Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ - Nguyễn Ngọc Thuần
Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
Nguyễn Ngọc Thuần
Chương 1 : Những Âm Thanh Đẹp Nhất
Năm nay tôi 10 tuổi. Có nghĩa là trước đây 10 năm tôi vẫn còn nằm trong bụng mẹ. Mỗi khi đi đâu, mẹ mang tôi đi. Tôi chưa biết khóc. Một đứa trẻ khi nằm trong bụng mẹ chắc chắn là không biết khóc. Tôi muốn các bạn tưởng tượng điều này. Lúc đó chúng ta như thế nào nhỉ? Chúng ta không có ai làm bạn, ngoài mẹ ra. Cho nên bố tôi nói, một đứa trẻ ra đời là một sự may mắn; ngày tôi ra đời là ngày tôi may mắn có thêm bạn mới... Chẳng hạn, làm sao tôi có thể quen thằng Tí và chọn nó làm bạn thân nếu tôi không ra đời?
Cũng theo lời bố tôi nói, một đứa trẻ khi ra đời, bà mụ sẽ đập đập vào mông gọi nó dậy. Khi còn nằm trong bụng mẹ, nó ngủ. Có nhiều đứa phải đánh đến bốn năm cái, thật buồn cười vì nó cứ tưởng vẫn còn đang nằm trong bụng mẹ.
Tôi là một trường hợp như vậy. Tôi ngủ rất say. Bà mụ phải đánh đến bảy lần. Mẹ tôi nói những đứa như vậy rất lì và hình như tôi cũng thấy đung đúng. Ở lớp, tôi nói xạo tụi bạn, bà mụ đánh tôi đến năm mươi chín lần!
- Trời ơi, cái mông mày phải sưng to lắm. - Chúng trợn mắt tròn lên.
Hôm sau chúng khoe với tôi, mẹ chúng nói, bà mụ đánh chúng đến một trăm cái. Có đứa còn nói hai trăm. Thật không tưởng tượng nổi cái mông. Con Hồng mít ướt đụng một chút là khóc nhè còn dám nói đến bốn trăm cái. Chúng tôi cười ồ lên. Thằng Toàn thành thật nói: "Tao có hai cái à". (Hồi nãy nó nói hai trăm). Ðứa khác thì ba cái, bốn cái, còn con Hồng mới đẻ ra đã khóc rồi. Hai con mắt nó mở to lên, thế là nó khóc. Bà mụ rảnh tay, không phải nhọc công.
Bạn có khi nào hỏi mẹ mình chuyện này chưa? Tôi nghĩ sẽ rất thú vị. Bạn sẽ biết về mình lúc mới chào đời. Bạn có biết mở mắt nhìn bố mẹ không? Bạn bao nhiêu kí? Khi ngủ, bạn khóc mấy lần trong một đêm? Bạn có tóc không, màu gì? Cả trăm chuyện để biết về mình. Nhưng tôi muốn nói với bạn một điều, chúng ta phải bí mật. Chuyện đó phải riêng tư. Khi bạn giữ một điều bí mật về mình hay về ai đó, bạn sẽ không bao giờ quên. Những chuyện bạn nói ra rồi, bạn sẽ quên mất. Tôi dám chắc như vậy. Và còn một điều nữa, bạn phải tăng số lần bà mụ đánh lên, bởi vì như bố tôi nói, chúng ta không bao giờ có cơ hội được bà mụ đánh lần thứ hai. Chúng ta chỉ được khóc một lần khi chào đời, một cái khóc dễ thương nhất. Bố tôi vẫn nhớ mãi cái ngày tôi khóc. Tức cái ngày tôi chào đời. Mẹ tôi nói: "Anh ơi! Hình như em sắp sinh em bé". Bố tôi hoảng hốt ẵm mẹ đặt lên xe rơm. Ngặt một nỗi, con bò không có ở đó. Bố đã nhờ cậu tôi dắt nó đi ăn cỏ. Thế là một mình, bố kéo xe xuống thị xã. Dọc đường, mẹ cắn rơm chịu đau không la một tiếng. Bố tôi nói: "Em cứ la lên, không sao cả!". Mẹ vẫn không la. Bố nói mẹ là người cừ nhất!
Khi kể cho tụi bạn nghe chuyện này, chúng cũng bảo mẹ chúng không la. Các bạn đừng cho là chúng nói xạo nhé. Mà phải cho đó là một điều bí mật. Những điều bí mật sẽ cho chúng ta nhớ mãi, không quên.
Và mọi chuyện như tôi đã kể, bà mụ đánh tôi bảy cái. Bố thốt lên sung sướng: "Trời ơi, con trai. Cái thằng này nó lì lắm đây! Sao tôi ghét nó quá". Nói rồi ông hôn vào cái miệng đang khóc của tôi. Ông còn áp tai vào cái miệng đang khóc của tôi. Mặc cho người ông dính đầy đất cát cùng những giọt mồ hôi của ông nhỏ vào mặt tôi. Bố tôi nói, chưa bao giờ bố thấy tôi xinh đẹp như vậy. Những ngày làm việc vất vả trên đồng, bố không ngớt tưởng tượng về tôi. Bố nghĩ mặt tôi sẽ dài lắm. Cái miệng thì thật to. Ðôi tay săn chắc. Bố đã nuôi sẵn một con bò dành cho tôi cỡi rồi mà. Nhưng eo ôi, cái tay tôi bé xíu. Da thịt tôi mỏng tanh. Bố lấy tay tôi đặt lên mặt bố, rồi bố cứ nằm im như vậy. Bố nói, chưa bao giờ có một bàn tay bé xíu đặt lên mặt bố. Bé lắm. Bé khủng khiếp. Nhìn thấy tôi, bố cứ tưởng tượng như đang lạc vào xứ sở của người tí hon. Mà ở xứ sở của người tí hon thì người ta không vội vàng được. Ví như từ nhà đến trường, bạn đi vèo một cái là xong. Ở người tí hon thì không phải vậy, họ phải đi một năm. Họ không vội vàng được. Trước một đứa bé, cũng như xứ sở người tí hon, bố không vội vàng được. Muốn ẵm tôi lên, bố phải từ từ. Bố nói, ẵm một đứa bé còn mệt hơn cày một đám ruộng. Bởi vì đám ruộng bạn có thể sửa chữa nó, còn đứa bé thì không. Nó cũng không biết nói: "Ối tôi đau quá. Con kiến nó cắn mông tôi!".
Vậy đó, cái ngày tôi chào đời. Và bố muốn được nghe tôi khóc. Buổi tối, bố phải đi nhẹ chân - một nỗi khổ của bố. Bố tôi khỏe lắm, cái gì chạm phải tay ông đều kêu rổn rảng. Muốn đi nhẹ là việc cực kỳ khó khăn. Nhưng vì tôi, bố đã tập dần. Bố nói, giấc ngủ của đứa bé đẹp hơn một cánh đồng. Ðêm, bố thức để được nhìn thấy tôi ngủ - cánh đồng của bố. Bố rất tiếc không được biết bà mụ đánh bố bao nhiêu cái, bố có hay khóc không? Ông bà nội tôi mất sớm. Khi đó bố còn rất nhỏ nên chẳng được nghe ai kể lại. Những người thân trong gia đình là những người nhớ về mình nhiều và đầy đủ nhất. Những người giữ bí mật của mình.
Ngày tôi ra đời, bà mụ hỏi bố:
- Ðặt tên cậu ấm là gì nào?
Cậu ấm có nghĩa là một cậu bé sung sướng. Bà muốn tôi được sung sướng.
Bố tôi choàng dậy:
- Ừ nhỉ, sao tôi quên khuấy mất. Tôi cứ tưởng tượng về nó mãi, đâm quên.
Theo bố tôi, cái tên quan trọng lắm. Bởi nó là cái tiếng đẹp đẽ nhất mà người ta sẽ gọi trong suốt cuộc đời một đứa trẻ. Ðứa trẻ này khác với đứa trẻ kia trước tiên là một cái tên. Khi nhớ một cái tên tức là ta nhớ về một con người có cái tên đó. Không gì tuyệt diệu hơn khi mình gọi tên người thân của mình. Mẹ là cái tên chung cho tất cả những ai làm mẹ. Khi ai đó gọi mẹ ơi, tức mình hiểu người phụ nữ đó đã làm và yêu thương những công việc giống mẹ mình. Mẹ cũng là một cái tên đẹp nhất, bao giờ cũng dịu dàng. Một người tên Dũng, mình sẽ nghĩ không phải là con gái. Người tên Loan, sẽ không phải là con trai. Khi mình lớn, cái tên vẫn đi theo. Mình sẽ giữ nó như một kỷ niệm về người bố và người mẹ. Ðó cũng là tình cảm ưu ái mà bố mẹ muốn dành cho.
Bố tôi nói với bà mụ:
- Tôi muốn nó một cái tên thật hùng dũng.
- Vậy tên Dũng nhé!
- Tôi muốn nó phải thông minh nữa.
- Vậy thì Trí Dũng.
- Tôi còn muốn nó phải có hiếu nữa kia.
Và cuối cùng cái tên của tôi cũng được đặt xong. Một cái tên thật dài nhưng tôi luôn nhớ.
Bố tôi nói:
- Không có gì đẹp bằng cái tên của mình. Một cái tên là một tình thương lớn.
Bạn tên gì vậy? Có khi nào bạn hỏi bố mẹ tại sao bạn lại có cái tên đó không? Tôi tin rằng bạn sẽ được nghe một câu chuyện thật dài về nó. Ðó là một bí mật về bạn. Một bí mật mà chỉ bố và mẹ bạn biết. Và chỉ khi đó bạn mới biết tại sao một cái tên lại là một tiếng nói đẹp đẽ nhất.
Chương 2 : Ghét Cái Răng Khểnh
Chương 2 : Ghét Cái Răng Khểnh
Tôi có một cái răng khểnh. Khi đến trường, tụi bạn bảo đó là cái răng bừa cào. Mỗi lần tôi cười chúng cứ chỉ vào đó:
- Ha ha, bừa cào kìa! Mày cho tao mượn về chải chí đi!
Từ đó, tôi không dám cười nữa. Tôi rất đau khổ. Tôi ghét những đứa có hàm răng đều. Chúng còn chỉ vào mặt tôi nói: "Đó là vì mày không chịu đánh răng. Những người đánh răng, răng mòn đều".
Một hôm, bố tôi hỏi:
- Sao dạo này bố không thấy con cười?
Tôi nói:
- Tại sao con phải cười hả bố?
- Ðơn giản thôi. Khi cười, khuôn mặt con sẽ rạng rỡ. Khuôn mặt đẹp nhất là nụ cười.
- Nhưng khi con cười sẽ rất xấu xí.
- Tại sao vậy? Bố ngạc nhiên. Ai nói với con?
- Không ai cả, nhưng con biết nó rất xấu, xấu lắm bố ơi!
- Bố thấy nó đẹp. Bố nói nhỏ con nghe nhé! Nụ cười của con đẹp nhất!
- Nhưng làm sao đẹp được khi nó có cái răng khểnh?
- Ái chà! Bố bật cười. Thì ra là vậy. Bố thấy đẹp lắm! Nó làm nụ cười của con khác với những đứa bạn. Ðáng lý con phải tự hào vì nó. Mỗi đứa trẻ có một điều kỳ lạ riêng. Có người có một đôi mắt rất kỳ lạ. Có người có một cái mũi kỳ lạ. Có người lại là một ngón tay. Con hãy quan sát đi rồi con sẽ thấy. Con sẽ biết rất nhiều điều bí mật về những người xung quanh mình.
Tôi biết một điều bí mật về cô giáo: cô có cái mũi hồng hơn những người khác. Và tôi đã nói điều đó cho cô hay. Cô ngạc nhiên lắm.
- Thật không? Cô trợn mắt.
- Em nói thật! Mũi cô rất hồng. Em còn phát hiện một điều nữa, khi trợn mắt, mắt cô thật to. Những người có con mắt nhỏ không làm được như vậy đâu. Bố em nói đó là một điều bí mật. Cô đừng nói cho ai biết nhé. Khi cô nói điều bí mật ra, cô sẽ quên cái mũi cô ngay.
- Vậy à! Em có nhiều điều bí mật không?
- Dạ có. Nhưng em sẽ không kể cho cô nghe đâu. Em sợ em sẽ quên nó.
- Không sao đâu. Khi em kể điều bí mật cho một người biết giữ bí mật thì bí mật vẫn còn. Khi gặp cô, em sẽ nhớ là có hai người cùng giữ chung một bí mật.
Và tôi đã kể cho cô nghe bí mật của tôi. Tôi cũng muốn kể cho các bạn nghe nữa, vì như vậy các bạn sẽ giữ giùm tôi một điều bí mật; khi tôi và bạn gặp nhau, bạn sẽ nhớ bí mật đó. Chuyện là như vầy: ngày xửa ngày xưa ở một khu làng nọ, có một đứa bé luôn cười suốt ngày. Các bạn biết tại sao không, tại vì nó có một cái răng khểnh!
Chương 3 : Thương Nhớ Ngón Tay
Chương 3 : Thương Nhớ Ngón Tay
Chú Hùng là người cùng làng hay sang nhà tôi uống trà với bố. Chú có cái hàm to, bạnh ra như một con cọp. Chú khỏe lắm. Chú có thể chạy bộ nhiều tiếng đồng hồ mà không mệt. Những buổi sáng, chú hay chui đầu vào cái mền tôi đang đắp hỏi:
- Có ai ở nhà không?
Tôi nói:
- Có, có...!
- Sao tui không thấy ai mở cửa vậy cà. Hình như đi vắng phải không? Chú gầm ghè.
Tôi nói:
- Tui cũng không biết nữa chú hai ơi!
- Vậy ai lên tiếng với tôi vậy cà?
- Ðó là cái nhà. Tui là cái nhà đây!
