Chiếc Nhẫn Tình Cờ - Arthur Conan Doyle
Chiếc Nhẫn Tình Cờ
Tác giả: Arthur Conan Doyle, Sir
Làm quen với Sherlock Holmes
Năm 1878, tôi tốt nghiệp tại trường Đại học Y London, sau đó đến Netley dự khóa tu nghiệp dành cho các bác sỹ quân y. Học xong, tôi được bổ nhiệm về trung đoàn bộ binh Northumberland số 5, khi ấy đang đóng tại Ấn Độ. Tôi chưa kịp tới đơn vị của mình thì cuộc chiến tranh Afghanistan lần thứ hai bùng nổ. Đặt chân lên Bombay, tôi được biết đơn vị và tới được Kandahar an toàn. Tại đây, tôi gặp trung đoàn của mình.
Tôi bị chuyển sang trung đoàn Berkshires và tham dự trận đánh Maiwand. Trong trận này, tôi bị thương ở vai, nếu không có người lính hầu xốc tôi lên ngựa và đưa về phía sau chiến tuyến, thì tôi đã rơi vào tay quân địch rồi.
Kiệt sức, tôi được đưa về bệnh viện hậu phương Peshawar. Tại đây, tôi bình phục dần, và lúc đó có thể ra sưởi nắng ngoài hiên, thì lại bị thương hàn. Trong hàng tháng trời, người ta ra sức cứu sống tôi; đến ngày khỏi bệnh, tôi gầy yếu đến nổi Cục quân y phải đưa tôi về Anh lập tức. Một tháng sau, tôi đặt chân lên bến cảng Portsmouth, chính phủ cho tôi nghỉ chín tháng để lấy lại sức.
Vì không có bà con ở Anh nên tôi được tự do như gió trời, với 11 shillings[1] 6 pence[2] mỗi ngày. Trong tình cảnh đó, tôi bị thu hút về London với một sức mạnh không cưỡng lại nổi. Ở đây, tôi sống ít lâu tại một khách sạn, nhưng chẳng bao lâu tôi thấy mình nên đi tìm một nhà trọ xuyềnh xoàng và đỡ tốn kém hơn.
Đúng vào hôm tôi đi đến quyết định này, khi đang ở một quán rượu thì bỗng có người vỗ vai tôi. Ngoảnh lại, tôi nhận ra Stamford, một thanh niên trước đây làm y tá dưới quyền tôi. Trước đây, tôi chưa bao giờ thật thân với Stamford nhưng bây giờ tôi vồ vập chào đón anh ta và gặp tôi, Stamford xem chừng cũng hoan hỉ lắm, tôi mời anh ta đi ăn trưa tại khách sạn. Chúng tôi gọi xe ngựa, và trong lúc chiếc xe chạy, Stamford hỏi tôi:
- Dạo này ra sao? Trông anh gầy quá.
Tôi phác qua vài nét về những bước thăng trầm của mình. Chuyện vừa xong thì xe cũng tới quán ăn.
- Khốn khổ! Thế anh tính sao bây giờ?
- Tôi định tìm một nơi ở tiện nghi với một cái giá phải chăng.
- Lạ thật! Anh là người thứ hai trong ngày hôm nay ngỏ với tôi cái ý ấy.
- Ai là người thứ nhất?
- Một anh chàng làm việc tại phòng thí nghiệm hóa học ở bệnh viện. Sáng nay, anh ta phàn nàn là không tìm được ai để ở chung hầu giảm được một nửa tiền thuê nhà.
- Tôi cũng vậy. Tôi nghĩ ở chung hay hơn ở một mình.
Stamford cầm ly rượu, nhìn tôi với một vẻ khó hiểu:
- Anh chưa biết Sherlock Holmes. Có thể anh sẽ không thích anh ta.
- Anh ta có gì đáng chê trách?
- Ồ! Anh ta có những ý kiến hơi kỳ quặc. Anh ta nghiên cứu say mê cuồng nhiệt một vài ngành khoa học. Còn ngoài ra, anh ta là một người lịch sự, đúng mực.
- Sinh viên Y khoa?
- Không, tôi không hiểu anh ta định học cái gì; rất giỏi về giải phẫu, về hóa học, nhưng chưa hề theo học một lớp học chính quy nào. Anh ta học theo lối cóc nhảy, song trong nhiều lĩnh vực, anh ta đã thu nhập được một số vốn hiểu biết rộng lớn đến nỗi các giáo sư phải kinh ngạc.
- Anh không hỏi anh ta định theo ngành nghề nào sao?
- Đó là một con người không dễ khơi chuyện, tuy rằng những khi cao hứng, anh ta cũng thích chuyện trò.
- Nếu phải ở chung với ai, tôi muốn đó là một người ham học và yên tĩnh. Hiện nay tôi chưa khỏe nên rất sợ tiếng ồn. Tôi gặp bạn anh bằng cách nào?
- Anh ta hiện đang ở phòng thí nghiệm. Ăn xong, chúng ta sẽ đi đến đấy.
Trên đường đi, Stamford cho tôi biết thêm một vài chi tiết nữa về Sherlock Holmes.
- Về Holmes, tôi không biết gì hơn ngoài những điều tôi hiểu qua các buổi gặp gỡ tại phòng thí nghiệm. Chính anh đã đề xuất ý kiến ở chung, may nhờ rủi chịu đấy nhé!
- Nếu không hợp, chúng tôi sẽ chia tay nhau. Nhưng, hình như có một lý do nào đó khiến anh muốn phủi tay khỏi việc này. Tính tình người ấy khó chịu đến vậy ư?
- Không dễ diễn đạt được cái không thể diễn đạt nổi. Sherlock Holmes có tính tình gần như lạnh lùng, sắt đá. Anh ta rất có thể cho một người bạn uống thử một nhúm alkaloide thực vật loại mới nhất, không phải vì độc ác mà chỉ vì muốn biết hiệu lực của chất độc ấy như thế nào. Công bằng mà nói, tôi tin rằng bản thân anh ta cũng có thể sẽ dùng thử một thử một cách sốt sắng không kém.
- Thế thì rất tốt chứ sao?
- Đúng, nhưng việc lấy gậy đánh vào xác chết, thì phải nói là quái gở.
- Anh ta đánh xác chết?
- Phải, để xem người ta có thể gây ra những thương tích như thế nào trên cơ thể một người đã chết. Chính mắt tôi đã nhìn thấy anh ta làm như thế.
- Vậy mà hồi nãy anh nói Holmes không học ngành Y?
- Không mà! Mà thôi, ta đến nơi rồi, anh tự đánh giá nhân vật ấy.
Chúng tôi đi theo một lối hẹp, qua chiếc cửa phụ nhỏ, bước vào mé nhà của khu bệnh viện lớn. Gần cuối hành lang có một lối rẽ nhỏ, dẫn đến phòng thí nghiệm hóa học. Đấy là một gian phòng cao, các giá trên tường để đầy chai lọ. Đây đó có mấy cái bàn rộng và thấp, mặt bàn bề bộn những bình cổ cong, ống nghiệm, đèn hơi với ngọn lửa xanh lè. Trong phòng chỉ có mỗi một người đang chúi mũi xuống một chiếc bàn. Nghe tiếng chân chúng tôi, anh ta đảo mắt nhìn quanh rồi reo lên một tiếng và vội vã đứng lên.
- Tôi tìm ra rồi! Tôi tìm ra rồi!” Anh ta reo lên với Stamford và hấp tấp đi về phía chúng tôi, tay cầm một ống nghiệm “Tôi đã tìm ra một thuốc thử có đặc tính làm kết tủa huyết cầu tố mà không làm kết tủa bất kỳ chất nào khác.
Giá như anh ta có thấy một mỏ vàng thì sự vui mừng cũng chỉ đến thế là cùng. Stamford giới thiệu:
- Đây là bác sỹ Watson, đây là ông Sherlock Holmes.
Holmes thân mật bắt tay tôi với một sức mạnh mà tôi không nghĩ có thể có ở anh ta.
- Chào ông, ông ở Afghanistan về, phải không?
- Làm sao ông biết? - Tôi kinh ngạc hỏi lại.
- Có gì đâu. Cái điều quan trọng bây giờ là huyết cầu tố. Chắc ông hiểu được phát minh của tôi có tầm quan trọng như thế nào chứ?
- Một phát minh lý thú về mặt hóa học, nhưng về mặt thực tế...
- Ông nói lạ! Đây là phát minh có giá trị thực tiễn nhất từ bao nhiêu năm nay trong ngành pháp y. Ông không thấy là nó giúp ta xác định một cách không thể nhầm lẫn những vết máu à? Mời ông lại gần đây! - Trong lúc hào hứng, anh ta nắm lấy tay áo tôi, kéo lại chiếc bàn anh ta đang làm việc.
- Ta lấy một ít máu tươi nhé. - Vừa nói anh ta vừa lấy kim đâm vào đầu ngón tay, nặn ra một giọt máu và lấy ống hút hút - Bây giờ, tôi hòa chút xíu máu này vào một lít nước. Ông thấy hỗn hợp ấy trông y như nước, tỷ lệ của máu trong đó không thể quá một phần triệu. Dẫu vậy, tôi hoàn toàn tin chắc ta sẽ có được phản ứng đặc trưng.
Nói xong, Holmes thả vào trong bình một vài tinh thể trắng rồi rót thêm vài giọt chất lỏng trong suốt. Một phút sau, hỗn hợp trong bình chuyển thành màu gụ và một thứ bụi màu nâu nhạt kết tủa dưới đáy bình.
- Ha! Ha! Ông nói sao? - Holmes vỗ tay reo lên.
- Theo tôi, đây là một cách thử rất tinh tế.
- Tuyệt vời! Cách thử cũ với chất guaiacone vừa thô kệch vừa không chắc. Cách tìm các tiểu thể máu trên kính hiển vi cũng vậy, với lại chỉ cần vệt máu để lâu một vài giờ là phương thức đó không áp dụng được. Còn phương pháp này, thì lúc nào cũng hiệu nghiệm, dù với máu cũ hay máu tươi.
- Quả vậy!- Tôi lẩm bẩm.
- Những vụ án hình sự nhiều khi chỉ còn mắc ở khâu này mà thôi. Một kẻ bị nghi đã nhúng tay vào một vụ án mạng xảy ra trước đó có khi hàng tháng. Xem xét quần áo hắn, người ta phát hiện ra những vết màu nâu nhờ nhờ. Đây có phải là những vết máu không, hay là vết bùn, vết gỉ sắt, vết nhựa trái cây. Còn bây giờ đã có phản ứng hóa học này, việc xác định kia không còn khó khăn gì nữa.
Đôi mắt Holmes ngời lên trong khi nói, và tay phải đặt lên ngực trái, anh ta cúi gập người như để chào đáp lại những người ngưỡng mộ tưởng tượng của mình.
- Ông thật đáng được biểu dương. - Tôi phụ họa.
- Tôi có thể kể với ông đến hai chục vụ án đã qua mà phản ứng của tôi có thể đóng vai trò quyết định.
- Ông khác nào một quyển niên giám hình sự sống. Ông có thể ra một tờ báo được đấy, lấy tên là “Những vụ án hình sự trong quá khứ”.” - Stamford cười nói.
- Và đó sẽ là một tờ báo rất bổ ích. - Holmes tiếp lời trong khi dán một miếng băng dính lên vết kim châm vừa rồi ở đầu ngón tay. Anh ta quay sang tôi giải thích - Phải cẩn thận như vậy vì tôi thao tác khá nhiều loại chất độc.
Stamford ngồi xuống một chiếc ghế đẩu ba chân, đẩy một chiếc khác về phía tôi, bàn vào việc:
- Ông bạn tôi đây đang tìm chỗ ở. Thấy ông phàn nàn là không kiếm được ai ở chung nên tôi thấy không có gì tốt hơn là để hai người tiếp xúc với nhau.
Holmes có vẻ bằng lòng nói:
- Tôi tìm được mấy căn phòng ở phố Baker, rất thích hợp cho chúng ta. Tôi mong rằng ông không sợ mùi thuốc lá nặng.
- Tôi cũng hút một thứ thuốc rất nặng.
- Thế thì được rồi. Tôi quan tâm nhiều đến hóa học và đôi khi phải làm những thí nghiệm tại nhà. Điều đó có phiền ông không?
- Hoàn toàn không.
- Xem nào! Tôi còn tật xấu nào nữa không? Đôi khi tôi lầm lì, mấy ngày liền không hé răng nói một lời nào. Những khi như vậy, cứ để mặc tôi, chẳng bao lâu tôi sẽ lại vui vẻ. Còn ông, ông có điều gì cần nói không?
- Tôi cũng có một vài cố tật nhỏ. Tôi không thích ồn ào. Tôi dậy vào những giờ rất khác thường, ngoài ra tôi rất lười nhác. Khi khỏe mạnh, tôi lại có một loạt những tính xấu nho nhỏ khác. Hiện thời, đó là những nét chính.
- Trong chữ ồn ào có gộp cả tiếng đàn vĩ cầm không?
- Tiếng đàn của người chơi giỏi chỉ làm cho người nghe khoan khoái, chơi tồi thì...
- Ồ, thế thì được rồi! - Holmes cười vui vẻ - Như vậy là đã ổn thỏa, nghĩa là nếu như ông ưng chỗ ở.
- Khi nào thì ta đi xem?
- Mười hai giờ trưa mai, mời ông đến đây, chúng ta cùng đi xem.
- Xin đúng hẹn, mười hai giờ trưa mai. - Tôi nói và bắt tay anh.
