CẢI TẠO TƯ DUY


Có một sự đui mù ghê gớm về chính bản chất của cái phải là một tri thức thích đáng. Theo giáo điều đang ngự trị, tính thích đáng tăng theo trình độ chuyên môn hoá và trừu tượng hoá. Nhưng một tri thức tối thiểu về tri thức lại dậy cho chúng ta rằng điều quan trọng nhất là vấn đề bối cảnh hoá. Claude Bastien (Clốt Baxchiêng) đã nói: "Quá trình diễn biến của nhận thức không đi về chỗ sinh ra những tri thức càng ngày càng trừu tượng nhưng ngược lại, nó đi về phía đặt tri thức vào bối cảnh của nó"(1). Bối cảnh này sẽ quyết định những điều kiện để dung nạp chúng và những giới hạn cho hiệu lực của chúng. Bastien còn nói thêm " bối cảnh hoá là một điều kiện cơ bản của hiệu lực (của chức năng nhận thức)".
Bản thân tri thức chuyên môn là một hình thức trừu tượng riêng biệt. Sự chuyên môn hoá trừu tượng, nghĩa là đem một vật từ một lĩnh vực nào đó, lột bỏ những liên hệ và những tương quan với môi trường của nó, rồi nhét nó vào một quan niệm trừu tượng của cái gọi là lĩnh vực chuyên nghiệp, biệt lập, mà biên giới phá vỡ một cách tuỳ tiện tính hệ thống (liên hệ của một phần vào tổng thể) và tính đa chiều của các hiện tượng. Chuyên môn hoá trừu tượng còn dẫn đến cái trừu tượng số học. Trừu tượng này tự nó sẽ xa rời cụ thể, một phần vì nó có khuynh hướng ưu đãi tất cả những gì có thể tính toán và có thể công thức hoá, một phần khác vì nó không cần biết đến cái môi trường cần thiết để cho những đối tượng của nó có thể trở thành dễ hiểu.

Ví dụ như kinh tế, một bộ môn khoa học xã hội tiên tiến nhất về phương diện số học lại là một bộ môn khoa học lạc hậu nhất về mặt nhân văn và xã hội. Bởi vì nó tự xa rời những điều kiện xã hội, lịch sử, chính trị, tâm lý, sinh thái, những điều kiện vốn không thể tách rời khỏi những hoạt động kinh tế. Chính vì vậy, các chuyên gia của nó càng ngày càng không có khả năng giải thích những nguyên nhân và hậu quả của những rối loạn tiền tệ, chứng khoán, càng mất khả năng dự báo hướng đi của kinh tế ngay cả trong ngắn hạn. Cho nên sự thiếu năng lực trong khoa kinh tế lại thành một vấn đề hàng đầu của kinh tế.

Tri thức chắc chắn phải dùng đến trừu tượng, nhưng vì tìm cách tự hình thành bằng cách tham chiếu bối cảnh, nên nó phải điều động cái mà kẻ hiểu biết biết được về thế giới. Franỗois Recanati (Phrăngxoa Rêcanati) đã từng viết(2): "Nắm được những phát biểu, rất khác với một sự giải mã đơn thuần, nó là một quá trình giải thích phi - môđun (không có tiêu chuẩn để đo đạc -ND). Nó phải điều động trí thông minh tổng quát và cần đến nhiều tri thức về thế giới". Như thế để nói rằng sự thấu triệt những dữ kiện đặc thù chỉ có thể đạt được nơi kẻ biết duy trì, bồi dưỡng trí thông minh tổng quát và điều động được tất cả những tri thức toàn diện của mình cho từng trường hợp cá biệt. Marcel Mauss (Mácxen Mốtx) nói rằng: "Cần phải tổ hợp tất cả lại", chúng ta nói thêm "cần phải điều động tất cả".

Đương nhiên không thể biết được mọi điều của thế giới, cũng không thể nắm bắt được những biến hoá vô cùng đa dạng của chúng. Nhưng mặc dầu rất bấp bênh và khó khăn, chúng ta vẫn phải ra sức tìm hiểu những tri thức cùng những thông tin then chốt liên quan đến thế giới, nếu không chúng ta sẽ trở thành ngốc nghếch trên phương diện nhận thức và điều đó ở thời buổi này càng trở nên bức xúc hơn vì chính bản thân thế giới hiện đang là bối cảnh của toàn bộ tri thức chính trị, kinh tế, chính trị nhân loại, sinh thái v.v...

