Tảo Hoa nhìn mặt tôi òa khóc. Tư Mã Lương sờ mông toi, tôi rên lên đau đớn. Nó nhìn bàn tay dính máu và nhựa của roi dâu, nghiến răng nói:
- Cậu ơi ai đánh cậu đến nông nỗi này?
- Chúng nó... - Tôi nói.
ư Mã Lương hỏi:
- Chúng nó là ai?
- Vu Vân Vũ, Ngụy Sừng Dê, Đinh Kim Câu và thằng Quách Thu Sinh!
Tư Mã Lương nói:
- Cậu ơi, ta hãy về nhà đã, ngoại đang cuống lên ở nhà. Thằng Vân Vũ, thằng Sừng Dê, thằng Kim Câu, thằng Thu Sinh kia, bốn thằng khốn kiếp hãy nghe đây, chúng mày có thể trốn hôm nay, nhưng không trốn được ngày mai, trốn được mồng một nhưng không trốn được ngày rằm! Chúng mày nhổ một lông chân của cậu tao, thì tao sẽ dòng cọc vào nhà chúng mày!
Tư Mã Lương nói chưa dứt lời, bốn thằng kia vừa cười ha hả vừa nhảy ra.
- Đ. mẹ! - Vu Vân Vũ nói - Thằng lỏi này ở đâu ra mà phét lác dữ thế? Chúng nhặt những cành liễu giờ đây đã tướp như xơ mướp, hè nhau xông tới như bầy chó dữ.
- Tảo Hoa, dìu cậu Kim Đồng? - Tư Mã Lương gọi to, dẩy tôi ra, xông tới trước mặt những tên cao to hơn nó nhiều. Bọn kia giật mình trước tinh thần quyết tử của nó. Không đợi chúng đánh tới, cái đầu răn như đá của Tư Mã Lương đã húc trúng bụng dưới của Ngụy Sừng Dệ Thằng cha hung bạo, luôn miệng chửi thề này gục xuống cuộn tròn như một con nhím. Ba thằng kia múa roi vun vút xông tới. Tư Mã Lương hai tay che đầu, quay mình chạy, bọn kia rượt theo. Tư Mã Lương quả đã thành công trong việc khơi dậy sự hung hăng của bọn lưu manh. So với sự nhu nhược, nhũn như con chi chi của Kim Đồng thì con sói con Tư Mã Lương thú vị hơn nhiều. Bọn Vu Vân Vũ vừa quát tháo vừa đuổi theo, chúng mở cuộc truy kích trên đồng cỏ. Nếu như Tư Mã Lương là con sói con, thì bọn Vu Vân Vũ to xác nhưng chậm chạp như những con chó nhà. Thằng Ngụy Sừng Dê là con vật lai giữa chó sói và chó nhà, vì vậy nó là đối tượng đả kích số một của Tư Mã Lương. Đánh quị Ngụy Sùng Dê là đánh quị đầu não của lũ chó. Tư Mã Lương chạy lúc nhanh lúc chậm và áp dụng chiến thuật như đối với quỉ nhập tràng, luôn luôn rẽ ngoặt, khiến chúng luôn luôn bị hẫng. Vì nôn nóng, chúng đã mấy bận trượt ngã, có lút đến đầu gối rẽ ra dưới chân chúng. Từng đàn thỏ đồng nhỏ bằng nắm tay kinh hoàng chạy tán loạn, một con không kịp tránh, bị Vu Vân Vũ xéo lòi ruột. Tư Mã Lương không phải chỉ có chạy, trong khi chạy, nó có những lần đánh lại. Nó rẽ ngoặt gấp để bứt bọn kia một khoảng cách, rồi tấn công chớp nhoáng một trong ba tên, ném bùn vào mặt Đinh Kim Câu, cắn rách mu bàn tay Vu Vân Vũ. Nó còn vận dụng chiến thuật của cô hiếng, tóm lấy hạ bộ của thằng Quách Thu Sinh mà bóp. Ba thằng kia đểu bị thương, Tư Mã Lương cũng bị chúng vụt trúng đầu mấy lần. Chúng chạy chậm dần, Tư Mã Lương rút về phía cầu. Ba tên tụm lại một chỗ, miệng sùi bọt thở như kéo bễ, vừa đuổi vừa dè chừng Tư Mã Lương. Thằng Ngụy Sùng Dê đã thở được hắn cong lưng như một con mèo ngồi dậy rồi từ từ đứng lên tìm con dao. Con dao rơi xuống bãi cỏ.
- Đ. mẹ mày, cái giống Hoàn Hương Đoàn, tao không thịt mày thì chớ kể!
Hắn vừa lúi húi tìm con dao vừa chửi một mình, lòng trắng trong mắt hắn đầy những tia máu. Sa Tảo Hoa nhanh như con sóc, nhảy tới chộp lấy con dao, rồi hai tay cầm cán dao, nó chạy lại sau lưng tôi. Ngụy Sùng Dê đứng thẳng lên chìa tay ra dọa:
- Con nhà Hán gian, trả dao cho tao!
Sa Tảo Hoa không nói gì, dùng mông hẩy tôi đi giật lùi. Nó nhìn không chớp những chai tay trên bàn tay thằng Sừng Dệ Thằng Sừng Dê mấy lần nhào tới nhưng vội lùi lại vì sợ con dao sắc trong tay Tảo Hoa. Tư Mã Lương đã chạy về chỗ đầu cầu. Vu Vân Vũ gọi to:
- Đ. mẹ thằng Sừng Dê, lại đây mau, dập chết con thằng Hoàn Hương Đoàn này!
Ngụy Sừng Dê hậm hực:
- Lát nữa sẽ cho con ranh biết tay! Nó định nhổ một cây tì ma làm vũ khí, nhưng cây tì ma to quá, không nhổ được. Nó đành bẻ lấy một cành chạy về chỗ cây cầu.
Sa Tảo Hoa bám sát tôi, bảo vệ tôi qua cầu. Dưới cầu hẹp lại nên trông rõ nước chảy, những con cá nho thấy động nhảy lung tung, con nhảy qua, con mắc cạn trên mặt cầu, cong người giẫy tanh tách. Tôi cảm thấy dính nhơm nhớp giữa hai dùi, những chỗ bị đánh ở lưng, mông, bắp chân và gáy rát như chèm lửa. Tôi cảm thấy mùi tanh lợm của rỉ sắt trong miệng, mỗi bước đi lại loạng choạng chỉ chục ngã, không muốn mà tự nhiên cứ rên rỉ. Cánh tay tôi quàng trên vai gầy của Sa Tảo Hoa, tôi muốn đứng thẳng lên giảm bớt gánh nặng cho nó nhưng không làm nổi.
Tư Mã Lương chạy thong thả trên con đường về thôn. Đằng sau đuổi nhanh thì nó chạy nhanh, đuổi chậm, nó chạy chậm. Nó giữ một khoảng cách để bọn kia không nản lòng nhưng cũng không tóm được nó. Hơi nước ngùn ngụt bốc lên từ những thửa ruộng hai bên đường nhuộm đỏ bởi ráng chiều, ếch nhái kêu ộp oạp dưới mương rãnh. Ngụy Sùng Dê nói nhỏ điều gì đó với Vu Vân Vũ, chúng bèn chia làm ba ngả. Ngụy Sừng Dê và Đinh Kim Câu lội qua con mương hai bên đường, mỗi đứa tấn công một mũi. Vu Vân Vũ và Quách Thu Sinh đuổi chậm lại, quát to:
- Tư Mã Lương, bỏ chạy không phải hảo hán, có giỏi thì đứng lại chơi nhau một trận!
- Anh Lương, chạy mau lên! - Sa Tảo Hoa gọi to - Đừng mắc lừa chúng nó!
- Con ranh! - Vu Vân Vũ ngoảnh lại, giơ nắm dấm lên, quát - Tao đập chết mày bây giờ?
Sa Tảo Hoa dũng cảm chặn đường bọn chúng, con dao thủ trong tay, nói:
- Lại đây, tao không sợ chúng mày!
Vu Vân Vũ xông tới trước mặt chúng tôi. Sa Tảo Hoa dùng mông đẩy tôi lùi lại. Tư Mã Lương quay lại quát to:
- Thằng chốc đầu kia, mày đụng vào nó dù chỉ một ngón tay, là tao bỏ thuốc độc giết chết con vợ bán đậu phụ của mày!
- Anh ơi, chạy mau đi! - Sa Tảo Hoa nói to - Hai thằng chó Sừng Dê và Kim Câu đang chặn đường về của anh đấy!
Tư Mã Lương dừng lại, nó lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Cũng có thể nó cố ý dừng lại. Nó dừng, Vu Vân Vũ và Quách Thu Sinh cũng dừng. Ngụy Sừng Dê và Đinh Kim Câu lại lội qua mương trèo lên mặt đường, bùn đen bám đầy hai chân chúng. Chúng thận trọng áp sát như người ta dồn thú dữ. Tư Mã Lương vẫn đứng yên bất động, lại còn làm ra vẻ ung dung dùng tay áo lau mồ hôi trên trán. Lúc này, từ phía thôn vẳng lại tiếng gọi của mẹ. Tư Mã Lương nhảy xuống mương rồi chạy theo con đường một bên là ruộng cao lương, một bên là ruộng ngộ Ngụy Sùng Dê phấn khởi la to:
- Hay rồi, anh em ơi, đuổi mau!
Chúng nhảy xuống lòng mương lội lõm bõm như vịt sang bờ bên kia, đuổi theo. Ngô và cao lương giao nhau, che khuất con đường, chúng tôi chỉ nghe thấy tiếng rẽ lá soàn soạt và tiếng chúng nó sủa như chó.
- Cậu ở đây chờ ngoại, để cháu đi giúp anh Lương!
Tôi nói:
- Tảo Hoa, tôi sợ!
- Cậu đừng sợ, ngoại đến bây giờ. Ngoại ơi! - nó gọi to - chúng nó định giết anh Lương!
Tôi gọi:
- Mẹ Ơi, con ở đây, con ở đây!...
Sa Tảo Hoa dũng cảm nhảy xuống mương, nước ngập đến ngang ngực. Nó vùng vẫy trên mặt nước ngầu bọt. Tôi lo nó chết đuối, nhưng nó đã lội sang bờ bên kia, tay vẫn cầm con dao, hai chân lút trong bùn đen. Giày của nó mắc kẹt dưới bùn. Nó chui vào con đường nhỏ, thoáng cái đã mất hút.
Mẹ lồng lên như con trâu nái bảo vệ con, huỳnh huỵch chạy tới, tóc mẹ ánh lên màu vàng, da mặt cũng phảng phất một màu vàng.
- Mẹ Ơi! - tôi kêu lên, khóc hết số nước mắt còn lại. Tôi không đứng vững được nữa, loạng choạng ngã vào lòng mẹ.
Mẹ khóc, hỏi tôi:
- Con trai của mẹ, đứa nào đánh con đến nông nỗi này?
- Vu Vân Vũ, Ngụy Sùng Dê... - Tôi vừa khóc vừa nói.
- Đồ kẻ cướp! - mẹ gầm lên, hỏi tôi - Chúng nó đâu rồi?
- Chúng nó đuổi theo Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa - tôi chỉ sang con đường.
Từng đám hơi nước bốc lên từ phía bên kia đường tạt sang, trong khoảng sâu tít tắp có tiếng động vật kêu, tiếng va chạm khi đánh nhau và tiếng kêu lanh lảnh của Tảo Hoa.
Mẹ nhìn về phía thôn, sương mù dày đặc đã che lấp tất cả Tiếng chó nhà sủa nghe như vọng từ đáy nước lên. Mẹ kéo tôi lội xuống mương, nước âm ấm như dầu bôi trục xe thấm ngược từ dưới lên. Người mẹ to lớn, hai bàn chân lại quá nhỏ, lội bùn cực kỳ vất vả. Mẹ phải bám những bụi cỏ ở bờ mương mới trèo lên được.
Mẹ kéo tôi chạy theo con đường mòn. Chúng tôi phải khom người mà chạy vì nếu đứng thẳng lên, lá lau sẽ cứa đứt mặt, thậm chí có thể mù mắt. Hai bên vệ đường mọc đầy cỏ rậm, những cây tật lê bò cả ra mặt dương, gai nhọn hoắt đâm thủng bàn chân. Tôi rên rỉ đau đớn, những vết thương bị thấm nước rát như phải bỏng, đã mấy bận tôi ngã lăn ra, nhưng cánh tay lực lưỡng của mẹ lại lôi tôi dậy. ánh sáng mờ mờ, trên cánh đồng hoa màu bạt ngàn hình như có những quái vật bé tí xíu đang nhảy múa, mắt xanh lè, lưỡi đỏ chót, mũi thở phì phì. Tôi như lạc xuống âm phủ trong truyện cổ tích, mà người lôi tôi xuống thì thở như trâu, bất chấp tất cả, cứ thế mà xông tới. Lẽ nào đây lại là mẹ tôi? Hay là quỉ sứ giả dạng làm mẹ để lôi tôi xuống địa ngục? Tôi thử giằng tay ra, nhưng kết quả là tay tôi bị nắm chặt hơn.
Con đường đáng sợ rồi cũng sáng sủa ra. Hai bên đường vẫn là những cánh đồng cao lương nối tiếp, một khoảng đất hoang hiện ra ở phía bắc. Mặt trời lặn hẳn, dế kêu rỉ rả như một dàn đại hợp xướng. Một chiếc lò gạch bỏ hoang chờ đón chúng tôi với tường lò đỏ như tiết gà. Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa đang đánh du kích với bốn thằng ác ôn sau mấy đống gạch vụn mà mỗi bên đều lấy làm bình phong rồi ném nhau bằng gạch vỡ. Rõ ràng là Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa lâm vào thế yếu. Lực lượng đã mỏng, lại yếu tay, so với bốn thằng lực lưỡng, ném cấp tập như mưa, hai đứa khó mà chống nổi. Mẹ quát to:
- Dừng lại, bọn súc sinh quen thói hiếp đáp kia!
Bốn thằng đang say máu, không thèm đếm xỉa những lời cảnh cáo của mẹ. Chúng vừa tiếp tục ném, vừa triển khai thành hai gọng kìm bao vây Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa. Tư Mã Lương kéo Sa Tảo Hoa chạy về phía lò gạch. Một cú gạch ném trúng đầu Sa Tảo Hoa. Nó ối lên một tiếng, nẩy đom đóm mắt nhưng tay vẫn giữ chặt con dao. Tư Mã Lương hai tay hai viên gạch vỡ, nhảy qua gờ tường ra phía ngoài, nhằm bọn kia mà ném. Mẹ giấu tôi trong vạt cao lương, rồi hai cánh tay vung vẩy như múa ương ca, mẹ xông lên! Giày của mẹ đã mắc kẹt trong bùn, hai bàn chân bé tí nhún nhảy trên mặt đất một cách đáng thương, gót chân hằn trên mặt đất những vết lõm tròn tròn, nông choẹt.
Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa đã hiện ra ở bức tường đổ, chúng dắt tay nhau chạy về phía lò gạch. Mặt trăng đỏ như máu đã nhô lên, bóng hai đứa đổ dài trên mặt đất. Bóng của bốn thằng ác ôn càng dài hơn. Chúng chạy nhanh như gắn lò xo vào chân, bứt khỏi mẹ một quãng khá xạ Tư Mã Lương vì vướng Sa Tảo Hoa nên không thể chạy nhanh, đến bãi đất trống trước lò gạch thì bị Ngụy Sừng Dê ném trúng một gạch, ngã lăn ra. Sa Tảo Hoa giơ dao nhằm Ngụy Sừng Dê đâm tới. Ngụy Sừng Dê tránh được, Vu Vân Vũ đá Sa Tảo Hoa ngã lăn ra.
Mẹ quát to:
- Dừng lại!
Bốn thằng ác ôn khuỳnh tay như bốn con kền kền đi trên mặt đất, tám chân cùng đá Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa. Sa Tảo Hoa gào khóc, Tư Mã Lương cắn răng không kêu một tiếng. Cả hai đứa lăn lộn trên mặt đất. Dưới ánh trăng, bốn thằng ác ôn trông như bốn con ác quỉ đang nhảy múa.
Mẹ vấp ngã nhưng chồm dậy ngay, hai tay túm chặt vai Ngụy Sừng Dệ Thằng này đánh mẹ một cú rất hiểm: thúc cả hai cùi tay ra phía sau trúng hai vú của mẹ. Mẹ rú lên một tiếng, loạng choạng giật lùi rồi ngã ngồi dưới đất. Tôi ngã sấp, mặt dính đầy đất, cảm thấy máu rỉ ra từ khóe mắt của tôi.
Chúng tiếp tục đá Tư Mã Lương, mức độ điên cuồng vượt xa một cuộc đánh lộn. Giữa cái chết và cái sống của Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa chỉ còn trong khoảnh khắc. Chính khi đó, một người to như hộ pháp, tóc rối bù, mặt đầy bụi than, đen nhẻm từ đầu đến chân, từ trong chiếc lò gạch đổ nát chui ra. Vụng về như một con gấu, người ấy giơ nắm dấm hộ pháp lên, và chỉ một dấm đã gãy xương quai xanh thằng Vu Vân Vũ. Thế là người anh hùng ngã ngồi xuống đất, rú lên như con lợn bị chọc tiết. Ba thằng kia vội dùng lại, Ngụy Sùng Dê kinh hoàng kêu:
- Tư Mã Khố!
Nó định bỏ chạy thì một tiếng gầm như sấm khiến nó chững lại. Tư Mã Khố giơ nắm đấm thép lên, cú thứ nhất đấm lòi con ngươi Đinh Kim Câu, cú thứ hai: Quách Thu Sinh nôn ra mật xanh mật vàng. Quả đấm thứ ba chưa giơ lên, thằng Ngụy Sừng Dê quì sụp xuống vái như bổ củi:
- Xin ông tha cho con, con bị chúng nó ép buộc, không theo thì chúng nó đánh chết. Chúng đã đánh con chảy cả máu răng, xin ông tha cho con!
Tư Mã Khố do dự một thoáng rồi đá cho Ngụy Sừng Dê một đá. Ngụy Sùng Dê theo đà lăn đi một quãng rồi lủi nhanh như thỏ. Rất nhanh, trên con đường về thôn vang lên tiếng kêu như chó sủa của nó:
- Bắt lấy Tư Mã Khố!... Thằng đầu sỏ Hoàn Hương Đoàn Tư Mã Khố đã về!
- Bắt lấy Tư Mã Khố!
Ttr Mã Khố kéo Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa dậy, rồi đỡ mẹ dậy. Mẹ ấp úng hỏi:
- Anh là người hay là ma?
- Thưa nhạc mẫu... - Tư Mã Khố giọng nghẹn lại, nhưng không khóc.
Tư Mã Lương kêu to: - Bố ơi, có phải bố đấy không?
Tư Mã Khố nói:
- Con trai của ta, con giỏi lắm! - Thưa mẹ, ở nhà còn những ai? - Tư Mã Khố hỏi mẹ.
- Anh đừng hỏi thêm gì nữa? - mẹ sốt ruột giục - Chạy đi!
Tiếng thanh la dồn dập từ phía thôn vọng đến.
Tư Mã Khố túm ngực Vu Vân Vũ, dằn từng tiếng:
- Thằng súc sinh, nói lại với bọn đốn mạt rằng, thằng nào dám đụng vào người nhà Tư Mã Khố thì ta sẽ làm cỏ cả nhà nó! Mày nhớ lời ta dặn chưa?
- Cháu nhớ, cháu nhớ rồi! - Vu Vân Vũ vâng dạ luôn miệng.
Tư Mã Khố vừa buông tay, Vu Vân Vũ đã sóng soài trên mặt đất.
Trời ơi, chạy mau đi... - Mẹ vỗ tay bồm bộp xuống đất, cuống quít giục.
Tư Mã Lương vừa khóc vừa bảo Tư Mã Khố:
- Bố ơi, cho con theo bố?
Tư Mã Khố nói: - Con yêu, con phải ở lại với bà ngoại!
Tư Mã Lương nói: - Bố, con xin bố, bố đem con đi theo!
Mẹ nói:
- Lương con, đừng quẩn chân bố con, để cho bố đi.
Tư Mã Khố quì sụp trước mặt mẹ lạy một lạy, giọng thê thảm:
- Mẹ, xin gửi cháu cho mẹ. Tư Mã Khố con chịu ơn mẹ, kiếp này không trả được thì xin để kiếp sau.
Mẹ vừa khóc vừa nói:
- Tôi không bảo vệ được con Phượng, con Hoàng, xin anh đừng oán tôi!
Tư Mã Khố nói:
- Con không oán mẹ, con đã báo thù cho chúng nó rồi!
Mẹ bảo:
- Đi đi, đi cho thật xa, oán thù càng báo càng sâu!
Tư Mã Khố đứng dậy, chui vào trong lò gạch. Khi trở ra, trên mình khoác áo tơi, trước bụng đeo khẩu trung liên, dây đạn vàng chóe quấn quanh bụng. Thoắt một cái anh đã khuất sau những dãy cây cao lương. Tiếng rẽ lá sột soạt Mẹ gọi với theo:
- Anh nghe lời tôi, cao chạy xa bay, không nên giết bừa bãi!
Cánh đồng im ắng. ánh trăng như nước từ trên cao tràn xuống. Rồi tiếng người ồn ào từ phía thôn ngày càng rõ.
Do Ngụy Sừng Dê dẫn đường, các dân quân thôn và công an khu xách đèn lồng, cầm đuốc, vác súng vác đao hè nhau chạy tới chỗ lò gạch bỏ hoang, hùng hổ dàn quân bao vây. Viên công an có một chân giả bằng nhựa, nấp sau một đống gạch vụn, nói qua loa sắt tây:
- Tư Mã Khố, đầu hàng đi! Chạy không thoát đâu? Loa gọi hồi lâu, bên trong lò gạch vẫn im ắng. Viên công an rút khẩu pạc-hoọc bắn liền hai phát vào trong vòm lò, tiếng đội trở lại chói tai.
- Đem lựu đạn lại đây - Công an Dương gọi với ra phía sau.
Một dân quân bụng sát đất trơn tới như con giun, móc thắt lưng lấy hai quả lựu đạn đưa cho viên công an. Anh ta móc dây giật nụ xòe lồng vào ngón tay rồi nghiêng người ném quả lựu đạn vào trong lò. Ném xong, anh ta nằm bẹp xuống chờ đợi tiếng nổ. Quả lựu đạn nổ trong lò. Anh ta ném tiếp quả thứ hai, cũng nổ. Dư âm của tiếng nổ đã hết, trong lò càng im ắng. Viên công an gọi loa:
- Tư Mã Khố, đầu hàng thì không giết! Chúng tôi có chính sách khoan hồng đối với tù binh! Trả lời, chỉ có tiếng dế kêu đứt quãng và dàn hợp xướng của ếch nhái ngoài đồng.
Viên công an mạnh dạn hẳn lên, tay đèn pin, tay pạc-hoọc, gọi phía sau:
- Theo tôi? Hai dân quân bạo gan, một người cầm súng trường, một người cầm cây đao dài có ngù đỏ, lom khom chạy theo sau viên công an. Viên công an cứ mỗi bước đi, cái chân giả lại kêu cục một tiếng, đồng thời thân hình anh ta lại vẹo đi một cái. Họ cứ vậy mà chui vào trong lò, bình yên vô sự. Lát sau, họ chui ra.
- Ngụy Sùng Dê! - Viên công an gầm lên - Nó đâu?
Ngụy Sừng Dê nói: - Cháu xin thề có trời đất, Tư Mã Khố đúng là từ trong lò này chui ra. Không tin, các chú hỏi họ mà xem!
- Có đúng là Tư Mã Khố hay không? - Công an Dương hỏi gặng Vu Vân Vũ, Quách Thu Sinh, Đinh Kim Câu đã ngất xỉu dưới đất bằng một giọng ngao ngán: - Hay là chúng mày nhìn lầm?
Vu Vân Vũ nơm nớp nhìn ra cánh đồng cao lương:
- Hình như...
- Chỉ một mình hắn hả? - Viên công an gặng hỏi.
- Chỉ mỗi mình hắn!
- Có đem theo vũ khí gì không?
- Hình như ôm một khẩu trung liên, người quấn đầy dạn...
Vu Vân Vũ chưa nói hết câu, công an Dương và tất cả dân quân đều nằm rạp xuống như cỏ bị phạt gốc.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 32
Triển lãm giáo dục giai cấp được tổ chức trong nhà thờ. Từng đoàn dài học sinh vừa bước tới cổng thì như tuân theo một mệnh lệnh, tất cả cất tiếng khóc. Trường tiểu học Đại Lan đã mở rộng thành trường tiểu học trung tâm vùng Cao Mật, do vậy tiếng khóc của mấy trăm học sinh chấn động cả một đường phố. Hiệu trưởng mới, một phụ nữ trung niên có khuôn mặt khắc khổ, một nốt ruồi mọc lông ở cằm, đứng trên bậc tam cấp của nhà thờ, lớn tiếng khuyên các học sinh bằng một giọng không phải vùng Cao Mật:
- Các em, các em thân mến, các em hãy cố nén?
Bà ta rút khăn mùi soa màu nâu chấm nước mắt và hỉ mũi thật to.
Hàng ngũ học sinh đã ngừng khóc, nối đuôi nhau đi vào nhà thờ, đứng chen chúc trong một hình vuông vẽ bằng phấn, để chừa một hành lang dọc theo bức tường. Trên tường treo rất nhiều tranh bằng bột màu, dưới mỗi bức đều có những câu chú thích.
Bốn cô thuyết minh đứng ở bốn góc tường, trong tay đều cầm thước kẻ bảng.
Cô thuyết minh thứ nhất là cô Quỳnh Chi, cô giáo dạy âm nhạc của chúng tôi. Cô bị kỷ luật vì đánh học sinh. Mặt cô hơi tái, ánh mắt tối sầm trong cặp mắt vốn rất đẹp. Trưởng khu mới vai đeo súng, đứng trên bục giảng của mục sư Malôạ Cô Quỳnh Chi dùng thước chỉ vào từng bức tranh, đọc to những hàng chữ chú thích ở dưới bằng giọng tiêu chuẩn. Hơn mười bức tranh dầu, giới thiệu địa lý tự nhiên, lịch sử và tình hình xã hội trước giải phóng của vùng Cao Mật. Sau đó là một tranh vẽ một lũ rắn độc thè lưỡi đỏ chót, trên đầu mỗi con đều chú một tên người, trong đó con rắn đeo kính đầu to quá cỡ ghi chú tên bố đẻ Tư Mã Đình và Tư Mã Khố. Dưới sự bóc lột tàn khốc của những con rắn độc, cô Quỳnh Chi đọc một cách trơn tru và vô cảm nhân dân Cao Mật sống trong cảnh nước sôi lửa bỏng, cuộc đời như trâu ngựa. Cô chỉ một bức tranh vẽ một bà già mặt như mặt lạc đà, tay khoác chiếc làn rách, lê cây gậy đánh chó, bám vạt áo bà già là một bé gái gầy như một con khỉ, góc bên trái bức tranh vẽ những nét phẩy màu đen và những lá cây khô quắt, biểu thị gió rét căm căm. Rất nhiều gia đình tha phương cầu thực, sống kiếp ăn mày, bị chó nhà địa chủ cắn, máu me đầm đìa Cô Quỳnh Chi vừa nói vừa giơ thước chỉ một tranh khác: Hai cánh cổng đen sì hé mở, phía trên cổng là tấm biển khắc ba chữ vàng Phục Sinh Đường. Từ chỗ khe cửa, ló ra cái đầu đội mũ quả dưa chỏm đỏ, tất nhiên đó là tên địa chủ tác oai tác phúc trong vùng. Điều kỳ lạ là tên địa chủ được vẽ với khuôn mặt trắng như mâm bột, mắt sáng như sao, không đáng ghét mà còn đáng yêu. Một con chó vàng to bự đang cắn xé một em trai. Lúc này, một nữ sinh bắt đấu sụt sịt khóc, bạn ấy người thôn Sa Khẩu, là một cô gái mười bảy mười tám, năm nay mới học lớp hai. Các học sinh tò mò nhìn cô ta, cố hiểu vì sao cô khóc. Một người trong đám học sinh vung tay hô khẩu hiệu làm đứt đoạn lời thuyết minh của cô Quỳnh Chị Cô chống thước, kiên nhẫn chờ đợi. Cái người hô khẩu hiệu kia cất giọng ồm ồm gào khóc, nhưng mắt thì ráo hoảnh, lòng trắng đầy những tia máu. Tôi liếc nhìn các bạn học đứng bên cạnh, họ đều khóc rất to, khóc như thủy triều, đợt sau tiếp theo đợt trước. Ông hiệu trưởng đứng ở một chỗ nổi bật, che toàn bộ khuôn mặt bằng chiếc khăn tay màu nâu, tay trái nắm lại đấm thình thịch vào ngực. Thằng Trương Trung Quang đứng bên cạnh tôi, mặt bôi đầy nước dãi, hai tay luân phiên đấm vào ngực, không hiểu nó căm thù hay đau xót? Gia đình nó được qui là cố nông, nhưng ở chợ Đại Lan trước ngày giải phóng tôi thường gặp con trai của vị cố nông này đi theo cha nó kiếm ăn bằng nghề cờ bạc, hai tay bê một gói thịt lợn quay gói bằng lá sen tươi, mỗi bước lại ngoạm một miếng, mỡ lợn dính đầy hai bên mép và cả trên trán nó. Khi ngoạm miếng thịt, miệng nó há rất to, dãi dớt chảy xuống tận cằm. Bên phải tôi là một đứa con gái phốp pháp, hai bàn tay đều có ngón thừa mọc ở phía ngoài ngón tay cái. Hình như tên nó là Đỗ Tranh Tranh, nhưng chúng tôi đều gọi nó là Đỗ Lục Lục. Nó hai tay ôm mặt, tiếng khóc cục cục như chim câu mới ra ràng, hai ngón tay thừa ve vẩy như đuôi lợn con, hai ánh mắt thâm hiểm lọt qua kẽ taỵ Thật tình, tôi trông thấy rất nhiều bạn học khóc thật sự. Mọi người rất quí những giọt nước mắt, không ai nỡ lau đi. Tôi quả thực rặn không ra một giọt nước mắt và không thể hiểu chỉ mấy bức tranh nguệch ngoạc khiến các bạn học đau xót đến thế? Để không bị lộ, vì tôi thấy đã mấy lần Đỗ Lục Lục đưa mắt về phía tôi, vẻ dò xét. Nó thù tôi đến tận xương tủy, tôi biết thế. Nó với tôi ngồi cùng một ghế trong lớp học ban đêm, nó đã từng đưa bàn tay sáu ngón của nó sờ đùi tôi, trong khi miệng nó vẫn đọc theo sự chỉ dẫn của cô giáo. Khi đó, tôi hốt hoảng đứng lên, bị cô giáo phê bình vì làm mất trật tự trong giờ học. Tôi nói rõ sự việc, tất nhiên đó là một cử chỉ hèn hạ, vì đã là thằng đàn ông thì không nên từ chối những cái ve vuốt của phụ nữ, mà dù có từ chối thì cũng không nên tố cáo trước đám dông. Đây là điều mà mấy chục năm sau tôi mới nhận thức được, thậm chí tôi còn cảm thấy hối hận, sao mình lại không..
