Bóng Ma Trên Công Trường Đỏ - Người Thứ Tám
Bóng Ma Trên Công Trường Đỏ
Tác giả: Người Thứ Tám
Bóng Ma Trên Công Trường Đỏ
Văn Bình trịnh trọng nâng chai rượu vốt-ka lên mắt ngắm. Vốt-ka với trà là món uống phổ thông ở Nga sô. Văn Bình không lạ gì vốt-ka mặc dầu bình sinh chàng chỉ mê huýt-ky.
Đặc điểm của rượu vốt-ka là màu trắng trong suốt, ngửi không có mùi thơm. Rượu vốt-ka phải đủ 46 độ mới ngon. Nhưng chai rượu trong tay Văn Bình lại tỏa ra một mùi thơm hăng hắc. Bực mình chàng dằn mạnh chai rượu xuống bàn.
Tưởng là rượu ngon, chứ như thế này thì uống thêm đau bao tử.
Cô gái nhìn chàng bằng cặp mắt thỏ đế ngây thơ. Có lẽ lần thứ nhất nàng được nghe khách ngoại quốc chê rượu vốt-ka sô viết. Nàng quay cái nhãn chai về phía Văn Bình rồi nói :
Ông cứ uống thử thì biết. Rượu này không dở đâu. Nó được cất tại Lêningờrát bằng lúa mì lên men, trộn với bột bắp và bột khoai. Khách sạn có cả thảy 50 loại vốt-ka mà 30 loại là của nhà máy Lêningờrát. Mỗi loại có một mùi hương riêng, tùy theo được pha với đường hoặc hạt tiêu. Hồi nãy, ông dặn thứ mạnh nên tôi mang chai này cho ông. Rượu cô-sắc đấy, ngon gấp chục lần vốt-ka Ba lan …
Văn Bình cười duyên :
- Chỉ nhìn miêng cô nói cũng đủ say rồi, chẳng cần phải uống rượu nữa. Tên cô là gì?
- Ông còn nhớ đây là đâu không?
- Mạc tư khoa.
Phải. Mạc tư khoa không giống như Ba lê hoặc Nữu ước. Khách sạn Métropole mà ông đang ngụ là do Nhà nước quản lý, không phải của tư nhân nên nhân viên không có bổn phận chiều chuộng khách trọ.
- Chao ôi, cô có thân hình nảy nở, cân đối ghê!
Vẻ mặt đang cau có của cô gái nhân viên khách sạn bỗng tươi lại. Kể ra nàng chẳng có gì là đẹp. Mặt nàng, miệng nàng, ngực nàng, mông nàng chỉ được liệt vào hạng trung bình. Khuôn mặt tròn trạnh như mặt nguyệt của nàng không còn thích hợp với tiêu chuẩn thời danh nữa. Miệng nàng hơi lớn, không tương xứng với mặt, song lại có đôi môi dầy, hơi cong, loại môi khoái hôn đàn ông, dường như được làm bằng keo, chạm vào là dính chặt lấy hàng giờ mới nhả. Nàng mặc một cái ba đờ suy dầy, dài thòng đến đầu gối, che kín những bộ phận mà phụ nữ phương tây thường tìm cách bầy biện ra ngoài nên Văn Bình không đoán được kích thước và sự căng cứng của bộ ngực. Tuy nhiên, bằng con mắt có khả năng xuyên qua da thịt như quang tuyến X, chàng ước lượng là cô gái không thuộc đẳng cấp siêu giai nhân núi lửa.
Văn Bình đã hiểu tại sao nàng thay đổi vẻ mặt. Đàn bà ở sau bức màn sắt ít khi được đàn ông ca tụng sắc đẹp, đến nỗi họ không còn nhớ họ là giống cái, được tạo hóa sinh ra để được đàn ông nâng niu, nịnh hót nữa. Lời khen của Văn Bình làm nàng chếnh choáng như vừa uống ly vốt-ka thượng hạng. Văn Bình thấy bàn tay nàng hơi run.
Chàng bèn tiến lại gần nàng, giọng dịu dàng :
- Tên cô là gì?
Nàng lắp bắp :
- Nina.
- Hừ, Nina … tên cô cũng đẹp như người.
Cô gái đứng sững như bị Văn Bình thôi miên. Chàng vòng tay ngang lưng nàng, kéo nàng lại, rồi từ từ hôn vào môi nàng. Nàng run lên bần bật. Trong chớp mắt, nàng mềm ra như bún.
Nàng đeo cứng chàng không chịu rời ra nữa. Nghe tiếng giầy ngoài hành lang, và tiếng gõ cửa, chàng vội xô nàng sang bên, rồi cất tiếng hỏi :
- Ai đấy?
Bên ngoài có tiếng đáp :
- Guy.
Cửa mở. Khách là một thanh niên Mỹ cao lớn, cử chỉ cứng nhắc, nét mặt nghiêm trọng. Khách lẳng lặng đợi cho cô gái ra khỏi phòng, đóng cửa lại mới nói :
- Chào anh. Tôi là Guy.
Văn Bình chia tay ra bắt :
- Chào anh Guy. Như anh đã biết, tôi là Kêvin.
Mặc dầu được mời ngồi, Guy vẫn đứng giữa phòng, mắt nhìn lấm lét như sợ bị nghe trộm. Văn Bình hỏi :
- Vốt ka nhá?
- Cám ơn anh. Nhân viên sứ quán Hoa kỳ không được phép uống rượu trong giờ công vụ.
Lần đầu tiên, tôi được biết cái lệnh quái gở ấy. Tại nhiền nơi, nhân viên sứ quán đã uống rượu với tôi thả cửa. Lắm khi tôi còn mời cả ông đại sứ nữa.
- Anh còn nhớ đây là đâu không?
Văn Bình cảm thấy nhột nhạt. 5 phút trước, cô gái bồi phòng Nina cũng hỏi một câu tương tự. Phải, đây là Mạc tư khoa, thủ đô của Liên bang Sô viết, cường quốc cộng sản thế giới. Phải, đây là thành phố bí mật nhất trái đất nằm giữa khuỷu sông Mốt-qua và Sông Đào dẫn tới sông Vôn-ga, 6 triệu dân trong thành phố cũng phá một kỷ lục dáng kể : kỷ lục của im lặng.
Im lặng. Ban đêm im lặng đã đành, ban ngày Mạc tư khoa cũng im lặng như ban đêm. Trên khắp thành phố chỉ có 300,000 ngàn chiếc xe hơi, phần lớn là xe hơi Nhà nước, đường sá lại rộng thênh thang nên quang cảnh Mạc tư khoa lúc nào cũng vắng vẻ. Lần trước Văn Bình đã sé lòng trước sự im lặng khó hiểu, gần như rờn rợn của thủ đô Nga. Thời gian qua, sự vật vẫn không thay đổi. Xe hơi chạy từ từ, tài xế không dám sang số gấp gáp sợ hỏng hộp số và mòn vỏ lốp, đàn bà con gái đều cúi đầu nhìn xuống vỉa hè, ngã ba ngã tư đều không nghe tiếng còi tu huýt, âm thanh quen thuộc của các quốc gia bên này bức mán sắt …
Văn Bình nhún vai, nhắc lại tiếng vừa nói với cô gái bồi phòng :
- Mạc tư khoa.
Guy bước lại cửa sổ nhìn xuống đường :
- Có lẽ anh mới đến đây lần đầu.
- Lần đầu.
- Thảo nào : Thay mặt sứ quán, tôi cần dặn anh một vài điều căn bản trong thời gian anh lưu trú trên đất Nga. Trước khi đặt chân xuống Mạc tư khoa, anh hãy tưởng tượng là bước vào bệnh viện.
- Anh lầm rồi. Tôi thấy đàn bà con gái Nga phốp pháp, khỏe manh hơn đàn bà con gái tây phương nhiều.
- Tôi không có thời giờ đến đây để nghe anh nói đùa. Tôi dùng danh từ “bệnh viện” không có nghĩa là người Nga đều ốm yếu, bệnh hoạn. Anh đã biết khi vào bệnh viện người ta phải làm gì trước tiên. Đó là giữ im lặng, tuyệt đối im lặng. Ngồi trong nhà ăn, yêu cầu anh kiên nhẫn chờ đợi, và không bao giờ bóp ngón tay răng rắc hoắc hoặc là lối gọi bồi.
- Vậy làm cách nào để kêu họ?
- Trong các nhà hàng tây phương, anh muốn làm gì cũng được. Anh có thể dẫm đế giầy thình thịch, hoặc vỗ hai bàn tay vào nhau bôm bốp, hoặc khua muỗng lanh tanh, hoặc nếu cần, anh có thể chạy xồng xộc đến quầy két túm lấy ve áo gã xếp bồi để hậm học nữa. Nhưng ở đây, những cử chỉ ấy bị coi là tư bản phản động. Muốn gọi bồi, anh cứ ngồi ngay ngắn, nhìn về phía họ. Nếu họ không đến thì chờ. Chờ cho đến khi gặp họ.
- Vâng, tôi xin chờ. Nhưng bao tử của tôi không thể chờ được mãi. Nếu họ phớt lờ thì sao?
- Thì đành chịu vậy. Nhân viên khách sạn ở đây là đồng chí, không phải là bồi bếp. Nghĩa là ngang hàng với khách.
- Ở tây phương cũng thế. Bồi bếp có phải là tôi mọi cho khách đâu?
- Nhưng ở đây lại khác. Ở tây phương các nhà hàng, khách sạn phải cạnh tranh chiều khách để sống, ở đây, Nhà nước là chủ nhân ông thượng đẳng duy nhất, không cần ăn lời cũng như không sợ lỗ lã, anh vào tiệm ăn chờ không được thì mời anh đi ra …
- Trời ơi, nếu biết nông nỗi thế này tôi đã chẳng mầy mò đi Nga nữa!
- Mỗi khi có dịp trò truyện với du khách từ bên nhà tới, tôi thường khuyên họ về nước càng sớm càng hay. Khổ lắm … anh ở lại một đêm rồi sẽ thấy. À, tôi nghe nói anh qua đây vì công chuyện làm ăn phải không?
- Phải.
- Nghe nói anh sang đây để ký khế ước với bộ Ngoại thương sô viết!
- Đúng.
- Anh có thể cho sứ quán biết nội dung về khế ước sắp ký được không?
- Hoa kỳ là quốc gia tự do, công dân Hoa kỳ được quyền tự do đi lại, tự do buôn bán, tự do ký khế ước với ngoại nhân.
- Miễn hồ không phương hại đến an ninh quốc phòng …
- Vâng. Khế ước của tôi chỉ có tính cách thuần túy quảng cáo thương mãi. Tôi đại diện cho công ty Maxman, Hạ uy di. Công ty tôi chuyên về quảng cáo hàng hóa ngoại quốc trên đất Mỹ.
- Chắc anh cũng biết rằng hàng hóa Nga là do chính phủ sản xuất. Họ bất chấp lời lãi nên dầu giá thành cao họ vẫn có thể bán rẻ.
- Hàng hóa của họ đắt hay rẻ khong liên quan đến công ty Maxman của chúng tôi.
- Nhưng lại liên quan đến nhân dân Mỹ.
- Liên quan như thế nào?
- Chính phủ Sô viết sẽ tung thật nhiền hàng hóa giá rẻ tràn ngập thị trường Mỹ, khiến cho kỹ nghệ Mỹ bị thiệt hại tài chính. Mặt khác, nhân dân tiêu thụ Mỹ sẽ có cảm tình với họ.
- Thưa ông Guy của đại sứ quán, tôi là nhà quảng cáo thuần túy, không khoái nghe chuyện chính trị.
- Tôi không dám tuyên truyền ông, chỉ xin ông nghĩ lại …
- Ông có muốn tuyên truyền cũng vô ích. Trái tim của tôi được trui luyện trong lò thép, ông Guy ạ … Lời nói của ông rất ngon, nhưng xét ra số tiền một trăm ngàn đô-la còn ngon hơn nhiều.
- Họ sẽ trả các ông một trăm ngàn đo-la?
- Không bớt một xu.
- Rõ ràng là họ lấy thịt đè người. Nếu họ trả những một trăm ngàn thì thôi, tôi không dám thuyết phục ông nữa. Tôi chỉ xin ông …
- Giữ đúng tác phong một công dân Mỹ …
- Vâng. Nhất là đối với phụ nữ. Dân chúng Nga nghiêm nghị đã quen nên ít khi cười và rất ghét người ngoại quốc hay cười.
- Hồi nãy cô bồi phòng Nina đã cười với tôi.
- Đứng ngoài cửa, tôi còn nghe nhiều tiếng chụt chụt liên tiếp, chứng tỏ ông hôn nàng và được nàng hôn trả.
- Ông đã khâm phục thành tích của tôi chưa?
Guy lắc đầu ngao ngán :
- Không. Ông cũng nên biết rằng đa số nếu không là hầu nhân viên nhà hàng, khách sạn ở Mạc tư khoa đều là mật báo viên cho KGB. Tại đại lữ quán Metropole dành riêng cho người ngoại quốc này, toàn thể nhân viên từ giám đốc, quản lý, thư ký kế toán xuống đến nhân viên giữ thang máy, bồi phòng, bồi dọn ăn, phụ bếp, đều là mật báo viên thực thụ. Liệu chừng … nếu Nina cười tình và ôm ông hôn. Đêm nay, nếu nàng mở cửa vào phòng, trèo lên giường, và cởi quần áo ra mời ông làm tình thì ông còn nguy hơn nữa.
- Hừ … được người đẹp Nga la tư biếu không kho báu ngàn vàng giữa đêm vắng lạnh buốt xương mà ông cho là đại nguy ư?
- Vâng, trước ông nhiều người đã được hân hạnh ngủ với các cô bồi phòng tuyệt đẹp, nhiều cô lại tạo cho khách cái cảm giác rằng họ còn trinh, họ mời chung chăn gối với đàn ông lần đầu. Sự thật họ là mô-dờ-nô, nữ nhân viên an ninh chuyên mồi chài ngoại kiều. Họ được học đủ mánh khóe chinh phục đàn ông, và đủ kiểu làm tình.
- Càng tốt. Đàn bà được huấn luyện dĩ nhiên phải khoái hơn đàn bà tay mơ …
- Thôi, tôi không muốn khuyên nhủ ông nữa. Vì sau một hồi nói chuyện với ông tôi có ấn tượng ông là con thiêu thân đến đây để nhảy vào lửa.
Văn Bình mỉn cười nhè nhẹ. Gã nhân viên sứ quán Mỹ đã phê bình rất đúng. Tuy vậy, hắn không biết là đã nói đúng. Văn Bình là con thiêu thân, nhưng không phải con thiêu thân ngu muội cứ thấy ánh đèn là sà vào để chết oan uổng mà là con thiêu thân khôn ngoan, sáng suốt biết ánh đèn là cạm bẫy tử thần nhưng vẫn lao tới. Lao tới, với tin tưởng mãnh liệt là sẽ dập tắt được ngọn lửa …
Từ lâu, Văn Bình đã đóng vai trò thiêu thân điệp báo. Lần nào, chàng cũng may mắn trở về lành lặn. Tuy nhiên, chuyến đi này khác hẳn những chuyến đi đã qua. Trong dĩ vãng, mỗi khi hoạt động ở các quốc gia cộng sản chàng đều đột nhập lén lút bằng cách nhảy dù, đổ bộ bằng tiềm thủy đĩnh, hoặc vượt biên giới lén lut. Năm thì mười họa, chàng mới ngang nhiên đến bằng cửa trước đội lốt người khác.
Văn Bình đến Nga sô lần này dưới lốt một chuyên viên quảng cáo của công ty Hoa kỳ vốn có nhiều liên hệ với các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa. Nghề quảng cáo không phải là nghề lạ hoắc đối với chàng, vì trong quá khứ ít ra là một lần chàng đã đóng vai chuyên viên quảng cáo để hoạt động gián điệp.