Kỷ nguyên toàn cầu đòi hỏi phải đặt tất cả vào trong bối cảnh toàn cầu. Sự thấu triệt thế giới như là một thế giới trở thành một điều cần thiết cả về mặt trí tuệ lẫn sinh tồn. Đó là vấn đề phổ biến đối với mọi công dân: làm sao tự mở được cửa để tiếp thu tin tức của thế giới và làm sao đạt được khả năng sắp xếp, tổ chức những tin tức này? Nhưng để có thể sắp xếp, tổ chức tin tức, qua đó phân biệt, hiểu được những vấn đề của thế giới, cần phải tiến hành một sự cải tạo tư duy. Sự cải tạo này bao hàm việc bối cảnh hoá tri thức và tự khắc sẽ dẫn đến sự phức tạp hoá tri thức.

Tư tưởng như những bộ phận rời

Tư tưởng khi bị khu biệt, cắt xén, cô lập cho phép những chuyên gia nắm rất vững các lĩnh vực chuyên môn và hợp tác một cách hữu hiệu trong lĩnh vực của tri thức không phức tạp, nhất là lĩnh vực liên quan đến sự vận hành của máy nhân tạo. Nhưng lôgíc mà họ dùng lại áp đặt lên xã hội, lên quan hệ con người những ràng buộc, những cơ chế phi nhân của bộ máy nhân tạo và cái nhìn của họ có tính tất định luận, cơ giới luận, số lượng, công thức sẽ bỏ qua, che lấp hoặc hoà tan tất cả những gì thuộc về lĩnh vực chủ quan, tình cảm, tự do và sáng tạo. Ngoài ra, những đầu óc bị chia cắt thành từng mảnh, bị kỹ thuật-quan liêu hoá đã trở thành đui mù đối với những phản tương tác và đối với liên hệ nhân quả tuần hoàn, nên chúng thường nhìn những hiện tượng theo liên hệ nhân quả tuyến tính. Chúng chỉ nhận thức được những hiện thực sống động và xã hội bằng quan niệm cơ giới luận / tất định luận dùng cho các bộ máy nhân tạo. Nói một cách sâu rộng hơn, tinh thần kỹ thuật-quan liêu không thể có khả năng phát hiện cũng như nhận thức được cái tổng thể và cái cơ bản, tính phức tạp của những vấn đề nhân loại.

Các vấn đề thì phụ thuộc lẫn nhau trong thời gian và không gian, thế mà những nghiên cứu chuyên ngành lại tách biệt vấn đề này ra khỏi vấn đề kia. Về vấn đề môi trường và phát triển đương nhiên là có một ý thức sơ bộ đưa đến việc đề cao những nghiên cứu liên ngành. Nhưng, mặc dù đã có khá nhiều kinh phí cho việc này, kết quả vẫn chưa có gì khả quan.

Bởi vì bằng cấp, chức nghiệp, tiêu chuẩn đánh giá vẫn còn nằm trong khuôn khổ chuyên nghiệp. Nhất là vẫn có một sự tẩy chay bởi cái cơ chế quan liêu / đại học đối với tư tưởng liên ngành, cũng kịch liệt chẳng khác nào đại học Sorbonne (Soócbon) thế kỷ thứ XVII tẩy chay sự phát triển khoa học.

Nguyên tắc tổ chức chuyên nghiệp của tri thức khoa học cùng với sự co cụm khép kín của triết học đã tước đoạt những khả năng và quyền hạn của tư tưởng. Đa số triết gia không chịu cất công tìm hiểu những tri thức mới, những thứ làm thay đổi những quan niệm về thế giới, về thực tại, về con người v.v..

Lần đầu tiên trong truyền thống bắt nguồn từ người Hy lạp, họ đã quay lưng lại với vũ trụ, với vận mạng con người trong thế giới, với những vấn nạn của thực tại. Thế giới đang hấp hối thế mà họ ngồi bàn cãi về giới tính của OEdipe (Ơ Đíp), tranh luận về "sinh mệnh thế giới" (Lebenswelt) bên ngoài thế giới (Welt) và ngoài sinh mệnh (Leben), chỉ lo cải cách chính tả thay vì cải tạo tư tưởng.

