Phần 4
805. Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
Vẫn là một đứa phong tình đã quen.
Quá chơi lại gặp hồi đen,
Quen mùi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa.
Lầu xanh có mụ Tú Bà,
810.Làng chơi đã trở về già hết duyên.
Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường.
Chung lưng mở một ngôi hàng,
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề.
815. Dạo tìm khắp chợ thì quê,
Giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi.
Rủi may âu cũng tại trời,
Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên.
Xót nàng chút phận thuyền quyên,
820.Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn.
Mẹo lừa đã mắc vào khuôn,
Sính nghi rẻ giá nghênh hôn sẵn ngày.
Mừng thầm: Cờ đã đến tay !
Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng.
825.Đã nên quốc sắc thiên hương,
Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa.
Về đây nước trước bẻ hoa,
Vương tôn quý khách ắt là đua nhau.
Hẳn ba trăm lạng kém đâu,
830.Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời,
Miếng ngon kề dến tận nơi,
Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham.
đào tiên đã bén tay phàm,
Thì vin cành quít cho cam sự đời !
835.Dưới trần mấy mặt làng chơi,
Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa.
Nước vỏ lựu máu mào gà,
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.
Mập mờ đánh lận con đen,
840.Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi ?
Mụ già hoặc có điều gì,
Liều công mất một buổi quỳ mà thôi.
Vả đây đường xá xa xôi,
Mà ta bất động nữa người sinh nghi.
845.Tiếc thay một đóa trà mi,
Con ong đã tỏ đường đi lối về.
Một cơn mưa gió nặng nề,
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.
Đêm xuân một giấc mơ màng,
850.Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ.
Giọt riêng tầm tã tuôn mưa,
Phần căm nỗi khách phần dơ nỗi mình:
Tuồng chi là giống hôi tanh,
Thân nghìn vàng để ô danh má hồng.
855.Thôi còn chi nữa mà mong?
Đời người thôi thế là xong một đời.
Giận duyên tủi phận bời bời,
Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh.
Nghĩ đi nghĩ lại một mình:
860.Một mình thì chớ hai tình thì sao ?
Sao dầu sinh sự thế nào,
Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân.
Nỗi mình âu cũng giãn dần,
Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi.
865.Những là đo đắn ngược xuôi,
Tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường.
Lầu mai vừa rúc còi sương,
Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi.
Đoạn trường thay lúc phân kỳ !
870.Vó câu khấp khểnh bóng xe gập ghềnh.
Bề ngoài mười dặm trường đình,
Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo.
Ngoài thì chủ khách dập dìu,
Một nhà huyên với một Kiều ở trong.
875.Nhìn càng lã chã giọt hồng,
Rỉ tai nàng mới giãi lòng thấp cao:
Hổ sinh ra phận thơ đào,
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
Lỡ làng nước đục bụi trong,
880.Trăm năm để một tấm lòng từ đây.
Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già !
Khi về bỏ vắng trong nhà,
Khi vào dùng dắng khi ra vội vàng.
885.Khi ăn khi nói lỡ làng,
Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh.
Khác màu kẻ quý người thanh,
Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn.
Thôi con còn nói chi con?
890.Sống nhờ đất khách thác chôn quê người !
Vương bà nghe bấy nhiêu lời,
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.
Vài tuần chưa cạn chén khuyên.
Mái ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe.
895.Xót con lòng nặng trì trì,
Trước yên ông đã nằn nì thấp cao:
Chút thân yếu liễu tơ đào,
Rớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi.
Từ đây góc bể bên trời,
900.Nắng mưa thui thủi quê người một thân.
Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,
Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.
Cạn lời khách mới thưa rằng:
Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao.
905.Mai sau dầu dến thế nào,
Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỉ thần !
Đùng dùng gió giục mây vần,
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
Trông vời gạt lệ chia tay,
910.Góc trời thăm thẳm đêm ngày đăm đăm.
Nàng thì dặm khách xa xăm,
Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây.
Vi lô san sát hơi may,
Một trời thu để riêng ai một người.
915.Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.
Rừng thu từng biếc xen hồng,
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.