Nhưng khi đó, hai ngón tay thừa trông giống hai con tằm béo múp míp khiến tôi sợ quá, mất hết hứng thú. Những lời tố cáo của tôi khiến nó chỉ thiếu nước độn thổ, may mà đang giờ ôn tập buổi tối, ánh đèn mờ mờ, khoảng sáng trước mặt mọi người chỉ bằng quả dưa hấu. Nó gục đầu xuống ngực, phía sau nổi lên tiếng cười dâm đãng của bọn con trai. Nó biện bạch:
- Tôi không cố ý, tôi tìm cái tẩy để mượn!...
Tồi tệ hết chỗ nói, tôi bảo:
- Không, bạn ấy cố ý véo đùi tôi?
- Kim Đồng, thôi không nói nữa? - Cô Quỳnh Chi dạy nhạc kiêm dạy ngữ văn nghiêm giọng nẹt tôi.
Từ đó, tôi trở thành kẻ thù của Đỗ Tranh Tranh. Một bận, tôi thấy một con thạch sùng chết trong cặp, tôi nghi là Đỗ Tranh Tranh nhét vào. Hôm nay, trong khung cảnh trang nghiêm này mà trên mặt tôi không có nước mắt hoặc nước bọt sùi ra mép thì vấn đề trở nên nghiêm trọng vô cùng. Nếu như Đỗ Tranh Tranh có ý định trả thù... hậu quả sẽ không thể lường được. Tôi giơ hai tay ôm mặt, há miệng giả vờ khóc nhưng cũng không làm sao mà khóc được.
Cô Kỷ Quỳnh Chi bỗng cao giọng át cả những tiếng khóc, giai cấp địa chủ phản động sống phè phỡn. Một Tư Mã Khố đã lấy bốn vợ! - cây thước trong tay cô gõ bồm bộp trên bức tranh vẽ. Tư Mã Khố đầu sói mình gấu, hai cánh tay dài ngoằng đầy lông lá đen sì ôm lấy bốn con yêu tinh: hai con bên trái đầu người mình rắn; hai con bên phải đều mọc đuôi vàng như đuôi sóc, phía sau lúc nhúc một đám tiểu yêu, rõ ràng là lớp con cháu của Tư Mã Khố. Thằng Tư Mã Lương, người anh hùng mà tôi tôn thờ, chắc cũng trong số này, vậy tiểu yêu nào là Tư Mã Lương? Phải chăng là con miêu tinh có hai tai mèo hình tam giác ở trước trán? Phải chăng là con tinh chuột mặc áo đỏ, giơ hai vuốt trước bé xíu? Tôi cảm thấy ánh mắt thâm hiểm của Đỗ Tranh Tranh lại liếc về phía tôi Vợ thứ tư của Tư Mã Khố - cái thước của cô Quỳnh Chi chỉ vào người đàn bà có đuôi hồ ly - người ấy chính là chị Hai Chiêu Đệ của tôi - cất giọng rất cao nhưng không một chút biểu cảm, nói- Nó ăn chán sơn hào hải vị, cuối cùng chỉ thích ăn da của chân gà trống choai. Vì sở thích này mà gà trống bị giết chất đống trong nhà Tư Mã Khố.
Bịa đặt? Chị Hai tôi ăn da gà hồi nào? Chị Hai không biết ăn thịt gà, càng không có chuyện gà chết chất đống trong nhà Tư Mã Khố! Tôi đang nhớ lại cảnh mình bị đánh đập tàn nhẫn, định mượn chuyện đó để rặn ra một ít nước mắt. Nghĩ đến chuyện mẹ bị thằng Ngụy Sừng Dê thúc khuỷu tay ngã ngửa, sống mũi tôi cay cay và nước mắt tự nhiên ứa ra. Họ nhục mạ chị Hai khiến tôi căm phẫn và thấy oan uổng quá, cũng làm tôi chảy nước mắt. Vậy là nước mắt của tôi hàm nghĩa rất phúc tạp, tôi chùi ngay không thương tiếc, nhưng nó vẫn tiếp tục ứa ra.
Phần thuyết minh của cô Quỳnh Chi đã xong, cô lui sang bên mà thở, vẻ mệt mỏi. Tiếp theo là cô giáo Sái mới từ tỉnh điều về. Cô có khuôn mặt nhẹ nhõm, giọng trong vắt, chưa nói câu nào đã nước mắt ràn rụa. Phần này có tiêu đề nảy lửa: Tội ác tày trời của bọn Hoàn Hương Đoàn. Như lúc dạy học sinh tập đọc, cô dùng thước chỉ lần lượt từng chữ trên tiêu đề. Bức tranh thứ nhất: Góc trên bên phải là một đám mây đen lấp ló vầng trăng lưỡi liềm, góc trên bên trái là những lá khô kéo theo những phẩy đen, nhưng đây là chỉ gió thu chứ không phải gió đông. Và dưới trời mây và vầng trăng ấy gió thu hiu hắt ấy, Tư Mã Khố - Ở đây là con sói khổng lồ đi đứng như người - ngoác miệng nhe hàm răng lởm chởm, thè lưỡi đỏ lòm máu nhỏ giọt, mặc quân phục, dây đạn đeo chéo, từ ống tay áo rộng thùng thình thò ra lưỡi dao bầu sút mẻ vì đâm chém nhiều. Đó là tay trái. Tay phải cầm khẩu pạc-hoọc, mũi súng tóe lửa chứng tỏ đang bắn. Tư Mã Khố không mặc quần, vạt áo dài trùm mông chỉ để lộ một cái đuôi sói to tướng dài quết đất. Hai chân được vẽ rất thô không cân xứng với phần trên, không giống chân sói mà to như chân trâu, có điều, không phải móng guốc mà là nanh vuốt của loài sói. Sau lưng là một bầy thú vật hung hãn, kinh tởm, một con rắn đeo kính cổ cất cao, lưỡi đỏ chót. - Đây là Thương Hi Lộ, tên phú nông phản động ở thôn Sa Lương - Cô Sái dùng thước chỉ vào đầu con rắn đeo kính nói: - còn đây là... - cô chỉ vào con chó hoang - tên địa chủ ác bá Đỗ Kim Nguyên ở thôn Sa Khẩu. Tất nhiên Đỗ Kim Nguyên cũng kéo lê cây gậy dính đầy máu. Bên cạnh hắn là tên đầu gấu Hồ Nhật Khuê ở thôn Vương Gia Khưu. Tên này cơ bản vẫn là hình người, chỉ có khuôn mặt dài ngoằng như mặt lừa. Tên phú nông phản động Mã Thanh Vân ở đồn Hai Huyện thì vụng về như một con gấu. Tóm lại, cả một bầy thú dữ, tay cầm vũ khí, hùng hổ kéo vào Cao Mật. Bọn Hoàn Hương Đoàn đã tiến hành một cuộc trả thù đẫm máu, chỉ trong mười ngày, bằng những thủ đoạn không thể tưởng tượng nổi, chúng đã giết chết một ngàn ba trăm tám mười tám người - Cô Sái vừa nói vừa chỉ vào bức tranh, nơi có một đám lổn nhổn chứng tỏ người bị giết.
Các học sinh lại bùng lên một trận gào khóc. Tiếp theo là những bức tranh có cả hình vẽ lẫn ghi chú, trình bày như một cuốn từ điển về hình phạt tàn khốc. Mấy bức đầu là những phương pháp truyền thống như chặt đầu, xử bắn. Những bức sau là những hình thúc mới. - Đây là chôn sống - cô Sái chỉ vào một bức nói. Qua cách gọi cũng hiểu, chôn sống là đem chôn người đang sống. Một cái hố rất to, mấy chục người mặt vàng như nghệ đứng dưới hố, trên miệng hố lại là Tư Mã Khố đang chỉ huy bọn Hoàn Hương Đoàn lấp đất.
- Theo lời tố cáo của bà Quách... - cô Sái đọc dòng chữ chú thích bên dưới - bọn phỉ Hoàn Hương Đoàn khi chôn người đã mệt, chúng bắt những nạn nhân tự đào huyệt để chôn lẫn nhau. Đất lấp đến ngực là không thở được nữa, ngực như vỡ tung, máu dồn lên đầu. Lúc này, bọn Hoàn Hương Đoàn nhằm vào những cái đầu mà nổ súng, máu trộn lẫn với óc vọt cao hàng thước.
Trên bức tranh, một cái đầu nhô trên mặt đất máu vọt cao tận mép trên của tranh rồi tỏa ra như những hạt anh đào, rơi xuống. Cô Sái mặt nhọt nhạt, hình như cô bị chóng mặt, tiếng khóc của học sinh rung chuyển cả mái nhà, nhưng cho đến khi đó, mắt tôi vẫn ráo hoảnh.
- Theo thời gian ghi chú trên tranh, khi Tư Mã Khố dẫn bọn Hoàn Hương Đoàn trở lại vùng Cao Mật tiến hành cuộc đại tàn sát, thì gia đình tôi cùng với các cán bộ cách mạng và những phần tử tích cục rút lên miền duyên hải đông bắc. Tư Mã Khố mà tàn bạo đến như vậy sao?...
Cô Sái quả thực đã ngất xỉu, đầu cô tựa vào cái hố chôn người trong tranh, nơi vẽ một Hoàn Hương Đoàn đang cầm xẻng lấp đất trông như định lấp đầu cộ Mặt cô đẫm mồ hôi, cô từ từ trượt theo tường, đầu miết trên bức tranh khiến nó bật cả đanh ghim rơi phủ lên đầu cô, vôi vữa trên tường rơi xuống từng mảng.
Trước sự kiện đột ngột này, các học sinh nín bặt. Vài cán bộ khu chạy tới khênh cô Sái đi. Ông trưởng khu, một trung niên có cái bớt chiếm nửa mặt, thân hình cân đối tay giữ khẩu pạc-hoọc kè kè bên hông, giọng nghiêm nghị:
- Các em học sinh, các đồng chí, sau đây chúng tôi mời bà Quách kể lại những gì bà đã trải quạ Đi mời bà Quách? - Ông ta bảo mấy cán bộ trẻ của khu.
Cán bộ khu chạy như bay qua chiếc cửa nhỏ thông sang phòng ở của mục sư Malôa.
Một sự im lặng khác thường, im lặng đến khó chịu. Mọi người dán mắt vào cánh cửa sơn đỏ đã phai màu, như đang đợi một diễn viên nổi tiếng ra sân khấu. Im lặng, im lặng, rồi đột nhiên sự im lặng bị phá vỡ, một giọng khóc dài lê thê từ trong vườn vọng ra, các học sinh gào khóc theo. Hai cán bộ dùng mông đẩy cánh cửa dìu bà lão đi vào. Bà Quách tóc đã hoa râm, bịt miệng bằng chiếc khăn rách, mặt ngửa lên, khóc như không còn thiết sống. Mọi người khóc theo đến năm phút. Bà Quách bỏ khăn bịt miệng ra lau mặt, kéo lại vạt áo cho ngay ngắn, nói:
- Các cháu đừng khóc nữa, người đã chết thì khóc cũng không sống lại được, người sống thì phải tiếp tục sống!
Các học sinh ngưng khóc nhìn bà. Bà cảm thấy hơi bị gò bó, tâm trí hoảng loạn, nói:
- Nói gì bây giờ? Chuyện đã qua, không nói là hơn.
Bà định bỏ đi, nhưng chủ nhiệm phụ nữ thôn Sa Lương là Cao Hồng Anh ngăn lại:
- Bác ơi, bác đã đồng ý rồi cơ mà! Sao bây giờ lại giở chứng?
Rõ ràng là Cao Hồng Anh không bằng lòng. Trưởng khu đấu dịu, nói:
- Bác kể bọn Hoàn Hương Đoàn chôn sống người như thế nào để giáo dục các cháu đừng quên quá khứ. Quên quá khứ đồng nghĩa với phản bội, đồng chí Lênin đã nói vậy. Đồng chí Lênin cho tôi nói thì tôi nói vậy.
- Đêm ấy là một đêm trăng tròn, có thể ngồi thêu dưới ánh trăng. Trăng sáng đến như vậy quả ít thấy. Hồi còn nhỏ nghe người già nói có một năm loạn lạc trăng cũng sáng như hôm naỵ Tôi không sao ngủ ngon giấc, cảm thấy sắp có chuyện xảy ra. Tôi định đến nhà bà Phúc Thắng ở ngõ tây để mượn cái mẫu giày, nhân tiện bàn với bà ta về chuyện lấy vợ cho con trai. Tôi có một đứa cháu gái đã đến tuổi lấy chồng. Tôi vừa ra khỏi cửa thì trông thấy thằng Sư tử tay cầm đại đao sáng quắc áp giải vợ Tiến Tài, mẹ Tiến Tài và hai đứa con của Tiến Tài, đứa lớn là con trai, khoảng bảy tám tuổi, đứa nhỏ là con gái, chỉ nhỉnh hơn hai tuổi. Đứa lớn đi cùng bà, sợ quá khóc ti tỉ, đứa nhỏ thì vợ Tiến Tài bế trên tay, cũng sợ quá khóc ti tỉ. Tiến Tài lệch hẳn một bên vai do bị chém một nhát dao, máu mẹ đầm đìa, nhìn mà phát khiếp. Đi sau thằng Sư tử còn có ba người đàn ông cao lớn trông có vẻ quen quen, đều cầm dao trong tay, mặt hầm hầm. Tôi định lánh mặt nhưng đã muộn, thằng con hoang Sư tử đã trông thấy tôi. Tôi với mẹ hắn là chị em họ. Nó hỏi:
- Có phải dì Quách đấy không?
Tôi hỏi: - Sư tử, anh về khi nào thế?
Nó nói:
- Đêm qua.
Tôi hỏi:
- Anh đang làm gì vậy?
Nó nói:
- Không làm gì cả, thu xếp chỗ ngủ cho gia đình này!
Tất nhiên tôi hiểu nói như vậy là có nghĩa xấu, bèn nói:
- Sư tử, đều là hàng xóm láng giềng, thù oán gì mà phải đến nỗi như thế?
Nó nói:
- Không thù oán gì, bố tôi với nó không thù không oán, bố tôi với bố nó còn là anh em kết nghĩa. Vậy mà nó vẫn treo cổ bố tôi lên cành cây, tiêu tiền âm phủ.
Mẹ Tiến Tài nói:
- Cháu ơi, người anh em của cháu nhất thời mê muội, xin cháu nể mặt già này mà tha cho nó, già này lạy cháu đấy!
Tiến Tài nói:
- Mẹ, không việc gì phải lạy, không cần xin xỏ nó?
Sư tử nói:
- Được, Tiến Tài, mày dáng mặt thằng đàn ông, không hổ là Đội trưởng dân quân!
Tiến Tài nói:
- Mày không còn nhảy múa được mấy bữa nữa đâu!
Sư tử nói:
- Mày nói đúng, tao cũng chỉ được dăm bữa nửa tháng nữa là cùng, nhưng đối phó với gia đình mày, tao chỉ cần đêm nay là đủ!
Tôi mượn thế người già, bảo Tiến Tài:
- Sư tử à, anh tha cho gia đình Tiến Tài nếu không, già không coi anh là cháu nữa đâu?
Sư tử vằn mắt lên:
- Mẹ kiếp, ai là cháu của mụ? Đừng có nhận vơ! Năm xưa ta lỡ dẫm chết con gà nhép của mụ, vậy mà mụ vụt gậy vào đầu ta.
Tôi nói: - Sư tử, anh không phải giống người!
Hắn quay lại nói với ba thằng kia:
- Anh em, hôm nay giết bao nhiêu rồi nhỉ?
Một thằng nói:
- Tính cả gia đình nhà này là chín mươi chín người!
- Này bà dì bắn moóc-chê không tới kia, phiền bà bổ sung vào cho đủ một trăm?
Tôi run lên cầm cập, thằng con hoang này định giết tôi. Tôi bỏ chạy nhưng chạy đâu cho thoát chúng nó. Thằng Sư tử không thân không sơ với ai hết. Nó nghi vợ nó tằng tịu với người khác, bèn đánh bẫy lựu đạn ở bếp. Sáng hôm sau mẹ nó dậy sóm xúc tro bếp, lựu đạn nổ, chết liền. Tôi quên bẵng chuyện này nên mới lắm điều, vậy là thiệt vào thân! Chúng nó dẫn cả nhà Tiến Tài và tôi đến bãi cát. Một thằng trong bọn đang đào hố chôn người. Cát dễ đào, chẳng mấy chốc đã xong. ánh trăng vằng vặc nhìn rõ mọi vật, những cọng cỏ, những bông hoa tí xíu, những con kiến, trông thấy tất. Thằng Sư tử đến bên miệng hố xem xét rồi bảo:
- Anh em, đào sâu chút nữa, Tiến Tài nó cao đấy! Tên kia lại đào thêm, cát ẩm được tiếp tục hất lên.
Sư tử hỏi:
- Tiến Tài, mi có nói gì không?
Tiến Tài nói:
- Sư tử, tao không xin xỏ mày, tao đã giết bố mày. Tao không giết thì người khác cũng giết!
Sư tử nói:
- Bố tao ăn nhịn để dành được ít tiền buôn tôm cá cũng như bố mày, dành dụm tậu được mấy mẫu ruộng. Bố mày không gặp may, bị kẻ cắp lấy sạch, không còn đồng nào. Tao hỏi mày, vậy bố tao có tội gì?
Tiến Tài nói:
- Tậu ruộng, tậu ruộng là có tội.
Sư tử nói:
- Mày nói thực lòng tao xem nào, ai không muốn có ruộng?
Tiến Tài nói:
- Mày đừng hỏi tao làm gì, có hỏi tao cũng không trả lời được Huyệt đào xong chưa?
Tên đào huyệt nói:
- Xong rồi!
Tiến Tài không nói gì, nhảy xuống, hố sâu đến cổ. Tiến Tài nói:
- Sư tử, tao phải hô khẩu hiệu!
Sư tử nói:
- Mày cứ hộ Tao với mày là bạn từ thời mặc quần thủng đít nên mày được ưu đãi đặc biệt, mày muốn hô gì thì hô.
Tiến Tài nghĩ một thoáng rồi giơ cánh tay không bị thương lên, hô to: Đảng Cộng sản muôn năm! Đảng Cộng sản muôn năm, đảng Cộng sản muôn muôn năm!. Hô ba lần rồi thôi. Sư tử hỏi:
- Không hô nữa à?
Tiến Tài nói:
- Không hô nữa!
Sư tử nói: - Hô nữa đi, giọng mày khỏe đấy?
Tiến Tài nói:
- Không hô nữa, chỉ hô ba lần là đủ rồi?
Sư tử nói:
- Vậy thì thôi! Nào bác - nó đẩy mẹ Tiến Tài một cái - xuống đi!
Mẹ Tiến Tài quì sụp xuống lạy Sư tử. Sư tử giằng lấy chiếc xẻng trong tay tên đào huyệt, và chỉ một nhát, hất bà già xuống hố. Những tên kia cũng đẩy vợ con Tiến Tài xuống. Bọn trẻ khóc inh ỏi, vợ Tiến Tài cũng khóc. Tiến Tài nổi giận nói: Đừng khóc, ngậm miệng lại, đừng để xấu mặt tôi? Vợ con anh ta ngừng khóc.
Một tên chỉ vào tôi, hỏi Sư tử:
- Tiểu đội trưởng, mụ này tính sao? Có chung một hố không?
Không đợi Sư tử trả lời, Tiến Tài đã quát to dưới hố:
- Sư tử, đã nói là cả nhà ta một hố, mày đừng cho ai xuống nữa.
Sư tử nói:
- Tiến Tài, mày yên tâm, tao hiểu ý của mày. Cho mụ già... - Sư tử bảo tên kia - nói anh em, chịu khó đào hố khác cho mụ!
Bốn tên chia làm hai tốp, tốp đào huyệt cho tôi, tốp lấp huyệt gia đình Tiến Tài.
Con gái Tiến Tài khóc:
- Mẹ Ơi, cát đầy mắt con...
Vợ Tiến Tài kéo vạt áo chụp lên đầu con gái. Nó giãy giụa định trèo lên lại bị chúng dùng xẻng hất xuống. Đứa con trai thì khóc ầm lên. Mẹ Tiến Tài ngồi thụp xuống nên bị lấp rất nhanh. Bà hổn hển chửi: - Cộng sản ơi là cộng sản, mẹ con tôi là chết trong tay các ông!
Sư tử nói:
- Sắp chết mới sáng mắt ra! Tiến Tài! Chỉ cần mày hô Đả đảo đảng Cộng sản là tao để lại cho nhà mày một người làm giống, sau này còn có người hương khói trước mồ.
Mẹ và vợ Tiến Tài vội giục:
- Hô đi, Tiến Tài, hô mau lên!
Tiến Tài mặt đầy cát, giương cặp mắt tròn xoe đáng mặt một trang hảo hán, nói: - Không, tao không hô, tao vừa hô Đảng Cộng sản muôn năm, bây giờ lại hô Đả đảo Đảng Cộng sản sao được?
- Được lắm, khí phách đấy. - Sư tử tỏ vẻ thán phục rồi giằng lấy chiếc xẻng từ tay đồng bọn, xúc lia lịa.
Bà mẹ Tiến Tài không thấy động cựa gì nữa. Vợ Tiến Tài thì cát đã lấp đến cổ, đứa con gái đã bị lấp kín từ lâu, đứa con trai còn hở cái chỏm đầu, hai tay vung loạn xạ. Máu rỉ ra từ lỗ mũi và lỗ tai vợ Tiến Tài, miệng há hốc kêu ằng ặc thê thảm quá, thê thảm quá!
Sư tử dừng tay xẻng, hỏi Tiến Tài:
- Thế nào?
Tiến Tài thở như trâu, đầu nở ra như một cái sọt, trả lời:
- Sư tử, dễ chịu lắm!
Sư tử tức điên lên: không một câu tỏ ra yếu đuối thốt ra từ miệng Tiến Tài! Hắn vớ lấy xẻng xúc lia lịa. Lấp đầy rồi, không còn trông thấy vợ con Tiến Tài đâu nữa, nhưng cát vẫn đang chuyển động, họ chưa chết hẳn. Cái đầu to tướng của Tiến Tài vẫn chưa bị lấp kín, trông dễ sợ. Anh không còn nói được nữa, khóe mắt và lỗ mũi rỉ máu, các mạch máu trên đầu nổi lên như những con tằm. Sư tử như con choi choi, dẫm cho cát lèn chặt. Hắn ngồi xổm trước đầu Tiến Tài hỏi:
- Người anh em, bây giờ thấy thế nào? Tiến Tài không trả lời được nữa. Sư tử búng ngón tay vào đầu Tiến Tài, hỏi đồng bọn:
- Các anh em, có ăn óc người không? Bọn kia trả lời:
- Ai dám ăn cái của ấy, lợm giọng chết!
Sư tử nói:
- Có người ăn đấy, đó là chi đội trưởng Trần, ăn kèm tương ớt và gừng thái chỉ, ăn như người ta ăn óc đậu.
ên đào huyệt bảo Sư tử:
- Huyệt đào xong rồi đấy! Sư tử đến bên miệng huyệt ngó một cái, quay lại bảo tôi:
- Bà dì xem qua cái huyệt tôi chuẩn bị cho dì đã được chưa?
Tôi nói: - Anh Sư tử, anh hãy rủ lòng thương mà tha cho cái mạng già này!
Sư tử nói:
- Già rồi, còn sống để làm gì? Với lại, tha cho dì thì lấy ai bù vào cho đủ con số một trăm?
Tôi nói:
- Nếu vậy thì anh chém đầu tôi, đừng chôn sống, tội lắm!
Thằng con hoang ấy nói:
- Chịu tội sống thì khi chết mới lên thiên đàng!
Thằng khốn đó đá tôi ngã xuống huyệt. Lúc này một đám người ồn ào đi tới, dẫn đầu là Tư Mã Khố, ông Hai nhà Phúc Sinh Đường. Tôi từng hầu hạ vợ ba của ông ta, nghĩ bụng: Cứu tinh đến rồi? Tư Mã Khố chân đi ủng khệnh khạng bước tới. Mấy năm không gặp, ông ta già đi nhiều. Ông ta hỏi:
- Ai đấy?
Sư tử nói: - Tôi đây ạ, Sư tử đây!
- Anh đang làm gì ở đây - Chôn người!
- Chôn những ai rồi? - Gia đình Tiến Tài, đội trưởng dân quân thôn Sa Lương!
Tư Mã Khố bước tới, hỏi:
- Dưới hố kia là ai?
- Ông Hai, cứu già mấy! - Tôi nói - già từng hầu hạ bà Ba, già là vợ nhà Quách đây ạ!
- Thế ra là bà hả? Sao bà lại rơi vào tay Sư tử?
- Già chót nhiều lời. Ông Hai, xin ông rủ lòng thương!
Tư Mã Khố bảo Sư tử:
- Tha cho bà ấy! Sư tử nói:
- Thưa đại đội trưởng, tha thì không đủ con số một trăm.
Tư Mã Khố nói:
- Đừng lệ thuộc vào con số, đáng giết mới giết, không đáng giết thì đừng?
Tên đào huyệt đưa lưỡi xẻng xuống cho tôi bám rồi kéo lên. Nói gì thì nói, Tư Mã Khố là con người còn biết lẽ phải, nếu không có ông ta thì già đã bị thằng súc sinh Sư tử chôn sống rồi!
Các cán bộ khu vừa lôi vừa đẩy bà Quách đi nơi khác. Cô giáo Sái mặt tái nhợt, cầm thước trở lại vị trí cũ tiếp tục thuyết minh. Mặc dù cô vẫn nước mắt lưng tròng, mặc dù giọng cô vẫn thê thảm, nhưng các học sinh không ai khóc nữa. Tôi nhìn xung quanh, những người vừa nãy dậm chân đấm ngực, giờ đây trên khuôn mặt họ chỉ còn là sự mệt mỏi và sốt ruột. Những bức tranh sặc mùi máu, giờ đây khô khốc vô vị như chiếc bánh nướng khô để lâu ngày. So với sự hiện diện đầy tính thuyết phục của bà Quách, thì những bức tranh sao mà giả dối, sao mà thiếu cảm tình! Trong đầu tôi cứ lởn vởn hình ảnh vầng trăng sáng như bạc, cái đầu to tướng của Tiến Tài trên mộ huyệt và thằng Sư tử với bộ mặt hung hãn như con mèo rừng. Những hình ảnh đó sao mà sống động, còn những bức tranh thì như những chiếc bánh tráng ngâm nước lâu ngày.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 33
Họ vào trường học điệu tôi ra.
Phố xá đông nghịt, rõ ràng là đang đợi tôi. Hai dân quân tóc bám đầy đất lập tức tiến đến trói tôi lại. Sợi thừng rất dài, quấn quanh người tôi hơn chục vòng mà vẫn còn thừa một đoạn dài. Anh dân quân đeo súng cầm đầu thừng dắt tôi như dắt súc vật. Anh dân quân đi sau dùng đầu nòng súng trường đẩy đít tôi. Người trên đường trợn tròn mắt nhìn tôi, người nào người ấy lấm lem như những con chuột vừa chui ra khỏi hang. Từ đầu phố bên kia, một đám người vừa lôi vừa đẩy, thoáng nhìn tôi đã nhận ra mẹ, chị Cả, Tư Mã Lương, Sa Tảo Hoa bị trói thành một dây. Ngọc Nữ và Thắng Lợi không bị trói, chúng nhảy xổ vào ôm lấy mẹ, nhưng mỗi lần như vậy đều bị một nữ dân quân lực lưỡng gạt bắn ra. Đến cổng nhà Phúc Sinh Đường, nay là trụ sở chính quyền khu, tôi nhập vào đoàn của mẹ. Mẹ, chị Cả và bọn trẻ nhìn tôi, tôi cũng nhìn lại. Tôi cảm thấy không có gì để nói, những người thân của tôi chắc chắn cũng có ý nghĩ như tôi.