Đối với những người không ở trong giới khoa học thì những nhà khoa học phủ nhận tư cách, quyền hạn và năng lực suy nghĩ của họ về những khám phá và lý thuyết khoa học. Thế thì thử hỏi những những người như Einstein (Anh-xtanh), Heisenberg (Hei-dân-béc), Bohr (Bo), Monod (Mô-nô), Jacob (Gia-cốp), Prigorine (Pri-go-rin), Reeves (Ri-vơ), d'Espagnat (Đét-xpa-nhat), Hawkings (Hô-kinx) đã viết hoặc đang viết cho ai? Nếu họ viết sách cho những người không phải là các nhà khoa học chính vì họ cho rằng mọi người đều có thể hiểu được tư tưởng của họ: đương nhiên năng lực kỹ thuật và toán học nhất thời vẫn còn khó hiểu đối với những "phó thường dân", nhưng những tư tưởng vẫn có thể được truyền bá và thảo luận trong ngôn ngữ thông thường của mọi người. Đằng sau những phương trình của vật lý lượng tử, vẫn có ý niệm rằng thế giới vật lý vi mô không tuân theo những lôgíc, kết cấu và quy luật giống những thứ của thế giới trung mô của chúng ta mặc dù thế giới chúng ta được tạo thành bởi chính những cơ sở tổ chức của thế giới vi mô này. Phía sau phương trình định luật thứ hai về nhiệt động học của Boltzman (Bôn-zman) vẫn có những ý niệm về sự thoái hoá năng lượng, sự giải thể các hệ thống, chỗ đứng và vai trò của sự hỗn loạn trong thế giới vật lý, những thứ này đều liên quan đến tất cả chúng ta, đến từng cá nhân một.

Tính hợp lý giả tạo.

Trong thời đại này, những hoạt động giám định, các uỷ ban chuyên môn và các bộ môn hành chính thường kết hợp với nhau đưa ra những quyết định gây hậu quả tai hại đến độ tạo thành những bi kịch. Sự kiện truyền máu bị nhiễm vi-rút (HIV-Sida ở Pháp-ND) là một trong những trường hợp như vậy.

Đương nhiên, bất cứ một thứ thông tin bất ngờ và lạ lùng nào đều đụng chạm và nhiễu loạn những thành kiến, tập quán suy nghĩ ; ngoài ra, nó còn có thể bị tê liệt lâu dài bởi những lề thói quan liêu bàn giấy, bị xé nhỏ hoặc phủ nhận vì sự băm vằm tất cả mọi vấn đề bởi tổ chức siêu chuyên nghiệp của các ngành nghề. Tổ chức này lại được ủng hộ bởi sự vô trách nhiệm của các uỷ ban và không còn biết đến ý thức trách nhiệm là gì.

Đã từ lâu, những báo động và nhắc nhở càng ngày càng dồn dập, nhưng hoàn toàn vô hiệu quả và chỉ làm chuyển động được những trì trệ và mù quáng một cách quá muộn màng, rồi chỉ khi xẩy ra thảm hoạ người ta mới bắt đầu tổ chức chống đỡ.

Ngay cả khi những biện pháp tức thời rất hữu ích, nếu chúng tuân theo quan niệm khu biệt và tuyến tính, vẫn có thể sinh ra những tác dụng độc hại làm tiêu tan tác dụng tốt lành của chúng, thậm chí cuối cùng còn trở thành xấu nhiều hơn tốt.

Vì thế, cuộc cách mạng xanh, được xem như để nuôi thế giới thứ ba, đã làm tăng đáng kể những tài nguyên thực phẩm và rõ ràng cho phép tránh được đói kém. Tuy nhiên, ta cần phải nhìn lại cái ý tưởng khởi thuỷ của nó, có vẻ hợp lý nhưng đã được phóng đại một cách quá trừu tượng: đó là sự chọn lựa và nhân lên trên những diện tích rộng lớn một loại gien đơn thực vật - loại cao sản nhất. Người ta đã nhận thấy khi thiếu sự đa gien thực vật thì gien đơn kia không chống trả được sâu bệnh sẽ làm tiêu tan toàn bộ thu hoạch trong cùng một vụ mùa. Thế là người ta lại phải tái lập một vài loại gien khác nào đó, không phải để đưa sản lượng lên độ cao nhất, nhưng để cho mùa màng được thích nghi ở độ cao nhất.

Ngoài ra sử dụng quá độ các loại phân làm cho đất thành cằn cỗi, tưới tiêu không đoái hoài đến đặc điểm đất cũng gây ra xói mòn và làm đất mất mầu mỡ. Các loại thuốc trừ sâu, nếu tích luỹ, sẽ tiêu diệt sự điều tiết giữa các giống, trừ khử cùng một lúc cả những loài có ích và những loài sâu hại, nhiều khi còn nhân lên không cách nào cản được một giống có hại được miễn dịch đối với những loại thuốc trên. Chất độc chứa trong thuốc trừ sâu còn thâm nhập vào trong thức ăn, làm tổn hại sức khoẻ người tiêu thụ.

