Cái Cười Của Thánh Nhân - Nguyễn Duy Cần
Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần
Chương 1 - Trào Lộng U Mặc Là Gì?
Một nhà văn tây phương có viết:
"Tình yêu là một vị thần bất tử,
U mặc là một lợi khí,
Cười là một sự bổ ích.
Không có ba cái đo,ù không đủ nói đến văn hóa toàn diện" Cười
đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn... đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn... mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác... theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình... đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào.
Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã "cười to" với câu nói bất hủ này: "Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!"
Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu "u mặc đại sư" có nói: "U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện".
U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là "văn minh nhất" lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời.
Nhà văn họ Lâm cho rằng: "Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái "trống không" của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên:
Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế...
Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi!
Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc.
Nhưng phải đợi đến nhân vật chủ não là Trang Châu xuất hiện, mới có được một thứ văn chương nghị luận ngang dọc... mở ra cho người đời một thứ tư tưởng và văn học u mặc hẳn hòi. Trang Tử là thủy tổ của văn học Trung Hoa.
Các tung hành gia như Quỷ Cốc Tử, Thuần Vu Khôn... điều là những nhà hùng biện trào lộng thật, nhưng vẫn chưa kịp phong thái u mặc thượng thừa của Trang Châu...
Nền văn Trung Hoa với "bách gia chư tử" đã phát triển rất mạnh. Người ta nhận thất rõ ràng có hai luồng tư tưởng khác nhau xuất hiện: Phái cẩn nguyện (Lấy lễ, nhạc, trang nghiêm, cung kính và nghị luận tuyệt đối một chiều làm chủ yếu), và phái siêu thoát (lấy tự do phóng túng, trào lộng u mặc, nghị luận dọc ngang làm yếu chỉ). Trong khi phái cẩn nguyện cúc cung tận tụy phó vua giúp nước, chăm chăm lấy sự "sát thân thành nhân", "lâm nguy bất cụ" làm lẽ sống, nhưng nhóm đồ đệ của Mặc Địch hay nhóm cân đai áo mão đồ đệ của Khổng Khâu, thì phái siêu thoát lại cười vang... cho bọn khép nép chầu chực ở sân rồng còn kém xa "loài heo tế", hoặc già như nhóm đồ đệ của Dương Chu, nhổ một sợi lông chân mà đổi lấy thiên hạ cũng không thèm, hoặc coi nhân nghĩa như giày dép rách, xem lễ là đầu mối của loạn ly trộm cướp...
Phái Nho gia có thuyết tôn quân nên bị nhà cầm quyền khai thác lợi dụng, nhân đó mà có bọn hủ nho xuất hiện, được nhóm vua chúa nâng đỡ đủ mọi phương tiện.
Nhưng, dù bị đàn hạc, bị bức bách đủ mọi hình thức, văn học u mặc chẳng nhưng không bị tiêu diệt lại còn càng ngày càng mạnh. Đúng như lời Lão Tử: "Tương dục phế chi, tất cố hưng chi". Cũng như văn trào lộng của nước Pháp ở thế kỷ mười tám sở dĩ được phát đạt một thời với những ngòi bút trào lộng bất hủ của Voltaire và Rousseau, phải chăng là "nhờ" nơi cái nhà ngục Bastille mà được vừa tế nhị, vừa rực rỡ! "Họa chung hữu phúc" là vậy!
Nguồn tư tưởng phóng khoáng của Đạo gia quá to rộng như đại dương, không sao đụng được trong những ao tù nhỏ hẹp, nó vượt khỏi thời gian không gian, ôm chầm vũ trụ, siêu thoát Âm Dương... không ai có thể lấy ngao mà lường biển. Cho nên tư tưởng Trung cổ về sau, dù đại thế của Nho gia được đề cao và chiếm địa vị độc tôn, cũng không làm sao ngăn trở nó được. Văn khí của u mặc hồn nhiên mạnh mẽ như giông to gió lớn, trước nó không một chướng ngại vật nào có thể đứng vững.
Huống chi người Trung Hoa trí thức nào cũng có hai tâm hồn: Bên ngoài là một ông Khổng, bên trong là một ông Lão. Nho Lão cùng ở trong một người mà không bao giờ nghịch nhau. Hạng trung lưu, không một người Đông phương nào, cả Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam mà đọc lên bài "Quy khứ lai từ" của Đào Uyên Minh lại không biết thích thú, nhất là hạng người say mê trong con đường nhập thế. Ngày có làm, thì đêm phải có nghĩ, đó là định luật của thiên nhiên: "Nhật hạp nhật tịch vị chi biến". Văn học u mặc là "mở", văn học cẩn nguyện là "đóng", nghĩa là khép kính trong vòng tiểu ngã, trong các giáo điều luân lý tôn giáo, nguồn gốc sinh ra không biết bao nhiêu việc nhỏ nhen ích kỷ và giả dối.
Văn học Trung Hoa, ngoài thứ văn học lăng miếu trong triều đình không kể, còn điều là thứ văn học rất đắc thế cho tư tưởng u mặc.
Văn học trong miếu, thực ra, chưa đáng kể là văn học, vì nền văn học có linh tính chân thật phải đi sâu vào tâm tư con người để khám phá và cởi mở những khác vọng thầm kính của nó mà ước lệ giả tạo của xã hội cấm đoán. Để hòa đồng với thiên nhiên phải tránh xa lối văn nhân tạo. Đó là đặc điểm đầu tiên của u mặc.
Ở Trung Hoa, nếu chỉ có nền văn học cẩn nguyện của Nho gia đạo thống mà thiếu nền văn học u mặc của Đạo gia, không biết văn học Trung Hoa sẽ cằn cõi khô khan đến bậc nào, tâm linh người Trung Hoa sẽ sầu khổ héo hắt đến chừng nào!
Nhận xét trên đây của nhà văn họ Lâm rất đúng, không riêng gì cho Trung Hoa mà cho tất cả mọi nền văn học trên khắp địa cầu. Nhà văn Chamfort có viết: "Triết lý hay nhất là hỗn hợp được sự vui đời mà trào lộng chua cay với sự khinh đời mà độ lượng khoan hòa"
U mặc là ngọn thanh phong trong những buổi trưa hè oi ả... của cuộc đời!
Khổng Tử đi hỏi lễ Lão Tử. Lão Tử nói: "Lời nói của ông là lời nói của những kẻ nay đã xương tàn cốt rụi. Vả, người quân tử đắc thời thì đi xe, không đắc thời thì tay vịn nón lá mà đi chân. Ta nghe rằng kẻ buôn giỏi khéo giữ của quý như không có gì, người quân tử đức thạnh, dung mạo như người ngu. Họ khác với cái kiêu khí và đa dục của ông. Thái sắc ấy và dâm chí ấy không ích lợi gì cho ông cả! Ta sở dĩ báo cho ông biết có bấy nhiêu thôi".
Đoạn văn trên đây của Tư Mã Thiên nói về Lão Tử và Khổng Tử, có cái ý vị trào lộng mà chua cay của người thời chiến quốc đối với hạng người thích làm thầy đời, chưa thể là văn u mặc thượng thừa. Phái siêu thoát, nếu lại nhập vào dòng yếm thế và phẫn thế, sẽ mất lần đi cái tinh thần chân chính của u mặc. Căn cứ vào tiêu chuẩn này, ta có thể nhận thấy rằng sách của Trang Tử gồm cả thảy ba mươi ba thiên, nhưng chỉ có nội thiên là toàn bích, phản ảnh đúng tinh thần u mặc thượng thừa của Trang Châu mà thôi. Các thiên chương khác, cũng có một số mà giọng trào lộng không kém Trang Châu, nhưng lại có giọng chua cay phẫn the (có thể do các tay Trang học, đạo theo lối văn u mặc của Trang), nên kém xa thần thái siêu thoát của Trang, như ở Thiên đạo chích chẳng hạn.
Khổng Tử lắm lúc cũng tỏ ra tinh thần u mặc: Sau một thời gian bôn ba thuyết khách, cốt đem đạo học truyền bá cho hàng đế vương mà không thấy ai biết dùng đạo mình, bèn than: "Dư dục vô ngôn. Thiên hà ngôn tai!". Rồi khi bị dồn vào thế kẹt, lại trào lộng tự bảo "tri kỳ bất khả nhi vi chi!!"
Bởi vậy, điều mà ta thích ở Khổng Tử, đâu phải lúc ông thiếu thời, sớm được thành công, đầy hăng say và tiểu khí ra tay giết Thiếu Chính Mão, mà chính ở vào lúc liên miên thất bại nhưng không mất vẻ trào lộng, thời mà ông không muốn chỉ "làm trái bầu treo lủng lẳng mà không ăn được!!". Vậy mà bọn hủ nho chỉ biết thích thú vỗ tay hoan nghênh cái ông Khổng Tử giết Thiếu Chính Mão, mà không biết thích cái ông Khổng Tử, vời cái cười trào lộng, khen cái chí của Tăng Điểm " Tắm sông Nghi, hứng gió ở nền Vũ Vu, trên đường về, cùng nhau nắm tay ca hát!" Nghĩa là họ chỉ biết thích cái ông Khổng bên ngoài của ông Khổng, mà không biết thích cái ông Lão ở bên trong của ông Khổng, cái ông Khổng "tòng ngô sở hiếu"!
Về sau Mạnh Tử cũng còn giữ được cái tính chất khôi hài khi ông " vượt bức tường đông để ôm chầm người con gái", điều mà bọn sĩ phu về sau không bao giờ dám hở môi.
Đến sau này, bọn hủ nho lại càng ngày lại càng kém, không đủ để bàn đến. Ngay như Hàn Phi Tử, tuy có tính cách trào lộng, nhưng lại thiếu sự nhẹ nhàng tự nhiên, nên cũng không sao theo kịp u mặc. Đến như bọn Đông Phương Sóc, Mai Cao đều chỉ là hạng người hoạt kê trào phúng, chưa có đủ bản sắc u mặc thượng thừa.
Mãi đến Vương Bật, Hà Án với tinh thần phóng khoáng của lão Trang, lại thêm có nhóm Trúc Lâm thất hiền tiếp tục khởi xướng, nên mới mở ra được cái phong thái thanh đàm, quét sạch được cái khí vị nặng nề móc meo của hủ nho thời ấy.
Trong cái không khí tự do đó, tư tưởng đời Chu Tần được cơ hội khai phóng, biến thành một phong trào hoạt đàm tự thích, như cây cỏ được cái nắng mùa hạ mà xum xuê, để rồi tiến sâu vào cảnh vật mùa thu. Kết quả là cuối đời Tấn, một nhà thơ trào lộng u mặc thành thục Đào Tiềm xuất hiện. Theo nhà văn họ Lâm, thì "cái vẻ đạm bạc tự thích của Đào Tiềm không giống cái vẻ cuồng phóng của Trang Châu, cũng không có cái bi phẫn của Khuất Nguyên"
So sánh bài " Quy Khứ Lai Từ" của Đào Tiềm với các bài "Bốc cư", "Ngư phụ" của Khuất Nguyên, tuy điều là những bài văn cao quý như hoa thơm cỏ lạ, nhưng văn họ Đào không có cái hồn âm kịch liệt và ai phẫn của Khuất Nguyên.
Họ Đào, như họ Trang, đều chủ trương về với tự nhiên, nhưng đối với thế tục, Đào không có cái bén nhọn như Trang. Đào không chịu " khom lưng, quỳ lụy vì năm đấu gạo" mà thương xót cho mình quá ngu dại vì miếng ăn đem đổi nhân phẩm của mình, còn Trang sinh thì lại cười vang cho bọn bon chen theo danh lợi không hơn gì bò lợn được dưỡng nuôi để mà xẻ thịt!
Nói thế, đâu phải chê Trang mà khen Đào, là vì, sự thật, có nhiều thứ u mặc: U mặc trong thi ca tự thích thì Đào là thủy tổ, mà u mặc trong văn nghị luận thì Trang là tối cao. Bản chất của thi ca là nhẹ nhàng thanh nhã, cho nên Đào rất ôn hòa là cái lẽ nó phải vậy. Họ Lâm cho rằng Trang Tử là thứ u mặc thuộc dương tính, còn Đào Tiềm là thứ u mặc thuộc âm tính: Khí chất khác nhau mà thôi.
Người Trung Hoa chưa nhận thức rõ ràng ý nghĩa sâu xa và vai trò quan trọng của u mặc nên cho rằng u mặc cũng đồng nghĩa với hoạt kê trào phúng, khiến nên u mặc bị kẹt trong một phạm vi hoạt động co hẹp.
Sau Trang Tử, văn chương u mặc có tính khí ngang tàng không thấy tiếp tục xuất hiện nữa. Là vì những tư tưởng phóng dật ấy bị thế lực đạo thống của Nho gia và quyền uy của vua chúa áp đảo. Trong khoảng hai ngàn năm người viết văn nghị luận đều phải theo đòi thánh hiền còn kẻ sĩ cầm bút cũng chỉ múa may trong vòng Khổng Miếu. Nếu có thứ văn nghị luận nào mới mẻ, kiến giải có hơi siêu phàm thoát tục liền bị coi là phản lại đạo đức, biện ngôn hay ngụy thuyết. Thậm chí bọn đại sĩ phu còn quy cho Hà Án, Vương Bật về tội xúi giục thối lan tràn của Kiệt Trụ, làm cho nhân nghĩ bị chìm đắm, nho phong mờ mệt, lễ nhạc băng hoại. Sở dĩ nước Trung Hoa điên đảo, họ cũng đều quy tội cho u mặc gây ra. Vương Lạc thanh đàm, vậy mà bọn hủ nho cho đó là triệu chứng diệt vong của nước tấn. Sự thanh đàm còn chẳng được chấp nhận, thì còn ai dám chủ trương nói đến chuyện " tuyệt thánh, khí chí", " tuyệt nhân, khí nghĩa!"
Các hủ nho có thể đem vứt bỏ văn học u mặc ra ngoài văn chương lăng miếu, mộ bia, nhưng không thể vứt nó ra khỏi cuộc sống của con người, vì u mặc là phần đặc biệt và quan trọng nhất của đời người. Dù là trong sinh hoạt của các nhà đại nho, dù học là những người sáng tạo ra văn học cần nguyện trang nghiêm đạo mạo bậc nào, trong những khi cùng bạn hữu đàm đạo, há chẳng có những lúc cười đùa châm chọc nhau sao? Chính những phút ấy là những giấy phút thần tiên, tâm hồn cởi mở và sống thật. Chỗ khác biệt giữa văn học cẩn nguyện và văn học u mặc là văn cẩn nguyện thiếu cái "ướt át" của u mặc mà thôi.
Trong nền văn học Việt Nam, mà thiếu văn chương lãng mạn u mặc của ca trù, thử hỏi còn có cái gì là tự do sinh khí nữa! Vậy mà bọn đạo đức giả nước ta không ngớt lên án là thứ văn chương du hí và vong quốc! Người ta đã kém thành thật đối với mình.
Chương 2 - Những Yếu Tố Chính Của U Mặc
Chương 2 - Những Yếu Tố Chính Của U Mặc
U Mặc Và Bất Ngờ
Yếu tố quan trọng nhất của văn u mặc là sự bất ngờ, nghĩa là không thể dự liệu trước được.
Sứ mạng của u mặc không phải là ru ngủ với những tập quán, thành kiến cố hữu của con người, mà cốt là thức tỉnh con người bằng nghịch thuyết, một cách tự nhiên và đầy nhân ái.
Phàm việc gì trên đời, có "cùng" mới có "biến", mà có "biến" mới có "thông" như Dịch Kinh đã dạy. Và sự biến ấy là một sự đột biến do sự tiệm biến lâu ngày... Nhờ vậy mới có chỗ "thông". Thông, tức tiếng cười của ta đó.
Tâm tư con người bị trói buộc trong vòng lễ giáo chật hẹp quá, luật pháp và cấm kỵ bủa giăng, phong tục, tập quán và thàng kiến bao vây nghiêm nhặt quá, cho nên văn chương u mặc mang lại sự cởi mở bất ngờ như ngựa thoát yên cương, mới phát ra được tiếng cười chiến thắng: Cái cười "cởi mở" phá lao lung.
