-
1984 - George Orwell
Chương kết
Winston không biết mình đang ở đâu. Hẳn là tại Bộ Tình Yêu, nhưng không có cách nào chắc được. Anh ở trong một xà lim cao trần không cửa sổ có tường lát sứ trắng xóa. Đèn ấn dội vào phòng một ánh sáng lạnh; có tiếng ù trầm liên tục phỏng như liên hệ gì với máy dẫn khí. Một chiếc ghế dài hay kệ đủ rộng để ngồi chạy quanh tường, chỉ chừa chỗ cho cửa ra vào và cho một chậu vệ sinh không có tọa gỗ ở bên kia cửa. Có bốn máy truyền hình, mỗi bức tường một cái.
Anh thấy đau ngầm trong bụng. Nỗi đau nhoi nhói từ khi chúng ném anh vào toa xe bưng kín chở anh đi. Nhưng anh cũng thấy đói, một loại cơn đói chập chờn nhấm gặm. Dám đã hai mươi tư tiếng anh chưa ăn gì, cũng có thể đã ba mươi sáu tiếng. Anh vẫn không biết và chắc không bao giờ biết chúng bắt anh vào buổi sáng hay buổi chiều. Từ khi anh bị bắt anh chưa được cho ăn.
Anh ngồi hết sức yên trên chiếc ghế dài hẹp, hai tay khoanh trên đầu gối. Anh đã học được cách ngồi yên. Hễ cử động bất thường là bị chúng quát tháo từ máy truyền hình. Nhưng sự thèm thức ăn tăng trong người anh. Anh thèm thuồng nhất một khẩu bánh mì. Anh nhớ mang máng có vài vụn bánh mì trong túi bộ áo liền quần của anh. Còn có thể — anh nghĩ vậy vì thỉnh thoảng có cái gì làm nhột cẳng anh — có một mảnh vỏ bánh lớn trong đó. Cuối cùng sự ham biết cho ra lẽ thắng sự sợ hãi của anh; anh thò một tay vào túi.
"Smith !" Một tiếng quát thoát ra từ máy truyền hình. "6079 Smith ! Trong xà lim phải bỏ tay ra ngoài túi !"
Anh ngồi yên trở lại, hai tay khoanh trên đầu gối. Trước khi bị mang tới đây, anh đã bị dẫn đến một nơi khác dường như là một nhà tù thường hay một trại giam tạm thời thuộc sự sử dụng của đội tuần tra. Anh không rõ mình ở đó bao nhiêu lâu; ít ra cũng vài giờ; không có đồng hồ và ánh ban ngày khó ước được thời gian. Đấy là một nơi ồn ào, hôi hám. Chúng nhốt anh vào một căn xà lim giống như căn hiện tại, nhưng bẩn thỉu phát gớm và lúc nào cũng đầy chật khoảng mười đến mười lăm người. Phần đông họ là tội phạm thường, nhưng có vài tù nhân chính trị trong đám. Anh đã ngồi im sát tường, chịu sự xô nhào của các thân hình dơ dáy, óc quá bận rộn bởi sự sợ hãi và chứng đau bụng để chú ý tới cảnh xung quanh, nhưng vẫn nhận ra được sự khác biệt lạ lùng về cư xử giữa tù nhân thuộc Đảng và phạm nhân khác. Tù nhân thuộc Đảng bao giờ cũng im lặng sợ sệt, còn phạm nhân thường hình như chẳng nể gì ai. Họ hét chửi lính canh, mạnh dạn đánh trả lại khi hành trang của họ bị tịch thu, viết chữ tục tỉu lên trên sàn, ăn thực phẩm lậu lôi khỏi chỗ ẩn bí mật trong người họ, và dám la trả lại máy truyền hình khi máy tính khôi phục trật tự. Mặt khác một số người trong họ có vẻ thông đồng với lính canh, gọi chúng bằng biệt danh, xin được chúng thí truyền thuốc lá qua lỗ rình trong cửa. Lính canh ngược lại, đối xử khá nhân nhượng với tội phạm thường, ngay khi chúng bắt buộc phải cứng cỏi. Các câu chuyện hướng nhiều về những trại khổ sai mà các tù nhân ngờ mình sẽ bị giải đến. Anh tóm hiểu rằng trong trại đời "khỏe" khi mình có liên lạc tốt và biết mánh lới. Có đủ trò hối lộ, tư vị và bóc lột, có sự đồng tính luyến ái và mãi dâm, có cả rượu lậu cất từ khoai tây. Các chức vụ tin cậy chỉ dành cho tội phạm thường, đặc biệt cho quân cướp và kẻ sát nhân họp nhau thành một thứ quý tộc. Mọi việc dơ dáy để cho tù nhân chính trị làm.
Liên tiếp có sự đi đến tù nhân đủ mặt: con phe ma túy, kẻ trộm, quân cướp, con buôn chợ đen, dân say rượu, giống đĩ điếm. Vài tên say rượu hung dữ đến nỗi tù nhân khác phải hợp sức mới kềm chế nổi. Một người đàn bà bệ rạc, đồ sộ, vào trạc sáu mươi, với bộ ngực to lớn lúc lắc và lọn tóc bạc dày xõa xuống trong lúc dãy dụa, vừa đá vừa hét trong khi bị bốn tên lính canh khiêng vào, mỗi tên nắm một góc bà. Chúng giật đôi giầy ống mà bà ta tính dùng nện chúng, và ném bà trên lòng Winston làm anh suýt bị bể xương đùi. Người đàn bà ngồi chổm dậy, rủa theo chúng: "Đ.M. quân chó đẻ." Rồi, nhận ra mình đang ngồi trên một vật gì gồ ghề, bà ta tuột xuống ghế dài khỏi đầu gối Winston.
"Xin lỗi cưng nhé," bà ta nói. "Qua đâu muốn ngồi trên cưng, chỉ tại lũ địt đó đặt qua như vậy. Chúng không biết cư xử với phụ nữ, phải không à ?" Bà ta ngưng nói, vuốt ngực ợ. "Xin lỗi," bà ta tiếp, "qua khó ở trong mình, thiệt đó."
Bà cúi người xuống và nôn ọe tứ tung ra sàn.
"Đỡ hơn nhiều," bà ta vừa nói vừa nhắm mất ưỡn mình ra sau. "Chớ bao giờ giữ thứ đó trong người, qua vẫn bảo vậy. Phải tống nó ra khi nó mới lọt trong dạ dày, như thế này nè."
Bà ta phục sức, quay đầu lại nhìn Winston và có vẻ tức thì ưa thích anh. Bà ta đưa một cánh tay mập mạp ra quàng vai anh kéo anh lại gần bà, thở bia và mùi mửa vào mặt anh:
"Tên cưng là chi ?" bà ta hỏi.
"Smith," Winston đáp.
"Smith ư ?" người đàn bà nói. "Ủa lạ. Tên qua cũng là Smith. Ý sao, qua là mẹ cưng được há !" bà ta nói thêm giọng đầy tình cảm.
Bà ta có thể chính là mẹ anh, Winston nghĩ. Bà ta ở vào khoảng tuổi và có dáng vóc thích hợp, và hẳn nhiên con người phải đổi ít nhiều sau hai mươi năm bị giam cầm trong trại khổ sai.
Không ai khác nói chuyện với anh. Tới một mức kỳ dị, tội phạm thường lờ phắt tù nhân thuộc Đảng. "Tụi chính," họ gọi những người này như vậy, bằng một giọng thờ ơ khinh miệt. Tù nhân thuộc Đảng cơ hồ sợ hãi nói chuyện với bất cứ ai, hơn hết là sợ nói chuyện nói nhau. Chỉ một lần, khi hai Đảng viên, đều là phụ nữ, ngồi kề sát nhau trên ghế dài, anh nghe lỏm được giữa tiếng ồn quanh vài lời thì thầm vội vã; đặc biệt anh nghe ám chỉ tới một cái gì gọi là "phòng một lẻ một" anh không hiểu là chi.
Chắc độ hai ba giờ đã qua từ lúc chúng mang anh tới đây. Chứng đau bụng của anh không hề tan, nhưng nó thỉnh thoảng giảm thỉnh thoảng tăng, và ý nghĩ của anh theo đó vươn lên hoặc dẹp xuống. Khi cơn đau tăng anh chỉ nghĩ tới nỗi đau và sự thèm thức ăn thôi. Khi cơn đau dịu xuống, sự kinh hoảng xâm nhập anh. Có những lúc anh tưởng tượng thấy những điều sẽ xảy ra cho anh một cách sống động đến nỗi tim anh phi nước đại và hơi thở anh dừng lại. Anh cảm thấy dùi cui đập trên vai anh và giầy ống bọc sắt giẫm lên cẳng anh; anh thấy mình bò trên sàn la hét xin tha qua hàm răng bị bể. Anh gần như không nghĩ tới Julia. Anh không thể để tâm đến nàng. Anh yêu nàng và sẽ không phụ nàng; nhưng đó chỉ là một sự kiện được anh hiểu biết như anh biết phép toán. Anh không cảm thấy yêu nàng, và hầu như không tự hỏi hiện nàng ra sao. Anh nghĩ tới ÓBrien nhiều hơn, với một tia hy vọng chập chờn. ÓBrien chắc biết anh đã bị bắt. Hội Tình Thương, theo lời ông ta, không bao giờ tìm cách cứu hội viên của mình. Nhưng có dao cạo; nếu được, họ có thể đưa vào dao cạo. Không chừng anh sẽ có năm giây trước khi lính gác ùa vào xà lim. Dao cạo sẽ cắt anh lạnh cháy, và ngay những ngón tay cầm nó sẽ bị cắt thấu xương. Mọi sự quay về tấm thân ốm yếu của anh, hơi đau một chút đã co rúm lẩy bẩy. Anh không chắc mình sẽ dùng dao cạo nếu có dịp. Sống từng chốc lát, nhận sống thêm mười phút dù chắc tận cùng sẽ bị tra tấn, hợp lẽ tự nhiên hơn.
Thỉnh thoảng anh thử đếm số gạch sứ lát tường xà lim. Nhẽ ra dễ, nhưng anh cứ đếm quên hoài. Thường hơn, anh tự hỏi anh đang ở đâu, hiện là mấy giờ. Có lúc anh chắc ngoài trời sáng tinh, sau đó anh chẳng kém chắc ngoài đó tối đen. Nơi đây, linh tính anh cho biết, ánh đèn không bao giờ tắt. Đó là nơi không bóng tối: bây giờ anh hiểu tại sao ÓBrien có vẻ nhận ra lời ám chỉ. Tại Bộ Tình Yêu không có cửa sổ. Xà lim của anh có thể ở ngay trung tâm tòa nhà hoặc ở sát tường ngoài; nó có thể ở mười tầng dưới đất hay ở ba mươi tầng trên. Anh chuyển mình tưởng tượng từ chỗ này tới chỗ kia, và thử theo cảm giác của thân thể mà nhận định xem mình ở lửng trên cao hay bị chôn sâu dưới đất.
Có tiếng giầy ống đi bên ngoài. Cánh cửa sắt mở bùng. Một viên sĩ quan trẻ bận y phục đen, hình dạng sáng chói nhờ áo da được đánh bóng, với bộ mặt cứng nét xanh xao giống như một cái mặt nạ sáp, bước nhanh vào. Hắn ra lệnh cho lính canh ở ngoài đem tù nhân do chúng dẫn vào trong. Thi sĩ Ampleforth lê vào xà lim. Cánh cửa đóng xầm lại.
Ampleforth do dự một lát làm như nghĩ rằng có lối ra khác, rồi bắt đầu đi đi lại lại trong xà lim. Ông ta chưa nhận ra sự có mặt của Winston. Đôi mắt mờ của ông nhìn vào tường khoảng một thước trên mức đầu Winston. Ông ta không đi giầy; mấy ngón chân lớn bẩn thỉu lồi ra khỏi lỗ thủng của bí tất ông. Cũng đã nhiều ngày ông chưa cạo râu. Một bộ râu rậm bao phủ mặt ông tới tận gò má, ban cho ông một dáng vẻ trụy lạc không hợp với vóc người to yếu cùng cử động bồn chồn của ông.
Winston hơi trổi dậy khỏi trạng thái uể oải. Anh phải nói chuyện với Ampleforth, và liều chịu sự quát tháo của máy truyền hình. Biết đâu Ampleforth là kẻ mang dao cạo đến.
"Ampleforth," anh gọi.
Không có tiếng hét từ máy truyền hình. Ampleforth dừng chân, giật mình nhẹ. Mắt ông hướng chậm về phía Winston.
"A, Smith !" ông nói. "Cả anh nữa ư ?"
"Ông vào đây vì cớ gì ?"
"Nói thật anh nghe," ông ta lúng túng ngồi xuống ghế dài trước mặt Winston. "Chỉ có một tội thôi, đúng không ?" ông ta nói.
"Và ông đã phạm tội đó ư ?"
"Hẳn là có."
Ông ta đặt một tay trên trán và bóp thái dương một hồi như thể cố nhớ lại điều gì.
"Chuyện nó tới," ông ta mơ hồ mở đầu. "Tôi ngẫm ra được một lần — một lần có thể phạm pháp. Chắc chắn là một lúc sơ ý. Hồi đó chúng tôi sửa soạn xuất bản tập thơ tối hậu của Kipling. Tôi cho giữ chữ "God" tại cuối câu. Tôi không thể làm khác được !" ông gần như tức tối nói thêm, mặt ngẩng lên nhìn Winston. "Không thể đổi câu ấy được. Vần là "rod". Liệu anh có biết rằng chỉ có mười hai vần hợp với "rod" trong toàn ngữ vựng không ? Tôi đã nặn óc hàng ngày trời. Không có một vần nào khác."
Nét mặt ông thay đổi. Vẻ phiền muộn bay mất và trong một lúc ông coi bộ gần như hài lòng. Một sự nồng nhiệt tinh thần, cái vui sướng của một thầy đồ khám phá ra một điều vô tích sự, bừng sáng qua râu tóc bẩn thỉu bờm xờm.
"Anh có hề nghĩ rằng cả lịch sử văn thơ Anh quốc bị hạn định bởi sự Anh ngữ thiếu vần không ?" ông nói.
Không, ý nghĩ đặc biệt đó không bao giờ đến với Winston. Mà trong hoàn cảnh hiện tại nó cũng không kích động anh như một điều quan trọng hay ho.
"Ông có biết bây giờ là khoảng mấy giờ không ?" anh hỏi.
Ampleforth lại lộ vẻ ngạc nhiên. "Tôi chẳng mấy nghĩ tới điều này. Chúng bắt tôi — có lẽ hai — hoặc có thể ba ngày trước." Mắt ông đảo quanh tường tưởng chừng ông bán tín có cửa sổ đâu đó. "Tại nơi đây không phân biệt được đêm ngày. Tôi không biết làm sao tính được thời gian."
Họ nói chuyện cóc nhẩy vài phút, rồi không rõ vì lý do gì, một tiếng quát từ máy truyền hình ra lệnh cho họ im lặng. Winston ngồi yên, hai tay khoanh lại. Ampleforth quá to lớn nên không ngồi thoải mái trên ghế dài hẹp được, quậy đi quậy lại, khoanh tay gầy guộc hết quanh đầu gối này đến quanh đầu gối kia. Máy truyền hình sủa bắt ông ngồi yên. Thời gian trôi qua. Hai mươi phút hay một giờ — khó định được. Một lần nữa có tiếng giầy ống bên ngoài. Ruột Winston quặn lại. Chẳng bao lâu, rất sớm, có thể năm phút nữa, không chừng ngay bây giờ, tiếng giầy ống giậm sẽ có nghĩa là số anh đã tới.
Cánh cửa mở. Viên sĩ quan có bộ mặt lạnh lùng bước vào xà lim. Hắn giơ nhanh tay chỉ Ampleforth.
"Phòng 101," hắn nói.
Ampleforth cất bước vụng về giữa mấy tên lính canh, khuôn mặt hơi lộ vẻ xúc động, tuy không hiểu.
Khoảng một thời gian có vẻ khá lâu trôi qua. Chứng đau bụng của Winston đã phát lại. Óc anh buông thả quanh quẩn có một bẫy, như thể một trái banh rơi đi rơi lại vào có một lỗ. Anh chỉ có sáu ý nghĩ. Chứng đau bụng; một mẩu bánh mì; máu me và tiếng hét; ÓBrien; Julia; dao cạo. Ruột anh lại quặn lên một lần nữa, tiếng giầy ống nặng lại sát gần. Khi cánh cửa mở, làn gió lùa do nó gây ra mang lại một mùi mồ hôi thiu. Parsons bước vào xà lim. Anh ta mặc quần cộc ka ki và áo sơ mi thể thao.
Lần này Winston ngạc nhiên đến quên mình.
" Anh mà ở đây !" anh nói.
Parsons liếc nhìn Winston, cái nhìn không lộ vẻ quan tâm hay lạ lùng mà chỉ chứa đựng nỗi bi ai. Anh ta bắt đầu giật bước đi đi lại lại, hẳn nhiên không ngồi yên được. Mỗi khi anh ta đưa thẳng đầu gối tròn trĩnh của anh lên, thấy rõ nó run rẩy. Mắt anh ta mở rộng sững nhìn tựa như anh không thể ngăn mình trông về phía một vật gì đó ở khoảng không trung.
"Vì sao anh vào đây ?" Winston hỏi.
"Tội tư tưởng !" Parsons nói, gần như mếu. Giọng anh bao hàm tức thì một sự nhận tội hoàn toàn cùng một sự ghê tởm khó tin rằng một danh từ như vậy có thể được đem áp dụng vào anh. Anh ta dừng chân trước mặt Winston và bắt đầu sốt sắng phân bua: "Anh không nghĩ họ sẽ bắn tôi chứ, anh bạn ? Họ không bắn mình nếu mình không thực sự làm gì — chỉ nghĩ thôi, nhưng làm sao ngăn được ý nghĩ ? Tôi biết họ xét công minh. Ồ, tôi tin họ như vậy ! Họ sẽ rõ thành tích của tôi, phải không ? Anh biết tôi là gã thế nào. Kiểu như chẳng phải là một gã xấu xa. Không thông minh, dĩ nhiên, nhưng linh hoạt. Tôi hết sức phục vụ Đảng, có đúng không ? Anh có nghĩ tôi sẽ thoát với năm năm không ? Cho là mười năm đi ? Một gã như tôi sẽ có thể khá hữu ích trong một trại lao động. Họ sẽ không bắn tôi vì đi trật đường chỉ một lần thôi chứ ?"
"Anh có tội không ?" Winston hỏi.
"Đương nhiên tôi có tội !" Parsons vừa kêu vừa nhìn vào máy truyền hình với một vẻ đê hèn. "Anh không nghĩ Đảng có thể bắt một kẻ vô tội chứ anh ?" Gương mặt ếch của anh ta trầm tĩnh hơn và còn ra vẻ hơi sùng đạo. "Tội tư tưởng là một cái gì ghê gớm, anh bạn ạ," anh ta trịnh trọng nói. "Nó âm ỉ. Nó có thể xâm nhập mình mà mình không hay. Anh có biết nó choán lấy tôi thế nào không ? Trong giấc ngủ của tôi ! Phải, sự thể là vậy. Đấy tôi đó, luôn tay lao lực, cố gắng làm tròn phận sự — không bao giờ biết mình chứa ý xấu trong óc. Thế rồi tôi bắt đầu nói mơ trong giấc ngủ. Anh có biết tôi bị nghe thấy nói gì không ?"
Giọng anh ta chìm xuống như một người bắt buộc vì y học phải thốt ra một lời tục tỉu.
"Đả đảo Bác ! Phải, tôi nói vậy ! Hình như tôi nói đi nói lại như thế. Giữa mình với nhau, anh bạn ạ, tôi sung sướng vì bị bắt trước khi sự thể đi xa hơn nữa. Anh có biết tôi sẽ nói gì với họ khi tôi ra trước tòa không ? "Cảm ơn các ông," tôi sẽ nói, "cảm ơn các ông đã cứu tôi trước khi quá muộn.""
"Ai tố cáo anh ?" Winston hỏi.
"Đó là con gái tôi," Parsons trả lời với một vẻ hãnh diện đau buồn. "Nó nghe lỏm qua lỗ chìa khóa. Nghe được tôi nói là đúng hôm sau nó tâu lại đội tuần tra. Khá lanh thay một đứa bé bẩy tuổi, nhỉ ? Tôi không oán gì nó chuyện đó. Thực ra tôi hãnh diện về nó. Sao thì việc ấy cũng chứng tỏ tôi dạy dỗ nó đúng tinh thần."
Anh ta giật thêm vài bước tới lui nhiều lần, mắt nhìn khao khát về phía chậu vệ sinh. Rồi bỗng anh tụt quần cộc xuống.
"Xin lỗi anh bạn," anh ta nói. "Tôi không cầm được. Tại đợi đó."
Anh ta đặt phịch bộ mông phì nộn trên chậu vệ sinh. Winston lấy tay phủ mặt.
"Smith !" tiếng quát thốt ra từ máy truyền hình. "6079 Smith W ! Để lộ mặt ra. Không được phủ mặt trong xà lim."
Winston thôi che mặt. Parsons đi cầu vừa ồn vừa nhiều. Bấy giờ mới hay lỗ tháo có chỗ hỏng và xà lim thối um hàng tiếng sau.
Parsons bị dẫn đi. Thêm nhiều tù nhân đến rồi đi một cách bí mật. Một lần một phụ nữ bị gọi đến "phòng 101" và Winston để ý thấy bà ta tuồng như quắt người lại và biến sắc khi nghe thấy hai tiếng đó. Đến lúc sẽ là buổi chiều nếu anh bị dẫn tới đây vào buổi sáng; hay sẽ là nửa đêm nếu anh bị dẫn tới đây vào buổi chiều. Có sáu tù nhân trong xà lim, cả đàn ông lẫn đàn bà. Mọi người ngồi thật yên. Trước mặt Winston là một người đàn ông có một bộ mặt không cằm, răng vẩu, giống hệt mặt của của một loài gặm nhấm to lớn vô hại. Đôi má phính có đốm của ông ta phình ra ở mé dưới đến nỗi khó không tin ông chứa thức ăn trong các ngăn nhỏ trong đó. Đôi mắt xám nhạt của ông rụt rè lướt từ người này qua người kia, và ngoảnh đi nhanh mỗi khi bắt gặp mắt ai.
Cánh cửa mở, cho dẫn vào một tù nhân khác có dáng điệu khiến Winston rùng mình một chốc. Đó là một người đàn ông thường, coi bộ khốn cùng, có lẽ là một chân kỹ sư hay cán sự. Điều đáng ngạc nhiên là sự hốc hác trên mặt ông ta. Mặt ông giống như cái sọ. Vì miệng ông mỏng mảnh và mắt ông coi to quá trớn, mà mắt ông lại hình như chứa đựng một mối hận thù đầy sát khí không nguôi chống một người hay một vật gì.
Người đàn ông ngồi xuống ghế dài cách Winston một chút. Winston không nhìn ông nữa nhưng bộ mặt sọ đau khổ của ông day dẳng trong óc anh chẳng khác gì ông ta ngồi ngay trước mặt anh. Bỗng nhiên anh ý thức ra sự thể. Ông ta đang chết đói. Cũng ý nghĩ đó dường như đồng thời thoáng qua óc mọi người trong xà lim. Khắp quanh ghế dài hơi nhộn nhạo lên. Mắt người không cằm lướt lâu về phía người mặt sọ, rồi hổ thẹn ngoảnh đi, xong vẫn quay trở lại như bị thúc đẩy bởi một sức lôi cuốn mãnh liệt. Chẳng bao lâu ông ta bắt đầu cựa quậy trên ghế. Cuối cùng ông ta đứng dậy, lạch bạch qua giữa xà lim, thọc tay vào túi bộ áo liền quần rồi lúng túng đưa cho người mặt sọ một mẩu bánh mì đen.
Một tiếng gầm tức tối thốt ra từ máy truyền hình. Ngưòi không cằm nhẩy về bước cũ. Người mặt sọ đã quằng tay nhanh về sau hông như để chứng tỏ cho thế giới ông ta từ chối món quà.
"Bumstead !" tiếng nói gầm lên. "2713 Bumsteadt ! Vứt mẩu bánh mì kia đi !"
Người không cằm thả cho miếng bánh mì rơi xuống sàn.
"Đứng yên tại chỗ," giọng nói cất lên. "Nhìn thẳng vào cửa. Không được đụng đậy."
Người không cằm tuân lời. Đôi má phính rộng của ông rung rinh bất khả chế. Cánh cửa mở bùng. Viên sĩ quan trẻ vừa bước vào và đứng sang bên thì nhô ra từ sau hắn một tên lính canh béo lùn với tay vai mập ụ. Tên này ra đứng trước mặt người không cằm rồi tiếp theo hiệu lệnh của viên sĩ quan, lấy hết sức nặng của thân hình giáng một quả đấm hãi hùng vào miệng ông ta. Sức mạnh của nó gần như đập ông ta bắn khỏi sàn. Người ông bay qua xà lim rớt xuống chậu vệ sinh. Trong một lúc ông ta nằm như chết cứng, máu đặc đổ ra từ mồm mũi. Một tiếng rên hay tiếng chít rất nhẹ, hầu như vô tình, thoát ra từ người ông. Rồi ông lăn mình vịn vào tay chân lẩy bẩy đứng dậy. Giữa máu và nước bọt, hai nửa phần một bộ răng giả rơi ra khỏi miệng ông.