Cuối cùng, sự khai hoang, đốn cây trên hàng nghìn héc ta cũng góp phần vào việc phá vỡ cân bằng thuỷ hệ, làm tăng tiến trình sa mạc hoá đất đai. Phương pháp độc canh đại quy mô sẽ đào thải phương pháp đa canh nhỏ vốn thích hợp hơn cho sự sinh tồn của con người, làm đói kém càng trở nên trầm trọng, đẩy nông dân trôi dạt vào đô thị và nhân lên thêm những khu nhà ổ chuột trong các thành phố lớn.

Khắp nơi trên quả đất, như Francois Garczynski (Phrăngxoa Gácdinxki) đã nói: "Cái nông nghiệp đó tạo nên những sa mạc theo cả nghĩa đôi của chữ này: đất đai bị xói mòn và nông dân kéo vào thành thị". Nếu không được hạn chế thì sự phá rừng và đốn cây (ngoài vùng rừng) một cách bừa bãi sẽ biến ví dụ như những nguồn nước nhiệt đới của sông Nil thành lũng khô đến ba phần tư trong năm.

Bị trói trong lôgíc của sản xuất như điên cuồng, những nhà tư bản, chính trị gia, người phụ trách kỹ thuật của phong trào phá rừng Amadôn với mục đích canh tác, chăn nuôi, làm công nghiệp còn muốn quên đi cái sự thực này: Một nửa lưu lượng sông Amadôn là do sự tái tạo bởi thuỷ phân từ mây mù của rừng cây trong vùng. Cũng thế, phần lớn các nhà nông học vẫn còn chưa hiểu được vai trò ích lợi của cái cây đứng một mình: nó điều chỉnh những luồng nước, không khí, các hoá chất trong đất, có khả năng lọc nước, không khí và giữ cho đất được phì nhiêu (Garczynski).

Tính hợp lý giả tạo, nghĩa là sự hợp lý hoá trừu tượng và đơn chiều đang thắng thế trên mặt đất. Những sự tập trung ruộng đất vội vã, những luống cầy quá sâu và cắt dọc, sự phá rừng, đốn cây không được kiểm soát, sự trải bê-tông đường và việc đô thị hoá chỉ nhắm vào lợi nhuận của diện tích mặt đất; tính chức năng giả tạo trong quy hoạch không hề biết đến những nhu cầu phi số hoá vốn không thể nhận dạng được bằng những bản điều tra (bảng hỏi - ND). Tất cả những điều này đã làm mọc ra những khu ngoại ô đầy nhà tập thể rẻ tiền, những thành phố vừa xây dựng đã vội trở thành những biệt khu buồn thảm, bẩn thỉu, suy đồi, bỏ mặc, phi nhân và đầy tội phạm.

Kết quả là những tai họa nhân loại đã xẩy ra mà những nạn nhân cùng hậu quả không thể nào lường đưọc. Ngoài ra, những tai họa thiên nhiên càng ngày càng trở nên trầm trọng, như tình huống gần đây ở Vaison-la-Romaine (Pháp-lũ lụt lớn-ND).

Khắp nơi và trong hàng chục năm, những chuyên gia, tin chắc rằng họ đang phấn đấu cho tính hợp lý và tiến bộ, đã chỉ xem những tập tục và lo âu của quần chúng là những mê tín dị đoan. Họ đưa ra những giải pháp mạo xưng là hợp lý và như thế vô tình, đã làm nghèo đi khi vẫn tưởng mình làm cho phong phú thêm, đã tàn phá trong khi tưởng mình đang xây dựng. Những kiệt tác đồ sộ nhất của tính hợp lý kỹ thuật quan liêu này đã được thực hiện tại Liên-xô. Ví dụ tại đây những sông lớn đã bị bẻ dòng chẩy để đem tưới những ruộng trồng bông không cây cối, làm cho muối từ đất đi lên, thổ nhưỡng bị kiềm hoá, nguồn nước ngầm cạn kiệt, đến biển A-ral cũng bị khô. Trình độ sinh thái bị ác hoá này ở Liên-xô so với phương Tây thì nghiêm trọng hơn nhiều, bởi vì ở đó giới quan liêu kỹ thuật không phải chịu áp lực của phản ứng từ những con người, từ các công dân mà dưới mắt họ chỉ là những kẻ dốt nát và đần độn. Nhưng than ôi, sau khi đế quốc sụp đổ, giới lãnh đạo của cái "quốc gia mới" này lại kêu gọi những chuyên gia của các nước tư bản tây phương đến để giúp họ. Những kẻ này lại chủ tâm không biết rằng một nền kinh tế cạnh tranh theo kiểu thị trường cần phải có những thể chế, luật lệ, quy tắc. Đi hàng hai giữa những cải cách kinh tế từng bước nhỏ, không có khả năng biến đổi các cấu trúc, sự khai phóng toàn diện ngay lập tức có thể đưa đến tình cảnh hỗn loạn xã hội.