Ba tuần trước, thành công ở Tahiti trở về (1). Văn Bình được ông Hoàng cho xuất ngoại nghỉ xả hơi. Thường lệ ông Hoàng không bắt chàng phải tuân theo một lộ trình nhất định miễn hồ chàng báo cáo đều đặn về Sở. Nhưng lần này ông lại yêu cầu chàng lên đường đi Hạ uy di.
Của đáng tội, phong cảnh trời biển Hạ uy di thật hữu tình, phụ nữ Hạ uy di thật ngoan ngoãn, nhưng so sánh với Phù Tang tam đảo thì mới một vực một trời. Khoa học giải phẫu thẩm mỹ đã làm gái Nhật đẹp và ngon hơn xưa, gái Nhật lại biết chiều chuộng những chàng trai khó tính nên Văn Bình thích đi Đông Kinh. Biết là đi Hạ uy di để dưỡng sức nhưng cũng để chờ công tác mới, chàng bèn hỏi đột ngột :
- Chừng nào ông giao việc?
Ông Hoàng đáp :
- Thú thật với anh tôi cũng chưa biết chừng nào nữa. Tôi vừa nhận được điện của ông Sì-mít yêu cầu anh có mặt tại Hạ uy di trong vòng 10 , 15 ngày sắp tới.
- Mình lại làm thuê?
- Dĩ nhiên. Nếu không làm thuê thì lấy đâu ra ngoại tệ để đài thọ hệ thống hoạt động của Sở. Ông Sì-mít cho biết anh sẽ qua Liên sô.
- Hừ … lâu lắm tôi chưa được qua đó. Nội dung công tác ra sao, thưa ông?
- Đại để anh sẽ đội lốt một nhân viên cao cấp của công ty quảng cáo Hoa kỳ Maxman, Hạ uy di. Tên nhân viên này là Kêvin. Hắn là người Hạ uy di, cũng mũi tẹt như anh. Da hắn hơi ngăm ngăm thì anh chỉ cần ngồi dưới đèn cực tím một buổi là bắt nắng ngay. Mặt anh hao hao giống mặt hắn, C.I.A. sẽ sửa đổi cho anh.
- Kêvin đi Liên sô làm gì?
- Hồ sơ nội vụ sẽ được gửi đến cho tôi nội trong tuần này. Nhưng anh yên tâm, tôi sẽ tiếp tục liên lạc với anh. Một công đôi việc, anh làm thuê cho C.I.A. đồng thời làm việc riêng cho Sở.
Văn Bình du hí tại đảo dừa thần tiên Hạ uy di được đúng 10 ngày thì được bí mật đưa lên phi cơ qua Mỹ rồi từ Mỹ qua Liên sô. Kêvin thực thụ đã bị C.I.A. chặn bắt ngang đường từ trung tâm thành phố lên phi trường. Việc thay thế được thực hiện khéo léo đến nỗi Văn Bình cũng ngạc nhiên. Giám đốc công ty Maxman cũng không biết Kêvin bằng xương bằng thịt đã bị chích thuốc mê và nằm dưới hầm một ngôi nhà gần bãi biển.
Văn Bình đổi phi cơ tại Pháp. Trèo vào chiếc may bay phản lực khổng lồ TU-104 của hãng hàng không Sô viết Aeroflot đậu tại trường bay Buộc-giê, chàng đã có cảm tưởng là đặt chân xuống Liên sô. Từ cách trang trí bên trong đến y phục, cử chỉ của nữ tiếp viên, tất cả đều khắc nếp sống quen thuộc của thế giới tây phương.
Tuy nhiên, chàng cũng không hoàn toàn thất vọng như những lần trước. Trong quá khứ, lần nào làm hành khách của công ty Aeroflot chàng cũng bực mình chán nản. Về kỹ nghệ hàng không, Liên sô vị tất chịu thua ai, vậy mà về nghệ thuật chiều chuộng hành khách họ lại đứng hạng bét trên thế giới. Họ có thể bỏ ra cả chục triệu đô-la để sắm con chim sắt phản lực vĩ đại TU-104, song lại không dám thuê họa sĩ trang trí cho đẹp mắt và nhất là tuyển dụng những bông hoa biết nói tương xứng với may móc tối tân. Kết quả là bên trong phi cơ tối mò, đèn đuốc chỗ có chỗ không, ghế ngồi thì bọc bằng vải sợi đay, nghĩa là một trong những thứ sợ tồi nhất, lẽ ra phải dùng những thứ sợi hóa học sang trong, đắt tiền.
Ôi chào, nữ tiếp viên còn làm Văn Bình ngao ngán hơn nữa! Nóng cũng như lạnh họ cũng chỉ có một bộ đồng phục độc nhất, trên trắng dưới xanh. Quá lạnh thì họ choàng thêm ba đờ suy. Với đống da dày cộm này trên người họ trở thành cái chum biết đi. Bỏ áo choàng ra, với xiêm xanh, sơ-mi trắng, họ có vẻ khá hơn, nhưng con mắt lọc lõi của Văn Bình vẫn không tài nào khám phá ra những đường cong của bộ ngực...
Lần này, các nữ tiếp viên vẫn mặc đồng phục cũ nhưng đuợc may chật hơn trước. Chàng bắt đầu được nhìn thấy đôi nhũ hoa căng phồng sau làn vải da. Song sự căng phồng này chỉ có thể giúp chàng xác nhận rằng cái chum đang đứng trước mặt là giống cái, không phải giống đực. Chứ không gây ra cảm giác say sưa nào hết...
Đã sống nhiều năm ở Âu châu, và có nhiều kinh nghiệm về nữ giới, Văn Bình không hiểu tại sao đàn bà Nga đều béo hoặc gầy một cách trái cựa. Hễ béo thì thật béo mà gầy thì thật gầy. Nhưng thường thường họ béo nhiều hơn gầy. Vì bệnh béo này nên đàn bà con gái Nga bị liệt vào hạng yếu như sên trên trường tình ái...
Chiếc Tupôlép khổng lồ đáp xuống phi trường Chêrêmêtiêvô đúng ba giờ rưỡi sau. Nếu là trên phi cơ Pháp-Mỹ (hoặc tồi ra thì cũng là phi cơ cây nhà lá vườn Air-Vietnam) thì ba giờ rưỡi đồng hồ này đã biến thành 21 thế kỷ thần tiên đối với Văn Bình. Chàng có thể rửa mắt, tha hồ ngồi nghiêng trên ghế để ngắm đùi và mông nữ tiếp viên, hoặc giả vờ khát nước vô hồi kỳ trận, để gọi nữ tiếp viên đến mà ngắm ngực... Các nữ tiếp viên ở Đông nam á đã biết rõ bệnh khát nước độc nhất vô nhị của Văn Bình. Sau khi máy bay rời phi trường là chàng đã đòi uống. Cô nào đẹp là bị chàng vòi vĩnh nhiều nhất (và nói đúng ra thì các nữ tiếp viên đều thích Văn Bình mắc bệnh khát như vậy mãi...)
Lên con chim sắt TU-104, Văn Bình muốn khát mà không khát được. Vì chẳng hiểu sao chỉ có hai nữ tiếp viên đi qua, đi lại trước mắt chàng, và cả hai đều mập thù lu. Mỗi khi giai nhân uyển chuyển đi qua, chàng có cảm tưởng là sàn phi cơ lún sâu xuống. Nếu giai nhân đoái thương mà hôn chàng thì chàng sẽ chết vì ngạt thở. Dầu chàng giỏi võ chàng chỉ là con nhái bén bên cạnh núi thịt của giai nhân. Cho nên chàng nhắm nghiền mắt mong sao cho chóng đến Mạc tư khoa.
Văn Bình vừa xách va-li vào phi cảng thì một mùi đặc biệt giữ chàng khựng lại. Mỗi thủ đô có một mùi đặc biệt, nhưng Mạc tư khoa lại có một mùi đặc biệt hơn cả, chàng không thể ngửi thấy mùi này tại bất cứ phi trường nào trên thế giới.
Đó là mùi ét-xăng.
Phi trường nào cũng có mùi ét-xăng song mùi của Mạc tư khoa lại nặng nề, nhột nhạt khiến cho du khách phải há miêng lớn để tìm hớp khí trời và đặt bàn tay lên ngực giữ cho trái tim khỏi đập mạnh. Ét-xăng của Liên sô thuộc loại ét-xăng xấu nên mùi nó thấm sau vào da thịt, và tạng phủ, ai đã ngửi qua một lần là nhớ mãi.
Văn Bình hơi ngạc nhiên vì quần áo của Guy, gã nhân viên sứ quán Mỹ, dường như đượm mùi ét-xăng. Hắn rút mù-soa ra lau mồ hôi trán mặc dầu trời lạnh như cắt ruột
Văn Bình bước ra cửa, giọng thân thiện :
- Ông vừa ở phi trường về?
Guy trố mắt :
- Vâng. Tại sao ông biết?
- Giản dị lắm. Mùi ét-xăng.
Guy đưa bàn tay lên cổ, như để kiểm soát lại xem đầu còn dính vào thân nữa không :
- Té ra ông là người có tài nhận xét. Nếu tôi không lầm, ông là...
Văn Bình ngắt lời bằng giọng khó chịu :
- Là gì, kệ tôi. Yêu cầu ông kín cái miệng.
Guy nhún vai đóng cửa. Văn Bình dựa lưng vào cửa, nhìn ngắm đồ đạc trong phòng. Tiếng giày của gã nhân viên sứ quán Mỹ đã tắt ngoài hành lang.
Giờ này chắc một toán nhân viên KGB mặc ba đờ suy đen, đội phớt đen, đeo kiếng đen, vẻ mặt cô hồn, đang nín thở trước máy ghi âm đặt dưới hầm khách sạn. Văn Bình không lạ gì màng lưới nghe trộm, nhìn trộm của mật vụ Sô viết. Mọi khách sạn đều có máy ghi âm lén lút. Khách sạn Metropole, nơi trọ của người ngoại quốc ghé Mạc tư khoa, có nhiều máy ghi âm hơn hết. Chàng lấy làm tiếc là không được ngụ tại đại lữ quán Rossia vừa mới hoàn thành với ba ngàn phòng, chỉ cách Công trường Đỏ và điện Cẩm linh một quãng ngắn. Vì chàng nghe nói ở đó nhân viên KGB có nhiệm vụ ghi âm đều là đàn bà, đàn bà trẻ măng, vòng ngực gần một trăm phân, vòng mong nhỏ nhất là 95 phân, loại đàn bà cao su mút mà người đàn ông thích chẻ sợi tóc làm 8 cũng thích.
Đồ đạc trong căn phòng khách sạn Metropole này vẫn là đồ đạc cũ mèm từ thuở hồng hoang, thứ bàn ghế cổ lỗ sĩ mà ngay cả các khách sạn hạng bét ở Sài gon cũng đem chất trong xó bếp. Dường như Nga sô là một nhà kho khổng lồ chứa đựng đồ cũ, trong văn phòng, lữ quán, tư gia, đâu đâu cung thấy đồ cũ.
Điều làm Văn Bình ngạc nhiên nhiều nhất khi đến Mạc tư khoa lần đầu tiên là dân chúng Nga, đặc biệt là nữ giới, đều mặc đồ cũ. Nam phụ lão ấu đều choàng ba đờ suy do công ty may cắt quốc doanh sản xuất, toàn những màu tối, ngắn đồng loạt đến đầu gối, bên trên rộng thùng thình.
Văn Bình không quên được thời trang Sô viết vì trong quá khứ nó đã làm chàng suýt chết. Hồi ấy, chàng len lỏi vào đất Nga để thi hành một kế hoạch hành động của Trung ương Tình báo C.I.A. Chàng cải trang làm một người dân Nga ở Trung Á, giấy tờ và dụng cụ tùy thân, kể cả y phục, hoàn toàn do C.I.A. cung cấp.
Các chuyên viên tình báo Mỹ đã lo liệu đầy đủ, ngoại trừ một chi tiết nhỏ nhặt song lại rất quan trọng. Đó là bề rộng của ống quần.
Người Nga nổi tiếng trên thế giới về thói quen mặc quần ống chân voi. Tùy từng vùng, ống quần được may rộng nhiều hay ít, nhưng hẹp nhất cũng từ trên 30 phân. Ống quần của thủ tướng Cút-Sếp, với bụng ễnh ương 122 phân, lớn hơn vòng ngực 5 phân, được may rộng đến 40 phân tây, phá kỷ lục hoàn vũ.
Lần ấy, Văn Bình mặc quần ống rộng 25 phân đi nghênh ngang trên đường phố Mạc tư khoa. Và chàng bị nhân viên mật vụ theo dõi. Lý do của sự theo gõi này rất giản dị : vì chàng là người bộ hành ngoại quốc duy nhất mặc quần ống chật. Nếu kém khôn ngoan, quyền biến và võ thuật, chàng đã bị mật vụ KGB bắt giữ.
Bất giác Văn Bình cúi nhìn ống quần.
Chàng mặc bộ com-lê bằng hàng len sẫm, màu thông dụng ở Nga sô. Giờ đây chàng có thể mặc ống chật vì dầu sao chàng là công dân Mỹ, sinh quán ở Hạ uy di. Tuy nhiên, ống quần của chàng vẫn được may rộng hơn ống quần của người tây phương rất nhiều. Theo thời trang, phần đông đàn ông đều may ống chật từ 22 phân trở xuống. Nhưng C.I.A. rút đúc kinh nghiệm quá khứ, đã nới ống quần của chàng lên tới 24 phân.
Chàng mỉm cười một mình. Nhờ cái kéo vàng tài hoa và tài thuyết phục của một nhà may hữu danh Ý đại lợi (2). Cút-Sếp đã đổi quần từ bề rộng kinh khủng 40 phân xuống còn 27 phân tây. Cút-Sếp sửa soạn mặc quần 23 phân thì bị hạ bệ. Cuộc cách mạng ăn điện của Cút-Sếp đã thất bại...
Văn Bình mở hé cửa nhìn xuống đường.
Phía dưới là một công viên lớn. Mùa đông dài lê thê sắp hết. Những cây sầu-đông nở đầy hoa đỏ, tạo cho khung cảnh ảm đạm một nét chấm phá vui tươi. Nếu Mạc tư khoa không có hoa sầu-đông, hơi lạnh cuối mùa còn lạnh hơn nhiều.
Đột nhiên Văn Bình cảm thấy lạnh. Trời xâm xẩm tối. Hơi lạnh như mũi dùi nhọn xoắn vào tim chàng. Mỗi khi trời gặp lạnh ở nước ngoài, chàng đều tìm cách sưởi lòng trong các hộp đêm. Chàng quen với khí hậu rét buốt song lại sợ hơi lạnh. Hơi lạnh kỳ lạ không biết từ đâu đến làm chàng trai cô đơn trên ba mươi phải cắn chặt hàm răng để khỏi run lên cầm cạp.
Chuông điện thoại trong phòng reo vang. Văn Bình cầm lên nghe. Những ai đã qua Nga sô đều nhận thấy chuông điện thoại ở đó có tiếng reo chát chúa làm người nghe rùng mình, rợn tóc gấy, khác với tiếng reo lanh lảnh vui tai quen thuộc ở những thủ đô khác. Điện thoai là xa xỉ phẩm hiếm có, phải là nhân viên cao cấp mới được gắn. Sở dĩ mọi phòng trọ ở Metropole có điện thoại, chẳng phải vì nhà cầm quyền muốn biệt đãi lữ khách mà vì KGB muốn nghe trộm. Mạc tư khoa cũng không có cuốn niên giám điện thoại ghi số dây nói, tên và địa chỉ người thuê bao như ở Sài gon. Vì điện thoại niên giám là tài liệu bí mật.
Văn Bình hắng giọng cho trong trẻo khi nhận ra ở đầu giây giọng nói thánh thót của một cô gái còn trẻ.
- Thưa, ông có phải là Kêvin?
Văn Bình đáp :
- Phải, tôi là Kêvin bằng xương bằng thịt. Tôi mới đến, buồn quá, định đi ăn tối mà không có bạn. May được gặp cô.
- Xin lỗi, tôi chưa được hân hạnh quen ông. Tôi là phụ tá của đồng chí giám đốc Sở Phát triển Ngoại thương.
