Tháng Hoa Đức Mẹ:


Những việc quen làm

Có ba việc người ta quen làm trong tháng Ðức Mẹ là:
1. Nếu có thể được thì tối nào cũng nên đến nhà thờ làm việc tháng Ðức Mẹ chung với nhau. Vì khi ta nghe giảng, nghe sách nói về quyền phép và lòng từ bi Ðức Mẹ và khi nhìn ngắm ảnh đầy vẻ nhân từ giữa những hoa tươi, nến sáng, thì ta dễ thêm lòng yêu mến Mẹ. Nếu ngăn trở không đến Nhà thờ được thì hãy làm việc tháng Ðức Mẹ ở nhà.

2. Nếu có thể được ta nên dự lễ mọi ngày, có ý cảm tạ Thiên Chúa vì mọi ơn Người đã ban cho Ðức Mẹ.

3. Trong tháng này, ta hãy xưng tội một đôi lần và rước lễ nhiều lần, vì chẳng có việc nào đẹp lòng Ðức Mẹ cho bằng sự xưng tội rước lễ.
Nếu ta chịu khó làm bấy nhiêu việc, thì chẳng những ta sẽ được Ðức Mẹ hộ phù cách riêng mà lại được hưởng nhờ các ân xá Tòa thánh ban cho những ai làm việc tháng Ðức Mẹ.

Lạy Mẹ Maria là Mẹ Chúa Giêsu cùng là Mẹ chúng con. Trong tháng này con cái Mẹ sẽ chạy đến cùng Mẹ cách riêng. Vậy chúng con dốc lòng ca ngợi, cầu xin và yêu mến Mẹ hết lòng, chúng con sẽ dâng cho Mẹ những việc lành, cùng với mọi khổ cực chúng con sẽ chịu trong tháng này, nhất là chúng con dâng trót lòng chúng con để yêu mến Mẹ; xin Mẹ chịu lấy và nhận chúng con làm con cái riêng của Mẹ Amen.

Ngày Mồng Một
Những việc phải làm

Còn nói về những việc phải làm trong tháng này:
Muốn được đẹp lòng Ðức Mẹ và được Người ban nhiều ơn, trong tháng này ta phải yêu mến và cầu xin Người cách riêng. Xưa nay ta đã yêu mến và cầu xin Mẹ, nhưng trong tháng này ta phải yêu mến và cầu xin người siêng năng và sốt sắng hơn mọi khi.

1. Trước hết, ta phải hết lòng yêu mến Mẹ, vì Chúa muốn cho ta yêu mến Người. Vì thế Người chọn Mẹ làm Mẹ Chúa Giêsu, là Chúa cứu chuộc ta, Người đã giao cho Mẹ quyền phân phát mọi ơn cho ta.
Ta phải yêu mến Mẹ, vì Chúa Giêsu và các thánh đã làm gương cho ta. Xưa nay chẳng con nào yêu Mẹ mình bằng Chúa Giêsu yêu mến Mẹ. Không ai kể xiết những việc các thánh đã làm và những khổ cực các thánh chịu để yêu mến và tôn sùng Mẹ.

• Ta phải yêu mến Mẹ vì Mẹ là Mẹ ta. Con thảo hiếu thì yêu mến cha mẹ mình.
• Ta phải yêu mến Mẹ, vì ân phúc Mẹ dư đầy, vì nhân đức Mẹ cao cả, như kinh cầu đã xưng Mẹ là đấng thiên hạ yêu mến.


Sau hết ta phải yêu mến Mẹ, vì các thánh và những đấng nhân đức, những đấng cầm quyền Giáo-hội đều quả quyết rằng: những ai thật lòng yêu mến Mẹ sẽ được rỗi linh hồn. Thánh Ligori nói rằng: "Nếu tôi thật lòng yêu mến Mẹ, thì tôi chắc chắn được lên thiên-đàng".
Muốn thêm lòng yêu mến Mẹ trong tháng này, thì hằng ngày nên cùng nhau đến nhà thờ nghe sách ca tụng quyền thế và lòng từ bi Mẹ.
Nếu ai hiểu rõ quyền thế cao cả và lòng bừ bi vô cùng của Mẹ, sẽ than thở như lời thánh Bê-na-đô rằng: "Ôi! Mẹ cao sang, nhân từ dường ấy, sao tôi chẳng yêu mến Mẹ?"