Chú rờ rờ lên người tôi:
- Vậy cái cửa sổ đâu? Sao tui tìm hoài không thấy cái chốt hè! Ô! Ðây có phải là cái chốt không?
Tôi hét lên:
- Không phải, đó là con cu!
Hai chú cháu ồ lên cười. Tôi ôm lấy cổ chú và cứ như thế, chú đi thẳng ra bàn, không hề vịn tôi. Chú nói:
- Tui cõng cái nhà, mệt quá!
Sáng nào cũng vậy, chú đều sang chơi. Tất nhiên mỗi lần sang chú đều chọc ghẹo tôi như vậy. Có hôm chú nói:
- Cái gì nằm trong mền vậy, có phải là cái bánh xèo không? Tui đói bụng quá!
Tôi hét lớn:
- Không. Tui là con cọp!
- Nếu là con cọp, cho tôi xem cái chân!
Thế là chú vờ ăn cái chân của tôi.
Một buổi sáng tôi đều nằm nán lại chờ chú. Tôi luôn nghĩ mình phải đóng vai gì để chú cười to nhất. Tôi yêu giọng cười của chú lắm! Nằm trong mền, tiếng cười thật vang. Nó cứ âm âm trong đầu tôi như một bài hát. Có một bữa sáng nọ, chú không ghé: tôi chờ mãi đến sốt cả ruột. Bố tôi nói:
- Dậy đi con, chú Hùng chắc bận.
Tôi vẫn cứ nằm chờ. Tôi biết chú sẽ nhớ. Ðến khoảng chín giờ chú chạy vụt vào nhà, hét lớn:
- Ối trời ơi! Cái bánh của tôi thiu mất!
Tôi nói:
- Sao chú không qua gọi con?
Chú nói:
- Cho chú xin lỗi cái bánh nhé, chú bận, cho nên cái bánh mới khét như vầy nè!
Thế là tôi cười xòa "tha thứ" cho chú.
Thỉnh thoảng chú hay vật tay với tôi. Chú có cánh tay to lắm, từng cái cơ vồng lên như những trái núi nhỏ. Tuy vậy, chú luôn thua tôi trong trò này. Chú nói:
- Ôi, tui mệt quá! Nhấc cái tay lên không muốn nổi, tại sao vậy cà? Tui nhớ là cái tay tui rất bự. A! Chắc là tui không được mưu trí!
Chú nằm xụi xuống mặt bàn, mặt thiểu não. Rồi chú bật dậy, hét lớn:
- À! Tui biết rồi, tại vì sáng ngủ dậy, tui không chịu đánh răng!
Tôi biết chú nhắc khéo tôi. Ghê lắm!
Từ nhà tôi sang nhà chú chỉ độ dăm mét nên chú gọi tôi là người láng giềng. "Người láng giềng đi đâu đó. Có phải đi tìm người láng giềng là tui không?". Bố tôi gọi chú là người nhà vì việc lớn nhỏ chú đều làm giùm, và khi làm thì rất cẩn thận. Chú đóng hàng rào rất khéo, dây kẽm gai căng như dây đàn.
Bàn tay phải của chú chỉ có bốn ngón. Chú nói đó là vì chiến tranh. Một viên đạn bay ngang cắt đứt nó. Chú là người may mắn, nhiều người đứt cả bàn tay, bàn chân. Như ông Tư xóm tôi, chỉ còn khúc mình, ông buồn lắm. Chú nói chú cụt một ngón tay còn buồn, huống gì ông Tư.
Có một lần chú cõng tôi ra cồn, chỉ vào một lùm cây, nói ngón tay chú nằm chỗ này. Mỗi lần đi ngang đó chú đều nhớ ngón tay, nhớ khủng khiếp. Cho nên chú hay tránh con đường đó, nó khiến chú nhớ lúc còn lành lặn. Một cơ thể lành lặn bao giờ cũng thật đẹp. Những con người mất đi một phần cơ thể là mất đi những niềm vui. Thay vì vui mười ngón, chú chỉ còn niềm vui chín ngón. Ngón thứ mười trở thành nỗi buồn.
Tôi ôm lấy cổ chú, chú hỏi:
- Cháu còn mấy ngón vậy?
Tôi hãnh diện nói:
- M.ư.ờ.i...
- Cho chú đếm xem.
Tôi xòe bàn tay ra - Một, hai, ba... Chú thốt lên. Ðúng rồi! Mười! Cháu hơn chú những một ngón.
Lần đầu tiên tôi thấy một niềm vui từ thân thể mình, và tôi cũng hiểu nỗi buồn của những người không còn đầy đủ thân thể.
Tôi sang nhà ông Tư. Tôi không dám vào nhà, cứ thập thò bên cửa sổ. Ông hỏi:
- Ai đó?
Tôi nói:
- Con đây, con là thằng Dũng.
Tôi từ từ đi vào nhà, ngồi xuống bộ ván.
- Có gì muốn nói với ông phải không? Ông hỏi.
Tôi ấp úng:
- Con muốn hỏi... ông có nhớ, nhớ...
- Nhớ cái gì? Con cứ nói đi, đừng sợ.
- Ông có nhớ bàn tay và bàn chân không?
Ông Tư im lặng nhìn tôi. Tôi nói tiếp:
- Con biết ông nhớ lắm!
- Ừ. Ông nhớ - Ông chớp chớp đôi mắt - Những ngày nằm ở đây, ông luôn nhớ.
- Thế thì ông có đến cái chỗ mà bàn tay bàn chân của ông nằm lại không?
- Chưa. Ông chưa ghé bao giờ. Nhưng ông sẽ không bao giờ quên đâu. Từ lâu, ông ước mơ được ghé lại thăm một lần nhưng chưa tiện nói ra. Ông sợ chị Hồng của con (tức con ông Tư) nhọc công. Với lại, khi nhắc đến, chị của con sẽ buồn lắm. Ông luôn sợ chị Hồng của con buồn.
- Thế chỗ đó có xa không ông?
- Không. Ngay trường con đó.
- Ngay trường của con?
- Ừ. Năm đó ông bảo vệ lớp học. Khi nghe tiếng máy bay, ông đã dẫn cả lớp xuống hầm trú. Không ngờ có một thằng bé vì quá sợ chui xuống gầm bàn nên ông đã bỏ sót. Khi đếm lại thấy thiếu một người, ông vội vàng chạy lên tìm.
- Ông có tìm thấy nó không?
- Có. Ông bế nó lên, người nó mềm nhũn. Ông nói đừng sợ nhưng biết chắc rằng nó đang sợ lắm. Rồi bỗng dưng một trái bom rơi xuống. Ông không còn biết gì. Trước đó ông định ép nó vào người, ông định ép nó vào ngực mình nhưng không kịp. Một luồng sáng lóe lên như cắt đứt đôi tay của ông. Khi ông tỉnh lại thì đứa bé đã chết rồi. Ông còn sống được là bởi vì ông là người lớn, sức chịu đựng tốt hơn. Người ta nói khi ẵm đứa bé lên, bàn tay của ông vẫn còn trên người nó.
Tôi rùng mình:
- Lúc đó nó đã bị cắt khỏi người ông rồi phải không?
- Ừ, người ta đã chôn bàn tay và bàn chân của ông dưới một hố bom. Sau đó lấp đất lại, trồng lên trên đó một cây dừa.
- A! Con biết chỗ đó rồi.
- Ừ. Con hãy đến thăm nó giùm ông nhé, giống như con đã đến thăm ông vậy, vì đó là một phần cơ thể của ông còn nằm lại.
Tôi gật đầu:
- Con sẽ đến thăm nó giùm ông, con sẽ nói với mọi người, dưới gốc dừa có bàn tay của ông để lại lúc ẵm một đứa bé.
- Con nhớ nói đứa bé vẫn còn sống nhé!
- Tại sao vậy ông?
- Ông cũng không biết nữa - ông thở dài - có lẽ khi nói cứu sống được một đứa bé, sẽ tốt đẹp hơn. Ông rất ân hận khi đã lỡ nói với con đứa bé đã... Nhiều năm qua rồi, ông vẫn muốn nó được cứu sống kia.
- Con hứa, con sẽ nói...
- Ừ. Nhớ nhé. À, cây dừa có sai trái không?
- Có, ông ạ. Nó rất ngọt. Nhưng con biết vì sao nó ngọt rồi.
- Tại sao vậy?
- Nó trả công ông đó. Ðúng rồi! Con sẽ nói với tụi bạn rằng dưới cây dừa có một điều bí mật. Chúng sẽ trố mắt hỏi Cái gì vậy? Con sẽ giả vờ như suy nghĩ một chút. Sau đó mới nói là vì dưới cây dừa có một bàn tay!
Ông Tư bật cười:
- Con làm ông hồi hộp quá! Con cho ông xem bàn tay của con đi.
Tôi xòe mười ngón ra. Ông khen:
- Ôi! Chúng thật dễ thương. Ông ước gì được một ngón.
Tôi nói:
- Con sẽ cho ông ngón út. Con kể bí mật này cho ông nhé, trong mười ngón tay, con thương nhất là ngón út. Nó là ngón thiệt thòi nhất, bé tí. Nó yếu nữa. Ông thấy không, nó nhúc nhích rất chậm, vậy mà lâu lâu con còn cắn nó một cái. Nhưng mà thôi, con sẽ cho ông mười ngón.
- Làm sao ông lấy được.
- Dễ lắm. Thỉnh thoảng con sẽ chạy sang đây. Ông chỉ việc kêu lên "bàn tay ơi lấy cho tui cái bánh". Thế là bàn tay sẽ chạy đến lấy cho ông ngay.
Ông cười khà khà:
- Ôi hay quá! Thật là hấp dẫn, vậy mà ông không nghĩ ra được. Ðể ông thử nhé! - Ông hắng giọng rồi sôi nổi nói - Bàn tay ơi!
- Ơi! Có tui đây! - Tôi nói to. Tui là bàn tay đây! Bàn tay xin tuân lệnh hoàng thượng!
Chương 5 : Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
Chương 5 : Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
Nhà tôi có khu vườn rất rộng. Bố trồng nhiều hoa. Buổi chiều ra đồng về, bố thường dẫn tôi ra vườn, hai bố con thi nhau tưới. Bố làm cho tôi một bình tưới nhỏ bằng cái thùng đựng sơn rất vừa tay. Bố lại lấy hộp lon gò thành cái vòi sen nữa. Bố hay bảo tôi nhắm mắt lại, sau đó dẫn tôi đi chạm từng bông hoa một. Bố nói:
- Ðố con hoa gì?
Tôi luôn nói sai. Nhưng bố nói không sao cả, dần dần tôi sẽ nói đúng. Những buổi chiều tôi hay nhắm mắt sờ những bông hoa rồi tập đoán. Tôi đoán được hai loại hoa: hoa mồng gà và hoa hướng dương. Bố cười khà khà khen tiến bộ lắm! Một hôm khác, tôi đoán được ba loại hoa. Bố nói:
- Phen này con sẽ đoán được hết các loại hoa của bố mất thôi!
Và đúng như vậy, không bao lâu, tôi đã đoán được hết vườn hoa. Từ trong nhà ra ngoài vườn, tôi có thể chạm bất cứ loại cây nào và nói đúng tên của nó. Tôi cũng đã thuộc khu vườn. Tôi có thể vừa nhắm vừa đi mà không chạm vào vật gì. Những lúc rảnh rỗi, bố hay đứng trong vườn rồi đố tôi tìm ra bố. Bố nói:
- Bố thấy con hé mắt!
Tôi cãi lại:
- Không! Con không có hé mắt. Con biết chỗ cây hoàng lan mà!
- Thật không? - Bố giả vờ nghi ngờ.
Trò chơi này không chỉ diễn ra ngoài vườn mà còn trong nhà. Bố hay giấu cục kẹo đâu đó rồi đố tôi, và lần nào tôi cũng tìm thấy. Bố còn đố khi tôi nhắm mắt, bố đứng cách tôi bao xa.
Lúc đầu tôi luôn đoán sai nhưng sau thì đúng dần. Mỗi lần như thế, bố đều lấy thước ra đo đàng hoàng.
Bây giờ, khi đang còn vùi đầu trong mền, tôi vẫn biết bố đang cách xa tôi bao nhiêu mét khi chỉ cần nghe tiếng bước chân. Trò chơi này làm chú Hùng ngạc nhiên lắm. Chú cứ hay nghi ngờ rằng không thể được, cháu đã ăn gian. Cháu hé mắt. Thế là tôi lại lặp trò chơi cho đến khi chú phải thốt lên:
- Thật không thể tin nổi, cháu có con mắt thần!
Trò chơi này, tôi có một kỷ niệm đáng nhớ. Sau nhà tôi có một con sông nhỏ. Những ngày nghỉ bố hay dẫn tôi ra đó tắm. Bố tôi bơi giỏi lắm. Bố có thể lặn một hơi dài đến mấy phút. Hôm đó, khi cả nhà đang ăn cơm thì bỗng nghe một tiếng hét lớn. Sau đó hoàn toàn im lặng. Mọi người nhìn quanh, không biết tiếng hét xuất phát từ hướng nào. Nhưng tôi đã nói ngay:
- Cách đây khoảng ba chục mét, hướng này!
Mẹ tôi chồm dậy:
- Chết rồi, ngoài bờ sông!
Bố quăng chén cơm rồi băng vườn chạy ra... Tôi và mẹ chạy theo, quả nhiên đúng như vậy. Dưới cái hụp xoáy, một thằng bé chới với chỉ còn lòi ngón chân.