Định nghĩa về "cái cười", Marcel Pagnol, trong thiên tiểu luận "Notes sur le Rire" cũng nhận xét đại khái sau đây:
1. Cười là tiếng ca đắc thắng. Nó là biểu hiện của một sự cao cả tạm thời, đột nhiên bị khám phá ra được nơi người cười đối với người bị chế nhạo.
2. Cười có hai thứ, rất kiên quan mật thiết với nhau như hai đối cực của quả địa cầu. Có cái cười tích cực: Tôi cười vì tôi cao hơn anh, cao hơn tất cả thiên hạ hay cao hơn tôi lúc trước. Lại cũng có cái cười "tiêu cực", cái cười gắt gỏng chua cay, cái cười buồn bã, cười về chỗ thấp kém của kẻ khác, cái cười khinh bạc ngạo nghễ đối với người thất thế, cái cười trả thù và hằn học: Tôi cười, không phải vì tôi đắc thắng vinh quang hơn anh, mà tôi cười sự thất bại tủi nhục của anh.
3. Giữa hai cái cười ấy, còn có một thứ cười toàn diện gồm cả hai thứ cười tích cực và tiêu cực.
Để chứng minh, Pagnol đưa ra một thí dụ điển hình về tiếng cười vang của dân lành thành Paris bị quân Đức chiếm đóng, ngày Lecterc dẫn binh nhập thành. Người dân Pháp cười lăng cười lóc, cười đến nước mắt ràn rụa, vì nước Pháp đã được giải phóng và được hoàøn lại địa vị của mình trước vạn quốc. Họ cười sự chiến thắng của mình, mà cũng cười sự chiến bại của quân địch.
Định nghĩa của M. Pagnol, trên đây kể ra cũng đã khám phá được một phần khá lớn cái mật nhiệm của tiếng cười là giải phóng được tâm tư bị mặc cảm tự ty dồn ép đến tận cùng.
Bergson cũng định nghĩa tiếng cười cách khác: Hài hước là đem "hình thức máy móc mà trồng lên sự sống" (du mécanique plaqué sur du vivant). Thuyết ấy khá hay. Nó cũng không nghịch với Pagnol, mà còn chứng minh một cách rõ ràng hơn là khác.
Thật vậy, những cử động của thân thể con người mà gợi cười là khi nào nó không cử động được một cách tự nhiên nữa, mà chỉ hoạt động một cách máy móc, như những hình nộm bị giật dây. Cái khía cạnh đạo mạo và long trọng của đời sống xã hội hằng ngày luôn luôn có ẩn bên trong một cái gì lố bịch, hài hước. Một cuộc lễ trao giải thưởng, một phiên tòa án thường dễ trở thành hài hước khi mà người ta đã quên phần chính mà chỉ chú trọng đến những phần phụ thuộc, những hành động máy móc hình thức. Những sự méo mó của nghề nghiệp thường làm cho ta tức cười, những trường hợp các nhân viên nha quan thuế, sau khi lội xuống biển cứu xong những kẻ bị đắm tàu, quen miệng hỏi: "Các anh không còn gì khai nữa chăng?"
Bất cứ một cá nhân nào hành động như cái máy ở trước mặt ta, phải chăng tự họ đã tỏ ra thấp kém hơn ta nhiều, còn ta đã trở thành một tâm hồn tự do không bị xã hội biến thành một dụng cụ vô hồn.
Cũng nên nói qua về một công dụng khác của văn chương trào lộng: "nói tục". Tục... mà thanh. Cái đó mới khó.
Cái mà xã hội gọi là phạm đến" thuần phong mỹ tục" phải chăng thực sự là những tội lỗi mà ở trong xã hội tự nhiên không có gì gọi là tội lỗi cả! Đó là những thỏa mãn, tự nhiên của con người, nếu bị cấm đoán sẽ bị dồn ép. Ở những xã hội tự nhiên, các sự thỏa mãn nhu cầu tự nhiên không thấy gì đáng cười cả, trái lại, ở những xã hội văn minh giả tạo, thì đó là những câu chuyện buồn cười! Nhà văn Lâm Ngữ Đường cho rằng: "Kẻ giỏi về hoạt kê, là kẻ nói lên được những cái hợp tình hợp lý ngoài dự liệu của mọi người. Và nó sẽ là những lời của kẻ khác không dám nói (...). Do đó, hoạt kê đổi sang "nói tục", vì "nói tục" cũng có tác dụng buôn thả cởi mở sự bị ức chế trong tâm tư. Và trong hoàn cảnh tương đương như vậy, lời "nói tục" cũng hợp với tinh thần khang kiện (...). Bởi vậy ta thường thấy nhiều ông bà thời thường hết sực đoan trang đạo mạo, khi nóng giận bực tức việc chi, hay "văng tục" khinh khủng!
Ngày xưa, bên Trung Hoa, Thuần Vu Khôn đáp lời của Tề Uy Vương: "Hạ thần uống một đấu cũng say, mà uống một thạch cũng say!"
Uy Vương hỏi:
- Uống một đấu cũng đã say rồi, thì làmsao uống được một thạch?
Thuần Vu Khôn đáp:
- Khi hầu cận bên hoàng thượng, thì chỉ uống một hai đấu là đã say nhừ rồi! Nhưng, nếu khi ngồi lộn xộn với đám trai gái, nắm lấy tay không phạt, liếc mắt không cấm, trước rời hoa tai sau lỏng cài trâm... thì có thể uống tới tám đấu mới chịu say. Cũng như khi trời chiều rượu cạn, cùng tôn kính nhau mà ngồi sát bên nhau, trai gái đồng tịch, giày dép lộn xộn ngổn ngang, trên nhà nến tắt, chủ nhân giữ Khôn lại và màn mở tung ra, nghe hơi hương nồng thắm, trong lúc ấy Khôn quá vui thích, có thể uống cả một thạch!
Trương Vương vẽ mày cho vợ, bị nhà vua cật vấn, trả lời: "Trong khoảng buồng the, việc vợ chồng há chỉ có vẽ chân mày mà thôi đâu!" Đó là hoạt kê, khiến người ta cười, nhất là khi có sự cấm kỵ không nên nghe, mà lại nói ra được một câu hợp tình hợp lý không chối cãi.
Tương truyền có một người đến hỏi một đạo sĩ về thuật trường sinh bất lão. Đạo sĩ bảo phải tiết dục, ăn sương nằm gió, xa lánh đàn bà, cấm ăn cao lương mỹ vị... thì mới có thể trường sinh.
Người ấy nói:
- Như thế thọ đến nghìn năm cũng chả có ích gì! Thà chết yểu còn hơn!
Cái cười như đã định trước đây, là do sự khác biệt về địa vị, về giai cấp sang hèn trong xã hội.
Những rủi ro bất ngờ xảy ra cho những kẻ có một địa vị cao cả, tôn nghiêm dễ làm cho người dân đen cười lắm. Người khùng, không ai cười, mà một vị vua chúa, cao sang tôn quý lại rủi ro khùng khịu, nói lắp. Nói ngọng... sẽ làm cho thiên hạ cười vang.
Cũng như một cái lỗi chính tả, đối với thí sinh tiểu học không làm gì cho người ta cười được, vì cười nó đâu có chứng tỏ sự tài giỏi của ta hơn nó đâu. Trái lại, nếu là một ông giáo sư mà viết sai chính tả, sẽ làm cho học trò cười lên một cách sung sướng.
Chế giễu bọn người nhiều may mắn, nhiều uy quyền, nhiều tài hoa hơn thiên hạ là giúp cho đám người vô thiếu may mắn, thiếu uy quyền, thiếu tài hoa... cảm thấy trong một thời gian ngắn, cao hơn những hạng người trong thực tại cao sang tài giỏi hơn họ kia. Làm cho họ cười là giúp cho họ một cơ hội nhỏ bé và tạm thời lấy lại chút ít lòng tự tin đã mất, trước những thực tế phũ phàng.
Bởi vậy, những vở hài kịch, nhiều ít, đối với số đông khán giả, là một liều thuốc bổ, nâng đỡ tinh thần trong cuộc sống vất vả hàng ngày. Đối với những bệnh nhân vì nản chí, chán chường, mệt mỏi... cười quả là một liều thuốc bổ. Marcel Pagnol bảo rằng: Cười, làm tăng hồng huyết cầu, vì nó làm cho lá lách ta nở lớn hơn. Ông lại còn cho rằng: Những kẻ không còn cười nữa vì những lý do bên ngoài, lần lần sẽ mất sinh lực, mất cả sự nhanh nhẹn và mất cả lòng nhân ái.
Chính vì những lời lẽ nói trên mà ta thấy phần đông người dân rất thích đọc những bài văn chửi người, những bài thơ ngang, trào lộng châm biếm. Người ta không bao giờ cười đối với kẻ mà ta khi, nhưng sẽ cười những chở sơ hở của những kẻ hơn ta về nhiều phương diện. Người ta đâu có cười kẻ si tình tầm thường trong dân gian, mà cười lăn ra khi gặp phải một ông sư cụ mà lại tương tư:
"Sư đang tụng niệm nam mô!
Thấy cô xách giỏ mò cua bên chùa.
Lòng sư luống những mơ hồ,
Bỏ cả kinh kệ, tìm cô hỏi chào
Ai ngờ cô đi đường nào,
Tay cầm tràng hạt ra vào ngẩn ngơ!
Ba cô đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thắm bỏ chùa cho sư.
Cô về, sư ốm tương tư,
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu!
Ai làm cho dạ sư sầu,
Cho ruột sư héo như bầu đứt dây!"
Cái cười trên đây, là cười sự sút kém của kẻ khác.
Bên La Mã ngày xưa, trong những ngày lễ chiến thắng, người ta cho phép các binh sĩ được quyền chế nhạo những vị anh hùng đã lập được chiến công oanh liệt... là để hạ bớt lòng tự kiêu, tự đắc rất có hại cho những kẻ thắng trận.
Những điều nói trên đây, có thể làm sáng tỏ phần nào nguồn gốc và tính chất của tiếng cười nói chung, nhưng đều là những loại hoạt kê uẩn ức theo cơ trí, thú trào lộng châm biếm của những tâm hồn còn phẫn thế.
Một bài văn trào lộng u mặc không phải như vậy. U mặc là châm biếm, nhưng châm biếm một cách tự nhiên và đượm màu ưu ái.
U Mặc Và Tự Nhiên
Đặc điểm thứ hai của văn u mặc là tự nhiên. Đọc văn u mặc thượng thừa, ta không cảm thấy làm văn, không thấy sự đẽo gọt. Đơn giản và tự nhiên là chỗ cao tột của nghệ thuật và u mặc.
U mặc là khách quan mà nhìn xem sự thế, còn cơ kính là chủ quan, bóp tròn bẻ méo việc đời để tha hồ vu khống xuyên tạc. U mặc thì hư không, có mùi lạt lẽo, còn phúng thích thì chua cay và bén nhọn.
Viết văn u mặc phải có được một tấm lòng thản nhiên vô tư, nhìn xem thế sự có chỗ vui thích tự nhiên rồi dùng ngọn bút khinh khoái mà mô tả không thấy có gì ngượng nghịu, trở ngại, không gò ép, không lo sợ, không cầu được có kẻ tán thành cũng không sợ có người chỉ trích.
Du khách viếng chùa Hoàng Bích bên Nhật đều không ngớt trầm trồ bức hoành viết ba chữ "Thắng Nghĩa Đế" bằng đại tự, khắc ở cổng chùa.
Tương truyền ba chữ ấy do hòa thượng Kosen viết, cách đây lối hai trăm năm. Hòa thượng bắt đầu viết thử trên giấy rời. Bên cạnh, có một chú tiểu ngồi lo mài mực vừa chê khen. Viết lần đầu, chú tiểu chê xấu. Lần sau chú lại cũng chê xấu. Hòa thượng kiên nhẫn thử đến tám mươi tờ giấy. Chú tiểu cũng kiên nhẫn chê đến tám mươi tám lần.
Chú tiểu có việc ra ngoài
Hòa thượng cảm thấy nhẹ nhàng vì đã thoát khỏi cặp mắt quá quắt của chú tiểu, bèn múa bút, viết một hơi... quên mình, quên chú tiểu, quên cả chung quanh.
Viết vừa xong, thì chú tiểu trở vào.
Chú nhìn đứng sửng một hồi, khen:
- Thật là tuyệt bút!
Tóm lại, văn u mặc, tuy có nhiều hình thức cao thấp khác nhau, nhưng tựu trung đều có ngọn bút nhẹ nhàng, đều lấy tự nhiên là chủ yếu.
Cái u mặc sở dĩ khác với văn chương du hí của Trung Hoa, là không hoang đường, vừa trang trọng vừa hài hòa phát xuất tự chỗ tự nhiên để bàn đến nhân tâm thế sự và tuyệt đối không bao giờ thấy có giọng hề.
Đọc văn u mặc không bao giờ thấy sự cố cưỡng gò ép tử tư tưởng đến văn từ. Trên con đường nghị luận ít có sự ràng buộc, cho nên vui buồn, thương ghét đều phát xuất một cách chân tình. Văn u mắc khác văn trào lộng châm biến ở chỗ kín đáo của nó, thường thì chỉ nhận ở khóe mắt hơn nụ cười cửa miệng.
U mặc có nhiều thứ, có nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo Tây phương thường lại có ý nghĩa bao quát tất cả những gì khiến cho người ta cười, trong đó có những cái cười thô tục, bỉ lậu... Theo nghĩa hẹp, thì u mặc khác xa châm biếm cười đùa. Trong cái cười, có nhiều cách, như cười chua, cười đắng, cười nhạt, cười điên, cười nụ, cười vang... Lại cũng có cái cười lập đức... Nhưng trong tất cả mọi thứ cười, cái cười u mặc là một thứ cười hồn nhiên phát tự một trí huệ tuyệt vời, một tâm hồn siêu thoát, nặng về tình cảm nhẹ nhàng.
Tây phương bàn về u mặc có Aristote, Platon, Kant, nhưng đại để giống với Aristote, cho rằng: Cười, là lâm vào tình trạng khẩn trương đang đợi sự biến đổi thình lình. Tức là chỗ mà Dịch Kinh bảo: "Cùng tắc biến"
Freud, có đưa ra một dẫn chứng rất lý thú: "Một hôm có người bạn nghèo, đến người bạn giàu vay một số tiền. Hôm sau, anh nhà giàu gặp người bạn mượn tiền đang ngồi tại quán ăn trước một món ăn rất sang. Anh bạn giáu đến trách:
- Anh vừa mượn tiền của tôi, lại rồi ra đây ăn uống sang thế à! Vậy, thì anh mượn tiền để đi ăn ngon sao?
Người bạn nghèo đáp:
- Tôi không hiểu anh muốn nói gì cả. Tôi không tiền, nên không thể nào thưởng thức được món ăn ngon này. Vậy khi có tiền, lại cũng không được ăn món ngon này, vậy xin hỏi anh, đến chừng nào tôi mới được ăn món ngon này?
Anh nhà giàu cười, vỗ vai anh bạn nghèo rồi bỏ đi.
Trong khi anh bạn giàu hỏi, tình trạng thật là khẩn trương. Đến khi nghe câu trả lời của người bạn nghèo, thì tình trạng căng thẳng trong tâm tư bèn được giải tỏa, nhẹ nhàng thư thái... Cười, có cái tác dụng giải phóng thần kinh là vậy. "Bí ẩn tắc thông" là thế, như Dịch Kinh đã nói.
U mặc mà càng được bao trùm rộng rãi ra thế nhân bao nhiêu càng lại được nhiều kẻ đồng tình bấy nhiêu, bởi vì trong đám người nghe không ai thấy là chính cá nhân mình bị chỉ trích. Cho nên u mặc mà cao là khéo nói những chuyện bông lông, không nhằm vào một cá nhân hay một đoàn thể nào cả. Lấy việc xưa mà nói việc nay, cũng như lấy mình làm mục tiêu chế nhạo thì không ai nhột nhạt khó chịu và oán ghét. Vì vậy mà thường văn chương u mặc hay có tính cách ngụ ngôn và tự trào
"Sô Kỵ, người nước Tề, tướng cao, mặt mũi khôi ngô. Một buổi sáng soi gương, hỏi vợ:
- Ta đẹp hay Từ công đẹp?