Những là lạ nước lạ non,
920.Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi.
Xe châu dừng bánh cửa ngoài,
Rèm trong đã thấy một người bước ra.
Thoắt trông nhờn nhợt màu da,
ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao !
925.Trước xe lơi lả han chào,
Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.
Bên thì mấy ả mày ngài,
Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi.
Giữa thì hương án hẳn hoi,
930.Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.
Lầu xanh quen lối xưa nay,
Nghề này thì lấy ông này tiên sư,
Hương hôm hoa sớm phụng thờ.
Cô nào xấu vía có thưa mối hàng,
935.Cởi xiêm lột áo sỗ sàng,
Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm.
Đổi hoa lót xuống chiếu nằm,
Bướm hoa bay lại ầm ầm tứ vi !
Kiều còn ngơ ngẩn biết gì,
940.Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
Cửa hàng buôn bán cho may,
Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu.
Muôn nghìn người thấy cũng yêu,
Xôn xao oanh yến rập rìu trúc mai.
945.Tin nhạn vẩn lá thư bài,
Đưa người cửa trước rước người cửa sau.
Lạ tai nghe chửa biết đâu,
Xem tình ra cũng những màu dở dang.
Lễ xong hương hỏa gia đường,
950.Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.
Dạy rằng: Con lạy mẹ đây,
Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia.
Nàng rằng: Phải bước lưu ly,
Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh.
955.Điều đâu lấy yến làm oanh,
Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?
Đủ điều nạp thái vu qui,
Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi.
Giờ ra thay mặt đổi ngôi,
960.Dám xin gửi lại một lời cho minh.
Mụ nghe nàng nói hay tình,
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên:
Này này sự đã quả nhiên,
Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi.
965.Bảo rằng đi dạo lấy người,
Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.
Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,
Buồn mình trước đã tần mần thử chơi.
Màu hồ đã mất đi rồi,
970.Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
Con kia đã bán cho ta,
Nhập ra phải cứ phép nhà tao đây.
Lão kia có giở bài bây,
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.
975.Cớ sao chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?
Phải làm cho biết phép tao!
Chập bì tiên rắp sấn vào ra tay.
Nàng rằng: Trời thẳm đất dày!
980.Thân này đã bỏ những ngày ra đi.
Thôi thì thôi có tiếc gì!
Sẵn dao tay áo tức thì giở ra.
Sợ gan nát ngọc liều hoa!
Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay.
985.Thương ôi tài sắc bậc này,
Một dao oan nghiệt đứt dây phong trần.
Nỗi oan vỡ lở xa gần,
Trong nhà người chật một lần như nêm.
Nàng thì bằn bặt giấc tiên,
990.Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.
Vực nàng vào chốn hiên tây,
Cắt người coi sóc chạy thầy thuốc thang.
Nào hay chưa hết trần duyên,
Trong mê dường đã đứng bên một nàng.
995.Rỉ rằng: Nhân quả dở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
Số còn nặng nợ má đào,
Người dầu muốn quyết trời nào đã cho.
Hãy xin hết kiếp liễu bồ,
1000. Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau.
Thuốc thang suốt một ngày thâu,
Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan.
Tú bà chực sẵn bên màn,
Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần:
1005. Một người dễ có mấy thân!
Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài.
Cũng là lỡ một lầm hai,
Đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây!
Lỡ chưn trót đã vào đây,
1010. Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non.
Người còn thì của hãy còn,
Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà.
Làm chi tội báo oán gia,
Thiệt mình mà hại đến ta hay gì\?
1015. Kề tai mấy mỗi nằn nì,
Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi.
Vả suy thần mộng mấy lời,
Túc nhân âu cũng có trời ở trong.
Kiếp này nợ trả chưa xong,
1020. Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau!
Lặng nghe, thấm thía gót đầu,
Thưa rằng: Ai có muốn đâu thế này?
được như lời, thế là may,
Hẳn rằng mai có như rày cho chăng!
1025. Sợ khi ong bướm đãi đằng,
Đến điều sống đục, sao bằng thác trong!
Mụ rằng: Con hãy thong dong,
Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi!
Mai sau ở chẳng như lời,
1030. Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi.