2. Muốn được đẹp lòng Mẹ và được Người ban nhiều ơn, trong tháng này ta phải hết lòng cầu xin Người.
Xưa thánh Bê-na-đô khuyên các thầy dòng cầu xin Ðức Mẹ rằng: "Anh em hết lòng tin tưởng và khiêm nhường cậy trông Mẹ, thì Mẹ sẽ nghe lời anh em".
Vị thánh ấy tin thật Ðức Mẹ chẳng hề từ chối ban ơn cho ai hết lòng trông cậy cầu xin Người. Thánh Bênađô than thở rằng: "Lạy Mẹ, nếu xưa nay có ai trông cậy cầu xin sự gì mà Mẹ từ chối, thì tôi xin kẻ ấy đừng bao giờ ca ngợi lòng từ bi Mẹ nữa". Nếu những ai cầu xin Mẹ một lần mà còn được Mẹ thương, thì lẽ nào những ai khiêm nhường cậy trông, cầu xin đủ một tháng lại bị Mẹ từ chối.

Vậy ta đừng bỏ dịp Tháng Ðức Mẹ. Hãy sốt sắng cầu xin Mẹ những sự ta thiếu thốn hồn xác. Hãy cầu xin cho cha mẹ, họ hàng, bạn hữu. Hãy cầu xin cho Ðạo Chúa một ngày một cả sáng trong nước ta, cho người ngoại giáo được trở lại, cho kẻ có tội biết đường sám hối, cho các linh-hồn ở luyện-ngục được chóng thoát khỏi khổ hình được về nơi vĩnh phúc.

Nếu xưa nay ta khô khan, không siêng-năng cầu nguyện, thì trong tháng này, ta hãy hết lòng cầu xin, hẳn Ðức Mẹ sẽ ban những sự ta cầu xin. Linh mục Phêrô dạy rằng: Trời đất sẽ qua, nhưng Ðức Mẹ chẳng bao giờ bỏ ai hết lòng trông cậy Người.

Lạy Mẹ Maria, là Mẹ chúng con, chúng con chẳng đáng đến trước mặt Mẹ, song chúng con cũng quyết hết lòng kêu xin Mẹ mọi ngày trong tháng này. Lạy Mẹ từ ái, chúng con cầu xin sự gì thì xin Mẹ ban cho sự ấy. Chúng con dâng việc lành nào, thì xin Mẹ nhận lấy việc ấy. Bây giờ chúng con xin dâng lòng chúng con cho Mẹ, chúng con sẽ yêu mến Mẹ trót đời. Xin Mẹ đừng để chúng con trìu mến những sự hèn hạ thế gian này.

Thánh Tích:
Ở thành Nancêniô, trong nước Pháp, có một gia đình trung lưu. Vợ đạo đức, chồng hiền lành nhưng khô khan. Bà vợ hằng cầu xin Chúa mở lòng cho chồng sửa mình lại, nhưng chồng cứng lòng mãi. Năm ấy, đầu tháng Ðức Mẹ, bà sửa sang bàn thờ để mẹ con làm việc tháng Ðức Mẹ. Chồng trở việc quan, ít khi ở nhà. Dù có ở nhà cũng chẳng bao giờ đọc kinh. Ngày lễ nghỉ không làm việc quan, thì đi chơi suốt ngày. Nhưng khi về, bao giờ cũng kiếm một chùm hoa dâng kính Ðức Mẹ.

Rằm tháng sáu năm ấy ông chết bất thình lình, không kịp gặp Thầy cả. Bà vợ thấy chồng mình chết không kịp ăn mày các phép, sinh buồn phiền. Bà lâm bệnh phải đi điều dưỡng một nơi xa, khi qua làng Ars, bà vào nhà xứ giải bài tâm sự cùng Cha Gioan Vianney, Cha chính xứ nơi ấy.