Vợ đáp:
- Tướng công đẹp, Từ công sao sánh được?
Kỵ không tin, hỏi lại người thiếp, thiếp nói:
- Từ công sánh gì nổi Tướng công!
Có khách đến, Kỵ cũng hỏi thế. Khách đáp:
- Từ công đẹp sao bằng ngài!
Hôm sau Từ công đến chơi. Kỵ nhìn kỹ, biết mình không bằng. Lại soi gương càng thấy mình kém xa"
Ngẫm nghĩ rồi vào triều, tâu với Tề vương:
- Thần vốn biết dung mạo không bằng Từ công, vậy mà vợ thần vì yêu, thiếp thần vì sợ, khách thần thì muốn cầu cạnh, đều nói thần đẹp hơn. Nay nước Tề, đất vuông ngàn dặm, thành quách trăm hai, trong cung không ai là không yêu đại vương, bốn phương không ai là không mong chờ đại vương. Như vậy, đủ thấy người ta đã che mắt đại vương rất nhiều rồi vậy!
Chỗ u mặc của Sô Kỵ, là biết lấy các việc mình bị "che mắt" hoặc tự tạo ra để cảnh tỉnh sự bị "che mắt" của người khác, không riêng gì là của một ông vua, mà tất cả mọi người.
U Mặc Và Tình Thương
Tiếng cười u mặc vì vậy, có thêm một đặc điểm thứ ba la øtình thương
Tiếng cười u mặc là tiếng cười ôn nhu hòa hoãn, phát tự tâm linh siêu thoát, vượt lên xa những cái nhỏ nhen cố chấp của người đời.
Nếu châm biếm hài hước mà có tính cách cá nhân sẽ không còn phải là tinh thần u mặc nữa. Bởi vậy, những câu châm biếm có tính cách chua cay ác độc, hằn hộc nguyền rủa không phải là u mặc.
Tình cảm của u mặc là siêu thoát, là đạt thấu nhân tình đạo lý, người đọc văn không thể không vui mà nhận nó, như trường hợp Tề vương trên đây. Nguyền rủa, trịch thượng thì lời nói nặng nề, thô lỗ, kẻ bàng quan dù có cho là lẽ phải cũng rất khó mà đồng tình. Cười cái điên của một cá nhân nào. Jean Paul Richter nói rất chí lý: "Dưới con mắt của nhà văn u mặc, không có cái điên nào cho ai cả, mà chỉ có lũ con người điên, và cả một thế giới điên loạn mà thôi"
U mặc và phóng thích có nhiều chỗ gần nhau, nhưng không nên xem phúng thích là mục đích của u mặc. Phúng thích hay đi đến chỗ chua cay. Phải bỏ cái vẻ chua cay mà đạt đến một tâm cảnh trống không và hờ hững. Lại còn phải thêm một vài điểm từ bi nhà Phật là khác.
Trào lộng u mặc phải có vẻ ôn hòa thuần hậu, có tính cách thương xót cho số phận của con người. Đùa cợt, nhưng không đùa cợt theo cách hằn thù định làm nhục đối phương, mà đùa cợt một cách âu yếm như bậc cha anh đùa những cái lầm khả ái của con em mình. U mặc là trào lộng với thâm ý làm cho giác ngộ. Công dụng của nó là lập đức, bởi vậy, trong tiếng cười có pha giọt lệ, hay nói cách khác, u mặc là "tương tiếu nhất thinh song lê lạc" là "những giọt lệ trong con mắt đang cười' (des larmes dans un oeil quy rít). Bên Espana, người ta khuyên nên đọc sách trào lộng của Xervantès ba lần: Lần thứ nhất để cười, lần thứ hai để suy nghĩ, lần thứ ba để khóc. Thiết nghĩ, đọc bất cứ văn trào lộng thượng thừa nào cũng vậy, đều cũng phải như thế mới được.
U Mặc Và Nghịch Thuyết
Điểm then chốt của văn u mặc là nghịch luận, nghĩa là nói nghịch mới gây được sự bất ngờ, gây được lòng phẩn uất và bắt người ta phải đặc lại vấn đề. Là vì không có câu nói nghịch nào mà không có phần phải của nó, mặc dù nó không vừa lòng đẹp ý ta. Bất cứ một thứ chân lý nào cũng đều có hai mặt, cuộc biến động nào cũng có hai chiều: Thái cực nào cũng gồm cả hai nghi (lưỡng nghi), nói theo Kinh Dịch. Lão Tử bảo rất đúng: chánh ngôn nhược phản. Lời nói chính giống như là những lời nói nghịch: Nghịch để mà bỗ túc, chứ không phải để phủ nhận hoàn toàn đối phương. Bởi vậy, trong bất cứ chế độ tự do nào, phần đối lập là phần quan trọng nhất, vì thiếu nó, không có tự do. Trên đời này không bao giờ có chân lý tuyệt đối, cũng như không có sai lầm nào là sai lầm tuyệt đối, cho nên có thể nói, không có sai lầm, chỉ có những chân lý phiến diện mà thôi.
Nhà văn trào lộng nào mà hằn học, thù oán đối phươg, nhục mạ mạt sát không tiếc lời, chưa phải là nhà văn trào lộng u mặc. Họ thường muốn tỏ ra rất đạo đức và đóng vai trò "cảnh sát kiểm tục", "thiết diện vô tư"... Nhà văn trào lộng u mặc có khác, họ có cái giọng "khinh thế ngạo vật", chống đối đạo đức, thứ đạo đức giả trên đây. Đạo đức mà khắc nghiệt thường giúp cho tội lỗi càng thêm bành trướg, vì "ăn vụng" bao giờ cũng ngon hơn là bị bắt buộc phải ăn mà không dám cãi. Đúng như câu nói này của người xưa "tương dục phế chi, tất cố hưng chi!" (hòng muốn phê đó, lại làm cho đó hưng lên). Lạ gì cái thú "ăn trái cấm", thủy tổ loài người mà còn phải sa vào tội lỗi đầu tiên ấy là "ăn vụng"! Pascal nói rất đúng: Người đâu phải là một ông thánh cũng đâu phải là một con thú... Và khốn nạn thay, kẻ chỉ muốn làm ông thánh, lại biến thành con thú.
Trang Tử cười Khổng Tử, đâu phải cười đạo đức của Khổng Tử, mà cười cái thứ đạo đức giả của lũ học trò Khổng giáo, họ "bảo hoàng" hơn hoàng đế! Nietzche nguyền rủa đạo đức, vì ông là một nhà đạo đức thật, thấy rõ cái trò hề giả dối của bọn giả nhân giả nghĩa. Bởi vậy mới có người bảo: "Kẻ nói nhân nói nghĩa là thằng khôn, bọn nghe thuyết nhân thuyết nghĩa là đồ dại"
Nhưng dù "chống đối", u mặc chống đối bằng cách nhẹ nhàng cười đùa chứ không hằn học khắc nghiệt.
Trang Tử viết:
"Có nơm là vì cá,
Đặng cá hãy quên nơm"
"Có dò, là vì thỏ
Đặng thỏ hãy quên dò"
"Có lời, là vì ý,
Đặng ý, hãy quên lời"
"Ta tìm đâu đặng người biết
Quên lời, hầu cùng nhau đàm luận!"
Đọc kinh Kim Cang, ta cảm thấy dường như Phật viết tới đâu, là xé tới đó. Đến cùng, không còn một câu một chữ nào để cho người đời sau bấu víu: Phật đã xé kinh mà nói Pháp. Đọc kinh Phật thượng thừa, phải biết đọc kinh "vô tư".
Cho nên văn u mặc còn lại chỉ những bài văn ngụ ngôn, nói bâng quơ, nói bông lông, không nhắm việc của ai cả, không cổ, không kim, không sách, không vở... Là để nói lên những gì thoát khỏi văn tự, thoát khỏi thời gian và không gian. Danh từ phải có định nghĩa. Mà có định nghĩa là có giới hạn rõ ràng. Cho nên văn tự không phải để nói lên có một khía cạnh nào của chân lý mà thôi. Vì vậy, ta thấy trong những câu văn u mặc có lối ghép chữa lạ lùng: Những danh từ đối lập thường được đôi như cặp âm dương trong đồ Thái cực. Văn u mặc phát lên tiếng cười, tiếng cười của thức giả đã thấy rõ con voi toàn diện, cười lũ mù rờ voi đang tranh luận với nhau om sòm để dành lẽ phải về mình: Một lẽ phải tương đối và phiến diện.
Về văn chương, phần cốt tử là ở những chữ "nhưng", chữ "ma"'... Có những việc dở, nhờ chữ "nhưng" mà trở thành hay, cũng có lắm chuyện hay, chỉ vì chữ "nhưng" mà đâm ra dở.
Trong khi nhà Nho xem quá nặng cái chết, câu chấp trong việc tang lễ, an táng thì lo quan quách mỏng dầy, phục tang thì hạng kỳ nhất định với những nghi lễ vô cùng phức tạp chung quanh một cái xác thúi, thì Trang Tử cất tiếng cười vang... cười về cái chết của mình mà được người người muốn hậu táng:
Trang Tử gần chết. Các đệ tử muốn hậu táng.
Trang Tử không cho:
Ta có trời đất làm quan quách, nhật nguyệt làm ngọc bích, tinh tú là ngọc châu, vạn vật làm lễ táng. Đám táng như thế, chưa đủ sao?
Lại thêm chi lắm việc. Đệ tử thưa:
Chúng con sợ diều quạ ăn xác thầy!
Trang Tử cười nói: Trên thì diều quạ ăn, dưới thì giòi kiến ăn. Cướp đây cho đó, sao có thiên lệch thế?
Cái tiếng cười ấy của Trang Tử đã thức tỉnh không biết bao nhiêu người rồi! Đã giải thoát không biết hàng bao nhiêu tâm hồn đã bị ngộp thở trong sự ràng buộc hình thức của luân lý đạo đức vô cùng khắc khe phức tạp.
U Mặc Và Giả Vờ
Tóm lại có được một tâm hồn siêu thoát, không bị ràng buộc trong cảnh giới nhị nguyên, có nhận rõ đủ mọi khía cạnh của sự đời muôn mặt, có thấy rõ những cái đáng kinh mà thế nhân quá trọng, nghĩa là có thấy được cả bề trái của sự đời, mới viết nổi văn u mặc thượng thừa.
Không có một ai dám vừa quả quyết lại vừa phủ nhận một điều gì: Nhưng thường thường có biết bao việc mà chính mình cho là phải hôm trước, hôm sau lại phủ nhận nó ngay mà mình không hay không biết. Chân lý nào trên cõi tương đối này cũng chỉ là một thứ chân lý tạm thời và phiến diện mà thôi. Vì vậy bậc trí giả ngày xưa ở Đông phương không bao gời dám quả quyết một việc gì, họ thường hay dùng đến những danh từ "dường như" (nhược) như Lão Tử: "Chánh ngôn nhược phản", "đại thành nhược khuyết", "đại doanh nhược xung", "đại xảo nhược chuyết", "đại biện nhược nột"...
Văn u mặc, vì vậy, thường có cái giọng giả vờ: Nói một đàng nghĩ một ngả, giả vờ nói thuận là để nói nghịch, nói nghịch là để nói thuận, nói ít để nói nhiều, hoặc nói huyên thuyên để rồi chả nói gì cả. Là vì, như đã nói ở trên đây. Chân lý có hai chiều, gồm cả thị phi lưỡng diện không thể rời nhau.
Nhà văn Okakura Kakuzo, nhận xét về văn u mặc của người xưa bên Đông phương có viết: "Ngày xưa bên Đông phương, các bậc thánh hiền không bao giờ trình bày học thuyết của mình bằng sự quả quyết một chiều. Họ nói toàn bằng giọng nghịch thuyết, mâu thuẫn... là vì họ sợ đưa ra những thứ chân lý phiến diện... Họ bắt đầu nói chuyện như người ngu, nhưng rồi họ làm cho người nghe tỉnh ngộ"
Nhà văn u mặc vẫn thường dùng phép "nhái văn"(parodie), họ giả vời đóng vai đối phương, nói theo giọng đối phương nên lập trường tư tưởng của họ. Về lối bút pháp này, Trang Tử phải kể là tay cự phách.
Nhưng độc đáo nhất là giả vờ cười mình để khỏi phải làm ngượng kẻ khác. Lão Tử nói:
"Thượng sĩ văn Đạo, cần nhi hành chi
Trung sĩ văn Đạo, nhược tồn nhược vong
Hạ sĩ văn Đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu, bất túc dĩ vi đạo"
(Bậc cao nghe nói đến Đạo, thì cố gắng làm theo, Bậc trung nghe nói đến Đạo thì thoạt nhớ thoạt quên, hạng thấp nghe nói đến Đạo, thì cười to lên, thì sao đủ gọi là Đạo cả)
"Không cười to lên, sao đủ để gọi đó là Đạo cả!"
U mặc tế nhị làm sao! Cái tiếng cười to của hạng người hạ sĩ khi nghe nói đến Đạo, đâu có làm cho Đạo nhỏ hơn, mà lại làm cho Đạo càng thêm lớn rộng, càng thêm bất khả tư nghị đối với hạng người đầu óc thiển cận như "ếch ngồi đáy giếng". Tiếng cười to ấy là cái ngu xuẩn của những thứ nhãn quan phiến diện, chỉ thấy có cái lợi àm không thấy cái hại của cái lợi ấy, cũng như chỉ thấy có cái hại mà không thấy cái lợi của cái hại ấy.
Trang Tử ở thiên Thiên Địa, cũng cười mình là người mê: "Ôi! Hạng thật mê suốt đời mà không tỉnh. Hạng thật ngu, suốt đời không khôn... Ba người đang đi, mà có một người mê, thì chỗ mình định nói có thể mong đạt tới được, là vì kẻ mê ít mà người tỉnh nhiều. Nếu ba người cùng đi mà có đến hai người mê, thì chỗ mình định nói đến, không thể mong đạt tới được là vì người mê nhiều mà người tỉnh ít. Nay cả thiên hạ đều mê, ta dù muốn chỉ đường cũng không thể nào chỉ được... Biết là sự chẳng được mà vẫn cự gượng làm, đó lại càng mê hơn thiên hạ nữa!"
Văn u mặc chuyên về lối giả vờ: Giả vờ khiêm tốn, giả vờ thơ ngây, giả vờ lú lẫn...
Làm như nhớ đầu quên đuôi, sự việc bất nhất, trật tự hỗn loạn... là để tỏ sự phi lý và mâu thuẫn của cuộc đời, đối với lý trí hẹp hòi thiển cận của con người.
Chân lý thì có tính cách toàn diện, cớ sao vẫn u mặc lại không nhắm vào toàn khối mà cứ nhắm vào một vài khía cạnh đặc biệt nào đó thôi? Là vì nhà văn u mặc Đông phương quan niệm không có gì nhỏ, không có gì lớn: Tuy là một phần tử mà nó vẫn chứa đựng cả toàn thể. Một hột nguyên tử cũng là cả một vũ trụ vô tận vô biên. Họ giả vờ lú lẫn, bỏ sót bỏ quên... là để đừng bỏ sót bỏ quên gì cả. Bởi vậy mới nói: "Đại thang nhược khuyết"
Các nghệ sĩ tài hoa bao giờ cũng tin tưởng nơi óc thông minh nhạy cảm của những người thưởng thức tác phẩm của họ. Sở dĩ ít khi họ chịu nói hết lời là vì họ hiểu rất rõ công dụng của hư ngôn, của cái gọi là "ý tại ngôn ngoại". Cái "hư không" của văn nghệ giống như các lỗ hổng trên không trung: Nó thu hút mạnh không khí chung quanh: "Oa tắc doanh" là thế.
