Chương 4
"Mansoor, thế này là nghĩa làm sao?" Belmont kêu lớn với một giọng thô lỗ, "những người đó là ai, và tại sao anh đứng hai mắt trợn trừng như thể anh đã hóa thành pho tượng bằng muối vậy?"
Anh thông ngôn, trước khi trả lời, thè lưỡi liếm vào cặp môi khô khan của anh ta. Anh ta nói ấp úng: "Tôi không biết họ là ai".
"Họ là ai?" ông người Pháp quát lớn. "Anh chỉ cần nhìn cho rõ. Đó là những người có võ trang cưỡi lạc đà: những người Bédouins như là những người mà chính quyền trên biên giới thường thuê mướn".
"Xin ơn trên phù hộ, có lẽ ông ấy nói đúng, Cochrane ạ!" Belmont quay lại phía viên đại tá và nói: " Tại sao những người kia lại không phải là những bằng hữu?"
"Chúng ta không có bằng hữu trên bờ bên này của sông Nil", ông đại tá trả lời với một giọng quả quyết. "Tôi hoàn toàn biết chắc về việc đó. Chúng ta sẽ sai lầm khi tự lừa dối mình. Chúng ta phải chuẩn bị cho điều tệ hại nhất".
Bất kể những lời nói này, các du khách vẫn im lìm bất động, đứng sát vào nhau và nhìn xuống cánh đồng. Sự kinh động bất ngờ này đã làm họ điếng người, họ đang sống trong một giấc mộng không có bản ngã của họ, mơ hồ và phi thực tại. Những kỵ binh đã đi ra từ một khe núi ở cách con đường họ vừa đi qua chừng một ngàn năm trăm mét, như thế là chúng đã cắt hết đường rút lui của họ. Theo như đám bụi bốc lên và chiều dài của đám người thì người ta có thể nói là cả một đoàn quân đang xuất hiện từ những quả đồi. Thật tình thì bảy mươi người cưỡi trên lưng lạc đà cũng che phủ được một mảng đất lớn.
Sau khi chúng đã tới cánh đồng cát, chúng xếp thành hàng và sau một hồi kèn chát chúa chúng xông lên theo hàng ngang, những cái bóng sặc sỡ nhiều màu của chúng chao đảo trên những cái yên của chúng; cát bốc tung lên thành một đám mây vàng lăn theo dưới chân những con lạc đà. Vừa nhìn thấy những sự việc này, sáu anh lính da đen đã lùi lại và ẩn mình trên sườn đồi đằng sau những tảng đá, như những binh sĩ đã thành thạo trong việc tập luyện, những hộp cơ bẩrn kêu lách cách cùng một lúc khi viên hạ sĩ ra lịnh cho họ nạp đạn vào súng.
Sự hoảng hốt đầu tiên của các du khách lúc đó đã nhường chỗ cho sự thi triển lớn lao về nghị lực, vừa cuồng nhiệt, vừa bất lực. Tất cả bọn họ đều bắt đầu chạy trên khoảng đất bằng trong sự vội vã không có mục đích, trông họ giống như một đàn gà vịt bị hoảng sợ trong sân chuồng. Họ đã không có thể quyết định nhìn nhận là họ không còn một phương cách nào để thoát hiểm cả. Đã nhiều lần họ cúi xuống bên trên cái mép của ghềnh đá lớn đâm sâu xuống sông Nil, nhưng người trẻ nhất và người táo bạo nhất trong nhóm họ cũng không bao giờ có thể tụt xuống chiều cao của cái vách đá nhẵn thín này. Hai người đàn bà níu chặt lấy tay của Mansoor trong lúc anh này run lẩy bẩy, như thể các cô cho là anh ta phải chính thức chịu trách nhiệm về sự an toàn của mọi người. Stephens, người đại diện cho thân chủ trước tòa án, không rời khỏi Sadle Adams và nói thầm thì như một cái máy hát: "Đừng sợ cô Sadle ạ! Đừng sợ!" việc này cũng không ngăn cản được ngay chính ông ta đang run rẩy cả chân tay. Ông Fardet dậm chân, láy đi láy lại những chữ "r" khi lúng búng nói những câu không ai hiểu được và ném những cái nhìn bực bội vào các bạn đồng hành, ông thấy mình đã bị họ phản bội một phần nào đó. Ông mục sư to lớn đứng rất ngay ngắn dưới cái dù của ông và cặp mắt to, hoảng sợ của ông đang quan sát sự di chuyển của những gã kỵ binh. Cecil Brown đang xoắn bộ ria ngắn của ông; ông tái người đi nhưng vẫn có vẻ khinh khỉnh. Ông đại tá, Belmont và nhà khoa bảng trẻ tuổi của Harward vận giữ được sự điềm tĩnh; họ là những người có nhiều thủ đoạn.