Chúng tôi để anh làm việc tiếp và trở về khách sạn. Tôi bỗng dừng lại, quay sang hỏi Stamford:
- Này, làm thế nào mà anh ta biết là tôi ở Afghanistan về nhỉ?
- Anh ta khác người là ở chỗ đó.
Tôi xoa hai tay vào nhau:
- Ồ, một điều bí mật à? Thú vị thật! Tôi rất cám ơn anh cho tôi có dịp tiếp xúc với anh ta. Như anh biết đấy, đối tượng trong công cuộc nghiên cứu của loài người chính là con người Thế thì anh phải nghiên cứu anh ta đi thôi. Thôi xin tạm biệt nhé.
- Xin tạm biệt.
---
[*] Nguyên văn: “A STUDY IN SCARLET”
[1] Đơn vị tiền tệ Anh: 1 Shilling = 12 Penny
[2] Đơn vị tiền tệ Anh: 1 Penny = 1/100 Pound
Chương 5 - Cuộc Viếng Thăm Của Người Khách Lạ
Chương 5 - Cuộc Viếng Thăm Của Người Khách Lạ
Các hoạt động trong buổi sáng hôm đó là quá nhiều, cho nên đến chiều, tôi thấy mệt. Holmes, đi nghe hoà nhạc một mình còn tôi nằm dài trên chiếc đi-văng, cố chợp mắt lấy một vài tiếng, nhưng không sao ngủ. Được. Trí óc tôi bị kích thích quá mạnh vì những sự Việc đã diễn ra và chứa đầy những giả thiết, những điều tưởng tượng kỳ quái nhất.
Càng nghĩ, tôi càng thấy giả thiết của Holmes cho rằng nạn nhân đã bị đầu độc là kỳ quái. Nhưng nếu nạn nhân không phải chết vì thuốc độc thì vì cái gì, bởi lẽ trên cơ thể không có một thương tích nào cả. Và máu trên sàn là máu của ai ? Chừng nào những câu hoỈ Ấy chưa được giải đáp, tôi cảm thấy giấc ngủ Khó mà đến được.
Holmes vắng nhà khá lâu. Anh không thể nào ở nơi hoà nhạc tất cả ngần ấy thời gian. Bữa ăn tối dọn ra xong, anh mới về.
-Thật là kỳ thú Holmes vừa nói vừa ngồi vào bàn ăn Darwin cho rằng khả Năng tạo ra âm nhạc và thưởng thức âm nhạc đã tồn tại ở con người từ lâu, trước khi con người biết noí. Có thể vì lẽ ấy mà ngày nay chúng ta chịu ảnh hưởng êm ái của âm nhạc. Trong tâm hồn chúng ta còn lưu lại những ký ức mơ hồ về những thời kỳ mông muội ấy.
Đó là một tư tưởng rất vĩ đại Tôi nhận xét.
-Tư tưởng của chúng ra phải vĩ đại ngang tầm với tự nhiên khi ta muốn tìm hiểu tự nhiên. Nhưng sao thế ?
-Vụ án mạng là anh bồn chồn à ?
Đúng thế.
-Tôi hiểu tâm trạng anh. Trong vụ này có một khía cạnh bí ẩn nó kích thích trí tưỏng tượng. Khi mà trí tưởng tượng không bị kích thích thì ta không thấy khủng khiếp. Anh đã đọc báo buổi chiều chưa ?
-Chưa.
Bài tường thuật không kể Lại chi tiết khi người ta nhất xác nạn nhân lên thì có một chiếc nhẫn rơi ra. Không nói đến chiếc nhẫn càng hay.
-Vì sao ?
-Anh hãy đọc lời nhắn tin này. Sáng nay tôi đã gửi đăng trên các báo, ở mục „ Của rơi „ : „ Đã nhặt được một chiếc nhẫn cưới trên đường Brixton, đọan từ quán rượu „ CON HƯƠU TRẮNG „ đến góc phố Holland Grovẹ Ai đánh rơi, mời đến gặp bác sĩ Watson ở số nhà 221B, phố Baker nhận về, từ tám giờ đến chín giờ tối náy.
-Tôi xin lỗi đã mượn tên anh. Nếu dùng tên tôi thì thế nào một trong hai tên ngốc kia cũng nhận ra và lại dính vào đây.
-Không sao cả. Nhưng nhỡ có ai đến, tôi lại không có chiếc nhẫn nào.
-Ồ, có chứ, nhẫn đây ! Holmes đưa cho tôi một chiếc nhẫn. Chiếc nhẫn này được đấy chứ, giống chiếc kia như in.
-Ai sẽ đến xin lại của rơi này ?
-Còn ai vào đây ! Kẻ Mặc chiếc áo khoác ngoài màu nâu, có bộ mặt đỏ đi giày mũi vuông. Nều hắn không đích thân đến thì hắn sẽ phái một tên đồng loã.
-Liệu hắn có cho là quá nguy hiểm không ?
-Không đâu. Con người ấy dám liều mọi chuyện hơn là để mất chiếc nhẫn. Theo tôi, hắn đã đánh rơi chiếc nhẫn khi cúi xuống trên xác nạn nhân. Lúc ra khỏi nhà, hắn thấy mất chiếc nhẫn nên vội vã quay lại, nhưng lúc ấy cảnh sát đã tới vì hắn vô ý để ngọn nến vẫn cháy. Lúc bấy giờ hắn đã phải giả vờ say để đánh tan mọi nghi ngờdo sự Có mặt của hắn. Hắn cho rằng mình đã đánh rơi chiếc nhẫn sau khi ra khỏi nhà. Trong trường hợp đó, hắn sẽ làm gì ? Hắn sẽ hối hã tìm đọc các mục đăng „ CỦA RƠi „. Hắn sẽ mừng lắm. Việc gì hắn phải sợ bị bẫy. Hắn sẽ đến cho mà xem. Trong vòng một giờ nữa.
-Rồi sao nũa ?
-Ồ, khi ấy, anh có thể để mặc tôi với hắn. Anh có súng đấy không ?
-Tôi còn giữ khẩu súng ngắn với mấy viên đạn.
-Anh nên lau chùi và nạp đạn vào. Ta sẽ gặp một con người rất liều mạng.
Tôi về phòng riêng và làm thoe lời khuyên của Holmes. Khi trở lại với khẩu súng, tôi thấy bàn ăn đã được dọn sạch và Holmes đang bận với môn giải trí ưa thích của mình: gảy dây đàn vĩ cầm. Thấy tôi vào, anh nói:
-Câu chuyện thêm nhiều chi tiết đậm đà. Tôi vừa mới nhận được điện trả lỡi từ Mỹ. Cách nhìn nhận vấn đề của tôi đã được xác nhận là đúng.
-Cụ Thể là ? Tôi sốt sắng hỏi.
-Cất súng đi. Khi nhân vật của chúng ta xuất hiện, anh hãy nói chuyện với hắn một cách bình thường và để mặc tôi xử Sự Đừng làm hắn hoảng lên bằng những lơÌ quá gay gắt.
-Bây giờ đã 8 giờ rồI.
Được, hắn sẽ tới trong vài phút nuã. Anh hé mở cánh cửa một chút. Thế được rồi. Bây giờ anh tra chià khoá vào ổ khoá trong đi. Cám ơn ! A ! Nhân vật của chúng ta đến kai rồi.
Trong lúc anh nói, tôi nghe tiếng chuông giật mạnh. Holmes nhẹ Nhàng đứng dậy, kê lại ghế của mình gần cửa. Có tiếng chân người hầu vang lên trong phòng tiền sảnh, tiếng chìa khoá vặn trong ổ khoá và tiếng cửa mở.
Một giọng thanh thanh nhưng khá rắn rỏi:
Đây có phải là nhà bác sĩ Watson không ?
Chúng tôi không nghe thấy câu trả lời của ngường hầu, nhưng cánh cửa khép lại và có người bước lêncầu thang. Bước chân ngập ngừng, dè dặt. Holmes lắng tai nghe, có vẻ hơi ngạc nhiên. Có ai đó bước chậm chạp ngoài hành lang rỗi gõ cửa khe khẽ.
-Mời vào ! Tôi hét to.
Sau lời mời của tôi, một bà cụ Rất già, da nhăn nheo, bước vào. Bà cụ Hình như bị chói mắt vì ánh sáng trong phòng. Bà cúi đầu xuống chào rồi cứ đứng nhìn chúng tôi với con mắt hấp háy đầy ghèn, bàn tay run rẩy lục tìm cái gì trong túi. Tôi liếc nhanh nhìn Holmes. Nét mặt anh biểu lộ Một vẻ thất vọng. Bà lão rút trong túi ra một tờ báo:
-Thưa các ông quý hoá, tôi đọc được mẫu tin này trên báo nên mới đến Bà lãi lại cúi chào một lần nữa. Đó là chiếc nhẫn của con gái tôi, tên nó là Sa-ly, nó lấy chồng cách đây một năm và chồng nó hiện đang làm việc trên tàu thủy. Chồng nó sẽ nói sao khi về thấy vợ Không còn chiếc nhẫn cưới nữa. Thằng đó vốn là một đứa không thuần tính, nhất là khi rượu vào. Thưa hai ông, con gái tôi tối qua nó đi xem xiếc với.
Đây có phải là chiếc nhẫn của cô ấy không ? Tôi hỏi và đưa chiếc nhẫn ra.
-Xin tạ Ơn chúa ! Tối nay, con Sa-ly sẽ mừng lắm đấy. Đúng là chiếc nhẫn của nó.
-Nhà cụ Ở đâu ? Tôi hỏi và cầm lấy bút chì.
SỐ 13 phố Duncan khu Houndsditch. Xa đây lám và đi mệt lắm.
Giọng Holmes đanh lại:
-Không có rạp xiếc nào từ Brixton đến khu Houndsditch cả.
Bà cụ quay sang Holmes, nhìn chằm chằm:
-Ông này hoi? Nhà tôi. Còn nhà Sa-ly thì ở số 3 khu Mayfield đường Peckham.
-Tên cụ là gì ?
-Tên tôi là Soi- Ơ, chồng nó là Đen-nit', một đứa nhan hnhẹn và khá ngoan khi ở biển, ai nấy đều quý hoá. Nhưng khi nó lên bờ thì ôi đào, rượu chè, trai gái
-Cụ Soi- Ơ -Tôi ngắt lời bà cụ khi thấy Holmes ra hiệu. Chiếc nah^~n này đúng là của con gái cụ, tôi rất vui lòng trả l.ai cho chủ Của nó.
Lầm bầm mãi những lời cảm ơn và chúc tụng, bà cụ cất chiếc nhẫn vào trong túi rồi lại lê chân bước xuống thang gác.
Holmes lao vội về buồng anh khi bà cụ vừa ra khỏi phòng. Vài giây sau, anh trở lại, người trùm trong chiếc áo măng-tô lớn và một cái khăn quàng kín cổ kín mũi.
-Tôi đi theo bà lão đấy. Anh chờ tôi ở nhà nhé.
Cổng nhà vừa khép lại sau lưng người khách già thì Holmes đã xuống hết cầu thang. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy bà già đang bước chầm chậm qua đường và bạn tôi ở cách đó khong xa.
Lúc Holmes đi, kim đồng hồ chỉ 9 giờ tối. Tôi ngồi hút thuốc và đọc sách. Chuông đồng hồ điểm 10 giờ, tôi nghe tiếng chân những người hầu gái đi ngủ. Mười một giờ, đến lượt tiếng chân rắn roỈ Hơn của bà chủ Nhà lên giường. Gần nữa đêm thì có tiếng mở khóa cửa. Holmes vừa mới thò đầu vào buồng, tôi đã tah^'y ngay là hỏng việc. Nét mặt Holmes có vẻ vừa buồn cười vừa bực bội, hai tâm trạng đó hình như vật lộn với nhau cho đến khi vẻ buồn cười thắng thế thì anh bật cười thành tiếng, buông mình xuống chiếc ghế bành, tự giễu mình:
-Giá mà Scotland Yard biết chuyện này, họ Sẽ được một trận cười chế nhạo.
-Có chuyện gì vậy ?
-khi đi được một đoạn đường thì mụ Già bắt đầu đi khập khiễng, lộ Rõ là đau chân. Được một quãng nữa, mụ Đứng lại, gọi một chiếc xe ngựa ngang quạ Tôi vội mon men đến gần, nhưng lo như vậy là thừa, vì mụ Nói to đến nỗi đứng ở bên kia đường cũng nghe rõ. Mụ Hét lên: ' Cho tôi đến nhà số 14 phố Duncan, khu Houndsditch'. Tôi nghĩ bụng mụ Này xem ra có vẻ ngay thật đấy. Khi đã thấy rõ ràng ràng mụ Ngồi vào trong chiếc xe rồi, tôi mới thu mình nhảy lên ngồi nấp trong nhíp xe: đây là một trò mà nhà thám tử nào cũng sở trường. Thế rồi xe chạy, chạy mãi, không dừng lại một giây nào cho đến khi tới phố Duncan. Sắp đến nhà, tôi từ chổ Ngồi nhảy xuống, đi vẩn vơ ngoài phố, người đánh xe nhảy xuống. Sán lại gần, tôi thấy hắn đang tức tối xem cét khoang xe trống không và truôn ra một tràng câu chửi. Đến hoỈ Nhà số 13 tôi được biết chủ Nhà là một người làm bánh ngọt tên ;à Kê-Uýt và ông chưa nghe đến tên Soi- Ơ lẫn Đen-nít bao giờ.