Các tù nhân khác ngồi thật yên, hai tay khoanh trên đầu gối. Người không cằm leo về chỗ cũ. Dưới một bên mặt ông thịt xám đen lại. Miệng ông sưng vù thành một u dị hình màu đỏ hạnh đào ở giữa có lỗ hỏm đen. Thỉnh thoảng một chút máu chảy giọt trên phần ngực bộ áo liền quần của ông. Đôi mắt xám của ông vẫn lướt từ mặt người này sang mặt ngưòi kia, hổ thẹn hơn bao giờ, như thể ông muốn biết người khác khinh khi ông đến đâu vì sự bị làm nhục của ông.
Cánh cửa mở. Viên sĩ quan giơ tay nhẹ chỉ người mặt sọ.
"Phòng 101," hắn nói.
Có tiếng hổn hển và khuấy động bên cạnh Winston. Hóa ra người đàn ông đã tung mình quỳ xuống sàn, hai tay chắp lại.
"Đồng chí ! Quan ngài !" ông ta kêu. "Các ông không cần phải đưa tôi đến nơi đó ! Tôi chẳng khai hết cho các ông rồi là gì ? Các ông còn muốn biết gì nữa ? Cái gì tôi cũng thú được, bất cứ cái gì ! Cứ bảo tôi gì là tôi thú ngay. Các ông cứ viết là tôi ký — bất cứ gì ! Nhưng không đến phòng 101."
"Phòng 101," viên sĩ quan nói.
Người đàn ông hoảng loạn nhìn quanh về phía các tù nhân khác, như với ý nghĩ có thể kiếm được một nạn nhân khác thay thế ông ta. Mắt ông dừng trên khuôn mặt húp nát của người không cằm. Ông ta tung một cánh tay gầy lên.
"Đây mới là người các ông nên đưa đi, chứ không phải tôi !" ông ta hét lên. "Các ông không nghe thấy hắn nói gì khi bị đấm vào mặt ư. Cho tôi dịp tôi sẽ kể lại từng chữ cho các ông. Hắn mới là kẻ chống Đảng, không phải tôi." Lính canh tiến lên. Giọng người đàn ông thé lên phát vỡ. "Các ông không nghe thấy hắn !" ông ta nhắc lại. "Máy truyền hình hỏng đâu đó. Hắn mới là người các ông muốn. Đưa hắn đi, không đưa tôi !"
Hai tên lính canh vạm vỡ cúi mình chực xách tay ông ta. Nhưng đúng lúc đó ông ta phóng mình qua sàn xà lim và níu lấy một tấm chân sắt đỡ ghế dài. Ông ta hú lên một tiếng không lời, y như một con thú. Lính canh túm lấy ông, giật ông cho ông buông tay nhưng ông ta nắm chặt với một sức mạnh kỳ lạ. Trong khoảng hai mươi giây chúng kéo ông. Các tù nhân khác ngồi yên, hai tay khoanh trên đầu gối, mắt nhìn thẳng trước mặt. Tiếng hú ngưng bặt; người đàn ông không còn hơi để làm gì ngoài việc bám chặt. Rồi nghe thấy một tiếng kêu khác loại. Một cú đá từ giầy ống lính canh đã làm bể các ngón trên một tay ông. Lính lôi ông đứng dậy.
"Phòng 101," viên sĩ quan nói.
Người đàn ông bị dẫn ra ngoài, chân đi không vững, đầu cúi rạp, lo nâng niu bàn tay bị giập, mọi sức phấn đấu đã rời khỏi ông.
Một thời gian lâu trôi qua. Nếu người mặt sọ bị lôi đi vào nửa đêm thì bây giờ là buổi sáng: nếu lúc đó là buổi sáng thì hiện là buổi chiều. Winston ở một mình và ở một mình từ mấy tiếng rồi. Nỗi đau vì ngồi trên ghế dài hẹp buốt đến nỗi anh đứng dậy đi đi lại lại luôn, nhưng không thấy máy truyền hình quở trách. Mẩu bánh mì vẫn nằm nguyên nơi người không cằm đánh rơi nó. Thoạt đầu phải cố gắng nhiều mới không nhìn vào nó, nhưng lúc này cơn đói nhường chỗ cho cơn khát. Miệng anh vừa dính vừa hôi. Tiếng ù ù và ánh sáng trắng thường trực gây trong đầu anh một cảm giác yếu ớt, rỗng tuếch. Anh hay đứng dậy vì không chịu nổi sự đau nhức trong xương nữa, rồi lại phải ngồi xuống ngay vì anh quá chóng mặt không đứng vững được. Mỗi khi những cảm giác thể xác của anh được kiềm chế một chút thì cơn hãi hùng lại tái hiện. Thỉnh thoảng anh nghĩ tới ÓBrien và dao cạo với một niềm hy vọng chóng tan. Biết đâu dao cạo được chuyển giấu vào trong thức ăn, nếu anh được cho ăn. Ý nghĩ của anh về Julia đen tối hơn. Đâu đó nàng đang đau khổ, có khi khổ hơn anh nhiều. Có thể bây giờ nàng đang hét vì đau đớn. Anh nghĩ: "Nếu mình có thể cứu Julia bằng cách tăng gấp bội sự thống khổ của chính mình, liệu mình có làm không ? Có, mình sẽ làm." Nhưng đó chỉ là một quyết định của lý trí, được chọn vì anh biết anh phải làm như vậy. Anh không cảm thấy nó. Nơi đây, chẳng cảm thấy được gì, ngoại trừ cơn đau và sự tiên thức cơn đau. Vả lại, khi mình đang đau đớn, liệu có thể cầu cho cơn đau của mình gia tăng vì lẽ gì đó không ? Nhưng chưa thể đáp câu hỏi này được.
Giầy ống lại tiến gần. Cánh của mở. ÓBrien bước vào.
Winston đứng phắt dậy. Cảnh xúc động làm tiêu hết tính thận trọng nơi anh. Đã nhiều năm đây là lần đầu tiên anh quên mất sự có mặt của máy truyền hình.
"Chúng bắt được cả ông nữa ư ?" anh kêu lên.
"Chúng bắt tôi từ lâu," ÓBrien nói với một điệu mỉa mai nhẹ gần như có ý luyến tiếc. Ông ta bước sang bên. Từ đằng sau ông nhô ra một tên lính canh rộng ngực tay cầm một chiếc dùi cui đen dài.
"Anh biết hắn chứ, Winston," ÓBrien nói. "Chớ có tự dối lòng anh. Anh biết thế — anh vẫn biết thế "
Phải, bây giờ anh thấy rõ, anh vẫn biết thế. Nhưng không còn thì giờ nghĩ tới điều này. Mắt anh chỉ nhìn thấy chiếc dùi cui trong tay tên lính canh. Nó có thể đập vào bất cứ đâu; trên đỉnh đầu, trên vòm tai, trên cánh tay, trên khuỷu tay —
Khuỷu tay ! Anh ngã quỵ xuống đầu gối, gần như bị tê liệt, tay lành nắm đỡ khuỷu tay bị thương. Mọi sự nổ tung trong ánh vàng. Không thể tưởng tượng được, không thể tưởng tượng được một cái quật có thể gây một nỗi đau đớn đến thế ! Ánh sáng rõ ra và anh nhận thấy hai kẻ kia đương nhìn xuống anh. Tên lính canh cười to trước sự quằn quại của anh. Dù sao chăng nữa, một câu hỏi đã được trả lời. Không bao giờ, vì bất cứ lý do gì trên thế gian, con người có thể cầu mong một sự gia tăng cơn đau. Về cơn đau, chỉ có thể cầu xin một điều: làm sao cho nó ngưng. Trên thế giới không có gì ghê hơn nỗi đau thể xác. Trước cơn đau, không có anh hùng, không có anh hùng, anh nghĩ đi nghĩ lại như thế trong khi anh quặn người trên sàn, tay phải vẫn nắm một cách vô tích sự cánh tay trái tàn tật.
Winston đang nằm trên một thứ giường bố, khác cái là anh nằm cao trên đất hơn và anh bị buộc sao đó nên không cựa quậy được. Ánh đèn tuồng như sáng hơn thường đổ vào mặt anh. ÓBrien đứng cạnh anh, nhìn xuống anh chằm chặp. Bên kia ông ta đứng một người mặc áo khoác trắng, tay cầm ống tiêm.
Mặc dầu mắt anh đã mở hẳn, anh chỉ nhận ra xung quanh một cách tuần tự. Anh có cảm tưởng mình bơi lên căn phòng này từ một thế giới khác hẳn, một thủy giới từ tít dưới. Anh nằm như thế này từ bao lâu, anh chẳng biết nữa. Từ khi bị bắt anh không được thấy đêm tối hay ánh sáng ban ngày. Vả lại, trí nhớ của anh không được liên tục. Có nhiều lúc, ý thức, dù là loại ý thức hiện hữu trong giấc ngủ, phụt tắt rồi nẩy trở lại sau một quãng thời gian trống. Nhưng quãng thời gian đó là ngày, tuần hay chỉ là giây, không có cách nào biết được.
Ác mộng đã bắt đầu với cú đầu tiên trên khuỷu tay ấy. Sau này anh hiểu rằng tất cả những gì xảy ra hồi đó chỉ là một cuộc tra hỏi sơ bộ, thành nếp, mà hầu hết tù nhân phải trải qua. Có một loạt dài tội trạng — tội gián điệp, tội phá hoại, đại loại như vậy — hiển nhiên ai ai cũng phải thú nhận. Sự thú tội là một thủ tục, tuy sự tra tấn là một thực tế. Anh bị đánh đập bao nhiêu lần, những cuộc đánh đập kéo dài bao lâu, anh không nhớ được. Luôn luôn có năm sáu tên bận y phục đen đồng thời hành hạ anh. Khi thì quả đấm, khi thì dùi cui, khi thì giây thép, khi thì giầy ống. Có những lúc anh lăn trên sàn, không biết xấu hổ là gì giống như con vật, uốn người hết về bên này đến về bên kia trong một cố gắng tuyệt vọng vô tận hòng tránh cú đá; nhưng anh chỉ gợi thêm càng nhiều cú đá hơn, trên xương sườn, trên bụng, trên khuỷu tay, trên cẳng, trên bẹn, trên tinh hoàn, trên xương cụt. Có những lúc cuộc tra tấn kéo dài hoài cho tới khi sự xấu xa ác nghiệt không thể tha thứ được đối với anh không phải là sự lính canh tiếp tục đánh anh, mà là sự anh không thể ép mình ngất đi được. Nhiều khi cân não anh bỏ rơi anh đến mức anh vội hét xin tha trước khi sự đánh đập bắt đầu, lại khi chỉ cần cảnh tượng một quả đấm rụt lại lấy đà cũng đủ khiến anh thú nhận một tràng tội trạng thật sự cũng như tưởng tượng. Nhiều khi khác anh khởi sự với quyết tâm không thú nhận gì, mỗi lời của anh phải được cưỡng rút khỏi anh giữa cơn đau hổn hển, lại có khi anh yếu ớt cố kiếm một thỏa hiệp, bụng bảo dạ: "Mình sẽ thú tội, nhưng chưa thú vội. Mình phải cầm cự cho tới khi không chịu đựng nổi cơn đau nữa. Ba cú đá thêm, hai cú đá thêm, bấy giờ mình mới khai những điều chúng muốn." Thỉnh thoảng anh bị đánh tới độ đứng không vững, rồi bị ném như cái bị khoai trên sàn đá một căn xà lim để anh lấy lại sức trong vài tiếng, xong bị lôi ra đánh đập trở lại. Cũng có những kỳ bình phục dài hạn hơn. Anh nhớ đến đó một cách mơ hồ, vì thời kỳ đó anh vốn li bì hay tê mê. Anh hồi tưởng một xà lim có giường phản hay một thứ ván từ tường nhú ra, có một chậu thiếc, với những bữa cơm có canh nóng và bánh mì, thỉnh thoảng lại có cà phê. Anh nhớ một viên phó cạo càu nhàu tới cạo nhẵn cằm anh và cắt tóc anh, và nhớ nhiều người đáng ghét, coi vẻ bận rộn, khoác áo trắng, cầm mạch anh, vỗ phản xạ anh, vạch mí mắt anh, đưa ngón tay cứng chạy khắp mình anh xem anh có gãy xương sống không, và tiêm vào cánh tay anh cho anh ngủ.
Những trận đòn ít dần và đặc biệt trở thành một điều hăm dọa, một trò khủng khiếp sẽ bắt lại anh bất cứ lúc nào nếu câu trả lời của anh không vừa ý. Bây giờ những kẻ tra khảo anh không phải là quân vô loại bận y phục đen mà là những nhà trí thức của Đảng, những người nhỏ vóc tròn trĩnh có cử chỉ nhanh nhẹn, đeo kính lóng lánh, thay phiên quanh anh hàng thời kỳ dài kéo một mạch tới mười hay mười hai tiếng — theo anh nghĩ, tuy anh không chắc. Những viên hỏi cung khác này chăm cho anh thường trực đau nhẹ, nhưng họ không tin cậy nhiều vào sự đau đớn. Họ tát anh, béo tai anh, dứt tóc anh, bắt anh đứng một chân, không cho phép anh đi tiểu, chiếu đèn sáng chói vào mặt anh cho tới khi mắt anh tuôn nước; nhưng mục đích của những phiền nhiễu đó chỉ là hạ nhục anh và hủy diệt khả năng phản biện và lý luận của anh. Khí giới thực của họ là sự chất vấn không thương kéo đi kéo lại hoài hoài, hết giờ này sang giờ khác, làm anh vấp váp, đặt anh vào bẫy, xuyên tạc mọi điều anh nói, mỗi bước thuyết anh phải nhận mình nói dối hay mâu thuẫn, cho tới lúc anh phát khóc vì tủi hổ cũng như vì mệt mỏi thần kinh. Có khi trong một kỳ hỏi cung, anh khóc đến nửa tá lần. Thông thường họ lớn tiếng thóa mạ anh, hễ anh chần chừ là họ hăm dọa giao anh trở lại cho lính canh; nhưng thỉnh thoảng họ đổi giọng, gọi anh là đồng chí, lấy danh nghĩa Anh Xã và Bác kêu gọi anh, buồn rầu hỏi anh liệu ngay giờ anh còn đủ lòng trung với Đảng để mong ước tháo gỡ điều ác anh làm nên không. Khi thần kinh anh rã rời sau nhiều tiếng tra khảo, ngay lời kêu gọi đó cũng khiến anh khóc rên lên được. Tận cùng những tiếng mắng mỏ làm anh suy nhược hoàn toàn hơn giầy ống và quả đấm của lính canh. Anh biến thành duy một cái miệng để nói, một bàn tay để ký, bất cứ điều gì đòi hỏi nơi anh. Điều độc nhất anh quan tâm đến là tìm hiểu họ muốn anh thú nhận gì, và thú nhận nhanh chuyện đó, trước khi trò sỉ nhục bắt đầu trở lại. Anh xưng tội ám sát một số Đảng viên lỗi lạc, phân phát truyền đơn phản loạn, lạm tiêu công quỹ, bán chác bí mật quân sự, phá hoại đủ loại. Anh khai anh là gián điệp tay sai cho chính quyền Đông Á tận từ 1968. Anh thú anh là một kẻ tín đạo, một kẻ khâm phục thuyết tư bản, một tên dâm loạn. Anh nhận anh đã giết vợ anh, mặc dầu anh biết, và kẻ hỏi cung chắc biết, vợ anh còn sống. Anh khai rằng đã nhiều năm nay anh giữ liên lạc với Goldstein và là hội viên của một tổ chức ngầm bao gồm gần hết những người anh quen biết. Thú nhận mọi sự và làm liên lụy mọi người dễ hơn. Vả lại, nói cho cùng mọi điều trên đúng cả. Thật sự anh từng là kẻ thù của Đảng, và dưới mắt Đảng không có sự khác biệt giữa tư tưởng và hành động.
Anh cũng có nhiều ký ức khác loại. Chúng hiện trong óc anh một cách rời rạc, tựa như những bức tranh bao quanh bởi bóng đen.
Anh ở trong một xà lim có thể sáng hoặc tối vì anh không nhìn thấy gì ngoài một đôi mắt. Gần tầm tay anh có một thứ máy kêu tích tắc, đều đều, chậm chạp. Đôi mắt đâm lớn và sáng hơn. Bỗng anh bay bổng khỏi ghế, nhào vào đôi mắt, và bị nuốt chửng.
Anh bị trói buộc vào một chiếc ghế bao quanh bởi mặt đồng hồ, dưới ánh sáng chói. Một người khoác áo trắng đọc số trên mặt đồng hồ. Có tiếng giầy ống nện bên ngoài. Cánh cửa mở bùng. Viên sĩ quan mặt sáp bước vào, đi theo bởi hai tên lính canh.
"Phòng 101," viên sĩ quan nói.
Người đàn ông khoác áo trắng không ngoảnh mặt lại. Hắn cũng không nhìn Winston; hắn chỉ nhìn đồng hồ.
Anh lăn người trên một hành lang vĩ đại, rộng một cây số, đầy ánh sáng vàng huy hoàng, vừa cười vang vừa thét rống lên những lời thú tội. Anh thú nhận mọi sự, cả những điều anh giữ kín được lúc bị tra tấn. Anh kể lại trọn cuộc đời anh cho một cử tọa đã biết nó rồi. Quanh anh có lính canh, các viên hỏi cung khác, những người khoác áo trắng, ÓBrien, Julia, ông Charrington, mọi người đều cùng lăn trên hành lang và cười thét. Một điều ghê sợ nằm trong tương lai đã được gác lại sao đó và đã không xảy ra. Mọi sự tốt lành, không còn đau đớn, chi tiết cuối trong cuộc đời anh đã được bày tỏ, thông cảm và tha thứ.
Anh ngồi phắt dậy trên phản, gần như chắc nghe thấy tiếng ÓBrien. Qua hết cuộc tra khảo, anh có cảm tưởng ÓBrien ở ngay cạnh anh, đứng ngoài tầm mắt anh, mặc dầu anh không bao giờ nhìn thấy ông ta. Chính ÓBrien chỉ huy mọi sự. Chính ông ta cho lính canh tấn công anh và ngăn không cho chúng giết anh. Chính ông ta quyết định khi nào anh phải thét lên vì đau đớn, khi nào cần tiêm thuốc vào cánh tay anh. Chính ông ta đặt câu hỏi và hướng câu trả lời. Ông ta là kẻ tra tấn, là kẻ che chở, là kẻ thẩm vấn, là kẻ bằng hữu. Và có một lần — Winston không nhớ khi đó anh đang ngủ mê vì thuốc hay ngủ bình thường, hay cả khi ấy anh đã thức tỉnh — có tiếng thì thầm vào tai anh: "Chớ có lo, Winston; tôi chăm sóc anh. Đã bẩy năm nay tôi canh chừng anh. Nay giờ quyết định đã điểm. Tôi sẽ cứu anh. Tôi sẽ khiến anh hoàn thiện." Anh không chắc đó là tiếng ÓBrien; nhưng đó đúng là giọng đã nói với anh: "Chúng ta sẽ gặp nhau nơi không có bóng tối ", trong giấc mơ kia, bẩy năm về trước.
Anh không nhớ một sự kết thúc nào trong cuộc hỏi cung. Có một quãng thời gian tối om, rồi xà lim hay căn phòng hiện tại cụ thể hóa dần quanh anh. Anh nằm gần bẹt ngửa, không cử động được. Thân thể anh bị túm xuống tại các điểm then chốt. Ngay gáy anh cũng bị ghì chặt sao đó. ÓBrien nghiêm nghị và hơi buồn bã nhìn xuống anh. Mặt ông ta, trông từ dưới lên, coi sần sùi mòn mỏi, với đôi mắt húp và nét nhăn nhíu từ mũi tới cằm. Ông ta già hơn Winston tưởng; có lẽ bốn mươi tám hay năm mươi tuổi. Dưới tay ông có một chiếc đồng hồ với đòn bẩy ở trên và con số quanh mặt.
"Tôi có bảo anh rằng nếu chúng ta gặp lại nhau, đó sẽ là ở nơi đây," ÓBrien nói.
"Phải," Winston đáp.
Không đợi một dấu báo hiệu nào trừ một cử động nhẹ nơi tay ÓBrien, một làn sóng đau đớn truyền khắp người anh. Đó là một nỗi đau ghê rợn, vì anh không thấy gì xảy ra, và anh có cảm tưởng như đang phải chịu tử thương. Anh không biết thương tích có thực sự hay chỉ là hiệu ứng của điện; nhưng cơ thể anh bị vặn vẹo mất hình thù, các khớp người anh bị chậm rãi xé lẻ. Mặc dầu cơn đau làm anh toát mồ hôi trán, ghê nhất là nỗi e sợ cột sống sắp gẫy đến nơi. Anh nghiến răng thở mạnh qua mũi, cố im tiếng càng lâu càng hay.
"Anh sợ chốc nữa sẽ có gì gẫy," ÓBrien vừa nói vừa nhìn vào mắt anh. "Nỗi e sợ chính của anh đặt nơi cột sống. Anh có ấn tượng rành mạch về xương sống gãy đứt với tủy chảy giọt ra ngoài. Anh đang nghĩ thế, phải không, Winston ?"
Winston không trả lời. ÓBrien kéo đòn bẩy trên đồng hồ về. Sóng đau đớn biến mất gần nhanh như khi đến.
"Bốn mươi đó," ÓBrien nói. "Anh có thể thấy các con số trên mặt đồng hồ này lên tới một trăm. Suốt câu chuyện này, xin anh nhớ cho rằng tôi nắm quyền bắt anh chịu đau đớn bất cứ lúc nào và tới bất cứ độ nào tôi muốn. Nếu anh nói dối hay tính thoái thác kiểu nào chăng nữa, hay cả nếu anh thụt dưới mức thông minh thường lệ của anh, anh sẽ khóc vì đau đớn ngay lập tức. Anh hiểu thế không ?"
"Có," Winston nói.
Thái độ của ÓBrien ít nghiêm nghị hơn. Ông ta sắp kính lại với vẻ đăm chiêu, và đi đi lại lại một hai bước. Khi ông ta nói, giọng ông tử tế và kiên nhẫn hơn. Ông ta có vẻ như một thầy thuốc, một thầy giáo, ngay cả một giáo sĩ, lo giải thích và thuyết phục hơn là trừng phạt.
"Tôi mất công với anh, Winston," ông ta nói, "vì anh đáng công. Anh thừa biết vấn đề của anh là gì. Anh biết nó từ hàng năm nay, tuy anh chống chọi sự hiểu biết đó. Anh bị loạn óc. Anh mắc bệnh kém trí nhớ. Anh không nhớ được sự kiện có thực và anh tin chắc anh nhớ nhiều sự kiện khác không bao giờ xảy ra. May mà bệnh anh chữa được. Anh không bao giờ tự chữa mình cho khỏi, vì anh không muốn vậy. Cần có một chút cố gắng nghị lực, nhưng anh không sẵn sàng bỏ nó ra. Ngay bây giờ, tôi thừa thấy, anh bám chặt vào bệnh tình với cảm tưởng đó là một đức tính. Đây tôi lấy một ví dụ. Hiện nay Đại Dương đánh nhau với cường quốc nào ?"
"Khi tôi bị bắt, Đại Dương đánh nhau với Đông Á."
"Với Đông Á. Đúng. Thế Đại Dương luôn luôn đánh nhau với Đông Á, có phải không ?"
Winston hít hơi. Anh mở miệng để nói nhưng rồi không nói. Anh không thể rời mắt khỏi mặt đồng hồ.
"Xin anh nói sự thật, Winston. Sự thật của anh . Nói cho tôi theo anh, anh nhớ gì."
"Tôi nhớ rằng chỉ một tuần trước khi tôi bị bắt, chúng ta không hề đánh nhau với Đông Á. Chúng ta đồng minh với họ. Chiến tranh là chống Âu Á. Cuộc chiến ấy kéo dài bốn năm. Trước đó —"
ÓBrien đưa tay chặn lời anh.
"Một ví dụ khác," ông ta nói. "Vài năm trước anh có một ảo tưởng thật nghiêm trọng. Anh tin rằng ba người, ba kẻ có thời là Đảng viên tên là Jones, Aaronson và Rutherford — những tên đã bị xử tử vì phản bội và phá hoại sau khi thú tội hết sức đầy đủ — không phạm những tội mà họ bị khép vào. Anh tin rằng anh đã trông thấy cứ liệu không thể nhầm lẫn được chứng tỏ những lời thú tội của họ bị giả mạo. Có một tấm hình nào đó anh có ảo giác thấy. Anh tin anh đã từng cầm nó trong tay. Đó là một tấm hình đại khái như thế này."
Một mẩu giấy báo hình chữ nhật hiện giữa ngón tay ÓBrien. Trong khoảng năm giây nó nằm trong tầm thị giác của Winston. Đó là một tấm hình, và không có vấn đề về bản sắc của nó. Đó là tấm hình. Đó là một bản khác của tấm hình chụp Jones, Aaronson và Rutherford tại hội nghị Đảng ở Nữu Ước, mà anh may mắn bắt được và vội tiêu hủy mười một năm về trước. Nó ở trước mắt anh có một lát rồi ra ngoài tầm mắt anh. Nhưng anh đã thấy nó, không thể cãi được, anh đã thấy nó ! Anh hấp hối tuyệt vọng cố gắng quặn mình để giải thoát phần nửa người trên. Không thể đụng đậy về bất cứ phía nào quá một phân. Trong một lúc anh quên cả mặt đồng hồ. Anh chỉ muốn cầm tấm hình trong tay trở lại, hay ít nhất ngắm nó.
"Nó có thật !" anh kêu lên.
"Không," ÓBrien nói.