"Tốt nhất là chúng ta cùng đứng lại với nhau", ông đại tá nói, "không còn cách nào để tránh khỏi bọn chúng, do đó tốt nhất là chúng ta đừng rời xa nhau".
"Chúng đứng lại" Belmont loan báo.
"Vì chúng quan sát chúng ta, chúng bịết chắc rằng chúng ta nằm trong quyền sinh sát của chúng; do đó chúng không vội vã. Tôi không nhìn thấy điều gì mà chúng ta sẽ có thể làm được".
"Nếu chúng ta dấu các phụ nữ đi có được không?" Headingly đề nghị. "Chắc chắn là chúng không biết chúng ta có bao nhiêu người. Khi chúng đã bắt được chúng ta rồi, các phụ nữ sẽ có thể ra khỏi nơi ẩn nấp và trở lại tàu thủy".
"Tuyệt diệu!" ông đại tá kêu lên. "Cô Adams, xin cô vui lòng lại đây. Mansoor, hãy mời các bà tới chỗ này! Không còn một giây phút nào để bỏ mất nữa".
Một phần của khoảng đất bằng không thể nhìn thấy được từ bên dưới, những người đàn ông cuống cuồng dựng lên một chỗ trú ẩn nhỏ bằng những tảng đá, những tảng đá thì không thiếu; không cần phải lâu la gì để dựng nghiêng một tảng đá lớn nhất vào một núi đá; và theo lối đó làm thành một thứ mái che, rồi lấp kín hai bên bằng hai tảng đả khác cùng một màu với núi đá; thoạt mới nhìn chỗ ẩn nấp không quá lộ liễu đâu. Hai người đàn bà chui vào chỗ ẩn nấp và ngồi xuống. Sadie ôm choàng lấy bà cô trong hai cánh tay. Khi đã dựng xong chỗ trú ẩn, những nguời đàn ông đi ra nhìn những việc đang diễn ra trong cánh đồng với một tấm lòng nhẹ nhõm hơn. Lúc tới gần rìa của khoảng đất bằng, họ nghe thấy những phát súng đầu tiên; đó là toán hộ tống của họ bắn; nhưng những phát súng rời rạc đó đã mau chóng bị nhận chìm trong một tiếng ầm ì inh tai, và không khí tràn đầy tiếng rít của những viên đạn. Tất cả các du khách đều nằm nép xuống sau các tảng đá, ngoại trừ anh chàng người Pháp thì cứ tiếp tục dậm chân và lấy tay đấm mạnh vào cái mũ rơm của mình. Belmont và Cochrane bò xuống nơi mà những người lính Soudan đang bắn một cách bình tĩnh và theo đúng phương pháp, với những khẩu súng kê trên các tảng đá.
Bọn nghười Ả - Rập dừng lại ở khoảng năm trăm mét, sự ung dung trong các cử động của chúng chứng tỏ rằng chúng đã biết rõ tình thế tuyệt vọng của các du khách. Chúng chỉ dừng lại để đếm số du khách trước khi xông lên tấn công, một phần lớn bọn chúng ngồi trên mông lạc đà mà bắn, nhưng một vài tên đã tụt xuống đất và quì xuống. Những vết trắng nhỏ, lung linh của chúng hiện rõ ràng trên những sắc vàng của hậu cảnh. Lúc thì chúng bắn lẻ tẻ, lúc thì chúng bắn hàng loạt. Quả đồi kêu gầm gừ như một bọng ong; những viên đạn văng vào núi đá với một tiếng khô khan.
“Ông đứng phơi mình ra như vậy chẳng có ích lợi gì đâu", Belmont nói.
Ông kéo ông đại tá vào phía sau một tảng đá lớn, gồ ghề, nơi đã có ba người lính Soudan ẩn núp.
"Một viên đạn là điều mà chúng ta có thể hy vọng là tốt nhất", Cochrane trả lời với một nụ cười ảm đạm. "Belmont ạ, tôi thật là ngu ngốc quá chừng khi không phản đối một cách cương quyết hơn cuộc du ngoạn kỳ cục này! Tôi hoàn toàn xứng đáng với những gì xảy ra
với tôi, nhưng khi tôi nghĩ tới những người bất hạnh kia, họ không nghi ngờ tới một chút hiểm nguy nào..."