Nó là thằng Tí, con bà Sáu. Nhân buổi trưa, nó trốn ra bờ sông vọc nước, không ngờ trượt chân té xuống. Bố tôi ẵm nó về nhà. Bụng nó đầy nước, bố phải nắm ngược hai chân dốc xuống như làm xiếc. Sau đó cả xóm mới hay tin chạy ra. Người ta bu quanh tôi, hỏi đủ chuyện. Bà Sáu còn cám ơn tôi. Bà khóc. Bà nói không có tôi, thằng Tí con bà sẽ chết. Nhiều người không tin rằng tôi có thể lắng nghe âm thanh tài tình như vậy bèn thử tài, thật may phước lần nào tôi cũng đoán trúng. Họ hỏi làm sao biết hay vậy? Bố nháy mắt và chúng tôi cười ồ. Tôi biết đó là một bí mật, không thể tiết lộ! Một bí mật giữa bố và tôi. Nhưng tôi đã hứa, tôi sẽ chỉ cho thằng Tí bí mật này. Nó là bạn thân của tôi mà. Tôi thấy tên nó đẹp hơn mọi tên, khi đọc lên, âm thanh cứ du dương như một bài hát.
Ở trường tôi hay gọi nó:
- Tí, Tí!
Nó hỏi:
- Cái gì?
Tôi mỉm cười:
- Chẳng có gì!
Nó ngạc nhiên lắm. Nó không hề biết rằng tôi đang nghe âm thanh từ cái tên của nó.
Bố tôi nói, mỗi cái tên là một âm thanh tuyệt diệu. Người càng thân với mình bao nhiêu thì âm thanh đó càng tuyệt diệu bấy nhiêu.
Tôi tin bố. Tôi hay gọi tên bố chỉ để nghe âm thanh.
Sau vụ đó, tôi dám cá với các bạn, thằng Tí không dám ra bờ sông một mình nữa. Lần nào đi, nó cũng chờ bố tôi. Bố tôi cõng nó một bên vai, cõng tôi một bên vai. Nhưng tôi có qui định với nó, cái cổ của bố phải để tôi ôm. Bố tôi mà! Nó đồng ý.
Mỗi lần ra sông vui lắm. Bố làm chiếc xuồng, hai chúng tôi cỡi trên lưng. Bố nói, đây là xuồng máy nên không cần phải chèo, chỉ cần xăng, chúng tôi phải đổ xăng vào. Bố nói, đừng có đổ vào lỗ tai, chỗ đó là cái đèn.
Thằng Tí hay đem cho bố tôi những trái ổi. Nó trèo cây giỏi lắm, nhà nó có một vườn ổi. Những trái ổi to được nó lựa dể dành cho bố đều có bịch ni-lông bọc lại đàng hoàng. Những trái ổi như thế bao giờ cũng vừa to vừa mềm, cắn vào rất đã. Bố tôi ít khi nào ăn ổi, nhưng vì nó, bố ăn.
Tôi nói:
- Sao bố kính trọng nó quá vậy?
Bố cười xòa:
- Không phải đâu, bố không cưỡng lại được trước món quà. Một món quà bao giờ cũng đẹp. Khi ta nhận hay cho một món quà, ta cũng đẹp lây vì món quà đó - Bố còn nói thêm - Một nụ hôn cũng là một món quà sang trọng. Một giấc ngủ của tôi cũng chính là một món quà, cả con người tôi đều là món quà cho bố.
Tôi đi nhẹ ra vườn. Tôi hiểu, khu vườn là món quà bất tận của tôi. Mỗi một bông hoa là một món quà nhỏ, một vườn hoa là món quà lớn. Tôi nhắm mắt và chạm tay rồi gọi tên từng món quà. Tôi chạm phải bố. Tôi la lên:
- A! Món quà của tui đây rồi. Ôi cái món quà này bự quá!
Bố lại nghĩ ra trò chơi khác. Thay vì chạm vào hoa, bây giờ tôi chỉ ngửi rồi gọi tên nó. Bố đưa bông hoa trước mũi tôi rồi nói, hoa gì? Trò chơi cứ được diễn ra liên tục cho đến hồi tôi nhận diện được tất cả mùi hương của các loài hoa.
Ðêm, tôi mở cửa sổ và nói:
- Hoa hồng đang nở kìa bố ơi!
Bố không tin, xách đèn ra soi và đúng vậy. Những bông hoa cứ đem hương đến cửa sổ như báo cho tôi biết từng mùa. Hoa gì nở sớm, hoa gì nở muộn. Tôi còn phân biệt đồng một lúc những hoa gì đang nở. Bố nói tôi có cái mũi tuyệt nhất thế giới!
Bạn hãy tưởng tượng, một buổi sáng mờ sương. Bạn vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, và bạn chợt hiểu khu vườn nói gì. Bạn hiểu bây giờ là mùa gì và bông hoa nào đang nở, tên gì. Từng tiếng bước chân trong vườn, bạn biết chính xác người có bước chân đó cách xa bạn bao nhiêu mét. Bạn còn biết tiếng chân đó là của ai, bố hay mẹ. Bạn sẽ giả vờ hỏi:
- Ai đó? Có phải là người khách lạ không?
- Không. Tôi là khách quen! - Người đó trả lời.
Bạn sẽ nói:
- Khách quen sao tui không biết vậy cà? Tui nghe bước chân lạ lắm.
- Ðó là tại vì tui đang hồi hộp. Tui thấy khu vườn nở nhiều hoa quá.
- Hoa hồng và mào gà phải không?
- Ôi! Sao anh biết hay quá vậy?
Bạn sẽ nói to lên:
- Tại vì tôi có con mắt thần.
- Con mắt thần nằm ở đâu vậy?
- Nằm ở mũi tui.
Ðó chính là một điều bí mật mà tôi muốn chia sẻ với bạn. Bạn hãy thử đi rồi sẽ thấy, khu vườn sẽ lớn lên rất nhiều. Những bông hoa thơm hơn và khi nhắm mắt, bạn vẫn nhìn thấy nó. Không chỉ vậy, bạn còn thấy nguyên cả khu vườn. Bạn có thể nhìn thấy bông hồng ngay trong đêm tối. Ðêm bạn nằm, đắp chăn kín người nhưng bạn vẫn có thể đi dạo. Bạn sẽ không bao giờ lạc trong bất cứ một khu vườn nào, bởi vì, những bông hoa sẽ chỉ lối cho bạn, một lối đi an toàn và thơm ngát.
Và lúc đó, bạn sẽ tiếc lắm nếu thế giới này vắng đi những bông hoa. Bạn sẽ tự hỏi, tại sao trong khu vườn không có người dẫn lối? Người ta sẽ ngạc nhiên hỏi lại, người dẫn lối nào? Bạn sẽ từ từ nói, đó là NHỮNG BÔNG HOA...
Những bông hoa chính là người đưa đường!
Chương 6 : Ðôi Guốc Của Cô Giáo Hà
Chương 6 : Ðôi Guốc Của Cô Giáo Hà
Cô giáo Hà lùn xịt nên cô mang đôi guốc cao gót. Từ dưới bục giảng nhìn cô vẫn thấy lùn. Cô chải tóc tém. Mẹ tôi nói, nhờ vậy nhìn cô trẻ mãi. Có một lần, khi gọi tôi lên bảng, cô nhìn tôi một hồi rồi nói:
- Em lớn nhanh thật, chẳng vài năm em sẽ cao bằng cô.
Tôi nói:
- Ðó là nhờ em chơi thể thao.
Cô trợn mắt hỏi lại:
- Em chơi thể thao?
- Dạ, đúng vậy. Bố em nói, những người chơi thể thao luôn cao ráo và xinh đẹp. Mẹ em không chịu chơi thể thao nên mặt mụn đầy!
Cô cười cười không nói gì.
Tôi hỏi:
- Cô có chơi thể thao không?
Cô nói:
- Có... có... - sau đó nói thêm - chút chút...
Tôi hay quan sát đôi guốc cao gót của cô. Mỗi lần cô bước lên bục giảng, tim tôi cứ thót lại vì sợ cô ngã. Nhưng cô không ngã, còn đi rất nhanh. Cô bước những bước chân thật dài. Có lẽ cô phải tập công phu lắm.
Tôi hỏi mẹ, để đi được như cô có lâu lắm không? Mẹ tôi lắc đầu, mẹ không biết. Mẹ chưa bao giờ đi guốc cao gót vì chân mẹ rất to. Mẹ cũng rất thích nhưng chưa bao giờ có can đảm mua nó. Mẹ đã quen đi những đôi dép mỏng và bền. Vả lại, một đôi guốc cao gót không thể đi ruộng và lội sình. Nó phải đi trên đường nhựa cùng với áo dài. Dáng của mẹ lại xấu, không thể bận áo dài được. Mẹ nói, ngày mẹ còn trẻ, mẹ có bận áo dài một lần nhưng sau đó thì thôi luôn. Khi bận áo dài, tôi sẽ không nhận ra mẹ. Mẹ thích tôi phải nhận ra mẹ kia. Thế là tôi không hỏi nữa.
Cô Hà có hai đôi guốc, một đôi màu xanh, một đôi màu đỏ. Cô cứ luân phiên thay đổi nhau, hai ngày đôi này, hai ngày đôi kia. Tôi thích đôi màu xanh hơn vì nó cao vừa phải, lại trông xinh xắn. Khi đi, nhìn cô ít gồng hơn, tự nhiên hơn.
Bẵng đi một dạo, không thấy cô mang nữa. Cô chỉ mang đôi guốc cao gót màu đỏ. Trên bục giảng cao, màu đỏ trông thật nhức mắt. Tôi chờ mãi vẫn không thấy cô mang đôi màu xanh. Thế là một hôm tôi hỏi cô:
- Cô ơi, sao cô không mang đôi guốc màu xanh?
Cô xòe to con mắt nhìn tôi:
- Em còn nhớ đôi guốc của cô à?
Tôi gật đầu:
- Em thích cô mang đôi guốc đó lắm. Trên bục giảng, trông cô cao vút.
Cô gật gù có vẻ sung sướng lắm:
- Cám ơn em. Nhưng đôi guốc đó quá cũ.
- Không sao cả, trông nó vẫn đẹp. Mẹ em luôn mang những đôi dép cũ. Bố em nói, quăng nó đi. Nhưng mẹ không chịu. Mẹ nói đôi dép đó đã quen với mẹ rồi, nó là đôi dép đẹp nhất.
- Thế rồi bố em có nói gì không?
- Bố em chịu thua mẹ. Bố em nói, mẹ cứng đầu lắm! Nhưng em biết bố đùa, bố không bao giờ nói mẹ cứng đầu. Có hôm em còn nghe bố nói mẹ là cục cưng. Em thắt cười lắm. Mẹ to như vậy mà bảo là cục cưng. Vậy mà bố vẫn cứ nói cục cưng, cục cưng...
Hôm sau, cô Hà mang đôi màu xanh. Nhìn thấy tôi, cô trợn trợn con mắt như muốn bảo: bí mật đó nhé! Bí mật này chỉ có cô và em biết thôi. Tôi vui lắm, không ngờ cô Hà lại tin tôi như vậy. Tôi có cảm giác, cô mang guốc chỉ để cho một mình tôi nhìn.
Giờ ra chơi, tôi chạy vụt đến chỗ cô, nói:
- Cô đẹp quá!
Cô cười, mặt đỏ lựng. Cô nói:
- Cám ơn. Nhờ em, cô mới biết đôi guốc màu xanh làm cô đẹp ra.
Khoảng một tháng sau bỗng tôi thấy cô xuất hiện trên bục giảng với đôi guốc màu đỏ. Cô nhún vai nhìn tôi. Thì ra, đôi guốc màu xanh đã gãy cái gót. Khi mang cô sẽ đi cà thọt.
Cô nói:
- Nó cũ quá rồi. Không thể sửa chữa được nữa.
Tôi an ủi cô:
- Không sao cả, màu đỏ trông cô cũng vẫn đẹp. Em sẽ không nhìn đôi guốc nữa, em sẽ nhìn khuôn mặt của cô, khuôn mặt sẽ không bao giờ cũ, khuôn mặt sẽ không bao giờ bị gãy gót.
Cô cười trông vui lắm, nói:
- Em là người hiểu cô nhiều nhất. Khi em hiểu đôi guốc của một người thì có nghĩa là em hiểu người đó. Em sẽ hiểu, tại sao người ta yêu cái màu xanh này mà lại không yêu cái màu đỏ kia.
- A! Em hiểu rồi. Cô yêu đôi guốc màu xanh này là tại vì cô yêu em.
Từ đó, tôi không còn thắc mắc đôi guốc cao gót của cô Hà nữa. Cô có đi chân không tôi vẫn yêu cô. Mẹ nói chừng nào đến ngày nhà giáo, sẽ biếu cô một đôi guốc màu xanh.
Và tôi chờ đợi, lâu lắm... Lâu quá trời lâu!
Chương 7 : Truớc Khi Đi Học Về,Hãy Để Quên Một Cái Gì Đó
Chương 7 : Truớc Khi Đi Học Về,Hãy Để Quên Một Cái Gì Đó
Một hôm, lớp học của tôi bỗng xôn xao vì một chuyện lạ. Ðầu tiên không ai để ý cả, nhưng dần dần mọi việc đã quá rõ. Thằng Tí là người luôn đi học sớm. Ðiều này lạ hoắc vì chưa bao giờ nó siêng năng như vậy. Khi đi học, nó còn không thèm gọi tôi. Nhiều lần lặp lại liên tiếp, thế là tôi ráng dậy sớm để đi theo nó, rình. Nó giở trò gì đây, tôi chẳng biết. Nó chỉ cắm cúi đi.
Khi đến lớp, nó nhảy xổ đến bàn cô giáo nhặt một cái gì đó rồi đi về bàn mình. Cầm cái vật nhỏ nhỏ trong tay, nó cứ cười miết. Hỏi cười cái gì, nó cũng không nói.
Tôi kể mọi chuyện cho tụi bạn nghe. Thế là cả bọn chúng tôi quyết định sẽ đến sớm hơn. Nhưng thật không may, khi đến lớp đã thấy nó ngồi chễm chệ, cười cười, không nói. Hôm sau tụi tôi đi sớm hơn nữa, vẫn thấy nó ngồi cười cười. Nó luôn đến trước. Mãi cả tuần sau, tôi mới được hân hạnh là người đến đầu tiên.