Ông ta đi qua phòng. Có lỗ ký ức trong tường bên kia. ÓBrien mở nắp lưới lên. Không ai thấy, mẩu giấy mỏng manh xoay theo luồng khí ấm, biến mất trong một tóe lửa. ÓBrien quay lưng về phía tường.
"Tro," ông ta nói. "Mà tro không nhận được ra. Bụi. Tấm hình không có thực. Nó không bao giờ có."
"Nhưng mà nó có thực ! Nó có thực mà ! Nó có trong ký ức. Tôi nhớ nó ! Ông nhớ nó !"
"Tôi không nhớ nó," ÓBrien bảo.
Tim Winston sụm xuống. Đó là ý đôi. Anh có cảm tưởng bất lực chết thôi. Nếu anh chắc ÓBrien nói dối, sự thể sẽ hầu như không quan trọng. Nhưng rất có thể ÓBrien đã quên thật tấm hình. Và nếu vậy ông ta đã quên ông ta chối không nhớ nó, rồi quên cả sự quên lãng ấy. Làm sao biết chắc được đó không phải là một trò gian trá đơn giản ? Có lẽ sự phân loạn trí óc có thể xảy ra thật: đó là ý nghĩ đánh bại anh.
ÓBrien đăm chiêu nhìn anh. Hơn bao giờ hết ông ta có vẻ như một thầy giáo tốn công với một đứa trẻ lầm lạc nhưng nhiều hứa hẹn.
"Có một khẩu hiệu của Đảng liên quan đến sự kiểm soát quá khứ," ông ta nói. "Xin anh nhắc lại câu đó."
"Kẻ kiểm soát quá khứ là kẻ kiềm chế tương lai: kẻ kiểm tra hiện tại là kẻ kiểm soát quá khứ," Winston vâng lời nhắc lại.
"Kẻ kiểm tra hiện tại là kẻ kiểm soát quá khứ," ÓBrien vừa nói vừa gật gù chậm rãi tán thành. "Theo ý anh, Winston, quá khứ có thực sự hiện hữu không ?"
Lại nữa, cảm tưởng bất lực trào xuống mình Winston. Mắt anh lảo đảo hướng về phía đồng hồ. Không những anh không biết lời đáp sẽ cứu anh khỏi đau là "có" hay "không", anh còn không hiểu anh tin lời đáp nào đúng.
ÓBrien mỉm cười nhẹ. "Anh không phải là một nhà siêu hình học đâu, Winston," ông ta nói. "Cho tới lúc này anh chưa bao giờ suy xét hiện hữu là gì. Để tôi trình bày rõ hơn. Quá khứ có hiện hữu một cách cụ thể trong không gian không ? Ở đâu đó, có chốn nào, có thế giới nào trong đó quá khứ vẫn tồn tại hay không ?"
"Không."
"Thế quá khứ ở đâu, nếu có chỗ cho quá khứ ?"
"Trong tài liệu. Nó được viết lại."
"Trong tài liệu. Và —"
"Trong tâm. Trong trí nhớ con người."
"Trong trí nhớ. Giỏi đa. Chúng tôi, tức Đảng, kiểm soát mọi tài liệu; chúng tôi lại kiểm soảt mọi trí nhớ. Như vậy là chúng tôi kiểm soát quá khứ, có đúng không ?"
"Nhưng làm sao các ông ngăn được dân chúng nhớ sự kiện ?" Winston thốt kêu, nhất thời quên khuấy cái đồng hồ. "Sự nhớ không tùy ý chí. Nó không lệ thuộc cá nhân. Làm sao các ông kiểm soát được trí nhớ ? Các ông đã không kiểm soát được trí nhớ của tôi !"
Thái độ của ÓBrien nghiêm nghị trở lại. Ông ta đặt tay trên đồng hồ.
"Ngược lại," ông ta nói, " anh đã không kiểm soát được nó. Đó là lý do khiến anh bị đưa tới đây. Anh ở đây vì anh thiếu nhún nhường, thiếu kỷ luật bản thân. Anh đã không chịu phục tùng là giá phải trả cho sự lành mạnh. Anh thích là một kẻ khùng, một kẻ biệt lập. Chỉ một tinh thần có kỷ luật mới thấy được thực tế, Winston ạ. Anh tin rằng thực tế là một cái gì khách quan, ngoại trú, tự nó mà có. Anh còn tin rằng bản chất của thực tế tự hiển nhiên. Khi anh có ảo tưởng anh thấy điều gì, anh cho rằng ai khác cũng cùng một nhận thức như anh. Nhưng Winston này, tôi bảo cho anh biết, thực tế không ở ngoài chúng ta. Thực tế nằm trong tâm người, không ở đâu khác. Nó không ở trong tâm cá nhân vì cá nhân có thể nhầm lẫn, lại sớm tiêu tán dù thế nào đi nữa: nó chỉ ở trong tâm của Đảng, bởi Đảng tập thể và bất tử. Bất cứ cái gì Đảng cho là sự thật là sự thật. Không thể thấy được thực tế ngoài cách nhìn qua mắt của Đảng. Đó là điều anh phải học lại, Winston ạ. Nó đòi hỏi một hành động tự hủy, một sự cố gắng của ý chí. Trước khi lành mạnh, anh phải tự hạ mình."
Ông ngưng một hồi, như để thấm lời ông vừa nói.
"Anh còn nhớ không," ông tiếp tục, "anh có viết trong nhật ký của anh: "Tự do là tự do bảo hai cộng hai là bốn ?"
"Có," Winston nói.
ÓBrien giơ tay trái lên, mu hướng về phía Winston, ngón cái bị che và bốn ngón kia chìa ra.
"Tôi đang giơ mấy ngón tay, Winston ?"
"Bốn."
"Nhưng nếu Đảng bảo đó không không phải là bốn mà là năm — thì có bao nhiêu ngón ?"
"Bốn."
Lời đáp dứt trong tiếng hổn hển đau đớn. Kim đồng hồ đã vụt lên số năm mươi nhăm. Mồ hôi tủa khắp người Winston. Không khí hít vào xé phổi anh và thoát ra ngoài giữa những tiếng rên xiết không thể dằn nổi dù anh nghiến chặt răng. ÓBrien nhìn anh, bốn ngón tay vẫn duỗi. Ông ta kéo đòn bẩy về. Làn này cơn đau chỉ hơi dịu xuống thôi.
"Có mấy ngón tay, Winston ?"
"Bốn."
Kim nhẩy lên số sáu mươi.
"Có mấy ngón tay, Winston ?"
"Bốn ! Bốn ! Tôi nói gì khác được ? Bốn !"
Kim chắc nhẩy lên nữa, nhưng anh không nhìn thấy. Gương mặt nặng nghiêm và bốn ngón tay choán đầy thị giác anh. Mấy ngón tay sừng sững trước mắt anh tựa như cột trụ, to lớn, mờ ảo, hình như rung chuyển, nhưng có bốn thôi không thể lầm được.
"Có mấy ngón tay, Winston ?"
"Bốn ! Ngưng lại ! Ngưng lại ! Sao ông có thể tiếp tục được ? Bốn ! Bốn !"
"Có mấy ngón tay, Winston ?"
"Năm ! Năm ! Năm !"
"Không, Winston, vô ích. Anh nói dối. Anh vẫn nghĩ chỉ có bốn thôi. Có mấy ngón nào ?"
"Bốn ! Năm ! Bốn ! Bao nhiêu cũng được, tùy ông. Chỉ xin ngưng thôi, ngưng cơn đau lại !"
Đột nhiên anh đã ngồi dậy với tay ÓBrien quàng qua vai anh. Có lẽ anh đã ngất đi mất vài giây. Dây buộc người anh xuống đã được tháo ra. Anh cảm thấy lạnh cóng, mình run bần bật, răng nghiến kèn kẹt, nước mắt chảy lăn xuống má. Trong một lúc, anh bám vào ÓBrien như một đứa bé, được an ủi lạ lùng bởi cánh tay nặng choàng vai anh. Anh có cảm tưởng ÓBrien là người che chở anh, dường như cơn đau từ ngoài đến, từ một nguồn gốc khác, trong khi ÓBrien là kẻ cứu anh khỏi đau.
"Anh là một kẻ học chậm, Winston à," ÓBrien nhẹ nhàng nói.
"Làm sao khác được ?" anh mếu máo. "Làm sao tôi cản được tôi thấy những gì trước mắt tôi ? Hai cộng hai là bốn."
"Thỉnh thoảng thôi, Winston. Có khi nó lại là năm. Khi thì nó là ba. Có lúc đồng thời nó là cả ba, lẫn bốn, lẫn năm. Anh phải cố gắng hơn. Trở thành lành mạnh không phải dễ dàng."
Ông ta đặt Winston nằm trên giường. Chân tay bị bó chặt trở lại, nhưng cơn đau đã rút và sự run rẩy đã ngưng, anh chỉ còn yếu lạnh. ÓBrien nhếch đầu ra hiệu cho người đàn ông khoác áo trắng, suốt cuộc vẫn đứng yên. Người khoác áo trắng cúi xuống, nhìn kỹ vào mắt Winston, xem mạch anh, đặt tai trên ngực anh, khẽ đập đây đó, rồi gật đầu với ÓBrien.
"Lại nữa nào," ÓBrien nói.
Cơn đau xuyên người Winston. Mũi kim chắc chỉ bẩy mươi, bẩy mươi nhăm. Lần này anh nhắm mắt. Anh biết mấy ngón tay vẫn đó, vẫn có bốn. Chỉ có một điều đáng kể là làm sao còn sống khi cơn quặn đau chấm dứt. Anh đã hết lưu ý mình khóc hay không. Cơn đau dịu dần. Anh mở mắt ra. ÓBrien đã kéo đòn bẩy về.
"Có mấy ngón tay, Winston ?"
"Bốn. Tôi cho là bốn. Nếu có thể, tôi sẽ thấy năm. Tôi cố thấy năm."
"Anh muốn gì: thuyết phục tôi là anh thấy năm, hay thực sự thấy năm ?"
"Thực sự thấy năm."
"Lại nữa nào," ÓBrien nói.
Có lẽ kim lên tới tám mươi — chín mươi. Winston không nhớ được từng hồi tại sao cơn đau trỗi lên. Sau mí mắt nhắm nghiền của anh, một rừng ngón tay hình như chuyển động theo một thứ vũ khúc, quấn ra quấn vào, ngón nọ biến sau ngón kia, để rồi tái hiện. Anh cố đếm chúng, không nhớ tại sao. Anh chỉ biết không thể đếm được chúng, có thể gọi là vì một hằng vật bí mật ở giữa năm và bốn. Cơn đau lại dứt. Khi anh mở mắt ra, đó là để thấy mình vẫn nhìn cảnh trước. Muôn vàn ngón tay như cây rung chuyển vẫn bay bổng khắp phía, bay qua bay lại. Anh nhắm mắt trở lại.
"Tôi đang giơ mấy ngón tay, Winston ?"
"Tôi không biết. Tôi không biết. Ông sẽ giết tôi nếu ông còn làm thế. Bốn, năm, sáu — quả thực, tôi không biết."
"Khá hơn trước," ÓBrien nói.
Một mũi kim xiên vào cánh tay Winston. Gần như đồng thời một sức ấm an lạc khoan dịu lan khắp người anh. Cơn đau đã gần bị quên. Anh mở mắt thụ ơn ngước nhìn ÓBrien. Trước gương mặt nặng nề nhăn nheo, rất xấu mà cũng thật thông minh, tim anh làm như đảo ngược. Nếu đụng đậy được, anh đã duỗi tay ra đặt trên cánh tay ÓBrien. Anh chưa bao giờ yêu quý ông ta sâu đậm như lúc này, và đó không phải chỉ vì ông chặn lại cơn đau. Cảm tưởng cũ, cho rằng rốt cuộc ÓBrien là bạn hay thù không quan hệ, đã tái hiện. ÓBrien là một người anh có thể nói chuyện với được. Có lẽ con người không muốn được yêu thương bằng được hiểu. ÓBrien đã tra tấn anh tới suýt nổi điên, và chốc nữa, chắc chắn ông ta dám đưa anh về cõi chết. Không sao. Có chiều mối liên hệ giữa anh và ông ta thâm hơn tình bạn, họ là một đôi tri kỷ: đâu đấy, mặc dầu những lời thực tại không bao giờ được thốt ra, có một nơi chốn trong đó họ có thể gặp nhau và nói chuyện được với nhau. ÓBrien nhìn xuống anh với một vẻ ra điều ông ta cũng cùng một ý nghĩ như anh trong đầu. Khi ông lên tiếng, giọng ông dễ dãi, chuyện trò.
"Anh có biết anh ở đâu không, Winston ?" ông ta nói.
"Tôi không biết. Tôi đoán được. Tại Bộ Tình Yêu."
"Anh có biết anh ở đây bao nhiêu lâu rồi không ?"
"Tôi không biết. Hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng — tôi cho là hàng tháng rồi."
"Theo như anh tưởng thì tại sao chúng tôi đưa người vào đây ?"
"Để bắt họ khai tội."
"Không, không phải vì lý do đó. Anh thử nghĩ lại đi."
"Để trừng phạt họ."
"Không phải !," ÓBrien thốt lên. Giọng ông biến đổi khác thường, mặt ông bỗng đâm vừa nghiêm nghị vừa linh hoạt. "Không. Không phải chỉ để lấy khẩu cung của các anh, không phải để trừng phạt các anh. Có cần bảo anh tại sao chúng tôi đem anh vào đây không ? Để chữa bệnh anh ! Để khiến anh lành mạnh ! Anh có hiểu không, Winston, không ai được chúng tôi đưa vào đây mà không khỏi bệnh khi rời tay chúng tôi. Chúng tôi không quan tâm đến những tội ngớ ngẩn do anh phạm phải. Đảng không để ý đến hành động công khai: chúng tôi chỉ chú trọng đến tư tưởng. Chúng tôi không loại kẻ thù không thôi, chúng tôi thay đổi họ. Anh có hiểu tôi muốn nói gì không ?"
Ông ta cúi mình trên Winston. Mặt ông coi to tướng vì gần kề, và xấu xí tệ vì được nhìn từ dưới lên. Hơn nữa, nó coi bộ đầy vẻ kích thích, đầy cường độ cuồng dại. Tim Winston se trở lại. Nếu được anh đã chùn sâu vào giường. Anh chắc ÓBrien sắp vì lên hứng mà vặn đồng hồ. Tuy nhiên, đúng lúc đó ÓBrien quay người đi. Ông ta lên lên xuống xuống một hai bước. Rồi ông bớt hăng hái hơn tiếp tục.
"Điều trước nhất anh phải hiểu là nơi đây không có sự tuẫn đạo. Anh đã từng đọc về các cuộc đàn áp đạo giáo trong quá khứ. Thời Trung Cổ có Tòa Án Dị Giáo. Đó là một biện pháp sơ lậu. Nó được lập để trừ tiệt dị giáo và kết cục nó lưu truyền dị giáo. Vì cứ một kẻ dị giáo bị đốt trên giàn thiêu là hàng nghìn kẻ khác nổi dậy. Tại sao vậy ? Vì Tòa Án Dị Giáo giết kẻ địch công khai và giết họ khi họ chưa hối tội: thực ra, Tòa giết họ vì họ không hối tội. Dân chúng chết vì không muốn bỏ tín ngưỡng thực thụ của mình. Đương nhiên toàn vinh dự thuộc về nạn nhân và toàn ô nhục dành cho quan Tòa Dị Giáo đốt họ. Sau này, vào thế kỷ hai mươi, có những thành phần được gọi là dân độc tài. Có Đức Quốc Xã, có Cộng Sản Nga. Dân Nga truy hại kẻ theo tà thuyết còn ác độc hơn Tòa Án Dị Giáo. Và họ tưởng đã học được lỗi lầm của quá khứ; ít nhất thì họ cũng biết không thể để cho có kẻ tuẫn đạo. Trước khi bêu nạn nhân ra tòa án công cộng, họ ra sức hủy diệt phẩm cách của những người ấy. Họ dùng sự tra tấn và nỗi cô đơn để hành hạ nạn nhân cho tới khi nạn nhân biến thành đồ ti tiện đáng khinh, khai bất cứ điều gì họ rỉ vào miệng, tự dổ tội lên đầu mình, tố cáo lẫn nhau để tự che chở, rên la van cầu. Thế nhưng chỉ vài năm sau chuyện cũ lại xảy ra. Kẻ chết trở thành kẻ tuẫn đạo và sự mất phẩm giá của họ bị quên lãng. Một lần nữa, tại sao thế ? Thứ nhất vì những lời khai của nạn nhân thấy không thành thật và bị cưỡng ép rõ ràng. Chúng tôi không phạm phải lỗi lầm này. Mọi lời khai thốt ra tại đây đều thật cả. Chúng tôi khiến chúng thành thật. Và trên hết chúng tôi không cho phép kẻ chết đứng dậy chống lại chúng tôi. Anh phải thôi nghĩ rằng hậu thế sẽ trả thù cho anh, Winston hỡi. Hậu thế sẽ không bao giờ biết đến anh. Anh sẽ bị hất sạch khỏi dòng lịch sử. Chúng tôi sẽ biến anh thành khí và trút anh ra quyển bình lưu. Anh sẽ không để lại gì, dù một tên trong sổ sách, dù một ký ức trong óc người sống. Anh sẽ bị tiêu tan trong quá khứ cũng như trong tương lai. Anh sẽ không từng sống bao giờ."
Vậy thì tại sao còn mất công tra tấn tôi ? Winston nhất thời cay đắng nghĩ. ÓBrien dừng bước như thể Winston đã nói to lên ý nghĩ của mình. Khuôn mặt to lớn xấu xí của ông tiến gần lại, đôi mắt khẽ nhíu.
"Anh đang nghĩ rằng," ông bảo, "nếu chúng tôi định tiêu hủy anh, khiến không gì anh nói hay làm mảy may quan hệ, — thì chúng tôi phiền phức tra hỏi anh trước làm chi ? Anh đang nghĩ thế phải không ?"
"Đúng," Winston nói.
ÓBrien mỉm cười. "Anh là vết nứt trong mẫu hình, Winston ạ. Anh là một vết nhơ phải bị tẩy sạch. Tôi không vừa mới bảo anh chúng tôi khác các nhà thẩm vấn thời quá khứ đấy ư ? Chúng tôi không hài lòng với sự tuân mệnh tiêu cực, hay cả với sự phục tùng đê hèn nhất. Khi cuối cùng anh thuận theo chúng tôi, sự đầu hàng ấy phải do anh tự ý chọn. Chúng tôi không tiêu diệt kẻ tà giáo vì hắn chống đối chúng tôi: hắn còn chống đối chúng tôi thì chúng tôi không bao giờ diệt hắn. Chúng tôi cảm hóa hắn, chúng tôi bắt lấy tâm trí hắn, chúng tôi cải tạo hắn. Chúng tôi thiêu mọi ác ý và ảo tưởng trong hắn; chúng tôi khiến hắn về phe chúng tôi, không phải theo võ miệng mà theo xác thực với cả tâm trí. Chúng tôi biến hắn thành người của chúng tôi trước khi thủ tiêu hắn. Chúng tôi không thể chấp nhận có một tư tưởng sai lầm hiện hữu đâu đó trên thế giới, dù nó thầm kín bất lực đến đâu chăng nữa. Chúng tôi không thể cho phép một tư tưởng lệch lạc nào phát hiện, ngay cả vào lúc lâm chung. Thời xưa khi bước lên đoạn đầu đài kẻ dị giáo vẫn là một tên dị giáo, tuyên bố dị giáo của mình, hớn hở trong đó. Ngay nạn nhân của các cuộc thanh trừ bên Nga vẫn mang theo lòng đối nghịch khép kín trong óc khi bước trên lối đi đợi đạn. Cái nhưng là chúng tôi khiến trí óc lành mạnh trước khi cho nó nổ tung. Giới luật của các chế độ chuyên chế xưa là "Ngươi không được". Giới luật của các chế độ độc tài là "Ngươi phải". Giới luật của chúng tôi là "Ngươi là". Không bao giờ có ai được chúng tôi đưa tới đây còn trở ra chống đối chúng tôi. Ai cũng được tẩy sạch. Ngay cả ba tên phản trắc khốn kiếp mà có thời anh tin là những kẻ vô tội — Jones, Aaronson và Rutherford — tận cùng cũng bị chúng tôi bẻ gẫy. Chính tôi có dự cuộc thẩm vấn chúng. Tôi trông thấy chúng dần dần xuống tinh thần, rên rỉ, bò lê, khóc lóc — và rốt cuộc làm thế không phải vì đau đớn hay sợ hãi, mà vì sám hối. Tới khi chúng tôi xong việc với chúng, chúng chỉ còn là xác người. Không còn gì lưu trong chúng ngoài lòng phiền muộn về sự đã làm, và lòng kính yêu Bác. Thật cảm động khi thấy đến độ nào chúng yêu Bác. Chúng lạy lục để được chóng bị bắn, làm sao cho chúng chết đương khi tinh thần chúng còn trong sạch."
Giọng ông đâm gần như mơ màng. Sự kích thích, vẻ nồng nhiệt cuồng dại vẫn hiện trên khuôn mặt ông. Ông ta không giả vờ, Winston nghĩ, ông ta không phải là một kẻ đạo đức giả, ông ta tin tưởng từng lời ông ta nói. Điều đè nặng lòng anh là ý thức trí tuệ mình kém cỏi. Anh nhìn hình dáng nặng nề mà đẹp mắt bước đi bước lại ra vào qua thị giác anh. ÓBrien là một người lớn hơn anh về mọi mặt. Không một tư tưởng nào mà anh đã có hay có thể có không được ÓBrien biết, xét và bác bỏ từ lâu. Trí óc của ông chứa đựng trí óc Winston. Nhưng trong trường hợp đó làm sao đúng ÓBrien điên khùng được ? Chắc hẳn, chính anh, Winston, là người điên. ÓBrien dừng bước nhìn xuống anh. Giọng ông đã nghiêm trở lại.
"Chớ có tưởng rằng anh sẽ cứu được mạng anh, dù anh có đầu hàng chúng tôi hoàn toàn thế nào chăng nữa. Không kẻ nào đã từng lạc hướng được tha bao giờ. Và dầu cho chúng tôi quyết định để anh sống tới hạn tự nhiên, anh cũng không bao giờ thoát ly. Sự gì xảy ra với anh nơi đây còn đó mãi mãi. Anh hãy hiểu trước như thế. Chúng tôi sẽ cán nát anh tới mức anh không thể trở lại được như cũ. Nhiều điều sẽ đến với anh khiến anh không thể bình phục được dù anh có sống cả ngàn năm nữa. Anh sẽ không bao giờ có nổi trở lại tình cảm bình thường của con người. Mọi sự sẽ chết trong anh. Anh sẽ không bao giờ biết được trở lại thế nào là tình yêu, tình bạn, sự ham sống, sự vui cười, trí tò mò, hay lòng trung thực. Anh sẽ trống tuếch. Chúng tôi sẽ vắt rỗng anh, và chúng tôi sẽ nhét chúng tôi đầy người anh."
Ông ngưng nói và ra hiệu cho người khoác áo trắng. Winston hiểu có một bộ máy nặng đang được đẩy tới sau đầu anh. ÓBrien ngồi xuống cạnh giường, khiến cho mắt ông gần ngang mặt Winston.
"Ba nghìn," ông ta nói, miệng hướng qua đầu Winston về phía người khoác áo trắng.
Hai miếng gối nhỏ mềm, thấy hơi âm ẩm được ấn vào thái dương Winston. Anh rùng mình. Cơn đau sắp đổ tới, một cơn đau khác loại. ÓBrien đặt một tay vỗ về, gần như dịu dàng, lên tay anh.
"Lần này sẽ không có tổn thương," ông ta nói. "Dính mắt nhìn tôi."
Đồng thời có sự nổ toang, hay cái gì tựa như sự bùng nổ, mặc dầu không chắc có tiếng động. Nhưng rõ ràng có một luồng ánh sáng chói. Winston không bị thương, chỉ lả người đi. Tuy anh đã nằm ngửa khi sự thể xảy ra, anh có cảm giác lạ lùng đã bị đập xuống tư thế đó. Một cú hãi hùng nhưng không đau đã đánh bẹp anh. Thêm vào có gì xảy ra trong óc anh. Khi mắt anh quay về tiêu điểm, anh nhớ lại anh là ai, anh đang ở đâu, và nhận ra khuôn mặt nhìn anh trừng trừng; nhưng đâu đó có một quãng trống lớn, như thể một mảnh óc anh bị cắt tước đi.
"Sẽ không lâu đâu," ÓBrien nói. "Nhìn vào mắt tôi. Đại Dương đánh nhau với nước nào ?"
Winston nghĩ ngợi. Anh biết Đại Dương là gì và biết chính anh là một công dân Đại Dương. Anh cũng nhớ Âu Á và Đông Á; nhưng ai đánh nhau với ai thì anh chịu. Thực sự anh không biết có chiến tranh nữa kìa.
"Tôi không nhớ."
"Đại Dương đánh nhau với Đông Á. Anh có nhớ thế không ?"
"Có."
"Đại Dương bao giờ cũng đánh nhau với Đông Á. Từ khi anh bước vào đời, từ khi Đảng mới thành lập, từ khi lịch sử bắt đầu, chiến tranh đã tiếp tục không ngưng, vẫn một cuộc chiến. Anh có nhớ thế không ?"
"Có."