- Tôi giả thiết rằng chúng ta không thể hy vọng có sự giải cứu?
- Không có một chút nào.
- Ông có nghĩ rằng những tràng súng này có thể gợi ý cho những toán quân ở Ouadl-Halfa tới đây không?
- Ờ, nếu chúng ta không trở về, tàu thủy sẽ báo động!
- Và trong thời gian đó chúng ta sẽ ở đâu?
"Norah khốn khổ của tôi! Em bé Norah khốn khổ!" Belmont nói lẩm bẩm đằng sau bộ ria mép lốm đốm bạc của ông.
Sau một lúc yên lặng, ông hỏi:
- Ông Cochrane này, theo ý ông thì chúng sẽ làm gì với bọn ta?
- Chúng sẽ cắt cổ họng chúng ta, hoặc đưa chúng ta tới Khartoun để làm nô lệ. Tôi không biết trong hai cách đó thì cách nào dễ chịu hơn. Kìa dù sao thì một người trong bọn chúng ta cũng đã rũ sạch hết phiền muộn rồi !
Anh lính đang bắn bên cạnh họ vừa ngã ngồi phệt xuống, đầu anh ta gục xuống giữa hai đầu gối. Anh ta vừa bị một viên đạn bắn trúng giữa đầu. Anh ấy không động đậy nữa. Anh ấy không thốt ra một tiếng rên rỉ nào. Các bạn của anh cúi xuống bên trên xác của anh, rồi họ nhún vai và lại quay đầu về phía những tên Ả Rập. Belmont lượm lấy khẩu súng của người chết cũng như cái bao đạn của anh.
"Hơn ba bì đạn. Cochrane ạ!" ông nói và để ba khúc đồng nhỏ lên lòng bàn tay. "Chúng ta đã để cho họ bắn quá sớm và bắn nhiều quá. Lẽ ra chúng ta phải đợi cho bọn thầy tu xông lên tấn công đã".
"Ông đã nổi tiếng là xạ thủ thuợng thặng đó, Belmont ạ !" ông đại tá lẩm bẩm nói. "Ông không tin là ông sẽ có thể bắn hạ được tên chỉ huy của bọn chúng à?"
- Tên đó là thằng nào ?
- Tôi nghĩ nó là tên đang ngồi trên con lạc đà trắng ở bên phải. Tên đó đang nhìn về phía chúng ta, lấy hai bàn tay che lên mắt.
Belmont nạp đạn vào súng và điều chỉnh thước ngắm. Ông nói:
- Ánh sáng xấu quá khó mà ước định khoảng cách. Được, tôi sẽ thử ở khoảng năm trăm mét!...
Ông bắn, nhưng không có gì nhúc nhích cả, cả con lạc đà trắng, cả người ngồi trên lưng nó.
-... ông có trông thấy cát bay lên không ?
- Không, tôi không trông thấy gì cả.
- Tôi chắc rằng tôi đã bắn quá xa.
- Hãy thử lại một lần nữa đi.
Belmont ngắm với một sự tin chắc hoàn toàn, nhưng con lạc đà và tên chỉ huy vẫn không động đậy. Phát thứ ba chắc đã đi qua gần hơn, vì con vật nhích nhiều bước về bên phải như kiểu nó muốn di chuyển. Belmont ném khẩu súng hết đạn xuống trong khi thốt ra một tràng than chán nản.
"Đúng là tự cái ánh sáng chết tiệt này ! " ông nói lớn, mặt đỏ bừng vì bực bội. "Cứ cho rằng tôi đã bắn uổng ba bì đạn! Ở Bisley thì chắc tôi đã bắn rơi cái khăn của nó rồi, nhưng sự phản quang chết tiệt này... Điều gì đã xảy ra với anh chàng người Pháp?".
Ông Fardet dậm chân trên bãi cát với bộ điệu một người vừa bị ong vò vẽ đốt
"Đồ chết toi!", ông gào lên. "Đồ chết toi!".