- Bônkốp.
- Vâng, đồng chí Bônkốp. Chúng tôi rất vui mừng được đón tiếp ông tại Mạc tư khoa. Hồi nãy, tôi đã cho xe Sở lên phi trường rước ông. Lát nữa, đồng chí Bônkốp sẽ có mặt ở văn phòng. Đồng chí Bônkốp mời ông đến chơi. Theo chỗ tôi biết, đồng chí Bônkốp sẵn sàng chấp thuận bản khế ước do ông đệ trình.
- Cô quên là trời đã tối. Giờ này, công sở đều nghỉ việc và đóng cửa.
- Nhưng một số công sở vẫn tiếp tục mở cửa. Chẳng hạn văn phòng Phát triển Ngoại thương. Đồng chí Bônkốp thường làm việc mỗi đêm đến 2, 3 giờ sáng. Ông đã nghe rõ chưa?
- Rõ lắm. Cô dùng cơm với tôi nhé?
- Đa tạ hảo ý của ông. Tôi phải có mặt tại văn phòng đến 2, 3 giờ sáng, cùng với đồng chí giám đốc.
- Sau giờ đó, mời cô đi cũng được.
- Không tiệm ăn nào mở cửa đến 12 giờ đêm. Vả lại, trời rét như thế này, đàn bà con gái chúng tôi không dám đi khuya.
- Cô sợ lạnh?
- Không.
- Tôi hiểu tại sao cô không muốn đi ăn với tôi. Vì cô đã có chồng. Và chồng cô là người đàn ông chiếm giải vô địch về ghen.
- Ông đoán trật lất. Còn lâu tôi mới có chồng. Khi nào lấy chồng tôi sẽ chọn người chiếm giải vô địch về ghen.
- Có lẽ vị hôn phu của cô mắc bệnh ghen kinh khủng nên cô từ chối.
- Tôi cũng chưa có vị hôn phu.
- Vậy lát nữa tôi đến đón cô nhé.
- Không được.
- Yêu cầu cô cho biết ly do. Tôi cũng xin khai trước rằng tôi không đến nỗi xí trai. Tiếng Nga của tôi rất khá, có thể tỏ tình với phụ nữ một cách văn vẻ và đúng mẹo luật.
- Cám ơn ông. Sở dĩ tôi không dám nhận lời vì sợ thú dữ.
- Trời, thủ đô Mạc tư khoa này cũng có thú dữ như ở rừng rậm Phi châu ư?
- Vâng, có nhiều lắm. Ban đêm, thường có nhiều thú dữ hơn ban ngày. Thôi, tôi xin chào ông.
- Xin cô nghĩ lại... tôi xin hứa là rất ngoan ngoãn và hiền lành. Nếu cần tôi sẽ cam kết trước mặt đồng chí Bônkốp.
- Ông là người đàn ông lạ lùng. Mạc tư khoa thiếu gì con gái đẹp mà ông lại đoái hoài đến tôi.
- Vì cô là người đàn bà dễ thương.
- Tôi không dễ thương như ông tưởng đâu. Mọi người đã liệt tôi vào danh sách phụ nữ khó tính nhất Liên sô.
- Càng tốt. Bản tâm tôi rất ưa phụ nữ khó tính. Chẳng qua chưa gặp tri kỷ đó thôi.
- Tôi xấu lắm, ông ạ. Gặp tôi, ông sẽ thất vọng. Vậy tôi thành thật khuyên ông...
- Cái nết đánh chết cái đẹp. Nào cô đã bằng lòng chưa?
- Ôi chao, thanh niên các ông chỉ hứa hẹn để mà hứa hẹn. Lát nữa, ông sẽ quên hết.
- Cô coi tôi là hạng người gì? Nếu cô chấp thuận tôi xin long trọng cam kết là sẽ đến tận văn phòng mời cô đi ăn rồi đưa cô về nhà đàng hoàng.
- Ông lỗi hẹn thì sao?
- Trời sẽ đánh tôi chết.
- Được rồi, Tôi sẽ ghi âm lời hứa của ông.
- Thưa.. tên cô là gì?
- Vêlana.
- Vâng, xin chào cô Vêlana khả ái, đại điện của thần Vệ nữ.
Văn Bình định tán thêm song Vêlana "đại diện của thần Vệ nữ" Sô viết đã cúp điện đàm. Chàng nhún vai huýt sáo miệng. Tự nhiên lòng chàng vui rộn như trẩy hội.
Đàn bà ở mọi nơi trên trái đất đều giống nhau. Xét kỹ thì đàn bà đẹp cũng như đàn bà xấu, chẳng thế mà cổ nhân đã có câu "tắt đèn, nhà ngói cũng như nhà tranh". Tuy nhiên, phải là người sành điệu hưởng thụ như Văn Bình mới hiểu được rằng đàn bà mỗi nước một khác. Nói chung, phụ nữ ở Nga sô thua xa phụ nữ các quốc gia tây phương tự do mặc dầu họ đều cao to như nhau và có sức khỏe như nhau. Phụ nữ tây phương còn trội hơn về phương diện hấp dẫn nhờ mỹ phẩm tân kỳ, đồ lót và đồ giả đặc chế. Nhưng nếu được quyền lựa chọn, Văn Bình sẽ chiếu cố đến phụ nữ ở phía sau bức màn sắt Sô viết.
Nguyên nhân của sự biệt nhỡn này rất giản dị. Phụ nữ Sô viết có thể kém sắc đẹp hơn, kém cân đối hơn, kém quyến rủ hơn phụ nữ Tây phương, song trong phòng the, trong những phút thân mật và kín đáo nhất giữa đàn ông và đàn bà muôn thuở, họ lại chiếm địa vị hàng đầu. Văn Bình nhận thấy họ có một sức làm tình mãnh liệt, một phần do khí hậu lạnh buốt, nhưng phần khác - và cũng là phần chính - là do họ bị đồn ép về mọi khía cạnh, nhất là về khía cạnh yêu đương. Xã hội Sô viết như một nhà tù khổng lồ, con người bị giam hãm đã đành, cả đến sự bột phát ân ái cũng bị xiềng xích. Khi được tự do bộc lộ, phụ nữ Sô viết vùng lên, giống như cơn nước lũ kéo phăng bờ đê tràn vào thành phố. Kết quả là họ yêu một cách tham lam, mãnh liệt và dai bền...
Văn Bình mở va-li lấy ra bộ đồ len nhạt màu sám. Miệng tiếp tục huýt sáo huyên thiên, chàng đứng trước gương, trịnh trọng nắn nút cà-vạt, cốt làm nổi bật những chấm tròn màu hoa cà trên nền vàng nhẹ của chiếc sơ-mi thời trang trong năm do nhà Jacques Fath ở Ba lê sản xuất. Ý nghi về cô gái Nga đa tình, rạt rào tình yêu, ngả trong vòng tay chàng đã làm chàng quên cả công việc phải làm. Chàng sang Liên sô là để tiến hành một công tác nguy hiểm, chứ không phải đi chơi... Vậy mà tình yêu vẫn khỏa lấp tất cả...
Chàng mở cửa bước ra hành lang. Đã quen với nếp sống ở Nga sô, chàng để nguyên chìa khóa trong ổ và cũng không buồn khóa cửa. Vì khóa cửa hoàn toàn vô ích. Chàng vừa ra khỏi khách sạn là một gã đàn ông đội mũ phớt đen, mặc ba đờ suy đen, đi giày đế cờ-rếp đen thuộc mật vụ KGB đã xô cửa phòng vào lục soát. Nhân viên mật vụ không cần lục soát lén lúc, vì toàn thể nhân viên khách sạn đều lãnh lương của KGB. Họ cũng không cần lục soát một cách vội vã. Họ từ từ rũ từng cái áo, nắn từng cái gấu, quan sát từng cái khuy, ngửi từng ve nước hoa. Họ còn có những dụng cụ riêng để khám phá xem khách trọ có giấu khí giới trong buồng tắm hoặc dưới nệm giường hay không nữa. Và để cho lữ khách giật mình, họ còn mở nắp va-li, vứt lung tung quần áo trên bàn, mà không thèm đóng lại.
Rút kinh nghiệm, Văn Bình chỉ mang rất ít đồ đoàn. Va-li của chàng không thuộc loại 2 đáy, như va-li chàng thường đem theo trong những chuyến công tác ở hải ngoại. Giầy của chàng cũng chỉ là loại giầy da thông dụng, đế không rỗng ruột, chứa súng bắn đạn xi-a-nuya và đồ nghề mở két sắt.
Trong những ngày đầu tiên của nghề điệp báo, Văn Bình thường cẩn thận dán một sợi tóc vào ổ khóa va-li. Nhưng dần dà chàng không cần đến sợi tóc canh chừng mà vẫn biết được va-li bị lục soát. Con mắt của chàng bén nhậy không kém máy chụp hình, chàng chỉ nhìn qua một lượt là thu hết chi tiết sắp xếp vào trong trí nhớ. Dầu đối phương khéo tay đến đâu chàng cung khám phá ra dễ dàng. Tuy nhiên, kinh nghiêm này đã trở nên vô dụng ở Liên so vì không những mật vụ KGB mở tung hành trang của khách trọ, họ còn vứt bỏ bừa bãi, bắt chủ nhân phải gập lại nữa.
Văn Bình chạm phải một nhân viên KGB ở cuối hành lang. Thấy chàng, hắn toan tránh, song chàng đã gọi giật :
- Mệt không, bồ?
Gã khựng người :
- Không.
Văn Bình cười khẩy :
- Vậy thì thôi. Tưởng bồ mệt thì mời bồ vào phòng tôi, dùng tạm một ly vốt-ka hạng tốt, dán nhãn hiệu Cô-sắc đàng hoàng, chỉ dành riêng cho nhân viên trung cấp. Nếu tôi không lầm, anh chỉ được uống vốt-ka hạng bét.
Gã nhân viên KGB lắp bắp :
- Thưa... ông... tôi...
Văn Bình đập vai hắn :
- Thôi, bồ ơi, thưa với gởi làm gì cho tổn thọ. Cửa phòng tôi vẫn mở, chai rượu tôi để nguyên trên bàn. Vào mà uống cho khỏe, rồi muốn lục soát tha hồ. Thế nào, bằng lòng chưa?
Không đợi hắn trả lời, chàng tiến lại thang máy. Gã nhân viên KGB như bừng tỉnh vội cản chàng :
- Thưa ông, thang máy vừa bị hỏng.
Văn Bình nhăn mặt khi thấy tấm bảng trắng to tướng trên in một giòng chữ đỏ gần đầy bề ngang và bề dọc :
- " Thang máy hỏng "
Thang máy hỏng là một trong những nỗi khổ của người ở chung cư và khách sạn. Tùy nhiên, ở các nước Tây phương, hoăc ngay cả ở Sài gòn, thỉnh thoảng tệ trạng này mới xảy ra. Trong khi ấy, thang máy lại hỏng thường xuyên ở Liên sô. Hỏng nhiều đến nỗi lữ khách sợ không dám dùng nữa. Nhưng nghĩ cho cùng thì thang máy hỏng như vậy mà lợi. Vì phải đi bộ từ lầu cao chót vót xuống tầng dưới, hai chân trở nên dẻo dai và cơ thể được tập thể dục khỏe mạnh.
Đối với Văn Bình thì chạy lên chạy xuống khách sạn Metropole hàng chục lần cũng không làm chàng mỏi mệt. Nhưng hôm nay chàng lại cảm thấy hụt hơi. Chàng dừng lại một phút để thở.
Lát sau chàng mới xuống đến phòng tiếp tân bên dưới. Không ngó ngang, nhìn ngửa, chàng lẳng lặng bước ra đường.
Trời mới tối mà đường sá đã bắt đầu vắng. Chàng đi được một quãng ngắn thì nghe phía sau có tiếng giày lộp cộp. Kẻ lẽo đẽo phía sau phải là nhân viên mật vụ có trách nhiệm theo dõi chàng vì hắn luôn luôn cách chàng 10 thước, căn cứ vào âm thanh đế giày nện trên vỉa hè.
Điều làm ngoại kiều bực mình nhất ở Mạc tư khoa là nạn nhân viên KGB bám sát ngày đêm như bóng với hình. Mật vụ đi theo một cách công khai, không cần giấu diếm. Khách về phòng trọ thì hắn đi đi lại lại dưới đường, chốc chốc lại nhìn lên cửa sổ, hoặc vào thẳng lữ quán, đứng chềnh ềnh ngoài hành lang trước cửa phòng. Thậm chí khách vào cầu tiêu công cộng, mật vụ cũng vào theo. Tuy nhiên, tùy theo khách được KGB tín nhiệm nhiều hay ít, sự theo dõi sẽ được gai tăng hay giảm thiểu. Dầu sao Văn Bình cũng là đặc phái viên của công ty Maxman có cảm tình với chế độ Sô viết. Chàng vẫn bị mật vụ canh chừng, nhưng sự canh chừng này không đến nỗi quá khe khắt.
Tiếng giày vẫn gõ đều sau lưng chàng.
Âm thanh nặng nề chói tai này chứng tỏ gã mật vụ KGB dận giày GUM. GUM là tên một siêu thị quốc doanh tọa lạc gần khách sạn mà Văn Bình cư ngụ. Hệ thống thương mãi tư nhân dường như không có, dân chúng muốn mua gì phải vào siệu thị của Nhà nước. Nghĩa là phải xếp hàng dài giằng dặc và phải xin tích-kê phiền phức. Từ sau ngày Sít ta Lin, nhà độc tài sắt máu, nằm xuống và Cút-Sếp lên thay thế, tình trạng xếp hàng dài giằng dặc đã giảm bớt, hàng hóa được bày bán nhiều hơn. Tuy nhiên, phẩm chất vẫn xấu như trước.
Và một trong các hàng hóa thiết dụng bị ta thán nhiều nhất là giày da. Giày đóng đã xấu, da thuộc còn xấu hơn, trời nắng thì mềm xèo, trời lạnh thì cứng như thép. Liên sô vốn là xứ lạnh quănh năm nên đôi giày GUM trở thành cực hình, làm bàn chân xây xát.
Các xí nghiệp đóng giày của Nhà nước sản xuất không kịp nên số giày chỉ được bán ra hạn chế, dân chúng bắt buộc phải tiết kiệm. Thành phần phải dè xẻn đế giày nhất là nhân viên KGB phục vụ trong ban Kiểm soát Ngoại nhân. Nhiệm vụ tối ngày của họ là theo dõi tình nghi ngoài đường, đế giày luôn luôn cọ sát với đá sỏi nên chẳng bao lâu phải mòn vẹt. Giày da lại chỉ được cấp phát theo hạn kỳ đã định, nhân viên Kiểm soát Ngoại nhân đành phải đóng thật nhiều cá sắt vào đế.
Thành ra mỗi khi họ cất bước là đế giày kêu vang " cộp cộp, cộp cộp ", như nuốn dõng dạc báo tin cho người bị theo ở phía trước.
Cộp, cộp... cộp cộp....
Văn Bình giả vờ buộc dây giày để quan sát diện mạo của gã mật vụ. Hắn trạc ba mươi, dưới ánh đèn đường hắn trông già khằn, cái miệng vẩu, cổ cao lêu nghêu, chân đi khập khiễng. Văn Bình biết hắn cà nhót không phải vì có tật, mà chính vì đôi giày GUM quá cứng. Tự dưng chàng đâm ra thương hại gã đi theo, thương hại toàn thể nhân viên mật vụ Sô viết... Với thân hình gày còm, cà rịch cà tang này, gã mật vụ chỉ chịu đựng được một cái khoèo chân nhẹ nhàng của chàng là lăn chiêng trên mặt lộ.
Nhưng chàng vẫn thản nhiên bước tới.
Con đường chàng đang đi là đại lộ chính của thủ đô Liên sô với Bảo tàng viên Lịch sử và Bảo tàng viện Lênin, choán hai khu nhà đồ sộ, nhìn xuống Công trường Đỏ rộng mênh mông.