"Mười một năm về trước anh đặt ra huyền thoại về ba người bị xử tử vì tội phản trắc. Anh quả quyết đã thấy một mảnh giấy tỏ rằng họ vô tội. Không hề có một mảnh giấy nào như vậy. Anh bịa đặt ra nó, rồi sau anh đâm tin vào nó. Bây giờ anh nhớ cái lúc đầu tiên anh bịa chuyện đó. Anh nhớ chứ ?"
"Nhớ."
"Mới đây tôi có chìa ngón tay cho anh xem. Anh thấy năm ngón. Anh nhớ chăng ?"
"Có."
ÓBrien giơ các ngón tay trái lên, để giấu ngón tay cái.
"Đây có năm ngón tay. Anh có thấy năm ngón không ?"
"Có."
Và anh thấy cả năm thật, thoáng qua thôi, trước khi cảnh tượng trong óc anh thay đổi. Anh thấy năm ngón, không méo mó chút nào. Rồi mọi sự bình thường trở lại, và nỗi sợ hãi cũ, mối căm hờn và trạng hoang mang ùn ập hồi quy. Nhưng chắc chắn rõ ràng, đã có một lúc — anh không biết bao lâu, có lẽ ba mươi giây — mỗi điều mới do ÓBrien gợi ý đã choán đầy một quãng trống không và trở thành sự thực tuyệt đối, lúc đó hai cộng hai dễ dàng thành ba cũng như thành năm nếu cần. Lòng tin đó đã tan biến trước khi ÓBrien hạ tay xuống; nhưng dù anh không bắt lại được nó, anh có thể nhớ lại nó, như người ta nhớ một kinh nghiệm sắc bén của quãng đời khi mình thật ra là một con người khác.
"Bây giờ anh hiểu rằng dù thế nào đi nữa đó là một sự có thể thực hiện được," ÓBrien nói.
"Đúng," Winston nói.
ÓBrien đứng dậy với vẻ hài lòng. Bên trái anh Winston thấy người khoác áo trắng bẻ một ống thuốc và kéo nòng thụt của một ống tiêm. ÓBrien quay mặt lại phía Winston mỉm cười. Gần với điệu bộ cũ, ông chỉnh kính lại trên mũi.
"Anh có nhớ anh viết trong nhật ký rằng tôi là bạn hay thù không quan hệ, miễn tôi là một người hiểu anh và nói chuyện được với anh không ?" ông bảo. "Anh có lý. Tôi thích nói chuyện với anh. Tâm trí anh kích thích tôi. Nó giống như chính tâm trí tôi, khác một cái là anh không lành mạnh. Trước khi cuộc thẩm vấn chấm dứt anh có thể hỏi tôi một vài điều, nếu anh muốn."
"Bất cứ câu hỏi gì cũng được ư ?"
"Bất cứ." Ông ta thấy mắt Winston ngước về phía đồng hồ. "Tắt máy rồi. Câu hỏi đầu tiên của anh là gì ?"
"Các ông đã làm gì Julia ?"
ÓBrien lại mỉm cười. "Cô ta đã phản, anh, Winston ạ. Ngay lập tức — không một chút ngần ngại. Tôi ít thấy ai quay về với chúng tôi nhanh như vậy. Anh khó lòng nhận ra cô ấy nếu gặp lại cô ta. Tất cả óc chống đối, lòng lừa dối, sự điên rồ, trí dơ dáy của cô ta — mọi sự đã bị thiêu sạch. Đó là một sự cải thuận hoàn hảo, một trường hợp giáo khoa."
"Ông tra tấn nàng ư ?"
ÓBrien lờ đi không trả lời. "Câu hỏi sau," ông ta nói.
"Bác có thật không ?"
"Dĩ nhiên là có. Đảng có thật. Bác là hiện thân của Đảng."
"Bác có hiện hữu kiểu như tôi hiện hữu không ?"
"Anh không hiện hữu," ÓBrien nói.
Lại nữa cảm giác bất lực tràn ngập anh. Anh biết, hay có thể đoán, những lý lẽ chứng tỏ sự bất hiện hữu của anh; nhưng đó không có nghĩa lý gì, chỉ là một sự chơi chữ. Câu "Anh không hiện hữu" chẳng chứa đựng một sự vô lý về mặt luận lý là gì ? Nhưng nói ra có ích lợi gì ? Anh rợn óc khi nghĩ tới những cứ luận điên khùng không bẻ lại được mà ÓBrien sẽ đưa ra để đập anh.
"Tôi cho là tôi hiện hữu," anh thều thào nói. "Tôi có ý thức về hằng tính của tôi. Tôi đã được sinh ra và tôi sẽ chết. Tôi có tay có chân. Tôi choán một vị trí đặc biệt trong không gian. Không một hình khối khác nào có thể đồng thời cùng chiếm đóng chỗ với tôi. Bác có hiện hữu theo nghĩa đó không ?"
"Điểm đó không quan trọng. Bác có hiện hữu."
"Bác có bao giờ chết không ?"
"Dĩ nhiên là không. Bác chết thế nào được ? Câu hỏi sau."
"Hội Tình Thân có thật không ?"
"Điều đó, anh sẽ không bao giờ biết, Winston. Cho là chúng tôi quyết định thả anh sau khi xong việc với anh, và cho anh sống tới chín mươi tuổi đi, anh vẫn không bao giờ biết được lời đáp của câu hỏi đó là Có hay Không. Anh còn sống điều đó còn là một điều bí ẩn không giải đáp được trong trí anh."
Winston nằm im. Ngực anh phập phồng nhanh hơn một chút. Anh vẫn chưa hỏi cái câu xuất hiện đầu tiên trong óc anh. Anh phải hỏi điều đó, thế nhưng lưỡi anh không thốt được ra lời. Có dấu thích thú trên mặt ÓBrien. Ngay cặp kính của ông cũng hình như đượm một tia mỉ mai. Ông ta biết, Winston bỗng nghĩ, ông ta biết mình sắp hỏi gì. Nghĩ vậy anh vụt lên tiếng.
"Trong Phòng 101 có gì ?"
Sắc mặt ÓBien không thay đổi. Ông ta xẵng giọng trả lời:
"Anh biết trong Phòng 101 có gì, Winston. Ai cũng biết trong Phòng 101 có gì."
Ông giơ một ngón tay ra hiệu cho người khoác áo trắng. Hiển nhiên cuộc thẩm vấn đã chấm dứt. Một mũi kim xiên vào cánh tay Winston. Gần tức thì anh chìm trong một giấc ngủ say sưa.
"Sự bình phục của anh gồm ba giai đoạn," ÓBrien nói. "Đó là học hỏi, hiểu biết và chấp nhận. Đến lúc anh bước sang giai đoạn thứ hai."
Như thường lệ, Winston nằm bẹt ngửa. Nhưng mới đây dây buộc anh lỏng hơn. Dây vẫn cột anh vào giường, nhưng anh hơi cử động được đầu gối, có thể quay đầu từ bên này qua bên kia, và giơ cẳng tay lên được. Đồng hồ cũng bớt là một vật hãi hùng. Anh có thể thoát những nhát nổ của nó nếu anh kịp nhanh trí: ÓBrien thường chỉ kéo đòn bẩy nếu anh tỏ ra đần độn. Anh không nhớ đã trải qua bao nhiêu cuộc thẩm vấn. Cả quá trình tuồng như dãn trên một thời gian dài vô hạn — có lẽ hàng tuần — và khoảng cách giữa hai kỳ tra khảo kéo dài khi thì hàng ngày, khi thì chỉ một hai giờ.
"Đương khi anh nằm đây," ÓBrien nói, "anh đã thường tự hỏi — anh đã hỏi cả tôi — tại sao Bộ Tình Yêu lại phí hơi tổn sức với anh. Và khi còn tự do anh từng thắc mắc về một vấn đề có bản chất tương tự. Anh thấu được cơ cấu của Xã hội quanh anh, nhưng anh không hiểu nổi động cơ nằm dưới. Anh có nhớ không, anh đã viết trong nhật ký của anh: "Tôi hiểu như sao: tôi không hiểu tại sao ? Chính khi nghĩ về "tại sao" anh đã ngờ vực sự lành mạnh của chính anh. Anh đã đọc quyển sách, sách của Goldstein, hay ít nhất một phần cuốn ấy. Nó có dạy anh điều gì anh chưa biết không ?"
"Ông đọc nó rồi ư ?" Winston hỏi.
"Tôi viết ra nó. Có nghĩa là tôi dự vào việc soạn thảo nó. Như anh biết, không hề có sách do cá nhân sản xuất."
"Những điều nói trong sách có đúng không ?"
"Phần tả cảnh thì đúng. Chương trình nêu ra thì phi lý. Tích lũy sự hiểu biết một cách thầm kín — phổ biến dần dần ánh sáng — sau cùng dân đen nổi dậy — để rồi Đảng bị lật đổ. Chính anh cũng tiên đoán nó sẽ bảo vậy. Toàn là chuyện phi lý. Dân đen sẽ không bao giờ nổi dậy, dù hàng ngàn hay hàng triệu năm nữa. Họ không thể làm thế. Tôi không cần cho anh biết lý do: anh thừa biết. Nếu anh từng ôm mộng sẽ có một cuộc khởi nghĩa bằng bạo lực, anh nên dẹp nó đi. Không có cách nào khiến cho Đảng bị lật đổ. Đảng sẽ thống trị mãi mãi. Lấy đó làm điểm sơ khởi cho sự suy tư của anh."
Ông ta tiến lại gần giường hơn. "Mãi mãi !" ông nhắc lại. "Thôi bây giờ hãy trở lại vấn đề "như sao" và "tại sao". Anh hiểu khá rõ Đảng duy trì quyền lực như sao. Giờ anh hãy nói tôi nghe tại sao chúng tôi bám vào quyền lực. Động cơ của chúng tôi là gì ? Tại sao chúng tôi muốn có quyền lực ? Anh nói đi nào," ông chua thêm khi thấy Winston im lặng.
Tuy nhiên Winston không lên tiếng trong một hai lát. Một cảm giác rã rời tràn ngập anh. Ánh nhiệt tình hơi điên dại đã tái hiện trên mặt ÓBrien. Anh biết trước ÓBrien sẽ nói gì. Rằng Đảng không tranh quyền vì mục đích riêng mà vì hạnh phúc của đa số. Rằng Đảng tranh quyền vì đám dân gồm trong quần chúng là những dân mảnh dẻ nhát hèn không thể chịu đựng được tự do hay đối diện được sự thật, phải bị cai trị và lường gạt bởi những kẻ khác mạnh hơn. Rằng loài người phải chọn giữa tự do và hạnh phúc, và đối với đại đa số nhân loại hạnh phúc đáng quý hơn. Rằng Đảng là thần hộ mệnh vĩnh viễn của kẻ yếu, là một giáo phái hiến mình cho việc ác để sinh ra điều thiện, hy sinh hạnh phúc của chính mình cho hạnh phúc của kẻ khác. Điều hãi hùng, Winston nghĩ, điều hãi hùng là khi ÓBrien nói thế anh sẽ tin thế. Có thể thấy rõ điều đó trên mặt ông. ÓBrien biết hết mọi sự. Hơn Winston cả ngàn lần, ông biết thế giới thực sự ra sao, đám đông quần chúng sống bệ rạc đến đâu, và Đảng giữ họ trong tình trạng ấy nhờ những sự gian dối dã man nào. Anh đã hiểu cả, đã cân nhắc hết, không can dự gì: cứu cánh biện bạch cho mọi sự. Làm sao, Winston nghĩ, chống lại nổi một kẻ điên khùng thông minh hơn mình nhiều, chịu nghe luận cứ của mình nhưng sau đó vẫn khăng khăng giữ óc điên khùng ?
"Các ông thống trị chúng tôi vì hạnh phúc của chúng tôi," anh khẽ nói. "Các ông tin rằng con người không đủ tư cách để tự cai trị, cho nên —"
Anh giật mình gần thét lên. Một cơn đau buốt xuyên qua người anh. ÓBrien đã đẩy đòn bẩy đồng hồ lên tới số ba mươi nhăm.
"Thật ngu xuẩn, Winston, thật ngu xuẩn !" ông ta nói. "Đáng nhẽ anh phải biết trả lời hay hơn vậy."
Ông kéo đòn bẩy trở lại và nói tiếp:
"Để tôi giải đáp câu hỏi cho anh. Như thế này này. Đảng tranh quyền hoàn toàn vì quyền mà thôi. Chúng tôi không màng tới hạnh phúc của kẻ khác; chúng tôi chỉ quan tâm đến quyền hành. Không cần giàu có, sang trọng, sống lâu hay hạnh phúc: chỉ muốn quyền lực, quyền lực thuần túy. Quyền lực thuần túy là gì, anh sẽ hiểu ngay. Chúng tôi khác các chính thể quả đầu trong quá khứ ở cái chúng tôi biết hành động của chúng tôi. Các dân quả đầu khác, ngay cả các nhóm giống chúng tôi, toàn là bọn hèn nhát và đạo đức giả. Nhóm Đức Quốc Xã và Cộng Sản Nga rất gần chúng tôi về phương pháp, nhưng họ không bao giờ có can đảm công nhận động cơ của chính họ. Họ tuyên bố, có lẽ họ cũng tin vậy, họ miễn cưỡng giành quyền trong một thời gian hạn định, kế đó là thiên đàng trong đó con người được tự do bình đẳng. Chúng tôi không thế. Chúng tôi biết không bao giờ có ai chiếm quyền với ý định từ bỏ nó. Quyền hành không phải là phương tiện, nó là cứu cánh. Người ta không lập chế độ độc tài để bảo vệ cách mạng; người ta làm cách mạng để thiết lập chế độ độc tài. Mục đích của sự đàn áp là đàn áp. Mục đích của sự tra tấn là tra tấn. Mục đích của quyền hành là quyền hành. Bây giờ anh bắt đầu hiểu chưa ?"
Winston bị xúc động, như anh đã từng bị xúc động trước đây, bởi nét mệt mỏi trên mặt ÓBrien. Mặt ông chắc mạnh, đẫy đà và thô bạo, nó đầy vẻ thông minh và một thứ nhiệt huyết bị kiềm chế khiến anh cảm thấy bất lực trước nó; nhưng nó mệt mỏi. Dưới mắt ông sưng húp, da ông xệ xuống từ gò má. ÓBrien cúi người xuống anh, cố ý đưa khuôn mặt rã rời lại gần.
"Anh đang nghĩ rằng mặt tôi già nua mệt mỏi," ông ta nói. "Anh cho rằng tôi bàn về quyền lực, thế nhưng tôi không cản nổi ngay sự suy sút của thể xác tôi. Anh không hiểu được ư, Winston, cá nhân chỉ là một tế bào ? Sự hao mòn của tế bào chính là sự cường tráng của cơ thể. Anh có chết đi khi anh cắt móng tay không ?"
Ông quay lưng về phía giường và bắt đầu bước lên bước xuống trở lại, một tay thọc vào túi.
"Chúng tôi là giáo sĩ của quyền lực," ông nói. "Thiên chúa là quyền lực. Hiện trong chừng mực nó liên quan đến anh nó chỉ là một danh từ. Đã tới lúc anh hội ý quyền lực là gì. Điều đầu tiên anh phải ý thức là quyền lực thuộc tập thể. Cá nhân chỉ có quyền lực trong chừng mực họ thôi là cá nhân. Anh biết khẩu hiệu của Đảng: "Tự do là nô lệ". Anh có bao giờ nghĩ rằng khẩu hiệu ấy có thể được đảo ngược lại không ? Nô lệ là tự do. Một mình — tự do — con người luôn luôn thất bại. Phải thế, vì ai ai cũng bó buộc phải chết, mà phận ấy là sự thất bại lớn lao nhất. Nhưng nếu con người biết phục tùng cực kỳ trọn vẹn, biết thoát ly hằng tính, nếu biết hòa vào Đảng khiến mình là Đảng, con người sẽ toàn năng và bất tử. Điều thứ hai anh phải hiểu là quyền lực có nghĩa là quyền hành trên con người. Trên thể xác, nhưng trước hết, trên tinh thần. Quyền hành trên vật chất — trên thực tế bên ngoài, theo văn chương anh — không quan trọng. Sự kiểm soát vật chất của chúng tôi đã tuyệt đối rồi."
Trong một lúc Winston không tưởng đến cái đồng hồ. Anh mạnh mẽ ra sức vươn mình ngồi dậy, nhưng chỉ tổ làm cho cơ thể anh quặn đau.
"Nhưng các ông kiểm soát vật chất thế nào được ?" anh thốt lên. "Ngay khí hậu hay định luật về sức hút các ông cũng không sai khiến nổi. Còn nào là bệnh hoạn, đau đớn, chết chóc —"
ÓBrien đưa tay ra lệnh cho anh im. "Chúng tôi kiểm soát vật chất vì chúng tôi kiểm soát trí óc. Thực tế nằm trong sọ người. Anh sẽ học dần dần, Winston ạ. Không có gì mà chúng tôi không làm được. Thuật vô hình, thuật bay bổng — bất cứ gì. Tôi có thể rời sàn nhà phất phới như bọt xà phòng nếu tôi muốn. Tôi không muốn vậy, vì Đảng không muốn vậy. Anh phải từ bỏ các tư tưởng thuộc thế kỷ mười chín về định luật Thiên Nhiên. Chúng tôi làm ra định luật Thiên Nhiên."
"Nhưng các ông có làm ra chúng đâu ! Các ông không làm chủ nổi trái đất nữa kìa. Còn Âu Á với Đông Á thì sao ? Anh ông chưa chiếm nổi những nước ấy."
"Không quan trọng. Chúng tôi sẽ chiếm những nước ấy khi nào chúng tôi muốn. Nhưng nếu chúng tôi không chiếm được, có khác gì đâu ? Chúng tôi có thể tước sự hiện hữu của những nước ấy. Đại Dương là thế giới."
"Nhưng chính thế giới chỉ là một hạt bụi. Và con người nhỏ xíu — bất lực ! Đã từ bao lâu con người sinh ra đời ? Mấy triệu năm trước trái đất không chứa sinh vật nào."
"Bậy nào. Trái đất bằng tuổi loài người, không già hơn. Làm sao già hơn được ? Không có gì hiện hữu nếu không được con người ý thức."
"Nhưng các mỏm đá đầy xương của các thú vật đã tuyệt giống — voi ma mút, voi răng mấu, và các loài bò sát khổng lồ sống đã lâu năm trên trái đất này trước khi thấy nói tới con người."
"Anh đã thấy những bộ xương đó bao giờ chưa, Winston ? Cố nhiên là chưa. Các nhà sinh học thuộc thế kỷ mười chín bịa đặt ra chúng. Trước con người không có gì cả. Sau con người, nếu con người tuyệt vong, sẽ không có gì. Ngoài con người ra không có gì cả."
"Nhưng cả vũ trụ ở ngoài chúng ta. Cứ nhìn vào các vì sao. Có sao xa chúng ta đến cả triệu năm ánh sáng. Chúng vĩnh viễn ở ngoài tầm tay của chúng ta."
"Sao là cái thứ gì ?" ÓBrien thờ ơ nói. "Chúng chỉ là những mẩu lửa cách xa đây vài cây số. Chúng tôi có thể với lấy chúng nếu chúng tôi muốn. Hay chúng tôi có thể xóa chúng đi. Trái đất là trung tâm vũ trụ. Mặt trời và các sao quay vòng quanh nó."
Winston lại co giật người. Lần này anh không nói gì. ÓBrien tiếp tục như thể đáp lại một lời phản đối:
"Trong vài trường hợp dĩ nhiên điều đó không đúng. Khi đáp tàu trên biển cả hay tiên đoán thiên thực, thường thấy cho rằng trái đất quay quanh mặt trời cũng như các sao cách đây cả triệu triệu cây số tiện lợi hơn. Nhưng thế thì đã sao ? Bộ anh tưởng chúng tôi không đủ tư cách chế ra một hệ thống thiên văn lưỡng hợp chắc ? Các sao ở xa hay gần tùy theo nhu cầu của chúng tôi. Anh tưởng các nhà toán học của chúng tôi không đủ tài chăng ? Anh quên ý đôi rồi à ?"
Winston co rụt người lại trên giường. Anh có nói gì chăng nữa, câu đáp mau lẹ cũng đập xuống anh chẳng khác dùi cui. Song le, anh biết, anh biết anh có lý. Cái niềm tin không có gì hiện hữu ngoài trí óc ấy — chắc phải có một cách chứng minh nó sai lầm. Hồi xưa nó chẳng được giảng dạy như một sự sai lạc là gì ? Có cả tên để chỉ nó, nhưng anh đã quên mất. Một nụ cười nhẹ nhếch mép miệng ÓBrien khi ông nhìn xuống anh.
"Tôi đã bảo anh rằng siêu hình học không phải là sở trường của anh, Winston," ông nói. "Danh từ mà anh cố nhớ ra là thuyết duy ngã. Nhưng anh lầm. Đây không phải là thuyết duy ngã. Hay thuyết duy ngã tập thể, nếu anh muốn. Mà đây là một thuyết khác hẳn: nói cho đúng, nó là một thuyết trái ngược hẳn. Các điều trên xa đề cả," ông đổi giọng nói thêm. "Quyền lực thực sự, quyền lực vì chưng chúng tôi tranh đấu đêm ngày không phải là quyền trên sự vật mà là quyền trên con người." Ông ngưng nói, và trong một lát lấy lại sắc mặt của ông thầy giáo vặn hỏi một học trò đầy hứa hẹn: "Người ta khẳng định uy quyền trên kẻ khác ra sao, Winston ?"
Winston suy nghĩ. "Bằng cách làm cho họ đau khổ," anh nói.
"Đúng. Bằng cách làm cho họ đau khổ. Sự tuân lệnh không đủ. Trừ phi họ đau khổ, nếu không làm sao chắc được họ tuân theo ý mình chứ không phải theo ý họ ? Quyền lực ở trong sự bắt chịu đau đớn và nhục nhằn. Quyền lực ở trong sự xé trí óc con người ra từng mảnh rồi chắp chúng lại thành hình mới mẻ do mình lựa chọn. Thế anh đã bắt đầu hiểu chúng tôi đang tạo một kiểu thế giới nào chưa ? Nó trái ngược hẳn với các chính thể hoan lạc Không Tưởng ngớ ngẩn do các các nhà cải lương xưa tưởng tượng ra. Một thế giới của lòng sợ hãi và gian dối day dứt, một thế giới của những kẻ chà đạp và bị chà đạp, một thế giới càng tinh luyện càng không bớt mà thêm tàn nhẫn. Tiến bộ trong thế giới của chúng tôi là tiến bộ tới một mức đau khổ lớn hơn. Các nền văn minh xưa được tuyên bố thành lập trên tình thương và công lý. Nền văn minh của chúng tôi dựa trên lòng thù hận. Trong thế giới của chúng tôi không có cảm xúc nào ngoài sự sợ hãi, sự hằn học, sự đắc thắng, và sự hạ mình. Mọi sự khác sẽ bị chúng tôi hủy diệt hết. Chưa chi chúng tôi đã phá những tập quán tư tưởng sống sót từ trước Cách Mạng. Chúng tôi đã cắt đứt sợi dây liên lạc giữa cha mẹ con cái, giữa con người và con người, giữa đàn ông và đàn bà. Không còn ai dám tin tưởng vợ con hay bạn bè. Mà trong tương lai sẽ không còn vợ và bạn. Trẻ con sẽ bị bắt rời mẹ ngay khi lọt lòng như ta lấy trứng của gà mái. Bản năng giới tính sẽ bị trừ tiệt. Việc sinh sản sẽ thành một thủ tục hàng năm, giống như sự thay đổi thẻ khẩu phần mới. Chúng tôi sẽ loại trừ sự cực khoái trong giao cấu. Các nhà thần kinh học của chúng tôi đang nghiên cứu chuyện đó. Sẽ không còn lòng trung, trừ lòng trung đối với Đảng. Sẽ không còn tình yêu, ngoài tình yêu đối với Bác. Sẽ không còn tiếng cười, trừ tiếng cười đắc thắng trước một kẻ thù bị bại. Sẽ không có nghệ thuật, không có văn chương, không có khoa học. Một khi toàn năng, chúng tôi sẽ không còn cần khoa học. Sẽ không có sự khác biệt giữa sắc đẹp và sắc xấu. Sẽ không có lòng hiếu kỳ, không có lòng vui sướng hưởng sống. Mọi thú vui tranh đua sẽ bị tiêu diệt. Nhưng mãi mãi — chớ có quên điều này, Winston — mãi mãi sẽ còn lòng say nghiện quyền thế, luôn luôn gia tăng, luôn luôn thêm phần tinh tế. Mãi mãi, bất cứ lúc nào, sẽ có lòng rung động vì đắc thắng, cảm giác về sự giày xéo một kẻ thù bất lực. Nếu anh muốn một hình ảnh về tương lai, hãy tưởng tượng một chiếc giầy ống nện trên mặt người — đời đời nện giẫm."