Những cái răng trắng ởn của ông lóng lánh dưới bộ ria mép đen. Ông vặn xoắn một cách dữ dội bàn tay phải của ông và máu chảy dọc theo các ngón tay của ông. Một viên đạn đã làm sượt cổ tay ông. Headingly phóng mình ra khỏi nơi trú ấn mà ông đã nấp, chắc chắn là ông có ý định bắt buộc anh chàng người Pháp nằm xuống mặt đất, nhưng ông chưa đi được ba bước thì một viên đạn đã bắn vào lưng ông, ông ngã gục xuống giữa những hòn đá. Ông muốn đứng dậy, ông lảo đảo, rồi lại ngã xuống cùng một chỗ đó. Ông vùng vẫy tứ chi như một con ngựa bị gãy lưng vậy.
"Chúng bắn trúng rồi!" ông ấp úng nói.
Ông đại tá chạy tới cứu ông, nhưng Headingly không động đậy nữa, đôi má trắng bệch của ông tì lên những hòn đá đen xì. Một năm trước đây, khi ông đi dạo chơi dưới những cây du của trường Cambridge, không bao giờ ông nghĩ rằng cuộc đời trần thế của ông sẽ bị chặt đứt trong sa mạc Libye bởi viên đạn của một tên hồi giáo cuồng tín.
Tiếng súng của toán hộ tống đã ngưng, những người lính đã hết đạn. Một người lính thứ hai đã bị giết, và một người thứ ba, người làm chức năng của hạ sĩ, đã bị một viên đạn vào đùi, anh ta ngồi trên một mảnh đá và băng bó vết thuơng với vẻ nghiêm trọng, chăm chú của một bà già đang cố gắng gắn lại những mảnh của một cái đĩa bị vỡ. Ba người khác cắm lưỡi lê lên nòng súng, họ quyết tâm bán mạng sống của họ càng đắt giá càng tốt.
"Chúng nó tới!" Belmont kêu lớn, ông đang quan sát cánh đồng.
"Được, chúng cứ tới đi!" ông đại tá trả lời trong khi cho hai bàn tay vào túi quần. "Ồ, lũ súc sinh! Lũ súc sinh chết toi!l".
Chính số phận, những tên dắt lừa khốn khổ đã làm mất sự điềm tĩnh của người quân nhân già. Trong lúc những phát súng được bắn qua, bắn lại, lũ trẻ bụi đời nằm chất đống lên nhau, làm thành một nhóm người đáng thuơng giữa các tảng đá, dưới chân đồi. Khi chúng nhìn thấy bọn thầy tu Hồi giáo xung kích, chúng nghĩ rằng chúng có nguy cơ trở thành những nạn nhân đầu tiên; thế là chúng nhảy tót lên lưng lừa, miệng thì gào thét vì sợ hãi, và chúng tìm cách chạy trốn qua cánh đồng. Nhưng tám hay mười kỵ binh đứng gác bên hông đã tiến lên trong lúc súng nổ. Chúng xông ngay vào lũ trẻ dắt lừa và chém chúng thành từng mảnh với một sự hung bạo lạnh lùng, một thằng nhỏ bụi đời chạy thoát khỏi bọn truy sát được một lúc, nhờ những bước chân dài của chúng, nhưng con lạc đà cuối cùng cũng bắt kịp con lừa của nó, con lừa này không còn trẻ trung nữa, và một tên Ả-Rập đã phóng ngọn giáo của y cắm sâu vào cái lưng đang cúi xuống. Những cái xác bé nhỏ mặc đồ trắng trông giống như một đàn cừu đang gặm cỏ trong bãi sa mạc.
Nhưng các du khách đã không có thì giờ để thuơng xót cho số phận những đứa bé dắt lừa. Chính ngay cả ông đại tá, sau sự bùng nổ của cơn giận dữ, ông cũng quên ngay bọn chúng. Bọn kỵ binh của toán tiền phong đã cho những con lạc đà phi xuống tới chân đồi; ở đó chúng nhảy xuống đất, và để mặc cho những con vật quì phục xuống một cách lặng lẽ, chúng tiến bước trên con đường nhỏ dẫn tới chỗ đất bằng. Chúng có năm mươi tên nhảy nhót từ tảng đá này sang tảng đá nọ. Không một phát súng, không chậm trễ, chúng tràn ngập ba người lính da đen, giết chết một người, và dẫm lên hai người khác, rồi chúng xuất hiện trên nền đất bằng, nơi đó một cuộc chống cự bất ngờ đã chặn chúng lại một lúc.