Tôi kinh ngạc :
-Mụ Già đã chuồn khoi? Xe trong khi xe đang chạy mà anh và người đánh xe đều không biết ?
Để cho bị lừa như vậy. Chính chúng ta mới là bà già. ĐÓ chắc là một gã trai trẻ, nhanh nhẹn, đóng kịch giỏi, cải trang khéo. Có lẽ hắn biết hắn bị thoe dõi nên đã dùng cái mẹo ấy để lừa tôi. Điều đó chứng tỏ Rằng nhân vật mà chúng ta tìm kiếm có những người bạn tài bạ Thôi bây giờ, anh có vẻ mệt đấy, bác sĩ a.. Anh nên đi ngủ Đi.
Tôi để Holmes ngồi một mình bên lò sưởi, và rất khuya tôi còn nghe thấy những âm thanh nỉ Non khe khẽ trên cây đàn của anh. Tôi biết anh đang suy ngẫm về bài toán kỳ quặc mà anh muốn giải đáp.
Chương 6 - Gregson Tìm Thấy Gì
Chương 6 - Gregson Tìm Thấy Gì
Các báo hôm sau đăng đầy những bài viết về " vụ án bí ẩn ở Brixton ". Dưới đây là nội dung tóm tắt của một số bài.
Tờ " Tin điện hằng ngày " nhận xét:
" Trong lịch sử khoa hình sự, chưa mấy khi xảy ra một tấn bi kịch với những tình tiết kỳ quặc hơn thế. Nạn nhân mang tên Đức, những chữ bằng máu trên tường, động cơ ám sát khong có. Tât' cả những chi tiết ấy cho thấy án mạng này là do những kẻ tị nạn chính trị và những kẻ hoạt động xã hội gây ra. Cac' đảng phái cấp tiến có nhieu chi nhánh hoạt động tại Mỹ, và nạn nhân có lẻ đã vi phạm các luật lệ không thành văn của các đảng phái ấy nên đã bị trừng trị".
Bài báo kết thúc bằng lời khiển trách chính phủ và yêu cầu chính phủ giám sát chặt chẽ hơn các ngoại kiều trú ngụ trên đất Anh.
Tờ " Lá Cờ " bình luật:
" Những vụ trọng án như vụ này đã diễn ra dưới một chính thể tự dọ Chúng sinh ra từ sự hỗn tạp trong dân chúng và sự suy yếu của chính quyền. Nạn nhân là một người Mỹ đã sinh sống ít lâu tại Luân Đôn. Ông ta đã ở trọ một thời gian tại nhà bà Sac'-pen khu Camberwell. Thư ký riêng của ông ta là Stanggerson đã cùng đi với ông ta trong các chuyến đi. Hai người đã tự biệt bà chủ trọ hôm thứ ba, ngày mồng 4 tháng này và đã đi ra ga Euston để đáp chuyến tàu tốc hành đi Liverpool. Sau đó ít lâu, người ta thấy hai người đứng với nhau trên sân gạ Sau nuã thì không biet gì về họ cho đến khi người ta tìm thấy xác ông Drebber trong một ngôi nhà bỏ trống trên đường Brixton cách nhà ga Euston hàng mấy dặm đường. Nạn nhân đã đến đây bằng cách nào và đã chết như thế nào ? Những câu hoi? này hãy còn nằm trong màn bí mật. Chúng tôi vui mừng được biết các thanh tra Gregson và Lestrade đã cùng bắt tay vào vụ án và tin rằng hai quan chức mẫn cán và tài năng ấy sẽ sớm rọi sáng vào vụ khó hiểu này ".
Tờ " Tin Hàng Ngày " kết luận:
" Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một vụ án chính tri.. Sự chuyen chế của chính quyền các nước ở lục địa châu âu đã xua đuổi về bờ biễn nước ta nhiều ngươi có thể trở thành những công dân tốt nếu họ không bị ám ảnh kích động bởi những ký ức về những nỗi đau khổ và gian truân của ho.. Trong đám người ấy có một luật lệ hết sức nghei^m ngặt, nó kết án " tử" cho bất cứ ai vi phạm nó. Cần phải tìm cho ra viên thư ký Staggerson để hoi? một số chi tiết liên quan đê"n nạn nhân. Cuộc điều tra đã tiến được một bước khi tìm ra được địa chỉ nhà trọ của nạn nhân. Sự khám phá ấy hoàn toàn nhờ tài năng của ông Gregson ".
Holmes và tôi rất buồn cười khi đọc những dòng này.
-Tôi đã bảo với anh mà, anh dù có thế nào, Lestrade và Gregson vẫn đuọc tán dương. Một anh ngốc bao giờ cũng tìm được một anh ngốc hơn để khâm phục mình.
-Nhưng gì thế này? - Tôi kêu lên thì vừa vặb lúc ấy có nhiềi tiếng bước chân ở dưới nhà cùng với những lời gắt gỏng của bà chủ nhà.
Đó là đội cảnh sát nghiệp dư ở phố Baker. - Holmes nghiêm trang trả lời. Cùng lúc đó khoảng hơn một chục đức trẻ lem luốc, ùa vào phòng chúng tôi.
-Nghiêm - Holmes hô lên và bọn trẻ con xếp thành hàng như một dãy những bức tượng nhỏ. Lần sau các cháu đợi cả ở ngoài phố nhé, chỉ để cho một mình Uy-ghin lên báo cáo thôi. Uy-ghin có tìm thấy không ?
-Không ạ, chúng cháu chưa tìm ra ! - Một đứa trong bọn trẻ thưa.
-Kém thế ! Tiếp tục đi cho đến khi tìm ra. Tiền thù lao đây - Holmes chia cho mỗi đứa một đồng si-linh bây giờ, các cháu hãy tỏa nhanh đi khắp nơi rồi trở về đây với một báo cáo có kết quả hơn.
Bọn trẻ chạy ào xuống cầu thang , một lát sau đã nghe thấy tiếng chúng léo nhéo ngoài phố.
-Mấy đứa trẻ này còn hữu ích hơn một tá cảnh sát. Nhìn thấy ai có vẻ là người nhà nước, người ta đã lo giữ miệng rồi. Trái lại, bọn trẻ này len loi? được khắp mọi nơi và nghe được đủ mọi chuyện. Chúng không bị ai để ý và luồn lách nhanh như chạnh.
-Anh sử dụng chúng cho vụ Brixton đấy à ?
ĐDúng. Có một điểm tôi muốn tìm hiểu. Đây chỉ là vấn đề thời gian, rồi thể nào cũng ra. Thế nào ? Ai kia như Gregson ngoài phố. Anh ta mang hai chữ " hớn hở " ghi từng nét trên mặt. Anh ta đến chỗ ta đây.
Có tiếng chuông giật mạnh và vài ba gai^y sau, nhà thám tử có mái tóc vàng lên cầu thang, bước ba bậc một, và lao vào phòng chúng tôi như một tia chơp'. Gregson vồ lấy tay Holmes, siết chặt và reo lên:
-Ông Sherlock Holmes thân mến, ông hãy khen ngợi tôi đi. Tôi đã làm sáng tỏ hết, rõ như ban ngày.
Hình như có một thoáng lo lắng lướt qua gương mặt diễn cảm của bạn tôi. Holmes hoi? :
-Ông muốn noí là ông đã tìm được hướng đúng rồi à ?
-Hưóng đúng ! Ồ, chúng tôi đã tóm được hung thủ rồi.
-Tên hắn là gì ?
-Ác-tơ, thiếu úy hải quân - Gregson dài giọng, ưỡn ngực, xoa hai tay vào nhau.
Holmes thở phào, hé nở một nụ cười và noí:
-Mời ông ngồi và thử một điếu xì gà đi. Chúng tôi rất muốn biết ông đã tiến hành công việc như thế nào. Ông dùng một cốc uýt-ki pha nước nhé.
-Xin vâng. Những nỗ lực ghê gớm mà tôi đã phai? bỏ ra trong hai ngày qua làm tôi bải hoải cả người.
-Chúng tôi rất hân hạnh được ông quá bộ đến chơi -Holmes noí, giọng nghiêm trang. Xin ông cho biết ông đã làm thế nào để đi đến kết quả hết sức đáng khen ấy.
Gregson ngồi sâu trong chiếc ghế bành, khoan khoái rít xì gà, rồi bỗng nhiên vỗ đùi đánh tét một cái:
-Trong vụ này, anh chàng Lestrade ngốc nghếch cứ tưởng mình khôn ngoan, đã hoàn toàn đi nhầm đường. Anh ta đi tìm viên thư ký Stanggerson mà Stanggerson thì dính liú đến vụ này không hơn gì một đứa trẻ chưa ra đời. Hẳn bây giờ Lestrade đã tóm cổ hắn roi.
Ý nghĩ ấy khiến cho Gregson cười sằng sặc mãi.
-Ông đã tìm ra hướng của ông như thế nào ? - Holmes hoi?.
-khó khăn đầu tiên đặt ra với tôi là tìm cho ra tung tích nạn nhân. Có người cứ ngồi ở nhà chờ người ta đọc các lời nhắn tin của mình trên báo mà đến cung cấp tin tức cho mình. Gregson thì không làm việc như thế. O6ng bác sĩ, ông còn nhớ chiếc mũ bên cạnh nạn nhân khong ?
-Có, chiếc mũ của cửa hàng Underwood và con số 129, đường Camberwell - Holmes trả loì.
-Tôi tuỏng ông không để ý. Ông đã đến cửa hàng chưa ? - Gregson chột dạ, hoi?.
-Tôi không đến - Holmes đáp.
-À - Gregson thở phào yên tâm -Chớ bao giờ coi thường một cơ hội, dù là nhỏ.
ĐDối với bộ Óc lớn không có gì là nhỏ - Giọng Holmes triết lý.
ĐDúng thế ! Tôi đến cửa hàng Underwood hoi? chủ hiệu , xem ông ta đã bán cho ai một chiếc mũ kiểu như vậy. Chủ hiệu xem sổ sách cho thấy người mua tên là Drebber, trọ tại nhà bà Sác-pen.
-Giỏi lắm, rất giỏi ! - Holmes khẽ noí.
-Tôi đến gặp bà Sác-pen. Tôi thấy bà ta mặt tái mét và buòn rầu. Cô con gái hai mắt đỏ hoe và miệng run rẩy khi nghe tôi hoi? chuyện. Chi tiết ấy không thoát khoi? con mắt quan sát của tôi. Ông Sherlock Holmes, ông biết đấy khi ta dò đến gần hướng đúng... các dây thần kinh của ta như run lên. Tôi moí hoi? hai mẹ con: " Bà và cô biết gì về cái chết của ông Drebber không ? ". Ngươi mẹ gật đầu. Cô con gái oà khóc. Tôi hoi?:
-Ông Drebber rời nhà bà ra tàu vào lúc mấy giờ ?
Bà ta cho biết là vào lúc tám giờ. Người thư ký của ông ấy là Stanggerson noí có hai chuyến tàu, một chuyến chạy vào lúc 9 giờ 15 và chuyến kia vào lúc 11 giờ. Họ phai? kịp chuyến thứ nhất.
ĐDó là lúc bà gặp ông ta lần cưới cùng phai? không ? -Tôi lại hoi?.
Người mẹ có vẻ hốt hoãng. Mấy giây sau bà ta mới noí lên được một tiếng " vâng ".
Mấy phút im lặng trôi qua, cô con gái noí;
-Mẹ ạ, ta nên noí thẳng với quý ông đây. Chúng tôi đã lại gặp ông Drebber.
Bà Sac-pen giơ hai tay lên trời, gieo mình xuống ghế, kêu lên:
-Cầu chúa tha tội cho con ! Con giết anh con đó !
-Anh Á-tơ muốn ta noí thẳng ra sự thật -Cô con gái đáp với giọng rắn roi?.
Tôi bảo họ :
-Bà và cô nên kể hết với tôi. Những lời khai nửa vời còn tệ hại hơn là không khai gì cả.
Bà mẹ mắng con:
-Mong sao tai họa rơi xuóng đầu mày - Rồi quay sang tôi: - Tôi xin kể hết. Ông đừng nghĩ rằng tôi đang lo cho thằng con trai tôi. Nó hoàn toàn vô tội. Tôi lo là lo rằng dưới con mắt ông và con mắt người khac', nó có thể bị coi có liên can. Dù sao, chắc chắn là khong thể nào có chuyện đó. Tính tình nó, nghề nghei^.p nó, những hành vi đã qua của nó sẽ chứng minh cho nó.
-Tốt nhất là bà đừng có giấu giếm gì hết. Hãy tin rằng nếu con bà vô tội thì không vì thế mà nó có tội đâu.
Bà mẹ bao con gái:
-Có lẽ con để mặc mẹ với ông khách thì hơn - Cô con gái đi ra và bà noí tiép: -Thưa ông, tôi không có ý định kể với ông, nhưng vì con gái tôi đã noí hở, tôi không còn cách nào khác.
Đó là điều tốt nhất. - Tôi noí.
-Ông Drebber đã ở trọ nhà tôi trong ba tuần cùng voí ngươi thư ký là ông Stanggerson. Ông này là một ngươi điềm tĩnh, kín đáo, nhưng ông chủ của ông ta, thì thô lỗ, hung tợn. Ngay tô"i hôm đầu đến trọ, ông ấy đã tỏ ra rất xấu tính. Ông ấy có những cử chỉ và lời an tiếng noí sàm sỡ với các chị hầu. Và với cả con gái tôi. Có lần, bất thần ông ấy ôm chặt lấy nó và hôn nó.