Những người lãnh đạo mới này đã không thiết lập nổi một chiến lược phức tạp cần thiết như Maurice Allais (Môrítx Ale) - mặc dù là một kinh tế gia trường phái tự do - đã đề nghị: nhằm việc lập kế hoạch để phi kế hoạch hoá những gì đã được kế hoạch hoá và lập chương trình để phi chương trình hoá những gì đã được chương trình hoá.

Trí tuệ bị xé lẻ, giam hãm, máy móc, rời rạc, đơn giản hoá có thể làm tính phức tạp của thế giới vỡ vụn, làm các vấn đề bị chia năm xẻ bẩy, tách rời những gì vốn dính liền nhau, biến thành đơn chiều những gì vốn đa chiều. Đó là một loại trí tuệ cận thị, viễn thị, loạn sắc, chột mắt, thường thường rồi kết cục nó cũng trở thành mù. Nó phá huỷ trong trứng nước tất cả những khả năng lĩnh hội và suy nghĩ, loại trừ tất cả những cơ hội để phán đoán chính xác hay để có một cái nhìn về lâu về dài. Vì thế, khi các vấn đề càng trở thành đa chiều thì con người lại càng thiếu khả năng suy nghĩ một cách đa chiều, khủng hoảng càng phát triển thì sự suy nghĩ về khủng hoảng lại càng bị bỏ lại đằng sau, vấn đề càng trở nên toàn cầu thì càng không ai ngó ngàng đến nó. Không có khả năng tưởng tượng được bối cảnh và tính phức tạp toàn cầu, trí tuệ đui mù chỉ làm cho con người trở thành vô ý thức và vô trách nhiệm. Cái loại trí tuệ này chỉ đưa chúng ta vào cửa tử.

Một trong những khía cạnh của vấn đề toàn cầu là các giải pháp trí tuệ, khoa học, triết học mà người ta thường đem ra dùng lại tự tạo ngay trong chúng những vấn đề trọng đại và khẩn cấp nhất cần được giải quyết như Aurelio Paccei (Ôrêlio Pắcxây) và Daisaku Ikado đã nói: "Phương pháp tiếp cận theo chủ nghĩa rút gọn (réductionnisme) muốn dựa vào một loạt nhân tố duy nhất để giải quyết toàn bộ các vấn đề được đặt ra bởi cuộc khủng hoảng đa dạng mà chúng ta đang lâm vào hiện nay thì không những không phải là một giải pháp mà chính nó là vấn đề vậy".

Cái tư tưởng què quặt tự xưng mình tinh thông và cái lý trí đui mù tự cho mình hợp lý vẫn còn tiếp tục chiếm lĩnh địa vị thống trị.

Phục hồi tính hợp lý để chống sự hợp lý hoá

Cái tư tưởng què quặt và cái trí tuệ đui mù tự cho và tự tin là mình hợp lý. Thật ra, kiểu mẫu mang tính hợp lý mà chúng tuân theo chỉ là thuyết máy móc, thuyết tất định và chúng loại ra ngoài tất cả những mâu thuẫn mà chúng xem là phi lý. Cái mô hình này không phải là hợp lý mà chỉ dùng để hợp lý hoá.

Tính hợp lý thực sự là một cái gì đó rất cởi mở và sẵn sàng đối thoại với cái hiện thực đối kháng với nó. Nó không ngừng đi đi lại lại giữa lôgíc và thực nghiệm, nó là kết quả của sự tranh luận dựa trên tư tưởng chứ không phải là đặc tính của một hệ thống tư tưởng. Cái lý trí mà không biết gì đến những chủ thể, tính chủ quan, tính dễ cảm, cuộc sống chỉ là phi lý.