Đứng sát vào với nhau, các du khách đang chờ đợi bọn Ả Rập tới, mỗi người một tâm trạng khác nhau. Ông đại tá, tay đút trong túi quần, đang gắng gỏi huýt sáo miệng, mặc dù môi ông đã khô khổng. Belmont thì khoanh tay đứng tay vào một tảng đá, đầu cúi gằm, ông cau mày một vẻ bực bội, trí não con người đã được sinh ra như vậy, cho nên anh chàng người Ái Nhĩ Lan cảm thấy bối rối vì ba viên đạn đã mất và vì một tì vết vào danh tiếng xa thủ thuợng thặng hơn là vì cái số phận đang chờ đợi ông. Cecil Brown đứng thẳng người, cứng nhắc, nôn nóng kéo những cái đầu của những sợi râu mép lưa thưa. Ông Fardet vừa làu bàu vừa nhìn cái cổ tay đầy máu me của ông. Ông Stephens lắc đầu trong lúc suy nghĩ tới sự bất lực cực nhọc của ông và tiêu biểu khá đúng cho cái trật tự và luật pháp đang bị nhạo báng.
Ông Stuart, lúc nào cũng được che kín bởi cái dù của ông, thì có một bộ mặt lầm lì và một cái nhìn chăm chú. Headingly thì nằm bất động trên tảng đá : cái mũ của ông đã rơi mất; ông có vẻ rất trẻ với mái tóc vàng hoe bù xù và những đường nét rất rõ ràng. Anh chàng thông ngôn thì ngồi trên một hòn đá và vặn xoắn hai bàn tay một cách bồn chồn, nôn nóng. Đó là tình trạng của họ mà bọn Ả Rập đã bắt gặp trên lòng đường khi chúng tràn ra.
Và rồi trong lúc những tên xung kích đầu tiên xông tới để bắt những nạn nhân của chúng thì một sự cố hoàn toàn bất ngờ đã chặn chúng lại. Từ lúc nhìn thấy bọn thầy tu Hồi giáo, vị mục sư to béo của Birmingham đã cho người ta ấn tượng một người toàn thân bị cứng đơ. Ông đã không nhúc nhích, ông đã không há miệng ra nhưng bất thình lình ông nhảy chồm lên với một khí lực vừa dũng mãnh, vừa oai hùng. Phải chăng ông đã bị thúc đẩy bởi ruột thứ cuồng điên nảy sinh từ sự hoảng sợ? Dòng máu của một vị tổ tiên đã đột ngột thức dậy trong các mạch máu của ông chăng? Sự thật là ông đã phát ra một tiếng kêu man dại, cướp lấy một cây gậy và bắt đầu đánh những tên Ả Rập với một sự hung hãn còn dữ tợn hơn cả sự hung hãn của chúng. Một người trong các nhân chứng của cảnh này đã khẳng định với tôi rằng trong tất cả những hình ảnh đã làm sáng rực ký ức của ông, không có hình ảnh nào được lưu lại rõ ràng hơn cái hình ảnh của con người to lớn này, mình đẫm mồ hôi và nhảy nhót với một sự mau lẹ không thể tưởng tượng được, dùng hết tay này tới tay khác đánh vào những tên Ả Rập vừa thoái lui, vừa la hét om sòm. Rồi từ phía sau một tảng đá một ngọn giáo bay từ thấp lên cao, và vị mục sư ngã quị xuống, rồi cả đàn những tên xung kích chạy ùa ra dẫm lên trên xác ông để bắt giữ các du khách. Những con dao lấp lóe sáng, nhưng bàn tay thô cục nắm lấy cổ tay họ và cổ họ, họ bị xô đẩy và đem đi một cách thô bạo trên con đường nhỏ, mà phía dưới nó những con lạc đà đang đứng đợi.
"Quốc vương vạn tuế!" Tù trưởng vạn tuế!" anh chàng người Pháp kêu lên trong lúc vung vẩy cái bàn tay không bị trói của anh ta.
Một nhát báng súng vào lưng bắt ông ta im lặng.