-Việc gì bà phải chịu đựng những chuyện ấy. Tôi nghĩ bà có thể tống khứ họ đi chứ ?
-Lạy Chúa ! Giá mà tôi không nhận cho ông ấy trọ ngay sau tối đầu tiên ! Nhưng ông ấy trả tiền trọ cao, mà hiện nay đang là mùa vắng khách ! Tôi ở goá, thằng con trai tôi trong hải quân tốn kém cho tôi lắm. Vì vậy tôi cố chịu đựng. Nhưng sự lăng mạ cưới cùng này thì quá lắm. Vi `thế, tôi đã bảo ông ấy đi tìm chổ trọ khác. Và hai thầy trò ông ấy đã bỏ đi.
-Rồi sao nữa ?
-Nhìn họ ra đi, tôi thấy nhẹ người. Thằng con trai tôi lúc này đang nghỉ phép. Tôi không hé răng với nó về chuyện này vì tính nó nóng nảy và rất quý em gái. Nhưng ! Không đến một giờ sau, có người giật chuông ngoài cửa và tôi thấy ông Drebber quay lại. Ông ấy cứ xông vào buồng nơi tôi đang ngồi với con gái tôi, làu bàu những câu không đầu khong đuôi, đâu như noí về chuyến tàu mà ông ấy nhỡ thì phai?. Sau đó ông ấy quay qua con gái tôi, rủ nó đi trốn. Con gái tôi hoãng sợ, toan bỏ đi, nhưng ông ấy nắm lấy cổ tay nó, cố kéo nó về phiá cửa. Tôi kêu lên và đúng lúc ấy thằng Ác-tơ chạy đến. Chuyện gì đã diễn ra lúc bấy giờ, tôi không biết nữa. Tôi nghe thấy những lời chửi rủa và tiếng xô xát. Tôi sợ quá, khong dám ngẩng đầu lên. Đến khi dám nhìn thì tôi thấy con trai tôi đang đứng ở giữa cửa, tay cầm một cái gậy, cười tọ No noí: " Thằng này chừa rồi, không dám quấy rầy nhà mình nữa đâu. Để con đi theo xem nó ra sao". Sau đó, nó cầm lấy mũ và ra đi. Sáng hôm sau, chúng tôi nghe tin ông Drebber đã chết một cách bí ẩn.
Lời khai ấy do chính mồm bà Sác-pen noí ra kèm theo những tiếng thở dài và những chỗ ngắt quãng. Tôi đã ghi bằng tốc ký lời khai của bà ấy để khoi? có sự nhầm lẫn sai sót.
-Rất lý thú - Holmes noí và cố ghìm một cái ngáp - Rồi sau ra sao ?
-Khi bà Ssác-pen khai xong, tôi thấy vụ này quy lại còn có mỗi một điểm. Tôi chiếu luồng mắt của mình vào bà ta theo cách mà tôi lươn lươn tah^'y có hiệu quả đối với phụ nữ, tôi hoi? con trai bà ta về nhà lúc nào.
-Thưa, tôi không biết.
-Bà không biết à ?
-Vâng, nó có chià khoá cửa riêng.
-Nó về sau khi bà đã đi ngủ ?
-Vâng.
-Bà đi ngủ vào lúc mấy giờ ?
-Khoãng mười một giờ.
-Như vậy con trai bà đã vắng nhà ít nhất hai giờ ?
-Vâng.
-Cũng có thể là vắng bốn hoặc năm giờ ?
-Vâng.
-Nó đã làm gì trong thời gian ấy ?
-Tôi không biết - Bà ta trả lời, mặt lại tái đi.
Cố nhiên, sau đó tôi đã tìm ra trung úy Ác-tợ Tôi đem theo hai viên cảnh sát và đã bắt giữ hắn. Khi tôi đụng vào vai hắn, hắn hoi? tôi, hãy còn hăng như một con gà chọi:
-Chắc ông bắt tôi vì tội đồng loã trong cai chết của tên vô lại Drebber chứ gì ?
Chúng tôi đã noí gì với hắn đâu mà hắn đã đóan ra. Câu hoi? ấy, rõ là rất đáng ngờ.
-Rất đáng ngờ - Holmes đồng tình,
-Hắn còn giữ cái gậy to mà theo lời khai của mẹ hắn, hắn đã cầm khi đuổi theo Drebber. Một cái gậy to bằng gỗ sồi.
-Vậy giả thiết của ông là thế nào ?
-Hă"n đã theo Drebber đê"n tận đường Brixton. Đến đấy, giữa hai người lại cãi nhau nữa, và trong lúc xô xát, Drebber bị một gậy vào bụng, và chết ngay tức khắc, không để lại dấu vết gì. Đêm hôm ấy trời mưa, đường vắng nên Ác-tơ đã lôi xác nạn nhân đến tận ngôi nhà trống. Còn về ngọn nến, những vết máu và chữ viết trên tường, chẳng qua chỉ là những cái mẹo nhằm đánh lạc hướng nhà chức trách thôi.
-Rất hay ! - Holmes khích lệ - Ông Gregson, quả thực ông tiến bộ đấy. Ông sẽ còn đi xa hơn nhiều.
Nhà thám tử kai trả lời với vẻ kiêu hảnh:
-Tôi tự hào là đã giải quyết vụ án này khá suôn sẻ. Gã thanh niên khai ngay rằng hắn đi theo Drebber được một lúc thì Drebber phát hiện ra hắn và nhảy lên một chiếc xe để bỏ xa hắn. Điều làm tôi thích thú là Lestrade đang lao theo một hướng tắc ti.. Ông ta sẽ chẳng thu lượm được gì nhiều. Nhưng, ơ kià, thiêng chưa, vừa noí đến thì ông ấy đã xuất hiện.
Quả vậy, Lestrade đi lên cầu thang trong khi chúng tôi mải chuyện trò, và bây giờ ông đã ở trong phòng. Vẻ tự tin và ung dung thường có của ông, nay đad~ biến đi đâu mất. Nét mặt lo lắng, quần áo xộc xệch, rõ ràng Lestrade đến với ý định nhờ Holmes giúp đỡ, và khi nhận ra đồng nghiệp của mình cũng có mặt ở đây, Lestrade tỏ ra ngại ngùng, lúng túng. Lestrade đứng như trời trồng giữa phòng, tay mân mê chiếc mũ không biết để đâu, cưới cùng noí:
ĐDây quả là vụ án cực kỳ khác thường, không tài nào hiểu được.
-A ! Ông tưởng thế à, ông Lestrade ? - Giọng Gregson đắc thắng - Tôi cũng đã đóan rằng ông sẽ đi đến kết luật ấy. Ông có tìm được viên thư ký Stanggerson không ?
- Viên thư ký Stanggerson - Giọng Lestrade nghiêm trọng - Đã bị ám sát vào lúc 6 giờ sáng nay tại khách sạn Holiday.
Chương 7 - Một Tia Sáng Trong Đêm Tối
Chương 7 - Một Tia Sáng Trong Đêm Tối
Cả ba chúng tôi đều sững người. Gregson bật dậy khoi? ghế đánh đổ chỗ rượu uýt-ki còn sót trong lỵ Tôi lặng lẽ nhìn Holmes, thấy anh mím ôi, cau mày lẩm bẩm:
-Câu chuyện thêm rắc rối.
-Mà nó đã khá rắc rối rồi - Lestrade làu bàu, ngồi xuô"ng ghế.
-Tôi đến đúng lúc mọi người đang bàn luật thì phải.
-Này, ông Lestrade, tin ấy có... chính xác không ? Gregson ấp úng hoi?.
-Tôi vừa mới có mặt ở phòng của Stanggerson. Tôi là người đầu tiên thấy xác ông ấy.
-Chúng tôi vừa mới được nghe cách hình dung vấn đề của ông Gregson - Holmes noí - O6ng Lestrade, ông có thể cho chúng tôi biết ông đã thấy và đã làm những gì không ?
-Tôi thú nhận là tôi nghi Stanggerson có dính liú vào cái chết của Drebber. Vì vậy nên tôi cố tìm ra tông tích viên thư ký. Ngày mồng 3, người ta thấy hai thầy trò họ đứng cùng với nhau tại nhà ga Euston vào lúc tám giờ rưỡi. Đến hai giờ sáng thì thấy xác Drebber tại đường Brixton. Vấn đề đặt ra với tôi là đi xác định xem Stanggerson đã làm gì và ở đâu từ lúc 8 giờ rưỡi tối đến lúc xảy ra án mạng và sau đó anh ta làm gì. Tôi đã đánh điện đi Liverpool, miêu tả hình dáng Stanggerson và yâu cầu cảnh sát sở tại kiểm tra các tàu biển nhổ neo đi Mỹ. Sau đó, tôi sục sạo tất cả các khách sạn, các quán trọ xung quanh nhà ga Euston. Tôi tự bảo rằng nếu hai người chia tay nhau thì Stanggerson sẽ đi kiếm môt. khách sạn khu vực lân cận để qua đêm và sáng hôm sau trở lại nhà ga.
-Rất có thể hai người đã hẹn trước với nhau ở một nơi nào đó - Homles đưa ra ý kiến của mình.
ĐDúng thế... tôi đã mất cả tôi hôm qua đi điều tra mà không kết quả. Sáng nay, tôi lại bắt tay vào việc từ sớm và khoảng tám giờ, tôi đến khách sạn Holidaỵ Khi tôi hoi? trong khac'ch sạn có người khách nào tên là Stanggerson không thì người ta trả lời là có.
-Ông la `người mà ông ta đang chờ phai? không ? - Người ta hoi? tôi - Ông ấy chờ một người từ hai hôm nay.
-Hiện thời ông ấy ở đâu ?
ĐDang ở trong phòng ông ấy, trên gác. Ông ấy yêu cầu chúng tôi lên gọi ông ấy vào chín giờ sáng.
Chú bé đánh giày trong khách sạn dẫn tôi đến phòng Stanggerson, chỉ cho tôi cửa phòng và toan đi xuống thì bỗng tôi nhìn thấy một dòng máu đỏ rỉ qua khe cửa, chảy ngang qua hành lang và đọng lại thành một vũng nhỏ dọc tấm gỗ lát chân tường, mé bên kai hành lang. Tôi kêu lên một tiếng và chú bé đánh giày quay lại. Cửa buồng khoá phía trong. Chúng tôi lấy vai xô tung ra. Cửa sổ gain buồng để mở và bên cạnh cửa sổ là xác một ngươi đàn ông mặc đồ ngủ ở tư thế nằm phủ phục. Nạn nhân chết khá lâu vì tay chân cứng và lạnh. Lật xác lên, nhân viên khách sạn nhận ra ngay đó là người thuê phòng dưới cái tên Stanggerson. Nạn nhân bị một nhát dao găm đâm vào dưới sườn. Muĩ dao sâu đến tận tim. Bây giờ, đây là điều quái gở nhất trong vụ này. Các ông tưởng tượng xem có gì bên dưới cái xác.
Holmes cắt lời:
-Chữ " Rache " viết bằng máu.
ĐDúng thế - Nỗi khiếp sợ lộ rõ trong giọng noí của Lestrade và tất cả chúng tôi đền lặng đi môt. lúc.
Trong các hành động của tên hung thủ lạ mặt kai có môt. cái gì tuần tự và í hiểm làm cho các tội ác của hắn càng thêm khủng khiếp:
Lestrade noí tiếp:
-Có ngươi đã trong thấy hung thủ. Một người bán sữa đến cửa hàng của mình bằng lối đi men theo các chuồng ngựa ở mé sau khách sạn. Anh ta thấy một cái thang, thuòng vẫn để nằm dưới đất, nay được. dựng lên áp vào một cửa sổ mở rộng ở tầng hai. Anh ta đã đi qua chổ cái thang rồi bỗng ngoái lại thì thấy một người đang tuột xuống. Người đó bình thản, ngang nhiên, khiến anh bán sữa tuỏng là một bác thợ mộc đến làm việc cho khách sạn. Anh ta phảng phất thấy người kia có vóc dáng cao lớn, mặt đỏ sậm và mặc bộ đồ nâu. Hung thủ có lẻ đã ở lại trong phòng một thời gian ngắn sau khi hạ sát nạn nhân vì chúng tôi tìm thấy chậu nuóc mà hắn đã rữa tay nhuộm màu máu, và thấy có những vết máu trên khăn trải giuòng hắn đã bình tĩnh chùi dao.
Tôi nhìn sang Holmes khi nghe lời miêu tả hình dáng hung thủ rất khớp với sự miêu tả của bạn tôi. Anh hoi? :
-Ông có tìm thấy gì trong phòng khả dĩ cho biết thêm về hung thủ không ? - Không có gì. Stanggerson còn c' trong túi ví tiền của Drebber nhưng hình như đó là điều thông thuòng giữa hai người vì Stangerson là ngươi ch tiêu mọi thứ. Ở hai vụ án này, động cơ chắc chắn không phai? là tiền bạc. Không có giấy tờ, sổ sách gì trong túi nạn nhân, ngoài một bức điện gửi từ Cleverlanh cách đây một tháng ghi vẻn vẹn: " H đang ở châu Âu ". Bức điện không ký tên.
-Còn gì khác nuã không ? - Holmes hoi? tiếp.
-Một cuốn tiểu thuyết đặt trên giuòng, cái tẩu thuốc để trên một chiếc ghế cạnh giuòng. Trên bàn có một cốc nuóc, và trên bậc cửa có một cái hộp nhỏ đựng hai vei^n thuốc.