Cần phải dành một chỗ đứng thích hợp cho thần thoại, tình cảm, tình yêu, sự ăn năn, lại cần phải suy nghĩ về chúng một cách hợp lý. Tính hợp lý thực sự có những giới hạn của lôgíc, của thuyết tất định, thuyết máy móc, nó biết rằng tinh thần con người không thể cái gì cũng thông hiểu, rằng thực tại thì đầy huyền bí. Nó vẫn đàm phán với tính bất hợp lý, cái tối tăm, cái không thể hợp lý hoá được. Nó phải đấu tranh với sự hợp lý hoá tuy có cùng một nguồn gốc với nó, nhưng lại chỉ chất chứa một vài mảnh thực tế trong cái hệ thống chặt chẽ tưởng chừng chứa đựng tất cả. Nó không phải chỉ biết chỉ trích mà còn phải biết tự phê. Người ta nhận biết tính hợp lý thực sự ở khả năng tự biết mình là chưa đủ của nó.

Tính hợp lý không phải là một đặc tính / quyền sở hữu (theo cả hai nghĩa của từ này (3): 1/. Phẩm chất chỉ một vài đầu óc - khoa học, kỹ thuật - có được mà những người khác không có. 2/. Của cải mà những nhà kỹ thuật khoa học là chủ sở hữu)

Để ý thức được những điều này, chúng ta phải rời bỏ ảo tưởng riêng biệt của Tây phương là tin rằng mình làm chủ tính hợp lý và có thói quen phán xét tất cả các nền văn hoá khác trên tiêu chuẩn thành tựu kỹ thuật của mình. Trong tất cả các xã hội, ngay cả cổ sơ, cùng một lúc với những thần thoại, phép phù thuỷ, tôn giáo vẫn có một tính hợp lý trong sự chế tạo các công cụ, trong kỹ xảo săn bắt, sự hiểu biết cây cỏ, súc vật, đất đai. Trong các xã hội hiện đại cũng vẫn thấy hiện diện các thần thoại, ma thuật, tôn giáo, kể cả một thần thoại theo thuyết mệnh trời ngụy trang dưới từ ngữ lý tính và một tôn giáo về sự tiến bộ. Tính hợp lý đầy đủ chính nó không có quan hệ gì với cái lý tính theo thuyết mệnh trời và niềm mê tín dùng để hợp lý hoá sự tiến bộ được bảo đảm. Nó bắt chúng ta suy nghĩ về bản sắc địa cầu của con người trong tất cả tính phức tạp của nó.

Tư duy về bối cảnh và về cái phức tạp

Nếu không có một tư duy có thể kết hợp được những khái niệm rời rạc và những tri thức biệt lập thì không thể nào hiểu được bản sắc con người địa cầu và cái chính trị nhân loại. Những tri thức mới đã giúp chúng ta khám phá ra Quả đất-Quê hương - Quả đất-hệ thống, quả đất thần linh (Terre Gaia), bầu sinh quyển, chỗ đứng của quả đất trong vũ trụ - sẽ không còn ý nghĩa gì nếu chúng bị tách rời khỏi nhau.

Một lần nữa chúng ta cần nhấn mạnh: Quả đất không chỉ là một hành tinh vật lý cộng với một bầu sinh quyển, cộng với một nhân loại mà là một tổng thể phức tạp có tính vật lý / sinh vật / nhân loại, nơi đó sự sống là một sự xuất hiện của lịch sử quả đất và con người là một sự xuất hiện của lịch sử sự sống trên mặt đất. Sự liên hệ của con người với tự nhiên không có thể hiểu được bằng quan niệm thu gọn hoặc riêng rẽ.

Con người, cùng một lúc là một hiện tượng tự nhiên và siêu nhiên, nó cần bắt nguồn từ cái tự nhiên vật lý và sống động, nhưng từ đó lại phải vượt lên trên và khác biệt với tự nhiên bằng văn hoá, tư tưởng, ý thức.

Tư tưởng mà xé lẻ và băm ra thành từng mảnh tất cả những gì vốn là một khối thì tự bản chất nó không thể nhìn thấy được cái phức tạp nhân loại và môi trường toàn cầu. Nhưng không phải chỉ cần phất lên lá cờ của tổng thể là đủ mà cần liên kết những thành phần của tổng thể đó trong một sự sắp xếp có tổ chức phức tạp, phải đặt chính cái tổng thể này vào môi trường của nó. Sự cải tạo tư duy cần thiết là làm sao sinh ra được một tư duy chú trọng đến bối cảnh và tính phức tạp.