Thấy lời quyết đoán hẳn hoi,
Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần.
Trước lầu Ngưng bích khóa xuân,
Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung.
1035. Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
1040. Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ ?
1045. Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm?
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
1050. Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồị
1055. Chung quanh những nước non người,
Đau lòng lưu lạc, nên vài bốn câu.
Ghi chú:
806. Phong tình: ăn chơi phóng đãng bất chính.
809. Lầu xanh: Do chữ thanh lâu: Cái lầu sơn mầu xanh. Chữ thanh lâu nguyên chỉ lầu ở của phái quyền quí hay vua chúa, hoặc chỉ lầu ở của mỹ nhân. Về sau thanh lâu mới có nghĩa là nhà hát, nhà điếm.
810. Làng chơi: thuộc loại gái điếm gái làng chơi.
812. Mạt cưa mướp đắng: Chuyện cổ tích: "Một người lấy mạt cưa làm cám, đợi lúc nhá nhem tối, đem ra chợ bán, lại gặp một người đem mướp đắng giả làm dưa chuột ra bán. Hai người bán lẫn cho nhau, thế là bợm lại mắc bợm". Đây nói Mã Giám sinh và Tú bà cùng là phường bịp.
814. Buôn phấn bán hương: Mua những con gái ở các nơi về làm gái điếm. Phấn và hương là hai thứ nữ giới dùng để trang điểm, nên mượn để chỉ chung nữ giới.
Đã lề: ý nói đã thành nề nếp, đã quen nghề.
815. Chợ: Kẻ chợ, tức nơi thành thị, đô hội. Khắp chợ thì quê: Lối nói cổ, có nghĩa là: khắp chợ cùng quê, khắp vùng kẻ chợ đến miền thôn quê.
816. Giả danh hầu hạ: Mượn tiếng là tìm nàng hầu vợ lẽ để về hầu hạ.
Dạy nghề ăn chơi: Dạy nghề làm gái điếm kiếm tiền.
819. Thuyền quyên: Nguyên nghĩa là óng ả xinh tươi để chỉ người phụ nữ đẹp.
821. Mẹo lừa: mưu mẹo lừa dối.
Khuôn: Như nói vành, đã mắc vào vành không ra được nữa.
822. Nghinh hôn: Đón dâu.
823. Cờ đến tay: Đây mượn câu tục ngữ: Cờ đến tay ai, người nấy phất, để nói ý nghĩ của Mã: Kiều đã vào tay mình rồi muốn làm gì thì làm.
824. Vẻ ngọc: Vẻ mặt đẹp như ngọc.
Khúc vàng: Khúc lòng.
826. Câu này do chữ nhất tiểu thiên kim: Một nụ cười của người đẹp đáng giá nghìn vàng.
827. Bẻ hoa: Tức phá trinh tiết của Kiều.
828. Vương tôn: Chỉ con gái các nhà quí phái.
834. Câu này ý nói: Đào tiên đã tới tay,thì vin cành bẻ phắt đi cho thoả sự đời (tức là làm ngay cái việc "nước trước bẻ hoa" ở trên).
835. Dưới trần: Như nói trong cõi đời, ở đời. Mấy mặt: Mấy người.
836. Biết hoa: Biết giá trị của hoa. ý nói: Bọn làng chơi đã dễ mấy người phân biệt được gái tân với gái mất tân.
837. Nước vỏ lựu, mái mào gà: Theo sách Bắc lý chi: Gái thanh lâu tiếp khách xong, lại lấy nước vở lựu máu mào gà sống để rửa, giả làm gái còn tân để đánh lừa khách chơi.
838. Chiêu tập: Dùng cách sửa chữa làm như còn nguyên vẹn.
839. Con đen: Những người còn trẻ tuổi mà khờ dại, đây chỉ những khách chơi không sành sỏi.
845. Trà mi: Một thứ hoa nở về mùa xuân đầu hạ, hoa mầu vàng nhạt rất đẹp.
848. Ngọc, hương: Ngọc đẹp, hương thơm, ví với người đẹp.
850. Đuốc hoa: Do chữ hoa chúc: đuốc hoa, nến hoa.