Văn u mặc thường có sự nửa úp nửa mở, giả vờ nói nghịch mà chỉ nói nửa lời thôi, là vì cái gì có vẻ bí mật sẽ có cái sức hấp dẫn lạ lùng. Bí mật mà càng cố giữ kín, là càng kêu gợi óc tò mò. Trong các bài nhạc, thường có những khúc lặng lẽ, những khúc nghe rất nhỏ... là để cho người nghe phải hết sức chú tâm mới nghe rõ được. Bởi vậy sự lặng thinh rất hùng biện, có khi còn hùng biện hơn hùng biện nữa. Thần thoại Hy Lạp có câu chuyện u mặc sau đây: Midas, vua xứ Phrygie, vì làm phật lòng thần Apollon nên bị vị thần này cho mọc hai cái tai lừa. Ông đã giữ kín việc này, nhưng không sao giữ kín được với tên thợ cạo của ông. Ông bắt tên này phải thề độc với ông là cho tới chết không được tiết lộ việc bí mật này. Sợ mắc lời thề, nhưng không sao giữ mãi sự bí mật ấy nó giằng dập tâm tư anh đến phát đau. Anh bèn nghĩ ra một kế: Đào một lỗ dưới đất, rồi kê miệng thì thầm bí mật: Vua Midas có lỗ tai lừa! Bấy giờ anh thấy lòng mình thơ thới nhẹ nhàng... Nhưng, nơi lỗ sâu mà anh đã cẩn thận lấp đất, lại mọc lên một đám sậy... Mỗi khi gió hiu hiu thổi, chúng sậy lại thì thầm tâm sự với nhau: Vua Midas có lỗ tai lừa!!!
Quả cái công dụng của Hư Vô đâu phải tầm thường. Thiện dụng hư ngôn, nói lên được cái không nói (ngôn vô ngôn) mới có thể viết được văn u mặc. Điều quan trọng ở văn u mặc, không phải ở những gì nó đã nói lên, mà quan trọng là ở những gì nó đã khiêu gợi được nơi ta Nếu muốn làm văn u mặc hãy lựa chọn những danh từ nào thật hùng biện, còn chưa tìm ra được, tốt hơn không nên viết gì cả. Bởi vậy cái hay của một bài thơ hay, là ở nơi sự khêu gợi của nó: Một bài thơ hay, vì thế, hay hơn cả một pho triết lý trên hằng vạn lời minh chứng dài dòng và lê thê bất tận.
Viết được lối văn u mặc thường thừa, ít lắm phải có một nhân sinh quan rộng rãi, phải biết thoát lên ăn tự, phải có được một tâm hồn siêu thoát khỏi cảnh giới nhị nguyên để nhìn việc đời một cách bao trùm muôn mặt. Lâm Ngữ Đường quả quyết rất đúng: Trang Châu là người rất xứng đáng làm thủy tổ cho văn học u mặc thượng thừa Trung Hoa. Là vì cái nhìn của Trang là cái nhìn của con chim Bằng trên chín từng mây, nhìn sự vật trên đời chỉ có một màu xanh xanh huyền ảo thôi: Hư hư thật thật. Hay nói một cách khác: Văn của Trang nói nghịch là để nói thuận, nói hư là để nói thực: Cái giả nằm trong cái chân, cái chân nằm trong cái giả.
Đọc sách Trang Tử, không sao không liên tưởng đến văn chương của phái Thiền, họ vượt lên rất xa văn tự tầm thường mà bách gia chư tử chưa ai sánh kịp.
Để cảnh tỉnh bọn đệ tử bo bo bấu víu vào văn tự, Thích Ca Như Lai đã phải long trọng tuyên bố:
"Ta thuyết pháp trong khoảng bốn mươi chín năm mà chưa từng nói một lời nào! (...) Kìa đệ tử hãy xem theo ngón tay ta mà thấy mặt trăng, nhưng nên nhớ, ngón tay ta không phải là mặt trăng!"
U mặc dịu dàng sâu sắc làm sao!
Tôi chưa từng thấy một bậc vĩ nhân nào trong tư tưởng giới, dù trang nghiêm đạo mạo bậc nào mà chẳng có ít nhiều tinh thần u mặc. Từ Phật, Lão, Khổng, Mạnh... bên phương Đông, đến Socrate, Platon, Héraclite, Pascal... bên phương Tây, không một người nào là không u mặc. Khi vị nồng nhạt nhiều ít là tùy tính khí, tất cả đều vô cùng thanh nhã và thoát tục. Nhà văn Mallarmé nhận xét rất đúng: "Bất cứ nhà văn hoàn bị nào, rốt cuộc đều trở thành một nhà văn u mặc"
U mặc mà dùng đúng với tinh thần của nó đều có công thay đổi cả một đời tư tưởng sai lầm của chúng ta.
Vậy, tư tưởng cần được cởi mở tự do, triết học cần phải vui tươi và tế nhị, hợp lý và hợp tình, không nên quá thiên về cơ trí. Một thứ triết lý vui vui, tư tưởng tự nhiên và giản dị... là những yếu tố chính của văn học u mặc. Hay nói một cách khác, có vui vẻ, có tự nhiên là vì có u mặc.
Một nhà văn đạo mạo trang nghiêm thường dễ vấp phải sự vụng về và lố bịch, bởi họ đã phải cố gắng rất nhiều để luôn luôn giữ bộ mặc trang nghiêm trong khi đời chung quanh chỉ là một tấn hài kịch không hơn không kém:
Nhộn nhàng trong một lớp tuồng,
Rồi ra ai cũng vô buồng như ai...
Đời không phải chỉ là hài kịch, cũng không phải ròng là bi kịch, mà là một tấn bi hài kịch. Cho nên cố gắng trang nghiêm thành ra trò hề, như Pascal đã nói: "Kẻ muốn làm thánh, lại làm thú". Còn cố gắng, sẽ mất tự nhiên: Nhà văn quá tôn nghiêm đạo mạo giống như một anh nhà giàu mới học làm sang.
Giản dị và tự nhiên, mới thấy tưởng như là tầm thường, kỳ thực đó là biểu thị của sự trưởng thành tư tưởng. Đó là hai đức tính khó đạt nhất trong văn chương nghệ thuật. Nhưng đó là hai yếu tố chính của văn u mặc.
Nhà cách mạng Proudhon, trong ngục thất ở Sainte Pélagie, còn đã phải ca tụng không tiếc lời vai trò của trào lộng châm biếm như sau:
"Ôi! Trào lộng! Mi mới quả thật là Tự do!
Chính mi đã giải thoát ta ra khỏi:
- Lòng tham vọng uy quyền,
- Óc nô lệ đảng phái,
- Óc sùng bái vĩ nhân,
- Thói tôn kính tập quán,
Thái độ kiêu hãnh đổm của bọn người thông thái,
- Những thủ đoạn lừa đảo chính trị,
- Óc cuồng tín của các nhà cách mạng.
"Mi đã khuyên Jésus, khi người sắp trút linh hồn trên cây Thập giá thốt lên lời cầu nguyện cho bọn người hành hạ tàn nhẫn ông: Xin Cha hãy tha tội cho chúng, vì chúng làm mà chẳng hiểu gì cả những việc chúng làm!
Trào lộng dịu dàng làm sao!
Chỉ có mi là trong sạch, trinh khiết, kín đáo mà thôi.
Mi thêm duyên dáng cho cái đẹp,
Mi thêm mùi vị cho tình yêu.
Mi giúp cho lòng nhân nẩy thêm lòng hỉ xả,
Mi làm cho tan đi cái thành kiến giết người.
Mi làm cho hạng người có óc bè phái và cuồng tín hết cuồng!
Và Đạo đức, ôi, lại cũng là mi nữa!"
Jésus đã chết... nhưng đâu phải chết vì sự tàn ác của con người, mà chính vì cái ngu xuẩn của con người: "Họ làm mà không hiểu rõ việc làm của họ!" Ai trong chúng ta, dù là hạng người đại trí, dám tự hào là người đã hiểu rõ lý do những việc mình làm!
U mặc quả có công dụng "phá chấp" đúng như Proudhon đã viết. Nó đã san băng Thị Phi, Vinh Nhục, Đại Tiểu... Cái mà thiên hạ cho là phải, nó chứng minh rằng cái phải ấy chỉ là một cái phải tương đối và phiến diện... Cái mà thiên hạ tôn thờ cho là vinh quang cao cả nhất, nó chứng minh rằng trong cái vinh quang ấy vẫn còn có cái bề trái ẩn khuất rất nhục nhã và đê hèn của nó. Nó có công dụng giải thoát ta ra khỏi lòng tham vọng uy quyền tối thượng, bằng cách khuyên ta "ngoại kỳ thân nhi thân tồn". Trong khi cái thông bệnh của loài người là tưởng rằng đời đục cả, một mình ta trong, đời say cả, một mình ta tỉnh, thì nó khuyên ta: "thông minh duệ trí, thủ chi dĩ ngu, dũng lực chấn thế, thủ chỉ dĩ khiếp" và trong ba cái báu mà người trí nên ấp ủ, nó khuyên ta: "Bất cảm di thiên hạ tiên" (không dám đứng trước thiên hạ) để khỏi phải làm nhục lòng người, khỏi phải vô tình vời họa đến cho mình.
Nghịch luận và bất ngờ, đó là hai yếu tố chính của văn u mặc. Nó làm cho con người "hốt nhiên" mà "tỉnh ngộ". Có trí là khó, mà thông minh mới khó hơn. Thông minh cũng còn dễ, thông minh mới khó hơn. Thông minh cũng còn dễ, thông minh mà như ngu mới khó hơn. Văn học u mặc ít thấy nói đến những cái gì vinh quang cao quý, mà chỉ nói đến những cái thấp hèn thấp nhỏ bé nhất của cuộc đời, và nếu có nói đến những gì cao xa vĩ đại là để nói đến những gì mà tự nó không có gì cao xa vĩ đại cả!
Văn học u mặc cũng hay bàn đến các con người "điên", "say" và "ngu", nhưng đều là những cái "điên", cái "say", cái "ngu" của hạng người đại trí không còn mê chấp trong việc lấy cái tương đối làm tuyệt đối. Về loại văn học u mặc này, Trung Hoa có thể gọi là giàu nhất với những bộ truyện trào phúng cao xa, như Tây Du Ký là một và đọc Lỗ Tấn, quả là một kỳ thú!
Đọc văn u mặc, nhất là u mặc Đông phương của Lão Trang hay Thiền Tông, ta sẽ thấy câu định nghĩa sau này của phái Thiền thật là sâu sắc: "Cười là một sự ngạc nhiên đồng tình". Phần đông sở dĩ có sự đồng tình là vì có đồng mới có ứng. Cái cười của Thiền, trước tiên là sự ngạc nhiên, vì nó là một nhận xét nghịch lại với lối suy tư và thành kiến lâu nay của mình. Vừa ngạc nhiên, thì lại vừa tỉnh ngộ. Giác ngộ thường được biểu thị bằng một tiếng cười rất đặc biệt: Cái cười của người đắc Đạo vừa phá được cái vô minh của mình.
Đọc một câu văn u mặc, ta có cảm tưởng đầu tiên gặp một đối thủ, một kẻ thù thân yêu bởi họ dám nói nghịch lại với ta. Nhưng rồi người thù ấy biến thành người bạn, người bạn ấy lại trở thành một người thầy!
Đọc văn u mặc của Thiền sẽ gặp toàn là những nghịch thuyết vô cùng táo bạo. Cho nên mới nói: Thiền mà không có "cười" chưa phải là Thiền.
Các thiền sư thường căn dặn: Mỗi khi một câu hỏi được nêu ra, hãy trả lời nghịch lại hoặc làm thinh... vì chân lý có hai chiều, coi chừng bị kẹt. Nếu ai có hỏi ta về cái Hữu, hãy trả lời bằng cái Vô. Nếu hỏi ta về cái Vô, hãy trả lời bằng cái Hữu... Với phép nói nghịch ngợm ấy, anh sẽ giúp họ hiểu rõ thế nào là Trung đạo. Còn có câu văn u mặc tối thượng thừa nào qua nổi câu này của kinh Kim Cang: "Cái gọi là Phật pháp, tức chẳng phải là Phật pháp, nên gọi là Phật pháp... Phật nói chúng sinh, tức chẳng phải là chúng sinh, cho nên mới gọi là chúng sinh". Không hiểu nổi giọng u mặc này, tụng kinh niệm Phật vô ích.
Bên Nhật có chế ra một món đồ chơi gọi là con lật đật. Con lật đật không có chân, bụng thì tròn mà có đổ chì cho đầu nhẹ đít nặng. Bởi vậy, dù lật ngửa lật nghiêng, nó vẫn ngồi thẳng lên một cách tự nhiên không cần ai giúp cả. Đó là cái tượng của Bồ Đề Đạt Ma. Các thiền sư muốn mách nhỏ với bọn "đầu to" (đại trí giả) Âu Mỹ rằng óc thông minh của con người thực sự không phải ở trên đầu, nghĩa là ở trong những bộ óc thông minh lý trí của con người, và sự gìn giữ lẽ thăng bằng đâu phải chỉ do một đầu óc đầy cơ trí: Trí huệ không liên quan gì đến bộ óc thông thái cả. Đó cũng là muốn nói lên cái chân lý "cao dĩ hạ vi cơ" của Lão Tử. Vật chất là cơ bản của tinh thần, chỉ e kẻ chỉ muốn làm thánh lại biến thành con thú.
Đọc văn u mặc của Thiền chỉ có hai lẽ: Hoặc hiểu, hoặc không hiểu gì cả, chứ không thể bao giờ giải nghĩa được. U mặc mà cố phân tích và giải nghĩa sẽ mất cả ý vị của u mặc. Nhắp một hớp rượu ngon hay uống một ngụm trà. Tàu thượng hạng không thể cắt nghĩa hương vị của nó ra làm sao. Cho nên u mặc mà hay, là ở tại chỗ "ý tại ngôn ngoại". Đọc văn u mặc mà hiểu thì cười, đó là cái cười giác ngộ. Đọc văn u mặc mà không hiểu cũng cười, đó là cái cười của hạng "hạ sĩ văn Đạo"!...
Tóm lại, vai trò u mặc trong văn chương là nhẹ nhàng, nhân hậu, dùng phép nghịch luận để đánh thức con người, chỉ cho họ nhớ rằng sự vật nào cũng có hai mặt và hoạt động hai chiều. Trong cái cười của u mặc bao giờ cũng trang nghiêm, trong cái trang nghiêm, bao giờ cũng có cái ý cười đùa.
Chương 10 - Dùng Chó Bắt Chuột
Chương 10 - Dùng Chó Bắt Chuột
Tề có người xem tướng chó rất giỏi.
Nhà láng giềng nhờ mua một con chó hay để bắt chuột.
Một năm trời mới mua được, bảo nhà láng giềng:
- Con chó này tốt lắm.
Người láng giềng nuôi con chó ấy mấy năm mà không thấy nó bắt chuột, bèn hỏi anh xem tướng chó. Anh này bảo:
- Con chó này tốt lắm đấy! Nhưng cái chí của nó là bắt hươu nai, cầy, cáo, chứ không muốn bắt chuột. Vậy, phải cùm chân nó lại!
Nhà láng giềng làm y theo lời. Quả về sau, con chó hay bắt chuột.
Lời bàn:
Bài văn này ở xã hội tự do, thì có thể cười được. Ở những xã hội độc tài, chắc chắn sẽ không thể cười, mà phải khóc to lên... mới được
Là một con chó có tài bắt hươu, nai, cầy, cáo... mà bị "cùm chân" nên cam phận đi làm công việc bắt chuột, quả đáng thương hại lắm rồi! Nhưng, không ai "cùm chân" mình cả, mà lại tự ý "cùm chân", chịu nhận lãnh vai trò bị "cùm chân" để được vinh hoa phú quý, thì thật không biết nên cười hay nên khóc?
Chương 14 - Suối Trường Sinh
Chương 14 - Suối Trường Sinh
Miya Jima nước Nhật Bản xưa kia là một hòn đảo nổi tiếng linh thiêng. Dân ở đảo này hầu như không ai có quyền chết.