Ban ngày, du khách thường có mặt trên con đường này để vào siêu thị GUM ngắm nghía, hoặc bỏ 3 rúp để mua vé vào thăm mặt ngoài của điện Cẩm linh, trụ sở đầu não của chính quyền Sô viết, hoặc đến viếng mộ phần của Lênin, thủy tổ của đảng cộng sản và Nhà nước Liên sô. Trước đây, Sít ta Lin nằm cạnh Lênin nhưng sau đó đã bị mang đi đâu mất tích. Cuộc sống phía sau bức màn sắt là thế : không ai dám nghĩ đến ngày mai, vì không thể biết ngày mai ra sao.
Tiếng giày của gã mật vụ vẫn nện đếu sau lưng Văn Bình. Thường lệ, nhân viên KGB hoặt động từng cặp. Nhân viên đi theo Văn Bình có thể bị một nhân viên khác đi theo. Và cũng có thể có nhân viên kiểm soát thứ ba nữa. Tuy nhiên, Văn Bình không tin KGB lại cho nhiều nhân viên đi theo chàng. Vì chàng được coi là cảm tình viên. Vả lại, chàng chỉ là một công dân Mỹ thèm đồng rúp Sô viết.
Đến một cái ghế gỗ công viên Văn Bình ngồi xuống. Nơi này ban ngày chim bồ câu xà xuống từng đàn, lữ khách thường mua bắp rang bán rong để ném cho chim ăn. Trời mới tối công viên đã vắng heo, vắng hút. Bầy chim bồ câu và bọn bán bắp rang cũng không thấy đâu nữa.
Tiếng giày ngừng lặng.
Văn Bình quay sang bên trái. Gã nhân viên KGB vừa ngồi xuống ghế cách chàng mười thước. Đặt đít xuống xong hắn vội vàng rút chân ra khỏi giày. Văn Bình thấy rõ khuôn mặt nhăn nhó của hắn. Tội nghiệp... đôi giày quá chật, hắn lại phải đi bộ. Nếu chàng lang thang suốt đêm hắn sẽ biến thành phế nhân.
Chàng bèn gọi lớn :
- Này đồng chí?
Hắn giật nảy người trên ghế, buột tay đánh rơi chiếc giày xuống cỏ. Nhận ra chàng hắn giả vờ ngoảnh mặt đi chỗ khác. Song Văn Bình đã cười khanh khách :
- Lại đây, đồng chí. Còn giả vờ gì nữa?
Hắn đành buông tiếng thở dài. Tiếng thở dài của hắn kêu to đến nỗi trong đường kính một trăm thước người điếc tai cũng nghe rõ.
- Đồng chí gọi tôi?
- Phải. Ở đây chỉ có hai chúng ta. Không lẽ tôi lại gọi cô vợ trẻ măng của đồng chí Kôsigin.
Kôsigin là thủ tướng chính phủ Sô viết. Vợ Kôsigin đã thuộc vào loại da mồi, tóc bạc. Biết vậy Văn Bình vẫn phịa chơi. Gã mật vụ vội suýt soa :
- Đồng chí đừng nói bậy.
Văn Bình gật gù :
- Nếu đồng chí không muốn tôi tiếp tục nói bậy thì lại đây chơi với tôi. Tôi xoa nắn rất giỏi. Học được của bộ lạc du mục Nêpan mà lại... Nào, tôi bóp chân cho đồng chí nhé...
Gã nhân viên KGB tiếp tục thở dài :
- Tôi chỉ làm nhiệm vụ do cấp trên giao phó, xin đồng chí thông cảm.
- Nhiệm vụ đi theo tôi suốt ngày suốt đêm phải không?
- Không, tôi chỉ làm việc từ 6 giờ tối đến nửa đêm. Đồng chí là người ngoại quốc nên không hiểu rõ sự kiện này, chúng tôi đi theo đồng chí chẳng phải là để kiểm soát mà chỉ để giúp đỡ mỗi khi cần thiết. Cuộc sống ở đây khác hẳn cuộc sống bên Mỹ, đồng chí lại chưa nói thạo tiếng Nga. Kể ra sự có mặt của chúng tôi bên cạnh đồng chí rất hữu ích, đồng chí không phải tốn tiền: trong khi ấy, một số viên chức Sô viết đi Mỹ về kể chuyện là ở nước đồng chí muốn có người đi theo phải trả lương giờ với giá biểu cắt cổ.
Văn Bình chỉ cười xòa mà không giải thích. Vì chàng nhận thấy giải thích vô ích. Vả lại, chàng sang Liên sô để làm công tác gián điệp, chứ không phải là cán bộ tuyên truyền. Trên thực tế, gã nhân viên KGB đã nói đúng : ở Tây phương, du khách phải trả tiền cho hướng dẫn viên, nhưng gã nhân viên KGB lại không biết rằng hướng dẫn viên du lịch và mật vụ Sô viết là hai thái cực.
Liên sô cung có cơ quan du lịch riêng, gọi là Intourist, song du lịch chỉ là bình phong, toàn thể nhân viên nam nữ của sở Intourist đều là mật vụ.
Văn Bình kéo gã nhân viên KGB ngồi xuống ghế rồi gợi chuyện :
- Nhà đồng chí ở đâu?
Hắn lắc đầu :
- Theo lệnh trên, tôi không được phép cho du khách biết chỗ ở của tôi?
- Đồng chí có vợ chưa?
- Theo lệnh trên, tôi không được phép...
- Hừ... bất cứ điều gì anh cũng mang ngoáo ộp thượng cấp ra hăm dọa... Không lẽ lệnh trên cấm anh tâm sự với du khách là anh đã có vợ, và vợ anh khá đẹp, nếu không đẹp như hoa hậu thì cũng hơn đứt vợ ông tướng Sêrốp.
Gã KGB nhổm người trên ghế. Sêrốp là trùm an ninh điệp báo Liên sô. Nhắc đến tên Sêrốp là sự phạm thượng đối với người Nga, còn đáng tội gấp chục lần tội phạm tên húy vua chúa dưới thời xa xưa ở Viet nam nữa.
Nhưng Văn Bình vẫn tiếp tục chọc tức hắn bằng giọng châm biếm lên bổng xuống trầm :
- Ngủ với vợ, anh cũng phải xin lệnh trên phải không?
Hắn đành xuống nước, chắp tay xá chàng :
- Tôi lạy đồng chí. Có ai ghe được thì chết. Tôi đã bị thượng cấp phạt cấm trại đúng một tháng về tội bép sép với một du khách Nhật. Thấy hắn dễ thương, tôi rỉ tai cho hắn biết mấy địa chỉ mua vui ở Mạc tư khoa, ai ngờ hắn...
- Lằm ăn lộ liễu để thượng cấp khiển trách.
- Ồ, nếu chỉ có thế thì cũng chẳng sao. Đằng này hắn lại là đồng nghiệp của tôi.
- Nhân viên KGB?
- Vâng, tuy hắn là người Nhật trăm phần trăm. Nghe tôi nói, hắn xoắn lấy, vật nài tôi dẫn hắn đến ổ nhện thanh lịch nhất. Vì lâu ngày không được hủ hóa tôi bèn kêu tắc-xí đi ngay. Sáng hôm sau, đến văn phong nhận chỉ thị tôi bị gọi vào bàn giấy đồng chí chánh sự vụ, và được đọc một bản báo cáo đầy đủ. Tôi uống mấy ly vốt-ka, làm tình với cô gái nào, tất cả đều được ghi rõ. Cũng may tôi không lỡ mồm, lỡ miệng. Nếu có thì tôi đã không được hân hạnh làm hướng dẫn viên cho ông đêm nay. Đúng 30 ngày nằm trong xà-lim tối om, với một mẩu bánh mỗi ngày để cải hối. Hết thời gian cải hối, tôi về nhà lại bị mụ vợ dằn cho một mẻ nữa. Đàn bà nước tôi đã nổi tiếng về ghen, mụ vợ tôi lại là tay ghen quán quân, nên trong suốt mấy tháng đằng đẵng tôi mất ăn, mất ngủ, hễ gặp mặt tôi là mụ ấy đay nghiến, mắng nhiếc, cấu véo, thôi thì đủ tình, đủ tội. Sau tai nạn này, tôi thề cạch đến già.
Văn Bình thích chí cười vang. Có thể gã nhân viên KGB đã nói thật. Nhưng cũng có thể hắn bịa ra để lôi chàng vào xiếc. Dầu sao thì câu chuyện của hắn cũng đượm vài nét vui vui.
Chàng bèn vỗ bụng gã nhân viên KGB :
- Đói chưa?
Hắn nhăn mặt :
- Mời ông cứ tự nhiên, tôi không dám.
- Chậc. Anh lôi thôi lắm. Tôi rất ghét đi ăn một mình. Đi ăn ở Mạc tư khoa mà có một mình thì nhịn còn hơn. Vì vậy, tôi muốn mời anh. Tiệm Đa-nuýp chỉ ở gần đây thôi.
- Thưa ông...
- Nghĩa là anh từ chối?
- Thưa ông, theo lệnh trên...
- Biết rồi, anh không được quyền làm bất cứ việc gì nếu chưa có lệnh trên. Ngủ với vợ còn phải xin phép huống hồ nhận lời đi ăn với ngoại kiều...
- Nhưng tôi nói anh biết : nếu anh từ chối tôi sẽ đuổi anh về, không cho anh đi theo nữa. Thượng cấp sẽ khiển trách anh về tội bất cẩn, và anh sẽ bị nhốt một tháng nữa vào cải hối thất. Đó là chưa nói đến việc tôi có thể sẽ liên lạc nhân viên gián điệp Tây phương...
Gã mật vụ KGB sợ cuống quít :
- Vâng, vâng, tôi xin nhận lời. Thú thật với ông, đi ăn, nhất là ăn ở nhà hàng Đa-nuýp thì ai chẳng thích, với số lương tháng chết đói bọn tối đen như tôi cả đời cũng không đám bén mảng đến tiệm ăn nổi tiếng này. Tôi xin đi, nhưng ngược lại ông cũng đừng nói đùa như hồi nãy nữa.
- Nói đùa? Hiến pháp Sô viết cấm nói đùa ư?
- Không. Nhưng vì ông dọa liên lạc với gián điệp Tây phương nên tôi sợ.
- Tôi không đọa đâu. Liên lạc thật đấy.
- Một lần nữa , tôi lạy ông.
- Hừ, nói thật mà anh không tin. Tôi là nhân viên C.I.A. đến đây với nhiệm vụ quấy phá KGB.
- Nếu ông là nhân viên C.I.A. thật sự, ông chẳng dại gì la lớn cho mọi người nghe thấy. Vả lại, thượng cấp đã cho tôi đọc hồ sờ về ông: đặc phái viên của công ty Maxman, một công ty đã giúp Liên sô được nhiều việc. Riêng ông, về tư tưởng cũng như hành động, ông là bạn thân của chúng tôi.
Văn Bình trề môi :
- Anh vẫn không tin à?
- Dĩ nhiên. Thưa ông, nhà hàng Đa-nuýp ở trong đường hẻm bên trái.
Văn Bình nhún vai bước vào tiệm ăn quen thuộc. Đúng ra, chàng mới đến phạn điểm này lần đầu, nhưng đã biết cặn kẽ từ chủ nhân đến bồi bàn, từ cách trang trí bên trong đến các món ăn nổi tiếng. Trung ương C.I.A. có một thư khố đặc biệt, chứa đựng mọi điều cần biết ở Liên sô. Về khách sạn, tiệm ăn, C.I.A. đã thu thập được những tài liệu dày bằng cuốn tự vi Larousse, chữ nhỏ li ti.
Vì vậy, tuy mới đến nhà hàng Đa-nuýp lần đầu Văn Bình cung đã biết gã chủ là Anonki, một sĩ quan Hông quân giải ngũ vì thương tích, miệng luôn luôn niềm nở, hễ thấy khách là xà ra bắt tay thân mật như đối với bạn cũ. Chàng còn biết Anonki là mật báo viên của KGB. Du khách ngoại quốc thường đến thưởng thức món cải bắp nhồi thịt, món bất hủ của nhà hàng Đa-nuýp nên bàn ăn nào cũng có máy ghi âm.
Thư khố C.I.A. là kết quả của hàng chục năm sưu tầm và của hàng trăm nhân viên lục lọi khắp nước Nga. Sở mật vụ của ông Hoàng cũng lập được một thư khố khá đầy đủ; tuy nhiên, phạm vi hoạt động có phần nặng về Viễn đông và Trung Á.
Văn Bình vừa ngồi xuống ghế thì lão chủ đã nhanh nhẫu tiến lại. Đúng như tài liệu C.I.A. miêu tả, hắn trạc ngũ tuần, mắt lươn ti hí, mũi nhòm mồm, môi mỏng lét, ngón tay sần sùi, tất cả tố cáo một tâm địa nham hiểm. Hắn cười hềnh hệch :
- Kính chào đồng chí. Đồng chí dùng món gì?
Văn Bình giơ hai ngón tay thành hình chữ V.
- Gà Côcadơ.
Gà Caucase là món ăn ruột của nhà độc tài Sít ta lin. Khi còn sống, không tuần nào là Sít không còm-măng gà Côcadơ. Cách nấu rất giản dị : bổ con gà làm tư, đem chiên mỡ với hành tây thái nhỏ, cần, cà rốt, dưa leo và bí xắt con cờ, trộn với rau nguyệt quế và rau thì-là. Đoạn bỏ vào một dúm gạo với một lít nước rồi đút lò trong vòng 75 phút. Trước khi dọn, đổ vào một chén nữa.
Kể ra nghệ thuật ẩm thực Nga cũng là hạng khá, nếu không dám đua tranh với Trung hoa và Pháp thì cũng hơn hẳn Anh Mỹ. Lý do của sự nổi tiếng này rất giản dị : trên thực tế, người Nga không có một nền chánh riêng biệt; sở di họ nấu ăn ngon là được các đầu bếp giỏi người Pháp truyền lại. Dưới thời Nga hoàng, hầu hết đầu bếp của nhà vua và triều đình đều là người Pháp. Nhờ có nhiều núi rừng và sông hồ, nước Nga đã có đủ gia dụng để khoản dãi thần khẩu, vịt trời, chim cút, heo rừng, hươu nai, thì thơm ngon không đâu bằng; nhưng đáng kể nhất là trứng caviar.
Tuy nhiên, món ăn Nga thiếu hương vị thanh tao vì có quá nhiều sữa, món nào cũng trộn sữa, và... củ cải.
Văn Bình rút thuốc lá mời gã nhân viên mật vụ. Thuốc lá Sô viết hút vào làm cuống họng khô đắng nên không gì khoái bằng điếu Salem thơm vị bạc hà của Văn Bình. Hắn trịnh trọng đập nhẹ đầu điếu thuốc vào mép ly, rồi ngửa cổ châm lửa.
Trong khi đó người hầu bàn già bưng cái khay đựng đầy thức ăn tới. Gã mật vụ nuốt nước miếng ừng ực.
- Zakútki, ngon lắm. Mời ông.
Văn Bình không lạ gì món zakútki. Nó gần giống như 4 món ăn chơi của Tàu. Tùy theo giàu nghèo, món zakútki gồm nhiều hay ít dĩa. Đại thể nó gồm những món căn bản như cá mòi xắt nhỏ, ngâm sữa, chiên hành; cá hồi thái lát trộn dầu dấm ăn gỏi; trứng caviar phết trên bánh với hành sống; bánh mì chiên bơ ruột nhồi thịt ngỗng nướng và dua leo; và chim cút chiên ngâm dấm...
Văn Bình không có cảm tình với thực đơn Nga, ngoại trừ món trứng cá caviar. Món ăn chơi zakútki lại là thứ mà chàng ghét cay ghét đắng. Dầu chàng không gọi, nhà hàng cũng vẫn cho bưng ra, vì lẽ họ cần ngoại tệ, cần ngoại kiều đến để chém cho thỏa thích. Dân bản xứ - nếu không phải là cán bộ lãnh đạo thuộc "giai cấp mới" - đừng hòng léo hành tới vì giá tiền đắt ngoài sức tưởng tượng. Lần đầu đến đất Nga, Văn Bình đã ngạc nhiên. Trong khi ở ngoài không tìm ra được miếng thịt thì tiệm ăn nào đành cho du khách cũng có thịt ê hề...