858. Quyên sinh: Bỏ đời sống, tức tự tử.
860. Hai tình: Chỉ cha mẹ. ý nói: Một mình thì tự tử chẳng sao, nhưng còn cha mẹ thì làm thế nào?
862. Truy nguyên: Tìm đến căn nguyên, gốc rễ của sự việc.
863. Giãn: Nới ra. Nỗi lòng của Kiều lúc trước như bị bóp nghẹt, nay nghĩ đi nghĩ lại, thấy nới dần ra.
864. Một lần: Một lần chết. Kiều nghĩ: chóng hay chậm, cũng một lần chết, nếu bây giờ nàng chết đi tất liên luỵ đến cha mẹ.
866. Gáy sôi:: Gáy ầm ỹ, dồn dập. Chữ "sôi" có hàm ý giục giã.
867. Lầu mai: Chòi canh về sáng.
Còi sương: Tiếng tù và thổi lúc sớm tinh sương.
869. Đoạn trường: Đứt ruột có nghĩa đau đớn quá (như dứt từng khúc ruột). Phân kỳ: Chia đường, chia lìa mỗi người mỗi ngả như nói "chia tay".
870. Vó câu: Vó ngựa (Câu: ngựa non đang sức lớn). Những chữ "khấp khểnh", "ghập ghềnh" vừa tả con đường đi gồ ghề khó khăn, vừa ngụ ý thân thế Kiều đã long đong vất vả ngay từ lúc bước chân ra đi...
871. Trường đình: Đời Tần, Hán, người ta chia đường ra từng cung, cứ năm dặm là một cung ngắn, có một cái quán, gọi là "đoản đinh" (quán ngắn) mười dặm là một cung dài, lại có một cái quán nữa gọi là "trường đình" (quán dài). Tục cổ, chủ thường tiễn khách ra khỏi mười dặm đường làm tiệc tiến hành ở trường đình rồi mới trở về.
873. Chủ khách: Chỉ Vương ông Mã Giám sinh.
877. Thơ đào: Đây có nghĩa là con gái ít tuổi, ngây thơ.
884. Dùng dắng: Dùng dằng, do dự, khi Mã vào trong phòng Kiều thì do dự mà khi ở phòng ra thì vội vàng.
886. Thầy tớ: Chỉ Mã và bọn tôi tớ Mã.
893. Tuần: Tuần rượu, mỗi chén rượu đôi bên cùng uống cạn là một tuần.
Chén khuyên: Chén khuyên mời, đây là chén rượu tiến.
894. Nghỉ: Nó, hắn, y, thổ âm Nghệ Tĩnh đây chỉ Mã.
986.Trước yên: Trước yên ngựa của Mã.
897. Yếu liễu thơ đào: ý nói Kiều còn yếu ớt thơ dại, ví như cây liễu yếu cây đào non.
899. Góc bể chân trời: Do chữ hải giác thiên nhai: Góc biển cả, chỗ cùng nận bầu trời ý nói xa xôi hết sức.
901. Tầm: Một đơn vị đo lường cổ của Trung Quốc, dài tám thước.
Nghìn tầm: 8000 thước, nghĩa bóng: cao lắm!
Tùng quân: Tùng là cây thông, một thứ cây cao lớn, lthân thẳng và cứng cáp, mùa đông lá cây vẫn xanh tươi, trong văn cổ, thường dùng để tượng trưng cho người trượng phu. Quân là cây trúc, dóng thẳng đốt ngang, thân rỗng mà không cong queo, thường dùng để tượng trưng cho người quân tử.
902. Tuyết sương che chở: Tức che chở cho khỏi tuyết sương.
Cát đằng: Dây sắn, một loại day phải leo bám vào những cây to, người ta thường nói "cát đằng" "cát luỹ" hay "sắn bìm" để chỉ người vợ thiếp.