Đảo này là một trong ba thắng cảnh đẹp nhất xứ Phù Tang. Toàn đảo có một ngôi đền danh tiếng ở ngay trên bờ biển. Cửa chính của đền hướng ra biển. Những lối đi trong đền dựng không biết bao nhiêu những cây đèn bằng đá, liên tiếp từ cửa này đến cửa khác. Nơi đây có những con nai đi lại nhởn nhơ không chút sợ sệt sự qua lại của những người mộ đạo. Không khí rất trong lành, biện một màu xanh biếc. Bên kia eo biển, xa xa hiện lên những dãy núi tim tím, những cánh buồm rơm vuông vắng của những chiếc thuyền đánh cá phản chiếu ánh sáng mặt trời, trông như những đám lửa nhỏ nổi lên mặt nước.
Trong số dân cư ngụ tại đảo nầy có hai vợ chồng người tiều phu già, hết sức già. Chồng là Yoshida, vợ là Fumi. Họ được cả làng yêu mến vị nể. Ai nấy đều khen sự kiên nhẫn chịu đựng mọi sự mà họ đã trải qua, và ca tụng sự trung thành của hai người đối với nhau trên sáu mươi năm chung sống.
Họ không quen nhau mấy, hồi mà cha mẹ họ quyết định sự hôn nhân. Yoshida chưa bao giờ dám nói chuyện với Fumi, nhưng khi gặp nhau trên bãi biển thì chàng cứ nhìn nàng bằng cặp mắt trìu mến và cứ nhìn theo nàng mãi. Nàng đi thong thả, hơi cúi về phía trước(đó là lối đi của những thiếu nữ có giáo dục). Những ngày hội, chàng thích tìm nàng trong đám đông để thấy khuôn mặt trái soan của nàng, có cặp má đào đỏ hây, cái áo dài màu ngọc trai xám có thắt ngang một cái thắt lưng lớn, gấu áo viền bằng lụa nâu có thêu những bông cúc trắng.
Fumi cũng không khao khát ngày cưới lắm, vì nàng biết đời nàng đã được định đoạt rồi, và mấy tháng trước ngày cử hành hôn lễ, nàng đội cái mũ "mũ cưới" tượng trưng cho người con gái sắp thành hôn. Bản tính Fumi dịu dàng, mà nàng vẫn sợ trước những sự nghiêm khắc, những sự bất hòa có thể xảy ra giữa vợ chồng. Nàng nghĩ đến câu phương ngôn: "Lòng người đàn ông dễ thay đổi như trời thu". Nhưng nàng sẽ nhất định giữ được tình yêu của chồng bằng sự kiên nhẫn, dịu dàng và sự âu yếm kín đáo của nàng. Nàng có biết câu phương ngôn: "Nếu người ta ngồi ba năm trên một tản đá đó cũng sẽ nóng..."
Cuộc hôn nhân của Yoshida và Fumi đã được cha mẹ định đoạt đúng luật lệ cổ truyền, nên được vui vẻ và tồn tại giữa hai vợ chồng. Ngay từ buổi đầu, Yoshida yêu Fumi với tất cả mối tình nồng thắm của tuổi trẻ và Fumi đền đáp lại bằng sự yêu kính chồng rất mực.
Họ được hưởng những lúc vui sướng cũng như những hồi buồn bã. Vui, là họ sinh liên tiếp ba trai. Rất buồn là ba con lúc đã trưởng thành lại bị chết một ngày vì nghề đánh cá. Một hôm ra khơi, biển đã cướp mất cả ba người con. Yoshida và Fumi trong lòng tan nát, cố chịu đựng trước bạn bè, gượng cười ra vẻ thản nhiên. Nhưng khi chỉ có riêng họ, họ khóc sướt mướt. Tay áo họ luôn luôn đẫm lệ đau thương. Họ đặt bài vị ba con trên một cái bàn nhỏ bằng gỗ quý, tại một căn phòng đẹp nhất để ngày đêm tưởng niệm. Mỗi ngày trước bữa ăn, họ đặt thức ăn lên một cái bàn bằng gỗ sơn, đốt hương để khấn các con về thụ hưởng. Những lúc đó họ ngồi hàng giờ để nghĩ tới những người con đã mất.
Bây giờ chỉ còn có hai vợ chồng, họ lấy sự kính yêu nhau làm nguồn an ủi duy nhất. Mỗi người đều muốn làm cho người kia bớt đau khổ, họ tìm đến cách âu yếm lẫn nhau. Dần dần tâm hồn họ bình thản trở lại, và họ trở nên kiên nhẫn. Họ lấy câu tục ngữ sau đây để tự an ủi: "Khi hoa anh đào đã tàn, không phải lấy sự tiếc thương mà làm cho hoa anh đào nở được"
Giờ đây họ đã già lắm, già như những con đồi mồi cổ kính. Yoshida thì nhăn nheo, khô héo, chân tay run rẩy, Fumi thì tóc và lông mày đã rụng nhẵn.
Người ta gặp họ đi chơi với nhau, bước chân chập chạp, vợ đi sau chồng một chút (vì tập tục như vậy) Thỉnh thoảng đôi cvợ chồng già này đi đến tận ngôi đền nguy nga làm cho hòn đảo nổi tiếng khắùp nước.
Ở nhà, dù Fumi đã nhiều tuổi, vẫn cố gắng giữ gìn nhà cửa được sạch sẽ, xinh xắn. Bà ưa màu trắng của bức tường bằng giấy và ánh sáng của chiếc chiếu mới với một ý nghĩ rất tế nhị hòa hợp tình cảm, bà thường thay đổi sự trang trí tùy theo thời tiết, tùy theo từng mùa hoặc tùy theo màu sắc của từng ngày, tùy theo nỗi buồn trong tâm tưởng khi treo những bức tranh lụa trên tường, một trong cái bình bằng đồng bà cắm ba cành hoa rất khéo léo mỹ thuật.
Đôi khi cạnh lọ hoa, bà đặt hai pho tượng nhỏ, tượng trưng cho hai ông bà già đang quét là thông. Đó là tiêu biểu tình nghĩa vợ chồng những cặp vợ chồng già được ví như hai cây thông đã mật thiếc mọc liền thân với nhau đến nỗi trông như một và cùng già bên nhau.
Cũng có khi Fumi đặt trên bàn một pho tượng sơn, tượng một vị thần mà bà thích nhất, một vị thần rất ngộ nghĩnh, có bộ râu dài, đội một cái mũ kỳ lạ, tay cầm một cái gậy, còn tay kia cầm một quyển kinh, đó là một trong bảy vị linh thần, mà là vị thần tượng trưng cho hạnh phúc của tuổi già.
Yoshida và Fumi kể là đôi vợ chồng già sung sướng, biết gác ra ngoài những nỗi khổ cực của loài người để hưởng sự yên tĩnh và thương yêu lẫn nhau.
Nhưng dù sao họ vẫn có một mối sầu vương vấn. Bây giờ họ đã quá già, lòng luyến tiếc thời trẻ trung xưa kia đã quá xa. Người nào cũng nghĩ rằng: Khi mà một trong hai người chết đi, người còn sống sẽ đau khổ biết chừng nào, cô đơn biết chừng nào! Giá bây giờ họ còn trẻ cả hai, họ sẽ hưởng được một cuộc sống lâu dài bên nhau. Đời sống họ sẽ trở nên thơ mộng biết bao, êm đềm biết bao!...
Một buổi thu, trời trong sqng, Yoshida như có một cảm hứng huyền bí gì, đi về phía rừng một mình. Nơi đây, trước kia ông đã làm nghề đốn củi rất cần cù, bây giờ trước khi chết muốn nhìn lại cây cối mà ông đã sống gần suốt đời.
Nhưng khi đến nơi, ông không còn nhận ra phong cảnh xa xưa kia nữa. Ngay cửa rừng ông không còn thấy cây Phong to lớn lá đỏ của mùa thu, nổi bật giữa đám lá thông xanh thẫm. Ông không nhận thấy cả cái suối nước trong, trong một cách lạ lùng, màu xanh lơ...
Sau khi đã ngồi, ông thấy khát nước, thấy có một núi trong xanh ngay cạnh lối đi. Với hai lòng bàn tay, ông bốc nước lên, uống thông thả...
Nào ngờ? Khi nhìn bóng mình trong suối nước, ông thấy thay đổi hết: Tóc đã trở nên đen nhánh, mặt hết nhăn nheo, trong người các bắp thịt có một sức mạnh đang vươn lên. Yoshida đã trẻ lại như người mới hai mươi tuổi, ông đã vô tình được nước suối "trường sinh".
Khỏe mạnh, tươi vui, đầy nhựa sống, ông già Yoshida bây giờ là một chàng thanh niên trẻ trung yêu đời. Anh ta sung sướng chạy về nhà.
Bà già Fumi trông thấy một thanh niên đẹp trai đi vào nhà. Bà thốt lên một tiếng: "Ồ" rồi từ ngạc nhiên đến sợ hãi, làm bà chết đứng như người mất trí.
Yoshida vội an ủi vợ và giải thích rõ ràng sự may mắn vừa đến với anh.
Bây giờ đến lượt bà lão đáng thương vừa cười vừa khóc vì sung sướng. Sáng mai bà cũng sẽ ra cái "suối tiên" đó. Uống nước rồi, khi về, bà cũng sẽ trẻ lại như một thiếu nữ hai mươi.
Hai vợ chồng sẽ lại sống cuộc đời tươi đẹp, với bao sự vui thú của tuổi trẻ và sẽ hài lòng khi nghĩ đến những kỷ niệm đã qua.
Sáng hôm sau khi nắng hồng mới hé, sau làn không khí trong trẻo. Fumi vội vàng đi ra cái suối nước trong... Yoshida ở nhà, anh ta đợi, không có gì sốt ruột. Anh biết rằng phải mất độ hai giờ cho một người già để đi đến suối, và lúc về sẽ mau hơn.
Vậy mà đã hơn hai giờ, Fumi vẫn chưa về. Yoshida ngạc nhiên: Từ suối về có bao xa, mà sao lâu đến thế? Rồi những giờ phút trôi qua, sự sốt ruột của anh càng lúc lại càng tăng.
Thời giờ cứ tiếp tục trôi đi một cách tàn nhẫn, chậm chạp. Đã ba giờ qua, bốn giờ qua, năm giờ qua... Sự gì đã xảy ra?
Yoshida không còn kiên nhẫn hơn được nữa, vì sự sợ hãi cứ tăng dần lên. Anh đóng cửa lại rồi chạy ra rừng.
Anh chạy vội đến chỗ "suối tiên". Anh nghe thấy nước chảy hòa lẫn tiếng lá reo trên cành. Chú ý im lặng tìm kiếm một vùng rộng, mà vẫn không thấy vợ đâu, anh bắt đầu thất vọng.
Bỗng một tiếng kêu, một tiếng rên, có lẽ một con vật bị thương... làm cho anh chú y.
Yodhida đã đến gần bờ suối... Khi đến tận bờ, anh đứng lại, ngạc nhiên trông thấy giữa đám cỏ cao, có một bé con... một đứa bé gái độ chừng vài tháng, chưa biết nói, chỉ giơ tay về phía anh với vẻ thất vọng...
Yoshida bế đứa bé lên. Nhìn vào mắt đứa bé, cặp mắt lạ lùng! Cặp mắt đó làm cho anh nghĩ đến những kỷ niệm xa xôi của đời anh. Sao lại có cặp mắt giống hệt cặp mắt vợ anh một cách lạ lùng đến thế? Anh đã nhận được cặp mắt của người vợ anh: Khóc khi anh buồn, cười khi anh vui. Lòng anh xúc cảm mạnh.
Rồi đột nhiên anh hiểu được tất: À, ra chính đứa bé này là vợ anh, là bà vợ già của anh, là Fumi đáng thương đã trẻ lại. Và đã trẻ quá, vì nó muốn trẻ lại hơn chồng, nên đã uống quá độ, nên đã biến thành một đứa hài nhi...
Yoshida thở dài, bồng đứa nhỏ lên và mang nó sau lưng, như bà mẹ thường địu con... Anh buồn bã trở về, nghĩ rằng, từ đây anh sẽ phải như một người cha săn sóc và nuôi dưỡng dạy bảo đứa bé mà trước đây là vợ mình: Người bạn trung thành của anh trên đường đời.
Lời bàn:
Văn u mặc bao giờ cũng trang nghiêm nhẹ nhàng... tuyệt nhiên không có giọng hề chọc cười thiên hạ một cách rẻ tiền. Bài văn trên đây là một ví dụ điển hình
Yoshida là một tượng trưng của một hiền giả Đông phương, biết "tri túc, tri chỉ" (biết đủû biết dừng lại), mặc dù cái mộng của con người, ai cũng muốn sống lâu mà không chịu già.
Nàng Fumi là đại diện tâm hồn thiết thực của loài người nói chung, nhất là người đàn bà muôn thuở nói riêng. Có người đàn bà con gái nào mà không sợ cảnh già, mặc dù đã da mồi tóc bạc. Trẻ mãi là cái mộng duy nhất của người đàn bà để được yêu thương. Sự quá đà của nàng Fumi trong vấn đề "phản lão hoàn đồng" là cái bệnh chung của loài người. Bởi vậy, câu chuyện u mặc trên đây làm cho người ta lỡ cười lỡ khóc
Đáng thương hại là "anh chồng" lại trở thành "ông cha", "chị vợ" lại biến thành "đứa con" để cho người đàn ông đến bao giờ phải đóng vai của một người bảo hộ mà tạo hóa dường như đã an bài? Đây là cái hài kịch của thiên thu: Người chồng nào cũng phải là cha nuôi dưỡng và che chở cho người đàn bà đã trao thân gởi phận cho mình. Và chính thế mà người đàn bà và con gái nào cũng yên chí thiết một "ông" chồng có đủ điều kiện để vừa làm một người chồng và một người cha với nghĩa thiêng liêng của nó.
Chương 15 - Túy Ngâm Tiên Sinh
Chương 15 - Túy Ngâm Tiên Sinh
Ngâm tiên sinh là người quên cả họ và tên, quan tước, làng mạc, hồ đồ mình không biết là ai nữa. Làm quan ba mươi năm, gần già, lui về ở đất Lạc Hà. Chỗ ở có năm, sáu mẫu ao, vài nghìn cây tre với vài chục gốc cây cối. Lầu gác sân tường đủ cả mà nhỏ. Tiên sinh an tâm mà ở đấy. Nhà tuy nghèo, không đến nỗi đói rét, tuổi tuy già chưa đến nỗi lẩm cẩm. Tính thích rượu, hay nghe đàn, hay ngâm thơ. Phàm những khách đàn, thơ rượu, chơi bời với nhau rất nhiều. Ngoài sự chơi đó, đem lòng mộ đạo Phật, học thấu các phép tiểu thừa, trung thừa, đại thừa, cùng với nhà sư núi Trung Sơn làm bạn "không môn", với Vi Sở làm bạn sơn thủy, với Lưu Mộng Đắc làm bạn thơ, với Hoàng Phủ Minh làm bạn rượu. Mỗi khi gặp nhau thì vui vẻ mà quên về. Gần Lạc thành trong ngoài sáu bảy mươi dặm, phàm chỗ nào có chùa chiền núi non, khe suối, hoa trúc, chẳng đâu chẳng đến, nhà ai có rượu ngon, đàn hay, chẳng đâu chẳng qua, ở đâu có sách vở múa hát, chẳng đâu là chẳng xem. Tự khi ở Lạc Xuyên, có người mời đi ăn tiệc đâu, thường thường cũng đi. Mỗi khi mát trời, hoặc lúc có trăng, có tuyết, bạn bè đến chơi, tất cả là bạn hồ rượu, mở tủ sách, thơ rượu thích chí rồi vớ lấy đàn gảy một khúc "thu từ", nếu hứng nữa thì sai trẻ nhà hòa nhạc, cùng tấu một khúc "Nghê thường Võ y", nếu vui nữa thì sai con hát hát vài khúc "Dương Liễu Chi", phóng tình vui vẻ, kỳ đến say khướt mới thôi. Đôi khi thừa hứng đi bộ sang láng giềng, hoặc chống gậy đi trong làng, hoặc cưỡi ngựa chơi chốn đô ấp, hoặc ngồi song loan chơi ngoài đồng nội. Trong song loan để một cái đàn, một cái gối, vài quyển thơ của ông Đào, ông Tạ, hai bên đầu tay song loan, treo hai hồ rượu, tìm nơi có sông núi, tùy tình dạo xem, ôm đàn dốc bầu, hết vui rồi trở về. Như thế mười năm, trong khoảng đó ngâm thơ ước hơn nghìn bài, ngày nấu rượu ước trăm hộc, mà trước sau hơn mười mấy năm không kể. Vợ con thấy uống nhiều quá thì lo mà ngăn can hai ba lần. Tiên sinh nói: "Phàm tính người ta ít người được trung bình, tất có đam mê về một việc. Ta cũng không giữ được mực trung bình. Nếu chẳng may mà ta hám lợi, làm nên giàu có, của cải chứa nhiều, cửa nhà lộng lẫy, để mua lấy vạ làm hại cho thân mình thì làm thế nào? Nếu chẳng may mà ta hám cờ bạc, trăm nghìn đổ đi một lúc, làm cho phá gia bại sản để đến nỗi vợ con đói rét thì làm thế nào? Nếu chẳng may mà ta hám sự luyện thuốc, nấu cao luyện đan, để đến nỗi không thành thuật gì, có điều lầm lỡ thì làm thế nào? Nay ta không hám các sự ấy, mà chỉ thích chí ở trong cuộc rượu câu thơ, phóng túng thì phóng túng thực, nhưng có hại gì, chẳng còn hơn ba sự kia ư? Bởi thế Lưu Bá Luân thấy vợ nói mà không nghe, Vương Vô Công chơi ở làng say mà không về vậy".