Văn Bình rót rượu vốt-ka cho gã mật vụ uống. Vốt-ka ướp lạnh mà uống buổi tối trước khi nhậu với zakútki thì tuyệt. Gã mật vụ lim dim cặp mắt, tợp một hơi ba ly. Rượu vào lời ra, hắn nói chuyện huyên thiên.
Đang ăn Văn Bình bỗng xô ghế đứng dậy, rồi buột miệng :
- Chết chửa?
Gã mật vụ đặt ly vốt-ka xuống bàn :
- Ông quên cái gì?
Văn Bình lấy khăn lau mép :
- Quên gọi điện thoại báo tin tôi sắp đến.
- Cho đồng chí Bônkốp, giám đốc sở Phát triển Ngoại thương?
- Phải.
- Ồ, tưởng gì... tôi đinh ninh là đến mai ông mới gặp Bônkốp.
- Không. Vì có lẽ mai hoặc mốt tôi phải từ giã Mạc tư khoa. Hồi nãy, Vêlana đã gọi cho tôi nói là Bônkốp chờ tôi tại phòng giấy. Tôi có thể kêu nhờ điện thoại của nhà hàng được không?
- Đuợc chứ. Anonki là bạn tôi. Vả lại, không cần là bạn cung có thể dùng điện thoại được. Ông yên tâm. Để tôi nói với Anonki.
Anonki, chủ nhà hàng Đa-nuýp dẫn xác lại. Nghe nói Văn Bình cần điện thoại, hắn cười teo toét và đứng sang bên :
- Mời ông. Điên thoại ở gần quày két.
Văn Bình uống cạn ly rượu rồi lững thững lại góc phòng. Phút quan trọng nhất trong thời gian công tác của chàng ở Mạc tư khoa sắp bắt đầu.
Vì, theo một kế hoạch định trước, chàng sẽ gọi dây nói để nhận chỉ thị tại nhà hàng Đa-nuýp, nhà hàng của mật vụ KGB. Và chàng phải gọi dây nói cho Sở Phát triển Ngoại thương Liên sô. Ai sẽ trao chỉ thị cho chàng? Trao chỉ thị bằng cách nào?
Lát nữa, chàng sẽ biết.
Ghi chú:
(1) - Cuộc phiêu lưu này của điệp viên Văn Bình Z-28 đã được tường thuật trong bộ truyện "Kẻ Thù Không Mặt"
(2) - Nhà may này là Angelo Litrico, hiện mở tiệm ở La mã, chuyên may cắt cho danh nhân thế giới. Litrico may quần áo cho Cút-Sếp từ năm 1957 đến năm 1963
Đêm Cuối Cùng Ở Mạc-Tư-Khoa
Đêm Cuối Cùng Ở Mạc-Tư-Khoa
Văn Bình đau nhói ở đan điền như vừa bị một tay cao thủ đánh vào huyệt đạo. Chàng đau nhói không phải vì nhìn thấy cô gái khả ái hồi nãy đã trở thành tội phạm của KGB, thân thể trần truồng, hai bàn tay xinh xắn bị còng tréo nằm tênh hênh trên mặt đất. Làn da trắng muốt của nàng in hằn những vạch dài ngoằn ngoèo như một đàn rắn đỏ, chứng tích của trận đòn tra tấn bằng roi gân bò.
Văn Bình đã biết rõ tác dụng của roi gân bò KGB. Loại roi này được ngâm nhiều giờ trong nước muối pha dấm thanh để giữ được tính chất vừa mềm vừa cứng. Chỉ vung roi lên là nghe tiếng vun vút ghê rợn, kẻ yếu bóng vía đã rụng rời tay chân, da thịt nổi gai ốc, chứ đừng nói là bị đánh nữa. Mỗi lằn roi quất lên thân thể là một vệt đỏ sưng vù, màu đỏ biến thành màu tím bồ quân rồi máu đen, nạn nhân đau đớn từ xương tủy ra đến bì phu, hàng tháng cũng chưa bình phục. Nhân viên KGB phụ trách việc xử dụng roi gân bò lại được huấn luyện thành thạo, họ không giáng xuống tận lực mà chỉ từ tốn quất vào những bộ phận yếu kém trên cơ thể, nơi có nhiều đầu dây thần kinh nhất.
Sở dĩ Văn Bình đau nhói ở đan điền là vì hình ảnh cô gái diễm lệ lõa lồ vừa nhắc chàng nhớ lại dĩ vãng. Phòng chàng tại khách sạn Metropole mang số 413, con số mà bất cứ điệp viên tây phương nào hoạt động bí mật ở Mạc tư khoa trong thời chiến hậu đều ghi khắc trong tâm khảm, vì 413 là số phòng của thiếu tá Kirilốp, sĩ quan KGB.
Năm 1940, Nôra, nữ vũ viên sô viết, liếc mắt đưa tình với một tùy viên sứ quán Anh quốc, nhân viên MI-6, tên là Murray, ngụ tại khách sạn Metropole. Nàng chinh phục Murray dễ dàng nhờ nàng có tấm thân khá đẹp. Nàng không phải là nhân viên mật vụ, song mật vụ đã bắt nàng phải chài Murray cho họ. Và kết cuộc là Murray vô tình trở nên một nguồi tin quý giá của mật vụ sô viết …
Văn Bình nhớ lại lúc cô gái bồi phòng nẩy nở run rẩy trong vòng tay của chàng trong căn phòng mang số định mạng 413. Nina có phải là tổ viên gián điệp của phe Penkốpky không? Hay nàng là nhân viên KGB đóng trò khổ nhục kế?
Đầu óc chàng rối beng. Chàng bỗng cảm thấy thương mến nàng vô hạn.
Bôrết dí mũi giầy vào bộ ngực căng cứng của Nina, giọng đểu cáng:
- Ngon như thế này mà chết thật uổng !
Nina nằm thiêm thiếp, hai mắt nhắm nghiền. Có lẽ nàng bị đánh đau quá nên ngất đi. Bộ ngực tròn trịa của nàng lên xuống phập phồng như mời mọc Văn Bình. Một vết roi nằm chặn lên núm vú bên trái, máu đỏ đang chảy ri rỉ. Niềm bất nhẫn dâng cao trong lòng Văn Bình, con người từng nổi tiếng có trái tim bằng đá.
Chàng vội hỏi Bôrết:
- Anh định giết nàng?
Bôrết cắn điếu xì-gà còn nguyên chưa đốt:
- Dĩ nhiên. Theo luật pháp sô viết, bọn gián điệp đều bị hành quyết bất luận là tội nặng hay nhẹ. Đồng lõa của chúng cũng bị hành quyết.
Giọng Văn Bình run run:
- Nghĩa là …
- Nghĩa là anh cũng sẽ bị hành quyết. Vì anh là đồng lõa của con bé Nina.
- Nàng khai ra tôi?
- Thành thật là chưa. Nhưng lát nữa, khi tỉnh dậy nàng sẽ khai. Phiên tòa sẽ nhóm xử trong tuần tới. Anh như toán quân bị vây hãm bốn bề, tiến cũng chết mà thoái cũng chết. Tuy nhiên, tôi sẵn sàng xóa hết tội lỗi cho anh, miễn hồ …
- Tôi đã nhắc đi nhắc lại mấy lần rồi. Tôi sẵn sàng hợp tác với các anh. Còn về số phận Nina …
- Nina không dính dáng đến vụ này. Nàng là công dân sô viết. Tòa án sô viết không thể gượng nhẹ với nàng. Nàng phải bị xét xử. Nàng sẽ bị lôi ra pháp trường đền tội để làm gương cho kẻ khác. Cái chết của nàng sẽ làm dư đảng Penkốpky thụt vòi.
- Tội nghiệp cho nàng quá !
- Kể ra tôi cũng tội nghiệp cho nàng. Song luật pháp là luật pháp, tôi không thể vị tình riêng mà …
- Tôi van anh, tôi lạy anh … anh hãy tỏ lòng khoan hồng mà tha cho nàng.
- Không được đâu. Tôi chưa phải là thủ lãnh an ninh cao cấp ở Mạc tư khoa. Trên tôi còn có nhiều người quan trọng hơn nữa.
- Anh sẽ trình bày lý do trả tự do cho thượng cấp hiểu.
- Ồ, anh đã sống trong nghề tình báo chắc không lạ gì vấn đề đổi chác. Tôi chỉ có thể yêu cầu thượng cấp tha mạng sống cho Nina nếu anh nhận hết các điều kiện của tôi …
- Trời ơi !
- Anh đừng lo. Điều kiện của tôi không đến nỗi hóc búa lắm đâu. Trước anh, nhiều nhân viên gián điệp tây phương cũng đã nhận. Chúng tôi đối xử với nhân viên ngoại quốc rất hậu. Thế nào anh bằng lòng hay từ chối?
Văn Bình nín lặng. Bôrết nói tiếp:
- Tục ngữ Nga có câu “im lặng là bằng lòng”. Vả lại, bất cứ ai ở địa vị anh trong lúc này cũng bằng lòng. Công việc xong, anh xẽ được tự do về Mỹ, ngoài ra, anh còn được thưởng một số tiền lớn.
- Còn bản khế ước với bộ Ngoại thương?
- Sáng mai, anh ký cũng chưa muộn. Bản khế ước này sẽ giúp anh đi về nhiều lần không sợ bị nghi ngờ. Nếu tôi tính không lầm thì sau khi khấn trừ các phí tổn quảng cáo trên báo chí, truyền thanh và truyền hình, công ty Maxman còn lời chừng 50.000 đô-la.
- Anh tính rất đúng.
- Trong số 50.000 đô-la, công ty sẽ chia cho anh 20%, nghĩa là 10.000. Chúng tôi quyết định thưởng anh 50.000 riêng nữa ; vị chi chuyến này anh hốt được cả thảy 60.000 đô-la. Với món tiền này anh có thể tậu được một biệt thự lớn. Trong tương lai, anh còn được lãnh nhiều món tiền khác nữa. Thành thật mà nói, tôi có đủ áp lực bắt anh phải làm theo ý muốn ; riêng một vụ ân ái với Vêlana ngay tại văn phòng Sở Phát triển Ngoại thương đã đủ, phương chi còn có lời khai của Nina trong điệp vụ Bống Ma do C.I.A. bố trí với dư đảng Penkốpky nữa … Vậy mà tôi vẫn nghĩ đến thưởng tiền, thưởng thật nhiều tiền. Sự biệt đãi này cần được anh ghi nhớ. Thử hỏi có bao giờ C.I.A. thưởng cho anh 60.000 đô-la cho một công tác không?
- Thưa anh không. Không bao giờ.
- Dĩ nhiên. Hạng nhân viên giao liên như anh chỉ được trả lương tháng 1.000 đô-la là nhiều nhất. Nhân viên tân nhập lãnh chừng 3 đến 500 đô-la. Còn ăn lương từng vụ thì chuyến đi sang Mạc tư này anh chỉ có thể lãnh từ 2.000 đến 3.000 đô-la. Bị bắt, hoặc bị đưa ra tòa, hoặc bị chết, anh phải ráng chịu, vì số tiền 3.000 đô-la thâu gồm cả phụ cấp nguy hiểm và bồi thường sinh mạng. Cuộc sống con người đã bị C.I.A. đánh giá tối đa là 3.000 đô-la … Theo anh nhận xét, cơ quan nào hậu hĩ đối với nhân viên, KGB hay CI.A.?
Văn Bình lại nín lặng. Bôrết đã nói đúng phần nào. Độc giả của các bộ truyện gián điệp nổi tiếng thường nghĩ rằng nhân viên do thám tây-phương lãnh lương lớn hơn lương tổng thống Mỹ, nhưng sự thật lại khác hoàn toàn. Họ cũng ăn lương, lương tháng hoặc lương khoán, như mọi nhân viên chức chính quyền khác. Lương họ dĩ nhiên nhiều hơn lương của giới “sớm vác ô đi tối vác về” lại được kèm thêm một số phụ cấp đặc biệt, nhưng chỉ nhiều gấp đôi, gấp ba là cùng. Mang số lương gấp đôi, gấp ba ấy so sánh với tính mạng con người ai cũng thấy là quá rẻ.
Hàng ngàn, hàng vạn nhân viên điệp báo trên thế giới đã chấp nhận số tiền quá rẻ ấy, trong số có Văn Bình. Nếu chàng tiêu xài phung phí, ăn chơi đế vương, đó không phải là do tiền lương mà ra. Mà là những món tiền “trời ơi đất hỡi” do các sở điệp báo bạn trả công.
So sánh tiền lương giữa nhân viên điệp báo tây-phương và cộng sản thì nhân viên cộng sản lãnh nhiều hơn. Song đó chỉ là đặc quyền của một thiểu số. Các cơ quan điệp báo cộng sản như KGB, Smerch, và tình báo Sở thường ăn quỵt tiền thưởng đã hứa.
Bôrết tiến đến trước mặt Văn Bình, và thân mật vỗ vai chàng.
- 60.000 đô-la ! Anh làm việc cả đời như tôi mọi ở Hạ uy di cũng không dành dụm được số tiền khổng lồ ấy. À anh đến An-ba-ni để làm gì nhỉ?
- Cũng như ở Mạc tư khoa. Tôi đến thủ đô An-ba-ni để thương lượng về việc tổ chức một cuộc triển lãm lưu động trên khắp nước Mỹ. Công ty Maxman đòi 300.000 đô-la. Sứ quán An-ba-ni tại Hoa thịnh Đốn chê đắt, họ lại không có quyền định đoạt nên tôi phải đích thân đi Tirana.
- Nghĩa là anh sẽ lưu lại Tirana nhiều ngày?
- Vâng. Chính phủ Anbani rất dễ dãi đối với du khách Mỹ. Họ có cảm tình sẵn với công ty quảng cáo Maxman nên còn dễ dãi với tôi hơn nữa.
- Ngược lại chính phủ Anbani lại coi người Nga như những kẻ phong cùi. Vì, như anh đã biết, họ là đồng minh chặt chẽ của Trung quốc. Tuy mối bang giao với Liên Sô chưa bị gián đoạn trên nguyên tắc nhưng sự gián đoạn đã xảy ra trên thực tế. Họ không ưa gì Mỹ, song họ cần hòa dịu để đáp ứng lại chính sách mới của Mỹ đối với Trung quốc. Từ nhiều năm nay các nhân viên tình báo sô viết không thể hoạt động công khai được nữa.
- Tôi hiểu rồi. Anh muốn nhờ tôi đến Tirana để làm công việc giao liên.
- Chúng tôi không cần anh làm giao liên. Vì hệ thống bí mật của chúng tôi vẫn tiếp tục hoạt động hữu hiệu. Tôi muốn giao cho anh một công việc khác hơn.
- Nguy hiểm?
- Dĩ nhiên. Hoạt động trên đất lạ không có công việc nào là không nguy hiểm. Anh là công dân Mỹ, hoạt động ở Pháp-Anh là những quốc gia đồng minh mà còn nguy hiểm, huống hồ hoạt động ở Anbani, một quốc gia thù nghịch.
- Tôi đến Tirana hoàn toàn với mục đích thương mãi, C.I.A. không yêu cầu tôi liên lạc tình báo ở đó.
- Ấy, tôi chỉ đưa ra một thí dụ. Mật vụ Anbani sẽ không tiếp đón anh một cách nồng hậu nếu họ khám phá ra anh là nhân viên chìm của C.I.A. Nhân tiện, tôi cần báo anh biết là mật vụ Anbani rất tàn nhẫn, còn tàn nhẫn gấp chục lần KGB. Họ không còng tay anh, áp giải ra phi trường, tống xuất anh lên chuyến máy bay sớm nhất đâu. Họ sẽ giam giữ anh hàng tuần, hàng tháng dưới hầm để tra tấn. Họ bắt anh khai sự thật, song khi anh khai sự thật họ lại cho là anh láo, và cuối cùng là họ mang anh ra pháp trường để lăng trì. Mật vụ Anbani họ được nhiều phương pháp tra tấn của Tình báo Sở Trung quốc, nên rất thạo về môn lăng trì. Anh có biết lăng trì là gì không?