904. Nhiệm trao: ý nói số trời mầu nhiệm đã buộc sợi "xích thằng".
906. Gương nhật nguyệt: Gương mặt trời, mặt trăng. Chữ "gương" hàm ý soi tỏ tội lỗi. Dao quỷ thần: Gươm dao của quỷ thần, hàm ý trừng phạt, ý Mã nói: nếu sau này ăn ở không thuỷ chung, sẽ có trời soi tỏ tội lỗi và bị quỷ thần trừng phạt.
907. Gió giục mây vần: Tả xe Kiều đi mau lẹ, vội vã.
909. Trông vời: Tức trông với theo một cái gì đó đã đi xa.
9912. Bạc phau: Trắng phau, trắng xoá.
Cầu giá: Váng sương bám trên mặt cầu buổi sớm mai.
Ngàn mây: Những đám mây ở những nơi rừng núi. Câu này tả cảnh cuối thu, bắt đầu sang đông.
913. Hơi may: Hơi gió heo may.
915. Ngất tạnh: Bầu trời cao ngất mà tạnh ráo.
Mù khơi: Mù mịt xa khơi.
916. Lời non sông: Kiều thấy trăng mà nhớ đến cái "vầng trăng" đêm nào đã chứng kiến cuộc thề nguyện của hai người.
917. Từng biếc xen hồng: Rừng cây mùa thu có những lá úa màu đỏ xen giữa từng lá mùa xanh.
918. Thần hôn: Sớm hôm, chỉ sự sớm hôm chăm sóc thăm hỏi cha mẹ.
920. Lâm tri: Tên huyện, thuộc tỉnh Sơn Đông.
921. Xe châu: Xe có rèm hạt châu, thứ xe phụ nữ ngồi.
927. Mày ngài: Tức mấy ả gái điếm.
930. Tượng: Bức tranh vẽ. Tượng trắng đôi lông mày tức tranh thần "Bạch mi".
932. Tiên sư: Tổ sư, ông tổ sáng lập ra một nghề. Chữ dùng hàm ý mỉa mai.
937. Đổi hoa: Như nói thải hoa, tức như lấy hoa mới để thờ, thải hoa cũ lót xuống dưới chiếu để nằm.
938. Tứ vi: Bốn phía xung quanh.
942. Hàn thực: Ăn lạnh, ăn đồ nguội.
Giới Tử Thôi giúp Tấn Văn Công khôi phục lại ngôi vua, nhưng lúc ân thưởng triều thần. Văn Công lại quên mất Tử Thôi. Tử Thôi bất bình trốn vào núi ở ẩn. Đến lúc Văn Công nghĩ lại, muốn vời Tử Thôi, nhưng Tử Thôi quyết chí ở ẩn, Văn Công ra lệnh đốt rừng Tử Thôi quyết tâm chịu chết cháy ở trong núi. Văn Công hối hận vô cùng ra lệnh hàng năm đúng ngày Tử Thôi chết, cấm không được đốt lửa. Do đó mà có tục hàn thực, cứ trước...tiết thanh minh hai ngày (có sách chép một ngày) người ta cấm đốt lửa, ăn đồ nguội, và tổ chức nhiều cuộc vui: đá cầu, đánh đu, chọi gà, kết xe hoa đi dong chơi.
Nguyên tiêu: Đêm tiết thượng nguyên, tức đêm ngày rằm tháng riêng đầu năm. Đây Tú bà khấn thần phù hộ cho cửa hàng lầu xanh của mụ, ngày lại đêm, lúc nào khách chơi cũng ra vào đông đúc, tấp nập như những ngày hội hàn thực nguyên tiêu.
945. Tin nhạn: Tô Vũ, người đời Hán, đi sứ sang Hung nô không chịu khuất phục, bị chúa Hưng nô đầy lên Bắc Hải chăn dê, nhà Hán hỏi, thì bảo là chết rồi, sau sứ Hán phải nói thác là vua Hán săn được con chim nhạn ở vườn thượng lâm chân nó có buộc một bức thư lụa của Tồ Vũ gửi về, khi ấy Hưng nô mới chịu trả lại Tô Vũ cho nhà Hán. Do đó, người ta thường nói "tin nhạn" để chỉ tin thư. ở đây, tác giả dùng như nghĩa "tin tức" đơn thuần.