Nói đoạn, đem vợ con vào buồng nấu rượu, ngồi xổm, ngửng mặt lên hú dài một tiếng rồi than rằng: "Ta sinh ra ở trong trời đất, tài và hạnh kém cổ nhân xa, song giàu hơn Kiềm Lâu, thọ hơn Nhan Uyên, no hơn Bá Di, vui hơn Vịnh Khải Kỳ, khỏe hơn Vệ Thúc Bảo, may lắm may lắm, ta còn cầu gì nữa. Nếu bỏ cái thích của ta thì còn lấy gì mà vui lúc già!
Bèn ngâm lại một bài thơ "vịnh hoài", ngâm xong tủm tỉm cười, rồi nhắc vò rót rượu, uống vài chén cho say tít cú lỳ. Say rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại ngâm, ngâm rồi lại uống, uống rồi lại say, say với ngâm cứ lần lượt mà theo nhau. Bởi thế mà coi cuộc đời như giấc mộng, coi phú quý như đám mây bay, màn trời chiếu đất, chớp mắt trăm năm, lúc nào cũng li bì mờ mịt, không biết cái già nó đã theo đến, chỗ mà người xưa gọi "hòa với rượu", nên tự đặt hiệu là "Tuý Ngâm tiên sinh". Bấy giờ là năm Khai thành thứ ba, tiên sinh sáu mươi bảy tuổi, râu đã bạc, đầu hói một nửa, răng khuyết hai chiếc, mà cái vui trong thi tửu vẫn chưa suy. Ngoảnh lại bảo vợ con rằng:
"Mình ta từ nay về trước sướng rồi, còn cái mình ta từ nay về sau chưa biết vui như thế nào nữa!".
Lời bàn:
Trang Tử bàn đến cái đức SAY của người "Say Đạo" đã viết.
Người say rượu té xe, tuy mang tật mà không chết. Gân cốt thì giống với mọi người, mà bị hại thì sao lại khác với mọi người? Là vì nó giữ toàn được cái thần. Lên xe cũng không biết, té xe cũng không hay! Tử, sinh, kinh, cụ không sao vào được trong lòng. Cho nên dù có chống lại với vật mà không biết sợ. Đó là kẻ đã hòa với rượu mà còn được thế, huống chi là kẻ đã hòa được với thiên nhiên".
Mở đầu, tác giả đã tự giới thiệu một cách trào lộng nhưng sâu sắc vô cùng "Túy Ngâm tiên sinh là người quên cả họ tên quan tước làng mạc... hồ đồ như mình không hiểu mình, là gì nữa". Đó là cái SAY của bậc "chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân vô danh".
Say mà luận việc đời TỈNH hơn người TỈNH. Tiếng cười giòn giã của thánh nhân đã bắt đầu!
"Phàm tính người ta ít được có người "đắc trung", tất có sự ham mê về một việc gì. Ta cũng không giữ được mực "trung". Nếu chẳng may mà ta ham mê lợi lộc, làm giàu chứa của, cửa nhà lộng lẫy để chuốc họa vào thân, thì làm thế nào? Nếu chẳng may mà ta ham mê cờ bạc, trăm nghìn đổ đi một lúc, làm phá gia bại sản để đến nỗi vợ con đói rét, thì làm thế nào? Nếu chẳng may mà ta hám mê ăn mặc, luyện đơn luyễn thuốc để đến nỗi không thành công gì cả lại gây thêm lầm lỗi, thì là thế nào? Nay may mà ta chẳng ham mê những việc ấy, chỉ thích ở trong việc câu thơ chén rượu, phóng túng thì quả có phóng túng thật, nhưng có hại gì? Chẳng còn hơn ba việc kia sao? Bởi vậy Lưu Linh vợ can mà không nghe, Vương Tích chơi ở làng say mãi không về"
Người ta trên đời, trong cái cõi phù du này, phải có vui thích một cái gì... để mà biết xem nhẹ cuộc đời. Cái "say" của Bạch Lạc Thiên cùng với cái "say" của Đào Tiềm là một, đó là cái say của bậc thánh nhân đắc đạo, cái say "coi đời như giấc mộng, phú quý như phù vân, lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu, xem trăm năm như chớp mắt" tuy thấy là một khoảnh khắc nhưng mà là một khoảnh khắc của thiên thu.
Có cái tỉnh mà say, nhưng cũng có cái say mà tỉnh. Thế nhân tỉnh mà say, thánh nhân say mà tỉnh. Thế nhân "tỉnh" trong cái "tâm sai biệt" phân biệt chính tà, vinh nhục, thọ yểu, thị phi... trái lại thánh nhân "say" trong cái "tâm vô sai biệt" (tâm hư) trong đó vũ trụ là một xáo trộn cổ kim, kim cổ, dồn làm một khối: "Lúc nào cũng li bì mờ mịt, không biết cái già nó đã theo đến"... Cái say của thánh nhân là cái say của người tỉnh. Cái tỉnh của thế nhân là cái tỉnh của người say (mê muội): Trong cảnh giới nhị nguyên.
Chương 16 - Đức Uống Rượu
Chương 16 - Đức Uống Rượu
Có một đại nhân lấy trời đất làm một buổi, lấy muôn năm làm một chốc, lấy mặt trời, mặt trăng làm cửa ra vào, lấy thiên hạ làm sân, làm đường, đi, không thấy vết xe, ở, không có nhà, cửa, trời, tức là màn, đất, tức là chiếu, ý muốn thế nào thì thế. Lúc ở nâng chén cầm bầu, lúc đi thì vác chai, xách mâm, lúc nào cũng chỉ có việc rượu chè, không còn biết đến gì nữa.
Có một vị công tử và một ông quan, sang qua nghe tiếng tiên sinh như thế, bèn đến tận nhà, xăn tay, vén áo, trừng mắt, nghiến răng, kẻ thì giãi bày lễ nghĩa, người thì giảng giải thị phi, ầm ĩ như đàn ong.
Lúc đó tiên sinh ôm vò rượu, ghé vào thùng rượu, tợp cả chén, vểnh râu, ngồi dang hai chân, không nghĩ, không lo, hớn hở, say sưa, thoáng rồi lại tỉnh. Lắng tai, cũng không nghe thấy tiếng sấm sét, nhìn kỹ cũng không trông thấy hình Thái sơn, nóng lạnh đến thấu cả thân, cũng không biết, tiền của dục vọng cảm đến tình, cũng không hay, cúi xuống trông vạn vật rối rít ở trước mắt khác nào bèo nổi bồng bềnh trên sông Giang, sông Hán.
Hai vị kia đứng bên cạnh, tiên sinh thấy như con tò vò, như con sâu rọm mà thôi.
Lời bàn:
Bài văn này của Lưu Linh "mắng" nặng hạng người thích tách bạch thị phi, thiện ác...
Đối với người đã xem thời gian vô cùng của trời đất như một buổi, muôn năm là một chốc... thì cái bọn người câu chấp hẹp hòi trong những cái gọi là lễ nghĩa thị phi... còn có nghĩa lý gì...
Cái say của Lưu Linh là cái say Đạo, vượt khỏi nhị nguyên, cho nên tiếng sấm sét không làm kinh động con người, tiên sinh lắng tai cũng không nghe. Hình núi Thái cao to lớn là bao, vậy mà dưới con mắt tiên sinh dù đã hết sức nhìn kỹ cũng không thấy. Tả cái tâm cảm của người đắc Đạo như thế quả là tài tình và hài hước.
Còn gì hài hước nữa bằng cách tả hạng Nho gia hăng hái truyền cái đạo nhị nguyên của họ như một đàn ong vỡ ổ: "Có một vị công tử, và một ông quan sang qua, nghe tiếng tiên sinh như thế, bèn đến tận nhà, xăn tay, vén áo, trừng mắt, nghiến răng, kẻ thì giãi bày lễ nghĩa, người thì giảng giải thị phi, ầm ĩ như đàn ong". Quả là cái cười tàn nhẫn! Tàn nhẫn mà hài hước đến cực độ là câu chót: Hai vị kia đứng bên cạnh, tiên sinh thấy như con tò vò, như con sâu rọm mà thôi!".
Chương 17 - Ngũ Liễu Tiên Sinh
Chương 17 - Ngũ Liễu Tiên Sinh
Ông không rõ người ở đâu, tên họ gì, bên nhà có trồng năm cây liễu, nhân đó mà đặt tên.
Ông nhàn tĩnh, ít nói, không ham danh lợi. Tính ham đọc sách, lại không cần thâm cứu chi tiết, mỗi lần hội ý điều gì thì vui vẻ quên ăn. Tính thích rượu, nhưng nhà nghèo, không có được thường. Người thân cận cố cựu biết vậy, có khi bày rượu mời, ông lại uống hết, đến say mới thôi. Say rồi thì về, không lưu luyến gì cả.
Tường vách tiêu điều, không đủ che mưa nắng, bận áo vải thô vá, bầu giỏ thường trống không mà vẫn vui.
Ông thường làm ăn để tiêu khiển và tỏ chí mình. Đắc thất không màng, cứ vậy trọn đời.
Khen rằng: "Kiềm Lâu nói: Không đau đáu lo cảnh nghèo hèn, không vội vàng mưu cảnh giàu sang".
Lời nói ấy trỏ vào hạng người như này chăng?
Lời bàn
Lối văn u mặc của Đào Tiềm nhẹ nhàng hơn của Lưu Linh, nhưng đều cùng một mùi vị hư vô siêu thoát
Bài văn của Đào Tiềm có nhiều đoạn rất hay... "Ông, không rõ là người ở đâu, tên họ gì..." Những ai đã hiểu Thiền, đọc lên sẽ thấy thú vị vô cùng. Trong khi thiên hạ đua nhau tìm cách "lưu danh hậu thế" đánh trống thổi kèn để cho khắp thiên hạ được biết đến cái tên nhỏ bé của mình thì Đào Tiềm cũng như Bạch Cư Di khởi đầu nói đến một thứ con người "vô danh": Túy Ngâm tiên sinh và Ngũ Liễu tiên sinh
Đào Tiềm hiểu rất rõ những tâm sự của những con người háo danh trục lợi, họ nói rất hăng, họ nói rất nhiều... nếu không phải vì háo danh thì chắc chắn không còn cái gì thúc đẩy con người ham nói cả. Cho nên Ngũ Liễu tiên sinh là người "ít nói", và dĩ nhiên bởi ông là người "không ham danh lợi". Chỉ có một câu mà nói lên được tất cả nhân quả của cái trò hề bản gã (comédie du moi)
Lối đọc sách của Ngũ Liễu tiên sinh cũng khác đời. Người đời đọc sách thì đi moi móc từng chữ một, chết trong văn từ chi tiết, lặn hụp trong hình thức, chi ly phân tích. Ngũ Liễu tiên sinh đọc sách "không cần thâm cứu chi tiết, mỗi khi hội ý điều gì thì vui vẻ quên ăn". Đọc sách mà được như thế là nhập thầnÔng
Giàu nghèo bất kể, đắc thất không màng. Ngụ Liễu tiên sinh quả là người cách xa thiên hạ: Một con người Tự Do
Nếu trong hàng đệ tử Khổng Tử hỏi Ngài về cái con người quái dị này là hạng người thế nào, chắc chắn Khổng Tử sẽ bảo: "Người mà làm gì hiểu nổi. Hỏi Hồi, may ra nó mới có thể nói cho mà nghe!
Chương 18 - Đánh Cá Với Như Lai
Chương 18 - Đánh Cá Với Như Lai
Thích Ca vừa đến Linh Tiêu, bỗng nghe tiếng khí giới chạm nhau chan chát vang lên! Thích Ca liền bảo Lôi Công bãi chiến, và kêu Tề Thiên hỏi. Tề Thiên nghe kêu hiện nguyên hình bước tới hét lớn:
- Nhà người ở xứ nào, dám tới đây khuyên giải?
Thích Ca cười nói:
- Ta ở Cực Lạc, hiệu Thích Ca Như Lai, nghe tin ngươi ngang dọc náo loạn Thiên Cung, nên đến đây khuyên ngăn! Chẳng hay ngươi sinh ở đâu, thành đạo từ năm nào, vì sao lại phản Trời như vậy?
Tề Thiên nói:
- Trời đất khiến đá nứt sinh ta, lâu nay ở non tiên Hoa Quả, động Thủy Liêm. Từ thuở nhỏ theo thầy Tây Thổ, luyện phép trường sinh bất tử. Nay thấy trung giới thâm u, muốn ngự chương tòa, thay vì Thượng đế. Bởi Thiên tướng cản ngăn, nên ta loạn đả Thiên cung, quyết buộc Ngọc Hoàng nhượng chức.
Thích Ca cười nói:
- Chẳng qua ngươi cũng là một con khỉ thành tinh, sao dám lớn mộng cướp ngôi Trời? Vả, Thượng đế tu đến một ngàn năm trăm năm chục kiếp, mỗi khiếp có nhiều năm. Còn ngươi tu luyện bao nhiêu mà dám lên ngôi báu! Sao ngươi không biết lẽ phải, lo phần tu niệm, còn quen thói dọc ngang, gặp đạo cao e cho uổng khiếp!
Tề Thiên vẫn hiên ngang nói:
- Đi tu nhiều, để rồi làm vua cho được lâu sao? Hễ thiên địa tuần hoàn thì ngôi báu cũng phải thay đổi. Ngươi mau bảo Thượng đế nhường ngôi, bằng không ta phá nát Thiên cung.
Thích Ca trầm tĩnh nói:
- Trừ phép trường sinh và biến hóa của ngươi ra, ngươi còn phép gì cao siêu hơn nữa, mà dám giành ngôi Thượng đế?
Tề Thiên nói:
- Ta có bảy mươi hai phép huyền công, luyện đặng trường sinh bất lão, và cân đẩu vân không ai sánh kịp, nhảy hơn mười ngàn tám trăm dặm, tài phép như vậy ta thay ngôi Trời chẳng xứng sao?
Thích Ca bảo:
- Vậy người cùng ta đánh cuộc coi tài phép bậc nào?