Hừ, người Mỹ các anh là một dân tộc văn minh chắc không biết đâu. Để tôi giảng anh nghe. Lăng trì, nghĩa là tùng sẻo, hình phạt kinh khủng nhất của nước Tàu cổ xưa. Nạn nhân bị cắt từng miếng thịt cho đến chết. Trong khám đường của mật vụ Anbani có một khu riêng về lăng trì, dưới sự chỉ dẫn của một cố vấn Trung quốc.
Nạn nhân bị nhốt trong một cái lồng thép mắt cáo như cái áo giáp, lồng thép được xiếp lại thật chặt, làm cho da thịt nạn nhân lồi lên từng cục. Người ta lấy lưỡi dao bén cắt những cục thịt này ra khỏi thân thể, mỗi ngày một cục. Mật vụ Anbani tổ chức những cuộc lăng trì đúng theo truyền thống Trung quốc của thế kỷ thứ 14. Có 4 hình thức lăng trì, từ nặng đến nhẹ, nặng thì bị xẻo 120 miếng thịt, nhẹ hơn thì 72, nhẹ hơn nữa thì 36; nhẹ nhất là 24 miếng. Cuộc tùng xẻo diễn ra theo thứ tự như sau: 1 và 2 là cắt mí mắt; 3 và 4 là xẻo thịt vai; 5 và 6 là xẻo vú; 7 và 8 là xẻo thịt cánh tay; 9 và 10 là xẻo thịt nách; 11 và 12 là xẻo thịt mông đít; 13 và 14 là xẻo bắp chân; 15 và 16 là xẻo gót chân; 17 và 18 là chặt bàn tay …
Văn Bình ngắt lời, sốt ruột:
- Tôi hiểu rồi. Tôi sẽ phải làm những gì ở Tirana?
Bôrết chắt lưỡi:
- Anh không thích nghe thì thôi. Tuy nhiên, anh cũng nên biết thêm là thủ tục lăng trì của Mật vụ Anbani còn chứa đựng nhiều chi tiết thật thú vị. Họ không tuần tự đi từ xẻo mí mắt đến chặt tay chân đâu mà tùng xẻo theo lối xổ số. 24 hoặc 36 con dao được bỏ chung vào một cái hộp lớn, mỗi con dán một mảnh giấy ghi từng bộ phận của cơ thể, nhân viên mật vụ vớ được con dao ghi bộ phận nào thì cắt bộ phận đó. Ôi chao, riêng cái việc lăng trì này cũng kiếm được khối tiền. Muốn được chết ngay, nạn nhân phải hối lộ để con dao thứ nhất rút ra khỏi hộp được mang chử “tim”. Chỉ cần đâm một phát trúng tim là khỏe ru …
Văn Bình dằn nắm tay xuống bàn giấy rầm rầm:
- Nói đi … nói đi … tôi sẽ phải làm những gì ở Tirana?
Bôrết không tỏ vẻ tức giận. Trái lại, hắn còn nhoẻn miệng cười, vui vẻ:
- Tốt lắm, anh cứ tiếp tục đập bàn nữa đi. Cữ chỉ vừa rồi của anh đã chứng tỏ là anh quá sợ. Thần kinh anh đang căng thẳng đến cực độ, nếu tôi kể tiếp về hình phạt lăng trì anh sẽ đứng tim mà chết. Như vậy cũng đã đủ rồi, phải không anh? Nào, bây giờ chúng ta bắt tay vào việc …
Bôrết bấm chuông. Hai vệ sĩ bước vào phòng bằng hai cửa hông đối điện.
Bôrết hất hàm:
- Mang cô gái này ra ngoài, lấy quần áo cho mặc, săn sóc thuốc men và cho ăn uống tử tế, nghe không? À, bưng ghế vào đây … cái ghế dựa thật êm ấy …
Một phút sau, hai gã vệ sĩ đặt một cái ghế dựa lớn bọc da đen trước bàn. Bôrết chìa tay, giọng thân mật:
- Anh ngồi xuống cho đỡ mỏi chân. Tôi sơ ý quá, từ nãy đến giờ bắt anh đứng mãi.
Văn Bình cười thầm. Chàng thừa biết là Bôrết không hề sơ ý. Bắt nạn nhân đứng trong khi hỏi cung là một trong các mánh khóe sơ đẳng của Công an khoa học. Bôrết đánh phủ đầu chàng bằng sự hâm dọa. Giờ đây đến sự mua chuộc.
Bôrết dặn vệ sĩ:
- Ô kìa, tụi mày? đứng đó làm gì? Lấy chai vốt-ka ngon nhất của tao ra đây và cả đồ nhắm ngon nhất nữa.
Đoạn quay sang Văn Bình:
- Anh uống rồi sẽ thấy. Khách sạn Metropole là nơi có nhiều thứ rượu vốt-ka thượng hảo hạng. Nhưng họ chỉ có được thứ Cô-sắc mà thôi. Thứ rượu mà Nina bưng lên phòng cho anh (Văn Bình giả vờ nhìn Bôrết bằng cặp mắt sửng sốt pha lẫn sợ hãi). Rượu của tôi là rượu đặc biệt từ Uy-cờ-ren chở tới. Như anh đã hiểu, Uy-cờ-ren là quê hương, là thiên đường của vốt-ka ; trên đất Nga chưa có vùng nào mà rượu vốt-ka đậm đà, hấp dẫn bằng ở vùng Uy-cờ-ren. Chủ tịch đoàn Tối cao Sô viết lập riêng một nhà máy tại Uy-cờ-ren, tuyển lựa nguyên liệu tốt nhất và công nhân khéo nhất để nấu vốt-ka đặt biệt. Chỉ có các đồng chí lãnh đạo trong điện Cẩm Linh mới được uống. Hôm qua, đại tướng Sê-rốp tặng tôi một chai. Lệ thường, tôi phải để dành đến một dịp trang trọng mới khui rượu. Anh là thượng khách của tôi hôm nay đấy …
Văn Bình khép nép:
- Xin cám ơn anh.
Bôrết rót rượu vào những cái ly nhỏ xíu xếp thành hàng dài trên cái khay vàng tây. Loại ly này bằng pha lê đắt tiền do Pháp chế tạo. Cái khay vàng cũng phát xuất từ một nhà kim hoàn danh tiếng ở kinh đô ánh sáng Ba lê.
Văn Bình đếm được cả thảy 12 cái ly, dung tích mỗi cái bằng hai chén hạt mít của Việt nam. Nhận thấy vẻ mặt Văn Bình băn khoăn (hắn không thể biết được rằng Văn Bình đã băn khoăn một cách giả tạo), Bôrết bèn cắt nghĩa:
- Anh chưa hiểu tại sao chỉ có hai người uống mà phải dùng đến 12 cái ly phải không? Đây là một lối uống vốt-ka phong nhã và thượng lưu. Vốt-ka cũng như cỏ-nhát của Pháp chỉ nên uống nguyên, không pha sôđa hoặc chêm đá lạnh. Và chỉ nên uống trong ly nhỏ, và uống luôn một hơi …
Uống vốt-ka đúng lề lối nhất là đợi khách quý đến nhà mới bỏ chai rượu vào trong tủ lạnh, cùng với bộ ly. Khi nào bộ ly mát rợi là chai rượu có thể uống được. Vốt-ka rót vào ly lớn như huýt-ky hoặc la-ve thì chẳng thú vị gì cả. Nhưng nếu rót vào ly nhỏ, uống đến đâu rót đến đấy thì cũng dở không kém. Vì thế, hai người uống phải sắm một bộ song ẩm gồm 12 cái ly. Anh thử nhìn màu rượu xem? Anh có thấy nó trong vắt như pha lê không?
Đưa lên mũi sẽ không ngửi thấy mùi vị, nhưng uống vào thì, trời đất ơi, ruột gan đang lạnh bỗng ấm lại, trời đổ tuyết bên ngoài, hàn thử biểu dưới không độ mà người ta có cảm giác như mùa hè trên bãi biển …
Vệ sĩ bưng ra một đĩa chả nướng thơm phức. Bôrết xăm cho Văn Bình một miếng rồi nói:
- Đây là món koulebiaka, món ruột của người Nga. Nó được làm bằng thịt hoặc cá, uống vốt-ka mà thiếu chả koulebiaka thì cũng như nằm trên giường nệm bông trong phòng có lò sưởi mà không có đàn bà đẹp một bên …
Bôrết cụng ly với Văn Bình, vẻ mặt hân hoan. Hắn uống một hơi 6 ly vốt-ka. Hắn cầm cái ly cuối cùng, đưa lên khỏi đầu rồi ném mạnh xuống đất. Cái ly vỡ nát ra thành nhiều mảnh, Bôrết cười nói:
- Uống rượu vốt-ka thường phải đập bể ly như vậy mới đúng điệu … Ơ kìa, anh uống đi … Sợ say hả? Chẳng sao đâu. Chúng tôi có một loại thuốc đặc biệt, mỗi viên chỉ nhỏ bằng hạt đậu, đang say bi tỉ chiêu vào một viên là trong vòng 10 phút sẽ giã rượu, tỉnh lại như chưa hề uống rượu … Chúc anh ngày mai lên phi cơ với phái đoàn khoa học gia Trung quốc được thượng lộ bình an.
- Tôi sẽ đi Tirana với một phái đoàn khoa học gia Trung quốc?
- Phải.
- Họ ghé lại Mạc tư khoa?
- Phải.
- Nêu tôi không lầm, từ nhiều tháng nay các viên chức Bắc kinh không được cấp chiếu khán đến Mạc tư khoa. Và Bắc kinh cũng ra lệnh cho mọi phái đoàn xuất ngoại sang Đông Âu của họ tránh xa Mạc tư khoa.
- Nhưng lần này lại khác. Giữa Liên sô và Trung quốc đang có sự thương thuyết tại Đông Bá linh về các vụ xung đột biên giới. Nên chúng tôi đã cho phép họ ghé lại. Mặt khác, phái đoàn từ Trung – Á bay đến, không thể không dừng tạm tại Mạc tư khoa để cho phi cơ tiếp tế nhiên liệu. Phái đoàn gồm 3 khoa học gia nổi tiếng và một số cộng sự viên thân cận.
- Họ chuyên về những bộ môn khoa học nào?
- Theo lời họ nói với sứ quán Liên sô tại Bắc kinh thì 3 khoa học gia này chuyên về địa chất họ. Gần đây, Anbani đào được môt số giếng dầu. Phái đoàn Trung quốc đến Tirana để làm cố vấn về phương diện đào khoét và khai thác giếng dầu.
- Tôi không tin rằng phái đoàn Trung quốc chỉ gồm các khoa học gia địa chất.
- Phải. Họa chăng chỉ có con nít mới tin như vậy. Cả 3 nhà bác học Tàu đều là chuyên viên lỗi lạc về kỹ thuật nổ võ khí nguyên tử.
- Chuyên viên nguyên tử lực ở Trung quốc rất khan hiếm, còn khan hiếm hơn nước trên sa mạc nữa, họ làm gì có nhiều để gửi qua Anbani những ba người có tiếng tâm như vậy. Có lẽ họ chỉ là chuyên viên trung cấp. Theo tôi …
- A, anh lại về hùa với Bắc kinh rồi ư? Anh vểnh tai lên đển nghe tôi trưng bằng cớ. Tôi là một trong số ít người am hiểu tình hình thí nghiệm nguyên tử ở Hoa lục hơn ai hết. Vì năm 1968, tôi có chân trong phái đoàn kỹ thuật sô viết đến thăm Viện Khảo cứu Nguyên tử Bắc kinh, và tôi còn là người chở đến Viện này bộ điện trì thí nghiệm công suất 6.500 kilô-oát do Liên sô viện trợ. Trái bom nguyên tử đầu tiên của Trung quốc được chế tạo do công trình của 50 khoa học gia, trong số có 23 trước kia đã phục vụ tại Tây phương. Khoa học gia lỗi lạc nhất thường được coi là cha đẻ của trái bom nguyên tử đầu tiên là bác sĩ Tsien-San-tsang, cựu giảng viên vật lý tại đại học đường Sọt-bon bên Pháp. Và anh biết 3 nhà bác học sắp đến Mạc tư khoa ngày mai có liên hệ như thế nào với Tsien-San-tsiang không?
- Không. Nếu biết, tôi đã không hỏi.
- Họ đều là cộng sự viên thân mật của Tsien. Đáng kể nhất là Chu-Yao, cánh tay phải của Tsien, Yao chuyên về điện tử.
- Như vậy phái đoàn Trung quốc đã bị lộ tẩy rồi còn gì … Các anh chỉ cho nhiếp ảnh viên đến phi trường chụp hình Chu-Yao, rồi đăng tùm lum lên báo. Bắc kinh sẽ không còn dám chối cãi nữa.
- Không được. Qua tin tức bí mật, chúng tôi biết Chu-Yao là chuyên viên nguyên tử. Nhưng trên giấy tờ hắn là địa chất gia. Chúng tôi không tìm được bằng chứng cụ thể nào về việc hắn đội lốt. Cho dẫu hắn bị lộ tẩy là khoa học gia nguyên tử nữa thì chúng tôi cũng chẳng làm gì được. Vì việc hắn định làm chưa xảy ra …
- Việc gì?
- Nổ một hỏa tiễn nguyên tử.
- Ở Anbani?
- Phải, ở Anbani.
- Trời ơi !
- Hừ … đừng kêu trời nữa, hãy bắt tay vào việc đi … Hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử này do Trung quốc chế tạo tại Lob-nor dưới quyền điều khiển của Tsien-San-tsiang. Phái đoàn Chu-Yao được Tsien phái đến Anbani để lập giàn phóng và khai hỏa …
- Khai hỏa thí nghiệm, hay là …
- Đồ ngu … Nếu họ đến Anbani chỉ để khai hỏa thí nghiệm thì chúng tôi chẳng phải nhờ đến anh, chẳng phải huy động toàn bộ nhân viên ở Hoa kỳ điều tra về anh, bố trí cho anh qua Liên sô, và yêu cầu Vêlana làm tình say sưa với anh … Hỏa tiễn này không nổ chơi, nổ thí nghiệm, mà là nổ thật …
- Tầm bắn của nó được bao nhiêu cây số?
- Độ hai, ba ngàn. Nghĩa là có thể bắn tan bất cứ thị trấn nào ở Âu châu.
- Anh đã khám phá ra vị trí của giàn phóng chưa?
- Khi Anbani còn giao thiệp mật thiết với Liên sô, thủ tướng Cút-Sép đã cho thiết lập một giàn phóng ở gần Tirana. Liên sô đã cung cấp hỏa tiễn cho họ. Nhưng cũng tương tự như Hoa kỳ đối với các quốc gia trong minh ước Bắc Đại tây Dương, các hỏa tiễn này không có đầu đạn nguyên tử. Sau đó, Anbani hục hặc với điện Cẩm linh, các chuyên viên hỏa tiễn sô viết bị rút về. Giờ đây, họ đã di chuyển giàn phóng đến nơi khác. Trung quốc chỉ cần lấp đầu đạn nguyên tử vào là … a lê hấp …
- Họ sẽ bắn qua Liên sô?
- Điều này, chúng tôi chưa biết. Họ có thể phóng vào lãnh thổ Liên sô và đổ tội cho Hoa kỳ. Thế chiến thứ ba có thể nổ bùng trong giây phút nếu Mạc tư khoa bị hỏa tiễn tàn phá, và Liên sô sẽ bấm nút phá tan Hoa kỳ.
- Ngược lại. Hoa kỳ cũng sẽ bấm nút phá tan Liên sô.
- Hai đại cường quốc nguyên tử sẽ bấm nút phá tan lãnh thổ của nhau một cách vô ích. Ngao cò tranh chấp, ngư ông sẽ thủ lợi. Và ngư ông này là ai, hẳn anh đã đoán biết.