Vào lúc này thì cái nhóm nhỏ các khách du ngoạn đang đứng dưới chân núi Abousir, nếu bọn người Ả Rập không vung vẩy những khẩu súng của chúng thì họ đã có thể tưởng rằng họ bị sa vào tay những tên man rợ của thế kỷ thứ bảy. Thật sự không có một chút gì khác biệt giữa những kẻ bắt cóc họ với những chiến binh của sa mạc là những người đầu tiên đã mang biểu tượng lưỡi liềm ra ngoài nước Ả Rập. Đông phương là bất biến. Những tên kẻ cướp thầy tu Hồi giáo vẫn không kém dũng cảm, kém hung bạo, kém cuồng tín hơn là tổ tiên của chúng. Chúng đứng thành vòng tròn, tựa lên những khẩu súng hay những ngọn giáo của chúng, và ngắm nghía những kẻ bị bắt với những cái khăn đỏ thắt nút quanh cổ và quanh đầu, đến nỗi mà những cái nhìn hung hãn của chúng nom như toé lên từ một cái khung đỏ sẫm, những đôi giày màu vàng bằng da sống, một cái áo dài trắng với những mảnh nâu và vuông ghép lại với nhau. Tất cả bọn chúng đều được vỏ trang bằng súng, một tên trong bọn chúng nó một cái tù và đeo dưới nách. Một nửa trong bọn chúng là người da đen: hai gã đàn ông đẹp trai, mình đầy bắp thịt, những chàng Hercules da đen chính cống. Những tên Ả Rập bagarras họp thành một nửa kia; người nhỏ bé, da nâu khô khan, nóng nẩy, với những con mắt hung ác và những cặp môi mỏng dính. Tên chỉ huy cũng là một tên Bagarra nhưng y to lớn hơn những đồng bào của y, và một chòm râu đen dài xuống tới ngực y; dưới cặp lông mày rậm rạp đen xì đôi mắt lạnh lùng và cương nghị của y sáng long lanh như thủy tinh trong khi y kiểm tra các tù nhân của y. Ông Stuart đã được khiêng xuống phía dưới; ông đã bị mất cái mũ, ông vẫn còn bộ mặt đỏ bừng vì giận dữ, và ở một chỗ cái quần của ông bị dính vào cẳng chân. Hai người lính Soudan còn sống sót, những y phục màu xanh đầy các vết máu, đang đứng yên, không nhúc nhích và rất chăm chú, bên cạnh cái nhóm người xơ xác này.
Tên chỉ huy lần lượt nhìn vào mặt họ, từng người một trong khi lấy tay vuốt ve bộ râu của y. Sau đó y thốt ra mấy tiếng với một giọng khàn khàn, oai vệ, và Mansoor bước ra, lưng khom xuống và những lòng bàn tay cầu khẩn. Bao giờ cũng có một cái gì đó hài hước trong cái váy của hắn kêu xột xoạt trước ngọn gió và trong cái kiểu áo tơi không có tay che phủ hai vai của hắn; nhưng lúc này, dưới ánh nắng buổi trưa, ở giữa vòng vây của những bộ mặt hung tợn, cái bóng của hắn đã cho thêm vào cảnh trí môt phần bổ sung kỳ cục của sự kinh hoàng. Chàng thông ngôn chào đi, chào lại như một con búp bê máy trước khi đột ngột ngã lăn ra, mặt úp xuống đất, sau một câu nói ngắn ngủi của tên chỉ huy. Anh ta vùi kín trán và hai bàn tay vào trong cát.
"'Thế là nghĩa làm sao, Cochrane?" Belmont hỏi. "Tại sao hắn lại làm cho người ta chú ý như vậy nhỉ?"
Ông đại tá trả lời:
- Theo chỗ tôi hiểu thì tất cả đều chấm dứt với chúng ta.
"Nhưng thật là vô lý!" anh chàng người Pháp bị hoàn toàn khích động, kêu lớn lên. "Tại sao những người kia lại làm cho tôi phải đau khổ, dù là một chút ít thôi? Tôi chưa bao giờ làm hại họ cả. Ngược lại, lúc nào tôi cũng đã là bạn của họ. Nếu tôi có thể nói chuyện với họ, tôi sẽ làm cho họ hiểu được tôi. Ê này anh thông ngôn! Mansoor!..."
Những điệu bộ đầy nhiệt tình của ông Fardet đã lôi kéo sự chú ý của tên chỉ huy bagarra. Tên này lại phát ra một câu hỏi ngắn gọn. Mansoor quì gối dưới chân y, trả lời y.
-... Nói với ông ấy rằng tôi là người Pháp, anh thông ngôn! nói với ông ấy rằng tôi là một người bạn của Quốc Vương, nói với ông ấy rằng các đồng bào của tôi không bao giờ có xích mích với ông ấy, mà những kẻ thù của ông ấy cũng là kẻ thù của chúng tôi!