Chúng tôi bị dân quân áp giải hết sân nọ vào sân kia cho đến sân cuối cùng. Họ giam chúng tôi trong một gian buồng phía nam. Cửa sổ mở ra phía nam đã bị hỏng, khung gãy đằng khung, giấy rách đằng giấy. Chúng tôi trông thấy Tư Mã Đình ngồi co ro ở xó nhà, mặt mũi tái xanh tái xám, răng cửa bị đánh gãy. Ông ta buồn rầu nhìn chúng tôi. Bên ngoài cửa sổ là một cái sân nữa rồi đến tường vây đã bị phá một đoạn, như cố ý làm thành cái cổng xép. Bên ngoài cổng có mấy dân quân đi đi lại lại, gió nam thổi tung vạt áo của họ. Trên chòi gác đông nam và tây nam vang lên tiếng lên đạn rôm rốp.
Đêm ấy, cán bộ khu treo bốn chiếc đèn khí trong buồng chúng tôi, kê một chiếc bàn, sáu chiếc ghế tựa, còn bày la liệt nào là roi da, gậy, roi mây, xích sắt, dây thừng, thùng nước, chổi, còn khênh đến một chiếc bàn mổ lợn bằng ván ghép dây đầy máu, một con dao bầu để chọc tiết, vài con dao lá đề để cạo lông, móc sắt treo thịt, thùng hứng tiết. Họ định biến cái buồng thành lò mổ.
Công an Dương cùng một số dân quân bước vào trong buồng. Cái chân bằng nhựa của anh ta kêu rin rít. Hai má bánh đúc của anh ta xệ xuống, kẽ nách phè ra những mỡ là mỡ khiến hai cánh tay suốt đời cành ra hai bên. Anh ta ngồi ở ghế giữa sau bàn, chậm rãi chuẩn bị cho công việc thẩm vấn. Anh ta móc khẩu súng lục đeo trên mông, lên đạn rồi đặt lên bàn; đặt chiếc loa bằng sắt tây bên cạnh khẩu súng lục; móc túi thuốc sợi và tẩu đặt bên cạnh chiếc loa; cuối cùng, anh ta tháo cái chân bàng nhựa cùng với bít tất đặt lên góc bàn. Cái chân cụt, dưới ánh sáng của những cây đèn khí, đỏ hỏn trông dễ sợ. Ở mỏm cụt của chân giả có những sợi dây da, còn từ bắp chân trơ xuống thì là một khoảng trống, từ cổ chân trở xuống là một đoạn bít tất và chiếc giày da rách. Cái chân giả dựng trên bàn như một vệ sĩ trung thành của công an Dương.
Những cán bộ khác của khu chia nhau ngồi hai bên công an Dương, nghiêm trang lấy giấy bút ra, chuẩn bị ghi chép. Các dân quân dựng súng vào tường, xắn tay áo cầm lấy roi gậy, sắp thành hai hàng như sai nha trên công đường.
Lỗ Thắng Lợi ôm chân mẹ mà khóc. Chính nó tự đâm đấu vào lưới Chị Tám Ngọc Nữ úa nước mắt nhưng miệng thì lại nở một nụ cười mê hồn. Dù trong hoàn cảnh khó khăn đến mấy, chị vẫn cứ đẹp, đầy sức hấp dẫn. Tôi rất hối hận về chuyện hồi nhỏ tôi giành vú mẹ cho riêng mình. Nét mặt mẹ vô cảm, nhìn không chớp ngọn đèn khí sáng chói.
Công an Dương nhồi một tẩu thuốc, cầm que diêm đấu trăng quẹt vào chỗ ráp trên mặt bàn, xoẹt, đầu que diêm bùng cháy, anh ta dẩu môi bập bập cho thuốc bén lửa rồi vút que diêm, dùng ngón tay cái dập tắt ngọn lửa trên tẩu, rít liền mấy hơi, hai luồng khói trắng tuôn ra từ hai lỗ mũi. Anh ta gõ tẩu vào chân ghế cho tàn thuốc rơi ra, đặt túi thuốc và tẩu lên bàn, cầm loa đặt lên miệng chĩa về phía lỗ hổng của bức tường, làm như bên ngoài có rất nhiều quần chúng, cần nói chuyện với họ. Với giọng ồm ồm, anh ta hỏi:
- Thượng Quan Lỗ thị, Thượng Quan Lai Đệ, Thượng Quan Kim Đồng, Tư Mã Lương, Sa Tảo Hoa, các người có biết vì sao bị bắt không?
Chúng tôi đưa mắt nhìn mẹ, mẹ nhìn cây đèn khí. Mặt mẹ sưng bủng trong suốt. Môi mẹ mấp máy nhưng không nói gì, chỉ lắc đầu.
Công an Dương nói:
- Lắc đầu thì không thể nói rõ điều gì! Căn cứ vào những lời cáo giác của quần chúng, căn cứ vào kết quả điều tra, chúng tôi đã có hàng lô chứng cứ. Gia đình Thượng Quan do Lỗ thị cầm đầu, trong nhiều năm đã che giấu Tư Mã Khố, tên đầu sỏ phản cách mạng ở vùng Cao Mật, tên hung thủ tội ác chồng chất, kẻ thù của nhân dân? Hơn nữa, trong đêm vừa qua, một thành viên trong gia đình Thượng Quan đã phá hoại phòng triển lãm giáo dục giai cấp, viết hàng loạt khẩu hiệu phản động trên bảng đen trong nhà thờ. Căn cứ vào những tội trạng đó, chúng tôi hoàn toàn có thể đem cả nhà ra hành quyết, nhưng xem xét từ góc dộ chính sách, chúng tôi dành cho các người cơ hội cuối cùng, các người hãy khai báo nơi ẩn nấp của tên thổ phỉ Tư Mã Khố, để hắn rơi vào lưới pháp luật càng sớm càng tốt. Hai là các người hãy khai báo tội viết khẩu hiệu phản động, phá hoại triển lãm giáo dục giai cấp. Dù chúng tôi đã biết là ai viết, nhưng chỉ cần thành khẩn là chúng tôi có thể khoan hồng. Các người rõ chưa?
Chúng tôi vẫn im lặng.
Công an Dương vớ lấy súng, gõ họng súng cộc cộc trên mặt bàn, miệng vẫn không rời chiếc loa, miệng loa vẫn chĩa ra ngoài lỗ hổng trên tường, gầm lên:
- Thượng Quan Lỗ thị, người rõ chưa?
Mẹ bình tĩnh nói:
- Oan cho chúng tôi
Chúng tôi đồng thanh kêu lên:
- Oan quá!
Công an Dương nói:
- Oan hả? Chúng tôi không để cho một người tốt bị Oan cũng không để một kẻ xấu lọt lưới. Treo tất cả chúng nó lên!
Chúng tôi giãy giụa, gào khóc nhưng chỉ kéo dài được đôi chút thời gian, cuối cùng vẫn bị trói giật cánh khuỷu treo lủng lẳng dưới xà nhà bằng gỗ thông, mẹ bị treo ngoài cùng, đầu xà phía nam, rồi đến chị Lai Đệ, rồi đến Tư Mã Lương, rồi đến tôi, và sau tôi là Sa Tảo Hoa.
Những tên dân quân chuyên nghiệp này đều rất thiện nghệ trong việc đánh trói người. Chúng đã treo sẵn năm chiếc ròng rọc trên xà, do vậy khi kéo chúng tôi lên không khó khăn gì. Tôi cảm thấy cổ tay còn có thể chịu nổi, nhưng ở hai bả vai thì đau xói lên óc. Tất cả chúng tôi đều gục đầu trước ngực, cổ tự nhiên vươn dài ra, hai chân duỗi thẳng, các ngón chân buông xuôi, thẳng góc với mặt đất. Không chống được, tôi bật lên tiếng kêu, nhưng Tư Mã Lương thì không. Chị Lai Đệ rên rỉ, Sa Tảo Hoa không động tĩnh gì. Cơ thể to béo của mẹ khiến sợi dây thừng căng như dây đàn. Mẹ là người đầu tiên mồ hôi đầm đìa, mái tóc rối bù của mẹ bốc hơi trắng xóa. Lỗ Thắng Lợi và Thượng Quan Ngọc Nữ ôm chân mẹ mà lắc. Bọn dân quân xách cổ Ngọc Nữ và Thắng Lợi như xách hai con gà quẳng ra, hai cô cháu lăn xả vào, lại bị quẳng ra. Một dân quân hỏi:
- Anh Dương, có nên treo chúng lên không?
Công an Dương kiên quyết không cho, nói:
- Không được, chúng ta phải chấp hành chính sách!
Lỗ Thắng Lợi vô ý làm tuột một chiếc giày của mẹ. Mồ hôi cuối cùng đọng trên đầu ngón chân, rớt tong tỏng trên mặt đất.
- Các người có nói không? - Công an Dương hỏi - chỉ cần khai ra là được tha ngay lập tức!
Mẹ cố ngửng đầu lên, vừa thở vừa nói:
- Thả bọn trẻ ra... tôi chịu trách nhiệm tất!
Công an Dương nói to với bên ngoài:
- Đánh, đánh đau vào!
Bọn dân quân vung roi vung gậy, hò hét đánh cầm chừng. Tôi la toáng lên, mẹ và chị Lai Đệ cũng kêu, Sa Tảo Hoa vẫn im lặng, có lẽ nó đã ngất. Công an Dương và các cán bộ khu đập bàn quát tháo ra oai. Mấy người dân quân khiêng Tư Mã Đình đặt lên chiếc bàn mổ lợn, đánh vào mông ông ta bằng chiếc que sắt mỗi cái đánh là một tiếng rú đau đớn.
- Thằng Hai, thằng khốn mau về chịu tội đi! Các ông không được đánh tôi, tôi đã từng lập công?...
Bọn dân quân lặng lẽ vung que sắt làm như sẽ đánh nát mông. Một cán bộ khu giơ roi vụt vào cái túi bằng da trâu, một dân quân dùng roi mây quật bôm bốp vào cái bao tải. Bốp bốp bịch bịch, quát tháo hầm hè, hư hư thực thực rối tung cả căn buồng, roi gậy bay loang loáng dưới ánh đèn. Thời gian khoảng một tiết học, bọn dân quân cởi dây thừng buộc ở khung cửa sổ, mẹ rơi bịch xuống đất, mềm nhũn. Bọn dân quân lại cởi một nút khác, chị Lại Đệ rơi xuống. Chúng tôi lần lượt được thả xuống. Bọn dân quân xách đến một thùng nước, dùng gáo múc nước hắt vào mặt chúng tôi. Chúng tôi tỉnh lại, nhưng tất cả các khớp xương đều mất hết cảm giác.
Công an Dương lớn tiếng quát:
- Đêm nay mới cho các người một trận phủ đầu. hãy suy nghĩ kỹ, khai ra thì xóa bỏ tội cũ, lập tức thả về nhà, không khai thì, hãy đợi đấy!
Công an Dương đi chân giả vào, giắt túi thuốc và súng lục vào thắt lưng, dặn dò đám dân quân phải canh giữ cẩn thận, rồi cùng các cán bộ khu khệnh khạng đi ra. Đám dân quân đóng cửa lại, ngồi vào một xó, ôm súng hút thuốc. Chúng tôi ngồi tựa vào mẹ, thút thít khóc. Mẹ giơ bàn tay sưng vù sờ nắn từng đứa. Tư Mã Đình rên rỉ đau đón.
Một dân quân nói:
- Khai ra thôi! Công an Dương mà tra khảo thì gỗ đá cũng phải khai! Các người đầu đen mắt thịt chịu được hôm nay, làm sao chịu nổi ngày mai?
Một dân quân khác nói:
- Tư Mã Khố nếu là hảo hán thì ra đầu thú là xong! Bây giờ còn ẩn nấp được, đến mùa đông thì nấp vào đâu?
Một dân quân bảo mẹ:
- Con rể bà đúng là một con hổ dữ. Cuối tháng trước một trung đội công an huyện bao vây hắn ở hồ Bạch Mã lại để hắn xổng mất. Hắn nã một tràng giết bảy người, trung đội trưởng bị gãy đùi?
Hình như đám dân quân mách ngầm chúng tôi điều gì đó nhưng cụ thể là điều gì thì không rõ. Nhưng chúng tôi có tin về Tư Mã Khố. Từ khi gặp nhau ở lò gạch cũ, anh biến mất như đá chìm đáy biển. Chúng tôi mong anh bỏ đi thật xa, không ngờ anh vẫn luẩn quẩn vùng này, gây cho chúng tôi biết bao phiền phức. Hồ Bạch Mã ở phía nam đồn Hai Huyện, cách Đại Lan không đầy hai mươi dặm, là nơi phình ra lớn nhất của con sông Mục, nước sông tràn vào chỗ trũng trở thành hồ. Trong hồ lau lách bạt ngàn, vịt trời đông vô kể.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 34
Sáng hôm sau, chị Phán Đệ từ huyện đi ngựa về. Chị tức điên lên, định tìm cán bộ khu để làm cho ra nhẽ. Nhưng khi bước ra khỏi phòng trưởng khu, cơn giận của chị biến mất. Chị theo trưởng khu vào thăm chúng tôi. Chúng tôi xa nhau đã nửa năm, không hiểu chị làm chức gì trên huyện. So với cách đây nửa năm, chị có gầy đi. Những vết ố của sữa trên ngực áo chứng tỏ chị đang trong thời kỳ cho con bú. Chúng tôi lạnh nhạt nhìn chị. Mẹ hỏi:
- Phán Đệ, vậy mẹ có tội gì?
Chị Phán Đệ nhìn một thoáng ông trưởng khu khi ấy đang nhìn ra ngoài cửa sổ với thái độ dửng dưng, nước mắt ứa ra, chị nói:
- Mẹ, cố chịu đựng vậy... Hãy tin vào Chính phủ... Chính phủ không bao giờ để người tốt bị Oan!...
Chính vào lúc chị Phán Đệ đang khuyên giải chúng tôi thì tại hồ Bạch Mã, trong khu nhà mỏ rợp bóng tùng xanh của Hàn lâm họ Đinh, Thôi Phượng Tiên, một phụ nữ góa chồng đội bát nhang Hồ ly, cầm viên đá quạ gõ cách cách vào tấm bia công đức của nhà Hàn lâm. Tiếng gõ nhọn và sắc hòa với tiếng mổ công cốc của chim gõ kiến. Một con chim rẻ quạt xòe đuôi bay lượn trong lùm cây. Thôi Phượng Tiên gõ một hồi rồi ngồi đợi. Chị thoa một lớp phấn mỏng, quần áo gọn gàng sạch sẽ, tay khoác chiếc làn trên phủ chiếc khăn hoa, trông như cô dâu về thăm nhà mẹ đẻ. Tư Mã Khố từ sau tấm bia chui ra.
Thôi Phượng Tiên giật mình, nói:
- Đồ quỉ, sợ chết khiếp đi được!
Tư Mã Khố nói:
- Sợ gì, hồ ly tinh mà lại sợ qui?
Thôi Phượng Tiên thở dài:
- Nông nỗi này mà anh còn đùa cợt! - Nông nỗi này là thế nào?
- Tốt quá đi chứ, chưa bao giờ tốt như lúc này! - Tư Mã Khố nói - Bọn khốn kiếp định bắt sống tôi? Ha ha, có mà nằm mơ!
Anh ta vỗ vỗ khẩu trung liên, rồi khẩu tiểu liên báng gập có máy ngắm do Đức chế tạo, rồi vỗ khẩu Braoninh đeo bên sườn, nói:
- Mẹ vợ tôi khuyên tôi nên đi thật xa, đừng bao giờ trở lại vùng Cao Mật. Sao tôi lại phải đi thật xả Đây là nhà của tôi, là nơi chôn cất hài cốt những người thân của tôi, từng gốc cây ngọn cỏ đều thân thiết với tôi, là nơi tôi mặc sức chơi bời nhảy múa, ở đây còn có con hồ ly tinh bốc lửa như cô, thử hỏi, làm sao tôi có thể bỏ đi!
Trong đám sậy phía xa, đàn vịt trời hốt hoảng bay lên, Thôi Phượng Tiên lấy tay bịt miệng Tư Mã Khố. Tư Mã Khố gỡ tay Phượng Tiên, nói:
- Không có chuyện gì, bọn Bát lộ địa phương bị tôi khiền cho một trận, đám vịt trời bị những con diều đến rỉa xác chết làm cho hoảng sợ đấy thôi!
Thôi Phượng Tiên kéo Tư Mã Khố vào trong phần mộ, nói:
- Có chuyện quan trọng cần nói với anh!
Họ rẽ bụi gại rậm chui vào trong, nhà mồ rất rộng. Gai cào xước tay Thôi Phượng Tiên, chị ái lên một tiếng. Tư Mã Khố đặt súng xuống, lắp cây đèn dầu treo trên vách hầm, quay lại nắm lấy tay Phượng Tiên, xuýt xoa:
- Xước tay hả? Đưa anh xem nào!
Thôi Phượng Tiên gỡ tay ra, nói:
- Không hề gì, không sao đâu!
Nhưng Tư Mã Khố đã ngậm ngón tay Phượng Tiên mà mút chùn chụt. Phượng Tiên rên rỉ:
- Đồ quỉ hút máu!...
Tư Mã Khố nhả ngón tay Phượng Tiên ra, gắn đôi môi vào môi chị, hai tay chụp mạnh hai bầu vú chị. Phượng Tiên oằn người, chiếc làn tuột khỏi tay, những quả trứng nhuộm phẩm đỏ lăn lông lốc. Tư Mã Khố bế xốc Phượng Tiên đặt trên ván thiên của cỗ quan tài rộng như tấm phản... Tư Mã Khố trần như nhộng nằm trên nằm quan tài, mắt lim dim, đưa lưỡi liếm bộ ria lâu ngày không xén tỉa. Thôi Phượng Tiên vuốt ve những ngón tay như chuối mắn của anh ta rồi đột nhiên úp khuôn mặt nóng rực vào ngực, ngay chỗ xương mỏ ác phảng phất mùi đã thú. Chị cắn nhè nhẹ lên khắp ngực Tư Mã Khố, giọng tuyệt vọng:
- Anh là đồ quỉ sứ, lúc đắc thế thì chẳng ngó gì đến người tạ Giờ gặp vận đen thì cứ bắt người ta dính vào!... Em biết, người đàn bà nào gắn với anh đều không gặp vận may, vậy mà em không kiềm chế nổi, chỉ cần anh vẫy đuôi là em chạy theo như con chó cái!... Nói đi anh, con quỉ chết tiệt, anh có bùa phép gì mà đám phụ nữ bất chấp tất cả, thừa biết sẽ rơi xuống vục mà vẫn mở mắt nhảy xuống.
Tư Mã Khố có vẻ xót xa nhưng vẫn mỉm cười, kéo bàn tay Phượng Tiên đặt vào ngực mình, nơi có trái tim đang dập, nói:
- Chính là cái này, trái tim, sự chân thành của tôi đối với phụ nữ! Thôi Phượng Tiên lắc đầu:
- Anh chỉ có một trái tim, vậy phải chia làm bao nhiêu phần?
- Dù chia làm bao nhiêu phần thì mỗi phần đều chân thành! Ngoài ra, còn ở cái này - Anh ta cười chớt nhả, kéo tay Phượng Tiên xuống phía dưới.
Phượng Tiên giằng tay ra, đặt ngón tay trên môi Tư Mã Khố, nói:
- Cái quái vật của anh thì có bùa phép gì, bị người ta dồn đuổi phải ngủ trong nhà của người chết mà còn làm chuyện ma mãnh! Tư Mã Khố cười:
- Càng phải như vậy chứ, đàn bà là thứ ngon lành, là của quí trong những của quí! Anh ta vừa nói vừa vuốt ve hai bầu vú của Phượng Tiên. Phượng Tiên nói:
- Trời đất, ở nhà xảy ra chuyện tày đình rồi!
Tư Mã Khố hỏi:
- Chuyện gì? Thôi Phượng Tiên nói:
- Mẹ vợ anh, chị vợ em vợ anh, con trai anh, em trai của vợ anh, rồi hai đứa con gái của chị Cả và dì Năm, rồi anh trai anh, đều bị bắt giam trong nhà anh, ngày nào cũng treo lên xà nhà, đánh bằng roi, bằng gậy... Thảm lắm? Chỉ e chẳng được mấy bữa họ chết hết!
Bàn tay Tư Mã Khố hóa đá ngay trên ngực Phượng Tiên. Anh ta nhảy từ nắp quan tài xuống, xách súng định chui ra ngoài. Thôi Phượng Tiên ôm ngang lưng anh ta, nài nỉ:
- Anh định tìm cái chết hay sao?
Tư Mã Khố trấn tĩnh lại, ngồi xuống ăn một quả trúng gà luộc. ánh nắng lọt qua bụi gai chiếu trên cái cằm bạnh ra và bên tóc mai đã đốm bạc. Lòng đỏ trứng tắc nghẹn trong họng, anh ta húng hắng ho, mặt đỏ gắt. Phượng Tiên dấm lưng cho anh, vuốt họng cho anh hồi lâu mới hết nghẹn. Phượng Tiên mặt đầy mồ hôi, vừa thở vừa nói:
- Cha mẹ Ơi, sợ quá đi mất!
Hai giọt nước mắt to tướng lăn trên gò má Tư Mã Khố, anh ta nhảy dựng lên, suýt nữa đầu chạm nóc hầm, ánh căm thù lóe lên trong mắt.
- Bọn khốn kiếp, tao phải lột da chúng mày! - Anh gầm lên.
- Anh yêu, anh đừng đi! - Phượng Tiên ôm chặt anh, khuyên - Ngay đàn bà như chúng em còn biết đó là gian kế! Anh thử nghĩ, anh đơn thương độc mã đến đó, chắc chắn bị mai phục!
- Em bảo anh làm thế nào bây giờ?
Nghe lời khuyên của mẹ vợ anh, đi thật xạ Nếu anh không sợ em quẩn chân thì em tình nguyện đi cùng anh, đi nát gót chân em cũng không hối tiếc!
Tư Mã Khố nắm chặt tay Phượng Tiên, cảm động nói:
- Tư Mã Khố này thật có phúc mới gặp được người như em, tốt mọi mặt, hết lòng hết dạ vì anh, ở đời còn mong gì hơn thế? Nhưng anh không muốn làm hại em hơn nữa. Phượng Tiên, em về đi, và đừng bao giờ gặp anh nữa? Khi được tin anh chết, em không được buồn. Anh sống đủ rồi, đáng chết lắm rồi!
Thôi Phượng Tiên nước mắt chan hòa, gật đầu lia lịa. Chị lấy chiếc lược sừng giắt trên mái tóc, khẽ gỡ từng tí mái tóc hoa râm rối bù của Tư Mã Khố, nhặt ra rất nhiều hạt cỏ, vỏ hến và những con sâu nhỏ, rồi áp đôi môi ẩm ướt chị hôn lên những nếp nhăn trên trán anh, bình tĩnh nói:
- Em đợi anh!
Chị xách làn bước lên các bậc thang bằng gạch, rẽ gai chui ra khỏi phần mộ. Tư Mã Khố ngồi bất động, cho đến khi bóng chị đã khuất từ lâu, anh vẫn nhìn không chớp vào cành cây đung dua trong tia nắng.
Sáng sớm hôm sau, Tư Mã Khố để lại súng ống đạn được trong hầm mộ, anh đi ra bờ hồ Bạch Mã tắm rửa sạch sẽ, rồi như một khách nhàn du anh đi dọc theo mép hồ nhìn ngắm mọi thứ, lúc dừng lại đối thoại với lũ chim, lúc chạy thi với con thỏ bên đường. Anh men theo bờ đầm, hái một bó hoa dại cả trắng lẫn đỏ, đưa lên mũi ngửi một cách thèm khát, rồi anh đi vòng đến bên rìa nghĩa trang, ngó sang ngọn núi Trâu Nằm vàng rục dưới nắng. Anh nhảy nhảy trên cầu đá bắc qua sông Mực, tựa hồ muốn thử xem cầu còn chắc hay không. Chiếc cầu rung rinh, kêu cót két. Cặp mắt đen như mờ đi vì sung sướng, ánh mắt dịu dàng như ánh ngọc, thật phong tình, thật trong sáng? Anh nghịch ngợm thò tay vào sờ nắn cái ấy trong đũng quần, ngắm nghía nó mà thở dài, rồi đái một bãi xuống dòng sông Mực. Cùng với tiếng nước tiểu róc rách, anh cất tiếng hét thật to: A... a... a... tiếng ngân trải dài trên cánh đồng mênh mông. Trên đê, một trẻ chăn dê vụt một tiếng roi rõ kêu khiến Tư Mã Khố chú ý. Anh ngoảnh lại nhìn thằng nhỏ, thằng nhỏ cũng nhìn lại anh. Hai luồng mắt gặp nhau rồi đọng lại thành hai nụ cười trên mặt. Tư Mã Khố cười hì hì, nói:
- Ta biết cháu, hai chân bằng gỗ lê, hai tay bằng gỗ hạnh, ta và mẹ cháu lấy đất nặn chim cho cháu!
Thằng bé chăn dê cả giận, chửi:
- Đ. mẹ Ông?
Câu chửi rất bậy khiến Tư Mã Khố trong lòng rộn lên, mắt ướt đẫm, vô cùng cảm khái. Thằng bé chăn dê vung roi đuổi con dê đi chỗ khác. Nắng chiều nhuốm đỏ khuôn mặt nó. Bóng nó đồ dài trên mặt đất. Nó cất giọng trong như ngọc mà hát rằng:
- Năm một chín ba bảy, Nhật tiến vào Trung nguyên. Chiếm Lư Cầu Kiều. Chiếm Sơn Hải Quan. Đường sắt kéo dài đến Tế Nam. Giặc bắn pháo, Bát lộ quân bắn súng trường, ngắm thật chuẩn, bắn chết thằng sĩ quan, hai chân duỗi thẳng, nó về Tây Thiên!... Khúc hát chưa dứt, Tư Mã Khố đã ứa nước mắt, anh bưng mặt ngồi thụp trên cầu...
Sau đó anh xuống sông rửa sạch ngấn nước mắt trên mặt, gột sạch bùn đất trên người, chậm rãi đi theo bờ đê nở đầy hoa dại. Tiếng chim kêu lúc hoàng hôn nghe buồn thảm, các màu sắc nhòa vào nhau, mùi hoa dại hoặc nồng hoặc thoang thoảng khiến Tư Mã Khố như mê đi, mùi cỏ dại hoặc đắng hoặc cay khiến anh tỉnh lại. Đất trời mênh mang, nghìn năm chỉ một chớp mắt, anh nghĩ mà đau! Mặt đê, trên lối đi con trạch, rất nhiều châu chấu đang đẻ trứng, cắm bụng trong đất, người dưới thẳng, đau đớn trong hạnh phúc. Tư Mã Khố ngồi xuống lôi một con châu chấu lên, ngắm cái vòi lủng lẳng như một đoạn ruột của nó, lập tức nhớ lại thời niên thiếu của anh, lập tức nhớ lại mối tình đầu với một cô gái má trắng môi son. Anh thích nhất là cọ mũi trên bầu vú của cô ta...
Thôn trấn đã ở trước mặt, khói bếp lan tỏa, hơi người nồng đậm. Anh ngắt một bông cúc vàng đưa lên mũi ngủi, gạt bỏ những tạp niệm riêng tư, chấn những ý đồ ngang trái, nhằm hướng cổng xép phía nam nhà mình đàng hoàng tới. Đám dân quân nấp phía sau cổng xép nhảy ra, lên đạn rộp rộp, quát to:
- Đứng lại, không được vào!
Tư Mã Khố điềm nhiên như không:
- Đây là nhà của tôi?
Lính gác sững người, quẳng súng la rầm lên:
- Tư Mã Khố dây này, Tư Mã Khố đây này! Tư Mã Khố khinh bỉ nhìn bọn dân quân, cằn nhằn:
- Sao lại bỏ chạy, đúng là... !
Anh ta vừa ngửi bông hoa vàng vừa bước vào cổng xép miệng hát một đoạn trong bài ca chống Nhật, phong thái ung dung, nhưng anh bị sa xuống cái hố đào sẵn để bẫy anh ngay trước cổng. Một đám đông binh sĩ của Cục Công an huyện ngày đêm phục kích ở vạt ruộng trước cổng ùa tới, mấy chục họng súng đen ngòm cùng chĩa xuống Tư Mã Khố ở dưới hố. Một mũi chông cắm dưới hố xuyên suốt qua bàn chân của anh. Anh đau đến nỗi miệng méo xệch, chửi:
- Đồ con nít, chẳng ra thể thống gì cả! Ta về tự thú mà lại dùng bẫy lợn rừng để bẫy ta?
Trưởng phòng trinh sát Cục Công an kéo Tư Mã Khố từ dưới hố lên, còng tay anh lại.
Tư Mã Khố nói:
- Thả hết những người nhà Thượng Quan ra! Tội ai nấy chịu!