Ông ngưng nói như thể đợi Winston lên tiếng. Nhưng anh cố co chùn người lại trên mặt giường. Anh không thể nói gì. Tim anh hầu như đóng băng. ÓBrien tiếp tục:
"Và anh hãy nhớ rằng đời đời sẽ vậy. Mặt người sẽ luôn luôn có đó để bị giẫm lên. Kẻ dị giáo, kẻ thù xã hội, luôn luôn có đó để bị đánh bại và làm nhục hết rồi lại nữa. Mọi điều anh phải trải qua từ khi vào tay chúng tôi — mọi sự ấy sẽ tiếp tục và tệ hơn. Tội gián điệp, tội phản loạn, sự bắt bớ, sự tra tấn, sự hành quyết, sự mất tích, sẽ không bao giờ chấm dứt. Đây sẽ là thế giới của sự hãi hùng cũng như của sự đắc thắng. Đảng càng mạnh, Đảng càng ít khoan dung: sự đối lập càng yếu, sự chuyên chế càng gay gắt. Goldstein và các tà thuyết của hắn sẽ vĩnh cửu. Ngày nào, lúc nào, chúng cũng bị đánh bại, đả phá, nhạo báng, phỉ nhổ — nhưng chúng sẽ vẫn tồn tại. Tấn bi kịch tôi đóng với anh trong bẩy năm trời sẽ được diễn đi diễn lại, hết thế hệ này sang thế hệ kia, luôn luôn thêm phần tinh tế về hình thức. Mãi mãi tại nơi đây, chúng tôi sẽ mặc sức xử trị kẻ theo tà thuyết, cho hắn hét lên vì đau đớn, cho hắn kiệt quệ, tới độ đáng khinh — và tận cùng, hoàn toàn ăn năn, thoát khỏi chính mình, tự ý quỳ dưới chân chúng tôi. Đó là thế giới mà chúng tôi sắp dặt đó, Winston. Một thế giới của hết thắng lợi này đến thắng lợi kia, hết đắc thắng này đến đắc thắng kia: một áp lực không ngưng, áp mãi, áp mãi trên gân cốt quyền lực. Coi bộ anh đang bắt đầu hiểu thế giới ấy sẽ như thế nào. Nhưng sau cùng anh sẽ hơn cả hiểu biết. Anh sẽ chấp nhận nó, đón mừng nó, trở thành một bộ phận của nó."
Winston đã lấy lại đủ bình tĩnh để lên tiếng. "Các ông không làm thế được !" anh thều thào nói.
"Anh muốn nói gì với nhận xét đó, Winston ?"
"Các ông không thể tạo được một thế giới như ông vừa tả. Đó là một giấc mơ. Nó không thể có được."
"Tại sao ?"
"Không thể dựng được một nền văn minh trên sự sợ hãi, hận thù và bạo tàn. Nó không thể sống lâu."
"Tại sao không ?"
"Nó sẽ không có sức sống. Nó sẽ tan rã. Nó sẽ tự sát."
"Bậy nào. Anh còn ấn tượng rằng hận thù làm kiệt sức hơn tình yêu. Làm sao lại phải thế ? Mà nếu vậy thì đã sao ? Cho là chúng tôi muốn kiệt sức nhanh hơn. Cho là chúng tôi thúc mau nhân sinh tới độ con người đã già vào cỡ ba mươi. Vẫn vậy thì đã làm sao ? Anh không thể hiểu rằng cái chết của cá nhân không phải là chết ư ? Đảng bất tử."
Như thường lệ, giọng nói đã đập Winston vào thế bất lực. Hơn thế nữa, anh e sợ ÓBrien sẽ vặn đồng hồ trở lại nếu anh khăng khăng phản đối. Ấy thế mà anh không thể im lặng được. Một cách yếu đuối, dù không có luận cứ, không có gì hỗ trợ anh ngoài sự ghê rợn không thốt ra được của anh đối với những điều do ÓBrien khẳng định, anh tấn công trả lại.
"Tôi không biết — tôi bất cần. Thế nào các ông cũng sẽ thất bại. Sẽ có cái gì đánh bại các ông. Đời sống sẽ đánh bại các ông."
"Chúng tôi kiểm soát đời sống ở mọi mức độ, Winston à. Anh đang tưởng tượng có cái gì gọi là nhân bản sẽ bị xúc phạm bởi việc làm của chúng tôi và sẽ phản công lại chúng tôi. Nhưng chúng tôi tạo ra nhân bản. Con người dễ dát vô cùng. Hay có lẽ anh đã quay về ý cũ của anh cho rằng dân đen hay nô lệ sẽ nổi dậy lật đổ chúng tôi. Anh dẹp ý tưởng đó đi. Họ bất lực, tựa như súc vật. Nhân loại là Đảng. Những kẻ khác ở ngoài — không đáng nhắc tới."
"Tôi bất kể. Tận cùng họ sẽ đánh bại các ông. Sớm muộn gì họ cũng sẽ thấy rõ bộ mặt thực của các ông, và lúc đó họ sẽ phanh thây các ông ra từng mảnh."
"Anh có thấy dấu hiệu nào chỉ rằng điều đó sẽ xảy ra không ? Hay lý do nào khiến nó sẽ phải xảy ra chăng ?"
"Không. Tôi tin vậy. Tôi biết các ông sẽ thất bại. Có một cái gì trong vũ trụ — tôi không rõ, kiểu như tinh thần, hay nguyên lý — các ông không bao giờ chế ngự nổi."
"Anh có tin có Chúa Trời không, Winston ?"
"Không."
"Thế thì cái nguyên lý sẽ đánh bại chúng tôi là gì vậy ?"
"Tôi không biết. Thần linh của Giống Người."
"Thế anh có coi chính anh là người không ?"
"Có."
"Nếu anh là người, Winston ạ, anh là con người cuối cùng. Loại người như anh đã tuyệt giống; chúng tôi là kẻ thừa kế. Anh có hiểu rằng anh cô độc không ? Anh ở ngoài lịch sử, anh không hiện hữu." Điệu bộ ÓBrien thay đổi và ông nói xẵng hơn: "Chắc hẳn anh coi anh có luân lý hơn chúng tôi vì chúng tôi lừa dối và ác độc ?"
"Phải, tôi cho tôi hơn các ông."
ÓBrien không nói. Hai giọng khác lên tiếng. Sau một lúc Winston nhận ra một giọng chính là giọng mình. Đó là bản thâu thanh câu chuyện giữa anh và ÓBrien đêm anh gia nhập Hội Tình Thân. Anh nghe thấy mình hứa sẽ nói dối, ăn cắp, giả mạo, ám sát, khuyến khích sự nghiện ngập và mãi dâm, truyền bá bệnh hoa liễu, tạt cường toan vào mặt trẻ nít. ÓBrien hơi có một cử chỉ sốt ruột, ý như muốn bảo sự chứng minh không mấy xứng đáng. Rồi ông ta ấn vào một nút và hai giọng kia ngưng.
"Đứng dậy ra khỏi giường," ông ra lệnh.
Dây buộc tự tháo ra. Winston cúi người xuống sàn và chập choạng đứng dậy.
"Anh là con người cuối cùng," ÓBrien nói. "Anh là kẻ gìn giữ thần linh của giống người. Anh sẽ thấy anh thực sự ra sao. Cởi quần áo ra."
Winston tháo sợi dây nối liền bộ áo liền quần của anh. Khóa kéo của bộ quần áo đã bị giựt đi từ lâu. Anh không nhớ từ khi anh bị bắt đã có lần nào anh cởi hết quần áo cùng một lúc chưa. Dưới bộ áo liền quần cơ thể anh được quấn với giẻ vàng úa bẩn thỉu, khó nhận ra được là quần áo lót sót lại. Đương lúc tuột cả xuống đất, anh thấy có một tấm gương ba mặt ở tận cuối phòng. Anh tiến lại gần nó, rồi bỗng dừng phắt chân lại. Một tiếng kêu không chủ ý buột khỏi miệng anh.
"Tiến lên," ÓBrien nói. "Đứng giữa hai cánh gương. Anh sẽ thấy thêm cả hình nghiêng."
Anh đã dừng bước vì anh khiếp sợ. Một vật xám, khom, giống như bộ xương người đang tiến về phía anh. Hình dáng nó đáng sợ thật, chứ không phải chỉ sự anh biết đó chính là anh làm anh sợ. Anh tiến lại gần tấm gương hơn. Khuôn mặt của sinh vật gồ ra vì thân hình còng lại. Một khuôn mặt thiểu não của kẻ tù tội với vừng trán hói rút về một cái đầu trọc, với cái mũi lệch cùng đôi gò má hóp ở dưới một cặp mắt hung dữ chòng chọc. Má thì nhăn nheo, miệng gần như mím lại. Chắc chắn đấy là khuôn mặt của chính anh, nhưng anh thấy nó thay đổi nhiều hơn tinh thần anh. Những xúc cảm ghi trên nó có vẻ khác những xúc cảm đã xâm nhập anh. Anh đã đâm hói đầu. Thoạt đầu anh còn tưởng anh đã bạc đầu, nhưng hóa ra da đầu anh màu xám. Trừ tay và một vòng trên mặt anh, khắp thân thể anh xám xịt vì ghét lưu cữu, bám chặt. Đó đây dưới ghét bụi có nhiều vết thương đỏ lòm, và ở gần đầu gối vết loét giãn tĩnh mạch là một khối sưng vù tróc da từng mảnh. Nhưng điều thật hãi hùng là sự hốc hác của thân thể anh. Lồng ngực anh hẹp như lồng xương sườn: cẳng anh thóp lại khiến đầu gối anh to hơn đùi anh. Bây giờ anh hiểu ÓBrien ám chỉ gì khi bảo anh nhìn hình nghiêng. Đường cong của xuơng sống anh coi lạ lùng. Đôi vai mỏng còng ra trước như để làm khoang cho ngực, cái cổ trơ xương trĩu xuống gấp hai dưới sức nặng của sọ. Ước chừng anh có thể nói đó là thân thể của một ông già sáu mươi, đang bị hành bởi một chứng bệnh nan y.
"Thỉnh thoảng anh vẫn cho rằng mặt tôi — mặt của một thành viên Đảng Trong — coi vẻ già nua," ông nói. "Anh nghĩ gì về bộ mặt của chính anh đây ?"
Ông ta nắm vai Winston, quay người anh lại cho ông ta nhìn thẳng vào mặt anh.
"Hãy xem tình trạng anh !" ông ta nói. "Hãy xem lớp bụi phủ khắp người anh. Xem chất ghét giữa ngón chân anh. Xem vết loét ghê tởm lan rộng trên chân anh. Anh có biết anh hôi như trù không ? Có lẽ anh hết để ý đến điều ấy. Xem sự hốc hác của anh. Anh thấy không ? Tôi có thể lấy ngón tay tôi vòng bắp tay anh. Tôi có thể bẻ gẫy cổ anh như bẻ cà rốt. Anh có biết anh sụt mất hai mươi nhăm ký từ khi anh lọt vào tay chúng tôi không ? Cả tóc anh cũng rụng mất từng nắm. Coi !" Ông ta vò đầu Winston lấy ra một mớ tóc. "Há miệng ra nào. Còn có chín, mười, mười một cái răng. Anh có bao nhiêu cái khi anh vào đây với chúng tôi ? Mà mấy cái còn lại sắp rớt khỏi đầu anh. Xem này !"
Ông ta bắt một chiếc răng cửa còn lại của Winston giữa hai ngón tay cái và tay trỏ mạnh mẽ của ông. Một cơn đau nhói xuyên qua hàm Winston. ÓBrien đã vặn rứt rễ chiếc răng long. Ông ta quẳng nó qua xà lim.
"Anh đang mủn thối," ông ta nói. "Anh đang rã mục. Anh là gì ? Một cái bị dơ dáy. Xoay người lại rồi nhìn vào gương lần nữa đi nào. Anh có thấy cái vật trước mặt anh không ? Đó là con người cuối cùng đấy. Nếu anh là người, nhân loại thế đấy. Thôi, mặc quần áo trở lại."
Winston mặc quần áo vào với những cử động chậm chạp cứng đờ. Tới bây giờ hình như anh chưa nhận thấy mình gầy yếu đến chừng nào. Chỉ có một ý nghĩ xoay vần trong óc anh: chắc anh đã ở chốn này lâu hơn anh tưởng. Rồi bất thình lình đương lúc ngắm mớ giẻ quanh anh, một nỗi thương tâm đối với tấm thân điêu tàn của mình tràn ngập anh. Trước khi biết mình làm gì anh đã ngã sụp xuống một chiếc ghế đẩu nhỏ cạnh giường òa lên khóc. Anh ý thức sự xấu xí kệch cỡm của mình, một đống xương bận áo lót bẩn thỉu ngồi khóc dưới ánh đèn trắng toát: nhưng anh không dằn được. ÓBrien đặt một tay trên vai anh, gần như ái ngại.
"Không mãi mãi thế này đâu," ông nói. "Anh có thể thoát cảnh này khi nào anh muốn. Mọi sự tùy thuộc anh."
"Ông xui ra thế !" Winston sụt sùi. "Ông dìm tôi vào trạng thái này."
"Không, Winston, chính anh tự dìm anh vào đó. Đấy là sự anh chấp nhận khi anh bắt tay chống lại Đảng. Mọi sự được chứa trong hành động đầu tiên ấy. Không có gì xảy ra mà anh không biết trước."
Ông tạm ngưng rồi tiếp tục:
"Chúng tôi đã đánh bại anh, Winston. Chúng tôi đã hủy hoại anh. Anh đã thấy thân thể anh ra sao. Tinh thần anh cũng cùng tình trạng. Tôi không cho là anh có thể còn nhiều kiêu hãnh. Anh đã bị đấm, bị quật, bị chửi, anh đã hét vì đau đớn, anh đã lăn lộn trên sàn trong máu và chất mửa của anh. Anh đã khóc lóc xin tha, anh đã phản bội mọi người, mọi sự. Anh có thể nghĩ được ra một hành động đê tiện chưa do anh làm không ? "
Winston đã ngưng khóc mặc dầu anh vẫn nhỏ nước mắt. Anh nhìn lên ÓBrien.
"Tôi đã không phản Julia," anh nói.
ÓBrien trầm ngâm nhìn xuống anh. "Không," ông bảo; "không; điều đó hoàn toàn đúng. Anh đã không phản Julia."
Lòng tôn kính đặc biệt đối với ÓBrien, mà không có gì có vẻ diệt nổi, tràn ngập trở lại tim Winston. Thông minh biết bao, anh nghĩ, thông minh biết bao ! Bao giờ ÓBrien cũng hiểu những điều nói với ông. Ai khác trên thế gian cũng đã nhanh nhẩu trả lời rằng anh đã phản Julia. Vì có gì mà chúng chẳng vặn khỏi anh dưới cực hình ? Anh đã nói cho chúng mọi điều anh biết về nàng, những thói quen của nàng, tính nết nàng, quá khứ của nàng; anh đã khai với từng chi tiết tầm thường nhất mọi sự xảy ra trong những cuộc họp mặt của anh với nàng, mọi điều anh nói với nàng và nàng với anh, những bữa cơm chợ đen của hai người, tình yêu vụng trộm của anh và nàng, những mưu toan mơ hồ của hai người chống Đảng — mọi sự. Song le, theo nghĩa anh dùng cho danh từ, anh đã không phản nàng. Anh đã không ngưng yêu nàng; tình cảm của anh đối với nàng vẫn y nguyên. ÓBrien đã hiểu anh muốn nói gì không cần anh giải thích.
"Xin ông cho biết khi nào tôi bị bắn ?" anh hỏi.
"Có thể còn lâu," ÓBrien nói. "Anh là một ca khó. Nhưng đừng thất vọng. Rồi ai cũng khỏi bệnh chẳng sớm thì muộn. Sau cùng chúng tôi sẽ bắn anh."
Anh khỏe hơn. Ngày ngày, nếu nói về ngày thích đáng, anh mập và lớn ra.
Ánh đèn trắng và tiếng ù ù vẫn như trước. Nhưng xà lim hơi có tiện nghi hơn các xà lim anh đã từng ở khác. Có một chiếc gối và một tấm nệm trên giường phản, cùng một chiếc ghế đẩu để ngồi. Chúng đã cho anh tắm một lần và cho phép anh rửa ráy khá thường xuyên trong một chậu kẽm. Chúng cho anh cả nước nóng để rửa. Chúng đã cho anh quần áo lót mới cùng một bộ áo liền quần sạch sẽ. Chúng đã xoa dầu chỉ thống trên vết loét giãn tĩnh mạch của anh. Chúng đã nhổ những răng còn lại của anh và cho anh một bộ răng giả mới.
Hàng tuần hay hàng tháng chắc đã trôi qua. Bây giờ có thể tính được thời gian qua, nếu anh muốn làm vậy, vì anh được nuôi ăn tuồng như cách quãng đều. Theo anh ước chừng, thì mỗi hai mươi tư tiếng anh được ăn ba bữa; thỉnh thoảng anh tự hỏi anh đang ăn cơm sáng hay tối. Thức ăn ngon kỳ dị, cứ ba bữa thì một bữa có thịt. Có lần có cả một gói thuốc lá. Anh không có diêm, nhưng tên lính canh không bao giờ mở miệng mang cơm đến cho anh đã cho anh lửa. Lần đầu tiên anh thử hút, thuốc làm anh khó ở, nhưng anh kiên trì, và kéo dài được lâu gói thuốc bằng cách hút có nửa điếu sau mỗi bữa ăn.
Chúng đã cho anh một tấm đá bảng trắng với một mẩu bút chì buộc nơi góc. Thoạt đầu anh không dùng nó. Ngay khi anh tỉnh anh cũng hoàn toàn đờ đẫn. Anh hay nằm từ bữa cơm này sang bữa cơm kia, không nhúc nhích, lúc ngủ, lúc thức trong mơ màng không chịu phiền mở mắt. Đã từ lâu anh quen ngủ với ánh đèn sáng chói trên mắt. Hầu như có đèn hay không chẳng khác gì, ngoài sự giấc mơ mạch lạc hơn. Suốt thời gian này anh nằm mơ nhiều hơn, và đó luôn luôn là giấc mộng đẹp. Anh ở Xứ Vàng, hay anh ngồi giữa những phế tích tắm nắng, hiển hách, đồ sộ, cùng với mẹ anh, với Julia, với ÓBrien — không làm gì cả, chỉ ngồi dưới nắng, nói chuyện êm đềm. Những tư tưởng đến với anh khi anh thức tỉnh phần đông liên quan đến giấc mơ của anh. Anh dường như mất khả năng hoạt động trí óc, vì bây giờ không còn sự kích thích của đau đớn. Anh không buồn phiền, anh không muốn nói chuyện hay giải trí. Chỉ ở một mình, không bị đánh đập hay tra hỏi, có đủ ăn, được sạch sẽ khắp mình, thế là đủ làm anh hoàn toàn hài lòng.
Dần dần anh ít mất thì giờ ngủ, nhưng anh vẫn không thấy có xung động ra khỏi giường. Anh chỉ muốn nằm yên và nghe sức khỏe tập trung trong cơ thể anh. Anh thường lấy ngón tay rờ chỗ nọ chỗ kia trên người, để trắc nghiệm sự bắp thịt anh tròn hơn và da anh căng hơn không phải là ảo tưởng. Cuối cùng không còn nghi ngờ gì, đúng anh mập ra; đùi anh bây giờ dày hẳn hơn đầu gối anh. Sau đó, tuy mới vào ngần ngại, anh bắt đầu tập thể thao đều đặn. Sau một thời gian ngắn, anh có thể đi bách bộ ba cây số trong xà lim, và đôi vai còng của anh thẳng dần lại. Anh luyện thử nhiều động tác thể dục chế biến hơn, và lạ lùng cùng lấy làm nhục khi thấy những điều anh không làm nổi. Anh không đi nhanh được, anh không thể thẳng tay cầm ghế đẩu, anh không đứng được lò cò một chân mà không té nhào. Anh ngồi sụp xuống gót, và thấy mình phải chịu đau nhừ nơi đùi và bắp chân mới nhấc người đứng lên nổi. Anh nằm sấp trên bụng và cố lấy tay đưa khối nặng của mình lên. Vô vọng, anh không nhấc nổi người lên được một phân. Nhưng vài ngày sau — thêm một ít bữa cơm nữa — ngay kỳ công đó cũng được thực hiện. Tới lúc anh có thể làm như thế đến sáu lần liền. Anh bắt đầu thực sự hãnh diện về cơ thể mình và ôm ấp niềm tin gián đoạn rằng mặt mũi anh cũng sắp bình thường trở lại. Chỉ những khi anh tình cờ sờ tay trên mảng da đầu trọc lóc của anh anh mới nhớ tới khuôn mặt nhăn nheo, tàn tạ nhìn lại anh từ trong gương.
Tâm trí anh đâm hoạt động hơn. Anh ngồi trên giường phản, lưng tựa vào tường với tấm đá bảng trên gối, cố ý bắt tay vào việc tự giáo dục cải tạo.
Anh đã đầu hàng, điều này đã được chấp nhận. Thực ra, như anh hiện thấy, từ lâu trước khi quyết định anh đã sẵn sàng đầu hàng. Từ lúc anh vào trong Bộ Tình Yêu — và phải, ngay trong những phút anh và Julia đứng bất lực trong khi giọng nói đanh đảnh từ máy truyền hình ra lệnh này nọ cho hai người, anh đã am hiểu tính cách phù phiếm, nông cạn của sự toan tính dấn thân vào việc chống đối quyền lực của Đảng. Nay anh biết trong bẩy năm trời Cảnh Sát Tư Tưởng đã quan sát anh như thể bọ hung dưới kính hiển vi. Không một hành động cụ thể nào, không một tiếng nói lớn nào mà chúng không ghi, không một chuỗi tư tưởng nào mà chúng không thể suy ra. Ngay cả hạt bụi trăng trắng trên bìa nhật ký của anh chúng cũng để lại cẩn thận. Chúng đã quay lại băng nhựa cho anh nghe, chúng đã cho anh xem hình. Vài tấm là hình chụp anh với Julia. Đúng, ngaỵ.. Anh không thể còn chống đối lại Đảng. Vả lại, Đảng có lý. Phải như thế; làm sao bộ óc tập thể, bất tử có thể lầm lẫn đụợc ? Lấy ngoại chuẩn gì mà kiểm điểm được những phán xét của Đảng ? Sự lành mạnh thuộc phạm vi thống kê. Đó chỉ là một vấn đề tập nghĩ như người ta. Chỉ thế — !
Bút chì cảm như dày và lóng cóng trong ngón tay anh. Anh bắt đầu ghi lại những tư tưởng xuất hiện trong óc anh. Anh viết trước bằng chữ cái vụng về:
TỰ DO LÀ NÔ LỆ
Rồi gần như liên tiếp anh viết ở dưới:
HAI VỚI HAI LÀ NĂM
Nhưng tới đây có một sự rụt rè. Tâm trí anh, như thể tránh điều gì, có vẻ không tập trung nổi. Anh biết anh biết điều gì tiếp theo, nhưng hiện anh không thể nhớ ra. Khi anh nhớ lại, đó chỉ là do anh cố tâm suy luận ra điều tất phải nối tiếp: nó không tự dưng đến. Anh viết:
THIÊN CHÚA LÀ QUYỀN LỰC
Anh chấp nhận mọi sự. Quá khứ có thể biến đổi. Quá khứ không bao giờ biến đổi. Đại Dương đánh nhau với Đông Á. Đại Dương không bao giờ đánh nhau với Đông Á. Jones, Aaronson và Rutherford có phạm những tội buộc cho họ. Anh không hề nhìn thấy tấm hình phủ nhận tội họ. Nó không bao giờ có, anh đã bịa ra nó. Anh nhớ anh từng nhớ nhiều điều trái ngược, nhưng đó là những ký ức sai lầm, sản phẩm của sự tự kỷ ám thị. Tất cả dễ làm sao ! Chỉ cần đầu hàng là mọi sự khác theo sau. Y như bơi ngược một dòng nước cứ quét mình trở lại dù mình chống cự mạnh thế nào chăng nữa, và rồi bỗng quyết định bơi theo chiều nước thay vì ngược dòng. Không có gì thay đổi ngoài thái độ của chính mình: việc phải đến thế nào rồi cũng đến. Anh khó hiểu tại sao anh đã từng phản nghịch. Mọi sự thật giản dị, ngoại trừ — !
Cái gì cũng có thể đúng. Những thứ gọi là định luật thiên nhiên vô nghĩa lý. Định luật về sức hấp dẫn vô nghĩa lý. "Nếu tôi muốn," ÓBrien có nói, "tôi có thể rời sàn này mà bay phất phới như bọt xà phòng". Winston nghiền ngẫm câu đó. "Nếu ông ta nghĩ ông ta bay lơ lửng trên sàn, và nếu đồng thời mình nghĩ mình nhìn thấy ông ta làm thế, sự kiện sẽ xảy ra như vậy." Bỗng nhiên, như một khối vật chìm trôi dạt phá vỡ mặt nước, ý nghĩ này vụt hiện trong óc anh: "Điều đó không thực sự xảy ra. Ta tưởng tượng ra nó. Đó là một ảo giác." Anh dẹp ngay tư tưỏng này đi. Sự sai lầm thật hiển nhiên. Nó giả định rằng đâu đó, ngoài con người, có một thế giới "thật" trong đó xảy ra sự kiện "thật". Nhưng làm sao một thế giới như thế có thể có được ? Đâu có sự hiểu biết nào ngoài trung gian của trí óc ? Mọi hiện tượng đều nằm trong trí óc. Điều gì cũng xảy ra trong óc, thực sự xảy ra.
Bác bỏ ý nghĩ sai lầm không khó khăn gì đối với anh, và không có nguy anh không cưỡng nổi nó. Tuy nhiên, anh hiểu đáng nhẽ nó không bao giờ được đến với anh. Trí óc phải khai triển một tấm màn kín bưng mọi tư tưởng nguy hiểm tự nhiên xuất hiện. Quá trình phải tự động, do bản năng. Chặn tội, đó là danh từ chỉ việc này trong Ngôn Mới.