Rồi Thích Ca giơ bàn tay ra nói tiếp:
- Nếu ngươi nhảy khỏi bàn tay hữu này, ta sẽ bảo Thượng đế nhường ngôi cho ngươi, để khỏi tốn công chiến đấu, bằng ngươi nhảy không đặng, phải sớm trở về trung giới tu thêm ít kiếp, mới đủ sức đoạt ngôi Trời!
Tôn Hành Giả nghe nói cười thầm: "Ta nghe tiếng Thích Ca từ lâu, sao còn quê mùa đến thế! Lão Tôn nhảy một cái có tới mười ngàn tám trăm dặm, sá chi bàn tay là bao lớn, mà bày chuyện đánh cuộc!"
Qua ý nghĩ ấy, Tề Thiên vụt hỏi:
- Ngươi hứa như vậy, có chắc không?
Thích Ca đáp:
- Chẳng lẽ ta dối ngươi sao?
Dứt lời Thích Ca xòe bàn tay hữu ra, bằng lá sen.
Tôn Hành Giả cất thiết bảng, co chân nhảy vọt qua và la lớn:
- Ta qua khỏi Thích Ca thấy rõ chăng?
Bỗng Tề Thiên đưa mắt nhìn quanh, thấy có năm cây cột màu đỏ như thịt, trên đầu có mây xanh bèn nghĩ thầm: "Ta nhảy xa quá! Dường như đã cùng đường rồi! Có lo chi Thích Ca không bảo Thượng Đế nhường ngôi! Nhưng ta phải làm dấu, đề phòng khi đối nại với Thích Ca". Liền nhổ lông hóa ra viết mực, đề lên cột tám chữ: "Tề Thiên Đại Thánh đáo thử nhất dụ". Viết xong đái vào cột thứ nhất rồi mới dùng phép cân đẩu vân trở lại, kêu Thích Ca nói:
- Lão Tôn đã nhảy qua khỏi tay, ngươi mau bảo Ngọc Hoàng nhượng chức.
Thích Ca nổi giận mắng:
- Con khỉ đái vất, chưa ra khỏi tay ta sao đòi nhượng chức?
Tề Thiên hiu hiu tự đắc đáp:
- Lão Tôn nhảy khỏi tay qua đến chân trời, thấy có năm cây cột, với vừng mây xanh. Ta đã làm dấu ngươi rồi, ngươi không tin thì đến đó xem.
Thích Ca nói:
- Ta không cần đến làm gì, ngươi hãy cúi đầu xuống coi nhà ngươi đã nhảy đến đâu.
Tề Thiên nhìn xuống, thấy ngón tay giữa của Thích Ca có đề tám chữ: "Tề Thiên Đại Thánh đáo thử nhất dụ" và nơi dưới ngón tay cái còn hinh hỉnh hơi bọt của nước đái khỉ!
Lời bàn:
Tây Du Ký là một pho tiểu thuyết hoạt kê tài tình nhất của Trung Hoa trong đó xen lẫn một cách hồn nhiên những gì sâu sắc nhất mà cũng tầm thường nhất, cao siêu nhất mà cũng ngu ngốc nhất. Bởi vậy nó đã thỏa mãn được mọi từng lớp con người trong xã hội, từ bậc đại trí đến những bậc bình dân: Già trẻ, bé lớn, đàn ông, đàn bà, con trai, con gái không ai đọc đến mà không cười...
Tôn Ngộ Không là một con khỉ đá (thạch hầu) tượng trưng bộ óc thông minh, tài năng quán thế và đầy ngạo nghễ của lý trí, với tham vọng chinh phục tất cả ngoại vật không bao giờ biết dừng (ngày nay gọi là khoa học vạn năng chinh phục cả không gian và thời gian). Tam Tạng, tượng trưng tâm đạo, chất phác thật thà (đạo học). Cả hai đại diện cho Trí (Ngộ Không) và Tâm (Tam Tạng). Bát Giới, tượng trưng thị dục vô bờ bến của thú tính nơi con người. Sa Tăng thật thà chất phác hơn, là sức chịu đựng nhẫn nại của phần thể xác. Cả bốn thầy trò là bốn yếu tố chính trong con người: Bốn người ký thực là một. Thiếu một, tập đoàn này không sao đi đến Tây Phương cực lạc... Pascal ví người ta có hai phần: Một ông thánh và một con thú. Phần Thánh là Tam Tạng và Ngộ Không (Tâm và Trí). Thị dục là phần con thú trong người đó là Bát Giới. Cho nên, dù là bậc thánh như Tam Tạng thường cũng hay nghe lời thị dục hơn là lý trí. Tam Tạng thường hay thiên vị Bát Giới hơn Ngộ Không. Bản tính loài người là vậy.
Bài văn trên đây miêu tả một cách hết sức khôi hài và có duyên cái tính tự cao tự đại của con người sống bằng Trí và cái tinh thần u mặc tế nhị của Phật Tổ Như Lai
Nhà Phật chuyên về huyền tướng: Cân đẩu vân của Tề Thiên với một cái nhảy đến mười ngàn tám trăm dặm, vậy mà cũng không thoát khỏi bàn tay của Như Lai. Không còn gì khôi hài bằng
Ai kia bên trời Tây đã tự hào chủ trương "thủy tổ loài người là khỉ", nhưng lại bị người đạo đức hương nguyện trách cứ vì đã đánh mất nguồn gốc thiêng liêng của loài người, nghĩ thật oan uổng và hài hước! Phải nói, họ đã bắt chước người Đông phương mà không dè!
Người Đông phương sở dĩ có chỗ khác biệt với người Tây phương thì hài hước mà Tây phương thì trang nghiêm. Bởi vậy người Tây phương đọc Tây Du Ký thì cười mà đọc Darwin thì giận: Tổ tiên loài người lẽ nào là con thú? Nếu nói như Đông phương, con người là cả bốn thầy trò Tam Tạng, Ngộ Không, Sa Tăng và Bát Giới, hoặc nói như Pascal: "Con người không phải là một vị thánh, cũng không phải là một con thú, mà là cả hai"
Chương 19 - Cầu Nước Trường Sinh
Chương 19 - Cầu Nước Trường Sinh
Đêm ấy, bốn thầy trò Tam Tạng đang yên giấc thì bỗng vào khoảng canh hai, có tiếng chiêng mõ vọng lại inh ỏi.
Tôn Hành Giả lén ngồi dậy, mặc áo, nhảy lên mây trông xuống, thấy bên mé Nam đèn đuốc sáng lòa, có một đạo sĩ đang đứng lễ bái trên điện Tam Thanh.
Ba vị tiên ông đang mặc áo bát quái đứng độc thần chú. Hai bên bảy tám tên đồ đệ đánh trống và dâng hương.
Tôn Hành Giả tức cười muốn hiện xuống tìm cách phá chơi cho bõ ghét. Nhưng một mình e làm không nên việc, liền vội trở về rủ Bát Giới, Sa Tăng.
Tôn Hành Giả lén vỗ Sa Tăng dậy nói nhỏ:
- Ngộ Tịnh! Mau thức dậy, ta có chuyện này hay lắm!
- Sư huynh không ngủ sao!
Tôn Hành Giả nói:
- Mau ngồi dậy lén cùng ta đi dự tiệc.
Sa Tăng hỏi:
- Tiệc gì lúc canh ba này?
Tôn Hành Giả nói:
- Tại miếu Tam Thanh, đạo sĩ đang lập đàn làm chay cúng tế. Trên bàn thờ có hơn bảy chục cân bánh in, còn bánh bao thì nhiều lắm. Đó là chưa kể đến các thứ trái cây bày la liệt! Sư đệ hãy cùng ta đến đó hưởng cho mau, kẻo chúng cúng xong, dọn hết.
Bát Giới nghe bàn, vụt ngồi dậy nói:
- Sao không kêu tôi đi với?
Tôn Hành Giả nói nhỏ:
- Đừng có om sòm mà thầy thức dậy. Muốn ăn thì lén đi theo ta.
Ba người bò ra khỏi phương trượng, đằng vân đến miếu Tam Thanh.
Bát Giới thấy bánh trái để trên bàn cúng nhiều quá muốn xáp vào làm hỗn. Tôn Hành Giả nắm lại, bảo rằng:
- Đừng có ham ăn làm liều hỏng cuộc! Cứ để cho nó tan lễ rồi sẽ tính.
Dứt lời bắt ấn, niệm chú, hớp một hơi gió bên hướng Tốn thổi ngay vào. Tức thì gió ầm ầm nổi lên làm tắt đèn, bay tượng hết.
Các đạo sĩ thất kinh hồn vía. Hổ Lực đại tiên nói:
- Trận cuồng phong to quá, làm đổ cả cỗ bàn. Thôi chúng ta đi nghỉ, ngày mai sẽ tụng kinh bổ khuyết.
Các để tử tuân lệnh, để cả đồ đạc y nguyên kéo nhau đi ngủ.
Tôn Hành Giả cười khúc khích, nắm tay Sa Tăng và Bát Giới kéo lại nói nhỏ:
- Bây giờ thì cứ tha hồ mà xơi!
Ba người nhảy phóc lên bàn, mò trúng món gì thỉnh món ấy.
Bát Giới lăng xăng chạy bên này, nhảy bên kia, Tôn Hành Giả nói:
- Đừng có bốc hốt như con nít, hãy ngồi ăn cho tề chỉnh.
Bát Giới nói:
- Đã ra thân ăn vụng mà còn nói gì đến lễ nghi. Ăn ngốn ngấu cho xong, chúng nó hay được, mất ăn cả lũ.
Tôn Hành Giả hỏi:
- Ba cái cốt Tam Thanh ở đâu?
Bát Giới đưa tay đỡ mấy pho tượng lên, nhìn mặt, rồi nói:
- Đây là cốt ông Nguyên Thủy, chúng ta đặt ngồi giữa, đây là cốt ông Thái Thượng Lão Quân chúng ta đặt ngồi bên hữu, còn đây là cốt ông Linh Bửu Thiên Tôn, chúng ta đặt ngồi bên tả.
Tôn Hành Giả nói:
- Chúng ta phải giấu ba cốt tượng này, rồi hiện hình ba vị Tam Thanh thì ngồi ăn mới yên ổn.
Bát Giới nghe nói đắc ý nhảy lên lấy mỏ ủi ngã cốt ông Thái Thượng xuống và mỉa mai nói:
- Thôi! Ông ngồi đã mãn tiệc rồi, xin tránh chỗ cho tôi làm ba miếng.
Sa Tăng cũng bắt chước Bát Giới xô ngã tượng Linh Bửu, rồi hiện hình ngồi trên đài.
Tôn Hành Giả nói:
- Không xong! Đừng làm biếng. Hãy giấu mấy cốt tượng kia đã, kẻo chúng thấy thì bể chuyện.
Bát Giới nói:
- Ba cái cốt to thế kia biết chỗ nào mà giấu?
Tôn Hành Giả nói:
- Ta thấy mạn bên trái gần đây có cái ao, đưa cả xuống tiện lắm.
Bát Giới nhảy xuống, hai tay rinh ba cốt tượng đem thả ùm xuống ao, rồi bôn ba trở về ngồi vào chỗ mình.
Tôn Hành Giả chỉ ăn toàn trái cây. Sa Tăng, Bát Giới thì món nào cũng hảo cả. Ba người làm một hơi, cỗ bàn sạch bách.
Giữa lúc đó, bất ngờ có tên tiểu đạo sĩ, vì bỏ quên cái đẩu trên bàn nên ra đó mà kiếm.
Vừa bước lên đàn, chợt nghe có hơi thở như hơi người và có tiếng chép miệng, tên tiểu kinh hoàng quay lưng lại, thì vừa giậm phải vỏ chuối trợt té chổng giò.
Bát Giới không nhịn được cười, phá lên cười ha hả.
Tên tiểu đạo sĩ hoảng vía, vừa chạy vừa la.
Ba vị đạo sĩ còn thức, nghe la, bước ra hỏi:
- Việc gì thế?
Tiểu đạo sĩ thưa:
- Thầy ôi! Không xong. Đệ tử bỏ quên cái đẩu trên đàn nên ra kiếm, nghe có tiếng người thở và tiếng cười sằng sặc ở trên bàn.
Ba đạo sĩ nổi giận, hét:
- Hãy thắp đèn lên, tà ma ở đâu dám lộng hành như vậy!
Trông thấy ánh đèn lấp loáng, Tôn Hành Giả đưa tay nắm lấy Sa Tăng, Bát Giới giữ lại.
Hai người hiểu ý, ngồi im không dám hành động.
Các đạo sĩ gọi đèn khắp nơi, tìm không thấy gì cả. Lộc Lực Đại Tiên nói:
- Không thấy người nào đến đây, cớ sao cỗ bàn đếu mất hết.
Hổ Lực Đại Tiên tức giận, rọi đèn khắp nơi, thấy vỏ trái cây lột bỏ ê hề, còn bánh bao chỉ còn mấy cái, lẩm bẩm:
- Lạ lắm! Ít ra thì cũng có kẻ nào lẻn vào đây ăn mới có dấu vết này chứ!
Dương Lực Đại Tiên nói:
- Sư huynh đừng nghi ngại. Có lẽ vì chúng ta lòng thành nên Tam Thanh tổ sư gián hạ nhậm lễ, sẵn dịp ngài còn đây, chúng ta lạy xin tiên đơn dâng cho trào đình, kẻo lâu nay ao ước.
Hổ Lực Đại Tiên khen phải, liền khiến các đệ tử gióng trống lên để cầu đảo.
Hổ Lực Đại Tiên quỳ trước bàn thờ van vái:
- Vua Xa Trì lâu nay ao ước được kim đơn, xin tổ sư ban ơn huệ.
Bát Giới bấm tay Tôn Hành Giả nói nhỏ:
- Biết như vầy lúc nãy đừng ăn ráng, cứ ra về cho sớm có hơn không. Ăn thêm một chút ít không thắm vào đâu mà mang họa!
Tôn Hành Giả bấm tay Bát Giới bảo im lặng, rồi lên giọng:
- Các tiểu tiên đừng lạy nữa. Chúng tôi vừa dự yến ở nơi bàn đào về đây không có đem theo linh đơn được. Dịp khác sẽ cho.
Các đạo sĩ nghe tượng Tam Thanh trỗi giọng sợ run lập cập. Nhưng khi nghe hết câu, mừng rỡ quỳ lại và nói:
- Thiên Tôn ít khi giáng lâm khó có dịp đệ tử được hầu, xin Thiên Tôn thương tình đệ tử.
Hổ Lực Đại Tiên quỳ lại, nói tiếp:
- Đệ tử hằng mong ước được vài giọt nước kim đơn uống để cho sống lâu, Thiên Tôn đã giáng lâm, lẽ nào không thương tưởng!
Sa Tăng bấm Tôn Hành Giả nói nhỏ:
- Bọn này có lẽ thích nước tiên đơn lắm, nên cầu xin mãi. Chúng ta tiếc gì mà không cho.
Tôn Hành Giả hiểu ý, cất giọng nói:
- Chư đệ tử đã thành tâm, lập đài cầu nguyện. Thôi ta cũng vui lòng để lại đây một ít cho chư đệ tử dùng.
Các đạo sĩ đồng quỳ lạy tạ ơn, và nói:
- Thiên Tôn rủ lòng thương như vậy, từ nay triều đình tất trọng đạo ta!
Tôn Hành Giả nói:
- Các ngươi hãy đem đồ đựng lạy đây!
Ba vị Tiên ông liền đứng dậy khiêng một cái ché lớn để trước bàn tượng, còn bọn đệ tử đứa thì bưng chậu, đứa thì rút bông lấy chân lạc bình để phụ vào.
Tôn Hành Giả nói:
- Các ngươi di tản hết, để ta dùng phép trao nước linh đơn. Nếu kẻ nào rình xem sẽ bị đui mắt.
Các đạo sĩ vâng lời lánh mặt nơi khác.
Tôn Hành Giả đứng dậy, với lấy chân lạc bình vén quần đái vào đấy đầy nhóc.
Bát Giới nói:
- Tôi cũng thốn bụng, cho tôi đái với, được chăng?