Holmes ngồi bật dậy, reo lên vui vẻ :
-Khâu cuối cùng ! Cuộc điều tra của tôi thế là trọn vẹn !
Hai nhà thám tử kia nhìn anh khó hiểu.
Bạn tôi noí voí vẻ tin tuỏng:
-Tôi đã có trong tay tất cả những sợi dây đã đan bện với nhau một cách rắc rô"ị Tất nhiên, còn có những cho tiết cần phải bổ sung. Tôi sẽ dẫn ra đây môt. bằng chứng về những điều tôi biết. Ông có đem theo mấy viên thuốc ấy không ?
-Tôi có đây - Lestrade liền giơ ra một cái hộo trắng nhỏ - Tôi giữ lấy nó cùng với cái ví và bức điện, định đem về nộp cho Sở Cảnh Sát. Tôi đem theo những viên thuốc này cũng là tình cờ thôi vì tôi coi chúng không có gì quan trọng.
-Xin ông đưa cho tôi - Holmes bảo - Này, bác sĩ, đây có phải là những viên thuốc thông thường không ?
Hai viên thuốc trông rất giống những viên thuốc thông thuòng. Đó là những viên thuóc tròn, nhỏ, màu ngọc xám và gần như trong suốt. Tôi nhận xét:
-Viên thuốc trong suốt và nhẹ, tôi nghĩ nó dễ hoà tan trong nuóc.
ĐDúng thế - Holmes noí - Bây giờ, xin các anh làm ơn xuóng nhà đem hộ tôi len đây con chó già ốm yếu mà hôm qua bà chủ nhà nhờ anh giúp nó sớm về chầu tổ tiên.
Tôi xuống nhà, ôm con chó lên. Mắt nó lờ đờ, hơi thở hổn hển. Thực vậy, mõm nó trắng như tuyết cho thấy nó đã sống quá cái thời hạn sống thông thuòng của một con chí. Tôi đặt nó xuô"ng tấm mệm rơm.
-Bây giờ tôi sẽ bẻ một trong hai viên thuốc này ra làm đôi - Holmes vừa noí vừa làm - Tôi cất đi một nửa vào trong hộp để dùng về sau. Một nuã kia, tôi bỏ vào chiếc cốc này cùng với một thià nuóc. Ta sẽ thấy ông bạn bác sĩ của chúng ta đã đoán đúng là nó dễ tan trong nuóc.
-Nó có dính dáng gì đến cái chết của Stanggerson đâu ? - Lestrade noí, giọng bực tức.
-Kiên nhẫn một chút ! Có dính dáng nhiều lắm. Bây giờ tôi pha thêm một chút sữa cho dễ uóng. Đem cho chó, ta tah^'y nó vội vã tớp ngay.
Con vật uống hết chỗ nuóc pha sữa ấy, rồi liêm' điã. Vẻ nghiêm trang của Holmes đã khiến chúng tôi im lặng quan sát con vật. Nó nằm xuống trên chiếc đệm, hơi thở nặng nề, sức khoẻ của nó không tăng lên hoặc giảm đi sau khi uống.
Holmes rut' đồng hồ ra xem và moĩ phút trôi qua, sự bực bội và thất vọng càng hiện rõ trên nét mặt anh. Anh bặm môi, gõ tay lên bàn, thể hiện sự nôn nóng cao đô.. Tôi thấy thương anh trong khi các nhà thám tử kia nở một nụ cười giễu cợt.
-Không thể có chuyện ngẫu nhiên - Cuối cùng Holmes kêu lên, từ chiếc ghế bành bật đứng dậy, lồng lộn như một con thú trong phòng - Đây không thể là một việc ngẫu nhiên được. Chính những viên thuốc mà tôi đã ngờ tham dự vào cái chết của Drebber, ta đã gặp lại chúng ở cái chết của Stanggerson. Vậy mà hiện giờ chúng lại không có tác dụng gì cả, thế là làm sao ? A ! tôi đóan ra rồi !
Reo lên một tiếng mừng rõ, Holmes nhảy bổ về phía hộp thuốc, bẻ viên thuốc thứ hai làm đôi, lại thả một nưa? vào cốc nuóc, cho thêm sữA rồi con cho con chó uống. Lưỡi con chó chỉ vừa moí chạm vào chổ nuóc ấy là toàm thân nó đã co giật dũ dội rồi nó nằm vật ra ngay đơ.
Holmes hit' một hơi thở dài, quệ tmồ hôi đọng trên trán:
-Trong hai viên thuốc vừa rồi, một viên chứa thuốc độc cực mạnh còn viên kia thì vô hại. Lẽ ra tôi phai? hiểu điều đó ngay truóc khi mở hộp.
Lời khẳng định này quá đỗi kỳ dị khiến tôi khó mà tin rằng bạn tôi còn đầy đủ lý trí. Tuy nhiên con chó chết nằm kia, nó chứng tỏ giả thiết của Holmes là đúng.
Tôi thấy hình như đám sương mù trong đầu tôi dần dần tan đi.
-Những điều này đối với các ông có vẻ lạ lùng - Holmes noí tiếp - Ấy là vì ngay từ cuộc điều tra, các ông đã không nắm đuọc các dấu vết quan trọng ở truóc mắt các ông. Tôi có cái may mắn là đã không đ^? lot. cái dấu vết ấy av` tất cả những sự việc diễn ra sau đấy đều xác nhận gia thiết đầu của tôi. Việc khám phá vụ án này sẽ vô cùng khó khăn nếu như ta tìm thấy xác nạn nhân trên hè đuòng không kèm theo ch itiết nào trong số những chi tiết phụ lạ lùng và khác thuòng. Những chi tiết kỳ quái ấy, không làm cho vụ án khó khăn thêm mà...
Gregson nghe bào diễn văn nhỏ của Homles với vẻ hết sức nôn nóng, cưới cùng không kìm được thêm nuã:
-Chúng tôi thừa nhận là ông có những phương pháp làm việc riêng rất độc đáo. Nhưng, giờ đây vấn đề là phai? bắt đuọc hung thủ. Bây giờ chúng tôi xin hoi? thẳng là ông đã biết hung thủ là ai chưa ?
Lestrade phụ hoa. thêm :
-Gregson noí có lý, ông Holmes ạ. Chúng tôi đã cố công gắng sức, nhưng đều đã thất bại.
-Tôi cũng thêm ý kiến:
-Mọi sự chậm trễ trong việc bắt giữ hung thủ có thể làm cho nó có thời gian gây thêm án mạng mớí.
Bị moi. người dồn ép như vậy, Holmes có vẻ luõng lư.. Anh tiếp tục đi đi lại lại trong phòng, đầu gục xuống ngực, hai hàng lo6ng mày nheo lại như thói thuòng ở anh trong những lúc mãi mê suy nghĩ. Cưốí cùng, Holmes đột ngột dừng lại, nhìn thẳng vào mặt chúng tôi :
-Sẽ không xảy ra án mạng nào nuã. Các ông hoi? tôi có biết tên hung thủ không. Có, tôi biết, tôi đã dự định bắt hắn từ lâu rồi, nhưng đây là một việc cần phai? thận trọng, vì hắn là một kẻ lực luõng, khôn ngoan, liều lĩnh và đuọc một kẻ khôn khéo giúp sức. Chừng nào hung thủ chưa biết chúng ta đã nắm trong tay mọi bằng chứng tố cáo hắn thì ta còn có cơ hội bắt hắn, nhưng nếu hắn có một chút nghi ngờ nào thì hắn sẽ tahy tên đoi? họ và tan biến vào bốn triệu người dân thành phố này ngaỵ Tuy không muốn làm tổn thương đến lòng tự ái của hai ông, nhưng sự thật tôi coi những người ấy còn mạnh hơn cảnh sát của Scotlanh Yard, bởi vậy tôi không yêu cầu các ông giúp đỡ. Nếu thất bại, một mình tôi chịu. Trong lúc này, khi nào tôi có thể thông báo với các ông mà không phương hại đến các sự bố trí của tôi thì tôi sẽ làm ngay.
Gregson, và Lestrade, một người đỏ mặt đến tận chân tóc, một người mắt long lên vì tò mò và ác cảm. Tuy nhiên, cả hai người chưa kịp noí lời nào thì đã có tiếng gõ cửa. thằng bé Uy-ghin ló đầu vào, giơ tay chào:
-Thưa ông, cháu đã gọi đuọc một chiếc xe dưới nhà.
-Giỏi lắm ! - Holmes nhẹ nhàng khen, rồi lôi trong ngăn kéo ra một vòng khoá tay bằng thép, noí tiếp: - Các ông ở Scotland Yard sao không dùng loại khoá tay này nhỉ. Các ông xem lò xo bật có lẹ không: vòng khóa bập vào trong nháy mắt.
Lestrade miả mai:
-Cái khoá kiểu củ cũng khá tốt nếu như ta tìm được người để khoá.
Được rồi, đuọc rồi - Holmes cười mỉm - Bác đánh xe sẽ giúp tôi một tay để buộc những chiếc va-li này. Uy-ghin bảo bác đánh xe lên đây.
Tôi ngạc nhiên thấy bạn tôi noí năng như thể sắp đi đâu xa mà chẳng noí truóc gì voí tôi cả. Trong phòng có một chiếc va-li nhỏ. Holmes cầm lấychiếc va-li tìm cách xiết chặt cái dây đai. Anh đang mải làm thì người đánh xe vào.
-Bác đánh xe. giup' tôi một tay thắt mấy cái đai này - Holmes noí, không quay đầu lại.
Anh đang quỳ gối xuống sàn, cúi người trên chiếc va-lị Nguòi đánh xe buóc lại, vẻ lầm lì và ngờ vực, ấn tay lên chiếc va-lị Ngay lúc ấy, có tiếng lò xo bật đánh tách một cái và Holmes đứng thẳng ngươi lên, mắt sáng ngời:
-Thưa các vị, tôi xin giới thiệu đây là Hope, kẻ đã giết Drebber và Stanggerson.
Toàn bộ sự việc diễn ra trong nháy mắt, nhanh đến noi? tôi khong kịp nhận ra. Tôi còn nhớ như in giây phút đó, vẻ mặt đắc thắng và giọng noí vang vang cuả Holmes, gương mặt bàng hoàng và dũ dội của ngươi đánh xe khi anh ta nhìn thấy cái khoá tay sáng loáng như có phép thần thông đang xiết chặt lấy hai cổ tay anh ta. Tất cả chúng tôi đứng ngay ra như phỗng dễ đến một hai phút. Gầm lên một tiếng, người đánh xe vùng ra khoi? tay Holmes, lao mình ra cửa sổ. Các ô cửa mỏng manh gẫy tan cùng với các ô kính nhưng hắn chưa nhô được hẳn người ra ngoài thì cả Gregson, Lestrade lẫn Holmes đã chồm lên ngươi hắn, lôi ngược hắn và trong phòng. Gã đánh xe khoẻ và hung dũ đến nỗi? hắn đã nhiều lần vùng ra được khoi? tám bàn tay chúng tôi. Mặt và bàn tay hắn bị rách toạc nhiều chổ khi hắn lao qua cửa kính, nhưng sự chống cực của hắn không hề giảm đi chút nào. Mãi đến khi Lestrade thọc tay được. vào sau cổ áo hắn, làm hắn suýt nghẹt thở, hắn mớí im. Dù sao chúng tôi phai? trói cả chân tay hắn lại mới cảm thấy yên tâm. Sau đó, chúng tôi đứng dậy mệt nhoài.
-Ta có chiếc xe của hắn bên dưới kia. Ta dùng xe ấy giải hắn. Bây giờ, nào các ông - Holmes tươi cười - tấm màn bí ẩn đến đây đã được vén lên rồi. Các ông muốn hỏi tôi câu gì thì hỏi.
Chương 8 - Bình Nguyên Chết
Chương 8 - Bình Nguyên Chết
Nằm ở phần giữa Bắc Mỹ là một dải đất hoang vu và cằn cỗi. Trong nhiều năm dài, nó như một cái hàng rào ngăn chặn bước tiến cửa nền văn minh. Suốt từ dãy núi Sierra Nevada đến bang Nébraska, từ con sông Yellowstone ở phiá Bắc đến bang Colorado ở phía Nam, là cả một vùng hoang vắng im lìm. Cảnh vật trên thay đổi tùy theo từng vùng. Nơi là những rặng núi hùng vĩ với những đỉnh cao đầy tuyết, nơi là những thung lũng tối đen, sầu thảm. Nơi lại là những con sông chảy xiết với dòng nước ào ào băng qua những hẻm núi và những cánh đồng bao la, mùa đông tuyết trắng, mùa hè xám xịt. Tuy nhiên, tât' cả những cảnh vật rất khác nhau ấy đều có chung những đặc điểm là cằn cỗi, là hiểm ác, là đoí khát.
Không ai sinh sống tại cái xứ sở vô vọng này. Họa hoằn mới có một toán người da đỏ vượt qua nó, đi tìm những vùng đất săn bắn mới, song họ cũng phải lánh xa những cánh đồng ấy và trở lại những đồng cỏ cũ của ho.. Con sói náu mình trong bui. cây xơ xác, con chim ó đập cánh nặng nề trên không và con gấu xám vụng về lê chân trong những khe núi u tối. Đó là những dân cư hiếm hoi ở dải đât' hoang vu này.