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 35
Nghe nói để đáp ứng yêu cầu bức thiết của nhân dân vùng đông bắc Cao Mật, phiên tòa xử Tư Mã Khố sẽ thiết lập tại địa điểm Bác-bít chiếu phim lần đầu. Đây chính là sân phơi của nhà Tư Mã, trên sân vẫn còn cái bục đất, dấu vết thời Lỗ Lập Nhân làm cải cách ruộng đất. Để đón tiếp Tư Mã Khố, cán bộ khu huy động dân quân có vũ trang đốt đuốc làm suốt đêm đào mấy trăm khối đất, đập một cái đài cao hơn mặt đê sông Thuồng Luồng, đào một rãnh sâu hình chữ U ở mặt trước và hai bên đài, rãnh đầy nước do bên ngoài thấm vào. Cán bộ khu còn trích từ quĩ đặc biệt một khoản tiền làm tương đương với một tấn gạo, đi ba mươi cây số mua về hai xe chiếu cói dày, màu vàng rơm, dụng trước đài một căn nhà quây bốn bên bằng chiếu cói dán đầy những tấm áp phích lời lẽ khi thì nghiến răng nghiến lợi, khi thì vui sướng điên cuồng. Số chiếu còn thừa thì trải trên nền đài và treo kín bốn ta luỵ Trưởng khu tháp tùng huyện trưởng đến xem xét địa điểm phiên tòa. Họ đứng trên đài cao, chân giẫm lên mặt chiếu trơn nhẵn, gió lạnh từ phía sông thổi phồng ống tay áo và ống quần như những khúc dồi lợn khổng lồ. Huyện trưởng xoa xoa cái mũi đỏ tía, lớn tiếng hỏi trưởng khu đứng phía sau:
- Kiệt tác của ai đây?
Trưởng khu chưa rõ huyện trưởng hỏi như vậy là có ý châm biếm hay là lời khen, bèn nói úp mở:
- Tôi tham gia thiết kế, còn chủ yếu là anh ta thực hiện - Trưởng khu chỉ anh cán sự tuyên truyền đứng phía sau.
Huyện trưởng nhìn một thoáng anh cán sự tuyên truyền mặt mày tươi tỉnh gật đầu, hạ giọng nói khẽ nhưng cũng đủ cho người đằng sau nghe thấy:
- Đây đâu phải là phiên tòa, chẳng khác lễ đăng quang của nhà vua?
Phiên tòa quyết định vào buổi sáng ngày mồng Tám tháng Chạp. Những người hiếu kỳ dậy từ nửa đêm, đội trăng đội sao từ làng trên xóm dưới kéo về bãi xử. Trời tờ mờ sáng, bãi đất trống đã dầy đặc những người là người, trên đê Thuồng Luồng, người ta cũng đứng ken nhau như một hàng rào. Mặt trời uể oải nhô lên, nhuốm hồng những cặp lông mi và những bộ ria bám đầy băng, nhuốm hồng những làn hơi thở trăng xóa. Mọi người quên bẵng hôm nay là ngày ăn cháo lạp chúc, nhưng nhà tôi thì không quên. Mẹ giả vờ hăng hái để chúng tôi vui lây nhưng tiếng khóc thút thít của Tư Mã Lương khiến chúng tôi chẳng còn bụng dạ nào nữa. Chị Tám như một bà cụ non, lấy miếng bọt biển lau hai dòng nước mắt cho nó. Nó khóc không thành tiếng, nhưng như thế còn xót xa hơn gào khóc. Chị Cả bám sau mẹ đang tất bật, luôn miệng hỏi:
- Mẹ, anh ấy chết, con có phải tuẫn tiết không?
Mẹ mắng:
- Điên à, ngay dù cưới xin hẳn hoi, cũng không phải tuẫn tiết?
Chị Cả hỏi đến lần thứ mười hai, mẹ mất hết kiên nhẫn, mắng té tát:
- Lai Đệ, con không biết xấu hổ sao? Con với nó chẳng qua là em rể tòm tem với chị vợ chuyện xấu xa chứ hay gì!
Chị Cả sững người nói:
- Mẹ, mẹ khác trước rồi!
Mẹ nói:
- Tao khác trước mà cũng không khác. Mười mấy năm nay, người nhà Thượng Quan chúng ta như những cây hẹ, búi tàn úa búi mọc lên, có sống ắt có chết, chết thì dễ, sống mới khó, càng khó càng phải sống! Càng không sợ chết lại càng phải cố mà sống! Mẹ phải nhìn thấy cái ngày con cháu mẹ mở mày mở mặt với đời!
Mắt mẹ mọng nước, nhưng ánh mắt thì rục lửa, nhìn chúng tôi khắp lượt, cuối cùng đọng lại trên mặt tôi như ký thác niềm hy vọng lớn nhất ở tôi. Tôi cảm thấy vô cùng hoang mang vì tôi chẳng có ưu điểm nào cả, ngoại trừ khả năng học thuộc lòng ttương đối nhanh bài khóa và hát tương đối chuẩn bài Phụ nữ giải phóng cạ Tôi hay khóc, dút dát, nhu nhược, chẳng khác một con cừu đực bị thiến!
Mẹ bảo:
- Thu xếp mau lên, đi tiễn anh ta một tí! Anh ta là đồ đốn mạt, nhưng cũng là trang hảo hán! Những người như vậy, trước đây cứ khoảng mươi năm lại có một người. Từ nay về sau chắc là tuyệt chủng.
Cả nhà tôi đứng trên đệ Những người xung quanh đều né tránh chúng tôi. Rất nhiều ánh mắt nhìn trộm chúng tôi. Tư Mã Lương còn định chen lên, nhưng mẹ nắm cánh tay nó, nói:
- Thôi con, đứng xa mà nhìn cũng được. Gần quá, cha con sẽ bị phân tâm?
Mặt trời lên đến hai con sào thì có mấy chiếc xe hơi thận trọng qua cầu Thuồng Luồng chạy tới chỗ thân đê bị sụt trên xe là các binh sĩ đầu đội mũ sắt, ôm tiểu liên; nét mặt nghiêm trang như sắp xung trận. Xe chạy đến chân đài thì dừng lại, binh sĩ từng đôi nhảy xuống và lập tức triển khai thành vòng cung bao vây lấy khán đài. Cuối cùng, hai binh sĩ chui ra khỏi ca bin, mở nắp sau của xe đẩy Tư Mã Khố xuống. Tư Mã Khố hai tay bị còng, ngã lăn ra nhưng lập tức bị hai binh sĩ cao lớn xốc nách đừng dậy, tập tễnh đến trước căn nhà, máu thấm từng mỗi dấu chân, rồi bước lên khán đài. Sau này một số người nói lại rằng, khi chưa trông thấy Tư Mã Khố, họ cứ nghĩ anh ta phải là một quái vật mặt xanh nanh vàng, nửa người nửa thú, nhưng khi trông thấy anh ta, họ cảm thấy hơi thất vọng. Người đàn ông trung niên đầu bị cạo trọc này có cặp mắt to buồn buồn, hoàn toàn không có vẻ hung dữ, trái lại, còn tỏ ra chất phác, trung hậu, khiến mọi người ngờ rằng công an đã bắt lầm người khác.
Phiên tòa được tiến hành rất nhanh. Quan tòa đọc tội trạng của Tư Mã Khố, rồi tuyên án tử hình. Quần chúng nhốn nháo, người đang ngồi thì đứng dậy, người đang đứng thì chen lấn nhau lên phía trước. Mấy vệ binh giải Tư Mã Khố xuống dưới dài, họ khuất sau căn nhà quây bằng chiếu rồi xuất hiện ở đầu nhà phía đông. Tư Mã Khố bước đi tập tễnh, khiến hai người xốc nách anh ta bước chân quýnh cả lên. Đến bờ đầm, nơi diễn ra những vụ hành quyết nổi tiếng, họ dừng lại. Tư Mã Khố quay mặt nhìn lên đệ Có thể anh nhìn thấy chúng tôi, cũng có thể không nhìn thấy. Tư Mã Lương vừa buột miệng kêu bố ơi thì đã bị mẹ bịt chặt miệng, ghé sát tai dỗ dành:
- Lương con, nghe lời ngoại, con đừng làm ầm lên! Ngoại biết con đau xót lắm, nhưng cái chính là con đừng làm cho bố con bối rối, để bố con ra đi thanh thản!
Lên khuyên của mẹ như có phép lạ khiến Tư Mã Lương thoắt cái trở lại hiền lành như con cừu non. Hai binh sĩ to lớn nắm vai Tư Mã Khố, cố sức xoay người anh lại, quay mặt về phía đầm. Nước trong đầm tù đọng hàng mấy chục năm, xanh màu vỏ chanh, mặt nước phản chiếu khuôn mặt tiều tụy và vết rách do dao cạo trên má. Lưng quay về đội hành quyết, mặt hướng ra đầm, bao nhiêu khuôn mặt đàn bà hiện trên mặt nước, bao nhiêu mùi thơm của người đàn bà lan tỏa mặt đầm, anh bỗng thấy mình trở nên ủy mị, trong lòng đang êm ả bỗng nổi cồn sóng gió. Anh quay phắt lại và bằng cái giọng khiến viên Trưởng phòng Tư pháp Cục Công an và những tên đao phủ giết người không chớp mắt sợ tái mặt:
- Tôi không thể để các ông bắn tù phía sau!
Trước mặt những tên đao phủ mà tên nào cũng ngây ngô đần độn, Tư Mã Khố cảm thấy vết xước trên má bỏng rát. Vết đứt trên má khiến Tư Mã Khố giận điên lên, những chuyện hôm qua trở lại trong ký ức anh. Viên chấp pháp đến thông báo cho anh về án tử hình, anh vui vẻ chấp thuận. Viên chấp pháp hỏi anh có yêu cầu gì không, anh sờ râu ria trên mặt tua tủa như lông nhím, nói:
- Xin cho một thợ đến giúp tôi sửa sang râu tóc một tí? Viên chấp pháp nói:
- Tôi sẽ báo cáo với lãnh đạo!
Ông thợ cắt tóc xách chiếc hòm gỗ, rụt rè bước vào phòng giam tù tử hình. Chân tay run lẩy bẩy, ông ta cạo trọc đầu Tư Mã Khố, rồi cạo râu cho anh. Cạo được một bên, ông ta làm đứt má, chảy máu. Tư Mã Khố gầm lên một tiếng khiến ông thợ cắt tóc bỏ chạy nấp sau hai lính gác.
- Tóc thằng cha này cứng hơn lông gáy lợn! - Ông thợ cắt tóc giơ lưỡi dao cạo cho hai người lính gác xem - Lưỡi mẻ hết cả? Râu hắn càng cứng hơn, như cái bàn chải bằng dây thép. Vậy mà hắn còn vận nội công lên râu?
Ông thợ cắt tóc thu dọn đồ nghề định ra về, Tư Mã Khố chấn: - Đ. mẹ, sao lại thế hả? Định để ta ra mắt bà con với nửa bộ râu này hả?
- Thằng tử tù, râu đã cứng mà còn vận nội công! - Ông thợ cắt tóc chửi.
Tư Mã Khố cười dở mếu dở, nói:
- Con ơi, trăm dâu đổ đầu tằm, ta có biết vận nội công là thế nào đâu?
- Anh cứ nghiến răng ken két, không vận nội công thì là gì? - Ông thợ cắt tóc nói - tôi có điếc đâu!
- Thằng khốn, đó là vì ta đau quá!
Người lính gác bảo:
- Sư phụ, ai lại thế! Ông chịu khó cạo nốt cho người ta!
Ông thợ cạo nói: - Tôi cạo không được, các ông đi tìm người khác!
Tư Mã Khố thở dài:
- Đ. mẹ, trên đời lại có loại người như vậy? Này người anh em - anh ta nói với người lính gác - Mở còng cho tôi, tôi sẽ cạo lấy vậy?
Người lính gác kiên quyết:
- Không được! Nhân đó ông hành hung, chạy trốn hoặc tự sát thì trách nhiệm đổ lên đầu chúng tôi!
Tư Mã Khố chửi:
- Đ. mẹ các ông, gọi một quan chức đến đây! - Tư Mã Khố dập còng vào chấn song sắt loảng xoảng.
Một nữ cán bộ công an chạy vào, hỏi:
- Tư Mã Khố, gì mà làm ầm lên vậy?
Tư Mã Khố nói: - Nhìn bộ râu tôi đây này, cạo một nửa rồi không cạo nữa, cái lý ở đâu thế?
- Chẳng có lý nào như thế cả - Chị ta vỗ vai ông thợ cắt tóc hỏi - Sao không cạo nốt cho anh ta?
- Râu cứng quá, lại còn vận nội công lên râu nữa chứ!
- Đ. cụ anh, lại còn nói ta vận nội công!
Ông thợ cắt tóc giơ lưỡi dao mẻ ra để thanh minh. Tư Mã Khố nói:
- Bạn ơi, bạn có dám bạo gan một lần không? Mở còng cho tôi, tôi cạo lấy, đây là đề nghị cuối cùng của đời tôi?
Người cán bộ công an này đã từng tham gia vây bắt Tư Mã Khố. Chị do dự một thoáng rồi bảo:
- Mở còng cho anh ta.
Người lính gác run run mở còng cho Tư Mã Khố rồi vội vàng né sang một bên. Tư Mã Khố xoa bóp hai cổ tay rồi chìa tay ra. Chị cán bộ công an nhận con dao từ tay ông thợ cạo rồi đưa cho Tư Mã Khố.
Tư Mã Khố đón lấy con dao cạo, nhìn thẳng vào đôi mắt đen láy ẩn sau cặp lông mày rậm của chị cán bộ công an, giọng cảm kích:
- Chị không sợ tôi hành hung, chạy trốn hoặc tự sát hay sao?
Chị công an cười:
- Nếu vậy thì không phải là Tư Mã Khố!
Tư Mã Khố thở dài: - Không ngờ người hiểu ta hơn cả lại là phụ nữ!
Chị công an mỉm cười khinh miệt.
Tư Mã Khố thèm thuồng nhìn đôi môi cương nghị của chị công an, lại nhìn rất lâu bộ ngực nhô cao sau lần áo quân phục màu vàng, nói:
- Này cô em, vú cô không nhỏ chút nào!
Chị công an cắn môi, thẹn quá hóa giận, mắng:
- Quân đạo tặc chết đến nơi còn nghĩ lung tung!
Tư Mã Khố nói nghiêm chỉnh: - Cô em, tôi đã đ. không biết bao nhiêu phụ nữ, chỉ tiếc rằng cho đến nay vẫn chưa đ. được một nữ đảng viên Cộng sản!
Chị nữ công an giận dữ đánh Tư Mã Khố một bạt tai. Cái tát mạnh đến nỗi bụi trên xà nhà rơi xuống. Nhưng Tư Mã Khố vẫn cười, thản nhiên như không:
- Tôi có cô em vợ là đảng viên Cộng sản, lập trường kiên quyết, vú vê đồ sộ. Tôi ôm lấy cô ta và bảo: Dì ơi, cho anh mần dì nhé! Cô ta bảo: Này anh rể, mỡ này không đến miệng mèo được đâu!
Chị công an mặt đỏ như gấc, nhổ nước bọt vào mặt Tư Mã Khố, khẽ chửi:
- Đồ chó dái, bà thì thiến nhà ngươi!
...
Tiếng kêu gào của Tư Mã Đình bứt Tư Mã Khố ra khỏi những hồi ức ngọt ngào. Anh trông thấy mấy dân quân sắc mặt hầm hầm xốc nách anh trai, rẽ đám đông đi tới.
- Oan quá, oan quá? Tôi là người có công, tôi cắt đứt quan hệ với nó từ lâu...
Tư Mã Đình kể lể, nhưng không ai thèm nghe. Tư Mã Khố thở dài, trong lòng cảm thấy bứt rút. Quả thực đây là một con người trung hậu, tuy có ác khẩu đôi chút, nhưng vấn đề then chốt là lúc nào cũng hướng về em trai. Tư Mã Khố nhớ lại cái lần lên huyện cách đây đã nhiều năm, khi anh mới lớn, theo anh trai đi thu nợ. Qua ngõ nhà thổ, anh trai bị một đám son phấn lòe loẹt kéo vào. Khi trở ra thì túi đã rỗng tuếch. Anh trai nói:
- Em này, về nói với bố là chúng mình bị cướp!
Một bận khác, hình như vào dịp trung thu thì phải, anh rượu say vào mới đến nhà vợ, bị kẻ nào đó lột sạch quần áo treo lên cây hòe.
- Em cứu anh mấy, cởi dây cho anh! Đầu anh chảy máu.
Tư Mã Khố hỏi:
- Anh sao thế?
Lúc đó anh sao mà hài hước, anh nói:
- Em ơi, đầu bé khoan khoái, đầu to oan trái?...
Tư Mã Đình chân mềm nhũn đứng không vững.
Một cán bộ thôn hỏi dồn:
- Tư Mã Đình, kho báu nhà Phúc Sinh Đường chôn ở đâu? Không nói thì cho đi theo thằng kia?
- Chẳng có kho nào cả, hồi cải cách ruộng đát đã đào hết lượt sâu ba thước rồi! - Anh trai cố thanh minh một cách thảm hại.
Tư Mã Khố cười:
- Anh đừng la toáng lên như thế!
Tư Mã Đình chửi: - Tất cả là cái thằng khốn kiếp này hại tôi!
Tư Mã Khố lắc đầu cười đau khổ. Một cán bộ công an tay đỡ khẩu súng bên hông, khiển trách cán bộ thôn:
- Chỉ bậy, giải đi, chẳng hiểu gì về chính sách cả?
Cán bộ thôn nói:
- Bọn tôi nhân tiện thì khai thác thêm đó thôi! - Anh ta vừa nói vừa kéo Tư Mã Đình đi.
Viên giám quan giơ ngọn cờ bé tí lên, hô sang sảng:
- Chuẩn bi...
Các tay súng nâng súng lên, đợi khẩu lệnh cuối cùng. Tư Mã Khố nhìn những họng súng đen ngòm, trên mặt thoáng một nét cười băng giá. Một đạo hồng quang sáng rục trên đê, mùi đàn bà trùm lên tất cả. Tư Mã Khố la to:
- Ôi đàn bà mới là những người tốt nhất trên đời!
Đám đông đứng lặng như trời trồng. Lời hô của Tư Mã Khố tuy không hùng tráng nhưng nó lại xoáy vào tâm khảm mọi nói. Đàn bà có tốt không? Có lẽ đàn bà là những người tốt, quả thực đàn bà là những người tốt. Nhưng suy cho cùng, đàn bà là những người không tốt! Liền sau đó là tiếng nổ đùng đục, đầu Tư Mã Khố vỡ toác như cái gáo bị dập bể, máu trộn với óc bắn tung tóe. Lúc này, y hệt vở kịch đến đoạn cao trào trước khi hạ màn, thiếu phụ góa chồng Thôi Phượng Tiên, áo lụa hồng, quần đoạn xanh, trên đầu cài bông hoa đỗ quyên màu vàng kim, từ trên đê chạy ào xuống phủ phục bên cái xác Tư Mã Khố. Tôi nghĩ rằng chị sẽ ôm lấy Tư Mã Khố mà gào khóc, nhưng không phải. Có lẽ cái đầu vỡ toác khiến chị khiếp đảm. Chị móc cái kéo giắt bên mình ra, tôi nghĩ rằng chị sẽ tự dâm vào ngực để cùng chết với Tư Mã Khố, nhưng cũng không phải. Trước những cặp mắt nhìn chăm chú của đám đông, chị thọc lút kéo vào giữa ngực cái xác, rồi hai tay ôm mặt, chị vừa kêu gào vừa bỏ chạy.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 36
Hôm Kim Đồng vừa tròn mười tám tuổi, chị Phán Đệ ép Lỗ Thắng Lợi phải đi với chị.
Sau khi Thăng Lợi đi rồi, Kim Đồng ngồi một mình trên đê, buồn bã nhìn những con chim én chao cánh trên mặt sông. Sa Tảo Hoa từ một bụi rậm chui ra, tặng Kim Đồng một chiếc gương nhỏ làm quà sinh nhật. Con nhỏ da nâu này ngực đã nhô cao, cặp mắt hơi hiếng, đen láy như hai, viên đá quạ dưới lòng sông. Kim Đồng bảo:
- Giữ lại để tặng cho Tư Mã Lương.
Sa Tảo Hoa lôi trong bọc ra một chiếc gương nữa to bằng cái đĩa, nói:
- Cái này là để tặng anh ấy! Cái gương phản chiếu ánh nắng lên bức tường sơn đen trông như tường chảy mỡ.
- Mày làm gì mà có nhiều tiền thế?
- Cháu ăn trộm ở Hợp tác xã cung tiêu - nó nói khẽ - Cậu nhất thiết không được cho ngoại biết nhé, cháu có quen một kẻ cắp siêu hạng ở trên chợ đồ dùng gia đình. Anh ta thu nhận cháu làm đồ đệ. Cậu ạ, cháu chưa học được nghề, khi nào có nghề, cậu thích cái gì cháu ăn trộm cho cậu cái đó. Sư phụ cháu lấy trộm được cả răng vàng trong miệng, đồng hồ trên tay các cố vấn Liên Xô nữa kia!
- Trời ơi, thế là phạm tội đấy!
Sa Tảo Hoa lại nói:
- Sư phụ cháu có nói, mèo tha miếng mỡ thì đuổi, hổ tha con lợn thì lại cho qua! Cậu học xong tiểu học nhưng trung học thì không đến phần mình, chẳng thà học nghề ăn cắp với cháu lại hóa hay!
Ra vẻ thông thạo, nó cầm những ngón tay Kim Đồng lên ngắm nghía, nói:
- Ngón tay cậu thon và mềm mại, chắc chắn học được!
- Không, tao không học, tao nhát lắm? - Kim Đồng nói - Tư Mã Lương bạo gan mà tỉ mỉ, nó chắc chắn là học được, đợi nó về học cùng với cháu.
Sa Tảo Hoa cất cái gương vào bọc, rên rỉ như một thiếu phụ:
- Anh Lương ơi là anh Lương, khi nào thì anh trở lại!
Tư Mã Lương đã biến mất cách đây năm năm, trong đêm thứ hai sau khi chôn cất Tư Mã Khố. Đêm ấy gió đông bắc ào ào lạnh thấu xương, chum chĩnh trong sân rên rỉ. Chúng tôi ngồi lặng trước ngọn đèn dầu. Đèn tắt, chúng tôi yên trong bóng tối, không ai nói một tiếng, mọi người đang nhớ lại cảnh tượng chôn cất Tư Mã Khố. Không có quan tài, chúng tôi bó anh trong một chiếc chiếu như người ta cuộn bánh tráng, bên ngoài cuốn mươi mấy vòng dây thừng. Hơn chục người khiêng xác anh ra ngoài nghĩa trang, đào một hố sâu rồi chôn anh ở đó. Khi nấm mồ đắp xong, Tư Mã Lương quì xuống lạy một lạy. Nó không khóc, trên khuôn mặt bé nhỏ của nó đã xuất hiện một số nếp nhăn. Tôi rất muốn an ủi nó, nhưng nghĩ mãi mà không biết nên nói thế nào. Trên đường về, nó nói nhỏ với tôi:
- Cậu ạ, cháu sẽ đi!
- Lương định đi đâu bây giờ? - Tôi hỏi.
Nó đáp:
- Cháu cũng không biết nữa!
Khi gió thổi tắt đèn, tôi bàng hoàng trông thấy một bóng đen lủi đi, biết đó là Tư Mã Lương, nhưng tôi không nói gì. Tư Mã Lương đã biến mất. Mẹ kéo lê cây sào dài, đi tìm tất cả những giếng cạn và hồ ao. Tôi biết đó là một công việc vô bổ, Tư Mã Lương không đời nào tự tử. Mẹ nhờ người đi hỏi thăm khắp nơi, nhận được toàn những tin trái ngược. Có người bảo trông thấy nó trong một đoàn xiếc rong, có người nói trông thấy cái xác của một đứa con trai ở ven hồ, mặt mũi không thể nhận ra vì bị quạ rỉa. Một toán dân công từ đông bắc trở về thì nói chắc như đanh đóng cột rằng, có gặp nó ở gần cầu sông áp Lục. Khi ấy đang có cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên, máy bay Mỹ ngày đêm bắn phá cầu cống...
Vì có cái gương của Sa Tảo Hoa, lần đầu tiên tôi nhìn rõ khuôn mặt mình. Tôi đã mười tám tuổi, mái tóc vàng rực, hai vành tai đầy đặn, trắng nõn, lông mày vàng như tiểu mạch chín, lông mi vàng rộm soi bóng trong cặp mắt xanh biếc. Mũi cao, môi đỏ như son, lông ngực từng mảng rậm. Thực ra, qua chị Tám, tôi cũng đoán ra mình không giống mọi người. Tôi đau xót khi nhận ra rằng, cha đẻ ra tôi, dứt khoát không phải Thượng Quan Thọ Hỷ, mà như người ta vẫn nói vụng sau lưng: Chúng tôi là con riêng của mục sư Malôa, lai một trăm phần trăm. ý thức về sự hèn kém bám chặt lấy trái tim tôi. Tôi lấy mực đen nhuộm tóc, bôi đen mặt, còn con mắt thì không làm cách nào thay đổi được màu sắc, tôi chỉ tiếc là không thể móc bỏ được chúng đi. Tôi nhớ đến chuyện nuốt vàng tự tử bèn lục lọi trong hộp trang sức của chị Lai Đệ, lấy chiếc nhẫn vàng từ thời Sa Nguyệt Lượng, nuốt chửng và lên giường năm đợi chết. Chị Tám mò mẫm quay sợi ở góc giường. Mẹ đi làm Hợp tác xã về thấy bộ dạng của tôi vô cùng kinh hoảng. Tôi nghĩ rằng mẹ sẽ xấu hổ, không ngờ mẹ lại nổi trận lôi đình. Mẹ túm tóc đánh tôi tám bạt tai. Tôi bị chảy máu răng, tai ù đi, mắt nổ đom đóm. Mẹ nói:
- Hoàn toàn đúng, cha đẻ chúng mày là mục sư Malôa! Vậy thì sao nào? Dậy mà rửa mặt, gội đầu cho sạch, rồi ưỡn ngực mà nói rằng: Bố tôi là mục sư Malôa, người Thụy Điển, là hậu duệ của quí tộc, cao quí hơn nhiều cái giống nghêu sò ốc hến nhà các người!
Khi mẹ đánh tôi, chị Tám vẫn ngồi thản nhiên quay sợi, làm như chuyện này không liên quan gì đến chị. Tôi khóc sụt sịt, rửa mặt trong chậu gốm, nước trong chậu lập tức đen kịt. Mẹ đứng sau tôi, miệng vẫn chửi lảm nhảm, nhưng tôi biết không phải mẹ chửi tôi. Rồi mẹ lấy gáo múc nước sạch gội đầu cho tôi, mẹ khóc tấm tức. Dòng nước từ trên đầu chảy xuống cứ trong dần. Mẹ lấy khăn mặt lau đầu cho tôi, vừa lau vừa nói:
- Con ơi, ngày ấy mẹ cũng không còn cách nào khác! Nhưng trời đã sinh ra con thì con phải nhìn thẳng vào sự việc. Con đã mười tám tuổi, là một người đàn ông rồi, Tư Mã Khố dù trăm xấu nghìn xa, nhưng vẫn dáng mặt là một thằng đàn ông, con phải học tập nó?
Tôi gật đầu hứa với mẹ, nhưng lập tức nghĩ ngay đến chuyện nuốt vàng. Tôi định thú thực với mẹ thì thấy chị Lai Đệ vừa thở vừa chạy về. Chị là công nhân nhà máy diêm của khu, chiếc tạp đề chị đang mặc có dòng chữ
Nhà máy diêm ánh Sao khu Đại Lan. Chị hốt hoảng bảo mẹ:
- Mẹ, nó về rồi!
Mẹ hỏi: - Đứa nào về?
- Thằng Câm - chị nói.
Mẹ lấy khăn mặt lau tay, buồn rầu nhìn chị Cả, nói:
- Con ơi! có lẽ số kiếp nó thế!
Thằng Câm đi vào nhà tôi bằng cách đặc biệt của hắn. Mấy năm không gặp, trông hắn có già đi, mớ tóc hoa râm ló ra dưới vành mũ lính đội ngay ngắn. Đôi con ngươi vàng của hắn trông càng u tối, cái cằm rắn chắc chìa ra như chiếc lưỡi cày han gỉ. Hắn mặc chiếc áo quân phục mới tinh, thắt lưng rất chặt đúng quân phong quân kỷ. Trước ngực đeo một lô huy chương. Hai cánh tay dài quá khổ, bàn tay đeo găng trắng bằng vải bông lồng vào hai chiếc ghế nhỏ. Một đệm da gắn dưới đít, như là một bộ phận của mông. Hai ống quần rộng thùng thình buộc lại với nhau trước bụng. Hình như hai chân hắn cụt đến bẹn. Đó là toàn bộ chân dung của Thằng Câm xuất hiện trước mặt chúng tôi sau nhiều năm xa cách. Hai tay hắn tì trên hai ghế, nhích từng bước một, tấm đệm dưới đít thấp thoáng màu huyết dụ.