Tư duy về bối cảnh

Chúng ta phải từ góc độ toàn cầu mà suy nghĩ về chính trị, kinh tế, dân số, sinh thái, về sự bảo tồn các kho báu sinh vật, sinh thái và văn hoá địa phương - ví dụ ở vùng Amadôn thì cùng một lúc phải bảo tồn những văn hoá Anh-điêng và rừng -, những tính đa dạng của động và thực vật, của văn hoá - kết quả kinh nghiệm hàng nghìn năm không thể tách rời khỏi cái tính đa dạng sinh thái v.v...

Nhưng nếu chỉ đơn thuần ghi tên các sự vật và sự kiện lên trên cái "khung" hoặc cái "chân trời" toàn cầu thì vẫn chưa đủ. Chúng ta phải luôn luôn tìm kiếm cái liên hệ khắng khít, tác dụng ngược lẫn nhau giữa tất cả hiện tượng với bối cảnh của chúng và giữa tất cả bối cảnh với bối cảnh toàn cầu nói chung.

Tư duy về tính phức tạp

Cần có một tư duy đồng thời kết hợp những gì rời rạc và biệt lập, tôn trọng cái đa dạng trong khi thừa nhận tính nhất thể, tìm cách phân biệt những phụ thuộc lẫn nhau.

- Cần có một tư duy hoàn toàn triệt để (thâm nhập đến tận gốc rễ của các vấn đề).

- Cần có một tư duy đa chiều.

- Cần có một tư duy có tính tổ chức và tính hệ thống và vì nó bắt đầu phát triển trong những khoa sinh thái học và địa cầu học, cho nên nó phải được suy nghĩ trong mối liên hệ giữa toàn bộ với các thành phần như sau:

Toàn bộ -----> Bộ phận
l<-----------------l

- Cần một tư duy sinh thái hoá, mà thay vì cô lập hoá một mục tiêu nghiên cứu, nó sẽ xem xét mục tiêu này trong / bởi cái liên hệ tự tổ chức sinh thái với môi trường văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị, tự nhiên của nó

- Cần một tư duy biết đến khoa sinh thái học hành động và phép biện chứng hành động (4) lại có thể thiết kế một chiến lược cho phép cải tổ, thậm chí bãi bỏ một hành động đã tiến hành.

- Cần một tư duy nhận biết sự chưa hoàn thiện của mình và chịu đàm phán với cái còn mơ hồ, nhất là trong hành động, bởi vì chỉ có thể có hành động trong khi chưa có gì được xác định.

- Cần phải biết đương đầu với những vấn đề chứa đựng nhiều điều không chắc chắn và không đoán trước được, phụ thuộc và phản tác dụng lẫn nhau trên bình diện toàn cầu tương đối nhanh (Francesco di Castries) với những gián đoạn, phi tuyến tính, mất cân bằng, những hình thái "hỗn loạn", rẽ hướng.

Cần phải nắm bắt không chỉ tính phức tạp của những phản tương tác, mà còn phải nắm bắt cả đặc điểm của bức ảnh toàn tức khiến cho không chỉ các bộ phận (cá nhân, dân tộc) được thể hiện ở cái toàn bộ (toàn cầu) mà cả cái toàn bộ cũng được thể hiện ở bên trong từng bộ phận. Đây là điều mà chúng ta đã đề cập ở Chương I.

Cái cá biệt sẽ trở thành trừu tượng khi nó bị tách ra khỏi bối cảnh, cô lập khỏi cái toàn bộ mà nó là thành phần. Cái tổng thể sẽ trở thành trừu tượng khi nó chỉ là một toàn bộ bị tách rời khỏi những thành phần của nó. Tư tưởng có tính phức tạp toàn cầu không ngừng đưa chúng ta đi từ những thành phần đến toàn bộ và từ toàn bộ đến các thành phần. Câu nói này của Pascal có thể đem ra áp dụng đúng từng chữ: "Sự việc gì cũng đều có nguyên nhân và kết quả, đều bị động và chủ động, đều gián tiếp và trực tiếp và tất cả đều kết hợp lại bằng một quan hệ tự nhiên không thể cảm thấy được, cái quan hệ này trói buộc những cái xa rời và khác biệt lại với nhau. Tôi cho rằng không thể nào hiểu được những bộ phận mà không cần biết đến cái toàn bộ cũng như không thể nào biết cái toàn bộ mà không đặc biệt biết đến những bộ phận"(5).