Tôn Hành Giả chỉ cái ché cho Bát Giới. Bát Giới xổ một hơi hơn nữa ché. Sa Tăng cũng phụ vào.
Xong, Tôn Hành Giả gọi các đạo sĩ đến lãnh "nước linh đơn".
Các đạo sĩ lật đật chạy đến cuối đầu lạy tạ, rồi bưng chậu, ché, và chân lục bình xuống dưới đàn.
Hổ Lực bảo đệ tử đem chén chung lại, rót uống một hớp.
Vừa nuốt khỏi cổ, Hổ Lực vừa chùi miệng và nhăn mặt.
Lộc Lực lấy làm lạ, hỏi:
- Kim đơn là thuốc tiên, uống ngon lắm, cớ sao lại cau mày?
Hổ Lực đáp:
- Không ngon! Hơi khai!
Lộc Lực không tin, lấy chén múc vào chậu uống một hớp, rồi cũng nhăn mặt, nói:
- Có hơi nước đái heo!
Tôn Hành Giả nghe nói biết đã bại lộ, liền hiện nguyên hình, nạt lớn rằng:
- Chúng bây là những đứa ngu muội. Đó là nước đái của ta, đâu phải kim đơn mà uống?
Ba vị tiên ông thất kinh, hét:
- Mày là ai lại đến đây vô lễ đến thế?
Tôn Hành Giả cười ha hả, nói:
- Ta là Tề Thiên, theo thầy ta đến Tây Phương thỉnh kinh, nhân qua đây thấy các ngươi thết tiệc, ghé vào ăn uống cho vui. Bởi vì các người khẩn khoản cầu xin kim đơn, nên ta mới cho một ít nước tiểu làm kỷ niệm.
Các đạo sĩ nổi giận, kẻ xách chổi đập, người vác gạch ngói liệng. Ba anh em Tôn Hành Giả vội vã đằng vân bay về.
Lời bàn:
Câu chuyện "Cầu thuốc trường" trên đây trong Tây Du Ký quả là một câu chuyện có tính cách u mặc thượng thừa có công dụng lập tức.
Tây Du Ký "cười" tất cả, không đề cao bất cứ thứ gì, Phật tổ cũng không tha, Đạo gia cũng bất kể. Trong nền văn học u mặc của Trung Hoa, riêng tôi cho nó là một kỳ quan hiếm có. Phải tinh thông Tam Giáo, uyên bác Tam Huyền mới có thể hiểu được những nghĩa sâu kín chứa đựng trong bộ truyện phi thường này.
Nhiều nhà phê bình của ta luận về tác phẩm này đã nhìn bằng cặp mắt thật thà của các nhà luân lý, như chê rằng Phật tổ mà còn nói láo v.v... họ làm gì hiểu nổi phần u mặc thượng thừa của Tây Du Ký. Thật đáng tiếc.
Chương 23 - Người Đánh Xe Lừa
Chương 23 - Người Đánh Xe Lừa
Người đánh xe lừa, rất bực mình giống lừa cứng cổ. Giống này, hễ làm biếng không đi, thì đứng lỳ một chỗ, càng bị đánh càng lùi thêm... Anh ta bèn nghĩ ra một kế: Đem bó lúa tươi thơm ngát treo trước đầu lừa.
Lừa thấy lúa thơm, bước tới ăn. Nhưng, bước tới thì bước, mà bó lúa vẫn không bao giờ ăn được. Nhờ vậy mà nó cứ bước mãi... Người đánh xe không cần thúc giục, mà xe cứ lăn tới đều đều... theo ý muốn.
Chương 25 - Cầu Cho Bạo Chúa Sống Lâu
Chương 25 - Cầu Cho Bạo Chúa Sống Lâu
Có một lão bà ở Syracuse. Lúc bấy giờ vua Dennys trị dân tàn bạo một cách không thể nói.
Thiên hạ đều cầu khẩn cho vua chóng chết.
Thế mà lão bà sáng nào cũng vào giáo đường cầu nguyện cho bạo chúa sống lâu. Hơn nữa lại còn vái lạy thần linh, nếu có làm chết xin làm chết mình thay cho hôn quân.
Vua biết tin lấy làm lạ lùng quá, bèn vời lão vào hỏi cho rõ lý do. Lão bà nói:
- Tôi nay không có xuân xanh nữa! Trước đây, khi tôi còn trẻ, nước tôi đã phải gặp hôn quân vô đạo, thật là khổ sở vô cùng. Tôi cầu nguyện cho nước thoát khỏi hôn quân. Sau đó kẻ hành thích vua khác lên kế nghiệp. Ngờ đâu lại tàn bạo hơn vua trước. Tôi lại nghĩ, giả sử vua này chết đi, thì có lẽ nhân dân thoát khỏi lầm than. Hay đâu vua ấy qua đời, thì đến bệ hạ lên ngôi, thiên hạ lại lầm than nhiều hơn các đời vua trước nữa. Lấy đó mà suy, thì đời sau chắc hẳn vua lại còn tàn ác hơn đời này. Sở dĩ tôi cầu nguyện đem thân này thế cho nhà vua được trường thọ là để trì hoãn được cuộc thay đổi ấy ngày nào hay ngày đó!
Lời bàn:
Câu chuyện bắt đầu là đã có sự bất ngờ. Và từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, ta đi đến một bất ngờ vô cùng hài hước này: Trong khi ai ai cũng đều cầu mong cho bạo chúa chết đi, lại có một bà lão vái van cho bạo chúa sống lâu, và nếu cần, chết thế cho bạo chúa.
Nhất là câu giải thích cuối cùng của lão bà, thì quả là điều mà không ai tưởng tượng. Phải chăng đó là lời nói của một tâm hồn tuyệt vọng hay một tiếng cười nghịch ngợm chua chát, vô cùng can đảm, để mà đùa cợt với cuốc đời?
Sau hồi ngạc nhiên và thỏa mãn với câu "chửi" táo bạo vào mặt hôn quân, ta cảm thấy có một ý vị sâu sắc trong lời nói đầy kinh nghiệm và "khôn ngoan" của lão bà. Lúc bà còn trẻ tuổi, bà cũng tin rằng hễ giết được bạo chúa thì thay đổi được cuộc diện xã hội tức khắc. Nhưng, qua bao nhiêu lần thay đổi, bà lại thấy xã hội này càng điêu linh thống khổ hơn. Nay bà đã già rồi, với bao kinh nghiệm đã trải qua, bà không còn ảo vọng nữa.
Chương 33 - Tiền Xích Bích
Chương 33 - Tiền Xích Bích
Ngày rằm tháng bảy mùa thu năm Nhâm Tuất, Tô Tử cùng với khách bơi thuyền chơi ở dưới núi Xích Bích.
Hây hây gió mát, sóng lặng như tờ, cầm chén rượu lên mờ khách, đọc bài thơ Minh Nguyệt và hát một chương Yểu Điệu. Một lát, mặt trăng mọc lên trên núi Đông Sơn, đi lững thững trong khoảng hai sao ngưu đẩu. Khi đó sương tỏa trên mặt sông, vẻ nước trong tiếp đến chân trời. Tha hồ cho một chiếc thuyền nhỏ đi đâu thì đi, vượt qua trên mặt nước mênh mông muôn khoảnh. Nhẹ nhàng như cỡi gió đi trên không mà không biết là đi đâu, hớn hở sung sướng như người quên đời đứng một mình, mọc cánh mà bay lên tiên. Vì thế uống rượu vui lắm, rồi gõ vào mạn thuyền mà hát. Hát rằng:
"Thung thăng thuyền quế chèo lan,
Theo vừng trăng tỏ vượt làn nước trong.
Nhớ ai canh cánh bên lòng
Nhớ người quân tử ngóng trông bên trời"
Trong bọn khách có một người thổi ông sáo, bèn theo bài ca của ta mà họa lại. Tiếng sáo não nùng rên rỉ như sầu như thảm, như khóc như than. Tiếng dư âm vẫn còn lanh lảnh, nhỏ tít như sợi tơ chưa đứt. Làm cho con giao long ở dưới hang tối cũng phải múa mênh, người đàn bà thủ tiết ở một chiếc thuyền khác cũng phải sụt sùi.
Tô Tử buồn rầu sắc mặt, thu vạt áo, ngồi ngay ngắn mà hỏi khách rằng:
- Làm sao lại có tiếng não nùng như vậy?
Khách đáp rằng:
- Câu "Minh nguyệt tinh hi, ô thước nam phi" chẳng phải là câu thơ của Tào Mạnh Đức đó ru? Đương khi Tào Mạnh Đức phá đất Kim Châu, xuống thành Giang Lăng, thuận dòng mà sang mặt đông, tàu bè muôn dặm, cờ tán rợp trời, rót chén rượu đứng trên mặt sông, cầm ngang ngọn giáo ngâm câu thơ đó thực là anh hùng một đời mà nay thì ở đâu? Huống chi tôi với bác đánh cá, kiếm củi ở trên bến sông này, kết bạn cùng tôm cá, chơi bờ với hươu nai, bơi một chiếc thuyền nho nhỏ, nhắc chén rượu để mời nhau, gởi thân phù du ở trong trời đất xem ta nhỏ nhặt như một hạt thóc ở trong bể xanh, thương cho sự sống của ta không bao lâu mà khen cho con sông này dài vô tận. Vậy mà muốn được dắt tiên bay để chơi cho sung sướng, ôm lấy vần trăng tỏ mà sống mãi ở đời. Tôi không biết làm sao được như vậy cho nên nảy ra tiếng rầu rĩ ở trong cơn gió thoảng!
Tô Tử nói:
- Vậy thế bác có biết nước và mặt trăng không? Nước chảy thế kia mà chưa từng đi bao giờ, mặt trăng khi tròn khi khuyết như vậy mà chưa từng thêm bớt bao giờ. Bởi vì ta tự ở nơi "biến" mà xem nên thấy cuộc trời đất chỉ ở trong một cái chớp mắt mà thôi, nhưng nếu tự ở nơi " bất biến" mà xem, thi muôn vật cùng với ta đều không bao giờ cùng tận cả, cần gì phải khen lẽ vô cùng của Trời Đất!
Vả lại, ở trong Trời Đất, vật nào có chủ nấy, nếu không phải là ta thì của dẫu một ly ta cũng không thể lấy. Chỉ có ngọn gió mát trên sông cùng vừng trăng sáng trên núi, tai ta nghe nên tiếng, mắt ta trông nên vẻ, lấy không ai cấm, mà dùng thì không bao giờ cùng tận! Đó là kho tận của tạo hóa mà là cái vui chung của bác với tôi.
Khách nghe vậy, mừng cả cười, rửa chén lại, rót rượu uống lần nữa. Khi đồ nhắm hoa quả đã khan, mâm bát đổ ngổn ngang, cùng nhau gối đầu ngủ ở trong thuyền, không biết vừng đông đã sáng bạch từ lúc nào.
Lời bàn:
Đây là một bài văn đầy hương vị của Hư vô. Câu nào cũng tuyệt diệu. Nhất là những câu... "Nhẹ nhàng như cưỡi gió đi trên không mà không biết đi đâu"... "Tha hồ cho một chiếc thuyền nhỏ, đi đâu thì đi..." đã nói lên được phần nào cái mà Trang Châu gọi là "Vô hà hữu chi hương" Phật gọi là "ưng vô sở trụ". Đời người phải chăng chỉ là một cuộc du hành vô tận (éternel voyage) trong cõi đời vô trụ, vô tướng... vì hết sức vô thường?
Trước cảnh đẹp của một đêm trăng trên sông Xích Bích lòng khách sinh quyến luyến mà đâm ra sợ cảnh vô thường... "Thương cho sự sống ta chẳng được bao lâu mà khen cho con sông này dài vô tận...". Không khí bỗng như nghẹt thở, khiến cho ai ai trên thuyền, khi nghe tiếng sáo của khách mà rơi lụy.
Nhưng, khi nghe Tô Tử nói: "Tự ở nơi cảnh "biến" mà xem thì cuộc trời đất cũng chỉ ở trong một cái chớp mắt, nhưng nếu tự đứng nơi "bất biến" mà xemm thì muôn vật cùng ta đến không bao giờ tuyệt cả... "Khách bèn tỉnh ngộ mừng rỡ, cười lên... cùng nau ăn uống no say, rồi "cùng nhau gối đầu ngủ ở trong thuyền, không biết vừng đông đãõ sáng bạch từ lúc nào!"
Quả có đúng lời nói này của người xưa: Chết đâu cho đáng sợ. Sợ chết mới đáng sợ. Bởi "sợ" mà khách buồn, bởi không còn "sợ" nữa mà lòng khách lâng lâng... cho nên u mặc hay nhất trong bài văn là câu cuối cùng: "Cùng nhau gối đầu ngủ trong thuyền, không biết vừng đông đã sáng từ lúc nào"
Chương 34 - Dương Xuân Bạch Tuyết
Chương 34 - Dương Xuân Bạch Tuyết
Vương nước Sở hỏi Tống Ngọc:
- Tiên sinh dường như có chỗ thiếu xót trong phẩm hạnh chăng mà kẻ sĩ và thường dân trong nước không thấy có mấy ai khen ngợi?
Tống Ngọc thưa:
- Dạ, quả có như thế. Xin Đại Vương tha tội, hãy dung cho tâu lại một lời. Khách có vẻ ca hát nơi kinh đô, thoạt đầu hát khúc Hạ Lý Ba Nhân, trong nước khen hay và họa kể lại mấy ngàn người. Rồi hát bản Dương A Dạ Loä, người khen và họa, rút xuống còn có vài trăm. Đến bài Dương Xuân Bạch Tuyết, khen và họa, còn lại chỉ có vài mươi người... Là vì khúc hát ý càng cao, thì người họa lại càng ít.
Loài chim có Phụng, loài cá có Côn. Chim Phụng giương cánh bay lên chín tầng mây, dọc ngang trong khoảng mênh mông vô tận, chim sâu đậu ở rào giậu kia, há có thể cùng với Phụng biết Trời Đất là rộng đến đâu?
Cá Côn sớm dậy ở Côn Lôn, trưa nằm ở sườn non Kiệt Thạch tối bơi về đầm Mạnh Trư, thứ cá nghê ở trong cái vũng, làm sao có thể cùng với nó lượng biết được sông bể lớn đến bậc nào!
Chẳng riêng gì loài chim có Phụng, loài cá có Côn, hạng sĩ cũng có Phụng, có Côn. Bậc thánh nhân hành vi trác việt, siêu nhiên và xử sự theo mình, người trong thế tục hiểu sao được hành vi của thần!
Chương 37 - Đưa Nhau Ra Tòa
Chương 37 - Đưa Nhau Ra Tòa
Một phú thương kia đi ngang qua làng nọ, thấy một đứa bé gái ngộ nghĩnh rất vừa lòng, bèn đem tiền bạc lại đóng cho cha mẹ em bé ấy để xin cưới khi em lên mười lăm tuổi. Rồi anh ta ra đi.
Cô bé đến tuổi. Có người con trai trong làng vừa ý, đem tiền đến xin cưới.
Sau ngày cưới, anh phú thương lại trở về, đòi cưới cô gái. Anh hỏi chàng trai:
- Tại sao anh cướp vợ tôi?
Chàng trai bảo:
- Ai cướp vợ ông? Lúc trước, khi ông cưới xin, cô ấy chỉ là một đứa bé lên năm. Vợ tôi bây giờ là một cô gái mười lăm. Đâu phải là cô bé năm tuổi khi xưa của ông!
Bèn đưa nhau ra tòa.
Một người kia đến một trại bán sữa tươi, mua một lon sữa.
Mắc việc phải sang làng bên cạnh, anh gửi lon sữa cho người chủ trại, hẹn khi trở về sẽ lấy:
Vài hôm sau, trở lại thì sữa đã đông đặc và phai màu. Anh ta không chịu lấy:
- Đâu phải thứ sữa mà tôi đã mua hôm trước!
Người chủ trại bảo:
- Thì chính lon sữa của anh, tôi có thay đổi gì đâu!
Hai bên không ai chịu thua ai, cùng đem nhau ra quan phân xử.