Mansoor nói:
- Ông chỉ huy hỏi ông theo tôn giáo nào. Ông ấy nói Quốc vương không cần chút nào tới tình bạn của những kẻ ngoại đạo và những kẻ vô tín ngưỡng.
- Hãy giải thích cho ông ấy rằng ở Pháp chúng tôi coi tất cả các tôn giáo đều tốt cả.
- Ông chỉ huy nói rằng chỉ có con chó báng bổ tôn giáo và đứa con trai của một con chó mới khẳng định rằng tất cả mọi tôn giáo cũng đều tốt như nhau. Ông ấy nói rằng nếu ông đích thực là bạn của Quốc Vương, thì ông sẽ tiếp nhận kinh Coran và sẽ trở thành ngay tại nơi đây một tín đồ chân chính. Trong trường hợp đó, ông ấy sẽ gởi ông về Khartoum bình an vô sự.
- Nếu không thì sao?
- Nếu không thì ông sẽ chiu chung số phận với những người khác.
- Vậy thì hãy trình lên ông chỉ huy những lời chúc tụng của tôi và nói với ông ấy rằng người Pháp không có thói tục thay đổi tôn giáo dưới sự cưỡng ép.
Viên chỉ huy nói ra một vài tiếng, rồi quay lại bàn bạc với một tên Ả Rập thấp lùn đứng bên cạnh y.
"Ông ấy nói, thưa ông Fardet" anh chàng thông ngôn nói tiếp, "nếu ông còn nói nữa thì ông ấy sẽ làm ông biến thành một miếng thịt băm để cho chó ăn. Xin ông đừng nói gì thêm làm cho ông ấy nổi giận, vì ông ấy đang quyết định số phận của chúng ta".
"Hắn là ai vậy?" ông đại tá hỏi.
- Ali Vabrahim. Chính là người năm ngoái đã mở cuộc hành quân vào làng của người Nubie và là người đã tàn sát tất cả dân làng ở đó.
“Tôi đã nghe nói tới hắn ta", ông đại tá nói. Hắn ta đã nổi danh là một trong những tên trùm thầy tu Hồi giáo gan dạ nhất và cuồng tín nhất. Cảm ơn Thượng đế là các phụ nữ đã không lọt vào tay chúng!"
Hai tên Ả Rập trao đổi vài câu với sự dè dặt khắc khổ làm người ta kinh ngạc trong một chủng tộc ở miền Nam, chúng quay lại phía anh thông ngôn vẫn còn quì gối trên bãi cát. Chúng đưa ra nhiều câu hỏi linh tinh về các tù nhân trong khi chỉ chỏ hết người này tới người nọ. Chúng lại bàn bạc với nhau một lần nữa, và sau cùng thì chúng nói với Mansoor một vài tiếng, cùng lúc kèm theo một cử chỉ khinh mạn bằng bàn tay để biểu thị rằng y có thể dịch những câu này cho các du khách.
"Thưa Quí vị, ta hãy tạ ơn trời, vì tôi tin rằng chúng ta được thoát nạn trong lúc này!" Mansoor nói thì thào trong khi chùi cái trán lem luốc cát của y. "Ali Wad lbrahim nói rằng một kẻ vô tín ngưỡng chỉ đáng lãnh một nhát kiếm của người con trai của đấng tiên tri, nhưng đấng bề trên Omdurman cho rằng có số vàng mà gia đình các quí vị trả cho các quí vị thì tốt hơn. Cho tới khi nộp khoản tiền chuộc đó, quí vị sẽ có thể làm việc như những người nô lệ của Quốc Vương trừ khi ngài quyết định bắt quí vị phải chết. Quí vị sẽ leo lên lưng lạc đà và quí vị sẽ cùng đi với đoàn quân.
Chờ tới khi chấm dứt việc thông dịch, tên chỉ huy ra một cái lệnh ngắn gọn, một tên da đen bước một bước về phía trước và giơ cao lên một thanh gươm mũi cong, dài. Anh chàng thông ngôn co dúm người lại như một con thỏ khi trông thấy một con chồn đen và y lại phủ phục xuống trên bãi cát.
"Việc gì xảy ra vậy, Cochrane?" Cecil Brown hỏi. Quả thực viên đại tá đã từng phục vụ ở Đông Phương và ông là người duy nhất trong bọn du khách đã có một vài hiểu biết về tiếng Ả Rập.