Trên bàn cô giáo có một gói giấy nhỏ. Khi mở ra bên trong có một viên kẹo, chẳng biết ai đã để ở đây và để khi nào. Tôi vừa lột viên kẹo bỏ vào miệng thì vừa lúc thằng Tí xông vào.
Tôi hét to:
- Tao biết bí mật của mày rồi!
Thằng Tí bĩu môi:
- Tao đã ăn được những hai mươi viên.
- Nhưng ai để lại vậy?
- Tao không biết.
Giờ ra chơi, tụi bạn bu quanh tôi hỏi:
- Cái gì vậy?
Tôi nhìn thằng Tí rồi cười cười. Bọn chúng tức điên lên, hỏi mãi, tôi cũng chỉ cười cười. Làm sao có thể cho bọn chúng biết điều bí mật ngọt ngào này được!
Cách vài hôm, lại thêm một đứa mới biết điều bí mật. Chúng tôi cứ nhìn nhau cười cười... Rồi dần dần, lớp chúng tôi ai cũng biết điều bí mật. Nhưng ai là người làm ra điều bí mật đó thì không được biết. Chúng tôi đã phân công nhiều ổ mai phục, nhưng cuối cùng chẳng thu được kết quả gì. Luôn luôn, vào sáng sớm, trên bàn cô lại xuất hiện một viên kẹo.
Lúc đầu chúng tôi cứ nghĩ là cô giáo Hà. Nhưng không phải. Cô luôn ra khỏi lớp khi trong phòng vẫn còn chúng tôi. Vậy thì ai? Nghĩ mãi vẫn không ra.
Một hôm tôi ngồi lì trong lớp, định ngồi đến sáng để chờ người lạ mặt nhưng vì đói bụng quá đành ôm sách về. Rồi tôi chợt nghĩ, tại sao mình không gởi cho người lạ mặt một lá thư. Thế là tôi viết ngay. "Gởi người lạ mặt. Anh là ai vậy, có thể cho tôi biết được không?".
Hôm sau tôi vào lớp sớm, trên bàn vẫn như thường lệ có một viên kẹo gói trong tờ giấy nhỏ. không có thư trả lời, còn lá thư của tôi thì biến mất. Chứng tỏ người lạ mặt đã lấy nó đi.
Tôi suy nghĩ lung lắm. Tại sao người lạ mặt không trả lời tôi? Một ý định khác chợt đến với tôi, tôi sẽ là người lạ mặt. Tại sao không chứ? Tôi cũng làm được vậy.
Hôm đó tôi giấu một trái ổi to trong cặp. Ðợi tụi bạn đi học về hết, gói nó lại bằng một tờ báo rồi đề chữ lên: Tôi - Người lạ mặt - có món quà nhỏ tặng người đến sớm.
Hôm sau, tôi nghe bọn chúng kháo nhau:
- Ðến hai người lạ mặt. Một người để trái ổi, một người để cục kẹo.
Hôm sau nữa bỗng xuất hiện ba người lạ mặt, rồi bốn, rồi năm, rồi sáu, bảy... Bây giờ thì chúng tôi vỡ lẽ ra rồi. Người lạ mặt đang ở trong lớp. Những buổi đi học về, đứa này cứ nhìn đứa kia nấn ná không muốn rời lớp. Chúng chính là những kẻ lạ mặt.
Nhưng người lạ mặt đầu tiên là ai, vẫn không biết.
Những buổi sáng đi học sớm, chúng tôi - những người lạ mặt - người lạ mặt này ăn món quà của người lạ mặt kia. Lâu lâu trong món quà còn kèm những câu hỏi rất vui. Và chúng tôi ngầm thỏa thuận trả lời những câu hỏi của nhau bằng những món quà. Nhưng chúng tôi vẫn ấm ức một điều, ai là người lạ mặt đầu tiên?
Tôi kể chuyện này cho bố nghe. Bố nói:
- Ðó mới là điều bí mật. Trong mỗi người bạn của con đều có một điều bí mật và một món quà, đúng chưa? Khi biết món quà của ai, ta sẽ yêu người đó mà không yêu những người khác. Khi nhận một món quà không biết ai gởi, con sẽ yêu tất cả những người con quen. Vì biết đâu, một trong số họ đã gởi món quà đó. Chúng ta không nên biết người lạ mặt để làm gì cũng là một điều hay...
Tôi đi học và tôi biết, mỗi buổi sáng luôn có một người bạn nào đó tặng tôi một món quà. Bạn có thấy điều đó thú vị không? Bạn hãy tưởng tượng đi. Những người xung quanh chúng ta đều có thể là người lạ mặt. Và tất nhiên, trước khi đi học về, bạn hãy nhớ quên một cái gì đó. Và bạn sẽ thấy, người lạ mặt từ từ xuất hiện thật nhiều, cho đến lúc tất cả chúng ta đều là người lạ mặt.
Chương 8 : Một Ngày Kinh Hoàng
Chương 8 : Một Ngày Kinh Hoàng
Từ ngày lấy cô Hồng làm vợ, chú Hùng ít sang nhà tôi. Bố tôi nói chú rất bận. Với lại khi lấy vợ, chú phải chăm sóc vợ, vợ là người chú yêu mà!
Thỉnh thoảng chú mới ghé đầu vào cái mền của tôi, nói:
- Ôi! Lâu quá tôi mới gặp người láng giềng.
Tôi cũng đã quen những buổi sáng không có chú; những lần chú sang, tôi cứ thấy là lạ, hình như không phải. Tôi nằm im lắng nghe bước chân nhè nhẹ đang đi đến giường.
Tôi chồm dậy, hỏi:
- Chú Hùng phải không?
Chú ngúc ngoắc cái đầu. Tôi thương chú vô cùng. Mẹ nói, những người có "gia đình" vất vả lắm. Tôi thấy chú vẫn như ngày nào, vui nhộn và dễ gần. Chú chỉ hơi đen. Cô Hồng cũng đã chuyển chỗ về làm ngay trong xã. Buổi sáng, cô vấn tóc củ tỏi như những người già, trong khi khuôn mặt lại trẻ măng, nhìn cứ ngờ ngợ, buồn cười! Suốt cả ngày, chú Hùng đánh vật với đám đất phía sau.
Tôi ghé sang, múc cho chú ca nước.
Chú nói:
- Cháu xem chú cứ như khách.
Tôi lật những tổ dế, thấy con nào con nấy tròn đen. Tôi đem chúng về thả trong vườn. Ðêm tiếng gáy nghe lanh lảnh và hơi buồn. Buổi sáng tôi chăn bò giùm chú.
Chú đã sắm chiếc xe, chừng nào dỡ xong đám đất, chú sẽ đánh vào rừng. Trong rừng thú vị lắm, chú hứa sẽ cho tôi đi theo. Nhưng trước đó tôi phải tập nấu cơm và làm những việc lặt vặt.
Từ nhà tôi đến rừng chỉ độ hai tiếng đồng hồ đi xe bò, đi bộ chỉ một tiếng. Chú nói khi ở rừng, người ta luôn hú gọi nhau như con vượn, con khỉ. Thằng Tí cũng nằng nặc đòi đi theo và chú đồng ý.
Chú nói:
- Miễn sao chúng mày không quậy phá thì được.
Chúng tôi đi rừng được vài ba chuyến thì cả lớp ai cũng biết. Chúng ngưỡng mộ lắm, đòi tôi và thằng Tí dẫn vào rừng. Tôi không chịu và chúng bắt đầu nói kháy. Chúng nói bọn tôi nhát, bọn tôi giống lũ con gái hay khóc nhè. Ði vào rừng không có người lớn thì đã sao, còn thú vị nữa là! Trong rừng hoa lan rất đẹp.
Thế là chạm tự ái, tôi bằng lòng. Chúng tôi hẹn nhau vào ngày lao động cuối tuần và chỉ đi trong vòng một buổi sáng. Làm gì thì làm, hết buổi sáng phải về ngay. Ðêm hôm đó, tôi lùi ba củ khoai vào đống tro, lại lén bọc theo con dao của mẹ. Khoai là để đề phòng bất trắc, còn con dao là để chiến đấu với những "thế lực huyền bí".
Ðúng giờ gặp nhau tại điểm hẹn. Bọn con gái mang theo đồ ăn, dọc đường cứ nhai lách chách. Chúng kể đủ thứ chuyện chẳng biết nghe từ đâu. Nào là ma lai, nào là ma sói. Ớn lắm! Rồi chúng lại cho rằng, con nít ở rừng sẽ hót như chim.
Khoảng tám giờ thì đến rừng, cả bọn nhảy nhót hỗn loạn như được cho ăn. Mạnh đứa nào đứa đó đi một nẻo. Có đứa còn bạo gan đuổi theo những con kì nhông. Tôi đi kè kè thằng Tí vì sợ lạc. Mà quả thật cái điều tôi lo lắng đã xảy ra.
- Con Lan đâu rồi? Thằng Tí hét lớn.
Bọn con gái khóc òa. Chúng quáng quàng tụm lại như những con sâu. Tôi bắt đầu thấy sợ.
Một đứa nói:
- Mình phải về báo cho người lớn hay.
- Không được - thằng Tí quát lên - mẹ tao sẽ đánh chết.
- Thế mình phải ở đây à?
- Ừ, đi tìm nó đi.
Chúng tôi hú gọi nhưng chẳng nghe tiếng trả lời.
- Coi chừng nó chết rồi đó!
Con Hương khóc òa khiến đám con gái lại khóc theo.
- Tụi mày mà khóc nữa, tao sẽ bỏ trong rừng luôn. Thằng Tí quát.
Lần theo con suối, chúng tôi nắm tay nhau đi. Ði mãi vẫn không thấy con Lan. Mặt trời đã lên đến đỉnh đầu.
Thằng Hùng mặt tái xanh nói:
- Hình như mình đi xa lắm rồi.
Chúng tôi hoảng hồn quay trở lại nhưng con đường cũ đã biến mất. Những lùm cây càng lúc càng hẹp dần. Chúng ép sát vào nhau cho đến hồi không còn lối đi. Bây giờ thì tất cả con gái con trai đều khóc òa.
- Làm sao bây giờ đây?
Chúng tôi hú gọi đến khản cổ vẫn không nghe tiếng trả lời. Rừng cứ âm âm vọng lại những âm thanh ma quái.
Vừa đói khát, vừa mệt mỏi, cả bọn nằm dài lên đống lá mục. Nằm được một lúc, không ai bảo ai cùng đứng dậy.
- Ði thôi, nếu không trời sẽ tối.
Từ phía mặt trời, những đám mây đen bắt đầu kéo đến. Chúng phủ dần cho đến hồi đen kịt.
- Chết rồi! Mưa tụi bây ơi!
Nhớ đến bài học của chú Hùng, thằng Tí hướng dẫn cả bọn bẻ nhánh cây kết lại làm mái che.
Khi lo cho cơn mưa sắp đến, chúng tôi không hề biết rằng con Dung không còn ngồi dậy được nữa. Khi đứng lên, nó bỗng hoa mắt rồi ngã vật ra đất. Tóc nó ướt đẫm mồ hôi. Bình thường nó là đứa ốm yếu nhất lớp. Bây giờ lại đi đường xa trong lúc bụng đói, thế là nó xỉu. Chui vào mái che, chúng tôi phát hiện ra con Dung.
- Eo ôi! Con Dung kìa?
- Hình như nó chết rồi!
Cả bọn không ai dám nhúc nhích. Bỗng tôi nhìn thấy một ngón tay của con Dung động đậy.
- Ngón tay nó kìa. Thấy chưa, nó đang nhúc nhích.
- Ðứa nào gan, ẵm nó dậy đi, nếu không nó chết đó.
Tôi co rúm người lại. Chân tê cứng. Nhắm chặt mắt, rồi cảm thấy có gì không ổn lại từ từ hé mắt ra nhìn.
Con Dung vẫn nằm đó. Nhưng thằng Toàn đã đứng dậy. Nó là thằng cả lớp vẫn cho là mít ướt, đụng một chút là vãi ***** trong quần. Lúc sáng cả bọn định cho nó ở nhà. "Mày thì đi đâu. Ði chỉ rách việc". Nhưng không ngờ giây phút này nó lại là đứa anh hùng nhất.
- Dung ơi! - Thằng Toàn từ từ đến gần, thều thào gọi. Dậy đi Dung, mày đừng làm tao sợ.
Nó lấy một ngón tay khẽ chạm vào vai con Dung, rồi thụt lại. Nó khóc òa.
- Dung ơi! Mày đừng chết. Tao sợ lắm mà!
Rồi như ma quỉ khiến, nó nắm lấy tay con Dung, lúc đầu còn lay nhẹ, sau mạnh dần. Con Dung hơi he hé con mắt ra. Xốc con Dung dậy, người nó cứ rũ xuống.
- Ðứa nào ra phụ tao với. Thằng Toàn lăm lăm nhìn chúng tôi.
Cả bọn im phăng phắc.
Nó hét lớn:
- Ðồ hèn, đồ hèn.
- Nó còn... còn... sống hả?
- Ừ, nhanh lên.
- Thật không đó? Ðừng có lừa bọn tao à nghen!
Lúc này chúng tôi mới từ từ đến gần. Thằng Toàn nói như ra lệnh:
- Ði kiếm nước nhanh lên.
Thằng Tí bừng tỉnh, nó chạy vụt ra khe suối gần đó, cởi phăng chiếc áo nhúng xuống nước rồi chạy vào. Chúng tôi xoa nước lên khắp người con Dung. Một hồi sau nó từ từ tỉnh lại.
Cả bọn cười ồ:
- Nó dậy rồi kìa!
Con Dung òa khóc. Nó ôm chặt thằng Toàn khi chúng tôi dìu nó vào mái che.