Anh bắt tay vào việc luyện phép chặn tội. Anh tự đưa ra những đề xuất như: "Đảng bảo trái đất bẹt", "Đảng bảo đá nặng hơn nước" — và tập cho mình không thấy hay không hiểu những lý lẽ chống lại những lời phát biểu ấy. Việc làm không dễ dàng. Nó đòi hỏi nhiều khả năng lý luận và ứng biến. Những vấn đề số học do một mệnh đề như "hai với hai là năm" nêu ra, chẳng hạn, vượt tầm trí thức anh. Nó còn cần một thứ thể thao tâm trí, một khả năng sử dụng luận lý một cách hết sức tinh tế, xong rồi lại không để ý đến những lỗi lầm luận lý thô thiển nhất. Óc ngu xuẩn cần thiết ngang trí thông minh, và cũng khó đạt chẳng kém.
Suốt trong khi đó, một phần óc anh tự hỏi bao giờ chúng sẽ bắn anh. "Mọi sự tùy thuộc anh," ÓBrien có nói; nhưng anh biết không một hành động ý thức nào của anh có thể khiến cái chết lại gần anh hơn. Có thể mười phút nữa, hay mười lăm nữa. Chúng có thể giữ anh hàng năm trong cảnh giam hãm đơn độc, chúng có thể đưa anh đến một lao trại, chúng có thể thả anh ra một thời gian, như chúng thỉnh thoảng làm. Rất có thể trước khi anh bị bắn, toàn tấn bi kịch bắt bớ và tra hỏi sẽ lại trọn tái diễn. Điều chắc chắn nhất là cái chết không bao giờ đến đúng lúc chờ đợi. Theo truyền thống — cái truyền thống không thành lời: sao đó anh biết là vậy tuy không nghe thấy ai kể — chúng bắn sau lưng, luôn luôn vào gáy, không hề báo trước, đương lúc phạm nhân đi dọc hành lang từ xà lim này qua xà lim kia.
Một hôm — nhưng "một hôm" không phải là danh từ đúng; hẳn có thể lúc đó là vào nửa đêm: một lần — anh rơi vào một giấc mơ lạ lùng, êm đẹp. Anh đang bước dọc hành lang chờ đợi viên đạn. Anh biết nó sắp tới. Mọi sự đã được an bài, san phẳng, hòa giải. Không còn nghi ngờ, không còn luận cứ, không còn đau đớn, không còn sợ hãi. Thân thể anh khỏe khoắn, mạnh mẽ. Anh bước chân dễ dàng, vui vẻ trong cử động, với cảm tưởng bước trong ánh nắng. Anh không còn ở trong các hành lang trắng hẹp của Bộ Tình Yêu, anh ở trên một con đường cái lớn trãi nắng, rộng một cây số, trên đó anh hình như bước trong cơn mê sảng vì bị thuốc quá độ. Anh ở trong Xứ Vàng, noi theo con đường mòn băng qua cánh đồng xưa bị thỏ gặm. Anh cảm thấy được đệm cỏ ngắn mềm dẻo dưới chân anh và ánh nắng dịu trên mặt anh. Tại bờ cánh đồng có cây du non rung rinh, và đâu đó bên kia là dòng suối có cá vàng bơi trong vũng nước xanh dưới vòm cây liễu.
Bỗng dưng anh giật mình khiếp sợ. Mồ hôi tua trên xương sống anh. Anh nghe thấy mình kêu to:
"Julia ! Julia ! Julia, em yêu ! Julia !"
Trong một lúc anh đã có một ảo giác mãnh liệt về sự có mặt của nàng. Nàng tựa như không chỉ ở với anh, mà còn ở trong anh. Như thể nàng lọt vào kết cấu của da thịt anh. Lúc ấy anh yêu nàng hơn xa những lúc anh từng yêu nàng khi hai người ở cùng nhau và được tự do. Lại nữa anh biết rằng nàng còn sống đâu đó và đang cần sự giúp đỡ của anh.
Anh nằm lại trên giường và cố tự trấn tĩnh. Anh đã làm gì thế ? Anh đã kéo dài thêm bao năm chuỗi ngày nô lệ của anh với phút yếu đuối kia ?
Một lát sau anh nghe thấy tiếng giầy ống nện bên ngoài. Chúng không thể không trừng phạt một sự tai tiếng như vậy. Bây giờ chúng biết, nếu chúng chưa biết, anh đã xóa bỏ hiêp định mà anh đã thỏa với chúng. Anh tuân lệnh Đảng, nhưng anh vẫn ghét Đảng. Hồi xưa anh giấu một tinh thần dị giáo dưới một bề ngoài tuân thuận. Nay anh đã lui một bước xa hơn: trong trí óc thì anh đầu hàng, nhưng anh hy vọng giữ được thâm tâm bất khả xâm phạm. Anh biết thế là sai, nhưng anh thích sai lầm. Chúng sẽ hiểu thế — ÓBrien sẽ hiểu thế. Tất cả đã được thú nhận trong độc tiếng kêu điên rồ kia.
Anh sẽ phải bắt đầu hết trở lại. Sự việc có thể kéo dài hàng năm. Anh quét tay qua mặt, cố làm quen với hình thù mới của mình. Có luống sâu trên má, gò má cảm như cao, mũi thì bẹt xuống. Ngoài ra, từ lần cuối anh nhìn thấy mình trong gương, anh đã được cấp một bộ răng mới đầy đủ. Không dễ giữ vẻ thản nhiên nếu không biết mặt mình ra sao. Thế nào chăng nữa, kiểm soát nét mặt không đủ. Lần đầu tiên, anh nhận thức rằng nếu muốn giữ một điều bí mật, phải giấu nó với chính mình. Lúc nào cũng phải biết nó nằm đó, nhưng cho tới khi cần không bao giờ để nó hiện trong ý thức dưới bất cứ hình thức nào có thể được gọi tên. Kể từ giờ trở đi, anh không chỉ nghĩ đúng, anh phải cảm thấy đúng, mơ mộng đúng. Và trong khi đó anh phải khóa chặt nỗi căm hờn của anh trong lòng anh như thể một hòn vật chất vừa là thành phần anh mà vừa không liên hệ gì đến anh, một loại u nang.
Có ngày chúng sẽ quyết định bắn anh. Không thể biết khi nào chuyện đó xảy ra, nhưng vài giây trước có thể đoán được. Bao giờ cũng từ sau lưng, khi mình đương đi dọc hành lang. Mười giây sẽ đủ. Lúc đó thế giới trong anh sẽ đảo lộn. Và bỗng nhiên, không thốt một tiếng, không ngưng một bước, không đổi một nét mặt — bỗng nhiên sự ngụy trang sẽ được hạ bỏ và păng ! ụ pháo cừu hận của anh sẽ bung nổ. Thù hận sẽ choán đầy anh như một ngọn lửa gầm vĩ đại. Và gần đúng lúc đó păng ! viên đạn sẽ bay, quá chậm hay quá sớm. Chúng sẽ đã bắn tan óc anh trước khi giằng lại được nó. Tư tưởng dị giáo sẽ không bị trừng trị, không được hối tiếc, vĩnh viễn vượt tầm tay chúng. Chúng sẽ đục bắn một lỗ hổng trong chính sự toàn mỹ của chúng. Chết trong sự căm hờn chúng, đó là tự do.
Anh nhắm mắt lại. Việc đó khó hơn sự chấp nhận một kỷ luật tinh thần. Đấy là một vấn đề tự hạ mình, tự hủy hoại mình. Anh phải ngập mình trong sự nhơ nhớp cùng cực. Cái gì ghê gớm nhất, buồn nôn nhất ? Anh nghĩ tới Bác. Khuôn mặt to lớn (vì thường thấy nó trên bích chương, anh luôn luôn có ấn tượng nó rộng một thước vuông), với bộ râu đen chắc nịch và cặp mắt láo liên theo dõi người ta, tuồng như tự dưng lơ lửng trong óc anh. Cảm tình thực sự của anh đối với Bác ra sao ?
Có tiếng giầy ống nặng nề nện trong lối đi. Cánh cửa thép mở toang ình. ÓBrien bước vào xà lim. Sau ông là tên sĩ quan mặt sáp và mấy tên lính canh mặc đồng phục đen.
"Đứng dậy," ÓBrien nói. "Lại đây."
Winston đứng trước mặt ông ta. ÓBrien khép vai Winston trong đôi tay vạm vỡ của ông ta và nhìn anh chằm chặp.
"Anh đã có những tư tưởng lừa dối tôi," ông ta nói. "Thật ngu xuẩn. Đứng thẳng dậy. Nhìn thẳng vào mặt tôi."
Ông tạm ngưng rồi nói tiếp bằng một giọng ôn tồn hơn:
"Anh đang cải thiện. Về mặt tinh thần anh ít sai lầm. Anh chỉ thiếu tiến bộ về phương diện cảm xúc. Nói cho tôi nghe, Winston — và nhớ, không được nói dối: anh biết tôi luôn luôn phát hiện được ra lời giả dối — nói cho tôi nghe, cảm tình thật sự của anh đối với Bác ra sao ?"
"Tôi ghét Bác."
"Anh ghét Bác. Tốt. Vậy đã đến lúc anh đi bước cuối cùng. Anh phải yêu Bác. Tuân lệnh Bác không đủ: anh phải yêu Bác."
Ông buông Winston ra và đẩy anh lại phía lính canh.
"Phòng 101," ông ta nói.
Vào chặng nào anh cũng biết, hay hầu như biết, chỗ anh bị giam cầm trong tòa nhà không cửa sổ. Có thể có chút khác biệt trong áp suất không khí. Các xà lim chứng kiến lính canh đánh anh ở một tầng dưới đất. Căn phòng trong đó anh bị ÓBrien tra tấn ở tít gần mái. Nơi đây ở nhiều thước dưới hầm, sâu hết sức sâu.
Căn phòng lớn hơn các xà lim anh đã từng ở. Nhưng anh khó nhận ra cảnh xung quanh. Vẻn vẹn anh chỉ thấy được hai chiếc bàn nhỏ trước mặt anh, mỗi bàn đều có khăn xéc xanh phủ trùm. Một bàn chỉ cách anh có một hai thước, bàn kia xa hơn, gần cửa. Anh bị trói thẳng người trên ghế, chặt đến nỗi anh không cử động được gì, kể cả đầu anh. Một thứ nùi móc ghìm đầu anh từ phía sau, ép anh nhìn thẳng trước mặt anh.
Anh ở một mình một thời gian, rồi cánh cửa mở để cho ÓBrien bước vào.
"Có lần anh hỏi tôi phòng 101 có gì," ÓBrien nói. "Tôi có bảo anh rằng anh thừa biết câu trả lời. Ai cũng biết nó. Cái ở trong phòng 101 là cái gớm ghê nhất thế giới."
Cánh cửa lại mở. Một tên lính canh đi vào, cầm theo một vật gì bằng dây thép, một hộp hay giỏ gì đó. Hắn đặt nó xuống chiếc bàn ở xa. Vì bị ÓBrien đứng che, Winston không nhìn được rõ vật đó là gì.
"Cái gớm ghê nhất thế giới," ÓBrien nói, "thay đổi với từng cá nhân. Nó có thể là bị chôn sống, bị đốt chết, bị chết đuối, hay bị cọc đâm xuyên người, hoặc năm chục kiểu chết khác. Có trường hợp nó là một vật rất tầm thường, không hề nguy hại."
Ông hơi xê dịch sang một bên, khiến Winston nhìn thấy rõ hơn vật để trên bàn. Đấy là một cái lồng sắt thuôn dài, có quai xách ở trên. Đóng vào mặt tiền lồng là một cái gì giống như một tấm mặt nạ dùng để đấu gươm, với phần lồi hướng ra ngoài. Mặc dầu nó cách anh ba bốn thước, anh có thể nhận thấy chiếc lồng được ngăn ra làm hai theo bề dài, mỗi ngăn chứa một loại sinh vật. Chúng là chuột.
"Trong trường hợp anh," ÓBrien nói, "cái ghê gớm nhất thế giới xét ra là chuột."
Một cơn run động báo hiệu, một nỗi ghê sợ không rõ lý do, đã xuyên qua mình Winston ngay khi anh thoạt nhìn thấy cái lồng. Nhưng lúc này ý nghĩa của tấm mặt nạ che mặt tiền lồng bỗng nhập óc anh. Lòng dạ anh hầu như nhũn ra thành nước.
"Ông không thể làm thế !" anh thét run lên. "Ông không thể, ông không thể ! Không thể làm thế."
"Anh có nhớ cái cơn khủng hoảng thường ngoi lên trong giấc mơ của anh không ?" ÓBrien nói. "Có một bức tường đen tối trước mặt anh, có một tiếng gầm vang trong tai anh. Có một vật khủng khiếp ở bên kia bức tường. Anh biết anh biết nó là gì nhưng anh không dám lôi nó ra ngoài ánh sáng. Vật ở bên kia bức tường chính là chuột."
"ÓBrien !" Winston vừa nói vừa cố kiềm chế giọng mình. "Ông biết không cần phải làm thế. Ông muốn tôi làm gì nào ?"
ÓBrien không trả lời thẳng. Khi lên tiếng ông ta lấy cái vẻ thầy đồ mà ông thỉnh thoảng mượn. Ông trầm tư mặc tưởng nhìn vào xa xăm, như thể nói với một cử tọa ở đâu đó sau lưng Winston.
"Tự nó, sự đau đớn không bao giờ đủ," ông nói. "Có những lúc con người chống lại được cơn đau, ngay cho tới mức chết. Nhưng mọi người ai cũng có một điều không chịu đựng nổi — một điều không thể lặng ngắm nổi. Không liên quan gì tới lòng can đảm hay hèn nhát. Nếu từ cao ngã xuống, bám vào giây thừng không có nghĩa là hèn. Nếu từ nước sâu nhô lên, hít không khí vào ngực không có nghĩa là hèn. Đó chỉ là một bản năng không thể hủy diệt được. Với chuột cũng vậy. Đối với anh chúng bất khả kham. Chúng là một hình thức áp lực anh không đương đầu nổi, dù anh có muốn. Anh sẽ thi hành điều đòi hỏi nơi anh."
"Nhưng đó là gì, đó là gì ? Tôi sẽ thi hành sao được nếu tôi không biết đó là gì ?"
ÓBrien nhấc lồng lên mang nó qua bàn ở gần. Ông ta cẩn thận đặt nó trên tấm khăn bàn xéc. Winston nghe được tiếng máu rì rầm trong tai anh. Anh có cảm tưởng mình ngồi trong cảnh cô đơn toàn vẹn. Anh ở giữa một đồng bằng rộng lớn trống rỗng, một bãi sa mạc phẳng dãi nắng, nghe mọi tiếng động băng tới tai anh từ mênh mông xa xẳm. Song le cái lồng chuột không xa anh quá hai thước. Đó là giống chuột kếch sù. Chúng tới cái tuổi mõm chúng trồi ra thô tợn và lông chúng đổi xám thành nâu.
"Giống chuột," ÓBrien vẫn nói như hướng về một cử tọa vô hình, "tuy thuộc loại gặm nhấm, là một giống ăn thịt. Anh biết thế. Chắc anh đã từng nghe kể những chuyện xảy ra trong các xóm nghèo thuộc thành phố này. Tại vài đường phố, phụ nữ không dám để con nhỏ một mình trong nhà, dù trong năm phút. Kẻo chắc chắn chuột sẽ tấn công đứa bé. Nội một thời gian ngắn chúng sẽ lột xương đứa nhỏ. Chúng cũng tấn công người ốm hoặc kẻ hấp hối.Chúng tỏ ra thông minh lạ lùng trong sự hiểu biết khi nào con người bất lực."
Có tiếng thé từ lồng vang lên. Tiếng kêu như dội lại tai Winston từ xa thẳm. Chuột đang đánh nhau; chúng đang gắng lăn xả vào nhau qua vách ngăn. Anh lại nghe thấy một tiếng rên xiết vì thất vọng. Tiếng này cũng dường như từ xa vọng lại.
ÓBrien nhấc lồng lên, và đồng thời bấm một nút gì trong đó. Có tiếng cạch nhọn. Winston hoảng loạn cố gắng giứt mình khỏi ghế. Vô vọng; mọi phần cơ thể anh, kể cả đầu anh, bị giữ chặt. ÓBrien xích lồng lại gần hơn. Nó cách mặt Winston dưới một thước.
"Tôi đã bấm vào đòn bẩy đầu," ÓBrien nói. "Anh biết lối đóng lồng này. Tấm mặt nạ sẽ chùm kín đầu anh không chừa lối thoát. Khi tôi bấm vào đòn bẩy thứ hai, cửa lồng sẽ tuốt lên. Mấy hung thú đói sẽ tựa viên đạn bắn ra. Anh đã từng thấy chuột băng qua không trung chưa ? Chúng sẽ nhẩy vào mặt anh, tuôn tuột vào trong. Có khi chúng tấn công mắt trước. Có khi chúng đào má rồi cấu xé lưỡi."
Cái lồng đến gần hơn; nó sáp lại. Winston nghe thấy một tràng tiếng rít tuồng như thốt ra từ không trung trên đầu anh. Nhưng anh mãnh liệt chống đối cơn khủng hoảng. Suy nghĩ, suy nghĩ, dù chỉ còn nửa giây nữa — suy nghĩ được là hy vọng duy nhất. Bất thình lình mùi tanh nồng của hung thú đập vào mũi anh. Cơn buồn nôn nổi lên dữ dội trong người anh, và anh gần như mê man. Mọi sự đen sầm lại. Trong giây lát anh là một con thú gầm hét điên loạn. Song anh thoát khỏi sự đen tối với một ý nghĩ bám lấy anh. Chỉ có một cách tự cứu, một cách duy nhất. Anh phải đặt một người khác, thân thể của một người khác, giữa anh và chuột.
Lúc này vòng mặt nạ đủ to để bít mọi hình ảnh khác. Cánh cửa lưới sắt cách mặt anh có hai tấc tay. Mấy con chuột biết điều gì sắp tới. Một con nhẩy lên nhẩy xuống, một con, là chuột cống già có da thành vẩy, đứng thẳng, chân trước màu hồng bám vào song cửa, dữ dằn hít không khí. Winston thấy rõ mấy râu mép với cỗ răng vàng. Lại nữa, cơn khủng hoảng tối đen xâm nhập anh. Anh mù lòa, bất lực, ngây dại.
"Đây là hình phạt thông thường tại Trung Hoa dưới hoàng triều," ÓBrien nói với vẻ mô phạm hơn bao giờ.
Tấm mặt nạ kề mặt anh. Dây thép cọ má anh. Và rồi — không, đó không phải là sự giải cứu, chỉ là một niềm hy vọng, một tia hy vọng nhỏ. Quá chậm, có lẽ quá chậm. Nhưng anh đã bỗng hiểu rằng trong toàn thể thế giới chỉ có một người anh có thể truyền cho hình phạt của anh — chỉ một thân thể anh quẳng được ra giữa anh và chuột. Và anh hét loạn lên, hét đi hét lại.
"Hành Julia ấy ! Hành Julia ấy ! Không hành tôi ! Julia ấy ! Tôi bất cần ông làm gì nàng. Cứ xé toạc mặt nàng, lột xương nàng. Không hành tôi ! Julia ấy ! Không hành tôi !"
Anh ngã ra sau, rơi vào những cõi sâu thẳm, xa lìa giống chuột. Anh vẫn bị trói trên ghế nhưng anh đã rớt xuyên sàn, xuyên tường tòa nhà, xuyên lòng đất, xuyên biển cả, xuyên quyển khí, vào trong không gian vời vợi, vào trong các vịnh giữa sao — mãi mãi xa lìa, xa lìa giống chuột. Anh xa cách chúng hàng năm ánh sáng, nhưng ÓBrien vẫn đứng cạnh anh. Vẫn có dây thép lạnh cọ má anh. Nhưng qua đám tối bao trùm anh, anh nghe thấy một tiếng kim cạch khác và hiểu rằng cửa lồng đã cạch đóng chứ không mở.
Quán Cây Lật gần như trống rỗng. Một tia nắng xuyên chéo qua cửa sổ rớt xuống mặt bàn bụi bậm. Đó vào lúc vắng vẻ, hồi mười lăm giờ. Một điệu nhạc đanh đảnh tuôn ra từ những máy truyền hình.
Winston ngồi tại xó thường lệ, đăm đăm nhìn một cốc cạn. Thỉnh thoảng anh ngước nhìn một khuôn mặt to lớn ngó anh từ tường trước mặt. BÁC ĐANG NHÌN BẠN, câu chú ghi như vậy. Không cần gọi, một người bồi bàn tới rót rượu gin Chiến Thắng đầy cốc anh, và lắc vào trong đó vài giọt rỉ từ ống nút một chai khác. Đó là đường tinh ướp đinh hương, đặc sản của quán nước.
Winston lắng nghe máy truyền hình. Hiện nó chỉ phát thanh nhạc, nhưng có thể có thông báo đặc biệt của Bộ Hòa Bình vào bất cứ lúc nào. Tin tức về mặt trận Phi Châu hết sức đáng lo ngại. Cả ngày cứ chốc chốc anh lại phập phồng về chuyện đó. Một quân đoàn Âu Á (Đại Dương đánh nhau với Âu Á: Đại Dương bao giờ cũng đánh nhau với Âu Á) đang tiến về phía nam với một tốc độ dễ sợ. Thông báo hồi trưa không nêu đích xác khu nào, nhưng có lẽ cửa miệng sông Congo đã thành một bãi chiến trường. Brazzaville và Leopoldville lâm nguy. Không cần phải xem địa đồ mới biết thế nghĩa là gì. Đó không chỉ là vấn đề mất vùng Trung Phi Châu; lần đầu tiên trong suốt cuộc chiến, chính lãnh thổ Đại Dương bị đe dọa.
Một cơn xúc động mạnh, không hẳn là sợ hãi mà là một thứ kích động không biệt hóa, bốc lên trong người anh, rồi lại biến mất. Anh ngưng nghĩ về chiến tranh. Dạo này anh không bao giờ chú tâm được vào việc gì quá vài phút. Anh nâng cốc lên uống cạn một mạch. Như mọi lần rượu gin làm anh rùng mình và cả hơi buồn nôn nữa. Cái chất thật tởm. Đinh hương với đường tinh, tự chúng đã đủ gớm như thuốc đắng rồi, không cải được mùi dầu nhạt nhẽo; tệ nhất là cái mùi rượu cứ dính chặt lấy anh đêm ngày, pha lẫn rối răm trong óc anh với mùi ấy —
Anh không bao giờ gọi tên thứ ấy, ngay cả trong tâm tư anh, và anh hết sức tránh không bao giờ cho nó hiện hình. Đấy là một thứ anh nhận thức nửa chừng, nó lởn vởn kề mặt anh, mùi nó bám lấy lỗ mũi anh. Khi rượu gin bốc lên trong anh từ đôi môi thâm của anh thoát ra một tiếng ợ. Anh mập ra từ hồi được tha, và đã lấy lại được diện sắc cũ — thực ra, anh hơn cả lấy lại nó. Nét mặt anh dày ra, da mũi và gò má anh đỏ thô, ngay cả cái đầu trọc của anh cũng hồng thẫm. Một người bồi bàn, cũng không cần được gọi, mang lại cho anh bàn cờ và số Thời Báo trong ngày đã được giở sẵn nơi trang có mục bài cờ. Rồi, thấy cốc Winston cạn, anh ta mang chai gin lại rót đầy rượu vào cốc. Không cần sai khiến. Họ biết thói quen của anh. Bàn cờ luôn luôn chờ đợi anh, góc bàn của anh luôn luôn được dành cho anh; ngay khi quán đông người, anh vẫn được giữ riêng phần góc ấy vì không ai thiết ngồi quá gần anh. Anh còn không bao giờ buồn đếm số cốc anh uống. Cách quãng đều nhà hàng đưa anh một tờ giấy bẩn bảo là hóa đơn, nhưng anh có cảm tưởng họ luôn luôn tính hạ cho anh. Nếu họ làm ngược lại cũng chẳng hề gì. Ngày nay anh có đầy tiền. Anh có cả một công ăn việc làm thật nhàn, lương cao hơn chỗ làm xưa kia của anh.
Tiếng nhạc từ máy truyền hình ngưng lại, được thay thế bởi một tiếng nói. Winston ngẩng đầu lên nghe. Tuy nhiên, không có thông báo từ chiến khu. Đó chỉ là một thông cáo ngắn của Bộ Sung Túc. Tam cá nguyệt trước, té ra định suất dây giầy ống trong Kế Hoạch Ba Năm Thứ Mười đã được hoàn thành vượt mức tới 98 phần trăm.
Anh xét bài cờ và đặt quân cờ. Đó là một bài cuối ván gai góc vận dụng một đôi mã. "Quân trắng đi hai nước thì thắng." Winston ngẩng nhìn chân dung Bác. Quân trắng luôn luôn thắng, anh ngẫm nghĩ với một lòng sùng tín mơ hồ. Luôn luôn, không ngoại lệ, sự thể được sắp đặt như vậy. Từ thuở khai sáng thế giới đến giờ, chưa một bài cờ nào để cho quân đen thắng. Điều này chẳng tượng trưng cho sự đắc thắng vĩnh hằng, bất biến của Thiện trên Ác là gì ? Khuôn mặt vĩ đại nhìn lại anh, đầy uy quyền bình thản. Quân trắng luôn luôn thắng.
Tiếng nói từ máy truyền hình tạm ngưng rồi tiếp tục bằng một giọng khác trầm hơn. "Các bạn được khuyến nên đón một tin quan trọng vào mười lăm giờ ba mươi. Mười lăm giờ ba mươi ! Đấy là tin tối quan trọng. Coi chừng khỏi đón hụt. Mười lăm giờ ba mươi !" Tiếng nhạc leng keng lại trổ lên.