Trên khắp thế giới, không thể có cảnh tượng nào sầu thảm hơn cảnh tượng trải ra dưới mắt khi ta đứng ở triền phía bắc rặng núi Sierra Blanco nhìn xuống. Trải dài ra xa đến tận cùng của tấm mắt là một vùng đồng bằng mênh mông phẳng lì, nham nhở những khoanh đất và những bui. cây lùn tịt. Ở tận cùng chân trời nổi lên một dãy núi dài với sườn núi dựng đứng và đỉnh núi loang lổ tuyết. Trên cả vùng đất bao la, không có một dấu hiệu về sự sống, không có lấy một cánh chim trên bầu trời xanh biếc, không có lấy một vật di động trên mặt đất thê lương. Bao trùm lên tất cả sa mạc mênh mông này, chỉ có sự im lặng, ghê rợn.
Ở trên vừa noí là không có một thứ gì liên uqan đến sự sống trên dải đất này. Điều đó không hoàn toàn đúng. Khi đứng trên rặng núi Sierra Blanco nhìn xuống dưới, ta nhận thấy có một con đường mòn nhỏ xiú, như một sợi chỉ ngoằn ngoèo uốn khúc qua sa mạc và chìm đi ở cuối tầm mắt. Những bánh xe đã in hằn xuô"ng thành rãnh trên con đường này, bàn chân của nhiều kẻ phiêu lưu đã dẫm trên đó. Rải rác dọc con đường có rất nhiều vật gì trăng trắng, bóng lên dưới ánh nắng mặt trời và nổi lên trên lớp đất buồn thảm. Hãy lại gần, nhìn xem. Đó là những khúc xương. Khúc thì to và htô kệch, khúc thì nhỏ hơn, xương to là xương bò, xương nhỏ là xương người. Suốt con đường dài trên hai nghìn kilô met', rải rác hài cốt của những kẻ đã ngã xuống.
Ngày 4 tháng 5 năm 1847, có một người bộ hành cô đơn đứng ở đúng vị trí noí trên nhìn xuống cảnh ấy. Khó nói được tuổi ông ta khoảng bốn mươi hay sáu mươi. Khuôn mặt gầy dũ tợn, xương trồi lên nhọn hoắt dưới lớp da đen sạm và nứt nẻ, tóc dài và đen, râu có nhiều sợi bạc, hai con mắt lõm sâu trong hia hốc mắt rực lên một ánh khác thường, và bàn tay xương xẩu nắm lấy khẩu súng trường. Ông ta đứng đó, dựa người vào khẩu súng, bộ mặt chỉ còn da bọc xương cũng như bộ quần áo rộng thùng thình trên đôi chân và đôi tay khẳng khiu chỉ rõ nguyên nhân của vẻ tàn ta, và già nua: người sắp chết vì đói khat'.
Ông ta lần bước xuống khe núi rồi lại leo lên tận mỏm đồi thâp' này để nhìn xem chỗ nào có dấu hiện của nước. Ông ta lo lắng nhìn về phương Bắc, phương Đông rồi phương Tây và hiểu rằng những cuộc hành trình tứ xứ của mình sẽ kết thúc ở đây, trên tảng đá cằn cỗi này.
-Tại sao lại không phải là ở đây, sau hai mươi năm nữa ? - Ông ta thì thào rồi ngồi xuống dưới bóng một tảng đá.
Trước khi ngồi, ông ta đặt khẩu súng và túi đồ buộc trong chiếc khăn quàng. Tức thì từ cái túi ấy vọng ra một tiếng rên nho nhỏ và một gương mặt hiện ra.
-Bác là cháu đau rồi đấy, - Một giọng trẻ thơ khẽ trách.
-Thật ư, cháu ? - Người đàn ông trả lời, ân ận - Bác lỡ tay mà.
Vừa nói ông ta vừa cởi tấm khăn xám, để lộ một bé gái khoảng năm tuổi. Đôi giày nhỏ nhắn với chiếc váy hồng đảm dáng dưới chiếc tạp đề nhỏ noí lên sự chăm sóc của một người mẹ Đứa trẻ xanh xao và mệt moĩ, nhưng không bị suy sụp bằng người đồng hành của nó.
-Còn đau không, cháu ? - Người đàn ông lo lắng hoi?, vì đứa bé vẫn xoa những búp tóc quăn vàng óng rối bù đằng sau gáy.
-Bác hôn vào đây chữa đền cháu đi - Đứa bé noí với vẻ nghiêm trang thật sự, tay chỉ vào chỗ đau - Mẹ cháu vẫn làm thế. Mẹ cháu đâu rồi ?
-Mẹ cháu đi rồi. Tí nữa cháu sẽ gặp mẹ cháu.
ĐDi rồi ạ ? Lạ nhỉ, mẹ chái đi mà khong chào cháu. Bác ơi, khát quá ? Không có nước sao ? Bác không có gì để an sao ?
-Không có, cháu a.. Cháu cố chờ một chút rồi sẽ ổn. Cháu dựa đầu vào bác đây, như thế cháu sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Cháu có cái gì đấy ?
-Cháu có cái này đẹp lắm - Đứa bé reo lên, giơ ra hai mẩu mi-ca óng ánh - Khi về đến nhà, cháu sẽ cho anh cháu.
-Rồi cháu sẽ thấy những thứ còn đẹp hơn thế. Chỉ cần cố nán chờ môt. lát. Cháu còn nhớ lúc chúng ta rời khoi? dòng sông không ?
Đạ có.
-Thế đấy ! Lúc ấy chúng ta tính sẽ gặp được một con sông khác. Nhưng chúng ta không gặp sông. Nước mỗi lúc một ít. Chỉ còn một hai giọt cho các cháu nhỏ, và.. và...
-Và bác không rửa mặt được, - Đứa bé xen ngang, giọng nghiêm trang, mắt nhìn chằm chằm vào bộ mặt nhem nhuốt của ông già.
ĐDến nước uống còn không co, cháu a.. Ông Benđơ là người đầu tiên ra đi, rồi đến anh da đỏ Pi-tơ, rồi bà Grê-go, rồi Giôn-ni, và sau cùng là mẹ cháu.
-Thế là mẹ cháu... Mẹ cháu cũng chết rồi ! - Đứa bé kêu lên, lấy tạp dề che mặt và khóc nức nở.
-Phai?, tất cả đã chết hết, chỉ còn lại có bác cháu tạ Lúc đó ta tưởng may ra có thể tìm thấy nước ở mạn này.
-Bác bảo là cháu và bác sẽ chết nốt à ? - Đứa bé thôi khóc, ngẩng bộ măt. đầm đià nước mắt lên.
-Ta nghĩ chắc sẽ gần như vậy.
-Sao bác không noí ngay ? ĐDứa bé reo lên với một tiếng cười vui vẻ - Bác đã làm cháu sợ quá ! Nếu bác và cháu chết thì sẽ được gặp mẹ cháu.
-Phải, cháu sẽ đến với mẹ cháu.
-Cả bác nữa. Cháu sẽ kể là bác tốt với cháu biết bao. Mẹ cháu sẽ đón bác ngay cổng thiên đường, với một cái xô đầy nước và những chiếc bánh ngọt bằng lúa mạch thật nóng. Còn lâu nữa không bác ?
-Không lâu lắm đâu.
Trên bầu trời xuất hiện ba cái chấm nhỏ đang tiến về phía họ, mỗi lúc một to hơn. Chẳng mấy chốc, ba cái chấm ấy trở thành ba con chim nâu to lớn, chúng bắt đầu lượn thành vòng tròn trên đầu hai kẻ lang thang, rồi đậu trên những tảng đá mọc chià ra. Đó là những con ó của miền Tây, những con chim báo hiệu cái chết.
-Ô, gà, bác kià ! ĐDứa bé kêu lên vui vẻ, chỉ về phía những con chim mang điềm gở, vỗ hai tay vào với nhau để xua chúng bay đi. - Bac' ơi., có phải là Chúa tạo ra vùng này không ?
-Ừ.
--Chúa đã tạo ra vùng đất đằng kia, ở bang illinois. Chúa đã tạo ra bang Missouri - Đứa trẻ noí tiếp.
-Chắc là một chúa khác đã tạo ra đất này. Đất ở đây còn xa mới bằng được các nơi kia. Chúa đã quên làm cho ở đây có nước và cỏ cây.
-Này, bác cháu ta cầu kinh nhé ? - Người đàn ông dè dặt hoi?.
ĐDã đến tối đâu.
-Không cần đến tối.
-Thế bác. sao bác không cầu kinh một mình ? - Đứa bé hoi?, đôi mắt ngạc nhiên.
-Ta không thuộc. Ta đã không đọc kinh từ khi ta mới cao bằng nửa khẩu súng này. Cháu cầu kinh đi, bác đọc theo.
-Thế thì bác phải quì xuống - Đứa bé rải tấm khăn xuống đất để quỳ - Bác phải đặt bàn tay như thế này. Như thế là ngoan hơn.
Hai người quỳ gối bên cạnh nhau trên tấm khăn nhỏ. Gương mặt bầu bĩnh của đứa trẻ và bộ mặt gân guốc dũ tợn của người đàn ông dùng ngửa lên bầu trời. Cầu kinh xong, họ lại trở về ngồi bên bóng của tảng đá cho đến khi đứa trẻ nggủ thiếp đi. Đã ba ngày đêm liền, ông ta không cho phép mình dừng bước hao(.c nghỉ ngơi. Từ từ mí mắt ông ta cụp xuống, đầu cũng gục xuô"ng mỗi lúc một thấp hơncho đến khi bộ râu hoà vào những búp tóc vàng và cả hai đi vào một giấc ngủ sâu lắng, không mộng mi..
Nếu thức thêm nửa giờ nữa, ông ta sẽ được thấy một cảnh tượng kỳ la.. Từ xa, từ rất xa, bốc lên một đám bụi nhỏ mờ mờ, rất nhỏ và rất nhẹ đến nổi khó phân biệt nó với lớp sương mù. Những đám bụi ấy tiếp tục bốc lên, lớn dần cho đến khi tạo th`nh một đám mây bụi rõ rệt. Rồi đám mây ấy cũng không ngừng lớn dần. Ở những mảnh đất phì nhiêu hơn, ai tah^'y cảnh ấy cũng sẽ cho rằng đây là đàn bò rừng đang tiến về phiá mình. Nhưng ở vùng đất hoang vắng này, điều đó không thể có. Khi đám mây bụi đến hiện ra những mui vòm phủ bạt của những chiếc xe ngựa vươt. sa mạc, và hình bóng thấp thoáng của những người cữơi ngựa có vũ khí, cho thấy đây là một đoàn xe rất dài đang tiến về phía Tây. Đầu đoàn xe đã tới chân núi mà đuôi đoàn xe vẫn còn chìm khuất ở cuối đường chân trời. Phụ nữ bước đi khó nhọc dưới gánh nặng trên vai. Trẻ em chạy lon ton bên cạnh các cỗ xe hoặc tò mò nhìn vào những thứ dưới mui vải bạt. Từ khối người to lớn này vang lên một tiê"ng ì ầm hỗn độn, xen lẫn tiếng ngựa hí và tiếng bánh xe rầm rập. Tiếng ì ầm ấy lớn đến vậy song vẫn không đánh thức nổi hai bác cháu.
Đi đầu đoàn người di cư là một nhóm khoảng hai mươi người cuõi ngựa. Đến chân tảng đá, họ dừng ngựa, quay lại với nhau, dường như để hội ý.
Một người không râu, tóc hoa râm, nét mặc độc ác. noí:
-Giếng nước ở về phiá bên phải, giáo hữa a..
Một người khác noí tiếp:
-Ở về phiá bên rặng núi Sierra Blancọ Theo đường đó, chúng ta sẽ tới con sông Rio-Grandẹ Người thứ ba noí lớn:
-Ta chớ sợ hãi trước sự xuất hiện của dòng nước.
ĐDấng tối cao đã làm cho dòng nước tuôn ra từ đá, sẽ không từ bỏ đám dân mà Người đã tuyển chọn.
-A men ! A men ! - Cả nhóm người đáp lại.
Họ sắp sửa lại lên đường thì một người reo lên kinh ngạc và chỉ tay về tảng đá ở phiá trên đầu ho.. Ở chổ ấy có một mả^u vải màu hồng phất phới bay. Nhìn thấy thế, họ ghìm ngựa lại, cầm súng lăm lăm trong khi những người khác phi ngựa đến tăng cường. Những tiếng " bọn da đỏ " được lan truyền cửa miệng mọi người.
-Ở đây không có bọn da đỏ - Một người đứng tuổi xem chừng là thủ lĩnh noí: - Ta đã vượt nuí.
-Giáo hữu Stanggerson, tôi xin đi trinh sát - Một người trong toán noí.
-Tôi nữa. Tôi nuã - Khoãng một chục giọng noí khác cùng vang lên.
Người tên là Stanggerson trả lời:
-Các bạn trẻ hãy để ngựa lại đây, chúng ta sẽ chờ.
Thoáng một cái, mấy người trai trẻ đã xuô"ng ngựa, chạy ay lên sườn đồi dốc đứng. Sau một thóang, bóng của họ nổi bật trên nền trời. Người thanh niên đã báo động cho cả đoàn dẫn đầu, cả toán theo sau. Bỗng họ thấy gã giơ cả hai tay lên trời với động tác của một người quá đỗi ngạc nhiên. Khi họ đến chỗ gã, họ cũng không kém kinh ngạc.