- Nhưng nếu họ không bắn vào Liên sô?
- Thì họ vẫn có thể bắn vào một mục phiêu nào khác. Ba lê, hoặc Tây Bá linh chẳng hạn …
Một ngày kia, thành phố Ba lê lãnh một trái hỏa tiễn nguyên tử, hàng trăm ngàn người chết. Tây phương sẽ nghi cho chúng tôi. Pháp cũng có hỏa tiễn nguyên tử. Pháp sẽ bấm nút. Chúng tôi sẽ bấm nút trả đũa. Rồi Hoa kỳ sẽ nhảy vào vòng chiến. Quá nửa nền văn minh của nhân loại sẽ bị tiêu diệt.
- Trong khi ấy Trung quốc vẫn tọa hưởng thái bình …
- Đúng, Sở dĩ thế giới ngày nay còn được sống trong hòa bình là vì có hai đại cường quốc Nga-Mỹ cầm chịch. Nếu Nga-Mỹ bị kiệt quệ, Trung quốc sẽ nắm ngôi vị bá chủ. Không riêng gì các anh, chúng tôi cũng không ưa cộng sản Trung quốc. Tôi nghĩ rằng các anh cũng như chúng tôi đều có bổn phận đoàn kết với nhau để loại trừ hiểm họa sắp đến.
- Nghĩa là tôi sẽ đi Tirana để tháo gỡ đầu đạn nguyên tử.
- Phải. Chúng tôi hoàn toàn đặt tin tưởng nơi anh.
-Nhưng tôi nhận thấy anh lạc quan quá nhiều. Tìm ra giàn phóng đã khó, tháo gỡ đầu đạn còn khó hơn nữa. Một mình tôi không tài nào làm nổi, ít ra …
- Điều cần thiết là anh có sẵn sàng hợp tác, và là hợp tác thành thật hay không? Nếu anh sẵn sàng, chúng tôi sẽ tích cực giúp đỡ …
- Về vấn đề hợp tác, anh đã hỏi nhiều lần và tôi cũng đã trả lời nhiều lần.
- Vậy anh ký vào đây.
- Trời ơi, anh vẫn chưa tin tôi sao?
- Tôi có bổn phận lập hồ sơ về anh và báo cáo với cấp trên. Một công tác quan trọng như vậy phải có giấy tờ, không thể nói bằng miệng được.
- Ừ thì ký. Anh chắc lép thật. Đã nắm đầu cán trăm phần trăm mà anh vẫn chưa bằng lòng.
Bôrết đẩy một tờ giấy đánh máy đến trước mặt Văn Bình:
- Anh nên đọc lại trước khi hạ bút ký.
Văn Bình chắt lưỡi:
- Chẳng sao. Tôi có thói quen ký không cần đọc lại.
Chàng ký tháu tên Kêvin rồi ném tờ giấy về phía Bôrết, dáng điệu khinh bạc:
- Bây giờ tôi quay về khách sạn được chưa?
- Chưa. Còn một vài chi tiết nữa … Phái đoàn khoa học gia Trung quốc gồm cả thảy hơn 20 người.
- Anh vừa nói 3, giờ đây lại nói 20.
- 3 khoa học gia và 17 phụ tá. Bề ngoài, họ là thư ký, chuyên viên hành chính, nhưng thật ra họ đều là sĩ quan tình báo và an ninh.
- Có mấy phụ nữ?
- 2. Anh đánh hơi đàn bà tài thật.
- Chẳng có gì là tài cả. Hầu hết phái đoàn Trung quốc xuất ngoại một thời gian dài từ 2,3 tháng trở đi, đều mang phụ nữ theo. Phụ nữ đây không phải là vợ của nhân viên phái đoàn. Mà là nữ thư ký. Những nữ thư ký này làm việc văn phòng thì ít mà phụ trách ủng hộ sinh lý cho các cấp bộ thì nhiều.
- Chuyến đi này hơi khác. Vì trong sô phụ nữ có con gái của Chu-Yao. Cô bé này học về cơ khí tại đại học đường Tirana được về Bắc kinh nghĩ hè. Nhân tiện nàng theo cha đi Anbani để nhập trường.
- Nàng đẹp không anh?
- Không biết.
- Thôi, anh đừng giấu nghề nữa. Trước khi kết nạp tôi, anh đã nghiên cứu tường tận. Vòng ngực cô bé rộng bao nhiêu phân, nàng mặc xú-chiêng hiệu vì, màu gì, anh cũng biết, huống hồ …
- Nói trước sợ gặp anh sẽ mất hứng. Anh yên tâm, Chu-Linh rất đẹp.
- Tên nàng là Chu-Linh?
- Phải, Chu-Linh. Đúng 18 tuổi. Mặt nàng đẹp như hoa hậu. Da nàng còn trắng hơn tuyết nữa.
- Nếu tôi đoán không lầm, anh muốn trổ tài tán tỉnh và chinh phục nàng.
- Anh không lầm chút nào. Tôi nhận thấy anh có thiên tài về môn này. Khả năng xuất chúng của anh đã được chứng tỏ đối với Nina và Vêlana. Tôi tin tưởng anh sẽ thành công với Chu-Linh …
- Hừ … con gái nước Tàu ngày nay thay đổi hoàn toàn, anh đừng quá đặt tin tưởng vào tôi mà thất vọng đau đớn.
- Chu-Linh rất hợp với anh. Rồi anh sẽ thấy là hợp tác với chúng tôi có lợi. Lợi gấp chục lần hợp tác với C.I.A. Chúng tôi sẽ lo liệu cho anh đầy đủ.
Văn Bình nói đùa:
- Kể cả khoản ái tình nữa chứ?
Giọng Bôrết vẫn chững chạc:
- Dĩ nhiên. Lát nữa, có xe hơi riêng của tôi chở anh về tận lữ quán. Và Vêlana đợi anh trong phòng.
- Nàng sẽ ở lại với tôi?
- Dĩ nhiên.
Văn Bình đứng vụt dậy:
- Thế thì còn gì bằng …
Bôrết cũng đứng lên theo:
- Từ trước đến nay chưa có điệp viên ngoại quốc nào được trọng đãi như anh. Đưa Vêlana đến Metropole làm vợ anh đêm nay, tôi đã đánh một nước cờ táo bạo. Bônkốp sẽ tức giận. Một số nhân vật cao cấp nặng tình với Vêlana cũng sẽ bất bình. Tôi hy vọng anh đền đáp sự trọng đãi này một cách xứng đáng.
Văn Bình nhoẻn miệng cười rất tươi. Chàng đã nhìn thấu ruột gan trùm phản gián Bôrết. Hắn cung cấp khoái lạc xác thịt cho chàng, chẳng phải vì trọng đãi chàng. Mà vì một lý do khác. Đêm cuối cùng ở Mạc tư khoa có thể cũng là đêm cuối cùng mà chàng được ôm ấp đàn bà. Món ân ái của Vêlana chỉ là đặc ân dành cho tử tội trước giờ hành quyết.
Hai tên vệ sĩ Mông cổ lực lưỡng, tay chân lông lá, đầu dẹp, cổ vuông lại hiên ra. Nhưng lần nầy thái độ lạ lùng và khinh khỉnh của chúng đã nhường chỗ cho nụ cười thân mật. Chúng mời chàng ra thang máy.
Xuống nhà dưới Văn Bình nhìn quanh quất một cách băn khoăn. Một tên vệ sĩ hỏi chàng:
- Anh muốn tìm thằng cha ngồi đợi phải không?
Văn Bình gật đầu. Gã vệ sĩ nói:
- Tôi cho phép hắn về ngủ rồi. Từ phút này trở đi, anh được tự do hoàn toàn. KGB sẽ không cho nhân viên đi theo anh nữa.
Không khí của lữ quán 5 tầng Metropole với lối kiến trúc cổ xưa xấu xí, những bao lơn có lan can sắt đen sì, những lùm cây um tùm bí mật, những ngọn đèn nê-ông trơ trẽn đã trở nên thân thiện hơn bao giờ hết. Văn Bình nện gót giầy trên hành lang rộng lót đá cẩm thạch giữa những riềm cửa dạ nhung đỏ đầy bụi, cốt gây tiếng động để đùa hỡn đám nhân viên khách sạn vốn quen với sự im lặng câm lì. Nhưng chàng không thấy ai hết. Chắc Bôrết đã ra lệnh cho mọi người lui vào trong phòng.
Hai tên vệ sĩ đưa chàng đến chân cầu thang rồi trở ra. Vêlana đứng đợi Văn Bình sau cửa. Nàng bá cổ chàng hôn chùn chụt:
- Em yêu anh quá !
Văn Bình xô nàng ra:
- Tôi biết rồi. Cô yêu tôi vì Bôrết hạ lệnh.
Vêlana trề môi:
- Anh đừng vội khinh em. Bôrết có quyền hạ lệnh cho em đến phòng anh và chiều chuộng anh. Nhưng chiều chuộng cũng có nhiều cách. Nếu em không có cảm tình với anh, anh sẽ phải ôm ấp một thân thể lạnh lùng, vô tri vô giác. Anh trả lời đi, anh muốn làm tình với một cây gỗ, hay muốn làm tình với một người đàn bà yêu anh thật sự?
Văn Bình bẹo má nàng:
- Anh chịu thua rồi.
Thấy một khay thức ăn sang trọng đặt sẵn trên bàn, Văn Bình hởi:
- Em đói ư?
- Không Bôrết dặn khách sạn đem lên cho anh.
- Hừ … ăn no để mà chết ư !
- Anh tham lắm. Từ giờ sáng đến đang còn nhiều thời giờ. Anh cứ ăn uông đi, em xin đợi.
Văn Bình với chai vốt-ka trên bàn. Vêlana ngăn lại:
- Để em rót vào ly cho anh.
- Anh không đám. Để em pha thuốc vào cho anh uống ấy à?
- Hồi nãy khác, bây giờ khác.
Nàng bưng ly rượu kề môi chàng. Chàng uống một hơi hết sạch. Nàng thủ thỉ:
- Anh giỏi ghê. Em pha cả viên thuốc mà anh uống tỉnh khô. Phòng thí nghiệm cho biết từ trước đến nay chưa ai chịu nổi nửa viên.
- Em tiếc ư?
- Không. Nếu tiếc, em đã không đáp lại một cách cuồng nhiệt.
Vêlana cởi áo choàng da, vắt lên đầu giường. Bên trong, nàng vẫn không mặc gì hết. Thân thể trần truồng nàng nằm dài trên nệm, hai tay đan sau gáy, để ưỡn bộ ngực nở nang, miệng nàng cười chúm chím với chàng:
- Nằm xuống với em, đi anh?
- Văn Bình nhún vai:
- Để anh tắm cái đã.
Văn Bình huýt sáo miệng bước vào buồng tắm. Chàng tắm rềnh rang đến gần nửa giờ chưa xong. Lệ thường chàng tắm rất nhanh, kể cả nước nóng và nước lạnh. Nằm bên ngoài Vêlana phải giục:
- Mau lên anh.
Đúng một giờ sau Văn Bình mới khệnh khạng bước ra, trên người vẫn nguyên y phục chỉnh tề Vêlana nhỏm vậy sửng sốt:
- Ồ kia, tại sao anh …
Văn Bình cũng giả vờ sửng sốt:
- Em muốn anh làm gì?
Vêlana phụng phịu quay mặt vào tường:
- Anh không thích thì thôi, chẳng cần phải đóng kịch nữa.
Văn Bình lẳng lặng rút thuốc ra hút. Chàng không giả vờ hất hủi như nàng tưởng. Sự thật là cõi lòng đang cháy phừn phựt của chàng bỗng dưng nguội hẳn như thể bị dầm trong biển nước đá. Văn Bình là người đam mê, nhưng lần này ông Hoàng đã dặn kỹ. Dầu đam mê đến mấy chàng cũng phải nhớ.
Nhớ tới công tác do ông Hoàng giao phó.
Nhớ tới cuộc gặp gở với Triệu Dung tại phi trường Buốc-giê, Ba lê.
Cuộc gặp gỡ này xảy ra hoàn toàn bất ngờ. Khi vào phòng giấy của Sở tại Sài gòn. Văn Bình chỉ được ông tổng giám đốc yêu cầu đi Hạ uy di để chờ ngày qua bên kia bức màn sắt, hoạt động biệt phái cho C.I.A. Ông Hoàng dặn chàng đợi lệnh của Sở. Đây là lệnh riêng, ông Hoàng không cho C.I.A. biết.
Nhác thấy Triệu Dung, Văn Bình định kêu tên, song vội kềm chế vì nhà ga quá đông. Có thể C.I.A. cho người theo dõi chàng cho đến khi phi cơ cất cánh. Cũng có thể phản gián sô viết đánh hơi thấy và cho người theo dõi chàng. Vì vậy chàng phải thận trọng.
Triệu Dung là cánh tay mặt của ông Hoàng. Chắc phải là việc hệ trọng bậc nhất ông Hoàng mới sai Triêu Dung hối hả qua Pháp, đợi Văn Bình tại sân bay.
Triệu Dung ngồi nhấm nháp cà-phê, cuốn nguyệt san Constellation mới nhất mở rộng trước mặt. Ai cũng tưởng chàng đang say sưa với tờ tạp chí. Riêng Văn Bình biết là Triệu Dung cúi xuống nhưng không đọc. Mấy phút sau, Triệu Dung đứng dậy, đút cuốn Constellation vào túi vét-tông rồi tiến lại phòng rửa mặt.
Văn Bình lại quầy két mua một tờ constellation tương tự. Triệu Dung vừa lau xong tay thì Văn Bình bước vào. Hai tờ báo được đổi từ túi người này sang túi người kia trong loáng mắt. Xong xuôi, Triệu Dung trở ra, không nói với bạn nửa lời. Văn Bình vào cầu tiêu, rút trong tờ báo ra một mảnh giấy nhỏ chữ đánh máy li ti.
Nội dung như sau:
Về công việc với C.I.A. yêu cầu anh cố gắng thành công. Vì ở nhà tôi đã nhận tiền ông Sì-mít. Lấy trước phân nửa, còn phân nửa chờ khi anh hoàn tất công việc.
Về công việc riêng của Sở - mà ta không cho C.I.A. biết – anh sẽ tiếp xúc với một điệp viên quan trọng, tôi tạm gọi là Z. 233. Từ 12 tháng nay, Z. 233 cung cấp tin tức, tài liệu quốc phòng tối mật của Liên sô cho ta tại Mạc tư khoa.
Tôi không rõ Z. 233 là ai, là đàn ông hay đàn bà, dân sự hay quân nhân, nhưng xuyên qua những tài liệu chụp thành vi ti phim mà tôi nhận được, thì Z. 233 phải có nhiều liên lạc cao cấp, đặc biệt trong trung ương KGB. Những cuộn phim do Z. 233 cung cấp đã giúp ta rất nhiều về phương diện phát triển tài chính, cũng như kiện toàn an ninh chung của thế giới tự do.
Z. 233 đòi được gặp một đại diện toàn quyền của Sở để bàn tính một kế hoạch quan trọng. Y không cho biết nội dung nên tôi chưa thể ra chỉ thị rõ rệt cho anh. Gặp y, anh sẽ tùy nghi quyết định. Anh hãy ráng thuyết phục y ở lại Liên sô để tiếp tục hoạt động. Về tiền nong, tôi đã mở trương mục riêng cho y tại Thụy sĩ, y đã được thông báo về tên, địa chỉ của ngân hàng và bí số của trương mục. Anh cho y biết là tính đến nay, trương mục của y đã được một triệu ba trăm nàng đô-la.