Tim Winston xao xuyến. Đấy là bản tin tiền tuyến, linh tính bảo anh tin dữ sắp đến. Suốt ngày, ý tưởng về một sự thất bại nặng nề tại Phi Châu lởn vởn trong tâm anh, làm anh khẽ rùng mình vì xúc động. Anh hầu như thực thấy quân đội Âu Á tràn qua biên giới chưa từng bị xâm phạm để rồi đổ ào vào mũi Phi Châu như một cột kiến. Tại sao lại không thể tấn công chúng từ phía sau lưng ? Đường nét bờ biển Tây Phi hiện rõ trong óc anh. Anh nhấc quân mã cho nó băng qua bàn cờ. Đấy là nước đúng. Đương lúc anh thấy bầy quân đen phóng xuống miền nam, anh thấy một lực lượng khác, đã được bí mật tập hợp, bất thình lình cắm sau lưng chúng, cắt đứt đường liên lạc bộ và thủy của chúng. Anh cảm như với ý chí anh có thể khiến cái lực lượng khác kia ra đời. Nhưng phải hành động nhanh. Nếu chúng nắm được toàn cõi Phi Châu, nếu các phi trường và căn cứ tàu ngầm tại Cape vào tay chúng, chúng sẽ cắt Đại Dương ra làm hai. Sự thể này có mọi ý nghĩa: thất bại, sụp đổ, thế giới bị phân chia lại, Đảng bị hủy diệt ! Anh thở dài. Một cảm giác hỗn hợp lạ lùng — nhưng đó không hẳn là một cảm giác hỗn hợp; đúng hơn đó là nhiều lớp cảm giác liền nhau, trong đó khó nói được lớp nào sâu hơn — tranh lấy người anh.
Chứng co cơ qua đi. Anh đặt quân mã trở lại chỗ cũ, nhưng trong một lúc anh không để tâm được vào sự nghiên cứu đứng đắn bài cờ. Tư tưởng anh lại lông bông. Gần như không ý thức, anh lấy ngón tay vẽ trên bụi bàn:
2 + 2 =
"Chúng không thể đi vào lòng mình," nàng có nói. Nhưng chúng đi nổi vào lòng người. "Sự gì xảy ra với anh nơi đây còn đó mãi mãi," ÓBrien có nói. Lời này đúng. Có những điều, có những hành động của chính mình, khiến mình không bao giờ lành được. Cái gì đó đã bị hủy trong tim: bị thiêu đi, đốt mất.
Anh đã gặp nàng; anh đã cả nói chuyện với nàng. Không có gì nguy hiểm trong việc đó. Làm như linh tính cho anh biết rằng bây giờ họ hầu như không quan tâm đến hành động của anh. Anh có thể sắp đặt để gặp lại nàng nữa, nếu một trong hai người muốn. Thật ra thì hai người gặp nhau bữa đó vì tình cờ. Cuộc gặp mặt xảy ra trong Công Viên, vào một ngày tháng ba rét mướt, khi đất tựa như sắt và cỏ hình như chết, lúc không có một nụ nào nơi đâu ngoại trừ một vài đóa nghệ tây cố nhô đầu ra để bị gió bẻ gẫy. Tay cóng mắt ướt, anh đang vội đi thì thấy nàng cách anh khoảng dưới mười thước. Anh để ý ngay thấy nàng đã thay đổi một cách khó tả. Hai người gần như qua mặt nhau không một dấu hiệu, rồi anh quay trở lại bước theo nàng, không sốt sắng lắm. Anh biết không có gì nguy hiểm, không ai buồn chú ý đến anh. Nàng không nói gì. Nàng băng xéo qua cỏ làm như muốn đẩy anh đi, sau đó nàng dường như cam chịu để anh đi cạnh nàng. Bấy giờ họ đi giữa một khóm cây non không lá, chẳng có dụng tác che giấu họ cũng như che chở họ khỏi gió. Họ dừng chân. Trời lạnh buốt. Gió rít qua cành, quật vào mấy cây nghệ tây lơ thơ coi bẩn. Anh quàng tay quanh eo nàng.
Không có máy truyền hình, nhưng chắc có máy ghi âm ẩn: vả lại, họ có thể bị nhìn thấy. Không hề gì, không có gì quan hệ. Họ có thể nằm xuống đất và làm thế ấy nếu họ muốn. Thớ thịt anh giá băng vì ghê tởm tới ý nghĩ đó. Nàng không hề đáp lại sự xiết tay của anh; nàng không cả cố thoát người ra. Lúc này anh biết cái gì thay đổi trong nàng. Mặt nàng nhợt nhạt hơn, và có một vết sẹo dài, được tóc phủ một nửa, ngang trán và thái dương nàng; nhưng đấy không phải là điều thay đổi. Nó nằm ở chỗ eo nàng thô hơn, và chai cứng một cách bất ngờ. Anh nhớ lại một lần, sau vụ một trái bom lửa nổ, anh có phụ việc lôi một xác chết ra khỏi đống đổ nát, và đã ngạc nhiên làm sao không những trước sức nặng lạ thường của tử thi mà cả trước sự cứng đờ cũng như sự khó xê dịch của nó, khiến nó giống đá hơn là thịt. Thân thể nàng cho anh cảm giác hệt như vậy. Anh có ý tưởng cấu trúc da thịt nàng khác hẳn trước kia.
Anh không thử hôn nàng, và cả hai không nói gì. Đương lúc họ băng ngược lại bãi cỏ, lần đầu tiên nàng nhìn thẳng vào anh. Đấy chỉ là một cái nhìn thoáng, đầy vẻ khinh khi ghét bỏ. Anh không hiểu sự ghét bỏ này nguyên xuất phát từ quá khứ hay đã bị gợi bởi gương mặt phị và nước mắt cứ bị gió làm lã chã tuôn ra của anh. Họ ngồi xuống hai chiếc ghế sắt cạnh nhau nhưng không quá kề nhau. Anh hiểu rằng nàng sắp nói. Nàng xích chiếc giầy đóng vụng của nàng vài phân và rắp tâm giẫm lên một cành nhỏ. Anh để ý thấy chân nàng hầu như to ra.
"Tôi đã phản anh," nàng nói.
"Tôi đã phản em," anh nói.
Nàng lại ghét bỏ liếc nhìn anh.
"Có lúc," nàng nói, "chúng mang dọa mình một thứ — một thứ mình không đương đầu nổi, không dám nghĩ đương đầu với. Rồi mình xin: "Chớ làm thế cho tôi, làm thế cho người khác, làm thế cho người này người nọ." Có thể sau đó, mình ra điều đấy chỉ là một mánh khóe, mình chỉ nói thế để cốt chúng ngưng tay, nhưng thật ra mình không muốn thế. Nhưng không phải vậy. Lúc chuyện xảy ra mình quả muốn thế. Mình cho rằng không có cách tự cứu nguy nào khác, và hoàn toàn sẵn sàng tự giải nguy cách ấy. Mình muốn điều đó xảy ra cho người kia. Mình không màng gì đến sự đau khổ của người ta. Mình chỉ lo cho chính mình thôi."
"Mình chỉ lo cho chính mình thôi," anh lắp lại.
"Và sau đó, tình cảm của mình đối với ngưởi kia không còn như trước nữa."
"Không," anh nói, "tình cảm của mình không còn như trước nữa."
Họ làm như không còn gì nói với nhau nữa. Gió quật bộ áo liền quần mỏng mảnh gí vào người họ. Hầu như tức thì sự ngồi yên đó đâm làm họ bối rối: vả lại trời quá rét không ngồi yên được. Nàng nói gì đó về sự phải lấy Tàu Hầm rồi dứng dậy ra đi.
"Chúng mình phải gặp lại nhau," anh nói.
"Ừ, " nàng nói, " chúng mình phải gặp lại nhau."
Anh lưỡng lự nối gót theo nàng hơi xa, một nửa bước sau lưng nàng. Họ không lên tiếng nữa. Nàng không thực sự cố gạt đuổi anh, nhưng nàng đi đủ nhanh để tránh không cho anh sánh được bước cùng nàng. Anh đã rắp tâm tiễn nàng đến tận trạm Tàu Hầm, nhưng bỗng nhiên cái trò lê chân trong tiết lạnh hình như vô duyên không chịu đuợc. Một lòng thèm muốn tràn ngập anh, không hẳn lòng mong rời xa Julia mà là lòng muốn trở vê quán Cây Lật lúc này đối với anh có vẻ quyến rũ hơn bao giờ hết. Anh hình dung đầy nhớ nhung góc bàn của anh với tờ báo, bàn cờ và rượu gin không bao giờ vợi. Hơn hết, nơi đó sẽ ấm áp. Lát sau, không hoàn toàn ngẫu nhiên, anh cho phép anh cách xa nàng một đám người nhỏ. Anh thử đuổi kịp theo nàng nhưng không mấy sốt sắng, rồi anh đi chậm lại, quay gót và bước về lối cũ. Đi được năm mươi thước anh quay đầu nhìn lại. Phố không đông người, nhưng chưa gì anh đã không nhận ra nàng nữa. Bất cứ hình dáng nào trong tá người hấp tấp kia có thể là nàng. Có lẽ thân hình thô cứng của nàng không còn dễ nhận từ phía sau nữa.
"Lúc chuyện xảy ra," nàng có nói, "mình quả muốn thế." Anh đã muốn thế. Anh đã không chỉ nói thế, anh đã mong thế. Anh đã cầu mong cho nàng chứ không phải anh bị trao cho —
Có sự thay đổi trong tiếng nhạc dội từ máy truyền hình. Một điệu ngắt nhạo, một nốt vàng hiện trong đó. Rồi thì — có lẽ nó không xuất hiện, có lẽ nó chỉ là một ký ức nhập vào âm nhạc — một giọng hát cất lên:
"Dưới chòm cây lật
Anh bán em và em bán anh —"
Nước mắt anh trào ra. Một người bồi bàn đi qua thấy cốc anh cạn trở lại với chai gin.
Anh nâng cốc lên hít. Chất lỏng không giảm mà tăng gớm với mỗi hớp thêm của anh. Nhưng nó dã trở thành nguyên tố anh bơi trong đó. Nó là đời sống, cái chết và sự tái sinh của anh. Chính rượu gin dìu anh vào trạng thái tê mê mỗi đêm, và chính rượu gin làm anh sống lại mỗi sáng. Khi tỉnh giấc, ít khi trước mười một trăm, với mí dính rỉ, miệng bỏng và lưng rã rời, anh không thể hết nằm mà ngồi dậy nổi nếu không có chai chén để suốt đêm cạnh giường. Cả giờ trưa, anh ngồi đực mặt nghe máy truyền hình, với chai kề tay. Từ mười lăm giờ tới lúc đóng cửa anh đóng đô tại quán Cây Lật. Không ai để ý tới hành vi của anh nữa, không có tiếng huýt còi nào đánh thức anh, không có máy truyền hình nào cảnh cáo anh. Thỉnh thoảng, khoảng hai lần một tuần, anh tới một văn phòng bụi bậm, như bị lãng quên tại Bộ Sự Thật làm một chút việc, hay cái được gọi là việc. Anh đã được bổ vào một tiểu ban của một tiểu ban xuất phát từ một trong vô số ban lo giải quyết những khó khăn nhỏ gặp trong việc soạn thảo bộ Từ Điển Ngôn Mới Bản Thứ Mười Một. Họ có phận sự thảo một bản Tường Trình Tạm Thời, nhưng tường trình về gì anh không bao giờ thật sự khám phá nổi. Nó có gì liên quan đến vấn đề nét phẩy phải được đặt trong hay ngoài dấu ngoặc. Có bốn người khác trong tiểu ban, cả bốn đều giống như anh. Có những ngày họ gặp nhau rồi giải tán nhanh, thành thật công nhận với nhau thực ra không có việc gì để làm cả. Nhưng cũng có ngày khác họ gần như hăng hái xông vào việc, hết sức ra điều ghi chú phác thảo hàng trang sổ tay không bao giờ hết — có bữa cuộc tranh luận về điều họ coi như phải bàn đến trở thành thật rắc rối khó hiểu, với những sự mặc cả về định nghĩa, những sự tán rộng xa đề, những sự cãi vã, ngay cả dọa dẫm thưa lên thượng cấp. Rồi bất thình lình sinh khí rời bỏ họ và họ ngồi quanh bàn lờ đờ đưa mắt nhìn nhau như thể ma biến dạng vào lúc gà gáy.
Máy truyền hình lặng im một lúc. Winston lại ngẩng đầu lên. Bản thông tin ! Nhưng không, đó chỉ là chuyện thay đổi nhạc. Sau mí mắt anh hiện ra tấm bản đồ Phi Châu. Sự vận hành của quân đội là một biểu đồ: một mũi tên đen xuyên dọc xuống miền nam, và một mũi tên trắng vạch ngang về phía đông băng qua dưới mũi trên. Như để được trấn an, anh nhìn lên khuôn mặt điềm nhiên trong bức chân dung. Có thể tưởng tượng được rằng không có mũi tên thứ hai không ?
Mối quan tâm của anh lại lắng xuống. Anh uống một hụm gin khác, nhấc quân mã trắng lên thử đi một nước. Chiếu tướng. Nhưng rõ ràng đó không phải là nước cờ đúng vì —
Không khêu mà một ký ức thoảng qua óc anh. Anh thấy một căn phòng thắp nến với một cái giường có khăn phủ trắng và chính anh, một cậu bé độ chín, mười tuổi, ngồi trên sàn nhà lắc một hộp súc sắc cười thích chí. Mẹ anh ngồi trước mặt anh cũng cười.
Đó vào khoảng một tháng trước khi bà mất tích. Đó là một lúc hòa giải, khi cơn đói meo trong bụng anh bị lãng quên và tình trìu mến trước đây của anh đối với bà nhất thời sống lại. Anh nhớ rõ ngày ấy, một ngày mưa dầm dề với nước chảy dòng dòng dọc cửa sổ và ánh sáng quá mờ không cho phép đọc. Sự buồn bực của hai đứa nhỏ trong căn phòng tối hẹp đâm quá sức chịu đựng. Winston rên rỉ làu nhàu, tầm phơ đòi ăn, lăng xăng quanh phòng đẩy mọi thứ khỏi chỗ, chân đá vào lớp phủ tường cho tới khi hàng xóm đập tường phản đối, trong khi em anh thét lên từng cơn. Tận cùng mẹ anh nói: " Này ngoan đi con, rồi mẹ mua đồ chơi cho. Đồ chơi thích lắm — thế nào con cũng thích. "; và rồi bà đi dưới mưa đến một tiệm tạp hóa nhỏ còn mở lèo tèo gần đó, và bà trở về với một hộp bìa đựng một bộ Thang Rắn. Anh còn nhớ mùi bìa ẩm. Đó là một món đồ chơi xoàng xĩnh. Tấm bảng bị nứt, mấy con súc sắc bằng gỗ bị đẽo vụng đến nỗi khó đứng vững. Winston xịu mặt nhìn đồ chơi không chút hứng thú. Nhưng mẹ anh đốt một mẩu nến lên và mẹ con ngồi xuống sàn chơi. Chẳng bao lâu anh hưng phấn mạnh và phá lên cười khi mấy quân nhỏ leo thang với đầy hy vọng rồi tuột trở về điểm cũ nơi hang rắn. Mẹ con chơi tám ván, mỗi người thắng bốn ván. Em gái anh quá nhỏ không hiểu đó là trò chơi gì, cũng ngồi tựa vào gối mà cười vì người khác cười. Cả buổi chiều mẹ con sung sướng chơi với nhau như thuở ấu thơ xưa của anh.
Anh đẩy hình ảnh đó khỏi óc anh. Đó là một ký ức sai lầm. Thỉnh thoảng anh bị quấy rối bởi nhiều ký ức lệch lạc. Không có gì đáng lo nếu biết nhận ra tính cách của chúng. Có những điều đã xảy ra, có những điều đã không xảy ra. Anh quay trở lại bàn cờ và lại nhấc quân mã trắng lên. Gần như đồng thời nó rơi xuống bàn cái cách. Anh đã giật mình như thể có một mũi kim đâm vào anh.
Một trống kèn nhọn chói không gian. Bản tin đây ! Chiến thắng ! Bao giờ tiếng kèn gọi có trước bản tin cũng báo hiệu chiến thắng. Một cơn dao động như nhiễm điện truyền qua quán nước. Ngay mấy người bồi bàn cũng giật mình vểnh tai lên.
Tiếng kèn gọi vang dội rất lớn. Chốc thì một giọng hí hửng láu táu xuất từ máy truyền hình nhưng vừa bắt đầu nó đã chìm dưới một tràng hoan hô kêu từ ngoài quán. Tin lành đã chạy quanh các phố như có ma thuật. Những điều thốt ra từ máy truyền hình, anh chỉ nghe được đủ để hiểu rằng toàn sự thể đã xảy ra hệt như anh tiên đoán: một đại hạm đội được bí mật tập trung, một cuộc tấn công bất thình lình vào hậu quân địch, mũi tên trắng xé ngang đuôi mũi tên đen. Nhiều mẩu văn đắc thắng lọt qua tiếng ồn ào: " Cuộc thao diễn chiến lược lớn — sự phối hợp hoàn hảo — sự thất bại hoàn toàn — một nửa triệu tù binh — sự mất tinh thần trọn vẹn — kiểm soát toàn thể Phi Châu — đưa cuộc chiến tới chỗ chấm dứt nội một thời gian có thể ước chừng được — chiến thắng — chiến thắng lớn nhất trong lịch sử nhân loại — chiến thắng, chiến thắng, chiến thắng !"
Chân Winston co giật dưới bàn. Anh không rời ghế, nhưng trong tâm trí anh đang chạy, chạy nhanh, anh hòa mình với đám đông bên ngoài, hoan hô tới điếc. Anh lại nhìn lên chân dung Bác. Vị khổng lồ cưỡi thế giới ! Tảng đá ngăn chận lũ rợ Á Châu vô ích nhào tới ! Anh nghĩ sao mười phút trước — phải chỉ mười phút trước — trong lòng anh hãy còn hai mang khi anh tự hỏi tin từ chiến trường sẽ là chiến thắng hay thất bại. A, không chỉ quân đội Âu Á bị tiêu diệt ! Anh đã thay đổi nhiều từ cái ngày đầu tiên ấy tại Bộ Tình Yêu, nhưng sự thay đổi cuối cùng, cần thiết, chữa lành anh đến lúc này mới xảy ra.
Giọng nói từ máy truyền hình vẫn trút ra câu chuyện tù binh, chiến lợi phẩm và giết chóc, nhưng tiếng ồn bên ngoài đã lắng xuống một chút. Mấy người bồi bàn đã quay trở lại công việc. Một người lại gần anh với một chai gin. Winston ngồi đắm mình trong một mộng tưởng êm lành, không để ý đến cốc rượu được rót đầy. Anh không chạy hay hoan hô nữa. Anh quay về Bộ Tình Yêu, với mọi tội lỗi đã được tha thứ, tâm hồn trắng như tuyết. Anh ở trong khu bị cáo, thú nhận mọi tội, làm liên lụy mọi người. Anh bước dọc hành lang lát gạch trắng với cảm tưởng đi dưới ánh mặt trời, theo sau bởi một tên lính gác. Viên đạn được mong mỏi lâu ngày xuyên óc anh.
Anh nhìn lên khuôn mặt đồ sộ. Anh đã mất bốn mươi năm mới hiểu được ý nghĩa nụ cười giấu dưới bộ râu đen. Ôi sự hiểu nhầm ác nghiệt vô tích sự ! Ôi sự tự đọa đầy bướng bỉnh xa tấm lòng thương yêu ! Hai giọt nước mắt hôi mùi gin rỏ xuống hai sóng mũi anh. Nhưng tốt lành rồi, mọi sự tốt lành, cuộc đấu tranh đã chấm dứt. Anh đã thắng anh. Anh yêu thương Bác.
Ngôn Mới là ngôn ngữ chính thức của Đại Dương, đã được sáng chế để đáp ứng nhu cầu ý hệ Anh Xã hay Chủ Nghĩa Xã Hội Anh. Năm 1984 chưa có ai dùng Ngôn Mới làm dụng cụ thông tin độc nhất, dù là trong bài diễn thuyết hay bài văn. Những bài xã luận trong Thời Báo được viết bằng Ngôn Mới, nhưng đó là một công cuộc phi thường chỉ chuyên viên mới thực hiện nổi. Ngôn Mới được mong sẽ tận cùng thay thế Ngôn Cũ (hay Anh Ngữ thông dụng, như đáng nhẽ phải gọi nó) vào khoảng 2050. Trong khi chờ đợi nó kiên trì tiến bước, các Đảng viên càng ngày càng có khuynh hướng dùng các từ và lối kết cấu ngữ pháp Ngôn Mới trong lời nói hàng ngày của họ. Ngôn thể được dùng năm 1984 và được gồm trong Từ Điển Ngôn Mới Bản Thứ Chín và Thứ Mười, là một thể tạm thời, chứa đựng nhiều từ thừa và dạng cổ hủ sẽ bị gạt bỏ sau này. Nơi đây chúng ta bàn về thể hoàn hảo, cuối cùng, gồm trong bộ Từ Điển Bản Thứ Mười Một.
Mục đích của Ngôn Mới không những là cung cấp một phương tiện biểu lộ nhân sinh quan và tập quán tinh thần riêng của tín đồ Anh Xã, mà còn là khiến những lối tư tưởng khác không thể có được. Mục tiêu là khi Ngôn Mới được dứt khoát chấp nhận và Ngôn Cũ bị quên lãng, tư tưởng dị giáo — tức tư tưởng khác nguyên lý Anh Xã — sẽ không thể được nghĩ thành chữ, ít nhất trong chừng mực ý nghĩ lệ thuộc chữ. Ngữ vựng của Ngôn Mới được đặt cốt sao diễn tả đích xác và nhiều khi một cách rất tế nhị mọi ý tưởng một Đảng viên có thể muốn tỏ bày đúng, đồng thời khai trừ mọi ý nghĩa khác cũng như khả năng đạt tới những ý nghĩa đó nhờ một số phương sách gián tiếp. Điều ấy được thực hiện một phần nhờ sự sáng chế ra từ mới, nhưng đặc biệt nhờ sự loại trừ những từ không muốn dung nạp, cùng sự gạt bỏ khỏi những từ còn lại các ý nghĩa không chính thống và bất cứ nghĩa phụ nào, xa chừng nào đi nữa. Chỉ một thí dụ. Từ tự do sẽ được giữ trong Ngôn Mới nhưng nó chỉ sẽ được dùng trong những câu như "Con chó này tự do không có rận", "Cánh đồng này tự do không có cỏ dại" . Nó không thể được dùng theo nghĩa "tự do chính trị" hay "tự do tinh thần" như cũ vì sự tự do chính trị hay tinh thần không còn nữa, dù dưới hình thức khái niệm, và bởi vậy tất nhiên không được nêu tên. Ngoài hẳn sự hủy bỏ những từ thực dị giáo, sự thu gọn từ vựng được coi như một cứu cánh, và không một từ nào có thể miễn được có phép tồn tại. Ngôn Mới được soạn cốt không phải để mở rộng, mà để giảm bớt tầm tư tưởng, và mục đích này được trợ giúp gián tiếp bởi sự cắt xén số từ tới mức tối thiểu.
Ngôn Mới dựa trên Anh ngữ như chúng ta hiện biết, mặc dầu nhiều câu Ngôn Mới, tuy không chứa đựng từ mới sáng chế, chắc khó hiểu đối với một người nói tiếng Anh ngày nay. Từ Ngôn Mới được chia ra làm ba hạng khác biệt, gọi là từ vựng A, từ vựng B (cũng có tên là từ kép) và từ vựng C. Giản dị hơn là bàn riêng về mỗi hạng, song các đặc điểm ngữ pháp của Ngôn Mới có thể được nêu cả trong phần dành cho từ vựng A, vì cả ba hạng cùng chung quy tắc.
Từ vựng A. Từ vựng A bao gồm những từ cần thiết cho công việc hàng ngày — như ăn uống, làm việc, mặc quần áo, lên xuống cầu thang, đi xe, làm vườn, thổi nấu, đại loại. Nó gần như hoàn toàn gồm những từ sẵn có — kiểu như đá, chạy, chó, cây, đường, nhà, ruộng — nhưng so với từ vựng Anh ngữ ngày nay số từ ấy rất ít, trong khi ý nghĩa của chúng được xác định khắt khe hơn nhiều. Mọi nghĩa nước đôi và mọi nghĩa cạnh đều bị tiễu trừ. Trong chừng mực thực hiện như thế nổi, mỗi từ Ngôn Mới thuộc hạng A chỉ được là một âm ngắt diễn tả có một khái niệm rõ ràng. Hoàn toàn không thể dùng từ vựng A với chủ định làm văn chương hay để bàn cãi về chính trị hoặc triết lý. Nó chỉ cốt diễn tả những tư tưởng hữu ý đơn giản, thường bao hàm đồ vật cụ thể hay hành động thể xác.