Nằm dựa trên tảng đá là một người đàn ông và một bé gái. Đầu đứa bé đặt trên mảnh áo nhưng trên ngực người đàn ông. Đôi chân bụ bẫm mang tất dài xỏ trong một đôi giày xinh xắn tương phản với đôi chân khẳng khiu, khô đét của người đàn ông. Đậu trên đỉnh tảng đá, nhìn xuống cặp lữ khách kỳ quặc này, là ba con ó lớn. Thấy đám người mới đến, chúng kêu lên những tiếng tah^'t vọng, rồi không chờ đợi nữa, nặng nề vỗ cánh bay đi.
Tiếng kêu của những con chi, đã đánh thức hai người. Họ nhìn xung quanh với một vẻ cực kỳ sửng sốt. Người đàn ông lảo đảo đứng dậy, nhìn xuô"ng bình nguyên, thấy đám người chen chúc, ông ta đưa bàn tay xương xẩu lên dụi mắt, lẩm bẩm:
-Ta mê sảng chăng ?
Đứa bé gái nă;m lấy gấu tạp dề, im lặng nhìn khắp xung quanh.
Một người trong đám ấy đặt đứa bé lên vai mình, trong khi những người khác dìu người đàn ông về chỗ các xe ngựa. Người đàn ông noí:
-Tôi tên là John. Cả một đoàn hai mươi mốt người chỉ còn lại có tôi và đứa trẻ này. Những người kia đã chết ở đằng kia, phía phương Nam.
-Có phải con gái ông đấy không ?
-Bâ y giờ nó mới là con tôi. Kể từ hôm nay, nó mang tên là Lucỵ Thế còn các ông là ai ? - Ông ta tò mò nhìn những người đã cứu mình.
Một trong số những người trai trẻ kia đáp:
-Chúng tôi gần mười nghìn người. Chúng tôi là những đứa con bị ngược đãi của Chúa, những người dân được thie6n thần Mérona tuyển chọn.
Người đàn ông đáp:
-Tôi chưa bao giờ được nghe noi. VỊ thiên tah^`n ấy tuyển chọn quá nhiều đấy.
-Không được giễu cợt những điêu thiêng liêng - Giọng người kia nghei^m khắc - Chúng tôi là những tín đồ tin ở các Thánh kinh của thiên thần Meronạ Chúng tôi xuất pah't từ Nauvoo bang illionis, nơi chúng tôi đã dựng lên ngôi đền của đạo chúng tôi. Chúng tôi đi tìm một nơi ẩn náu xa bọn người bạo tàn vô Chúa, một nơi mà chúng tôi sẽ phải tìm ra ở trung tâm sa mạc.
Cái tên Nauvoo gợi lại một vài ký ức cho John. Ông noí:
-Tôi biết rồi. Các ông là người Mormons.
-Phải - Đám người kia đồng thanh trả lời.
-Các ông định đi đâu ?
-Chúng tôi không biết. Bàn tay của Chúa dẫn dắt chúng tôi thông qua các vị gáio chủ. Ông phải ra trình diện trước giáo chủ.
Luc' đó, họ đã xuô"ng đến chân đồi. Nhiều tiếng kêu kinh ngạc và thương xót vang lên khi họ thấy hai người lạ mặt kiệt quê.. Đám người kia không dừng lại mà dẫn họ đi tiếp tới một chiếc xe khác biệt hẳn với các xe khác. Chiếc xe này có sáu ngựa kéo trong khi các xe khác chỉ hai hoặc bốn ngựa. Ngồi bên cạnh người đánh xe là môT. người đàn ông tươi? không qua ba mươi, nhưng cái đầu bề thế và nét mặtkiêu nghị cho thấy đó là một kẻ biết điều khiển người khac'. Khi đá người kéo tới, người ấy bỏ quyển sách xuống, chăm chú nghe kể lại. Sau đó, người ấy quay sang hai kẻ phiêu bạt:
-Nếu các người muốn được nhập vào đoàn thì ta chỉ có thể nhận các người như những tín đồn thuộc đạo giáo chúng tạ Thà để cho xương các người phơi trắng trên sa mạc hơn là để cho các người trở thành một vết đen trong đoàn chúng tạ Các người có muốn gia nhập với điều kiện ấy không ?
-Tôi xin gia nhập với bất kỳ điều kiện nào.
-Giáo hữu Stanggerson, hãy mang đồ ăn và thức uống đ^'n cho hắn, và cả đứa trẻ nuã. Giáo hữu còn có nhiệm vụ dạy cho hắn tín ngưỡng của chúng tạ Thôi. Ta đi thôi. Tiến lên ! Tiến về Sion !.
-Tiến lên ! Tiến về Sion ! ĐDám người Mormons đồng thanh nhắc lại, và những tiếng đó truyền đi từ miệng người này sang miệng người khác dọc theo cả đoàn người dài dằng đặc cho đến khi chìm đi thành một âm thanh mơ hồ ở tít xa xa. Tiếng roi ngựa quất, tiếng xe kẽo kẹt chuyển mình, cỗ xe lớn lăn bánh trước, rồi cả đoàn xe một lần nuã lại ra đi theo con đuòng mòn lượn khúc trên bình nguyên. Stanggerson đưa họ đến cỗ xe của mình, ở đó đã dọn sẵn một bữa cơm.
-Các người chớ quên rằng bây giờ và mãi mãi sau này các người là thành viên của đạo giáo chúng tôi.
Chương 12 - Phần Tiếp Trong Nhật Ký Của Bác Sĩ Watson
Chương 12 - Phần Tiếp Trong Nhật Ký Của Bác Sĩ Watson
Tuy chống cự kịch liệt, nhưng người đánh xe tỏ ra không hằn thù gì chúng tôi. Ông ta nở một nụ cười thân thiện và tỏ ý mong ông ta không gây thương tích gì cho chúng tôi trong lúc xô xát. Ông ta nới với Sherlock Holmes:
-Tôi chắc các ông sẽ dẫn tôi về Sở cảnh sát. Xe của tôi để dưới lòng đường. Nếu các ông vui lòng cởi trói chân cho tôi, tôi sẽ tự mình xuống.
Gregson và Lestrade nhìn nhau suy nghĩ. Nhưng Sherlock Holmes cởi ngay dây trới.
Holmes bảo hai nhà thám tử:
-Các ông nên đi cùng với tôi.
-Tôi đánh xe cho - Lestrade nới.
-Tốt lắm. Ông Gregson ngồi trong xe cùng với tôi. Bác sĩ Watson, cả anh nuã.
Tất cả chúng tôi ra xe. Hope ngoan ngoãn bước lên xe. Tới sở cảnh sát. Viên thanh tra làm nhiệm vụ của mình một cách bình thản, buồn tẻ:
-Can phạm sẽ bị đưa ra xét xử ngay trong tuần. Trong khi chờ đợi, Hope, anh có muốn khai gì không ?
Hope từ tốn nới:
-Lời khai của tôi khá dài. Tôi muốn được kể hết với các ông.
-Ông có thể để đến khi ra toà khai cũng được.
-Có lẽ tôi sẽ không ra toà đâu. Các ông chớ hoảng hốt. Tôi không có ý định tự tử. Ông có phai? bác sĩ không ? - Ông ta quay đôi mắt u tôi và cháy bỏng sang phiá tôi.
-Phai?.
-Thế thì xin ông đặt tay vào đây - Với một nụ cười hé nở trên môi, ông ta đưa hai cổ tay bị khoá lên ngực.
Làm theo yêu cầu của ông ta, tôi cảm thấy ngay những tiếng tim đập dữ dội. Lồng ngực ông ta rung lên bần bật như một toà nhà mảnh mai bên trong đang chạy một động cơ quá mạnh. Trong bầu không khí im lặng của gian phòng, tôi có thể nghe thấy tiếng thổi và tiếng rung cũng xuất phát từ đó.
-Ủa, ông bị bệnh phình động mạch chủ hả - Tôi thốt lên.
ĐDúng vậy - Hope bình thản đáp - Tuần trước tôi đã đi khám bệnh, bác sĩ bảo không lâu nuã nó sẽ vỡ tung. Bệnh đã nặng lên từ lâu trong những năm toi phai? sống ở ngoài trời, an khong no, ngủ khong yên giấc. Tôi đã làm xong cái vei^.c cần làm, dù có phai? ra đi sớm cũng khong có gì hệ trọng. Tuy nhiên, tôi muốn kể lại câu chuyện của tôi để người ta đừng nghĩ tôi là một tên sát nhân bỉ ổi.
Viên thanh tra và hai nhà thám tử hội ý chớp nhoáng với nhau, xem có nên cho can phạm được. phép kể như ông ta yêu cầu không. Viên thanh tran hoi? tôi:
-Bác sĩ có cho rằng tính mạng can phạm có thể bị nguy không ?
-Rất có thể.
-Trong trường hợp nhiệm vụ củc chúng tôi là phai? lấy lời khai của can phạm. Ông Hope, chúng tôi cho phép ông bắ tđầu khai.
-Tôi xin phép được ngoì - Hope noi - Bệnh phình động mạch này làm tôi dễ mệt lắm, nhất là sau cuộc vật lộn hồi nãy. Tôi đang ở bên bờ coĩ chết. Vì vậy, tất cả những loì tôi sẽ nới ra đây đều là hoàn toàn sự thật.
Tiếp đó, Hope bắt đầu kể câu chuyện của mình. Ông ta nới với một giọng ình thản, từ tốn:
-Hai kẻ ấy đã gây ra cái chết của hai cha con - Một cô gái và người cha - và vì thế, chúng rất đáng tội chết. Tuy nhiên, từ ngày đó đến nay, tôi không có đủ bằng chứng để đưa ra trước bất kỳ một toà án nào. Vì vậy tôi đã quyết định đảm nhiệm cả vai trò quan toà lẫn đao phủ.
Cô gái đã thiệt mạng mà tôi đã nới ở trên lẽ ra làm vợ tôi cách đây hai mươi năm. Nàng đã bị ép buộc phai? lấy tên Drebber này. Khi rút chiếc nhẫn khoi?> ngón tay vợ tôi, tôi đã thề rằng trước lúc chết, con mắt của Drebber sẽ phai nhìn chiếc nhẫn này. Tôi đã săn đuổi bọn chúng qua hai lục đia..
Khi tôi đến Luân Đôn, túi tôi hầu như khong còn một xu nào, tôi cần tìm một nghề. Cưỡi ngựa, đánh xe đối với tôi tự nhiên như đi bô.. Tôi đến gặp một chủ xe, xin thuê một chiếc xe. Tiền kei^'m được cũng đủ sống. Cái khó nhất là thuộc đường vì các thành phố này là cái mê cung rắc rối. Nhưng tôi kiếm được một cái bản đồn, và dần dần quen thuộc đường sá.
Tôi phai? mất một thời gian mới tìm được địa chỉ của chúng. Chúng trọ tại một gia đình ở Camberwell. Phát hiện ra chỗ ở của chúng, tôi biết là đã nắm được chúng trong taỵ Tôi để râu dài, và kiên trìn theo doĩ, mà chúng khong nhận ra tôi.
Bất kể chúng đi đâu, tôi đều theo sát gót, khi thì bằng xe ngựa, khi thì bằng chân. Theo bằng xe tốt hơn vì chúng không thể bỏ xa tôi được.
Chúng rất gian ngoan. CÓ lẽ chúng nghi bị theo doĩ nên khong bao ra khoi? nhà một mình và cũng không bao giờ ra khoi? nhà lúc đêm khuya. Trong hai tuần liền, ngày nào tôi cũng dùng xe theo chúng, nhưng khong bao giờ tôi thấy có ten nọ mà khong có ten kia. Drebber gần như lúc nào cũng say, nhưng Stanggerson thì lươn lươn tỉnh táo và cảnh giác. Theo doĩ mãi, tôi vẫn chưa tìm thấy cơ hội nào.
Một hôm, vào lúc xế chiều, khi đang đi lại tren phố Torquay, nơi chúng trọ, tôi bỗng thấy một chiếc xe ngựa đến đỗ trước cửa nhà chúng. Một lúc sau, có người khiêng hành lý ở trong nhà ra xe, rồi Drebber và Stanggerson lên xe và chiếc xe lăn bánh. Tôi cho xe đuổi theo. Đến ga Euston, chúng xuống xe. Tôi nhờ một đứa trẻ trông ngựa cho tôi và theo chúng ra sân gạ Tôi nghe thấy chúng hoi? giờ tàu đi Liverpool. Nhân viên nhà ga báo cho chúng biết là tàu vừa mới chạy, và phai? mất một tiéng đồng hồ nuã mới có chuyến sau. Stanggerson tỏ ra bực mình, Drebber trái lại có vẻ mừng rỡ. To6i xán đến gần chỗ chúng. Drebber nới là y oc' công việc nhỏ cần phai? giải quyết và y bảo ten kai chờ, y sẽ quay trở l.ai ngay, Stanggerson trách móc, nhắc nhở là hai đứa đi đâu cũng phiả có đôi. Drebber trả lời ră)`ng đây là mot việc tế nhị nen y phai đi mot mình. Tôi khong nghe Stanggerson đáp lại như thế nào mà chỉ thấy Drebber chửi rủa rồi nhắc nhở cho Stanggerson biết rằng y chỉ là mot kẻ tôi tớ. Thấy vậy, Stanggerson khong kèo nèo them nuã và hai đứa thoa? thuận là nếu Drebber khong kịp trở lại tàu thì y sẽ đến gặp Stanggerson tại khách sạn Holidaỵ Sau đó Drebber đi mot mình ra khoi? nhà ga.