Trong trường hợp Z. 233 muốn thoát ly vì sợ bại lộ, anh hãy tìm cách đình hoãn chuyến đi Tirana, lấy cớ là bị bệnh bất thình lình. Và anh liên lạc với Arếp, đệ nhị tham vụ sứ quán I-rắc tại Mạc tư khoa. Arếp là điệp viên tin cậy của Sở. I-rắc là quốc gia thân tình với Liên sô nên được KGB biệt đãi, anh sẽ có thể liên lạc dễ dàng. Tôi nhắc lại: anh chỉ liên lạc với Arếp trong trường hợp Z. 233 đòi xuất ngoại mà thôi. Anh sẽ giao cho Arếp phụ trách việc đưa Z. 233 ra khỏi Liên sô. Mặt khẩu trao đổi với Arếp:
Anh nói: mùa đông, tuyết lạnh, phi cơ.
Arếp đáp: rượu vốt-ka, cô-sắc, món zakútka. (Anh liệu đặt một câu nói nào gồm 3 chữ nêu trên).
Về vụ gặp gỡ Z. 233, anh cứ ở trong phòng khách sạn Metropole, y sẽ đến.
Giờ đến: 4g15p, giờ Mạc tư khoa (sáng).
Mật khẩu: Z. 233 nói: Lêningờrát, áo lông chồn.
Anh nói: Balê, Tirana.
Trong trường hợp Z. 233 không đến được như đã hẹn, anh cứ tiếp tục đi Anbani. Nếu có điều kiện, tôi sẽ liên lạc sau với anh tại Tirana.
Tôi nhắc lại: giờ hẹn, 4g15p sáng, nếu có chậm thì chỉ chậm 5 phút là nhiều nhất.
HH.
Lúc Văn Bình tắm xong thì đồng hồ đã chỉ 4 giờ. Đúng 4 giờ sáng. Vêlana nằm chềnh ềnh trên giường, da trắng nòn nà, bộ ngực và bờ mông thật ngon lành song chàng không còn lòng dạ nào nghĩ đến hưởng thụ nữa. Vì chỉ 15 phút nữa Z. 233 xuất hiện.
Chàng muốn tống khứ Vêlana mà chưa tìm ra kế. Chàng không thể gây sự đễ làm dữ với nàng. Chàng cũng không thể mở cửa, mời nàng ra. Dầu chàng dùng lời lẽ lịch sự hoặc sỗ sàng, nàng cũng sẽ không ra. Bôrết đã hạ lệnh cho nàng đến phòng chàng để làm tình nhưng với dụng ý kiểm soát chàng.
Tâm trí Văn Bình rối như tơ vò. Thoạt gặp cô gái bồi phòng Nina, chàng hơi ngờ ngợ. Chàng bắt đầu hy vọng khi nàng hẹn đến đêm. Tuy nhiên, chàng không tin rằng Nina là Z. 233 vì chàng gián tiếp gợi tới mật khẩu mà nàng vẫn dửng dưng như không.
Sự hiện diện của Nina trong khám đường KGB đã làm chàng sững sờ thật sự. Trung ương C.I.A. không hề yêu cầu chàng tiếp xúc với những chiến hữu của Penkốpky tại Mạc tư khoa. Bôrết đã bịa đặt hoàn toàn, hay sự việc xảy ra hoàn toàn có thật? Văn Bình không đủ yếu tố để trả lời. Nina là nạn nhân oan uổng hay là chiến hữu của tổ chức gián điệp chống sô viết Penkốpky? Hay nàng là nhân viên KGB đóng trò “khổ nhục kế”?
Văn Bình đã thắc mắc càng thắc mắc thêm, bởi vậy sự thèm muốn cố hữu và vô tận của chàng đã tắt ngúm trước tấm thân vệ nữ bốc lửa uốn éo trên nệm trắng muốt.
4g 5p.
Còn 10 phút nữa.
Văn Bình phải có thái độ dứt khoát. Chàng bèn kéo Vêlana ngoảnh lại phía chàng. Tưởng chàng đòi hỏi, cô gái sô viết vội nhoài người ra ôm cứng lấy chàng. Hoảng hốt chàng giằng ra:
- Không, không.
Vêlana chống cùi tay xuống giường:
- Anh không yêu em nữa ư?
- Thú thật với em, anh: hơi mệt.
- Chẳng sao, lát nữa anh sẽ hết mệt.
- Nhưng mà …
- Đừng kiếm cớ nữa. Này, em hỏi thật anh, anh đang đợi ai?
- Chẳng đợi ai cả?
- Tại sao anh đuổi em?
- Anh có đuổi em đâu.
- Vậy em nằm lại. Anh mệt thì em xin phép anh được ngủ một giấc. Đêm qua làm việc đến gần sáng, bây giờ buồn ngủ quá.
Văn Bình lại nhìn đồng hồ.
Chết rồi, đã 4 giờ 12 phút. Chàng không thể chần chừ thêm nữa. Chàng phải điểm huyệt cho Vêlana mê man. Nhưng Vêlana đã thòng chân xuống giường. Cũng như chàng, nàng vừa cúi nhìn đồng hồ. Nếu chàng xấn tới, vung ngón tay ra, nàng sẽ biết. Tỉnh dậy, nàng sẽ báo cáo với Bôrết, Văn Bình đành xử dụng hạ sách. Chàng bước nhanh lại cửa, đặt bàn tay vào quả nắm.
Vêlana để nguyên thân thể lõa lồ khua chân lấy giép rồi bước theo:
- Anh đi đâu đấy?
Văn Bình quay lại gắt:
- Nằm đấy. Anh ra ngoài gọi bồi.
- Để làm gì?
- Dặn mang lên chai rượu.
- Thiếu gì rượu trong phòng, anh uống từ giờ đến đêm mai cũng chưa hết.
4g 15p. Giờ hẹn với Z. 233.
Văn Bình nghe tiếng giày bước nhè nhẹ trên thảm bên ngoài hàng lang, rồi cánh cửa phòng được xô mạnh vào. Nếu không phải là võ sĩ giỏi nội công chàng đã té ngã.
Người vừa xô cửa là người mà chàng không tin sẽ đến, người mà chàng không hề chờ đợi.
Hắn là Bônkốp, giám đốc sở Phát triển Ngoại thương.
Văn Bình lạnh toát châu thân. Tại sao Bônkết lại đến phòng chàng vào lúc 4g15? Hắn có thể là Z. 233 được chăng?
Mặt đỏ gay, Bônkốp đóng cửa sầm một tiếng chát tai, rồi xỉa ngón tay vào mặt Văn Bình, giọng to như thét:
- Kêvin, anh là thằng khốn nạn !
Vêlana luống cuống khoác áo vào người. Nhưng Bônkốp đã giật phăng xuống và ném xuống nền nhà, dí giầy lên trên. Văn Bình cản hắn lại:
- Anh làm gì vậy?
Giọng Bônkốp rít lên:
- Tao sẽ giết mày.
Ý thức nghề nghiệp bùng dậy trong lòng Văn Bình. Bônrốp ghen. Ghen một cách kinh khủng. Nhưng biết đâu hắn chỉ ghen giả vờ. Hắn xô cửa phòng Văn Bình, định nói mật hiệu thì gặp Vêlana. Hắn không thể tiết lộ cho nàng biết hắn là Z. 233, chuyên đánh cắp tài liệu quốc phòng cung cấp cho gián điệp tây phương. Vì vậy hắn phải tiếp tục đóng trò ghen tuông quá khích.
Văn Bình bèn nắm tay hắn giọng ôn tồn:
- Kìa, tôi tưởng anh đã đi Lêningờrát rồi.
Bônkốp sửng sốt:
- Đi Lêningờrát làm gì? Mày muốn tao đi khuất mắt để mày ngủ lang với con dâm phụ Vêlana phải không?
Văn Bình vừa đệm tiếng “Lêningờrát”, phần đầu của mật khẩu. Chàng phải nói rỏ hơn nữa:
- Ô kìa, trời lạnh như thế này mà anh không mặc áo lông chồn ư?
Bônrốt rú lên cười sằng sặc:
- Đồ điên … Mày bảo tao đi Lêningờrát, giờ đây lại bảo tao mặc áo lông chồn. Mày điên nhưng tao không điên … Kêvin, tao không thể tiếp tục chịu đựng thêm nữa. Này, mở mắt ra mà coi …
Lêningờrát … áo lông chồn … Văn Bình vừa nhắc khéo mật khẩu. Bônkốp không có phản ứng thân thiện nào hết. Hắn không phải là Z. 233. Vậy ai mới là Z. 233?
Văn Bình định nói thêm hai tiếng “Ba lê” và “Tirana” thì Bônkốp đã rút súng. Hắn lên đạn đánh soạch và giơ súng lên ngang ngực. Đoàng … họng súng tóc lửa, khói xông lên xanh lè. Văn Bình tinh mắt né sang bên, viên đạn xướt qua màng tang, chỉ cách một vài phân.
Văn Bình biết là Bônkốp cố tình giết chàng. Nếu bắn cảnh cáo hắn đã nhắm vào tay chân. Bônkốp là kẻ bắn giỏi, bắn chỉ có thể hụt phát thứ nhất. Vì vậy chàng phải cản hắn bắn phát thứ hai.
Chẳng may cho chàng, trong khi tránh viên đạn thứ nhất chàng không để ý tới sàn phòng vừa được đánh xi bóng loáng nên bị trượt một vết dài như người trượt băng. Thế trượt tai hại này làm chàng mất quân bình. Trừ phi Bônkốp gặp rủi ro như súng hóc đạn hoặc tuýnh quýnh bắn trật ra ngoài lần nữa, Văn Bình mới có hy vọng thoát chết.
Nhưng trong giây đồng hồ cực kỳ nguy nan ấy phép lạ đã điễn ra.
Bônkốp chưa kịp lảy cò thì một bóng người đã lao tới. Bóng người này là Vêlana. Nàng đã liều mạng nhào vào tay Bônkốp hòng làm trệch đường bắn của Bônkốp.
Và nàng đã thành công. Sợ bắn lầm Vêlana, Bônkốp vội bước tréo sang bên trái. Nhưng Vêlana đã quấn chặt lấy hắn. Bônkốp quát lớn:
- Xê ra cho anh bắn nó.
Vêlana bấu vào vai Bônkốp:
- Sao được? Anh phải nghĩ đến nhiệm vụ. Anh phải nhớ lời đặn của đồng chí Bôrết.
Bônkốp hất Vêlana ngã chúi vào giường:
- Kệ cha Bôrết. Nó cậy có quyền nên ức hiếp chúng mình. Em đừng sợ, anh giết thằng Kêvin rồi sẽ làm bản điều trần đệ lên Ủy ban Trung ương Đảng.
Vêlana lồm cồm bò dậy. Bônkốp quay mũi súng lại, hướng vào ngực Văn Bình. Nhưng khi ấy đã muộn. Văn Bình đã có thể đối phó để dàng. Chàng chỉ đứng cách Bônkốp một xảy tay. Hắn chưa kịp nhả đạn thì Văn Bình đã giáng atémi vào cườm tay cầm súng. Tuy giỏi võ Bônkốp vẫn chưa phải là đối thủ của Văn Bình. Nếu chàng chỉ cần một thế nhu đạo bay bướm là hóa giải được hắn.
Lẽ ra Bônkốp phải biết thân phận mà rút lui về thế thủ. Đằng này hắn lại tiếp tục tấn công. Hắn rùn người xuống, rồi quạt một thế sămbô vào vết hầu Văn Bình. Trong khi ấy, bàn chân trái của hắn được phóng mạnh vào điểm huyệt gần hạ bộ. Hai đòn võ Nga la tư của Bônkốp đều là đòn tối độc, bất cứ bị trùng đòn nào Văn Bình cũng táng mạng. Quả là Bônkốp không chịu từ bỏ ý định giết người.
Văn Bình hoành tay cản đòn yết hầu đồng thời nâng đầu gối lên để chế ngự bàn chân trái của Bônkốp. Chạm vào tay chân Văn Bình, Bônkốp bị tê buốt đến óc, như thể thân thể của chàng được kết tạo bằng bê-tông cốt sắt. Hắn loạng choạng trước khi ngã chúi vào cái bàn đêm. Cây đèn đêm bên trên bị kéo rời xuống đất, chao đèn bắng sứ mỏng tan nát thành nhiều mảnh vụn, reo lên một âm thanh khô khan.
Một lần nữa, Văn Bình lại khinh đich. Hoặc đúng hơn, Văn Bình còn cố bám lấy hy vọng Bônkốp là Z. 233. Vì vậy, chàng chỉ kháng cự lấy lệ. Chàng vung ngọn cước nhẹ là Bônkốp mê man. Song chàng đứng yên. Và chàng còn tiết rẻ nhắc tới phần nhì của mật khẩu:
- Anh có hề gì không? Khổ quá từ Ba lê đến Mạc tư khoa và Tirana tôi chỉ gặp toàn chuyện phiền phức.
“Ba lê” và “Tirana” là tiếng chính của mật khẩu. Nhưng Bônkốp lại phản ứng bằng cách cho tay vào túi. Vêlana nhìn thấy trước tiên vội thét lên:
- Cẩn thận, súng xi-a-nuya !
Bônkốp phải mất nửa giây đồng hồ để gở khóa an toàn, và đẩy viên đạn hóa chất giết người kinh khủng lên nòng. Không hiểu sao Văn Bình là người quyền cước trác tuyệt, tấn thủ nhanh như điện xẹt mà trong lúc ấy lại đứng trơ trơ trước họng súng xi-a-nuya nhỏ bằng chiếc bút may Pạc-ke. Có lẽ nội tâm chàng đang trải qua một cuộc xung đột dữ dội.
Và một lần nữa chàng lại thoát chết.
Thoát chết, nhờ Vêlana.
Lúc ấy, nàng đứng cạnh Bônkốp. Viên giám đốc sở Phát triển Ngoại thương còn đang loay hoay với khẩu súng tối tân – vì quá tối tân nên máy móc cầu kỳ - thì Vêlana đã hụp người xuống, quét sống bàn tay vào thát dương Bônkốp. Không ngờ bộ vó đàn bà đẹp của nàng lại chứa đựng một sức mạnh dị thường. Trúng đòn giửa màng tang, Bônkốp ngã vật sang bên phải. Hắn giẫy một cái nhẹ rồi nằm im.
Vêlana hoảng hốt đứng lên, kêu Văn Bình:
- Kêvin, anh Kêvin …
Hai gã vệ sĩ Mông cổ đồ sộ đạp toang cửa phòng chạy vào. Đang nói dở, Vêlana ngưng bặt.
Một tên vệ sĩ hỏi Vêlana:
- Chuyện gì vậy?
Vêlana đáp:
- Đồng chí Bônkốp đột nhiên đến đây dùng súng độc dược định bắn hạ ông Kêvin. Vì hoàn cảnh bất khả kháng, tôi phải can thiệp … Bây giờ yêu cầu anh liên lạc với đồng chí Bôkết.
Tên vệ sĩ nhìn Bônkốp nằm song sượt trên nền nhà rồi hỏi:
- Đồng chí giám đốc chết rồi ư?
Văn Bình lắc đầu:
- Không. Chắc chỉ ngất đi một lát thôi.
Tên vệ sĩ nhấc điện thoại, xin số của Bôrết. Trong vòng một phúc, tiếng nói của Bôrết đã vang lên ở đầu dây. Tên vệ sĩ xưng tên rồi báo cáo sự việc xảy ra.
Bôrết cằn nhằn:
- Trong khách sạn có ai biết không?
Tên vệ sĩ đáp:
- Thưa không.
- Vậy các anh khiêng Bônkốp bằng cửa sau xuống xe chở vào khu hồi sinh. Đồng thời, gọi Vêlana về văn phòng trình điện.
- Thưa còn ông Kêvin?
- Bảo anh ta cứ ngủ đi để lấy sức. Sáng mai 8 giờ sẽ có người đánh thức dậy.
Tên vệ sĩ vâng dạ một hồi rồi gác ống nói. Văn Bình thở dài rút điếu thuốc cuối cùng ra hút.
Cuộc tiếp xúc với Z. 233 đã thất bại. Z. 233 đã đến hay chưa đến? Z. 233 là ai? Những dấu hỏi rối reng quay cuồng trong óc Văn Bình. Dáng điệu thờ thẫu, chàng tì tay vào cửa sổ nhìn xuống đại lộ Các Mác rộng mênh mông.