949. Hương hoa gia đường: Bốn chữ này nguyên chỉ nhà hay bàn thờ cúng gia tiên, đây tác giả dùng chỉ bàn thờ thần Bạch mi.
952. Cậu mày: Tức cha mày, chỉ Mã Giám sinh, Tú Bà bắt Kiều lạy nhận mụ là mẹ nuôi. Mã Giám sinh là cha nuôi.
954. Tiểu tinh: Sao nhỏ, chỉ vợ lẽ.
962. Tam banh: Theo sách Đạo giáo "Trong người ta có ba thần thi: Thượng Thi, tên Bành Chất, ở bụng; Hạ Thi, tên Bành Kiệu, ở chân, thường làm hại người". Do đó, người ta cho rằng: những sự hung ác giận dữ của người là do thần "Tam thi" hay"Tam Bành" làm ra, và thường dùng chữ tam bành để chỉ cơn tức giận.
964. Min: Ta, tao (tiếng cổ).
978. Bì tiên: Cái roi bằng da.
986. Phong trần: Cõi đời gió bụi. ý nói: Một nhát dao oan nghiệt cắt đứt quan hệ với cuộc đời phong trần tức là chết.
993. Trần duyên: Nhân duyên cõi trần, cõi đời.
1000. Tiền đường: Tên một con sông chảy qua gần Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc).
1006. Hoa xuân đương nhuỵ: Hoa xuân đương lên nhuỵ, tức mới nở. ý nói Kiều còn trẻ trung.
1008. Đá vàng: Đây chỉ lòng kiên trinh của phụ nữ.
1010. Khoá buồng xuân: Khoá kín vẻ xuân trong buồng, như nói cấm cung.
Đợi ngày đào non: Đợi ngày lấy chồng.
1013. Tội báo: Như nói là ác báo.
Oan gia: Kẻ oán thù, cừu thù.
1016. Thị phi rạch ròi: Lẽ phải, lẽ trái phân minh. Đại ý: Kiều nghe lời Tú Bà nói cũng có lý.
1017. Thần mộng: Lời báo mộng của quỉ thần (tức Đạm Tiên).
1018. Tức nhân: Nhân duyên có sẵn từ trước, như nói duyên số tiền định.
1025. Đãi đằng: Tiếng cổ, nghĩa là giãi bày.
Ca dao:
Cá buồn cá lội tung tăng
Em buồn em biết dãi dằng cùng ai.
ở đây đãi đằng có nghĩa là điều ra tiếng vào của những người khách chơi.
1027. Thong dong: ở đây có nghĩa là khoan tâm, thư tâm.
1033. Ngưng bích: Tên cái lầu mà Tú Bà dành cho Kiều ở.
Ngưng Bích: Nghĩa là đọng (tụ) lại màu biếc.
1036. Bụi hồng: Đây chỉ những đám bụi bốc lên ở trên đường.
1037. Bẽ bàng: Chán ngán, buồn tủi.
1039. Chén đồng: Chén đồng tâm, tức chén rượu thề nguyền đồng tâm với nhau.
1042. Tấm son: Tấm lòng son, đây chỉ tấm lòng thuỷ chung.
1044. Quạt hồng, ấm lạnh: Quạt khi nồng, ấp khi lạnh, do chữ đông ôn hạ sảnh ở Kinh Lễ.
1045. Sân Lai: Sân Lão Lai. Theo sách Cao Sĩ truyện: "Lão Lai Tử, người nước Sở, đời Xuân Thu, tuổi đã ngoài bảy mươi, mà còn cha mẹ già, ông thường mặc áo ngũ sắc sặc sỡ, ra múa ở trước sân, rồi giả cách ngã, khóc, như trẻ con, để làm cho cha mẹ vui". Đây nói bóng sân nhà cho mẹ, tức nhà mình.
1046. Gốc tử: Gốc cây tử (loài cây thị). Đây dùng chỉ cha mẹ, "gốc tử đã vừa người ôm" nói bóng cha mẹ đã già rồi.
1053. Ghềnh: Vực sâu, vũng biển.
Bookmarks