Sau năm cái nhích lên, hắn dừng lại cách chúng tôi khoảng ba thước rưỡi. Khoảng cách này đủ để giao lưu ánh mắt với chúng tôi mà không phải ngửa mặt lên. Nước bẩn gội đầu lan đến chỗ hắn, hắn chống tay lùi lại một tí. Nhìn hắn tôi mới hiểu rằng, chiều cao của người ta là do hai chân quyết định. Mất đi hai chân nửa người trên của Tôn Bất Ngôn càng đồ sộ. Con người này tuy còn có nửa người, nhưng vẫn tiềm ẩn một sức mạnh kinh người. Hắn giương mắt nhìn chúng tôi, một tình cảm phức tạp hiện rõ trên khuôn mặt xám ngoét, cái cằm rung rung như ngày xưa, lập bập mãi mới thốt được mấy tiếng: - Cởi cởi cởi! Hai giọt nước mắt trong suốt như pha lê ứa ra từ hốc mắt...
Hắn rút tay khỏi ghế, giơ lên cao làm điệu bộ, miệng vẫn: Cởi, cởi, cởi! Tôi lập tức đoán rằng, hắn hỏi thăm Câm anh và Câm em, vì từ khi đi chuyển lên đông bắc, chúng tôi chưa gặp lại hắn lần nào. Mẹ dùng khăn che mặt, vừa khóc vừa chạy vào trong nhà, Thằng Câm đã hiểu ra, hắn gục đầu xuống ngực.
Mẹ cầm ra hai chiếc mũ quả dưa nhỏ vấy máu đưa cho tôi, ra hiệu chuyển cho hắn. Tôi quên bẵng chiếc nhẫn trong bụng, đi tới trước mặt hắn. Hắn ngửa mặt nhìn thân hình cao như cây sào của tôi, buồn bã lắc đầu. Tôi cúi xuống, nhưng thấy vậy bất tiện, liền ngồi xuống đưa hai chiếc mũ cho hắn, rồi chỉ tay về quảng đông bắc. Tôi nhớ lại chuyến đi bi thảm ngày ấy, nhớ lại tình cảnh Thằng Câm cõng một thương binh gãy chân trên đường rút lui, lại càng nhớ hai cái xác Cârn anh và Câm em bị bỏ lại trong hố đạn pháo. Hắn chìa tay lấy chiếc mũ đưa lên mũi ngửi không khác chó nghiệp vụ đánh hơi hung thủ hoặc đánh hơi người chết, rồi đặt xuống giữa hai chân quần, đón lấy chiếc thứ hai đưa lên mũi ngủi rồi đặt lên trên chiếc thứ nhất. Sau đó, mặc dù không một lời mời mọc, bằng hai tay, hắn đi khắp các xó xỉnh trong nhà, hết gian chính đến gian phụ, từ nhà xay đến nhà khọ Hắn thậm chí còn đi một vòng ra chỗ nhà xí, thò đầu vào ổ gà xem xét một luật. Tôi đi theo sau, thích thú nhìn ngắm cách thức đi chuyển nhẹ nhàng của hắn. Vào đến phòng ngủ của chị Cả và Sa Tảo Hoa, hắn biểu diễn động tác trèo lên giường. Hắn ngồi dưới đất, mắt ngang tầm giường, tôi buồn thay cho hắn. Nhưng chuyện xảy ra sau đó chúng tỏ tôi đã lo bò trắng răng. Thằng Câm hai tay bám thành giường rồi từ từ đu người lên. Tôi chưa bao giờ thấy những cánh tay khỏe đến như thế, trừ một lần xem xiếc. Đầu hắn đã cao quá mặt giường, hai cánh tay kêu răng rắc rồi đột nhiên hất người hắn lên giường. Hắn chỉ ngất ngưỡng một hai cái rồi trở lại tư thế ngồi ngay ngắn.
Hắn ngồi trên giương chị Cả, nghiễm nhiên là một gia trưởng, càng giống một thủ trưởng. Tôi đứng bên giường, tự cảm thấy mình là người ngoài.
Trong buồng mẹ, chị Cả vừa khóc vừa nói:
- Mẹ bảo nó đi đi, con không cần nó. Khi nó còn lành lặn, con đã không thích nó, bây giờ nó chỉ còn một nửa người, con lại càng không cần
Mẹ nói:
- Con ơi, chỉ sợ rước về thì dễ, đuổi đi thì khó!
Chị Cả nói:
- Ai rước nó về?
Mẹ nói:
- Đây là sai lầm của mẹ. Cách đây mười sáu năm, mẹ đã hứa gả con cho nó. Mối oan nghiệt này không hiểu thắt nút tự bao giờ?
Mẹ rót một bát nước nóng đưa cho Thằng Câm. Hắn giơ tay đón, mắt chớp chớp, có vẻ rất cảm động, uống một hơi ừng ực.
Mẹ nói:
- Tôi cứ ngỡ anh đã chết, ai ngờ anh còn sống. Tôi không bảo vệ được hai đứa con của anh, tôi đau xót hơn anh nhiều, con là con của anh chị nhưng nuôi dưỡng chúng là tôi. Xem ra, anh là người có công với nước, Chính phủ sẽ có nơi có chốn cho anh hưởng phúc. Chuyện hôn nhân cách đây mười sáu năm là do tôi bao biện kiểu phong kiến. Xã hội mới bây giờ hôn nhân tự do, không ai được ép buộc. Anh là người của Chính phủ thì nên độ lượng, xin đừng chì chiết mẹ góa con côi chúng tôi. Hơn nữa, Lai Đệ chưa lấy anh mà ba đứa em đã chống lại nó. Tôi xin anh, anh hãy về nơi Chính phủ sắp xếp cho anh hồng phúc, anh đi đi!
Thằng Câm không đếm xỉa những lời xin xỏ của mẹ. Hắn chọc thủng giấy dán cửa sổ nhìn ra ngoài sân. Chị Cả tìm đâu ra chiếc kẹp rèn sắt cầm bằng cả hai tay xông vào, chửi:
- Thằng Câm, thằng cụt, cút khỏi đây!
Chị định kẹp Thằng Câm, nhưng hắn chỉ vươn tay một cái là tóm được cái kẹp, chị không sao giằng lại được. Trong cuộc đấu không cân sức đó, Thằng Câm vênh váo nở nụ cười khinh miệt. Chị Cả bỏ tay ra, ôm mặt vừa khóc vừa bảo Thằng Câm:
- Anh Câm, anh từ bỏ ý định ấy đi! Thà rằng tôi lấy lợn đực còn hơn là lấy anh!
Tiếng thanh la rộn ràng trong ngõ, một đoàn người ồn ào kéo vào nhà tôi, đi đầu là ông trưởng khu, theo sau là mười mấy cán bộ, lại còn một đám đông học sinh tiểu học tay cầm hoa. Trưởng khu khom người chui vào nhà, nói với mẹ:
- Chúc mừng! Chúc mừng!
Mẹ mặt lạnh như tiền, hỏi:
- Mừng gì mà chúc?
Trưởng khu nói:
- Bác ơi, mừng từ trên trời rơi xuống. Nghe tôi nói đã!
Các học sinh đứng vẫy hoa trong sân, reo từng đợt:
- Chúc mừng, chúc mừng! Gia đình vẻ vang, chúc mừng chúc mừng!
Trưởng khu gập từng ngón tay, nói:
- Thưa bác, chúng tôi đã phúc tra hồ sơ trong cải cách ruộng đất, thấy rằng qui gia đình bác thành phần trung nông là không thỏa đáng! Sau khi gặp nạn, gia đình bác đã phá sản, thực tế chỉ là bần nông đỏ. Nay chúng tôi đã sửa lại thành phần cho bác, thành phần bác là bần nông. Đó là chuyện vui mừng thứ nhất. Chúng tôi đã nghiên cứu những tư liệu về cuộc tàn sát của giặc Nhật năm một chín ba chín, cho rằng có một sự thực là mẹ chồng và bác giai đều có chống cự lại chúng và hy sinh vẻ vang, vậy phải khôi phục vị trí lịch sử cho họ, gia đình bác dáng được hưởng chính sách ưu đãi. Đó là chuyện vui mừng thứ hai. Do hai chuyện trên, trưởng trung học quyết định tiếp nhận Kim Đồng vào học. Nhà thương sẽ bố trí người phụ đạo những bài chưa học cho Kim Đồng. Đồng thời, cháu ngoại của bác, cô Sa Tảo Hoa cũng có dịp được học tập, đoàn kịch Mậu Xoang tuyển diễn viên, chúng tôi sẽ cố sức bảo lãnh cho cháu được trúng tuyển. Đó là chuyện vui mừng thứ bạ Điều vui mừng thứ tư, tất nhiên là Tôn Bất Ngôn, con rể của bác, đặc dẳng công thần Chí nguyện quân, vinh qui cố hương. Điều vui mừng thứ năm là Viện điều dưỡng quân nhân vẻ vang quyết định tuyển dụng cô Lai Đệ là hộ lý bậc Một, cô không phải đến Viện, hàng tháng có người đem lương đến tận nhà. Điều vui mừng thứ sáu là mừng người anh hùng của chúng ta đoàn tụ với người bạn đời Lai Đệ. Hôn lễ của anh chị sẽ do Chính phủ đảm nhiệm. Bác ơi, bác là bà mẹ cách mạng có sáu chuyện mừng trong một ngày.
Mẹ như bị sét đánh, mắt trợn ngược, cái bát trong tay rơi xuống đất.
Trưởng khu giơ tay vẫy, một cán bộ rẽ đám học sinh đi tới theo sau là một nữ sinh tay cầm bó hoa. Anh cán bộ đưa cho trưởng khu một gói bọc bằng giấy trắng, nói nhỏ: giấy chứng nhận gia đình bị giặc sát hại.
Trưởng khu chuyển cái gói cho mẹ, nói:
- Thưa bác, đây là giấy chứng nhận gia đình bị giặc sát hại!
Mẹ run run đỡ lấy, ôm trước người.~ Em nữ sinh bước tới cài một bông hoa trắng trên kích áo mẹ, chỗ gần nách. Anh cán bộ lại đưa cho trưởng khu một gói bọc giấy hồng, nói: giấy bổ nhiệm. Trưởng khu chuyển cho chị Cả, nói:
- Chị Cả, đây là giấy bổ nhiệm.
Chị Cả giấu hai tay đầy muội than ra sau lưng. Trưởng khu kéo tay chị ấn bọc giấy hồng vào tay, nói:
- Phải vậy thôi!
Em nữ sinh lại cài lên kích áo chị bông hoa tím. Anh cán bộ khu đưa cho Trưởng khu một bọc gói trong giấy màu vàng, nói: đây là thông báo nhập học. Trưởng khu chuyển cho tôi, nói:
- Chú em, tiền đồ của chú sáng sủa lắm, hãy cố học cho giỏi nhé!
Em nữ sinh trao cho tôi một bó hoa màu vàng kim, cặp mắt đa tình nhìn tôi quyến rũ. Tôi ngửi mùi hương thoang thoảng của bông hoa vàng, chợt nhớ đến chiếc nhẫn trong bụng. Trời ơi, biết thế này thì tôi nuốt vàng làm gì? Anh cán bộ khu đưa cho Trưởng khu chiếc gói bằng giấy màu tím, nói: đây là giấy gọi vào Đoàn kịch. Trưởng khu cầm cái gói, nhìn quanh tìm Sa Tảo Hoa. Sa Tảo Hoa từ sau cánh của bước ra đón lấy cái gói. Ông Trưởng khu bắt tay nó, nói:
- Em gắng họ cho tốt để trở thành diễn viên nổi tiếng.
Em nữ sinh tặng Sa Tảo Hoa một bông hoa tím. Khi nó giơ tay nhận bông hoa, chiếc huy chương lấp lánh rơi xuống đất. Trưởng khu nhặt cái huy chương lên, xem hoa văn và chữ trên đó liền đưa cho Thằng Câm. Thằng Câm đeo chiếc huy chương lên người. Tôi vừa sợ vừa mừng khi nghĩ rằng: Một tên trộm cắp siêu hạng đã xuất hiện trong nhà tôi. Trưởng khu nhận cái gói cuối cùng từ tay anh cán bộ, chiếc gói màu xanh lam, chuyển cho Thằng Câm, nói:
- Tôn Bấc Ngôn, đây là giấy đăng ký kết hôn của đồng chí với Thượng Quan Lai Đệ. Khu đã làm thủ tục giấy tờ cho đồng chí, hai người chỉ cần điểm chỉ là xong!
Cô nữ sinh đưa tận tay Thằng Câm một bông hoa màu xanh.
Trưởng khu nói:
- Bác ơi, bác có ý kiến gì không? Xin chớ khách khí, chúng ta là người trong nhà! Mẹ nhìn chị Cả, vẻ khó xử. Chị Cả tay cầm bông hoa, miệng méo xệch, những giọt nước mắt rơi trên bông hoa tím.
Mẹ phát biểu đầy mâu thuẫn:
- Xã hội đổi mới rồi, bọn trẻ có ý kiến của chúng, do chúng quyết định?.
Trưởng khu nói:
- Đồng chí Lai Đệ, đồng chí có ý kiến gì không
Chị Cả nhìn chúng tôi, thở dài:
- Số tôi nó như thế?
Trưởng khu nói:
- Vậy thì tốt rồi! Tôi lập tức cho người đến dọn dẹp. Tối mai làm lễ thành hôn
Đêm hôm đó tôi ị được cái nhẫn ra ngoài. Chính vào giờ phút tôi trút được gánh nặng đó, nhà máy diêm ánh Sao của trấn Đại Lan xảy ra vụ nổ, nhà máy bị cháy rụi, tất cả nữ công nhân của nhà máy, trừ chị Lai Đệ, không một ai sống sót.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 37
Tổ y tế gồm hơn chục bác sĩ của bệnh viện huyện, dưới sự chỉ đạo của chuyên gia Liên Xô, đã vận dụng học thuyết Páplốp chữa khỏi chứng luyến nhũ yếm thực* (*chứng bệnh chỉ ăn sữa, không ăn được thứ gì khác) cho tôi. Tôi rũ bỏ những ràng buộc, vào trường trung học. Tôi học rất giỏi, trở thành học sinh ưu tú của khối tiểu, trung học thị trấn Đại Lan. Đây là thời hoàng kim trong cuộc đời tôi. Tôi có một gia đình cách mạng nhất, có một đầu óc thông minh nhất, có một thân thể và tâm hồn lành mạnh có một khuôn mặt mà các bạn nữ không dám nhìn thẳng vào. Tôi ăn rất khỏe. Trong nhà ăn của học sinh, tôi dùng đũa xâu từng xâu màn thầu, tay kia thì cầm củ dưa hành to tướng, vừa cười nói vừa nhai hành rau ráu. Trong nửa năm tôi nhảy hai lớp, là cán sự môn tiếng Nga của lớp 3A, không làm đơn cũng được kết nạp vào Đoàn, và lập tức được bầu là ủy viên tuyên truyền của Chi đoàn, chủ yếu là quản ca, hát dân ca Nga băng tiếng Ngạ Giọng tôi trầm lắng, có cái nhuần nhuyễn của sữa và hoang đã của hành dại, tôi cất tiếng hát là đám đông cứ lặng đi mà nghe. Tôi là ngôi sao sáng của trường trung học Đại Lan cuối những năm 50. Cô giáo Hoắc, một phụ nữ có khuôn mặt đoan chính, từng làm phiên dịch cho chuyên gia Liên Xô rất khen ngợi tôi, nhiều lần biểu dương tôi trên lớp, khen tôi rất có khiếu ngoại ngữ. Để nâng cao trình độ Nga văn cho tôi, cô đã móc nối một nữ sinh lớp chín trường trung học thành phố Khác-cốp để tôi trao đổi thư từ. Cô ta là con một chuyên gia Liên Xô từng công tác ở Trung Quốc, tên là Natasạ Chúng tôi gửi ảnh cho nhau.
Trên tấm ảnh trắng đen, Natasa giương đôi mắt to nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên, cặp lông mi cong vút...
Kim Đồng tim đập dữ dội, máu dồn lên đầu, tay cầm tấm ảnh run lẩy bẩy. Cặp môi đỏ mọng của Natasa hé mở, hàm răng trắng muốt, một mùi thơm thoang thoảng của hoa dạ lan vấn vương ngay trước mặt, khiến Kim Đồng thấy sống mũi cay xè. Anh trông thấy mái tóc hoe vàng của Natasa rủ trên bờ vai mịn màng, cổ áo xẻ trễ, có thể là áo của mẹ hay của cô, thấp thoáng cặp vú xinh xắn, cái cổ dài, khoảng lõm giữa ngực trông rõ mồn một. Nước mắt Kim Đồng tự nhiên ứa ra. Qua làn nước mắt, Kim Đồng hình dung toàn bộ cặp vú của Natasa, mùi sữa thơm thơm tràn vào tâm thức, nghe văng vẳng tiếng gọi từ phương bắc xa xôi với thảo nguyên mênh mông, rùng bạch dương bát ngát, căn nhà nhỏ trong rừng, những cây sam tuyết phủ trĩu cành... Phong cảnh mê hồn lướt qua trước mắt như một cuộn phim và từng cảnh đều có Natasa ôm bó hoa màu tím. Kim Đồng đưa hai tay lên bưng mặt, khóc lên vì sung sướng, nước mắt lọt qua kẽ ngón tay...
- Kim Đồng, bạn làm sao thế? - Một bạn nữ có cái cằm nhọn lắc vai Kim Đồng, hỏi.
Kim Đồng vội giấu tấm ảnh, nói:
- Không làm sao cả!
Đêm hôm ấy, Kim Đồng chập chờn trong trạng thái nửa ngủ nửa thức. Natasa với chiếc váy phồng dài lê thê đi lại trước mặt anh. Anh nói với Natasa rất nhiều chuyện bằng tiếng Nga mà anh diễn đạt không khó khăn gì, nhưng thái độ của cô lúc vui vẻ, lúc giận dỗi, đưa anh từ tuyệt đỉnh của niềm vui rơi xuống vực sâu của tuyệt vọng, rồi với nụ cười trêu chọc, đưa tay lôi anh từ dưới vực lên.
Sáng ra, ông bố của hai đứa trẻ là Triệu Phong Niên ngủ giường dưới kháng nghị:
- Kim Đồng, tôi biết là anh tiếng Nga rất giỏi, nhưng anh phải cho tôi ngủ với chứ? Kim Đồng đầu nhúc như búa bổ, khó khăn lắm mới rũ được hình ảnh xinh đẹp của Natasạ Anh buồn rầu xin lỗi Triệu Phong Niên. Nhìn sắc mặt tái nhợt và cặp môi nút nẻ của Kim Đồng, Triệu Phong Niên kinh ngạc hỏi:
- Kim Đồng, cậu ốm rồi!
Kim Đồng lắc đầu đau khổ, cảm thấy dòng suy nghĩ của mình không sao nắm bắt được, y hệt một chiếc xe đang xuống dốc, dưới chân dốc là thảo nguyên mọc đầy hoa tím, Natasa xinh đẹp tay nâng gấu váy lặng lẽ chạy tới.
Anh ôm chặt và đập đầu côm cốp vào cọc giường. Triệu Phong Niên chạy đi gọi giáo viên chủ nhiệm Tiêu Kim Cương. Ông là một cán bộ công nông xuất thân từ đội đặc công, từng tuyên bố bắn bỏ cô giáo Hoắc Lệ Na về tội mặc váy ngắn, cho rằng ăn mặc như vậy là trụy lạc. Đôi mắt ti hí, dữ dằn trên khuôn mặt tai tái của ông khiến Kim Đồng lạnh xương sống.
- Kim Đồng, em làm cái trò gì vậy? - Thầy Tiêu Kim Cương nghiêm giọng hỏi.
- Tiêu Kim Cương, đồ mặt mẹt! Ông không khiến ngươi chõ mõm vào! - Bất chấp hậu quả, Kim Đồng chọc tức thầy giáo, định mượn cái uy của ông rũ bỏ hình ảnh Natasa.
Tiêu Kim Cương đấm cho Kim Đồng một quả vào đầu, chửi:
- Mẹ mày, dám chửi ông hả? Trò cưng của Hoắc Lệ Na đây! Tao quyết không tha mày?
Bữa ăn trưa, Kim Đồng không cưỡng được cơn buồn nôn khi ngồi trước bát cháo ngộ Anh hoảng sợ nhận ra rằng, chứng bệnh luyến nhũ yếm thực lại tái phát. Anh bê bát cháo lên, cố dùng đôi chút lý trí còn lại buộc mình phải ăn, nhưng vừa nhìn vào bát cháo, anh trông thấy hai bầu vú nổi lềnh bềnh trong đó. Bát cháo rơi xuống đất vỡ thành nhiều mảnh, cháo bỏng đổ vào chân vậy mà anh không cảm thấy gì.
Các bạn học kinh hoàng dìu anh đến phòng y tế. Cô y tá nhà trường lau sạch cháo bám trên bàn chân và bôi thuốc mỡ cho anh. ánh nhìn chòng chọc bức tranh giải phẫu sinh lý treo trên trong. Cô y tá đút cái cặp nhiệt độ vào miệng cho anh ngậm, miệng anh chúm chím như mút vú. Cô tiêm cho anh một liều thuốc an thần, bảo các bạn đưa anh về phòng ngủ.
Anh xé cái ảnh Natasa thành trăm mảnh, vứt xuống sông phía sau nhà trường. Những mảnh Natasa trôi theo dòng nước rồi chụm lại ở một chỗ xoáy, anh lại trông thấy một Natasa nguyên vẹn như nàng tiên cá, ngực trần lồ lộ, mái tóc dài chấm mông. Nàng buồn bã nghiêng nghiêng mái đầu, những giọt nước chảy trên cổ, hai tay nâng bầu vú, núm vú đỏ hồng như quả nho chín. Điệu dân ca quen thuộc, buồn buồn, từ lòng sông dâng lên. Natasa nhìn Kim Đồng có vẻ oán trách. Anh nghe rõ lời cô: Anh tàn nhẫn lắm! Kim Đồng lòng như dao cắt, anh cảm thấy mình bị chìm trong mùi sữa xô tới từng đợt như sóng biển.
Từ xa, các bạn học trông thấy Kim Đồng lao đầu xuống sông, còn nghe anh thét lên câu gì đó. Họ nháo nhào chạy ra bờ sông, có người chạy về trường gọi người. Kim Đồng chìm xuống đáy sông. Natasa bơi giữa các bụi cỏ nước như cá, vừa bơi vừa vẫy gọi anh. Nước xộc vào miệng làm anh ngất đi.
Kim Đồng mở mắt, thấy mình nằm trên giường mẹ. Đầu anh trống rỗng, trong tai có tiếng ù ù như gió thổi qua dây diện. Anh thử ngồi dậy, nhưng mẹ ngăn lại. Mẹ cho anh uống một ít sữa dê trong bình. Anh nhớ mang máng rằng con dê của anh đã chết, vậy sữa dê này lấy ở đâu? Đầu óc anh mụ đi, không sai khiến được nữa, anh mệt mỏi nhắm mắt lại. Trong cơn thảng thốt, anh nghe thấy mẹ bàn với chị Cả về chuyện trừ tà. Tiếng mẹ Ồm ồm như nói trong chum, nghe như từ một nơi rất xa vọng lại. Mẹ nói:
- Nó bị ma ám!
Chị Cả hỏi:
- Ma nào?
Mẹ nói:
- Theo mẹ thì là con hồ ly tinh.
Chị Cả hỏi:
- Có phải cái cô góa chồng ấy không? Khi còn sống, cô ấy thờ hồ ly tinh.
Mẹ nói:
- Tiên thật quá đáng, chọn ngay Kim Đồng nhà mình! Hừm, mới được ít ngày sống dễ chịu...
Chị Cả nói:
- Mẹ, đối với con bây giờ một ngày cũng không sống nổi... Mẹ Ơi, nếu con có làm chuyện gì đó thì mẹ đừng có mắng đấy nhé!...
Mẹ nói:
- Mẹ còn có thể mắng con về chuyện gì?
Kim Đồng nằm hai ngày, đầu óc dần dà trở lại linh hoạt, hình ảnh Natasa lúc nào cũng đứng ngay trước mặt. Anh rửa mặt, thấy Natasa khóc trong chậu. Anh soi gương, thấy Natasa cười trong gương. Anh nhắm mắt lại, nghe thấy tiếng thở của cô, thậm chí còn cảm thấy tóc cô quệt vào mặt, bàn tay âm ấm của cô rờ khắp cơ thể anh. Bà Lỗ sợ đến mụ người trước những cử chỉ kỳ quặc của cậu con trai yêu quí, bà chỉ khóc, suốt ngày luẩn quẩn quanh bên anh. Anh soi khuôn mặt vàng võ trong chum nước, thốt lên:
- Cô ấy ở trong này!
Mẹ hỏi:
- Ai? - Cô ấy?
- Cô ấy là ai?
- Natasạ Cô ấy lại không vui rồi!
Bà trông thấy con trai thò tay vào chum. Trong chum không có gì khác, ngoại trừ nước, nhưng con trai bà vẫn rất xúc động, lẩm bẩm nói những gì mà bà không hiểu. Bà kéo con trai ra, đậy nắp chum lại, nhưng Kim Đồng đã lại quì bên cái chậu bằng gốm nói chuyện với nước trong chậu. Bà đổ hết nước trong chậu đi, Kim Đồng lại dán mặt vào cửa kính, môi dẩu ra như nói chuyện với bóng của mình.
Mẹ tuyệt vọng, ôm lấy Kim Đồng mà khóc:
- Con ơi, con làm sao thế? Mẹ vất vả mới nuôi được con khôn lớn, ngờ đâu con đến nông nỗi này?...
Mắt mẹ mọng nước, Kim Đồng trông thấy Natasa nhảy múa trong đó, từ giọt này nhảy sang giọt kia.
- Cô ấy đây rồi - Anh nhìn chằm chằm giọt nước mắt trên mặt mẹ, nói - Em đừng chạy, Natasa?
- Cô ấy ở đâu? - Mẹ hỏi.
- Trong nước mắt ấy? - Kim Đồng nói.
Bà Lỗ vội lau sạch nước mắt. Kim Đồng thở dài:
- Cô ấy nhảy vào trong mắt mẹ rồi!
Cuối cùng bà Lỗ đã hiểu, bất cứ vật gì có thể soi gương là có Natasa trong đó. Bà đậy nắp tất cả những thứ đựng nước, chôn gương dưới đất, dán kín cửa kính bằng giấy màu đen và không để Kim Đồng nhìn vào mắt. Kim Đồng lập tức nhìn thấy Natasa trong bóng tối. Từ giai đoạn tìm mọi cách tránh mặt Natasa, anh tiến tới điên cuồng đuổi theo Natasạ Còn cô thì từ chỗ lúc nào cũng có mặt, tiến tới giai đoạn né tránh như chơi trò ú tim. Anh nói với xó nhà tối mò: Natasa, nghe anh nói này?... rồi lao thẳng vào. Natasa chui vào hang chuột, Kim Đồng cũng thực sự cảm thấy anh chui vào theo, rượt đuổi cô trong cái hang ngoằn ngoèo, gọi toáng lên: Natasa, Natasa, đừng chạy? Sao em lại chạy tôi? Natasa chui ra từ một lỗ khác, biến mất. Anh tìm khắp xó xỉnh, phát hiện ra cô dán vào tường, người dẹt như tờ giấy. Anh nhào tới, hai tay sờ mặt tường, cho rằng đang sờ mặt Natasạ Natasa luồn qua nách anh chui vào trong bếp lò, mặt đầy bụi trọ Anh quì trước cửa bếp, thò tay vào lau mặt cho cô, mặt cô không sạch nhưng mặt anh thì đen nhẻm.
Mẹ dùng đủ mọi cách mà vẫn chào thua, cuối cùng, mời được Mã Sơn Nhân, một phù thủy có tài trước quỉ trừ tà bỏ nghề đã lâu. Mã Sơn Nhân pháp thuật cao cường, lấy giấy trắng cắt thành con chim bồ câu, niệm câu thần chú thổi phù một cái, con chim bay lên trời. Cối xay bột trong nhà ông đều do bọn tiểu quỉ đảm nhiệm việc đẩy cối. Rất nhiều người trông thấy cối xay lớn trong nhà ông tự động quay, bột rơi rào rào xuống thớt hứng. Ông có một thanh kiếm bằng gỗ đào, ra ngoài là đem theo bên mình. Một bận, ông sơ ý để quên thanh kiếm ở nhà, bị bọn quỉ lâu nay làm không công cho ông, bắt giữ. Bọn chúng lôi ông đến một khúc sông dìm xuống bùn, suýt nữa ông chết ngạt. Ông cắn ngón tay giữa lấy máu trừ tà mới thoát hiểm. Về nhà, ông múc một chậu đầy nước, niệm chân ngôn bắt tất cả bọn quỉ lại, dùng thanh kiếm gỗ đào khuấy nước trong chậu, bọn quỉ la khóc, chậu đầy máu. Ông chém chết hết bọn quỉ. Ông thấy hối hận vì mình quá tàn nhẫn, bèn rửa tay không hành nghề nữa. Ông không những biết trước quỉ mà còn có tài sai khiến linh hồn con người. Một bận, ông mở tiệc, khách khứa rất đông, từ xa có một người đàn bà đi tới, trong đám khách có một ông quan huyện hỏi:
- Ông Mã, ông biết trước quỉ, nhưng ông có chế ngự được con người không?