Công thức phức tạp của chính trị nhân loại không chỉ tự hạn chế ở cái "tư duy toàn bộ, hành động cục bộ" mà nó có thể được diễn tả bởi sự đi đôi: "Nghĩ toàn bộ / làm cục bộ, nghĩ cục bộ / làm toàn bộ". Cái tư duy toàn cầu sẽ thôi không để cho cái phổ biến và cái cụ thể, cái chung và cái riêng đối kháng với nhau nữa : Cái phổ quát sẽ trở thành cá biệt - đó là thế giới vũ trụ- và trở thành cái cụ thể - đó là thế giới địa cầu.

Sự thất bại của chủ nghĩa phổ quát trừu tượng dưới mắt nhiều người được xem như sự mất đi của cái phổ quát, sự thất bại của một chủ nghĩa hợp lý ngụy tạo dưới mắt những người theo thuyết hợp lý hoá được xem như một sự bột phát của chủ nghĩa phi lý.

Chắc chắn có khủng hoảng về một chủ nghĩa phổ quát tiến bộ trừu tượng (universalisme progressiste abstrait), nhưng, ngay trong tiến trình mà tất cả đều mang kích thước thế giới và tất cả đều nằm trong cái vũ trụ riêng là vũ trụ chúng ta, rốt cuộc tính phổ quát cụ thể sẽ hiện thân.

Khôi phục tư duy

Trong thế giới chuyên ngành đã không còn chỗ đứng chính thức cho tư duy nữa(6). Có những triết gia, những nhà khoa học đang tư duy, có những người không phải là triết gia hoặc nhà khoa học cũng đang tư duy; nhưng tư duy lại có vẻ như là một hoạt động vụng trộm, không chính thức của khoa học và triết học, trong khi đó khoa học và triết học thật ra phải gánh vác công việc suy nghĩ về con người, về cuộc đời, về thế giới, về hiện thực và cái tư duy này đáng lẽ phải ảnh hưởng ngược lại trên ý thức và định hướng sinh hoạt con người.

Đương nhiên, để cải tạo tư duy cần có một sự cải cách giáo dục (ở các cấp tiểu, trung, đại học). Để có thể cải cách giáo đục lại cần thực hiện được sự cải tạo tư duy. Chắc chắn rằng việc dân chủ hoá quyền suy nghĩ trước tiên đòi hỏi một cuộc cách mạng những phạm thức cho phép một tư tưởng phức tạp có thể tổ chức lại kiến thức và liên kết những tri thức đã bị đóng khung trong các môn học hôm nay.

Một lần nữa chúng ta nhận thấy tính khắng khít của các vấn đề, tính tuần hoàn và phụ thuộc lẫn nhau của chúng. Điều này làm cho sự cải tạo tư duy càng trở nên khó khăn và cùng một lúc lại càng trở nên cần thiết, bởi vì chỉ có một tư duy phức tạp mới có thể nhận thức và xử lý được tính tuần hoàn tùy thuộc lẫn nhau này.

Sự cải tạo tư duy là một vấn đề nhân loại và lịch sử then chốt. Nó bao hàm một cuộc cách mạng còn ghê gớm hơn cả cuộc cách mạng của Cô-péc-níc.

Chưa bao giờ trong lịch sử loài người mà những trách nhiệm của tư duy lại đè nặng đến như vậy.

Mà cái tâm điểm của bi kịch cũng nằm trong tư tưởng.

Chú thích:
(1) Cl. Bastien: "Sự so le giữa lôgíc và tri thức", (Le décalage entre logique et connaissance), Courrier du CNRS, 79, Khoa học nhận thức (Sciences Cognitives), 10-1992.
(2) "Ngôn ngữ thực liệu", (La pragmatique linguistique), Courier du CNRS, 79, Khoa học nhận thức. Sách đã dẫn P21

(3) Hai nghĩa chữ une propriété: a)-Bản/phẩm chất, b)-cái gì mà người ta có, sở hữu; quyền sở hữu, tư hữu.

(4) Xem "Những luận chứng cho một phương pháp", Colloque de Cerisy, Ed. du Seuil, 1990.

(5) Tư tưởng(luận), Sách đã dẫn, P91.

(6) Về đặc điểm phức hợp của tư tưởng. Xem E. Morin "Phương pháp luận" Tập 3, "Tri thức của tri thức". Sđd, tr. 182-190