Ngữ pháp Ngôn Mới có hai đặc điểm quan trọng. Thứ nhất là tính gần như hoàn toàn đổi lẫn giữa những phần câu khác nhau. Bất cứ từ nào trong ngôn ngữ (trên nguyên tắc điều này áp dụng cho cả những từ rất trừu tượng như nếu hay khi) cũng có thể được dùng hoặc làm động từ, danh từ, tĩnh tự hay phó từ. Giữa hình thể động từ hay danh từ không có sự khác biệt nào nếu hai từ cùng gốc, và quy tắc này bao hàm sự hủy bỏ nhiều hình thể cổ xưa. Ví dụ, từ ý nghĩ không có trong Ngôn Mới. Nó được thay thế bởi ý được dùng làm danh từ lẫn động từ. Nguyên lý từ nguyên không được áp dụng nơi đây: có khi danh từ gốc được chọn, có lúc động từ được giữ. Ngay trong trường hợp danh từ và động từ có nghĩa tương tự nhưng không có liên hệ gốc gác với nhau, một trong hai từ thường bị trừ khử. Thí dụ không còn chữ tựa như cắt, nghĩa của nó được bao trùm đủ trong động danh từ dao. Tĩnh từ được cấu tạo nhờ gắn tiền tố đầy vào động danh từ, và phụ từ nhờ gắn tiền tố cách. Ví như đầy tốc có nghĩa là "nhanh", và cách tốc có nghĩa là "một cách nhanh chóng". Một số tĩnh từ ngày nay như tốt, to, lớn, đen, mềm được giữ lại nhưng tổng số từ được giữ như vậy rất ít. Chúng không mấy cần thiết, vì hầu hết tính ý có thể thấu đạt nhờ thêm đầy vào động danh từ. Không có phụ từ hiện có nào được giữ trừ một số rất ít đã có thêm sẵn chữ cách: tiền tố cách không thay đổi. Thí dụ, chữ giỏi được thay bằng cách tốt.
Lại nữa, bất cứ từ gì — điều này trên nguyên tắc áp dụng cho mọi từ thuộc Ngôn Mới — cũng có thể bị phủ định nhờ thêm tiền tố không hay được tăng cường nhờ gắn tiếp tố hơn, hay tiếp tố bội hơn nếu muốn nhấn mạnh hơn nữa. Cho nên tỷ dụ không lạnh có nghĩa là "ấm", trong khi lạnh hơn và lạnh bội hơn có nghĩa tương ứng là "rất lạnh" và "hết sức lạnh". Cũng có thể, như trong Anh ngữ ngày nay, đổi nghĩa của hầu hết từ nhờ các phụ tố như trước, sau, trên, dưới, v.v. Với những phương pháp trên thấy rõ có thể đi đến một sự giảm bớt lớn lao từ vựng. Thí dụ từ tốt đã có, thì từ xấu không còn cần thiết, bởi ý nghĩa của nó có thể được diễn tả đúng chẳng kém — còn hay hơn nữa — bởi không tốt. Điều cần thiết là mỗi khi có hai từ họp thành một cặp đối lập nhau phải quyết định nên bỏ từ nào. Ví như tối có thể được thay bởi không sáng và sáng bằng không tối tùy sớ thích.
Đặc điểm đáng kể thứ hai của pháp ngữ Ngôn Mới là tính đều đặn của nó. Trừ một vài ngoại lệ được kê ở dưới, mọi biến tố đều theo cùng quy tắc. Cho nên mọi thời quá khứ đều được chỉ bởi tiền tố đã. Như quá khứ của ý là đã ý, các dạng khác như vốn, vừa, từng, vv. đều bị loại bỏ. Mọi số nhiều được biểu hiệu bởi tiền tố chúng. Như số nhiều của người là chúng người. Các dạng khác như các, những, mọi, vv. đều bị khai trừ. Các tĩnh từ so sánh đều được ghép với hơn, nhất, những dạng khác như trội, gấp, vượt, bị loại cả.
Những loại từ độc nhất còn được phép đổi dạng không đúng qui củ là đại từ, đại từ quan hệ, tĩnh từ chỉ định, và trợ động từ. Các loại từ này theo quy tắc cũ, trừ từ mà bị gạt đi vì không cần thiết, và những từ sẽ phải, chắc sẽ bị loại trừ vì mọi ý tương lai đã được bao gồm dưới từ sẽ. Cũng có vài chỗ trái phép trong sự cấu tạo từ ngữ xuất phát từ sự cần nói cho nhanh cho dễ. Từ nào khó phát âm hay có thể bị hiểu nhầm, bị coi tức thì là từ dở: thành thử thỉnh thoảng, viện cớ hài âm, có chữ thừa được lồng vào một từ hay có một hình thái cổ được lưu giữ. Nhưng nhu cầu ấy thể hiện rõ hơn trong quan hệ của nó với ngữ vựng B. Tại sao lại quy cho sự phát âm dễ dàng một tầm quan trọng lớn như vậy, điều đó sẽ được giải thích sau trong tiểu luận này.
Từ vựng B. Từ vựng B bao gồm những từ được định đặt với ý đồ chính trị, tức không những các từ liên can đến chính trị mà cả các từ nhằm áp đặt trạng thái tinh thần mong muốn trên kẻ sử dụng chúng. Nếu không am hiểu các nguyên lý của Anh Xã, khó sử dụng đúng những từ này. Đôi khi những từ này có thể được dịch ra Ngôn Cũ hay cả ra từ thuộc ngữ vựng A, nhưng nếu làm vậy thường phải dài dòng và luôn luôn bỏ mất vài sắc thái. Từ B là một thứ lời tốc ký, hay tóm cả loạt ý vào vài âm tiết, đồng thời lại chính xác và có sức thuyết phục hơn ngôn ngữ bình thường.
Từ B bao giờ cũng là từ kép . Nó gồm hai ba từ, hay phần từ, gắn lại với nhau dưới một hình thức dễ đọc. Kết quả của sự tập hợp luôn luôn là một động danh từ, biến cách theo quy tắc thông thường. Chỉ lấy một ví dụ: từ ý tốt có nghĩa rất đại khái là "chính thống", hay là "nghĩ một cách chính thống" nếu muốn coi nó là một động từ. Biến cách của nó như sau: động danh từ, ý tốt; thời quá khứ và động tính từ quá khứ, đã ý tốt; động tính từ hiện tại, đang ý tốt; tĩnh từ, đầy ý tốt; phó từ, cách ý tốt; danh từ động, kẻ ý tốt.
Từ B không được kết cấu trên bình diện từ nguyên nào. Những từ cấu tạo ra nó có thể là bất cứ phần chữ nào, có thể được đặt theo bất cứ thứ tự nào, và có thể bị cắt xén theo mọi cách khiến nó được đọc dễ dàng cùng biểu thị căn nguyên của nó. Ví như trong từ tội ý (tội tư tưởng), chữ ý đi sau, nhưng nó đi trước trong từ ý đôi; và chữ cảnh sát mất đi một âm tiết trong từ cảnh ý (cảnh sát tư tưởng). Vì rất khó duy trì hài âm, thường có nhiều hình thái không đúng quy tắc trong ngữ vựng B hơn trong ngữ vựng A. Tỷ dụ, dạng tĩnh từ của Bộ Thật, Bộ Bình, Bộ Yêu đâm là của Bộ Thật, của Bộ Bình, của Bộ Yêu, chỉ vì đầy Bộ Thật, đầy Bộ Bình, đầy Bộ Yêu nghe hơi kỳ. Tuy nhiên, trên nguyên tắc, mọi từ B có thể biến cách, và đều biến cách một kiểu.
Có vài từ B có nghĩa rất tế nhị, thật khó hiểu đối với ai không thấu toàn diện ngôn ngữ. Hãy lấy làm thí dụ một câu điển hình trích trong một bài xã luận của Thời Báo như Kẻ ý cũ không bụng cảm Anh Xã . Được phiên dịch gọn nhất ra Ngôn Cũ nó sẽ thành: "Những kẻ ấp ủ tư tưởng thành hình trước Cách Mạng không thể cảm biết nguyên lý của Xã Hội Chủ Nghĩa Anh." Nhưng phiên dịch như vậy không đúng hẳn. Thứ nhất, muốn nắm trọn ý nghĩa của câu văn Ngôn Mới trích trên, phải có ý niệm rõ ràng về Anh Xã. Thêm vào, chỉ một người thật thông Anh Xã mới đánh giá được trọn vẹn mãnh lực của từ bụng cảm, một từ bao hàm một sự chấp nhận nhiệt thành khó tưởng tượng được ra ngày nay; hay hiệu lực của từ ý cũ, một từ trộn lẫn rối rắm với ý tưởng ác độc và suy đồi. Nhưng chức năng đặc biệt của vài từ Ngôn Mới trong đó có ý cũ không phải là tỏ nghĩa mà là loại nghĩa. Những từ ấy, tất nhiên không nhiều, có nghĩa rộng đến nỗi chứa đựng bên trong cả tràng từ nay, vì được bao trùm đủ ý dưới có một từ tổng quát, có thể bị gạt bỏ và quên lãng. Nỗi khó khăn lớn nhất mà nhà soạn thảo Từ Điển Ngôn Mới phải đương đầu với không phải là sáng tạo thêm từ mới, mà là làm sao nắm chắc được ý nghĩa của nó sau khi chế ra nó; tức là làm sao nắm chắc được số từ nó xóa bỏ đi bởi sự hiện hữu của nó.
Như chúng ta đã thấy trong trường hợp từ tự do, những từ đã từng có ý nghĩa dị giáo có khi được giữ lại vì tính cách tiện lợi của nó, nhưng sau khi các ý nghĩa bất khả dung đã bị tẩy trừ. Vô số từ khác như danh dự, công lý, đạo đức, quốc tế chủ nghĩa, dân chủ, khoa học, đạo giáo đơn thuần biến mất. Vài từ trùm gồm những từ ấy lại, và loại những từ ấy đi nhờ sự thâu tóm đó. Thí dụ, các từ tập quanh khái niệm tự do công bằng được khép trong mỗi một từ tội ý, trong khi các từ tập quanh khái niệm khách quan và duy lý được chứa trong mỗi từ ý cũ. Chính xác hơn sẽ nguy hiểm. Điều đòi hỏi nơi Đảng viên là một quan điểm giống như lối nhìn của người Do Thái xưa biết rằng, và không biết gì khác hơn, các dân tộc khác họ thờ "hư thần". Họ không cần biết những vị thần đó có tên là Baal, Osiris, Moloch, Ashtaroth hay gì khác; có lẽ họ càng biết ít, càng tốt cho lòng chính thống của họ. Họ biết Jehovah và những giáo điều của Jehovah: cho nên họ biết các thần có tên khác và thuộc tính khác đều là "hư thần". Có thể nói là tương tự như vậy, Đảng viên biết thế nào là cư xử đúng, và biết một cách hết sức mơ hồ, tổng quát, có thể trệch bước tới đâu. Ví dụ, đời sống sinh dục của họ hoàn toàn khuôn theo hai từ Ngôn Mới tội dục (sinh dục vô luân)) và dục tốt (trinh tiết). Tội dục gồm mọi hành vi xấu xa về sinh dục. Nó bao trùm sự thông dâm, ngoại tình, đồng tính luyến ái, cùng các trò dâm dục đồi bại khác, cộng thêm sự giao cấu bình thường nhằm mục đích giao cấu mà thôi. Không cần kể từng hành vi một, vì hành vi nào cũng đáng tội như nhau, và trên nguyên tắc tội nào cũng khiến tội phạm bị xử tử. Trong ngữ vựng C gồm các từ khoa học kỹ thuật, có thể cần nêu danh vài hành vi loạn dâm, nhưng thường dân không cần đến những từ ấy. Người dân thường biết thế nào là dục tốt — tức sự giao cấu bình thường giữa vợ chồng, với mục đích duy nhất là sinh con, người đàn bà không được cảm thấy thú nhục dục trong đó: mọi trò sinh dục khác thuộc tội dục. Với Ngôn Mới khó theo đuổi được một tư tưởng dị giáo quá khái niệm đó là tư tưởng dị giáo: xa hơn điểm này không có danh từ cần thiết.
Không một từ nào trong ngữ vựng B trung tính về mặt tư tưởng hệ. Nhiều từ là uyển ngữ. Ví dụ, có từ như trại vui (trại khổ sai) hay Bộ Bình (Bộ Hòa Bình, tức Bộ Chiến Tranh) có nghĩa gần như trái hẳn ý biểu lộ. Mặt khác, có từ bày tỏ một sự am hiểu miệt thị bản chất xã hội Đại Dương. Một thí dụ là từ dưỡng dân, chỉ cái trò giải trí đê tiện và những tin tức giả mạo mà Đảng ban cho quần chúng. Lại có những từ nước đôi, có nghĩa "tốt" khi đem áp dụng cho Đảng và nghĩa "xấu" khi mang gắn cho quân thù của Đảng. Nhưng thêm vào có rất nhiều từ thoạt coi chỉ là chữ tắt, có sắc thái ý hệ không phải do nghĩa mà do lối kết cấu.
Bất cứ ý tưởng gì có tính cách chính trị đều được cố sức ghép thành từ thuộc ngữ vựng B. Tên của các tổ chức, đoàn thể, học thuyết, xứ sở, thể chế, hay công thự luôn luôn bị cắt xén tới dạng bình dị; tức thành có một từ dễ đọc với thật ít âm song vẫn giữ được nguyên nghĩa. Ví như tại Bộ Sự Thật, Cục Văn Khố, nơi Winston làm việc, được gọi là Cục Khố, Cục Soạn Truyện được gọi là Cục Truyện, Cục Chương Trình Vô Tuyến Truyền Hình là Cục Trình Hình v.v... Phép thâu tắt này không chỉ nhằm mục đích tiết kiệm thì giờ. Ngay thời các thập niên đầu thế kỷ hai mươi, từ và câu lồng vào nhau đã là đặc điểm của ngôn ngữ chính trị; và người ta đã để ý thấy rằng khuynh hướng dùng tiếng vắn tắt kiểu đó nổi bật nhất tại các nước và tổ chức cực quyền. Điển hình là những từ ngữ như Nazi (Quốc Xã), Gestapo (Kiểm Cảnh), Comintern (Cộng Sản Quốc Tế), Inprecorr (Liên Lạc Viên Tiền Phong Quốc Tế ?), Agitprop (Khuấy Động Tuyên Truyền). Thoạt đầu lối ghép chữ này được chấp nhận làm như một cách tự nhiên, nhưng trong Ngôn Mới nó được áp dụng với một mục tiêu có chủ ý. Có sự nhận thức thấy rằng mỗi khi một từ bị rút ngắn, đồng thời nghĩa của nó bị thâu hẹp và biến đổi một cách tinh tế, vì mất đi đa số liên tưởng đáng nhẽ bám vào nó. Tỷ như các từ Cộng Sản Quốc Tế khêu gợi hình ảnh hỗn hợp của tình nhân loại, cờ đỏ, vật cản đường, Các Mác, Công Xã Ba Lê. Mặt khác, từ Cộng Tế (Comintern) chỉ gợi ý một tổ chức chặt chẽ và một bộ học thuyết xác định. Nó nhắc tới một thứ gần như cũng dễ nhận và cũng có nghĩa hạn định như một cái bàn hoặc cái ghế. Cộng Tế là một từ có thể được thốt ra không cần suy nghĩ, trong khi Cộng Sản Quốc Tế là một thành ngữ bắt người ta lần lữa ít nhất đôi chút. Cũng vậy, những liên tưởng được khích động bởi một từ như Bộ Thật ít hơn và dễ kiểm soát hơn những liên tưởng đi đôi với Bộ Sự Thật. Sự kiện này bảo đảm không những cho thói vắn tắt mỗi khi có dịp, mà cả cho tật chăm sóc hầu như quá đáng sự dễ phát âm của mỗi từ. Trong Ngôn Mới, ngoài câu thúc đúng nghĩa, luật hài âm thắng mọi quan điểm khác. Qui tắc văn phạm luôn luôn bị hy sinh cho nó nếu cần. Và thế là phải, bởi nhu cầu, trước hết vì mục tiêu chính trị, là những từ vắn tắt, có ý nghĩa rõ ràng, có thể được phát âm nhanh, lại gợi tối thiểu tiếng vang trong óc kẻ thốt ra chúng. Các từ thuộc ngữ vựng B còn thêm hiệu lực nhờ sự hầu hết chúng tương tự nhau. Gần như luôn luôn những từ ấy — ý tốt, Bộ Bình, dưỡng dân, tội dục, trại vui, Anh Xã, bụng cảm, cảnh ý và vô số từ khác — gồm hai hoặc ba âm, với sự nhấn mạnh chia đều giữa âm đầu và âm cuối. Sự sử dụng những từ này khuyến khích lối diễn văn hiếu thắng, tẻ ngắt, ngay đầu đã giật giọng. Và đấy đúng là đích nhắm. Dụng ý là khiến lời văn, nhất là văn bàn về một vấn đề hơi không trung tính trên phương diện ý hệ, hết sức tách rời khỏi tâm thức. Dĩ nhiên, trong đời sống hàng ngày bắt buộc hay thỉnh thoảng bắt buộc phải suy nghĩ trước khi nói, nhưng một Đảng viên được yêu cầu phán đoán về luân lý hay chính trị phải có khả năng tuôn ra quan điểm đúng đắn một cách tự động chẳng kém gì súng liên thanh xả đạn. Sự rèn luyện khiến họ thích ứng với việc làm này, ngôn ngữ cấp cho họ một dụng cụ gần như vượt mọi thử thách, và sự kết cấu của các từ, với âm thanh chát chói và cái bề thô sơ cố ý thích hợp với tinh thần Anh Xã, giúp cho quá trình diễn tiến xa hơn.
Đấy là hậu quả của sự có rất ít từ để chọn lựa. So với ngôn ngữ của chúng ta, ngữ vựng Ngôn Mới eo hẹp, và luôn luôn có sự tìm kiếm phương cách mới nhằm thu gọn nó lại. Quả vậy, Ngôn Mới khác các ngôn ngữ khác ở cái mỗi năm từ vựng của nó bị thu hẹp lại thay vì được nới rộng ra. Mỗi sự giảm sút là một vụ lợi, vì tầm chọn lựa càng hẹp, lòng rắp rem suy nghĩ càng mòn. Chót cùng là hy vọng khiến cho sự cấu âm phát sinh từ cổ họng, không cần dính líu đến các khu thần kinh cao cả. Mục tiêu này được thành thực thừa nhận trong từ Ngôn Mới nói vịt có nghĩa là "nói quặc quặc như vịt". Như nhiều từ khác trong ngữ vựng B, nói vịt có tính đôi chiều về ý nghĩa. Miễn quan điểm được quặc ra là quan điểm chính thống, từ đó không bao hàm gì hơn ý khen ngợi, và khi Thời Báo nhắc tới một diễn giả thuộc Đảng như một kẻ nói vịt tốt bội hơn, đó là báo có ý ban một lời khen đáng giá, nồng nhiệt.
Từ vựng C. Từ vựng C bổ sung hai từ vựng trên và toàn gồm các từ khoa học kỹ thuật. Loại từ này giống như các từ khoa học hiện dụng, và được cấu tạo trên căn bản tương tự, song như thường lệ việc định nghĩa khắt khe và việc loại trừ những ý nghĩa bất hảo rất được chăm sóc. Chúng theo cùng qui tắc với các từ thuộc hai từ vựng kia. Rất ít từ C được thông dụng trong văn hàng ngày hay văn chính trị. Nhân viên khoa học kỹ thuật nào cũng có thể tra các từ cần đến trong bảng mục lục dành riêng cho ngành của mình, nhưng hiếm khi được biết hơn chút khái niệm về những từ ghi trong các bảng khác. Chỉ có rất ít từ chung cho toàn thể các mục lục, và không có ngữ vựng biểu lộ năng chức của khoa học như một tập quán tinh thần, hay một phương pháp suy tưởng, không lệ thuộc riêng ngành nào. Vả lại, không có từ chỉ "Khoa học", mọi nghĩa có thể được nó đội đã do từ Anh Xã bao trùm đủ rồi.
Chiếu theo trên, ta thấy rằng trong Ngôn Mới, sự phát biểu quan điểm bất chính thống, quá một mức rất thấp, gần như không thể có được. Dĩ nhiên, có thể thốt ra một loại tà ngôn thật tục, một loại lời báng bổ. Ví như có thể bảo rằng Bác không tốt. Nhưng câu này, vào tai kẻ chính thống chỉ đượm tính phi lý hiển nhiên, không thể được dựa trên luận cứ nào, vì không sẵn có từ cần thiết. Những ý tưởng nghịch với Anh Xã chỉ có thể được nuôi dưỡng dưới một hình thức mơ hồ không tên, và chỉ có thể được nêu lên bằng những từ rất tổng quát kết khối với nhau nên nhờ đó không cần định nghĩa mà bít bí được hàng nhóm tà thuyết. Thực ra, chỉ có thể dùng Ngôn Mới nhằm mục tiêu bất chính thống bằng cách dịch lại một cách bất hợp pháp vài từ sang Ngôn Cũ. Ví dụ, Mọi người đều bằng nhau có thể là một câu Ngôn Mới, nhưng chỉ tựa như Mọi người đều tóc hung có thể là một câu Ngôn Cũ. Nó không sai văn phạm, nhưng diễn tả một sự sai ngoa dễ thấy — làm như nó cho rằng mọi người ai cũng bằng bề nhau, bằng cân nhau, bằng sức nhau. Khái niệm bình đẳng chính trị không còn nữa, cho nên nghĩa phụ này đã bị khử trừ khỏi từ bằng nhau. Năm 1984, khi Ngôn Cũ còn là phương tiện truyền thông bình thường, trên lý thuyết có mối nguy kẻ dùng từ Ngôn Mới có thể nhớ lại nguyên nghĩa của chúng. Trên thực tế, bất cứ ai vững ý đôi cũng tránh được chuyện đó, vả lại sau hai thế hệ ngay cái khả năng nhầm lẫn kia cũng sẽ biến mất. Một người sinh trưởng với Ngôn Mới làm ngôn ngữ độc nhất sẽ không còn biết rằng bằng nhau có thời có nghĩa phụ là "bằng nhau về mặt chính trị", hay biết rằng tự do có thời nghĩa là "tự do về mặt tinh thần", chẳng khác gì một người chưa từng nghe nói tới cờ sẽ không hiểu được nghĩa phụ của tướng và xe. Sẽ có nhiều trọng tội và điều sai lầm vượt khả năng phạm phải của họ, chỉ vì chúng không có tên và bởi vậy không thể tưởng tượng ra được. Và phải dự kiến rằng với thời gian các đặc tính của Ngôn Mới sẽ càng ngày càng hiển hiện — số từ ít dần, nghĩa của các từ thêm ngặt, khả năng dùng từ một cách không thích đáng mãi mãi suy giảm.
Một khi Ngôn Cũ bị thay thế hẳn, mối liên lạc cuối cùng với quá khứ sẽ bị cắt đứt. Lịch sử đã bị viết lại, nhưng nhiều mẩu văn chương thuộc quá khứ còn tồn tại đâu đó, không bị kiểm duyệt hết, và còn có người giữ được một chút hiểu biết về Ngôn Cũ, những mẩu đó còn có thể được đọc. Nay mai, dù những mẩu đó có cơ tồn tại, không ai hiểu nổi hay dịch nổi chúng. Không thể dịch được một đoạn Ngôn Cũ sang Ngôn Mới trừ phi nó liên quan đến một quá trình kỹ thuật hay một hành động hàng ngày thật đơn giản, hoặc nó đã sẵn có khuynh hướng chính thống (từ Ngôn Mới sẽ là đầy ý tốt). Trên thực tế như vậy là không có sách nào viết trước khoảng 1960 có thể được dịch trọn vẹn. Văn chương trước Cách mạng chỉ có thể được chuyển dịch theo ý hệ — tức bị biến nghĩa và biến lời. Hãy lấy làm ví dụ đoạn văn danh tiếng trích từ Bản Tuyên Ngôn Độc Lập:
Chúng tôi coi những sự thực sau đây là điều hiển nhiên: Rằng con người sinh ra ai cũng bằng ai, ai cũng được Thượng Đế ban cho một số quyền lợi bất khả di nhượng, rằng trong đó có quyền sinh sống, quyền tự do, và quyền theo đuổi hạnh phúc. Rằng để duy trì những quyền lợi ấy, các Chính Quyền đã được đặt trong nhân loại, rút quyền lực từ sự ưng thuận của những kẻ bị cai trị. Rằng mỗi khi một Chính Thể đi đến chỗ phá hủy mục đích trên, quyền của Dân Chúng là thay đổi hay loại bỏ Chính Thế đó để thiết lập một Chính Quyền mớị..
Hoàn toàn không thể chuyển đoạn văn này sang Ngôn Mới mà vẫn giữ được ý nghĩa của nguyên bản. Phiên dịch sát ý nhất sẽ là gom cả đoạn trong có một từ tội ý. Một bản dịch đầy đủ chỉ có thể là một bản dịch trọng ý hệ, theo đó từ ngữ của Jefferson biến thành một bản văn tâng bốc chính thể chuyên chế.
Thật vậy, một phần lớn văn chương quá khứ đã bị biến đổi kiểu đó. Xét về mặt uy tín, nên duy trì ký ức của một vài nhân vật lịch sử nhưng đồng thời khiến những công trình của họ tương ứng với triết lý Anh Xã. Nhiều văn hào như Shakespeare, Milton, Swift, Byron, Dickens, và khác nữa, đương được dịch vì lẽ đó: một khi công việc hoàn thành, văn bản nguyên thủy của họ cùng với những di tích văn chương quá khứ khác sẽ bị hủy hoại. Việc phiên dịch này là một công việc chậm chạp khó khăn, không mong gì làm xong trước nhị thập niên đầu thế kỷ hai mươi mốt. Chính vì để có đủ thì giờ hoàn thành công việc dịch thuật sơ bộ mà sự chấp nhận Ngôn Mới chót cùng đã được ấn định vào một ngày rất xa vào năm 2050.
Hết
Posting Permissions
- You may not post new threads
- You may not post replies
- You may not post attachments
- You may not edit your posts
-
Forum Rules
Bookmarks