Mã Sơn Nhân nói:
- Tôi có thể bắt người đàn bà kia cỏi bỏ hết quần áo mà đi đến đây.
Ông giơ tay bắt quyết miệng niệm thần chú. Quả nhiên người đàn bà cởi bỏ hết quần áo rồi thản nhiên đi tới trước mặt Mã Sơn Nhân hỏi:
- Cha lâu nay mạnh khỏe chứ ạ?
Thì ra người này là con gái Mã Sơn Nhân. Ông ta ngượng quá, vội làm phép hóa giải. Người con gái ông ta chợt nhận thấy mình trần truồng trước các vị khách, thẹn quá hóa giận, lui vào hậu đường nuốt nhẫn vàng mà chết. Từ đó, ông sống như người bình thường, không bao giờ trước quỉ trừ tà nữa. Mà thay đổi được ý định của ông ta, quả không dễ.
Sơn Nhân mặc áo chùng đen, xõa tóc, chân không giày, bàn chân nhuộm đỏ, tay cầm kiếm gỗ đào, miệng lẩm bẩm những gì không rõ. Kim Đồng nhìn ông ta, nhớ lại những truyền thuyết ly kỳ về ông, bỗng thấy tinh thần phấn chấn khang khác uống một bát to đầy dấm, hình ảnh Natasa tạm thời biến mất khỏi cái đầu rối mù. Sơn Nhân sắc mặt tím tái, mắt lồi, tướng mạo hung dữ. Ông bị viêm họng, khạc nhổ luôn miệng, đờm trắng như gà bị bệnh cứt cò. Ông vừa múa kiếm vừa nhảy một vũ điệu kỳ quái. Nhảy một hồi xem chừng đã mệt, ông ta dừng lại bên chậu nước, niêm thần chú, nhổ vào chậu một bãi nước bọt rồi thò kiêm vào khuấy nước trong chậu, một lúc sau quả nhiên nước trong chậu đã biến thành màu hồng. Ổng ta quẳng kiếm ngồi thở, gọi Kim Đồng lại bảo:
- Cậu xem trong chậu có gì?
Kim Đồng ngửi thấy mùi thuốc bắc trong chậu, bèn nhìn chăm chú mặt nước đã phẳng như gương. Anh giật mình khi thấy khuôn mặt mình thước đây hồng hào là thế mà bây giờ vàng võ đầy nếp nhăn?
- Có thấy gì không? - Sơn Nhân đứng bên hỏi dồn. Khuôn mặt Natasa từ đáy chậu dềnh lên, đầy máu, lồng vào khuôn mặt Kim Đồng. Cô chửi khẽ: - Kim Đồng, anh tàn nhẫn lắm? - Natasa! - Kim Đồng rú lên thê thảm rồi vục mặt vào chậu nước. Anh nghe thấy mẹ nói với chi Cả:
- Ổn rồi, khiêng nó vào trong nhà!
Kim Đồng chồm dậy, quyết một phen sống mái với Sơn Nhân. Đây là lần đầu tiên trong đời, anh đánh người, mà lại cả gan, dám tấn công một người làm bạn với ma quỉ. Tất cả vì Natasả Anh giơ tay trái túm lấy bộ râu đốm bạc của Sơn Nhân cố sức dằn xuống, miệng Sơn Nhân há hốc như hình trứng, nước dãi lòng thòng trên mu bàn tay Kim Đồng. Natasa tay chống cằm ngồi trên đầu lưỡi Sơn Nhân, nhìn Kim Đồng bằng con mắt tán thưởng. Được cổ vũ, Kim Đồng giật càng mạnh, hơn nữa, còn dùng cả hai taỵ Ông Sơn Nhân đau đớn oằn người xuống chẳng khác pho tượng nhân sư vẽ trong sách giáo khoa. Ông giơ kiếm gỗ chém vào chân Kim Đồng, nhưng vì Natasa, anh không thấy đau. Đau cũng không bỏ ra, để bảo vệ Natasa đang ở trong miệng Sơn Nhân. Anh nghĩ đến hậu quả đáng sợ một khi bỏ tay ra: Natasa bị Sơn Nhân nhai nát bét rồi nuốt. Ôi cái bụng của ông ta bẩn thỉu làm sao! Tên ác ma chuyên dùng pháp thuật giết hại phụ nữ! Tên ma đầu chuyên bắt bọn tiểu quỉ đáng yêu xay bột không công. Chuyện ông ta có thể cắt giấy thành chim bồ câu thì còn khả dĩ. Chuyện ông ta gấp thuyền giấy thả vào chậu nước rồi ngồi lên thuyền, chỉ một đêm đã tới Nhật Bản, hôm sau trở về đem theo bao nhiêu là quít ngọt biếu bố vợ thì còn khả dĩ. Nhưng tại sao ông ta lại hãm hại Natasả Natasa, mau nhảy ra đi! Kim Đồng sốt ruột gọi. Natasa hình như bị điếc, vẫn ngồi yên trên đầu lưỡi Sơn Nhân. Kim Đồng cảm thấy chòm râu Sơn Nhân ngày càng trơn. Dòng máu trên vú Natasa chảy dài xuống chòm râu của ông ta, nhuộm đỏ hai bàn tay Kim Đồng. Ông Sơn Nhân vút kiếm, hai tay túm hai tai Kim Đồng rồi ra sức kéo sang hai bên. Miệng Kim Đồng tự nhiên há ra, anh nghe thấy tiếng la hét của mẹ và chị Cả. Anh buộc phải rời tay khỏi chòm râu.
Hai người quần nhau quanh sân. Mẹ và chị Cả cũng chạy vòng quanh Kim Đồng và ông tạ Anh bị vấp không tránh kịp, Sơn Nhân ngoạm đúng mu bàn tay, căn chặt không nhả. Anh hoàn toàn lâm vào thế yếu, hai tai gần như bị dứt đứt, tay bị cắn rách lòi xương. Anh gào khóc vì đau đớn. Nhưng nỗi đau trong tim còn ghê gớm hơn cái đau trên da thịt khi anh cảm thấy tuyệt vọng về Natasạ Nàng đã bị Sơn Nhân nuốt chửng, đang thối rữa trong bụng ông ta, những gai trên thành dạ dày đang chà xát nàng. Mắt anh tối sầm lại như bị con cá mục phóng cả túi mực vào mắt.
Tôn Bất Ngôn uống rượn ngoài phố về, đi vào sân. Bằng con mắt quân sự dày dạn kinh nghiệm, hắn nhận ra ngay ai là ta, ai là địch và tình thế mỗi bên. Hắn từ tốn để chai rượu sát chân tường.
Mẹ kêu:
- Cứu Kim Đồng mấy!
Chỉ nháy mắt, Tôn Bất Ngôn đã lết đến sau lưng Sơn Nhân, nện đồng thời cả hai đòn ngồi ở hai tay vào bắp chân Sơn Nhân. Ông ta quị xuống, Tôn Bất Ngôn nện tiếp hai đòn vào hai vai ông ta, hai tai Kim Đồng được giải phóng. Hai chiếc đòn ngồi trong tay Tôn Bất Ngôn lượn một điều theo thế song lôi quán nhĩ, cùng nện đánh bốp vào hai bên má Sơn Nhân, bàn tay Kim Đồng được nhả ra. Sơn Nhân lăn lộn trên mặt đất rồi nhặt thanh kiếm gỗ đứng lên, miệng mím chặt. Tôn Bất Ngôn hộc lên một tiếng rồi ú ớ điều gì đó. Kim Đồng gào khóc định xông tới rạch bụng Sơn Nhân để cứu Natasa, nhưng đã bị mẹ và chị Cả ôm chặt. Sơn Nhân đi vòng qua Tôn Bất Ngôn đang ngồi chồm hổm như hổ vồ mồi, rồi vắt chân lên cổ mà chạy.
Kim Đồng tỉnh táo dần nhưng vẫn không thể ăn cơm. Mẹ đi gặp trưởng khu, ông ta lập tức sai người đi mua một con dê dắt đến. Mẹ cho nó ra ăn cỏ ngoài bãi. Kim Đồng nằm trong nhà, đôi khi cũng đi dạo ngoài đồng. Mỗi khi nhớ lại cái cảnh Natasa máu chảy nhỏ giọt trên hai bầu vú, anh lại nước mắt đầm đìa. Anh không buồn chuyện trò, đôi khi chỉ lẩm bẩm một mình, hễ trông thấy người là lại im như thóc.
Một buổi sáng trời u ám, Kim Đồng nằm trên giường mà khóc cho bầu vú rớm máu của Natasạ Anh thấy nghẹt mũi, đầu óc lâng lâng, một cơn buồn ngủ ập đến. Chính lúc đó từ buồng Lai Đệ và Thằng Câm vọng lại một tiếng kêu rợn tóc gáy khiến Kim Đồng tỉnh ngủ. Anh dỏng tai lên nghe nhưng không thấy động tĩnh gì, định nhắm mắt lại ngủ tiếp thì một tiếng kêu nữa lại vang lên, lần này kéo dài và thê thảm hơn. Kim Đồng tim đập thình thịch, tóc dựng đứng. Anh nhẹ nhàng bước xuống giường, nhón gót đi tới chái đông, nhìn qua khe cửa vào trong buồng. Anh trông thấy Tôn Bất Ngôn đã cởi bỏ quần áo, trông như một con nhện đen khổng lồ phủ lên người Lai Đệ Cái mồm dẩu ra như mồm châu chấu của hắn sùi bọt, lúc cắn đầu vú trái, lúc cắn đầu vú phải. Cổ Lai Đệ gác lên thành giường, sắc mặt trắng nhợt, hai bầu vú mà Kim Đồng đã từng trông thấy hôm ở chỗ cối xay bột, nằm ườn như hai chiếc màn thầu trên ngực. Đầu vú chị rỉ máu. Trên ngực và hai cánh tay chị đầy vết cào cấu: Chị sạch sẽ mịn màng là thế mà nay Thằng Câm đã biến chị thành con cá trước hết vẩy. Hai chân thon dài không có gì che đậy, đập bình bịch trên giường.
Kim Đồng bật khóc. Tôn Bất Ngôn nhả đầu vú ra, vớ lấy chai rượu trên đầu giường thăng cánh ném ra phía cửa. Trong một thoáng trước khi bỏ chạy, Kim Đồng trông thấy chị Lai Đệ rướn cổ lên, và cũng trông thấy thằng Câm luồn bàn tay hộ pháp xuống phía dưới. Chị hét lên một tiếng như bị chọc tiết. Kim Đồng chạy vụt ra sân nhặt hòn gạch ném vào cửa sổ, chửi:
- Thằng Câm, mày không thể chết yên ổn!
Kim Đồng cảm thấy thân thể rã rời, hình ảnh Natasa biến thành mây khói.
Nắm đấm thép của Thằng Câm đấm vỡ cửa kính thò ra ngoài. Kim Đồng khiếp đảm đi giật lùi mãi đến chỗ gốc cây ngô đồng. Cậu trông thấy cái nắm đấm lại rụt vào trong, rồi dòng nước tiểu màu vàng chảy từ chiếc ống nhựa ra ngoài sân, ngay dưới cửa sổ. Cậu cắn môi bỏ đi, đụng phải một người hình dung cổ quái ở cửa buồng.
Anh ta cúi lom khom, hai tay dài buông thõng, đầu cạo trọc, lông mày chổi xể đã đốm bạc, những vết nhăn chằng chịt vây quanh cặp mắt tụt sâu vào. Không ai dám nhìn thẳng vào cặp mắt đó. Khuôn mặt đầy sẹo, không phải vì bỏng thì là do lạnh gây ra, hai vành tai quăn queo như nấm mộc nhĩ. Bộ quần áo Trung Sơn màu xám không vừa với khổ người còn phảng phất mùi long não. Hai cánh tay gầy guộc, móng tay sút mẻ, ngọ nguậy hai bên đùi.
- Ông tìm ai? Kim Đồng tin chắc rằng người này là bạn chiến đấu của Thằng Câm nên hỏi không chút thiện cảm. Anh ta lễ phép vái một vái, ngọng nghịu nói:
- Lãnh... Đê... Tôi là chồng... là Hàn... Chim!...
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 38
Tôi tôi không nói... gì đâu?... Hai tay Hàn Chim bấu chặt vải trải bàn, ngập ngừng ngẩng đầu lên, nhìn sang ông hiệu trưởng Khưu Gia Phúc ngồi bên cạnh. Hôm nay ông chủ trì buổi báo cáo của Hàn Chim.
- Tôi chả biết... nói... gì... bây giờ...
Anh ta như bị nghẹn, không nói được thành câu, dù là câu thật ngắn, cái cổ cong lên như cổ chim. Đây là buổi báo cáo đầu tiên của Hàn Chim sau khi trở về quệ Sân bóng rổ nhà trường đông nghịt những người: toàn thể thầy trò trường tiểu học và trung học, các cán bộ khu ủy và nhân dân quanh vùng. Phóng viên nhiếp ảnh của huyện chụp Hàn Chim từ những góc độ khác nhau. Hàn Chim ngồi trên khán đài nhìn xuống đám người đông nghịt, sợ đến rụt cổ lại, chỉ muốn bỏ chạy nấp sau gốc cây cổ thụ hoặc sau tường. Khi không nói, anh ta rụt cổ, hai vai so lên, hai tay đặt trên đũng quần, khư khư ôm lấy cái số ta của anh ta.
Ông Hiệu trưởng đứng dậy, đi tới trước mặt rót cho anh ta một cốc nước nóng nói:
- Đồng chí Hàn uống chút nước nhấp giọng, đừng sợ, dưới kia đều là bà con mình. Mọi người đều rất quan tâm đến đồng chí, đều tự hào vì có một người bà con nổi tiếng như đồng chí! Các em học sinh thân mến, thưa các đồng chí, thưa bà con? - Ông hiệu trường quay về phía mọi người, giọng xúc động - Đồng chí Hàn Đỉnh Sơn sống như người rừng ròng rã mười lăm năm trong núi Bắc-hải- đạo trên đất Nhật. Một kỳ tích trên thế giới? Câu chuyện của đồng chí có tác dụng giáo dục rất lớn đối với chúng ta! Đề nghị nhiệt liệt vỗ tay một lần nữa hoan nghênh bản báo cáo của đồng chí!
Tiếng vỗ tay phía dưới ran lên như sấm? Lời ông hiệu trưởng khiến chúng tôi xúc động úa nước mắt. Hàn Chim giơ tay chạm vào quai ca nước, y như con chuột chạm thử vào miếng mồi ở bẫy chuột, rồi rụt lại ngaỵ Chạm lần thứ hai, anh ta mới dám lẩy bẩy cầm cái cốc lên, nhíu mày uống một hớp nhỏ. Nước nóng khiến anh ta dướn cổ lên, nhắm tít cả hai mắt. Nước trào ra mép, chảy xuống cổ, anh ta ho khùng khục như con nhím mắt vẫn nhắm làm như đang suy nghĩ rất lung.
Ông hiệu trưởng đi vòng ra phía sau vỗ vai động viên anh ta:
- Nói đi, đây là tổ quốc mình, quê hương mình, bà con mình, có gì mà sợ!
Hàn Chim ngẩng mặt lên, hai giọt nước mắt to tướng lăn trên má, hỏi:
- Nói, ừ.
Hiệu trưởng động viên:
- Phải nói chứ!...
- Vậy... tôi... nói - Hàn Chim vẫn hai tay ôm bẹn, im lặng trong vài phút, rồi vươn cổ, mở mắt, nói một cách khó nhọc:
- Tôi, bẫy chim, hôm ấy, bọn áo vàng nổ, nổ súng, tôi chạy, chúng nó đuổi, tôi bắn mù mắt một thằng. Chúng bắt tôi, trói, đấm dá, đánh bằng báng súng. Một xâu một xâu, một xâu, ba xâu, hơn một trăm người. Thằng áo vàng hỏi, tôi nói, làm ruộng, không giống, tao thấy, mày là không nghề nghiệp, dân lang thang, thế nào là lang thang, tôi không hiểu, bốp, đánh tôi một tát, ông hỏi tôi, tôi hỏi ai, lại một tát nữa, tôi không chịu, nó giằng lấy cây cung của tôi bật dây, tách, thế mà còn cãi, đánh, đánh, đánh, roi, gậy, nói, có phải vô nghề nghiệp không, lang thang. Nhận thì nhận, sợ gì, đến ga xe lửa, cởi trói, người nọ tiếp người kia, leo lên, tôi bỏ chạy, súng nổ trên đầu, ngựa vây quanh, một kiếm chém vào đầu, mấy đầu người rơi xuống đất, mắt trợn ngược, tay đầy máu. Lên xe lửa, đến Thanh Đảo, giải ra cảng, bọn Nhật lùn, đứng hai bên, lên tàu, tàu to, rút cầu, tàu rời bến, đều khóc, cha ơi, mẹ Ơi, thế là hết, như cánh chim, trôi đi đâu, không biết, chắc không trở về. Biển, sóng, lắc lư, nôn mửa, đói, chết, vút xuống biển, cá mập, một đớp mất chân, hai đớp cả người, cá mập đuổi theo hàng đàn, đến Nhật, lên bờ, ngồi xe lửa, lại lên thuyền, lại lên bờ, đến Bắc Hải- đạo, vào núi, tuyết ngập bắp chân, rét tím mặt, tai chảy nước vàng, chân đất, ở nhà gỗ, không cho ăn no, dồn xuống hầm mỏ, bọn chúng gác, tiếng Nhật xì xà xì xồ không hiểu, không hiểu thì đánh, khoan gió, đầu đội đèn, đào than, bánh dai ngoách, cắn không đứt, anh em ơi, không thể đợi chết, bỏ trốn, chết trên núi, không đào than cho chúng, không đào than luyện thép, đóng tàu đúc súng, giết người Trung Quốc, không làm, không đào than cho giặc, chết cũng không đào!
Đột nhiên Hàn Chim nói đâu ra đấy, rất hấp dẫn, công chúng ngẩn người vỗ tay tán thưởng. Anh ta giật mình, nhìn xuống dưới rồi lại nhìn sang ông hiệu trưởng; ông hiệu trưởng giơ ngón tay cái về phía anh tạ Anh kể ngày càng trôi chảy:
- Chú Trần bỏ trốn bị bắt lại, bị chó xé xác trước mặt mọi người. Bọn giặc xì xồ, phiên dịch nói lại: Thái quân nói là đứa nào bỏ trốn thì trông gương thằng này. Tôi nhủ thầm, tiên sư chúng mày, còn một hơi thở tao cũng bỏ trốn (tiếng vỗ tay rào rào). Một phụ nữ quét tuyết, vẫy tôi, tôi chui vào lều chị tạ Chị nói: Chào anh, tôi sinh ra và lớn lên ở Thẩm Dương, tôi có cảm tình với Trung Quốc! Tôi không dám bắt chuyện, sợ chị ta là do thám. Chị ta nói: Chui qua nhà xí là vào rừng...
Chính là vào cái hôm Lỗ Lập Nhân cùng đại đội bộc phá của anh ta ăn mừng thắng lợi ở trấn Đại Lan, thì Hàn Chim lách qua nhà xí trốn vào rừng sâu. Anh chạy như điên, cho đến khi sức cùng lực kiệt, ngã gục trong khu rừng mọc đầy cây hoa thụ, mùi lá mục nồng nặc, tiếng nước chảy rót rách như tiếng đàn. Không khí ẩm ướt hơi nước mù mịt, những tia nắng lọt qua kẽ lá như những mũi tên, tiếng chim vàng anh khiến người nghe thổn thức. Trước mặt là thảm cỏ xanh biếc, lẫn trong đám cỏ là không quả chín đỏ mọng. Anh bút quả ăn, nước bọt ứa đầy miệng. Anh ăn tiếp một nắm nấm trắng, bụng đau quặn, nôn mửa. Anh ngửi thấy một mùi thối khẳm bốc lên từ cơ thể mình. Lần ra con suối, anh tắm rửa cho hết mùi hôi thối, Nước lạnh buốt, anh run cầm cập nghe từ phía mỏ than vọng lại tiếng chó bécgiê sủa. Bọn Nhật phát hiện ra mình bỏ trốn khi điểm danh buổi tối. Anh cảm thấy lâng lâng vì sung sướng là đã trả thù được. Này các con, bố mày đã bỏ chạy rồi! Bọn lính gác mỏ ngày càng ít, nhưng chó bécgiê thì ngày càng nhiều lên, anh nghĩ thầm, bọn Nhật sắp đi đời rồi! Không ổn, phải vào sâu hơn nữa, bọn Nhật sắp toi mà để chúng bắt được làm mồi cho chó thì uổng quá! Nghĩ đến con chó bécgiê đầu to đít nhọn anh lại rùng mình. Nó ngoạm một khúc ruột chú Trần, máu rỏ từng giọt hai bên mép.
Anh cởi bộ quần áo của bọn Nhật cấp phát quẳng xuống suối. Cút mẹ mày đi! Chiếc quần phồng lên, như cái bong bóng trâu màu vàng, theo dòng nước trôi đi. Mặt trời sắp lặn, đỏ như máu. Cây cỏ đều thay đổi màu sắc, những cây hoa thụ và tượng thụ, những dây leo và những bụi cây lúp xúp những cây sam, thông đuôi ngựa, những dây nho rừng lá màu vàng kim mọc lưng chừng vách núi, dòng suối nhỏ chảy rót rách... tất cả đều đổi màu dưới nắng chiều đỏ rực. Anh không còn bụng dạ nào để ngắm cảnh, chạy theo bờ suối, nhảy trên những hòn đá trơn tuột đầy rêu, lẩn sâu vào rừng. Nửa đêm, khi biết chân lũ bécgiê không đuổi kịp nữa, anh mới dừng lại ngồi tựa dưới gốc cây. Anh cảm thấy bàn chân bỏng rát, người nóng rực từng cơn, rồi hết nóng lại lạnh. ánh trăng lạnh lẽo trùm lên rừng cây một màu trắng bạc, những hòn đá nhẵn thín mọc đầy rêu như những quả trứng khổng lồ, mờ mờ dưới trăng. Anh nép mình trong bóng tối, vừa đói vừa rét, đau về thể xác và khủng hoảng về tinh thần hành hạ anh. Thậm chí anh còn nghĩ rằng mình bỏ chạy là sai, và mỗi khi ý nghĩ ấy chọt đến, anh lại tự xỉ vả mình nghĩ như vậy là tầm bậy, mình tự do rồi, mình khá đấy chứ, không đào than cho bọn Nhật, không còn bị bọn lính Nhật miệng còn hơi sữa khinh rẻ, hành hạ mình. Anh ngủ thiếp đi trong tâm trạng vừa đau khổ vừa sung sướng. Lúc trời rạng, anh bị tiếng nói mê rất to của chính mình đánh thức dậy. Giấc mơ sợ quá, nhưng tỉnh dậy là anh quên sạch, chỉ còn mồ hôi đầm đìa trên người, tìm lạnh như cục đá. Mặt trăng đã khuất sau rặng núi phía tây vài ngôi sao nhấp nháy trên bầu trời màu sữa. Hơi nước ngùn ngụt trong khe, bóng mấy con thú đang uống nước. Anh ngủi thấy mùi tanh vừa nghe thấy tiếng gầm rung chuyển vách núi.
Trời sáng hẳn, mặt trời lên, sương mù trắng toát, mênh mông. Thấy lạnh, anh ra sưởi dưới nắng, nhìn những vết roi thâm tím trên người, có chỗ đã đóng váy, có chỗ còn sưng mọng, rồi những vết do ruồi muỗi cắn. Đâu còn là người? Suýt nữa thì anh khóc? Phơi nắng, người ngứa ran nhưng con giống ở giữa hai chân thì vẫn lạnh toát, hai hột thót lên trên, bụng ngâm ngẩm đau. Anh nhớ câu nói của người xua: Bìu dái là nơi sợ lạnh nhất của người đàn ông, vú là nơi sợ lạnh nhất ở nguòi đàn bà. Anh xoa bóp bìu dái, cảm thấy nó mềm dần ra. Anh hối hận đã vút bỏ bộ quần áo. Gì thì gì nó cũng là quần áo, ban ngày che thân, ban đêm chống muỗi. Anh tìm thấy quanh gốc cây một số rau dại đã biết: Rau diếp đắng, xa tiền thảo, hẹ rừng... Những thứ này không độc. Có rất nhiều loại rau dại, quả dại trông đẹp mã nhưng không dám ăn vì sợ độc. Anh cũng phát hiện bên sườn núi có một cây lê rùng, những quả lê chín vàng rơi vương vãi trên mặt đất, đã lên men, anh nhặt những quả còn tốt ăn thử, chua chua ngọt ngọt, y hệt lê Trung Quốc. Anh vui mừng quá đỗi, ăn kỳ nọ Anh định đánh dấu cây lê, tìm một vật chuẩn, nhưng xung quanh toàn cây là cây, không phân biệt được đông tây nam bắc, tuy rằng mặt trời mọc đằng đông, nhưng đó là định vị kiểu Trung Quốc. Còn mặt trời ở Nhật thì sao? Có phải vẫn mọc đăng đông lặn đằng tây không? Anh nhớ tới lá cờ mặt trời bay phần phật trên ga xe lửa. Anh nghĩ, về nhà, chạy trốn chưa phải là giỏi, chưa phải là mục đích. Về nhà, về Cao Mật, Sơn Đông, Trung Quốc. Trước mắt anh hiện lên hình ảnh người thiếu nữ ngây thơ, nét mặt thanh tú, mũi cao, vành tai trắng trẻo đầy đặn, anh chìm đắm trong hương vị chua ngọt của trái lê mùa thụ Anh láng máng nhận ra rằng, vùng Bắc Hải- Đạo của Nhật Bản là ngang với dãy Trường Bạch của Trung Quốc, nhằm thẳng hướng tây bắc mà đi là có thể về tới đất Trung Quốc. Anh nghĩ, đất Nhật to bằng cái lỗ mũi, mình bỏ ra ba tháng là đến biên giới. Anh thậm chí còn nghĩ rằng, nếu đi nhanh hơn, chưa chừng có thể ăn Tết ở nhà. Mẹ mất rồi, công việc đầu tiên của anh là hỏi con gái nhà Thượng Quan làm vợ, sống một cuộc sống dễ chịu. Quyết tâm như vậy rồi, anh quyết định tìm lại bộ quần áo vứt đi ngày hôm quạ Anh thận trọng dò dẫm từng bước, đề phòng gặp chó bécgiệ Gần trưa, anh cảm thấy hình như đã trở lại chỗ vứt quần áo, nhưng quang cảnh khác với những gì hôm qua anh đã thấy. Hôm qua anh không thấy có bụi trúc, hôm nay lại thấy có một bụi, dưới khe có một cây đại thụ xõa tóc, vỏ cây đen sì, những cây bạch hoa chọc trời, những cây nở đầy hoa, đỏ có, trăng có, tím có mùi thơm thoang thoảng. Rất nhiều chim đậu trên cành, tò mò nhìn anh, có con anh biết tên, nhiều con anh không biết là chim gì, tất cả đều có màu lông sặc sỡ, giá anh có bộ cung tên thì hay biết mấy!
Tròn một ngày, anh không làm sao ra khỏi khe núi. Con suối nhỏ như một đứa trẻ tinh nghịch, chơi trò ú tim với anh. Không thấy chó bécgiê xuất hiện, quần áo cũng tìm không thấy. Giữa trưa, anh thấy rất nhiều mộc nhĩ mọc trên một thân cây mục, anh nếm thử thấy rất giòn và hơi cay thì yên tâm, ăn một bữa no bụng. Chiều tối anh đau bụng, bụng chướng lên như cái trống, sôi ùng ục, rồi sau đó thì thượng thổ hạ tả, mọi vật trước mặt đều trở nên to đùng. Anh giơ tay lên xem: những ngón tay sung mọng. Ở chỗ nước lặng, anh nhìn đáy nước thấy mặt mình sưng vù, hai mắt híp lại, các vết nhăn trên mặt biến mất. Đêm hôm đó anh mê sảng, trông thấy những người khổng lồ lảng vảng trước mặt, lại còn trông thấy một con hổ văn cứ đi quanh bụi cây anh nằm. Lúc trời sáng, anh cảm thấy dễ chịu hơn, mặt cũng bớt sưng, anh nhìn mặt mình dưới nước mà giật mình, chỉ sau một đêm vừa thổ vừa tả, anh chỉ còn có da bọc xương! Bảy hay tám đêm đã trôi qua, một buổi sáng, anh gặp hai người quen. Khi ấy anh đang nằm sấp trên bờ, thò đầu xuống như con thú uống nước, thì có tiếng hỏi khẽ từ trên cây tượng thụ vọng xuống:
- Anh Hàn Chim đấy phải không?
Anh nhảy dựng lên, nấp sau một bụi rậm. Đã lâu mới lại nghe tiếng người khiến anh giật thót. Lúc này, anh lại nghe thấy tiếng hỏi từ trên cây vọng xuống nhưng lần này là một giọng mới vỡ của con trai:
- Có phải anh Hàn Chim không?
Anh vừa gào lên vừa nhảy ra:
- Phải anh Đặng đó không? Tôi nhận ra anh, và cả chú Tốt nữa, thế là tôi lại gặp anh và chú rồi!
Anh chạy tới gốc cây tượng thụ ngẩng mặt nhìn lên, nước mắt ứa ra chảy vào tai. Trên cây, anh Đặng và chú Tốt cởi thắt lưng buộc người vào cành cây ra, bám thân cây đầy rêu, lóng ngóng tụt xuống đất. Ba người ôm chặt lấy nhau vừa gọi tên nhau vừa khóc.