Mưa. Mưa khủng khiếp, không biết cơ man nào là nước. Nước xối xả. Nước chảy tràn. Nước lùa vào chân lạnh ngắt. Chúng tôi ôm lấy nhau. Chúng tôi ôm nhau chặt lắm. Hơi ấm từ đứa này cứ phả sang đứa kia và cùng khóc.
Tôi khóc đầu tiên và sau đó là những đứa khác. Tôi tưởng tượng con Lan đang lạc đâu đó một mình trong rừng. Nó sẽ ôm ai đây? Nó sẽ lạnh lắm. Nó có biết bẻ lá cây làm mái che không? Hay nó xỉu như con Dung, hay nó đã tìm được đường ra bìa rừng?
Nước mắt tôi chảy dài lên lưng những đứa khác. Tôi nhớ mẹ và bố. Giờ này bố mẹ chắc đang lo sợ lắm. Ðang đi tìm tôi. Mẹ sẽ khóc thật nhiều. Mẹ bao giờ cũng vậy. Cái gì chạm phải tôi là mẹ khóc. Tôi nhớ đến cô giáo Hà. Chẳng biết bao giờ tôi mới được gặp lại cô. Tôi có tìm được đường về nhà không?
Những giọt nước bắt đầu thấm vào người tôi lạnh ngắt. Tôi cũng cảm thấy xấu hổ cho những gì hồi sáng mình làm. Thằng Toàn có ghét, có xem thường tôi không? Những ngón chân tôi bắt đầu tê dại. Nó chuyển dần dần lên đến bắp đùi, người tôi run bần bật.
- Chết tao rồi tụi bây ơi!
Những đứa khác cũng đồng loạt kêu lên.
- Tao cũng vậy!
Thằng Toàn nói:
- Mình ngồi đây sẽ chết vì lạnh, cần phải làm cho nóng người lên.
- Tao không biết làm nóng!
- Mình cứ chạy như tập thể dục ấy.
- Nhưng tao chạy không được! - Con Dung mếu máo.
- Ðược rồi, để tao cõng.
- Mày cõng tao hả Toàn! Tao mang ơn mày lắm đó!
Mặc cho mưa gió, chúng tôi lầm lũi chạy. Thằng Toàn chạy trước mở đường, cả bọn chạy theo sau. Thế rồi chẳng ai bảo ai, cả đám thay phiên nhau cõng con Dung, đứa này mệt thì đứa kia thế.
Trên đầu, bóng tối bắt đầu đổ ập xuống. Một nỗi buồn khôn tả tràn ngập khu rừng. Nhìn những hàng cây, tôi bỗng nhớ khu vườn. Tôi sợ không bao giờ nhìn thấy nó nữa. Chân tôi mỏi khuỵu xuống, người như muốn ngất đi. Tôi thấy khu rừng cứ chao qua chao lại. Những người bạn của tôi cũng chao qua chao lại. Có lúc chúng nhòe đi như làm bằng nước mưa. Rồi tôi thấy một cái bóng đổ xuống trước mặt quen lắm. Mắt tôi mờ hẳn. Tôi đứng khựng lại. Tôi vuốt nước trên mặt nhiều lần. Cuối cùng tôi nhận ra thằng Toàn. Nó đang quằn quại dưới một vũng nước.
- Chết cái chân tao rồi. Nó nói.
- Mày sao vậy?
Nó thều thào:
- Chạy nhanh đi!
- Nhưng làm sao mới được chứ? Tôi liên tiếp vuốt nước trên mặt.
- Hình như tao bị trật chân. Mày chạy về kêu mẹ tao nhanh lên.
Tôi chồm người tới kéo nó khỏi vũng nước, nhưng rồi cả hai nhào xuống. Tôi gồng mình đứng dậy lần nữa. Thằng Toàn khóc rống. Chúng tôi choàng lấy vai nhau rồi lần từng bước. Cứ bước tới như người đang ngủ.
Rồi bỗng dưng tôi nghe một âm thanh vang lên, không biết đó là cái gì nhưng quen thuộc lắm. Bố, có phải bố không? Tôi hét to: Bố ơi! Nhưng không có tiếng trả lời. Nhìn quanh cũng chẳng có ai. Thằng Toàn đổ sụp xuống.
- Tao sẽ chết, Dũng ơi!
- Ðừng! Mày chết tao sợ lắm. Mày thành con ma đó.
- Tao sắp thành con ma thiệt rồi!
Tôi lay người nó:
- Mày thành con ma là tao bỏ chạy đó.
- Mày đừng bỏ tao nha!
- Ừ, tao không bỏ mày đâu. Hồi sáng mày có ghét tao không?
- Không!
- Mày nói láo.
- Thiệt mà.
- Nếu mày không ghét tao, tao sẽ dạy mày trò đoán bước chân.
- Ừ.
- Tao lạnh quá!
- Ừ, tao cũng vậy.
Thế là tôi và thằng Toàn ôm lấy nhau, rồi cả hai cứ ngồi khóc. Khóc lâu lắm. Khóc đến hồi mưa tạnh. Người tôi bỗng chuyển sang nóng hổi. Nóng khủng khiếp. Môi lại lập cập đánh vào nhau. Bỗng trong mơ màng tôi nhận ra một mùi thơm quen thuộc, chúng cứ thoang thoảng trên mũi tôi. Ðó là một làn hương trong nỗi nhớ từ khu vườn, có bố có mẹ và làng mạc, có những gì thân quen của tôi.
Tôi la lên:
- Hoa lài!
- Cái gì?
- Hoa lài. Mày có ngửi thấy không? Mùi hoa lài hướng này.
- Ừ, ừ! Ðúng rồi. Hồi sáng chúng mình đã gặp chúng ngoài bìa rừng.
Theo hướng hoa lài, chúng tôi trì kéo nhau đi. Mùi hoa càng lúc càng gần lại. Cây rừng giãn ra từ từ và chúng tôi đã nhìn thấy đốm sáng từ những ngôi nhà.
Chưa bao giờ tôi thấy những ngôi nhà sao mà quen thuộc đến vậy. Tôi có thể yêu bất cứ con người nào từ ngôi nhà bước ra. Cũng không cần biết người đó có quen không, tôi sẽ ôm lấy họ nếu như có thể chạm đến.
Tôi cũng chưa bao giờ thấy mùi hoa lài thân thương đến vậy. Tôi biết mình sẽ không bao giờ ghét nó được nữa. Thằng Toàn cũng như những bông hoa lài, tôi sẽ không bao giờ ghét nó được nữa.
Chúng tôi miên man nhìn những đốm sáng từ những ngôi nhà như nhìn những vì sao. Chúng là những vì sao đẹp nhất trong đêm hôm ấy. Những vì sao lung linh càng lúc càng nhiều rồi họp lại thành một chuỗi sáng đi về phía chúng tôi. Thế có nghĩa là đã có người đến cứu. Công này thuộc về bọn thằng Tí. Chúng đã đến được những ngôi nhà để báo tin, và họ đã tức tốc đi tìm.
Ðêm đó, con Lan cũng được tìm thấy trong một đống lá vụn. Nó đã khóc khan cả cổ và chúng tôi cũng thế. Ðây là một kỉ niệm nhớ đời của tôi. Và tôi cũng biết trong tận đáy lòng, từ nay chúng tôi sẽ không bao giờ xa nhau được nữa.
Bố tôi nói:
- Chỉ có hoạn nạn con người mới có thể học được một bài học về sự yêu thương.
Tôi hy vọng là như vậy.
Chương 10 : Những Ngày Mưa
Chương 10 : Những Ngày Mưa
- Chú Hùng ơi! Tắm mưa không?
Tôi đứng trước ngõ réo. Chú thò đầu ra khỏi cửa sổ. Ðứng từ xa nhìn, tôi thấy mặt chú đầy râu. Cái cằm như to lớn khác thường.
Chú cười khanh khách:
- Chú lớn rồi! Không tắm mưa nữa.
- Tại sao vậy?
- Ừ. Người lớn là vậy.
- Nếu vậy thì cháu chẳng thèm lớn nữa. Tắm mưa vui lắm. Chú ra tắm đi. Dù chú có tắm mưa, chú vẫn là người lớn.
- Thôi được rồi, ông tướng. Nhưng chỉ tắm trong vườn thôi đấy!
Tôi nhảy tót vào nhà.
- Dắt con bò cho nó tắm luôn đi chú!
Chú lắc đầu rồi cõng tôi ra vườn. Hai chú cháu nằm dài ra đất.
- Cô Hồng có khi nào tắm mưa không? Tôi hỏi.
- Không, cô Hồng là con gái, ai lại tắm mưa.
- Mẹ cháu cũng chẳng khi nào tắm mưa. Mẹ nói tắm như thế, tóc sẽ rối.
- Ừ, mẹ cháu tóc dài mà.
- Nhưng cô giáo Hà tóc ngắn, vẫn không tắm mưa!
- Ừ nhỉ.
- Chắc tại cô mang guốc cao gót, chạy sẽ té.
Chú Hùng cười ngất. Cái mặt đầy râu cứ nhăn nhăn. Khi cười, chú gồng lên, cổ to như con sư tử. Với cái cổ to như thế, cái đầu chắc trở nên nhẹ lắm. Tôi vẫn luôn ước ao khi lớn lên cái cổ cũng to như vậy. Ðó là một cái cổ dũng cảm mà. Mẹ tôi vẫn thường nói, đàn ông cái cổ to mới oai. Những người cổ nhỏ, cứ thụt thụt như con rùa.
Tôi ngồi dậy chạy ra giếng. Nước mưa từ trên trời rơi xuống giếng thật đẹp. Mặt nước cứ loang loang như có nhiều con cá đang đớp mồi bên dưới. Chú Hùng chạy theo. Chú lấy cái gàu múc nước xối vào người tôi. Vừa tắm mưa, vừa tắm giếng thật tuyệt vời. Nước giếng ấm như được hơ nóng.
Thằng Tí ở đâu không biết chạy vào ôm chặt chú Hùng từ phía sau lưng.
- Con đố chú, ai đây? Nó hét lớn.
Chú lúc lắc cái đầu:
- Có phải người khách lạ không vậy?
- Không phải, người khách quen!
- Nếu người khách quen hãy cho tôi xem chân.
Nó giơ một cái chân lên.
Chú Hùng lắc đầu:
- Ðó không phải là cái chân.
- Chứ đó là cái gì?
- Một cái vòi voi!
Chúng tôi ôm chặt lấy chú. Một gàu nước xối ướt cả ba người.
- Thôi các cháu ở đây chơi nhé. Chú vào.
Tôi kéo thằng Tí chạy ra cây vú sữa. Hai đứa trèo lên ngọn cây, nhún thỏa thích. Vừa nhún vừa nhắm mắt, thả hai tay.
- Tao đã nói với thằng Toàn rồi, mình sẽ chơi trò kẻ lạ mặt với thằng cháu ông ăn xin.
- Ừ há. Nhưng mình biết để con dế chỗ nào bây giờ. Ông cháu nó vẫn đổi chỗ nằm liên tục.
- Chẳng sao cả. Ðợi họ ngủ, mình để con dế gần chỗ đó rồi bỏ đi. Nửa đêm, con dế gáy lên, nó sẽ biết ngay.
- Ðúng rồi. Ngày mai mình sẽ bắt con dế bữa hổm. Nhưng mà nó có biết mình tặng nó không nhỉ?
- Làm sao biết được. Nó sẽ nghĩ con dế tự động chui vào cái hộp. Rồi cái hộp tự nhiên đóng lại.
- Xạo. Không có cái hộp nào tự động đóng lại cả.
- Ừ. Khó ha. Nó sẽ biết tụi mình đó. Nhưng mà cũng chẳng sao. Nó sẽ mừng lắm. Nó sẽ vứt con dế khô đi.
Chúng tôi trèo xuống rồi chạy ra đường. Gặp con Phượng đang đứng ngoài ngõ, môi tím ngắt. Nó nhoẻn miệng cười, cái răng trắng chạch.
- Tụi mày ở đâu vậy. Tao chờ mãi.
- Mày về đi, nhìn cái mặt mày, tụi tao sợ quá. Coi kìa, đứng mà cứ run lên như con cầy sấy.
- Còn lâu. Con Phượng chua nghoa. Tao vẫn không lạnh. Tại cái da mặt tao đụng mưa vào thì nó tím vậy thôi!
Nó kéo bọn tôi ra chợ.
Trên cái sạp cũ, hai ông cháu lão ăn xin đang ôm nhau ngủ. Kề bên là cái mền như miếng giẻ vụn rớt thõng xuống một đầu. Phía bên kia là cây gậy nằm dọc, úp chiếc nón lá lên. Chúng tôi đứng nhìn một hồi rồi bỏ về.
Mẹ tôi nói ngày mưa, nỗi buồn bao giờ cũng nhiều hơn ngày nắng, nhất là những ngày mưa kéo dài. Mẹ ngồi trên bậc cửa, chải tóc. Mẹ chải như tìm thấy niềm vui trong đó. Cũng như tôi vui khi chạy trong mưa vậy. Mỗi một người có một niềm vui khác nhau. Giống như bố tôi, bố vui khi nhìn thấy cánh đồng. Một ngày không ra đồng, bố thấy buồn quay quắt.
Bố nói:
- Cái nhà thứ hai của tui ở đó!
Tôi hay trêu bố, một cái nhà mà không có cửa sổ, không có mái che.
Bố nói đó là căn nhà lớn nhất thế giới. Những người bước vào căn nhà đó sẽ không bao giờ đi đâu nữa. Bố nói nội tôi ngày xưa cũng nói như vậy. Nội tôi yêu cánh đồng như yêu ngôi nhà của mình. Khi nội tôi mất, những người trong làng phải khiêng cái hòm đi ngang từng ruộng lúa một rồi mới đem chôn. Mỗi năm đến mùa lúa chín, bà nội tôi phải gõ gõ vào mộ bia để nội tôi nhớ năm nay vụ gặt xong rồi. Bố tôi rất hãnh diện vì chưa bao giờ ra khỏi làng. Bố nói, nơi nào có ruộng lúa, bố mới đi. Làm sao nơi nào cũng có ruộng lúa được.