Khi đi cùng với nhau, chúng có thể bảo vệ lẫn nhau, nhưng nếu chúng tách riêng từng đứa thì đời chúng sắp tàn. Tuy thế, tôi khong hành động hấp tấp. Trong sự báo thù, sẽ khong có niềm sung sướng nếu kẻ thù của mình khong biết vì sao nó phai? đền tội và ai là ngươi `bắt nó đền tội. Trước đó mấy ngày, một ngươi chịu trách nhiệm trông nom mấy ngôi nhà ở đường Briston đã đánh rơi chià khoá của một ngoi nhà trên xe của tôi. Tôi đã trả l.ai cho ông ta chiếc chià khoá, nhưng trước đó, tôi đã nhờ làm thêm mot chiếc. Với chiếc chià ấy, tôi đã có môt. nơi ra vào, mot nơi có thể tử do hoạt động. Nhưng vei^.c đưa Drebber đến ngoi nhà ấy, là điều rất khó khăn.
Ra khoi? ra, Drebber sà vào môt. hai quán ruọu. Ở quán thứ hai, y lưu lại đến gần nuã giờ. Ở quán này ra, chân y bước khong vững. Có một chiếc xe ngựa đỗ ngay trước xe tôi. Y vẫy vẫy gọi và len xe đi. Tôi đi theo chiếc xe này sá t đến noĩ suốt quãng đường, muĩ con ngựa xe tôi gần như chạm vào cưới đuôi xe trước. Hai xe cứ đi vòng vèo một lúc lâu roi cưới cùng lại trở lại đúng cái phố mà Drebber đã ở tro.. Tại đó chiếc xe ngựa kai dừng lại, cho người xướng xe rồi xe ra đi. Tôi cho xe mình đỗ cách nhà chừng mot trăm mét, và ngoì chờ. Các ông cho toi xin cốc nước. Tôi khô cả họng.
Tôi đưa cho ông ta một cốc nước.
-Xin cám ơn 1 Drebber vào nhà, tôi bình tĩnh ngoi khoảng mot khắc đồng hồ. Bỗng nghe thấy tiếng cãi cọ trong nhà. Mấy phút sau, cửa mở tung và hiện ra hai ngươi đàn ông. MỘt là Drebber, và người thứ hai là mot thanh nniên toi chưa gặp bao giờ. Anh thanh niên này nắm lấy cổ áo Drebber, kéo y ra tới bậc thềm, xô mạnh một cái và co chân đạp bồi them mot cái nuã làm y ngã lăn sang tận bờ hè ben kia. Anh ta giơ gậy lên doạ: " Đồ chó má ! Tao sẽ dạy cho mày chừa thới lăng nhục một ngươi con gái lương thiện ". Drebber chạy đến góc phố, trông thấy xe tôi, nhảy lên xe, bảo tôi: " Đến khách sạn Holiday ". Luc' ấy tim tôi đập rộn lên vì mừng rỡ. Tôi cho xe chạy từ từ, cân nhắc trong đầu nên làm gì. Tôi có thể đưa y ra thẳng ngoại ô và trên một quãng đường vắng sẽ cho y giáp mặt la6`n cưới với tôi. Bỗng y bảo tôi đỗ xe trước mot quán ruọu. Y ở lại trong quán cho đến giờ đóng cửa quán, và khi y bước ra, chân nam đá chân xiêu, tôi biết tôi đã có một thuận lợi trong tay.
Các ông đừng nghĩ rằng tôi sẽ giết y mot cách chóng vách. Đã tữ lâu, tôi tự bảo tôi sẽ dành cho y một cơ hội sống sót, nếu y muốn. Trong quãng đời lang thang ở Mỹ. tôi đã làm nghề gác cỗng kiêm việc quét dọn cho một phòng thí nghiệm của trường đại học New York. Một hôm, trong bươi? giảng dạy về các chất độc, một vị giáo sư đã giới thiệu với sinh viên một loại alcalôit mà ông ta đã chiết xuất từ một thứ cây, có độc tính mạnh đến noĩ chỉ cần một chút bằng hạt đậu nhỏ cũng đủ làm chết ngươi ngay tức khắc. Tôi đánh dấu bằng mắt cái lọ đựng thuốc độc ấy và khi mọi người ra về, tôi lấy trộm mot chút. Tôi cũng ít nhieu biết cách chế biến các hoá chấc và với một chút alcalôit ấy, tôi dập thành hai viên thuốc nhỏ dễ hoà tan trong nước. Đồng thời tôi cũng làm ra hai viên thuốc khác, y hệt như hai viên này nhưng khong có chứa chất độc. Tôi bỏ một viên độc và một viên vô hại vào trong một cái hộp. Lúc bấy giờ, tôi đã quyết định là, một buổi giáp mặt cuối cùng, mỗi kẻ thù của tôi sẽ phai? uống một viên trong hộp và tôi sẽ uống viên thứ hai còn lại. Từ sau hôm đó, lúc nào tôi cũng mang theo người hai hộp ấy và chờ có lúc sử dụng.
Luc' bấy giờ đã gần một giờ sáng. Đêm tối đen như mực. Mưa như trút nước và gió thổi dũ dội. Ngoài trời thì ảm đạm nhưng trong lòng tôi sung sướng, hân hoan. Nếu ai đã từng mong moi? thiết tha một cái gì đó, trong suốt hai mươi năm trời, rồi bỗng có cái đó ngay trong tần tay thì người ấy sẽ hiểu được những cảm xúc của tôi lúc bấy giờ. Tôi châm một điếu xì gà, để bình tâm lại. Vừa đi, tôi vừa như thấy ông John và nàng Lucy nhìn tôi và mỉm cười với tôi. Tôi dừng xe lại trước ngôi nhà ở đường Briston. Suốt phố khong một bóng người, khong mot tiếng động, chỉ trừ tiếng mưa rơi. Nhìn vào trong xe, tôi thấy Drebber đang ngủ như chết, vì saỵ Tôi lay vai y:
ĐDến nơi rồi.
-Tốt ! - Y đáp lại.
Tôi cho rằng y ngỡ là đã đến khách sạn, vì y xuống xe và đi theo tôi vào vườn khong nới một lời nào. Tôi phai? đi cạnh y, đỡ ỵ Tới cửa nhà, tôi mở cửa, đưa y vào gian nhà ngoài.
-Tối quá ! - Drebber dậm chân gắ t gỏng.
-Sáng ngay bây giờ đây - Tôi nới, đánh diêm châm một ngọn nến tôi mang theo - Này ! Drebber - Tôi nới tiếp, quay mặt về phiá y và giơ ngọn nến sát mặt tôi - Ta là ai đây ?
Y nhìn to6i một lúc bằng con mắt lờ đờ của kẻ say và tôi thấy hiện lên trong mắt y môt. nỗi kinh hoàng làm nhăn nhúm cả mặt ỵ Y lùi lại, lảo đảo, mặt tái nhợt, mồ hôi nhỏ giọt trên trán, hai hàm răng đập lập cập vào nhau.
Tôi dựa lưng vào cánh cửa. Tôi cười rất to và khá lâu, rồi bảo Drebber:
ĐDồ chó đẻ ! Tao đã săn đuổi mày suốt từ Salt-Lake đến Pétersbourg. Nhưng lần này, mày khong còn chạy đi đâu được nuã, vì mot trong hai ta, tao hoặc mày, sẽ khong nhìn thấy mặt troì sáng mai.
Y lùi lại khi nghe tôi nới, vò toi có thể đọc được tren nét mặt y là y tuỏng tôi điên. Đúng là lúc ấy tôi điên thật. Thái dương tôi đập thình thình, toi nghĩ có lẽ toi sẽ bị mot cơn thần kinh nếu đã khong bị chảy mái muĩ làm cho ngươi tôi nhẹ đi nhiều. Tôi đóng cửa lại, ving chiếc chià khoá trước mặt y.
-Mày nghĩ gì về cô gái Lucy bây giờ nào ? Sự trừng phạt đến tuy có muộn, nhưng cưới cùng cũng phai? đến chứ.
Tôi thấy môi y mấp máy, xin toi tha tội:
-Ông định ám sát tôi ư ? - Drebber ấp úng.
-Ai lại ám sát một con chó dại ? Mày có thương xót gì cô gái khi mày giằng nàng ra khoi? xác cha nàng.
-Không phải tôi giết cha nàng ! - Y kêu lên.
-Nhưng chính mày đã làm tan nát coĩ lòng con ngươi trong trắng ấy - Tôi gần như thét lên và giờ chiếc hộp thuốc trước mặt Drebber - Mày hãy chọn lấy mot viên và nuốt đi. Ở một viên là cái chết, còn ở viên kia là sự sống. Để xem có công lý tren quả đất này không, hay chỉ là chuyện may ruỉ.
Drebber lùi vào một góc phòng kêu lên những tiếng man rợ, xin tôi rủ lòng thương, nhưng tôi rút dao ra kề sát cổ y, làm y cưới cùng phai? ướng thuốc. Tôi nuốt viên thuốc còn lại, chúng tôi đối diện nhau trong mot phút, chờ xem ai sống và ai sẽ chết. Có lẽ tôi khong bao giờ quên được nét mặt y, khi những cơn đau đầu tiên báo cho y biết thuốc độc đdang lan khắp người. Nhìn thấy thế, to6i cười khanh khách và giơ chiếc nhẫn của nàng ra trước mắt ỵ Phút đó quá ngắn ngui? vì tác động của chất alcalôit rất mau le.. Y quằn quại vì đau đớn, toàn thân và các cơ mặt co giật, rồi ngã vật ra sàn. Tôi lấy muĩ gia6`y hất người y lại, đặt tay trên ngực ỵ Y đã chết hẳn rồi. Máu ở muĩ tôi ộc ra nhiều nh*ng tôi khong để ý. KHong biết lúc đó tôi nghĩ gì, mà lấy máu tôi viết lên tường. Có lẽ định đùa trêu cảnh sát, đánh lạc hướng của cảnh sát, vì lúc đó lòng khoang khoái tôi nhớ lại vụ mot người Đức bị ám sát tại New York, bên trên xác nạn nhân có chữ " Rache " làm báo chí kết luật là một án mạng do những hội kín gây ra. Tôi nghĩ chuyện bí ẩn đối với người New Yorh chắc cũng sẽ là bí ẩn đối với người Luân Đôn. Tôi bèn nhúng ngón tay vào chính máu tôi,viết lên tường vào chỗ thuận tiện. Sau đó tôi trở ra xe. Đường vẫn khong có một bóng người và troì vẫn mưa gió ào ào. Tôi đã đi được. mot quãng, bỗng đút tay vào túi, không thấy chiếc nhẫn đâu. Tôi hoãng hốt, cho rằng có lẽ đã đánh rơi khi cúi xươ"^ng trên xác Drebber, tôi quay trở lại, để xe ở mot ngách phố nhỏ và đánh liều trở lại ngoi nhà. Tới nơi, tôi chạm trán ngay phai? mot viên cảnh sát ở trong nhà đi ra, tôi phiả giả vờ say mới khoi? bị nghi ngờ.
Lúc bấy giờ tôi chỉ còn có mot việc, là thanh toán nốt Stanggerson. Tôi biết Stanggerson đang ở khách sạn Holidaỵ Tôi đã lảng vảng quanh đó suốt ngày, nhưng khong thấy y ló mặt ra. Tôi sớm phát hiện được cửa sổ buồng y, và sáng hôm sau, nhân có mấy cái thang ở lối đi đằng sau khách sạn, tôi dựng lên , gác vào cửa sổ buồng y và trèo vào. Tôi đánh thức y dậy, bảo y phiả trả loì về tội ác mà y đã gây ra cách đây hai mươi năm. Tôi mô tả lại với y cái chết của Drebber, rồi tôi cũng cho y được chọn một trong hai vie6n thuốc. Y nhảy bổ vào tôi, định bóp cổ tôi. Ở vào thế tự vệ, tôi đã đâm y.
Sau đó, tôi trở lại nghề đánh xe như trước, với ý định tiếp tục cho đến khi nào dành dụm đủ tiền để trở về nước Mỹ. Tôi đang đậu xe ở một nơi thì một đứa bé đến hoi? có người đánh xe nào tên là Hope khong, và bảo có người ở số 221B khố' Baker muốn thuê xe. Coi là chuyện bình thường, tôi đi theo nó đến địa chỉ kia. Đến nơi, chưa hiểu đầu đuôi ra sao thì ông này đã thừa lúc tôi sơ ý, khoá ngay cổ tay tôi lại. Thưa các ông, đó là toàn bộ câu chuyện của tôI.
Nghe xong câu chuyện, chúng tôi ngoi im lặng mất một lúc, chỉ có tiếng bút chì sột soạt ghi nốt phần cuối bản tốc ký. Sau cùng Holmes noi:
-Có một điểm tôi muốn biết thêm. Người đến nhận chiếc nhẫn cho anh là ai vậy ?
-Tôi khong thể làm liên luỵ đến những ngươi giúp tôi. Tôi đọc được tin nhắn của ông. Tôi nghĩ đây có thể là một cái bẫy, nhưng cũng có thể đúng là chiếc nhẫn mà tôi muốn tìm lại. Hình như bạn tôi đã khéo léo làm xong nhiệm vụ của mình.
ĐDúng thế - Holmes tươi cười đáp.
Viên thanh tra trịnh trọng tuyên bố:
-Thứ năm tuần tới can phạm sẽ được đem ra xét xử. Tất cả cac' o6ng sẽ phai? có mặt tại phiên toà. Từ nay đến khi ấy, tôi sẽ chịu trách nhiệm giam giữ can phạm.
Nới xong, ông gọi hai viên cảnh sát đến dẫn Hope đi, còn Holmes và tôi lên xe về nhà.
Hết