Ba người đi cách nhau một quãng, Hàn Chim nhìn lần lượt anh Đặng, chú Tốt, còn anh Đặng chú Tốt thì trước sau chỉ nhìn Hàn Chim.
Cuối cùng, họ dừng lại để hội ý. Lão Đặng từng làm nghề sơn tràng ở núi Trường Bạch, có kinh nghiệm về rừng, căn cứ vào rêu bám trên thân cây, lão có thể xác định được phương hướng. Nửa tháng sau, khi lá cây trên núi nhuốm màu đỏ rục, họ đã đến một sườn núi thấp, lá cây thưa thớt, trước mắt là biển mênh mông, những ngọn sóng xám xịt xô đẩy không mệt mỏi vách đá màu nâu, đuổi nhau như những dàn dê trên bãi cát mịn.
Trên bờ biển, ừ, neo mười mấy chiếc thuyền, một số người, ừ, bà già, đàn bà, trẻ con, ừ, đang phơi cá, ừ, cũng khổ lắm, hát, bài hát buồn lắm, khóc, vừa hát vừa khóc, khóc rồi lại hát. Lão Đặng bảo, qua biển là Yên Đài, ừ Yên Đài cách quê nhà không xa, ừ, mừng quá, muốn khóc, ừ, bên kia biển có dãy núi xanh mờ, ừ, lão Đặng nói, đó là Trung Quốc, ừ, nấp trên núi đến khi trời tối, người trên bãi biển về hết, chú Tốt nôn nóng định xuống, tôi bảo hãy đợi, ừ, hãy đợi, một người đầu đội cây đèn khí, trên bãi, ừ, đi một vòng, ừ, tôi bảo được rồi đấy, ừ, hơn một tháng ăn toàn cỏ và rau dại, ừ, trông thấy cá khô, ừ, như mèo thấy mỡ, ừ, ăn luôn mấy con, ừ, chú Tốt còn bảo cá có gai, ừ, lại ăn rau câu, đau bụng, họng đau như nuốt đậu phụ nóng, đau thắt ruột, ừ, chú Tốt nói, ừ, ruột bị ngạnh cá đâm thủng, ừ, trên dây phơi có chiếc tạp đề bằng vải không thấm nước, ừ, tôi rút xuống, mặc vào người, lại thấy một chiếc nữa, ừ, chiếc áo của phụ nữ, mặc chật cứng, ừ, cởi trần cả tháng nay rồi, có quần áo mới ra người, ừ, nhảy lên một chiếc thuyền, ừ, đẩy, ừ, kéo, ra mép nước, ừ, người ướt đẫm, ừ, thuyền cũ nát, không biết làm thế nào cho thuyền đi, chèo lia lịa, thuyền dở chúng, xoay tròn, ừ, không ổn, ừ, chèo thế này, ừ, không thể về Trung Quốc, ừ, lão Đặng nói, anh em, không được rồi, quay lại thôi, tôi nói, không quay lại, chết cũng về Trung Quốc, chỉ còn cái xác cũng phải về Trung Quốc!
Thuyền lật, nước đến ngực, sóng dẩy vào bãi cát, sóng biển cuồn cuộn, ừ, như ngàn vạn con ngựa phi nước đại, hí vang trời. Sao đầy trời, mặt biển lấp lánh lân tinh. Hàn Chim lạnh đến mức không nói thành lời được. Chú Tốt khóc thút thít. Lão Đặng nói:
- Anh em, trời không dồn ai vào ngõ cụt, điều quan trọng là đừng ngã lòng?
Hàn Chim hỏi:
- Anh Đặng, anh lớn tuổi hơn, anh bảo nên làm thế nào bây giờ?
Lão Đặng nói:
- Chúng mình là những con vịt nuôi trên cạn, không có kinh nghiệm, ra biển chỉ có chết. Trốn được ra đâu có dễ! Thế này nhé, ta hãy lên núi nghỉ một ngày, tối mai, bắt một ngư dân người Nhật đưa chúng ta về?
Tối hôm sau, họ nấp bên vệ đường, tay cầm gậy, đá. Đợi mãi mới thấy người đội đèn hôm trước. Hàn Chim nhào ra, ôm chặt eo lưng, quật anh ta xuống đất. Anh ta kinh hoảng thét lên một tiếng rồi ngất luôn. Lão Đặng gỡ chiếc đèn nhìn kỹ, thì ra là một phụ nữ mặt vàng bủng. Chú Tốt giơ hòn đá lên, nói:
- Đập chết nó đi, nếu không nó sẽ đi báo đấy.
Lão Đặng nói:
- Thôi đừng, bọn giặc bất nhân, chúng ta không thể bất nghĩa, giết người đàn bà này, Thiên Lôi sẽ đánh chết chúng ta!
Họ bỏ lại người đàn bà, vội vã rút vào rùng. Chợt trông thấy trên bãi biển có đốm lửa. Có lửa là có người. Không cần ra hiệu, cả ba nín thở, bò về phía ánh lửa. Hàn Chim nghe thấy chiếc tạp đề mặc trên người miết trên cát lạo xạo ánh đèn hắt ra từ một căn nhà bằng gỗ. Xung quanh nhà là những lọ thủy tinh nuôi rau câu và một số lốp ô tô cũ nát. Hàn Chim ngó qua khe hở của chiếc cửa đơn sơ trông thấy một ông già đầu bạc đang ngồi ăn cơm, mùi thơm của cơm khiến ba người đau quặn ruột. Lửa giận bốc lên đầu, tiên sư chúng mày, bắt chúng ông ăn rau ăn cỏ, ăn lá cây, còn chúng mày thì ăn cơm. Hàn Chim định xông vào thì cổ tay đã bị lão Đặng giữ chặt. Lão Đặng kéo hai người ra một quãng xa, rồi ngồi xuống, chụm đầu bàn bạc. Hàn Chim nói:
- Sao không xông vào? Lão Đặng nói: - Người anh em, đừng vội, cho ông ta ăn xong cơm đã.
- Ông anh tốt bụng thật đấy - Chú Tốt cằn nhằn.
Lão Đặng nói:
- Này chú, chúng ta về được Trung Quốc hay không, hoàn toàn nhờ vào ông già này. Tôi xem ông ta cũng là người nghèo, đừng đánh ông ta, nên từ tốn đề nghị Ông ta giúp đỡ. Ông ta nhận lời thì tốt, không nhận lời thì hãy dùng vũ lực. Tôi sợ các vị đã xông vào là hăng lên, nên ra đây ta bàn kỹ một tí.
Hàn Chim nói:
- Anh Đặng, chẳng có gì phải bàn, chúng tôi sẽ làm theo lời anh!
Họ xông vào nhà, ông già sợ cứng người. Ông rót nước mời họ. Trông thấy khuôn mặt ông già héo quắt vì gió biển, Hàn Chim thấy trong lòng không nỡ. Lão Đặng nói:
- Cụ Ơi! Chúng tôi là lao công người Trung Quốc, xin ông chở chúng tôi trở về quê hương!
Ông già giương cặp mặt ngây dại nhìn họ, vái lia lịa. Lão Đặng nói:
- Cụ đưa chúng tôi về Trung Quốc, thì dù có phải bán hết nồi niêu xoong chảo, bán vợ đợ con để có đủ tiền cho cụ trở lại nơi này chúng tôi cũng sẵn sàng! Nếu cụ muốn ở lại Trung Quốc thì chúng tôi coi cụ như cha, chúng tôi ăn gì cụ ăn nấy. Kẻ nào không giữ lời thì kẻ ấy không phải giống người!
Ông già quì sụp xuống đất, miệng lẩm bẩm những câu khó hiểu, dập đầu lạy như tế sao, nước mắt nước mũi chảy ràn rụa. Hàn Chim sốt ruột đụng vào ông già một cái, ông già kêu toáng lên như lợn bị chọc tiết rồi bỏ chạy. Hàn Chim kéo ông già lại, ông già cắn Hàn Chim một miếng vào taỵ Hàn Chim nổi cơn điên, vó lấy con dao thái rau kề vào cổ ông già, dọa:
- Câm mồm, kêu lên là tôi giết ông?
Ông già im bặt, mắt chớp lia lịa. Hàn Chim nói:
- Anh Đặng này, đã đến nước này thì không thể làm khác, đưa cái của này lên thuyền, dùng dao bắt lão phải chở?
Ba người tìm được dao chẻ củi, gậy gộc, dùng dây ni lông trói ông già lại, rồi vừa đùn vừa đẩy ông ta ra bãi biển. Mặt biển đen kịt, gió gào thét. Nhưng vừa ra khỏi chỗ rẽ thì đã trông thấy một đám đèn đuốc rầm rập chạy tới. Ông già gỡ được dây trói, kêu toáng lên. Lão Đặng nói:
- Anh em, chạy thoát thân đi!
Họ chạy lên núi, buồn đến nỗi không ai nói một câu, ngồi chờ sáng, không biết làm gì. Hàn Chim nói:
- Tại sao cứ phải đi đường biển? Tôi không tin là Nhật Bản không có đất liền với Trung Quốc. Chẳng lẽ bọn lính Nhật đông như kiến cỏ đều lên tàu thủy sang Trung Quốc?
Chú Tốt nói:
- Vậy thì phải bao nhiêu là tàu, làm gì có nhiều tàu như thế?
Hàn Chim nói:
- Ta lần theo bờ biển, thế nào cũng có lúc gặp đường cái, đi vòng thì đi vòng, năm nay chưa gặp thì sang năm, đi miết thế nào cũng về đến Trung Quốc.
Lão Đặng nói:
- Cũng đành vậy thôi. Hồi đốn gỗ ở núi Trắng Bạch, tôi nghe nói Nhật Bản liền với Triều Tiên, chúng ta lên Triều Tiên đã rồi về Trung Quốc, chết bởi tay người Triều Tiên còn sướng hơn chết trong tay bọn Nhật?
Ba người đang trao đổi thì nghe thấy tiếng người ồn ào dưới chân núi, tiếng chó sủa và tiếng thanh lạ Hỏng rồi, bọn Nhật lên núi lùng sục rồi! Lão Đặng nói:
- Chúng ta đừng để lạc nhau, một mình là bị chúng tóm đấy!
Nhưng rồi họ cũng bị mỗi người mỗi ngả. Hàn Chim nấp sau một bụi trúc, trông thấy một phụ nữ mặc chiếc áo quân phục cũ của đàn ông, hai tay cầm khẩu súng săn, bên trái bên phải là mấy ông già cầm dao chẻ củi, gậy gộc, theo sau là một bé trai dùng cán xẻng gõ vào chiếc chậu đồng cũ. Mấy con chó gầy nhom chạy phía trước, sủa ăng ăng. Có lẽ để thêm can đảm, người phụ nữ và mấy ông già vừa chạy vừa la hét hoặc đôi khi nổ một phát súng. Một con chó đen đốm trắng chạy đến trước bụi trúc có Hàn Chim nấp thì chững lại, cụp đuôi giữa hai chân sau, vừa giật lùi vừa sủa như điên. Trạng thái khác thường của con chó khiến người phụ nữ chú ý. Chị ta chĩa súng vào bụi trúc quát to, cánh tay khẳng khiu thò ra ngoài ống tay áo rộng, run bần bật. Hàn Chim từ trong bụi trúc nhảy vọt ra, chĩa dao xông thẳng vào người phụ nữ. Bị bất ngờ, chị ta quẳng súng bỏ chạy, Hàn Chim chém một nhát vào đầu chị ta, chiếc nón đội trên đầu bay đi một miếng, lộ ra mớ tóc vàng cháy. Chị ta rú lên một tiếng, ngã lăn ra. Hàn Chim chỉ ba bước nhảy đã khuất sau những lùm cây rậm rạp dưới khe.
Tiếng quát tháo của bọn Nhật, tiếng chó sủa náo động cả khu rừng.
Lão Đặng và chú Tốt bị bắt lại. Thế lại hóa may, sau khi Nhật đầu hàng được một năm, hai người được coi là tù binh, trao trả Trung Quốc. Còn người chạy thoát là Hàn Chim thì sau mười ba năm sống một mình trong rừng sâu, một người đi săn lôi từ trong hang tuyết ra vì tưởng nhầm con gấu ngủ đông mới thoát nạn. Khi mùa đông cuối cùng băng tuyết đầy trời bắt đầu, mái tóc Hàn Chim đã dài hơn một thước. Mấy năm đầu, anh đôi khi cắt ngắn bớt bằng con dao thái rau, nhưng sau vì mài nhiều, con dao hết nước thép, trở thành vô dụng, tóc anh cứ thế mà dài ra. Chiếc tạp đề và chiếc áo cánh phụ nữ đã rách như xơ mướp, anh vắt chúng lên bụi gai, còn anh thì che thân bằng rơm ra. ăn trộm ngoài đồng hoặc bao tải dựng phân hóa học, mỗi bước đi lại kêu sột soạt, chẳng khác quái vật thời khủng long. Giống như thú rừng, anh khoanh lấy lãnh địa của mình. Một bầy sói xám rất nể sợ anh, chưa bao giờ dám chọc tức anh. Anh biết bầy sói này là con cháu của cặp vợ chồng sói già. Mùa đông năm thứ hai, đôi vợ chồng sói này định xơi tái anh, anh cũng rất muốn lột da chúng để làm đệm. Thoạt đầu, hai bên cứ đứng xa mà chiếu tướng nhau. Hai con sói có vẻ sợ anh, nhưng tính kiên trì của loài thú ăn thịt, khiến chúng nằm phục hết đêm này sang đêm khác ở bên kia suối đối diện với hang anh ở.
Chúng ngẩng mặt hú dài dưới ánh trăng lạnh, tiếng hú thê thảm đến nỗi những vì sao run rẩy nhấp nháy liên tục. Về sau, không thể chịu đựng được nữa, anh ăn một lần hai suất rau câu, ăn thêm một đùi thịt nhím, tập trung tinh thần để tiêu hóa những thứ đã ăn, xoa bóp chân tay xương cốt, chuẩn bị xuất kích. Vũ khí chỉ có mỗi con dao thái rau đã sứt mẻ và chiếc gậy gỗ đầu vót nhọn để đào rễ cây. Anh đem theo cả hai, đẩy hòn đá chặn cửa hang, chui ra ngoài. Vợ chồng sói trông thấy một con vật mà chúng chưa bao giờ gặp, một con vật cao to mình đầy vảy vàng kêu loạt soạt, tóc trên đầu dài như làn khói, ánh mắt xanh biếc. Anh vừa quát tháo vừa tiếp cận vợ chồng sói, nhưng khi chỉ còn cách mấy bước, anh ngập ngưng khi nhìn thấy cái miệng rộng, hàm răng trắng nhởn, cái lưỡi đỏ chót của con sói đực, không dám tiến, cũng không dám lui, anh biết rõ bây giờ mà rút lui thì hậu quả sẽ như thế nào. Hai bên trong thế giằng co, con sói hú, anh cũng hú, thậm chí hú dài hơn, thê thảm hơn? Con sói nhe răng, anh cũng nhe răng, lại còn gõ sống dao vào gậy để trợ Oai. Con sói nhảy nhót dưới trăng đuổi theo cái bóng của đuôi nó, anh cũng rung rung những thứ khoác trên người, giả vờ vui vẻ nhảy như điên, và quả thật anh rất vui vì trông thấy cái nhìn bè bạn và đầm ấm trong mắt con sói.
Tại buổi báo cáo thứ chín, Hàn Chim đưa thêm cuộc đối thoại giữa người và sói vào đoạn này. Miệng lưỡi anh bây giờ dẻo quẹo vì nói nhiều. Con sói - sói cái chứ không phải sói đực, phụ nữ bao giờ cũng khéo miệng: Hàn đại ca, ta kết bạn với nhau đi! Hàn Chim bĩu môi, nói: Kết thì kết, nhưng tôi nói để các người biết, giặc Nhật tôi còn không sợ, lẽ đâu tôi sợ các người? Sói đực nói: Đánh nhau thật chưa chắc anh đã thắng nổi chúng tôi! Trông kìa, răng anh đã lung lay, hàm anh đã yếu lắm rồi! Sói đực vừa nói vừa ngoạm một phát vào que củi to bằng bắp tay bên bờ suối, que củi gãy đôi. Hàn Chim lạnh cả người, nói: Tao có dao đây! Nói rồi giơ dao chém bay một miếng vỏ trên thân cây. Sói cái nói: Đàn ông các anh chỉ thích đánh nhau. Sói đực nói: Tôi biết anh cũng không phải tay vừa, vậy ta làm hàng xóm với nhau, không ai làm phiền ai, được không? Hàn Chim nghĩ: Mẹ kiếp, mình ở cái thế chẳng đừng, phải hòa giải với chúng, nhưng trong bụng thì sợ, nhưng vẫn phải nói cứng. Tôi nói: Được thôi, hàng xóm thì hàng xóm...
Đoạn đối thoại giữa nói và sói khiến đám đông dưới khán đài không nhịn được cười. Hàn Chim lại càng cao hứng định nói tiếp, khiến người điều khiển chương trình phải đề nghị anh nên chuyển sang chuyện khác. Kim Đồng tin rằng có thể có sự thỏa thuận ngầm giữa Hàn Chim và sói, vì rằng trong khi đánh bạn với động vật cậu vô cùng kinh ngạc về trí thông minh của chúng, chẳng hạn con dê cho cậu sữa thì cậu và nó chỉ thiếu nước nói chuyện với nhau như người.
Hàn Chim biết rất rõ mối quan hệ huyết thống của bầy sói, biết tuổi tác, thứ bậc trong bầy đàn, thậm chí sở thích của chúng. Ngoài bầy sói, ở hẻm núi này còn có một con gấu đực mắc bệnh tâm thần, nó ăn tất cả mọi thứ, rễ cây, lá cây, quả dại, động vật nhỏ. Nó bắt được những con cá vẩy bạc rất to dưới suối, nhai rau ráu, ăn cả vây như ăn củ cải. Một bận vào mùa xuân, nó tha về một cái chân phụ nữ, ăn không hết, nó vứt xuống suối. Ăn no rồi, con gấu không biết làm gì, bèn giải trí bằng cách nhổ cây. Trong lãnh địa của nó, tất cả những cây nhỏ đều bị nó nhổ bật gốc, không còn sót cây nào.
Rồi đến một hôm - trong buổi báo cáo lần thứ hai, Hàn Chim kể, anh ta có một cuộc ác đấu với con gấu. Anh sức yếu, bị con gấu quật ngã. Nó ngồi lên người anh, hai chân trước đấm thùm thụp lên ngực, cất tiếng cười điên dại. Dưới sức nặng của nó, anh có cảm giác xương cốt của mình bị gãy vụn. Trong lúc tuyệt vọng, anh bỗng nảy ra sáng kiến gãi dái con gấu. Nó khoái quá giơ cả hai chân lên. Anh vừa gãi vừa lấy sợi dây trong bọc ra, dùng một tay và miệng thắt thành cái thòng lọng rồi lồng vào cuống dái con gấu thắt lại, còn đầu kia thì buộc vào một gốc cây nhỏ bên cạnh. Sau đó anh luồn ra rồi bỏ chạy. Con gấu chồm lên đuổi theo và nó bị ngất luôn. Hàn Chim nói, cũng là đau nhưng đau ở dái thì kinh khủng, hoàn toàn không như đau ở chỗ khác, đàn ông biết rất rõ chuyện đó, những phụ nữ vô lại cũng biết rõ chuyện đó. Tóm được dái là coi như tóm được tính mạng. Câu chuyện của Hàn Chim khiến những người từng đến Quan Đông ngờ ngợ. Họ có được nghe chuyện như vậy với con gấu, nhưng người làm chuyện đó là một phụ nữ xinh đẹp, mà con gấu thì thuộc loại thích trêu ghẹo phụ nữ. Hàn Chim đang nổi tiếng nên họ đành để bụng, không ai dám bắt bẻ.
Theo lời Hàn Chim kể thì mùa đông cuối cùng anh sống trên một vách núi trông ra biển. Anh nói rằng, mười mấy năm nay, chỗ ở mùa đông của anh cứ nhích dần về đây. Anh đào một cái hang trên vách núi, cửa hang trông xuống một làng nhỏ dưới khẹ Anh trữ trong hang một bó rau câu, một bó cá khô và hơn chục cân đậu ván. Sáng sớm và chiều tối mỗi ngày anh ngồi trong hang, hai tay thu trong bẹn, nhìn những cuộn khói bốc lên mà như ngây như dại, những mẩu hồi ức lướt qua trong đầu nhưng chỉ là những mảnh vụn, không sao ghép được một chuyện hoàn chỉnh, kể cả một khuôn mặt. Tất cả đều bập bềnh như trên mặt nước, thoắt cái đã thay đổi, không sao nắm bắt được. Khi tuyết đã phủ kín, người trong làng rất ít khi ra ngoài. Một con chó đi trên đường cũng để lại những dấu chân đen sì. Các ống khói trong làng ngày đêm tỏa khói. Bầy quạ cãi nhau suốt ngày trong rừng cây đầu thôn. Trên bãi cát có mấy chiếc thuyền cũ. Sát mép nước có một lớp băng mỏng, luôn luôn bị thủy triều ngày hai lần phá vỡ. Hàn Chim cứ ngồi thu lu như thế cả một mùa đông, đói quá thì nhấm nháp mấy cọng rau câu, khát thì nhai tuyết, chập chờn lúc ngủ lúc thức, đại tiện thì dùng tay bốc phân vứt ra ngoài hang. Một mùa đông chỉ đi đại tiện hơn chục lần.
Sang xuân tuyết tan, nước thấm xuống nóc hang. Khi anh ra ngoài hang vứt phân, đã trông thấy những mảng màu nâu của mái nhà, nước biển cũng chuyển màu xanh, nhưng trên núi thì vẫn trắng xóa. Một hôm, anh đoán khi đó là giữa trưa, bên ngoài hang có tiếng chân giẫm trên tuyết lạo xạo. Tiếng chân đi vòng quanh rồi lên trên nóc hang. Anh ngồi co rúm trong hang, hai tay không ôm bẹn nữa, mà ghì chặt chiếc xẻng đã mòn vẹt, sợ đến mụ người đi, mỏ hôi tay ướt đẫm, cứ tuột khỏi chiếc xẻng. Trên đầu có tiếng đào đất bình bịch, rồi đất vụn rơi lả tả, một luồng ánh sáng dọi thẳng xuống. Theo bản năng, anh nép sang một bên, mắt nhìn không chớp tia nắng. Phía trên vẫn tiếp tục đào, đất cục lẫn với tuyết lại trút xuống, rồi đầu nòng khẩu súng săn thò xuống nổ một phát, đất bắn tung tóe, mùi thuốc súng nghẹt thở. Anh úp mặt vào giữa hai đầu gối, không dám họ Sau khi nổ phát súng, người kia chừng như yên tâm nên đi đứng không cẩn thận, thụt luôn một chân xuống lỗ thủng. Khi trông thấy cái chân bọc bằng một miếng da thú, Hàn Chim không kịp suy nghĩ gì nữa, cầm xẻng vụt luôn. Người kia kêu thét lên bỏ chạy, tiếng chân trên tuyết lạo xạo dội vào trong hang. Anh nghĩ, người này thể nào cũng gọi người tới, không để họ bắt sống. Anh cố thoát ra khỏi tình trạng mụ mẫm, suy nghĩ mạch lạc hơn. Phải chạy đi nơi khác. Anh gỡ tấm ván chặn cửa hang, vớ lấy một nắm rau câu, một miếng vải buồm nhặt được ở sân phơi của một gia đình người Nhật từ mùa thu năm ngoái, rồi chui ra khỏi hang. Anh cảm thấy lạnh buốt toàn thân, mắt đau nhói dưới ánh sáng gay gắt, ngã lăn ra như một cây gỗ mục. Anh cố đứng dậy, nhưng lại lập tức ngã lăn ra. Anh đau xót nghĩ thầm: Thế là hết, mình không còn đi đứng được nữa rồi. Anh không dám mở mắt, hễ mở mắt là đau buốt không chịu được Bản năng muốn sống đã mách anh phải theo sườn dốc mà bò xuống. Anh nhớ mang máng rằng, phía bên phải dưới chân dốc có một vạt rùng nhỏ. Anh cảm thấy mình bò đã lâu rồi, đáng lẽ đã đến vạt rùng ấy rồi, nhưng khi mở mắt ra mới biết chưa được năm mươi thước.
Lúc trời gần tối, anh bò đến vạt rừng. Lúc này mắt anh đã quen dần với ánh sáng, dù vẫn còn buốt và chảy nước mắt. Anh vịn vào một cây thông nhỏ, đứng lên, nhìn về cửa hang cách đó khoảng một trăm thước. Trên tuyết còn lưu lại vết tích của anh đã bò quạ Cái làng nhỏ bên dưới có tiếng gà kêu chó cắn, khói lam bốc lên từ những mái nhà đầy vẻ thanh bình. Anh nhìn lại mình, rách như tổ đỉa, đầu gối và bụng rớm máu, những ngón chân lở loét bốc mùi khăn khẳn. Một cảm giác thù hận bỗng lóe lên trong anh, như có tiếng gọi từ trên cao vọng xuống: Hàn Chim, Hàn Chim, người là thằng đàn ông, không được để bọn Nhật bắt lại!
Anh từ gốc cây này bám sang gốc cây kia, rồi cứ như thế anh lần vào rừng sâu. Đêm hôm ấy lại có một trận tuyết rất tọ Anh ngồi xổm dưới một gốc cây nhỏ, lắng nghe tiếng gầm gào của biển cả và tiếng hú của bầy sói, rồi lại rơi vào trạng thái mụ mẫm. Tuyết lấp kín anh, xóa sạch dấu vết chiều hôm trước anh để lại.
Sáng sớm hôm sau, anh trông thấy ánh nắng ban mai trải màu ngọc bích lên mặt tuyết. Từ bên kia sườn núi, từ chỗ cái hang cũ vọng lại tiếng người ồn ào, tiếng chó sủa. Anh ngồi yên, lắng nghe những tiếng động ấy như từ một nơi xa xôi vọng tới..
Rồi một quầng lửa bùng lên, ngọn lửa không một tiếng động, mềm mại như lụa dập dòn nhảy múa. Giữa quầng lửa là một thiếu nữ mặc quần trắng, ánh mắt như mắt chim, xa vắng và đơn độc. Anh đội tuyết chồm tới và ngã lăn bất tỉnh.
Những con chó săn đánh hơi rất thính, dẫn theo những người thợ săn đến chỗ Hàn Chim. Anh chống hai tay trên tuyết, ngước nhìn những họng súng đen ngòm. Anh cất tiếng chửi nhưng lại sủa như chó sói. Những người thợ săn nhìn anh ngạc nhiên, còn lũ chó thì hốt hoảng lùi lại
Một người thợ săn bước tới cầm cánh tay lôi anh dậy. Anh cảm thấy lồng ngực như muốn vỡ, vận hết sức tàn còn lại ôm chặt lấy người thợ săn cắn vào mặt anh ta bằng hai hàm răng không còn một chút sức lực rồi ngã lăn ra. Người kia cũng ngã theo. Anh không hề chống cự mặc cho những người thợ săn gỡ từng ngón tay cong cong như móc câu của anh, và hoảng hốt khi thấy người ta kéo anh như kéo một xác chết về làng.
Trong một quán tạp hóa nhỏ, anh bị cơn đau rất khó diễn tả làm cho tỉnh dậy. Anh nghe thấy lửa réo ù ù trong ống khói bằng sắt tây, khắp mình đau buốt như kim châm. Anh giãy giụa, gào thét tránh xa bếp lửa. Những người thợ săn chợt hiếu ra, khênh anh sang một gian để những thứ lặt vặt, gian này không có bếp lò. Người phụ nữ chủ hiệu tạp hóa chăm sóc anh rất chu đáo. Khi anh húp thìa nước đường đầu tiên, nước mắt tự nhiên ứa ra.
Ba hôm sau, những người thợ săn cuốn anh trong một tấm chăn chiên, khênh anh đến một nơi có những người ăn mặc đàng hoàng, hỏi anh gì đó bằng tiếng Nhật. Lưỡi anh ngọng cứng, không nói được thành lời. Sau đó, anh kể lại:
- Họ đem đến một chiếc bảng đen, ừ phấn viết, để tôi viết viết gì nhỉ ừ, ngón tay tôi co quắp như vuốt chim ưng, ừ, cầm phấn mà cổ tay đau buốt, cầm không chặt, viết gì nhỉ, tôi nghĩ, nghĩ mãi, à, nghĩ ra rồi, ừ, Trung Quốc, ừ, Trung Quốc, hai chữ Trung Quốc, tôi viết lên bảng đen hai chữ, Trung Quốc xiên xẹo, hai chữ thật to: Trung Quốc.
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
Chương 39
Sau hai tháng đi khắp vùng Cao Mật nói chuyện hơn năm mươi buổi, Hàn Chim trở lại nhà tôi. Khi sự hâm mộ Hàn Chim dần lắng xuống, người ta bắt đầu nêu câu hỏi về những chuyện mà Hàn Chim kể vì anh ta càng kể càng phong phú, càng ly kỳ. Có thể thế được chăng? Mười lăm năm ở miết trong núi được chăng?