Mẹ ngồi chải tóc trên bậc cửa, nói với tôi:
- Chừng nào tóc mẹ bạc thì con sẽ lớn.
Tôi nhặt tóc sâu cho mẹ. Có những sợi tóc sâu vẫn dài cả mét. Tôi nói, những sợi tóc đó đẹp nhất. Bố "nịnh" mẹ, bảo tóc mẹ sợi nào cũng đẹp. Mẹ cứ im im không nói gì nhưng khuôn mặt rạng rỡ hẳn lên. Trong ngày mưa, tôi thích nhìn mẹ những lúc như vậy.
Chui đầu vào những sợi tóc của mẹ, tôi hay nói không nhìn thấy gì hết vì tóc mẹ đen quá. Giống như buổi tối mà đi ra khu vườn. Chỉ biết thôi, nhưng không thấy.
Bố bảo:
- Biết gì?
Tôi nói:
- Biết mẹ thích hoa lài. Tóc mẹ thơm mùi hoa lài lắm. Chắc mẹ là bông hoa lài cắm bãi ***** trâu.
Bố cười ngất:
- Ái chà! Dám xem bố là bãi ***** trâu!
Tôi nói dù bố có là bãi phân trâu, tôi vẫn yêu bố.
Những lúc đó, cả nhà tôi đều vui. Mỗi người đều tìm thấy một niềm vui riêng thuộc về mình, nhưng cũng có những niềm vui chung thuộc về tất cả. Niềm vui đó như một sợi dây đàn, chạm vào thì nó ngân lên cả nhà và thế là ta vui.
Có một ngày mưa, tôi nhìn thấy mẹ giấu những sợi tóc rụng. Chẳng biết tại sao mẹ lại xấu hổ vì chuyện đó. Nhưng tôi không tiện hỏi vì thấy khuôn mặt mẹ buồn buồn.
Bố cởi trần ngồi đan sọt. Những chiếc sọt lớn nhỏ cứ ra đời vào những ngày mưa. Bố nói những chiếc sọt đẹp bao giờ cũng phải được làm tốt từ khâu vót nan. Bố đan cho tôi cái lồng chim bằng sợi tre ngà, cửa lồng mở toác. Vì đó chỉ là cái lồng chim thôi, chẳng có con chim nào hết. Bố sợ tôi không biết chăm sóc những con vật khó nuôi đó. Hãy tưởng tượng một con chim trong lồng, bố nói vậy. Tôi bảo lông nó màu đỏ, cánh nó màu xanh, nó hay háu ăn và mắt thì sáng quắc. Bố nói, chỉ có chim thần mới vậy.
Những con chim thần hay ghé vào nhà tôi những hôm mưa. Chúng bay về rồi đậu kín trong lồng. Chiếc lồng quá chật, chúng bay ra. Ðôi cánh màu xanh xòe rộng che hết mọi thứ. Rồi chúng bay lên trời, trời xanh ngắt.
Năm đó nơi tôi ở có một con chim ó hay bắt gà, nó liệng ba vòng rồi đứng bói giữa khoảng không.
Mẹ tôi hái cau như cô Tấm, chỉ tôi, nói:
- Ðuổi đàn gà vào nhà đi.
Tôi ra vườn mà cứ sợ nó tưởng mình là con gà.
Bố tôi làm rất nhiều bẫy nhưng vẫn không bắt được. Bẵng đi một dạo tự dưng nó đi đâu mất, chẳng thấy xuất hiện.
Mẹ nói, chúng ta đã làm cho nó thất vọng rồi. Những con ó luôn luôn thiếu kiên nhẫn.
Những ngày mưa, tôi hay chui vào đống chăn tìm hơi ấm. Tôi tìm bóng tối nữa. Thật thú vị, nhìn mà cứ như không nhìn. Trong bóng tối, sẽ không ai có thể nhìn thấy khuôn mặt của tôi. Những cơn mưa trong bóng tối cũng vậy, sẽ không ai biết là đang có cơn mưa nếu như không nghe tiếng rào rạt trên mái nhà.
Mẹ nói những cơn mưa đêm là những cơn mưa êm đềm nhất.
Chương 11 : Người Khách Lạ Đến Viếng Khu Vuờn
Chương 11 : Người Khách Lạ Đến Viếng Khu Vuờn
Mấy hôm nay hình như có ai đến vườn nhà mình. Bố đi làm đồng về thông báo.
- Sao bố biết?
- Hôm qua, bố nghe tiếng động rất lạ. Khi bố đi ra thì một tiếng soạt rất lớn rồi im luôn. Nhưng mấy lùm cây còn run dữ lắm.
Mẹ tôi cũng thông báo một chuyện tương tự. Tôi rình suốt hai ngày trời không thấy gì. Nhưng đến ngày thứ tư đi học về, lại nghe bố nói:
- Hôm nay họ lại đến!
Quái lạ! Tôi đi ra vườn. Ngoài vườn mọi thứ vẫn còn nguyên như những hôm trước. Tôi hẹn thằng Tí đến nhà, mỗi đứa canh một đầu, hễ nghe tiếng động thì huýt sáo báo tin cho nhau. Chờ mãi chẳng thấy con ma nào. Tôi gọi thằng Tí cũng chẳng nghe nó đáp. Thì ra nó bỏ về từ đời tám hoánh nào rồi. Cái thằng thiếu kiên nhẫn. Tôi gọi thằng Toàn sang. Nó hỏi bắt trộm hả. Tôi gật đầu. Nó ôm một khúc cây to bảo gặp ăn trộm sẽ chọi vào giò nó. Lại chờ. Chờ mãi. Chờ đến lúc chẳng ai nói với ai đồng lúc bỏ cuộc.
Bẵng đi vài hôm, bố tôi lại thông báo:
- Có ai đó khoét hàng rào nhà mình một lỗ rất to.
Tôi chạy ra xem cứ rùng cả mình. Dứt khoát phải có một ai đó hoặc một con gì đó rất lớn. Bố nói nếu tôi canh chỗ này thì sẽ gặp.
Ở lớp, tụi bạn nó đồn nhà tôi có ma. Một con ma ban ngày. Nó vào vườn rồi ăn hết cả hoa. Không những thế, con ma còn chọc ghẹo bố tôi khiến bố tè trong quần mà chạy. Có đứa còn hỏi thẳng, con ma có bóp cổ bố mày không, sao tao thấy mặt bố mày tím tím.
Tôi ức lắm nhưng chẳng có cách gì nói cho chúng tin, đành hậm hực về méc bố, tưởng được bênh, ai ngờ bố cười ngất. Những buổi trưa, khi bọn chúng rủ nhau thụt thò trước ngõ nhà tôi thì trong nhà, bố tôi vờ rên hừ hừ như bị ma nhập. Thế là bọn chúng chạy "bắn khói".
Mẹ nói, cho dù có quỉ cũng không vật nổi bố. Tuy vậy, tôi vẫn uất ức kinh khủng.
Một buổi trưa khác, sau khi đi học bị tụi bạn chọc tơi bời, tôi ngồi bên cửa sổ nhìn ra khu vườn. Bất ngờ, tôi thấy lùm bông lài run lên. Những chiếc lá lay động dữ dội. Tôi vội vàng bò ra nhà sau. Mẹ và bố còn ở ngoài đồng khiến tôi chột dạ, không biết có nên bò ra ngoài vườn không. Bỗng dưng tôi thèm có thằng Toàn khủng khiếp. Cuối cùng lấy hết sức mạnh, tôi bò về phía bụi lài.
Từ bên đây cây hoàng lan, tôi thấy rõ ràng một cái đầu nhô lên, đen thui một chỏm tóc. Tôi bò đến gần nữa thì bất ngờ nhận ra thằng cháu lão ăn xin. Nó vào vườn nhà tôi để làm gì vậy, thật không hiểu nổi.
Sau khi nhìn tới nhìn lui, nó có vẻ khoan khoái lắm ngồi xuống, mở túi lấy ra hộp diêm nhỏ. Thì ra nó đi hái cỏ tươi cho món quà của người khách lạ là chúng tôi. Nó đặt hai bao diêm xuống bãi cỏ, sau đó ngắt từng ngọn cỏ non, xé nhỏ rồi bỏ vào. Xong xuôi mọi chuyện, nó cất hai bao diêm vào túi rồi chui vào bụi lài. Nó hái những bông hoa trắng để lên khắp người của mình. Và cứ như thế... nó ngủ. Giấc ngủ đến với nó thật nhẹ nhàng và không hiểu nổi.
Tôi đi nhẹ đến gần, nghe hơi thở đều đều và những bông lài nhấp nhô như gợn sóng. Chẳng hiểu sao, tôi bỏ vào nhà. Con ma là như vậy.
Chú Hùng hay kể cho tôi nghe về những người khách lạ thường ghé khu vườn nào đó chỉ vì những bông hoa. Có ngờ đâu, không phải là cổ tích
Chương 15 : Những Ngày Bình Thuờng
Chương 15 : Những Ngày Bình Thuờng
Mùa mưa ẩm thấp lại đến. Những cơn mưa đêm lướt qua, vừa lạnh lẽo vừa ồ ạt. Bằng cái màu trắng của mình, chúng đã biến đổi cả một khoảng trời trong giấc ngủ tôi Tôi hay sang nhà chú Hùng, chui vào cái ụ rơm như một con chim chui vào cái tổ. Tôi cũng hay tưởng tượng mình sẽ mọc cánh, những cái cánh dài vừa vặn với thân thể của tôi. Một buổi chiều đầy gió tôi bay về phía cuối bầu trời. Nơi đó có những đám mây mang gương mặt của bé Thương.
Vào ngày nắng, tôi xếp đôi cánh vào cái sọt nhỏ để dưới gầm gường của mình. Hàng đêm đôi cánh vẫn cứ mọc dài và ngúc ngoắc.
Trong những giấc mơ lơ đãng, tôi cũng có một đôi cánh khác. Ðó là những đôi cánh vải mềm và trong suốt đưa tôi đi. Nhưng tôi cũng biết trong những giấc mơ, tôi có bay cao xa cũng không ra khỏi khu vườn. Tôi đã hiểu thế nào là một khu vườn rồi. Tôi cần đi đến một nơi khác khu vườn tôi đã có. Tại sao không chứ? Mẹ tôi nói, khi một đứa trẻ lớn lên, chúng cần biết nhiều điều bên ngoài khu vườn. Mẹ đã hé cho tôi thấy một khu vườn không bao giờ đủ cho một đứa trẻ.
Tôi đã âm thầm vùi bốn củ khoai vào tro nóng mỗi đêm. Tôi sẽ làm công việc đó liên tục hàng ngày. Một ngày nào đó, chắc chắn nó sẽ đến, khi cảm thấy đủ sức rời khỏi khu vườn, tôi sẽ có bốn củ khoai nóng mà đem theo.
Nhưng mùa mưa cứ dai dẳng và âm ỉ khiến sự chờ đợi của tôi mòn mỏi dần và tôi quên nó. Một ngày nọ bỗng nhớ đến, ôi thôi, củ khoai đã thành tro rồi còn đâu. Tôi cười xòa rồi quên cái ý định ra đi. Thành thật mà nói, với bốn củ khoai đó, tôi chỉ có thể xa mẹ đúng một ngày. Một củ cho điểm tâm, ba củ còn lại dành cho sáng, trưa và chiều. Tôi chưa bao giờ có thể xa mẹ hơn thế nữa. Tôi đành giấu kín chuyện này, xem nó như là một bí mật của đời tôi.
Từ ngày không được làm bố, chú Hùng ít ghé nhà tôi. Mẹ tôi nói, chú muốn lao vào công việc để quên bé Thương. Tờ mờ sáng, chú đã vác cuốc ra đồng cho đến tối mịt mới trở về. Cô Hồng đã đi làm lại. Cô có vẻ hơi ốm, chiếc áo dài màu xanh trông rộng hẳn. Khuôn mặt gầy gầy, âu lo. Tôi hay sang thăm cô vào mỗi buổi chiều, phụ cô làm một cái gì đó. Cô đã đan xong chiếc nón cho tôi như đã hứa. Những hôm mưa, tôi đem ra đội và ngồi thu lu nhìn ra khu vườn trong hơi ấm từ chiếc nón phả ra. Tôi thấy ấm lòng hẳn. Tôi hay nghĩ ngợi nếu có bé Thương, chắc cô Hồng sẽ đan cho nó nhiều cái như vậy, những chiếc nón thật đẹp. Nếu là con gái sẽ thêm nhiều cái tua, những tua xanh đỏ như tôi vẫn thường thấy người ta bán ngoài chợ.
Một ngày lạ, vườn tôi bỗng xuất hiện loài hoa mới, cánh vàng nhụy trắng. Tôi âm thầm chờ đợi nó lớn lên, âm thầm nâng niu như một đứa trẻ. Những bông hoa lạ luôn gây cho tôi cảm giác ai đó đã ghé khu vườn lúc tôi đang ngủ. Họ ngồi chờ mãi không được, đành gieo mầm hoa xuống đất rồi bỏ đi mà không kịp gởi gấm hãy chăm sóc giùm tôi, hãy tưới nước ngày ba lần.
Bố tôi vẫn nói phần thưởng cho người làm vườn là hoa quả.
Cuối mùa mưa, cây hoa đó nảy ra nhiều nhánh và hạt của nó đã mọc ra nhiều cây con. Tôi đã hái tặng cô Hồng đóa hoa đẹp nhất, vào một ngày đẹp nhất. Cô trìu mến nhìn tôi. Ngay cả đêm về, co mình trong chăn, tôi cũng không thể nào quên được ánh mắt ấy. Ðó là cái nhìn của một người mẹ dành cho con. Tôi đã ngủ suốt đêm ngon giấc chỉ vì cái nhìn đó.