- Theo chỗ mà tôi hiểu được thì hắn ta nói giữ lại mạng sống của anh thông ngôn thật là vô ích, vì không có ai quan tâm tới chuyện trả tiền chuộc cho anh ta, và anh ta lại quá mập để làm một tên nô lệ tốt.
"Rõ tội nghiệp!" Brown kêu lên "Này, Cochrane, hãy nói với bọn chúng tha mạng cho anh ta. Chúng ta sẽ không để cho anh ấy bị sát hại trước mắt chúng ta chứ? Báo cho chúng biết là chúng ta sẽ gom góp tiền bạc trong chúng ta. Tôi đồng ý với bất cứ một số tiền phải chăng nào".
"Tôi cũng tham gia cho tới giới hạn các khả năng của tôi". Belmont la lớn.
"Chúng ta sẽ ký một tờ bảo chứng", ông luật sư nói. "Nếu tôi có được một tờ giấy và một cái bút chì, tôi sẽ thảo văn bản trong một lát, và tên chỉ huy này sẽ có thể tin vào hiệu lực của nó".
Nhưng tiếng Ả Rập của ông đại tá còn kém quá và chính Mansoor thì lại quá hoảng sợ không còn hiểu được cái đề nghị mà anh ta là đối tượng. Tên da đen nhìn lão chỉ huy để hỏi ý kiến, rồi cái tay dài thòng, đen đúa của y dãn ra. Nhưng anh chàng thông ngôn gào lên một câu làm nhát chém ngừng lại, tên chỉ huy và gã phụ tá bước tới gần hắn. Những tên khác làm thành một vòng tròn chung quanh con người đang phủ phục van xin lòng thương.
Ông đại tá không hiểu nguyên do của sự thay đổi đột ngột này, nhưng một bản năng đã cảnh báo Stephens làm ông tái mét đi vì hoảng sợ.
"Ôi đồ khốn kiếp! " ông la lớn mặt tái nhợt đi. "Câm miệng mi lại, đồ khốn nạn! Im miệng đi! thà rằng chết... Phải, chết một ngàn lần!"
Đã quá trễ rồi. Những du khách đã đoán ra với phương sách đê tiện nào tên hèn nhát hy vọng cứu vãn mạng sống của hắn; hắn sẽ tiết lộ những người đàn bà. Họ nhìn tên chỉ huy, mà nét mặt để lộ ra sự khinh bỉ của một con người dũng cảm, ra một dấu hiệu cao ngạo
tỏ sư ưng thuận; rồi Mansoor nói một cách vội vã trong lúc chỉ lên đỉnh núi! Theo một hiệu lệnh của tên chỉ huy, hơn mười tên chiến binh leo lên con đường nhỏ và trở lại chỗ nền phẳng; tới đó các du khách không còn nhìn thấy chúng nữa, họ nghe thấy một tiếng kêu sắc nhọn, một tiếng gào thét kéo dài của sự kinh ngạc và khủng khiếp. Một vài lát sau bọn man rợ tái hiện, chúng đi vây quanh hai người đàn bà. Sadle là người có đôi chân nhanh nhẹ nên đi xuống sườn đồi cùng với những tên đi đầu và cổ vũ người cô bằng cách quay đầu nhìn lại phía bà ấy! Người con gái già vùng vẫy chống cự giữa bọn chiến binh mặc đồ trắng, nàng có dáng điệu một con gà nhép bị lôi ra khỏi ổ.
Cặp mắt đen của tên chỉ huy, thản nhiên trước cảnh tượng của cô Adams, nhưng lại bốc lửa lên khi y nhìn thấy cô thiếu nữ. Theo lệnh của y, các tù nhân được dẫn tới chỗ những con lạc đà đang quì gối. Họ đã bị lục soát, các vật dụng trong túi họ được ném vào một cái bao mà Aail Wad Ibrahim đã tự tay mình lấy dây buộc lại.
"Này Cochrane" Belmont thì thầm nói. "chúng đã không phát hiện được khẩu súng lục nhỏ mà lúc nào tôi cũng mang trong người. Nếu tôi bắn hạ tên không ngôn khốn kiếp kia về tội đã tố cáo các phụ nữ có được không?"
Ông đại tá lắc đầu.
"Tốt nhất là ông hãy giữ nó đấy". Ông trả lời với một giọng ảm đạm "Các phụ nữ sẽ có thể rất cần tới nó trước khi kết thúc mọi chuyện này!”.
Bookmarks