Hàn Chim trả lời:
- Đ. mẹ anh, mười lăm năm của người ta anh nói gọn trong một câu đã hết, chưa kịp mỏi lưng, còn ta thì ngóng hết năm này sang năm khác tháng này sang tháng khác, giờ này sang giờ khác, phút này sang phút khác! Các người có giỏi, cứ thử ngóng năm năm xem nào!
- Mươi lăm năm thì quả là kinh khủng, nhưng những chuyện như đánh nhau với gấu, đấu khẩu với sói liệu có thật không?
Hàn Chim tức điên lên:
- Đ. mẹ anh, nếu không đánh nhau với gấu, đấu khẩu với chó sói thì tôi hỏi các anh mười lăm năm trong rừng sâu núi thẳm ở Nhật, tôi làm những gì?
Cách đây hai tháng, khi bước chân vào nhà tôi lần đầu anh khiến tôi giật mình. Tôi chỉ còn nhớ mang máng những chuyện liên quan đến Tiên Chim, nhưng đó là chuyện quan hệ nam nữ giữa chị với Thằng Câm và chuyện chị nhảy từ vách núi xuống bãi cỏ, hoàn toàn không nhớ chị có người chồng chưa cưới quái đản như thế này. Tôi né sang một bên để anh vào sân. Chính khi đó chị Lai Đệ nửa mình trên ở trần, nửa dưới quấn bằng chiếc khăn trải giường màu trắng, chạy ra sân. Thằng Câm dùng nắm tay đấm thủng một lỗ to tướng giấy dán cửa sổ rồi thò nữa người ra ngoài, quát to: - Cởi cởi! Lai Đệ ngã vật xuống đất khóc hu hu, chiếc khăn giường quấn quanh người thấm máu loang lổ. Chị xuất hiện trước mắt Hàn Chim trong tình cảnh như vậy. Khi trông thấy trong sân có người lạ, chị vội quấn chặt hơn chiếc khăn trải giường, máu từ bắp chân rỏ xuống đất. Mẹ tay dắt chị Tám, tay cầm roi lùa con dê vào sân. Mẹ không ngạc nhiên lắm về tình trạng khó coi của chi Lai Đệ, nhưng khi nhìn thấy Hàn Chim, mẹ ngồi phệt xuống đất.
Về sau mẹ nói với tôi, khi ấy mẹ biết ngay rằng người đòi nợ đã tới. Đã đến lúc phải trả cả vốn lẫn lãi món nợ ăn thịt chim của mười lăm năm trước. Nhà Thượng Quan hy sinh cô con gái đầu lòng đổi lấy vinh hoa phú quí, nay sắp kết thúc cùng với chuyện Hàn Chim trở về. Mặc dù vậy, mẹ vẫn tiếp đãi Hàn Chim tử tế. Con quái điểu như từ trên trời sa xuống này ngồi trong sân nhà tôi, hai tay ôm bẹn theo thói quen, mắt đờ đẫn nhìn mẹ và chị Lai Đệ đang bận rộn quanh bếp. Chị Lai Đệ rất xúc động trước cảnh ngộ của Hàn Chim, tạm thời quên đi nỗi thống khổ mà thằng Câm đã gây ra cho chị. Chị mặc áo ngoài vào, đốt bếp giúp mẹ. Thằng Câm ra sân, nhìn Hàn Chim bằng cặp mắt khiêu khích. Bên bàn ăn, Hàn Chim lóng ngóng cầm đũa, mãi không gắp được miếng thịt gà. Mẹ gỡ đôi đũa trong tay anh ta, ra hiệu bảo anh ăn bốc. Anh ngẩng nhìn mẹ, hỏi:
- Cô... vợ tôi đâu?
Mẹ nhìn thằng Câm bằng ánh mắt căm hờn, hắn đang nhai lấy nhai để cái đầu gà.
Mẹ nói:
- Nó đi xa rồi!
Bản chất lương thiện khiến mẹ không thể từ chối Hàn Chim ở lại, huống hồ còn có lời của ông trưởng khu và ông Cục trưởng Cục Dân chính huyện:
- Anh ấy không có gia đình, không nhà cửa. Với người từ địa ngục trần gian trở về, ta nên thỏa mãn mọi yêu cầu, vả lại...
Mẹ ngắt lời ông Cục trưởng Cục Dân chính, nói:
- Khỏi nói nhiều, xin cho vài người đến dọn dẹp chái hiên phía đông.
Vậy là người anh hùng huyền thoại Hàn Chim ký ngụ tại gian chái phía đông trong nhà tôi, nơi trước kia chị Tiên Chim từng ở. Mẹ lấy bức tranh đầy bụi giắt trên xà nhà xuống, treo lên tường. Bức tranh đã bị mối mọt ăn thủng lỗ chỗ. Hàn Chim đi diễn thuyết trở về, vừa trông thấy bức tranh liền nói:
- Tôi biết kẻ nào hại vợ tôi rồi? Tôi chẳng chóng thì chầy phải trả thù? Cuộc tình kỳ lạ giữa chị Cả và Hàn Chim như hoa cây thuốc phiện, rực rỡ và cuồng nhiệt nhưng độc. Buổi trưa hôm ấy, Thằng Câm ra hợp tác xã cung tiêu uống rượn. Chị Cả ngồi giặt chiếc quần lót đầy vết máu dưới gốc đào. Mẹ ngồi trên giường ghép chiếc phất trần bằng lông gà trống, chợt nghe thấy tiếng kẹt cổng, Hàn Chim xách chiếc lồng có con chim nhỏ lông cánh rất đẹp, bước vào. Anh ta đã trở lại nghề bẫy chim xưa kia. Anh dừng lại bên gốc đào, nhìn không chớp cái cổ chị Lai Đệ. Con chim nhỏ xù lông cổ, cất tiếng hót réo rắt gọi bạn tình, tiếng hót đằm thắm đến nỗi làm rung lên sợi dây tình cảm của những người phụ nữ. Mẹ cảm thấy trong lòng vô cùng áy náy: Con chim này rõ ràng là hóa thân của Hàn Chim, một Hàn Chim đầy đau khổ? Mẹ trông thấy Lai Đệ từ từ ngẩng đầu lên ngắm cái ức rất đẹp và hai con mắt đen nhánh bằng hai hạt vừng của con chim. Mẹ nhìn khuôn mặt ửng hồng và đôi mắt long lanh của chị Lai Đệ, hiểu rằng cái điều mà mẹ lo nhất sắp sửa diễn ra cùng với tiếng hót của con chim nhỏ. Mẹ không còn sức để ngăn chặn vì mẹ biết rằng bọn con gái nhà Thượng Quan một khi đã có cảm tình với người đàn ông nào, thì dù có tám ngựa cũng không kéo lại. Mẹ nhắm mắt, tuyệt vọng hoàn toàn.
Với niềm xúc động sâu xa, Lai Đệ từ từ đứng lên, hai tay đầy bọt xà phòng. Con chim chỉ to bằng hạt quả đào mà có thể đa tình đến thế, hót say sưa đến thế. Chị cảm thấy hình như con chim muốn chuyển cho chị một thông điệp thần bí, một sự lôi cuốn vừa hứng khởi lại vừa dáng sợ. Chị cố thoát khỏi sự dụ dỗ mê hoặc đó, đứng lên định đi vào trong nhà, nhưng hai chân như mọc rễ không nhúc nhích, còn hai tay thì vươn về phía con chim. Hàn Chim lắc tay một cái, con chim bay vụt tới, đậu trên tóc chị Lai Đệ. Chị cảm thấy những cái vuốt tí xíu bám vào mái tóc. ánh mắt chị Lai Đệ bắt gặp ánh mắt hiền lành, u uất của Hàn Chim, và nỗi uẩn khúc mãnh liệt dâng lên trong lòng chị. Hàn Chim gật đầu với chị rồi đi vào trong phòng, con chim bay theo anh.
Chị Lai Đệ ngẩn người. Chị nghe thấy tiếng mẹ gọi giật giọng, nhưng chị không quay đầu lại, chạy vào phòng Hàn Chim, vừa chạy vừa khóc không một chút xấu hổ. Hàn Chim giang rộng hai cánh tay đã từng đánh nhau với gấu, ôm chị. Nước mắt chị thấm đẫm ngực anh. Chị cho rằng chị hoàn toàn có quyền đánh anh, và anh cũng vui lòng để cho chị đánh, hai bàn tay to lớn của anh ve vuốt sống lưng chị, theo vết lõm dọc theo cột sống. Trong khi đó, con chim đậu trên bàn thờ tranh Tiên Chim sung sướng cất tiếng hót, cái miệng xinh xinh đỏ hồng nước bọt lấp lánh như những ngôi sao nhỏ.
Chị Lai Đệ thản nhiên cởi bỏ quần áo, chỉ vào những vết bầm tím trên người, bảo Hàn Chim:
- Anh xem này, Thằng Câm đã giày vò em gái em đến chết, giờ đây nó lại hành hạ em, em cũng sắp chết rồi, không còn chút hơi sức nào nữa? Nói xong, chị nằm phục trên giường, khóc hu hu.
Đây là lần đầu tiên Hàn Chim nhìn kỹ thân thể người con gái. Anh ngạc nhiên nhận ra rằng, đàn bà, linh vật của tạo hóa mà vì số phận hẩm hiu, anh chưa một lần được hưởng, đẹp hơn tất cả những cái dẹp mà anh đã từng trông thấy. Anh xúc động ứa nước mắt khi nhìn cặp chân thon dài, cặp mông tròn lẳn, đôi vú bè ra vì đè lên chăn, màu da trắng như ngà, mặc dù trên đó đầy những vết thâm tím. Ngọn lửa thanh xuân bị kìm nén trong suốt mười lăm năm cơ cực, cháy bùng lên. Anh quì xuống áp cặp môi nóng bỏng hôn lên gan bàn chân mịn màng của Lai Đệ.
Một cảm giác rân rân từ gót chân lan khắp thân thể, khiến khi co rúm lại rồi đột nhiên òa ra như vỡ đệ Chị lật ngửa; hai chân dạng ra rồi ưỡn người vòng tay ghì chặt Hàn Chim. Bằng kinh nghiệm phong phú của mình, chị hướng dẫn người đàn ông còn là trai tân này. Khoảng giữa những cái hôn điên cuồng, chị vừa thở vừa nói:
- Cho cái Thằng Câm ấy, cái thằng nữa người nửa ngợm ấy chết đi, cho quạ mổ mù mắt nó đi!...
Trong tiếng rú vì hoan lạc của hai người, mẹ hốt hoảng đóng sập cửa lại, gõ liên hồi chiếc chảo vỡ để át đi. Ngoài ngõ đẩy những học sinh tiểu, trung học đi tìm đồng nát sắt vụn. Nồi niêu xoong chảo, cuốc xẻng dao búa, cả đến móc cửa, vòng sẹo mũi trâu bò, cặp tóc phụ nữ... của mọi nhà đều được đem đi luyện thép. Vì trong nhà tôi có anh hùng quân đội Tôn Bất Ngôn và anh hùng huyền thoại Hàn Chim, nên các đồ sắt mới còn. Mẹ mong cho cuộc tình giữa chị Cả và Hàn Chim mau chóng kết thúc. Mẹ làm người bảo trợ không hợp pháp cho mối tình của hai người, vì mẹ thông cảm và day dứt khi thấy chị Cả bị Thằng Câm hành hạ, vì mẹ thông cảm với cuộc sống đầy cơ cực của Hàn Chim và món nợ thịt chim ngon lành cách đây mười lăm năm, đồng thời để tỏ lòng thương nhớ và nể trọng chị Tưởng Đệ. Tuy mẹ tiên đoán được kết cục chẳng hay ho gì, nhưng mẹ vẫn cố sức che chở cho họ để cái kết cục bi thảm đó chậm xảy ra. Nhưng trên thực tế, với một người đàn ông như Hàn Chim, sau khi đã cảm nhận ở người đàn bà tình yêu bốc lửa mà vẫn dịu dàng, thì không gì có thể trói buộc nổi anh. Đây là người đàn ông đã sống mười lăm năm trong rừng sâu như thú rừng, người đàn ông trong mười lăm năm đánh đu với cái chết, thì trong con mắt anh ta Tôn Bất Ngôn không đáng một xu! Với Lai Đệ, người đàn bà đã qua tay ba người đàn ông: Sa Nguyệt Lương, Tư Mã Khố? Tôn Bất Ngôn khác nhau hoàn toàn, người đàn bà trải qua lửa dạn, từng nếm mùi vinh hoa phú quí, từng trải qua cuồng hoan tột đỉnh kiểu Tư Mã Khố hoặc bạo ngược đến tởm lợm như kiểu Tôn Bất Ngôn, thì Hàn Chim khiến chị hoàn toàn thỏa mãn. Những cái vuốt ve tỏ vẻ biết ơn của Hàn Chim khiến chị thỏa mãn trong tình cảm làm cha mẹ, sự lóng ngóng vụng về của anh trong yêu đương khiến chị thỏa mãn với tình cảm của người thầy về mặt tình dục, sự ngốn ngấu trong ăn vụng trái cấm của Hàn Chim khiến chị thỏa mãn về dục vọng, đồng thời là sự trả thù Thằng Câm? Vì vậy, mỗi khi làm tình với Hàn Chim, chị đều nước mắt đầm đìa, khóc không thành tiếng, hoàn toàn không mang tính dâm đãng mà coi đây là hành vi cực kỳ nghiêm chỉnh của cuộc đời. Trong quá trình giao hoan, cả hai đều ngây ngất vì những ý tưởng ấy trong đầu...
Thằng Câm vọt lên từng bước rất nhanh giữa dòng người nườm nượp trên đường đầy bụi. Một toán dân công đẩy những xe quặng sắt màu nâu từ phía đông đi sang phía tây; một toán dân công khác cũng đẩy những xe quặng cùng loại đi từ tây sang đông. Thăng Câm nhảy vọt, nhảy vọt, đại nhảy vọt giữa đoàn người. Đám dân công nhìn những huy chương trên ngực thăng Câm bằng con mắt kính nể, tự động dừng lại nhường đường cho Thằng Câm tiến lên, khiến Câm ta cảm thấy thỏa mãn tột đỉnh. Hắn chỉ cao đến ngang đùi mọi người, nhưng về tinh thần thì hắn cao vạn trượng, không ai bằng hắn! Từ đó, hắn dùng toàn bộ thời gian ban ngày cho việc đi lại trên đường, uống dăm hớp rượu cho tinh thần phấn chấn, từ đầu mút phía đông nhảy vọt đến tận đầu mút phía tây của con đường. Trong khi hắn nhảy vọt trên đường, thì ở trên giường, ở dưới đất, Hàn Chim và Lai Đệ cũng không ngừng nhảy vọt. Thằng Câm người đầy bụi, hai chiếc ghế nhỏ độn tay mòn hàng tấc, đệm đít cũng bị thủng một lỗ to tướng. Cây cối trong thôn bị đốn sạch, khói đen cuồn cuộn trên cánh đồng. Kim Đồng đi theo đội diệt chim sẻ, tay giơ cao cây sào buộc mảnh vải đỏ gõ phèng phèng, thanh la dồn đuổi chim sẻ từ thôn này sang thôn kia, khiến chúng không có thời gian nghỉ ngơi, ăn uống, cuối cùng rơi xuống đất như những hòn đá. Do tác động của nhiều nhân tố, bệnh tương tư của Kim Đồng đã hết, chứng yếm thực chỉ ăn sữa, cũng khỏi luôn. Nhưng uy tín thì sa sút nghiêm trọng, cô giáo tiếng Nga Hoắc Lệ Na rất thân với cậu thì đã bị qui là phái hữu, đưa đi lao động cải tạo tại nông trường Thuồng Luồng cách trấn Đại Lan năm cây số. Trên đường, cậu trông thấy Thằng Câm, Thằng Câm cũng trông thấy cậu. Hai người giơ tay chào nhau rồi mỗi người đi mỗi ngả.
Những ngày tháng ồn ào, khắp nơi bập bùng ánh lửa trôi qua rất nhanh. Cơn cuồng nhiệt đi qua, vùng Cao Mật bước vào thời kỳ ảm đạm. Một buổi sáng trời mưa tám tã, đại đội trọng pháo gồm mười hai xe tải hạng nặng kéo mười hai cỗ lựu pháo theo con đường nhỏ hẹp phía đông nam kéo vào thị trấn Đại Lan. Khi các xe kéo pháo tiến vào thôn thì Thằng Câm đang vọt từng bước trên đường một cách uể oải vì có bao nhiêu tinh lực đã dốc vào những ngày tháng đại nhảy vọt mắt mờ đục vì uống nhiều rượu. Thân hình hắn răn chắc là thế mà bây giờ nhão ra. Sự xuất hiện đại đội pháo binh, khiến hắn rất phấn chấn, vì vậy, rất không đúng lúc, hắn lết ra giữa đường chặn đoàn xe lại. Đoàn xe bị dừng đột ngột, các binh sĩ trên xe nheo mắt vì nước mưa, nhìn con người quái dị dưới đường. Một sĩ quan nhỏ bé, súng lục bên hông, từ ca bin nhảy xuống, giận dữ quát tháo:
- Đồ khốn, không thiết sống nữa hả?
Vì đường trơn, xe lớn, Thằng Câm lại vọt ra từ một góc chết lái xe không thể nhìn thấy, mà chỉ cảm thấy có một bóng vàng trước mũi xe liền đạp phanh, dù vậy, thanh chắn vẫn va vào đầu thăng Câm, không chảy máu, nhưng sưng lên bằng quả trứng. Viên sĩ quan định mắng nữa, nhưng tim anh ta giật thót khi trông thấy tấm huân chương trên ngực Thằng Câm. Anh ta vội đứng nghiêm, xin lỗi:
- Xin lỗi thủ trưởng, xin thủ trưởng bỏ quá cho?
Thỏa mãn đến cao độ, Thằng Câm lùi lại bên đường cho đoàn xe đi quạ Các binh sĩ trên xe đều giơ tay chào, Thằng Câm cũng giơ tay chào lại bằng cách đặt cạnh bàn tay lên vành mũ rách nát. Đoàn qua xe đi, mặt đường bị cày xới nham nhở. Gió đông bắc ào ào, những hạt mưa thu rơi theo một đường xiên, trắng xóa mặt đường. Những con chim sẻ sống sót nháo nhào tìm chỗ chú mưa. Mấy con chó ướt lướt thướt, cụp đuôi đứng dưới bảng thông tin, đưa mắt nhìn Thằng Câm như chào hỏi.
Đại đội pháo đi qua đánh dấu chấm hết cho những tháng cuồng nhiệt. Thằng Câm buồn rầu trở về nhà. Khi hắn giơ chiếc ghế gõ cổng như thường ngày, cánh cổng tự động mở ra và hắn bỗng nghe thấy tiếng kẹt cửa rõ mồn một. Hắn vốn sống trong một căn buồng tĩnh mịch, nên trong một thời gian tương đối dài, Hàn Chim và chị Lai Đệ vẫn che mắt được hắn. Tất nhiên, mấy tháng vừa qua, phần lớn thời gian hắn ở ngoài phố hoặc bên lò luyện thép, khi trở về nhà thì đã mệt bã ra, ngủ như chết, trời vừa rạng sáng đã lại ra đi, không còn lúc nào ngó đến Lai Đệ. Đây là lý do chủ yếu khiến hắn không phát hiện ra sự gian dâm giữa Lai Đệ và Hàn Chim. Thằng Câm khỏi chứng điếc chỉ có thể cắt nghĩa là do đập đầu vào thanh chăn ô tộ Có lẽ do cú va đập đó, cái vật đút nút lỗ tai hắn văng ra ngoài. Tiếng kẹt cổng khiến hắn giật mình, tiếp đó, hắn ngạc nhiên đến sững sờ khi nghe thấy tiếng mưa rơi lộp bộp trên lá cây trong sân, và còn nghe rõ tiếng ngáy của bà Lỗ trong buồng. Mẹ đã không làm tròn nhiệm vụ: Quên đóng cổng. Điều khiến Thằng Câm càng lạ lùng là tiếng rên rỉ trong khoái lạc của chị Lai Đệ vọng ra từ chái đông.
Hắn đánh hơi như chó săn, ngủi thấy mùi ngầy ngậy trên người Lai Đệ. Rồi với tốc độ cục nhanh, hắn vọt tới chái đông. Nước mưa trong sân thấm ướt mông hắn, khiến hắn cảm thấy hậu môn buốt như kim châm.
Cửa chái đông mở toang, trong buồng thắp một ngọn nến, con mắt Chim Tiên trên bức tranh lấp lánh những tia sắc lạnh. Hắn nhìn ngay thấy cặp chân thon dài, chắc nịch, đầy lông lá của Hàn Chim, cặp chân luôn làm hắn ghen tị, còn cặp mông thì nhún nhảy. Phía trước Hàn Chim là cái mông vổng cao của Lai Đệ, cặp vú lủng lẳng, mái tóc đen xõa trên gối của Hàn Chim, hai tay Lai Đệ không ngừng vò xé chiếc gối và những tiếng rên từ đó bật ra khiến thần kinh hắn lập tức vỡ tung ra như bị chập điện. Hắn gầm lên một tiếng như con thú bị thương, ném mạnh chiếc ghế trong taỵ Chiếc ghế sượt qua vai Hàn Chim đập vào tường, rơi trên gối, ngay bên cạnh má Lai Đệ. Thằng Câm lại ném chiếc ghế còn lại, lần này thì trúng mông Hàn Chim. Hàn Chim ngoảnh lại nhìn Thằng Câm bằng con mắt bốc lửa, nhưng miệng thì mỉm cười đầy vẻ kiêu ngạo. Lai Đệ vội nằm sấp trên giường mà thở rồi kéo chăn che người. Chị nhổm dậy, chửi Thằng Câm:
- Thằng khốn, mi đã thấy rồi đấy!
Thằng Câm hai tay chống đất, trông như một con ếch khổng lồ, rồi chỉ một cái nhún, hắn đã vọt qua ngưỡng cửa, cái nhún thứ hai hắn đã tới trước mặt Hàn Chim, dùng đầu húc ngược một cái thật mạnh. Hàn Chim rú lên một tiếng, hai tay ôm chặt hạ bộ, chưa đầy một giây mà trên mặt mồ hôi đầm đìa. Thằng Câm càng hung hãn, vươn cánh tay dài ngoẵng như vòi bạch tuộc chộp lấy yết hầu Hàn Chim bóp mạnh bằng những ngón tay thép. Hàn Chim từ từ mềm nhũn ra, miệng ngáp như cá bị mắc cạn, mắt đảo tròng, rồi trọn ngược, chỉ còn đầy lòng trắng. Trong con kinh hoàng, Lai Đệ vớ lấy chiếc ghế, cứ lõa lồ như vậy nhảy xuống đất, nện lia lịa vào cánh tay Thằng Câm, nhưng tay hắn chẳng khác hai khúc gỗ lim. Chị nện lên đầu hắn. Đầu hắn như một quả dưa chín, vang lên tiếng bồm bộp. Sau cùng, chị quẳng ghế, vớ lấy thanh chặn cửa phang một nhát vào giữa định đầu hắn. Hắn hực lên một tiếng nhưng vẫn giữ nguyên tư thế cũ, chị bồi thêm một nhát nữa, Thằng Câm mới nhả Hàn Chim ra, rớt xuống đất như một chiếc chum trong khoảnh khắc rồi đổ kềnh. Thân thể Hàn Chim mềm nhũn rơi đè lên Thằng Câm.
Cuộc chiến trong gian chái đánh thúc mẹ dậy. Mẹ xỏ giày chạy ra cửa, nhưng mọi chuyện đã kết thúc. Mẹ đau khổ khi nhìn thấy Lai Đệ không mảnh vải trên người, ngồi rũ rượi bên khung cửa. Chị quẳng thanh chặn cửa, đờ đẫn đi ra sân, mưa rơi chênh chếch, những giọt mưa nối đuôi nhau lăn trên người chị như những dòng nước mắt. Bàn chân chị dẫm nhem nhép trên các vũng nước đọng đục ngầu. Chị ngồi xổm bên chậu, khỏa tay rửa sạch máu.
Mẹ cố sức lôi Hàn Chim đứng dậy, tì bờ vai vào nách anh ta, dìu anh ta lên giường. Mẹ mở chăn, ngán ngẩm đắp cho anh tạ thấy anh ta rên lên một tiếng thì biết rằng người anh hùng huyền thoại này đã sống lại. Mẹ cúi xuống dựng Thằng Câm ngồi dậy, phát hiện ra hai dòng nước đen đen chảy ra từ hai lỗ mũi của hắn, đưa tay thử thấy hắn đã tắt thở. Cái xác Thằng Câm không đổ vẫn giữ nguyên tư thế ngồi.
Mẹ quệt ngón tay dính máu lên tường rồi dở ngây dở dại đi về giương mình, để nguyên cả quần áo mà nằm xuống. Từng chuyện của Thằng Câm khi còn sống lướt qua trước mặt mẹ. Nhớ lại quang cảnh Thằng Câm cầm đầu mấy đứa em xưng hùng xưng bá một thời, mẹ bật cười mỉa. Ngoài sân, Lai Đệ rửa tay hết lần này đến lần khác bằng xà phòng. Bọt xà phòng chảy đầy sân. Buổi chiều, Hàn Chim một tay che cổ họng, một tay che hạ bộ bước ra sân rồi ôm choàng lấy Lai Đệ. Lai Đệ Ôm chặt cổ anh ta, cười khanh khách như hóa dại.
Sau đó, viên sĩ quan môi đỏ hồng, bê một hộp quà trên phủ tờ giấy hông điều, đến cùng Bí thư Khu ủy bước vào sân. Họ gọi, không có tiếng trả lời, Bí thư Khu ủy liền dẫn viên sĩ quan vào phòng mẹ.
- Chào bác! - Bí thư Khu ủy nói - Đây là Đại đội trưởng đại đội lựu pháo đến thăm đồng chí Tôn Bất Ngôn.
Đại đội trưởng Tống vẻ mặt áy náy, nói:
- Thưa bác, rất không phải với gia đình về chuyện xe của chúng tôi đụng phải đầu đồng chí Tôn Bất Ngôn?
Mẹ ngồi bật dậy, hỏi: - Chú nói gì cơ?
Đại đội trưởng Tống nói: - Xe chúng tôi... đương quá trơn... đã đụng phải đầu đồng chí Tôn Bất Ngôn, bị sưng lên một cục...
Mẹ khóc to:
- Về nhà, làm ầm lên một trận, chết rồi?
Đại đội trưởng Tống mặt trắng bệch: - Bác ơi, chúng tôi đã đạp phanh, nhưng đường trơn quá?...
Khi pháp y đến khám thi thể, chị Lai Đệ quần áo chỉnh tề, vai đeo một bọc nhỏ, nói với mẹ: - Mẹ, con đi đây chuyện phải như thế nào thì cứ phải như thế, không thể để các chú bộ đội bị Oan.
Mẹ nói:
- Con nói với Tòa là xưa nay đã có qui định, với người đang mang thai thì đẻ xong mới...
Lai Đệ nói: - Con hiểu, chưa bao giờ con hiểu rõ mọi việc như lúc này!
Mẹ nói: - Mẹ sẽ nuôi đứa bé!
Lai Đệ nói:
- Mẹ Ơi, vậy con không còn vương vấn gì nữa!
Chị bước ra sân, nói vọng vào chái đông: - Không cần khám nghiệm làm gì, chính tôi đập chết hắn, lúc đầu dập bằng ghế, sau đó bằng thanh gỗ chặn cửa, đó là lúc hắn đang bóp cổ Hàn Chim
Hàn Chim xách một xâu chim bước vào sân, nói:
- Chuyện gì thế này? Thằng cha vô tích sự đã chết rồi hả? Chính tôi dập chết hắn đấy!
Công an xích tay Hàn Chim và Lai Đệ dẫn đi. Năm tháng sau, một nữ công an đem đến nhà một đứa bé trai gầy gò như con mèo hen, và bảo mẹ rằng, ngày mai Lai Đệ sẽ bị hành quyết, gia đình có thể nhận xác, nếu không, sẽ đưa vào bệnh viện giải phẫu. Người nữ công an còn cho mẹ biết Hàn Chim bị xử tù chung thân, nơi thi hành án là bồn địa Talimu, cách Cao Mật hàng vạn dặm. Trước khi đưa đi, gia đình có thể đến thăm.
Kim Đồng vì làm gãy một cây con trong vườn trường, bị đuổi học. Sa Tảo Hoa phạm tội cắp vặt, bị đoàn kịch sa thải.
Mẹ nói:
- Chúng ta phải đi nhận xác Lai Đệ về! Sa Tảo Hoa nói:
- Ngoại ơi, dùng nhận làm gì!
Mẹ lắc đầu, nói:
- Nó chỉ phạm tội bị một phát đạn, không phạm tội trăm nhát dao phanh thây.
Hôm xử bắn Lai Đệ, có không dưới mười vạn người đến xem. Một chiếc xe tù chở Lai Đệ đến chân cầu Đoạn Hồn, kẻ đồng phạm là Hàn Chim cũng bị giải đến. Để phòng ngừa phạm nhân nói bậy, nhân viên thi hành án chụp lên miệng chị một dụng cụ đặc biệt để không nói được
Sau khi Lai Đệ bị hành quyết không lâu, gia đình Thượng Quan lại nhận được thông báo về Hàn Chim: Trên đường đi phát vãng, anh nhảy tàu, bị bánh xe nghiến thành hai đoạn.