Sáng ra, cảm giác là lạ choáng váng cả phòng. Một bàn tay ai đó đang nắm cái chân tôi, giọng nói quen quen:
- Ai đang "nướng" trong cái mền vậy cà!
Tôi hét lớn:
- Chú Hùng!
Chú cười sằng sặc dưới cái chân tôi.
- Tại sao chú không báo trước cho cháu biết chú sẽ sang đây? Cháu sẽ thức nguyên đêm chờ chú.
- Ðể làm gì vậy cà! Ai mướn vậy cà! - Chú cười khùng khục.
Lâu lắm rồi tôi quên luôn cái cảm giác ôm cổ chú, cái cần cổ của người anh hùng, to lớn, vững chãi.
Tôi nói:
- Lâu rồi, cháu chưa được ôm cái cổ của chú. Chú cũng không chịu ăn cái chân của cháu nữa.
Mẹ tôi nói khi chú Hùng sang đây tức là chú đã nguôi ngoai chuyện bé Thương.
Chương 16 : Những Người Lạ
Chương 16 : Những Người Lạ
Quê tôi thỉnh thoảng hay có một đoàn sơn đông mãi võ ghé sang. Họ đi một đoàn khoảng chục người trên một chiếc xe ngựa kéo. Phía trước cắm lá cờ đầy chữ Tàu, lại vẽ rằn ri những hình thù kỳ dị. Họ treo bên hông xe những cái bồ lát bịt kín. Ði đến đâu, gây huyên náo đến đó bằng tiếng phèn la, tiếng rao ơi ới... Họ mang theo cả những bà vợ, những đứa con. Người lớn thì ngồi bên ngoài, trẻ con được lèn chặt bên trong cùng những cái thùng, có khi cả mùng mền chiếu gối đổ sập lên đầu chúng. Lâu lâu bọn trẻ khóc ré lên, thế là bà mẹ dí cái đầu nó ra ngoài cho nhìn một chặp. Hết khóc lại kéo tuột vào trong. Mẹ tôi kể ngày xưa họ đi đông lắm, càng ngày số lượng người càng ít dần, lâu lắm mới ghé lại.
Có rất nhiều đứa trẻ được nuôi lớn lên trên chiếc xe ngựa như vậy. Còn nhỏ chút xíu, chúng đã biết cho ngựa ăn. Ba tuổi đã cầm ca đi bán thuốc, lẫm chẫm theo người lớn. Những đoàn ít người hơn thì đi đến đâu tìm thêm người đến đó. Họ dụ dỗ trẻ con hay lắm, có nhiều đứa bé đi theo, thế là quên cả đường về.
Ðây là lần đầu tôi thấy họ. Họ quây một góc chợ bằng những tấm bạt cho trẻ con có chỗ nằm ngồi, sau đó dọn dẹp một miếng đất trống lớn hơn, cắm cây cờ chính giữa. Những cái bồ lát bịt kín được đem bày ra. Con nít bu đen, họ cấm ngặt.
- Ê, thằng kia, tránh ra. Mày có biết cái bồ đó chứa gì không? Rắn độc, rắn độc đấy!
Thế là cả bọn hoảng kinh lên.
Tiếng nói của họ ồm ồm như sấm. Khuôn mặt đầy râu bặm trợn, tay chân vạm vỡ khiến cái trừng mắt của họ uy lực khủng khiếp. Nhưng họ cũng rất vui tính, lâu lâu lại đùa với trẻ con, đá đít đứa này, đá đít đứa kia.
Thằng Tí kéo tôi lọt thỏm vào trong gian hàng của họ. Nó lanh lẹ hơn tôi nên thỉnh thoảng được những người trong đoàn nhờ vịn cái này, vịn cái kia cho họ giăng dây hoặc lèn những vật nặng.
Sung sướng lắm, mặt vênh lên, nó bảo tôi:
- Mày có muốn vịn không, tao cho mày vịn đấy!
Tôi làm như bất cần.
Loáng một cái họ đã sắp đặt mọi thứ trông rất oách. Ðầu bên này là ba cây giáo dài chụm lại, cột nơ đỏ. Ðầu bên kia là cái bàn chông kèm theo mấy trái dừa khô. Họ mở những cái bồ lát, quả thật, bên trong đầy rắn độc. Những con rắn ngóc cổ cao.
Họ bảo thằng Tí:
- Mày có thích đánh trống không? Cho mày đánh đó.
Thế là tôi và thằng Tí nhảy tót vào, mỗi thằng một cái dùi, đánh, đấm, chặt, ỏm tỏi.
Cả khu chợ náo động hẳn. Người lớn trẻ con bu đông nghẹt. Nhưng họ luôn luôn không vội vàng gì, cứ từ từ nhẩn nha. Ðến một lúc nào đó, người trưởng đoàn vỗ tay, thế là đồng loạt những người thanh niên cởi phăng áo, cột ngang bụng một dải lụa nhỏ. Người nào bán thuốc sẽ cột thêm một cái khăn vàng lên cổ. Có người còn quấn lên người thêm một con trăn to đùng.
Ðầu tiên họ sẽ biểu diễn một trò phù phép. Chẳng hạn như bỏ một đồng tiền cắc vào lỗ tai này, sau đó lấy nó ra ở lỗ tai kia. Thật tài tình. Họ còn nhờ trẻ con lên xem có đúng là lỗ tai họ hoàn toàn bình thường không. Sau đó vui vẻ biểu diễn tiếp. Họ có những viên thuốc gia truyền từ nhiều đời đựng trong những chiếc hộp tròn nhỏ. Ðây là loại thuốc thần kỳ, da vừa bị rạch, chảy máu đầm đìa, bôi vào sẽ lành ngay. Họ biểu diễn ngay trước mọi người khiến ai nấy cũng phải tái mặt vì sợ.
Cầm con dao cạo râu bén ngót, họ từ từ rạch một đường nhỏ ở bụng. Tay bịt vết thương, mặc cho máu chảy ra, họ cứ thản nhiên quảng cáo thuốc, có khi còn nhờ ai đó pha giùm ly nước chanh để nhấp giọng.
- Phương thuốc này, chúng tôi chỉ bán một số lượng có hạn thôi vì cần phải đem đến những chỗ khác chia đều cho mỗi người một ít.
Ngày nào cũng vậy, cái bụng của họ bị rạch ra, sau đó lại lành. Những lúc mãn chợ, họ quây quần trong lều. Ðàn ông nằm vắt vẻo đàn hát nghêu ngao. Ðàn bà thì lo cơm nước, giặt giũ, tắm rửa cho trẻ con.
Thấy chúng tôi, họ vui lắm, ngoắc vào cho ngồi gần. Lâu lâu lại quay lưng cù đứa này, cù đứa kia. Cũng có lúc họ làm chúng tôi vã mồ hôi khi hăm he sẽ làm biến mất "con chim" của một đứa nào đó. Cả bọn ù té chạy về, vừa chạy vừa thò tay xuống quần bụm chặt. Về đến nhà mới hay là còn. Khiếp!
Nhưng dù thế nào, có sợ đến vỡ mật đi chăng nữa, ma lực của họ vẫn khiến chúng tôi ngày nào cũng phải mò xuống chợ xem họ biểu diễn. Không những thế, còn chờ xem họ ăn uống, họ đi ngủ, họ hát, cười, họ đi tắm... như thế nào.
Trong đám chúng tôi, chỉ có thằng Tí là được họ cưng chìu nhất, cho nó ngủ lại trong lều. Tất nhiên nó chẳng khi nào dám ngủ, chỉ nằm vu vơ cho "đã cựa" rồi về. Nhưng như thế đủ là tiên là phật rồi, mấy ai được. Tôi là bạn thằng Tí nên cũng được hưởng lây.
Có một lần, tôi lò dò đi vào trong lều tìm nó thì bất ngờ có một ai đó la lên:
- Thằng kia, mày đi đâu đó?
May sao thằng Tí ở đâu không biết, chạy ra nói:
- Bạn của em đó.
- Bạn của mày à. Thật không? - Người kia hỏi lại lần nữa, đầy nghi ngờ.
- Dạ, bạn của em. - Thằng Tí xác nhận.
- Vậy thì vào đi!
Thật hú vía. Tôi đi vào, trong lòng thầm biết ơn nó vô hạn.
Mùa mưa cứ âm ỉ, dai dẳng. Tưởng hết, hóa ra lại còn nên đoàn sơn đông mãi võ ít có dịp bán thuốc. Có nhiều lúc đám đông vừa mới tụ lại được một chút thì trời đổ mưa. Ai nấy vội vàng về nhà. Ðời sống của họ trở nên tiêu điều hơn bao giờ hết. Họ ôm đàn nỉ non hát, có vẻ buồn bã lắm.
Chúng tôi cũng mất đi cơ hội xem biểu diễn.
Thằng Tí bảo tôi:
- Tao nghe nói họ có con rắn hai đầu.
- Làm gì có!
- Mày không biết đấy thôi. Ngày nào họ chẳng nói. Họ cất nó trong cái bồ đen.
- Thế họ cất làm gì kia chứ, sao không đem ra cho mọi người xem.
- Ai mà biết được, chắc họ để dành cho buổi biển diễn cuối cùng, trước khi đi.
Mẹ vẫn hay kể chuyện cổ tích cho tôi nghe về con rắn hai đầu. Một đầu thức, một đầu ngủ. Chúng ở trong những hang đá u tối, trên những ngọn núi cao. Ngày xưa chúng là con vật chuyên đi gieo rắc điều ác.
- Tao không tin họ có con rắn ấy đâu. - Tôi nói.
- Mày không tin thì kệ mày, nhất định tao sẽ rình lúc họ sơ ý...
- Mày mở cái bồ đen à?
- Chớ làm sao nữa.
- Thế mày nhớ cho tao theo với, biết đâu có lúc mày cần tao.
- Tao chẳng cần. Có mày đi, lỡ mày sợ quá mày la lên thì sao!
- Tao sẽ không la.
- Ðừng có xạo. Mỗi lần sợ cái gì, tao thấy mày la rất to.
Tôi uất ức đá văng bụi cỏ dưới chân tôi chạy ù về nhà. Dầu không tin thằng Tí dám làm, nhưng tôi vẫn cứ sợ sợ, biết đâu nó liều thì sao, xem như tôi đã mất một cơ hội chứng kiến một điều kỳ diệu.
Chương 18 : Ông Lang Vườn
Chương 18 : Ông Lang Vườn
Ngày xưa, ông lang vườn không ở đây. Ông là người xa xứ, một xứ sở nào đó xa xôi mà tôi không bao giờ biết được. Ông đến làng tôi ở khi tôi còn chưa ra đời. Mẹ tôi kể, ông đi vì một nỗi buồn nào đó. Rất tuyệt vọng rồi ông ghé ngang làng tôi. Ông cứu sống được lão Bình trong một lần bị ngộ độc rượu. Từ đó, ông ở lại làng này bốc thuốc. Nhà ông trồng đầy thuốc nam.
Bố tôi nói người ta không thể chết trên khu vườn đầy thuốc. Mà đúng vậy. Ông rất già, già lắm, má hóp lòi cả sọ. Ông bới một củ tỏi sau gáy và đêm đêm xõa ra như một con ma. Không ai biết gì về thời trẻ của ông, ông sống ở đâu, làm gì và tại sao nỗi buồn lại ngự trị trong người ông như vậy. Bố tôi nói, một ông lang vườn chỉ giỏi khi về già. Cái làng này hóa ra là một kẻ hưởng lợi từ cái nỗi buồn may mắn ấy. Ông già quắt queo rồi còn gì.
Nhà ông hay vương vấn mùi thuốc nam. Thay vì đốt trầm như những cụ già xưa, ông đốt thuốc nam rồi ngồi nhâm nhi ly trà trong bóng tối. Ít khi nào thấy ông ra ngoài, ngoài những dịp đi bốc thuốc hoặc ghé chợ mua những thứ lặt vặt gì đó.
Một đôi lần tôi thấy ông cuốc đất sau vườn, cái lưng cong vồng như một bó tre bị đọi. Những ngày tháng ở làng, chẳng khi nào tôi thấy ông vui hoặc buồn, một khuôn mặt kỳ dị nhất mà tôi thấy. Tôi được nhìn gần khuôn mặt ấy cũng chỉ một lần. Ðó là lần tôi bị sốt nặng, mẹ đã ẵm tôi đến nhà ông. Ông vỗ vỗ, bấm vào cái bụng tôi, bấm vào cái tay tôi, bóp miệng tôi bảo thè lưỡi ra, thế là xong. Một kiểu khám bệnh kỳ cục. Sau đó đưa cho mẹ tôi một đống thuốc gói trong giấy báo. Nhưng kỳ diệu lắm, chỉ một vài lần uống, tôi đã hết hẳn. Mẹ sai tôi sang biếu ông mấy nải chuối. Tôi vào cửa sau, tranh thủ lúc ông ra vườn, để nải chuối lên bàn rồi chuồn thẳng. Với một con người kỳ dị như vậy, tôi không thể gặp khi chỉ có một mình. Tôi sợ.
Mẹ tôi nói, điều quí giá nhất của một thầy thuốc là cái tâm. Cái tâm là một cái vô hình, khi làm điều tốt thì nó hiện ra, khi làm điều ác thì nó biến mất. Nó là cái cần thiết quí giá nhất, hơn mọi thứ.
Nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái tâm của ông.
Nhà thằng Tí vắng hoe. Tôi chạy ra đồng. Có lẽ bố mẹ nó đang ở ngoài đó. Họ vừa làm lụng, vừa kể chuyện vừa cười. Họ không hề biết rằng tôi đang đem đến một tin xấu cho họ. Tôi bắt đầu sợ chuyện này. Tôi còn nhớ khuôn mặt của chú Hùng khi con chú đang bị nguy hiểm. Chú đã khóc òa trên vai bố tôi như một đứa trẻ. Chú phải ra đồng ngồi một mình. Chú phải cố gắng cày cuốc để quên đi.
Bỗng nhiên tôi chợt nhớ đến những người sơn đông mãi võ. Tại sao không gọi họ chứ, họ có những viên thuốc thần kỳ, họ nuôi những con rắn thì họ phải có những viên thuốc để trị nó. Tôi cứ vừa chạy vừa mê mải trong ý nghĩ như vậy.
Bãi đất chợ hồi sáng chật kín người, bây giờ đã vắng hoe. Những người sơn đông mãi võ đã cuốn gói đi rồi. Họ nhét những bà vợ, những đứa con, những bồ lát bịt kín, những cây giáo dài mà họ dùng để đâm vào cổ, những viên thuốc kỳ diệu... vào trong xe rồi thúc ngựa chạy đi. Tiếng vó ngựa khua dậy cả bầu trời với bụi mù theo dấu xe họ. Họ đem theo phép màu về một phương nào đó làm sao tôi biết.
Tôi nhớ những câu chuyện của mẹ về những đàn ngựa bay đêm qua núi đồi, trên mình chúng là những kỵ sĩ mặc áo giáp. Dưới ánh trăng, những nút khuy đồng lóe sáng ngang dọc những đường gấp khúc như một đêm sao sa hỗn loạn. Những kỵ sĩ đã đi lạc trong chính ánh sáng của mình. Những con ngựa trở nên điên cuồng, chúng rượt đuổi nhau hí vang, giương những chiếc vó bổ vào đám mây. Rồi cả người ngựa trôi tuột dần về phía cuối bầu trời. Cuối cùng va vào nhau, vón cục thành một khối cầu lửa. Ðó là mặt trời của ngày hôm sau.
Bần thần một lúc tôi quay trở lại tìm mẹ thằng Tí nhưng chẳng thấy đâu, đành ghé nhà ông lang. Lúc này hàng xóm kéo đến đông nghẹt.
Tôi lách mình vào trong nhưng không được, chỉ thấy thấp thoáng bên cửa sổ khuôn mặt thằng Tí xám ngoét, mái tóc rũ xuống mặt ván, sau đó đung đưa những ngón tay đùa gió.
Nó đang ngủ, một giấc ngủ trương phồng. Càng ngủ, người nó càng phồng. Mẹ nó đang ôm mặt khóc ngoài sân. Bà kể về nó, nó ăn làm sao, nó nói những gì, nó cười như thế nào, cả những mơ ước của nó được có một bầy bò. Rồi những lần nó vô lễ, bà đã đánh nó bao nhiêu roi. Hóa ra bà cứ nhớ từng ly từng tí như vậy.
Tôi đứng lặng im nhìn bà. Bất ngờ bà ôm chầm lấy tôi, bà nắm lấy bàn tay tôi rồi rồi áp vào mặt mình. Bà kể về bàn tay của nó.
Thế là tôi òa lên khóc. Tôi cũng kể về nó. Nó đã ngủ trong vườn lài. Nó nói rằng đừng cho ai biết nó đang ngủ, nhưng cuối cùng tôi đã nói với bố tôi. Tôi đã không giữ lời hứa bởi vì tôi sợ.
Buổi chiều hôm đó tôi chui vào góc tối của mình. Chưa bao giờ tôi nhớ nó đến vậy. Tôi nhớ năm nọ nó rớt xuống sông, bố vớt nó lên và nó đã mang đến những trái ổi chín trong túi ni-lông. Khi bố cõng hai đứa, nó không được phép ôm cái cổ. Rồi đoàn sơn đông mãi võ đến, nó lại nhường cho tôi một cái dùi đánh trống. Nó chẳng hề giành giật với tôi cái gì.
Thế mà hôm nay nó lại nằm im lìm bên nhà ông lang.
Tôi thấy ông đi ra đi vào lắc đầu nhiều lần. Cái lưng còng xuống, trên đầu mái tóc bạc phơ xổ ra như một chiếc khăn nhàu nhĩ.
- Ðã muộn mất rồi! - Chẳng hiểu sao tôi cứ nghĩ ông sẽ nói cái điều không ai chờ đợi.
Mẹ sẽ về cắm ba cây nhang dưới bụi lài.
- Dù sao chỗ đất đó, thằng bé cũng đã nằm một lần. Mẹ sẽ nói vậy.
Ðêm đó, ông lang cũng sẽ lẳng lặng ra đi không mang gì ngoài một túi vải mà năm xưa ông đã mang đến. Cũng không ai biết ông đã đi đâu, về đâu. Lúc nào người ta cũng chỉ đoán chừng về ông mà thôi.
Mẹ tôi vẫn hay nói, nỗi sợ lớn nhất của một người thầy thuốc là khi để mất một đứa trẻ. Người già có thể chết, nhưng trẻ con phải cần sống và lớn lên. Bởi đơn giản, chúng là một mảnh vườn phải được cày xới và chăm bón. Chúng cần phải ra hoa và sinh sôi. Chúng là tất cả những gì mà người già hy vọng...
Rồi tôi cứ miên man nghĩ về đám tang thằng Tí, sẽ rơi vào một ngày im gió, oi nồng nào đó. Mặt trời chói chang đổ lửa báo hiệu một mùa hạn hán kéo dài triền miên trên mặt sông, trên cánh đồng, và nặng nề nhất là trên thân thể của chúng tôi.
Từ nửa đêm, người ta sẽ đánh trống và gõ những chiếc phèng la. Âm thanh nghe âm u và buồn. Những âm thanh đó, một lần nữa sẽ lại gợi cho tôi nhớ về hình ảnh của những người kỵ sĩ cỡi ngựa qua bầu trời. Họ đi loan báo một điều gì đó, có thể là một tin buồn cuối ngày. Vì những tin buồn nên không ai ra nhận. Người ta chui vào nhà, đóng sầm cửa lại và ngủ. Cuối cùng những kỵ sĩ trong cuộc tìm kiếm hỗn loạn đã va vào nhau.
Buổi sáng, mẹ tôi sẽ ra vườn hái hết những bông hoa lài rồi đưa sang cắm vào bàn thờ thằng Tí - xem như một món quà đầy hương từ khu vườn nhà tôi.
Có một việc khiến ai cũng lo lắng là chuyện những tấm ảnh, tất nhiên rồi sẽ vậy.
Ở làng có ai chụp hình gì cho nhiều, quá lắm là dăm ngày Tết chụp chung với cả nhà một kiểu. Nhưng đâu phải năm nào cũng chụp. Lục trong đống giấy tờ cũ, cuối cùng người ta cũng sẽ gặp tấm ảnh duy nhất lúc thằng Tí lên ba tuổi. Nó trần truồng như nhộng. Vừa khóc, vừa lấy ngón tay đút vào miệng. Tôi đã được xem tấm ảnh này một lần, nhờ nó khoe.
Mẹ nó sẽ òa lên nhớ lại vào ngày giỗ ba, cậu nó dắt về một ông thợ ảnh. Khi ông đến thì nó đang còn ngủ, thế là người ta đập nó dậy, cho nó một "pô". Khuôn mặt nó non xèo, phúng phính những thịt chứ không gầy nhom như sau này.
- Thôi thế cũng là may mắn - mọi người sẽ nói vậy - Dù sao cũng còn một hình ảnh về nó vào thời điểm đẹp đẽ nhất.
Chiếc hòm cũng sẽ được đóng xong từ bộ ván mà hàng ngày nó vẫn nằm ngồi, nhỏ nhắn như một cái thùng đựng quần áo. Rồi người ta sẽ xếp nó vào trong như chúng cất một món đồ quí giá, dễ vỡ.
Mà quả thật như vậy. Từ lúc nghĩ rằng nó sẽ chết, tôi cứ thấy mình như vừa mất một cái gì quý giá lắm. Nó là vật quí đối với tôi.
Tôi luôn nghĩ về những ngày sắp tới, tôi sẽ đi học một mình, xuống chợ chơi một mình, không có ai để hẹn hò len lén trèo lên cây vú sữa vào nửa đêm.
Nhưng tôi cũng sẽ sợ nó lắm vì nó sẽ thành con ma. Nó là một con ma trẻ em. Nó vẫn còn ham chơi nên sẽ không bao giờ rời khỏi những nơi nó vẫn thường đến để bắn bi, nhảy lò cò... Tôi cũng sẽ không còn dám để một hòn bi nào ra đất, tôi sợ hòn bi bỗng dưng tự lăn rồi chui vào lỗ. Tôi cũng không dám ra vườn một mình. Tôi sợ những bông hoa lài bỗng dưng thơm hẳn lên.
Từ bên đây ụ rơm, tôi sẽ nhìn vào nhà nó. Rồi từ đó, tôi mon men theo đám tang ra đồng, cứ đi cách một quãng xa.
Khi đi ngang nhà ông Tư, người ta sẽ đi chậm lại rồi đánh trống lớn lên, để cho ông biết mà ráng chồm lên cửa sổ đưa tiễn nó lần cuối.
Ðám tang vẫn sẽ tiếp tục đi nốt những con đường trong làng và cũng giống như những người kỵ sĩ, từng bóng người đưa tiễn như một vệt buồn lướt qua khoảng trời của tôi.
Tôi nhớ lời bố nói, khi nhìn theo bóng một con người mà ta không thể quên được, ta sẽ thấy nỗi nhớ của mình.
Hình như ai cũng vậy, không phải mình tôi tưởng tượng chuyện này. Cho nên khi nét nhọc nhằn trên khuôn mặt ông lang vườn giãn ra, nhiều người đã oà khóc. Người ta khóc vì sung sướng. Hình như người ta chỉ có thể khóc một cách trọn vẹn nhất nhờ sung sướng.
Tôi cũng vậy. Tôi đã khóc khi thấy đôi mắt thằng Tí nhấp nháy một gợn vào chiều hôm đó. Tôi đã ôm lấy bàn tay mềm nhão của thằng Tí vào lòng mình, cái bàn tay như vừa mới được sinh ra lần đầu nên nó có cái vẻ dịu dàng và dễ bị tổn thương. Tôi còn gọi tên nó rất nhiều lần như thể chưa từng được gọi trước đó, chưa từng nghe âm thanh đó. Không chỉ thế, tôi còn òa khóc vì nghĩ rằng những âm thanh đã không rời bỏ chúng tôi.
Bố tôi nói, người sống là một âm thanh nên khi sống, người ta sẽ gây nên tiếng vang bằng chính cuộc sống của mình.
Ba hôm sau, thằng Tí đã có thể ngồi dậy tự ăn cháo. Cái câu nói ấp ủ trong ba ngày qua đã được tôi chuẩn bị chu đáo cho cái ngày này:
- Hi hi... chào con rắn hai đầu!
Thằng Tí thều thào cãi lại:
- Chỉ có hai con rắn lốm đốm thôi!
Và chúng tôi thỏa thuận với nhau, nếu con rắn hai đầu còn ở đâu đó trên thế gian này thì, khi đầu "tử" vừa phập mình một nhát thì đầu "sinh" sẽ phập nhát thứ hai để cứu mình sống. Thế là sống khỏe, sống nhăn, cho phập thoải mái.
Ðêm đó tôi nghe bố nói thầm với mẹ "Thôi, chắc anh phải sửa lại một số chuyện cổ tích". Bố làm như bố là ông tiên không bằng.
Nhưng nói gì thì nói tôi vẫn mừng húm, mừng nhất không phải chuyện thằng Tí còn sống mà vì khi tôi ôm tay nó khóc, nó vẫn còn mê man. Còn tụi con Phượng thì không có mặt. Chứ không à, chúng nó sẽ lên lớp diễu lại trò này bêu riếu tôi. Vừa nắm tay thằng Tí vừa hu hu rên rỉ, Tí, Tí ơi, Tí ơi Tí... chắc tôi chỉ còn nước đi tìm hai con rắn lốm đốm nhờ nó cắn mình một phát cho tiêu đời mất thôi. Thật là hú vía!
Chương 19 : Thay Đoạn Kết
Chương 19 : Thay Đoạn Kết
Hàng đêm, tôi vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ vừa "nhìn" ra khu vườn vừa tưởng tượng. Tôi biết mình sẽ không bao giờ quên được, vì tôi vẫn còn nhớ lắm.
Tôi nhớ tất cả những gì đã bay qua bầu trời của tôi.
Tôi nhớ từng bông hoa, từng mùa mưa nắng, từng rẻo đất...
Bố tôi nói cần phải gieo những hạt mầm vào khu vườn; nhưng tôi cũng biết, mỗi một gương mặt là một hạt mầm gieo vào trí tưởng tượng của tôi. Tôi có nhiều khuôn mặt không ngừng mọc lên, những khuôn mặt buồn vui, những khuôn mặt đẹp nhất.
Nhiều lần tôi đã hỏi bố, tại sao người ta không nhớ một bàn tay ai đó mà phải là khuôn mặt trước tiên. Bố nói bởi vì trên đó có đôi mắt. Chúng ta không thể nhìn ai đó mà không nhìn vào đôi mắt họ. Một đôi mắt sẽ cho ta biết họ yêu mến điều gì, và quan trọng hơn nữa, họ đã hy sinh cho điều gì.
Hằng đêm, tôi vẫn tưởng tượng triền miên khi nhìn những ngôi sao. Người ta nói khi một người mất đi, ngôi sao của người ấy sẽ tắt. Tôi hú vía vì vẫn thấy ngôi sao của bạn tôi trên bầu trời, càng lúc càng rực rỡ chạm dần đến ngôi sao của tôi. Và tôi vẫn không ngừng tưởng tượng đến một lúc nào đó, bầu trời sẽ như một tấm thảm sáng kết liền lại. Vì đơn giản thôi, trên trái đất này trẻ con vẫn không ngừng được sinh ra và lớn lên. Chúng là những ngôi sao trên tấm thảm kia, điều bí mật mà tôi chẳng thể nào nói hết.
Nguyễn Ngọc Thuần.