Cha có tiếng là đạo đức, được mọi người tặng cho Ngài danh hiệu là vị "Thánh sống". Vừa đến nơi, chưa kịp thưa điều gì thì Cha Gioan liền bảo: "Bà đừng lo cho linh hồn chồng bà. Hẳn bà còn nhớ những bông hoa chồng bà vẫn thường dâng cho Ðức Mẹ những ngày lễ cả trong tháng Ðức Mẹ vừa qua".

Nghe Cha Gioan nói, bà hết sức ngạc nhiên, vì chưa hề nói với ai về những bông hoa ấy. Nếu Chúa chẳng soi sáng cho Cha Gioan, lẽ nào cha biết được.
Cha Gioan lại nói tiếp: "Nhờ lời bà cầu nguyện và nhờ việc ông ấy đã làm để tôn kính Ðức Mẹ, thì Chúa đã thương cho ông ấy được ăn năn tội cách trọn trong giờ chết. Ông ấy đã được rỗi linh hồn nhưng còn bị giam ở luyện ngục. Bà hãy cầu nguyện cùng làm việc lành phúc đức cho ông ấy chóng được lên thiên đàng".

Nghe bấy nhiêu lời, bà vui mừng cùng hết lòng đội ơn Ðức Mẹ.
Ta nghe sự tích này, liền hiểu rõ những việc ta làm để tôn kính Ðức Mẹ, dù hết sức nhỏ mọn, cũng được Mẹ trả công bội hậu.
Vậy, vì mấy bông hoa mà người tội lỗi kia, còn được Ðức Mẹ bầu cử cho, phương chi những kẻ hằng ngày dâng lên Mẹ những hoa thiêng liêng, là những kinh nguyện, những việc lành, hẳn sẽ được Mẹ ban nhiều ơn trọng đại.

Ngày Mồng Hai
Đức Mẹ chẳng mắc tội truyền


1. Tổ tông phạm tội, liền truyền tội mình và những hình phạt bởi tội cho con cháu, là cả loài người ta trừ một mình rất thánh Ðức Mẹ. Chúa đã gìn giữ Ðức Mẹ không vướng tội truyền vì Người đã chọn Ðức Mẹ làm Mẹ Chúa Giêsu từ trước vô cùng.
Ta phải vững vàng tin Ðức Mẹ chẳng mắc tội truyền. Ðó là điều phải lẽ xứng đáng xưa nay giáo dân vẫn tin như vậy. Lại nữa, Giáo Hội thay quyền Chúa Giêsu đã buộc ta phải tin điều ấy. Năm 1858, Ðức Mẹ hiện ra ở Lộ-Ðức, đã xưng mình là Ðấng chẳng mắc tội truyền.

Ðức Mẹ chẳng mắc tội truyền, đó là phúc rất trọng, là ơn cao cả, vinh dự cho Ðức Mẹ. Từ trong thai, Ðức Mẹ đã được dư đầy ơn phúc, trọn lành hơn các Thiên thần. Từ trong thai, Người đã được trí khôn ngoan thông thái, Người đầy lòng mến Chúa. Lòng Người công chính và thanh sạch, không hề vương bóng tội.
Linh hồn loài người mới sinh như một thành trì thất thủ hoang tàn. Nhưng linh hồn Ðức Mẹ mới sinh như thành còn nguyên tuyền không bị sức phá phách của thù địch.

Các thánh dạy rằng: những ơn Chúa ban cho linh hồn Mẹ khi còn trong lòng mẹ thì nhiều và trọng hơn các ơn Người ban cho các thiên thần và các thánh. Trong các linh hồn Thiên Chúa dựng nên, đừng kể linh hồn Chúa Giêsu, thì không linh hồn nào trọn vẹn cho bằng linh hồn Ðức Mẹ. Giáo Hội dùng lời kinh thánh để ca tụng Ðức Mẹ rằng: "Ðức Mẹ ở giữa con cái A-dong như bông huệ giữa bụi gai". Quí trọng thay: ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội Chúa đã ban cho Ðức Mẹ.

2. Ðức Mẹ chẳng mắc tội truyền nhưng ta đã mắc tội ấy từ khi còn trong lòng mẹ. Tội ấy lôi chúng ta vào vòng nô lệ ma quỉ, đành chịu mọi hình khổ đời đời, mất phúc làm con Thiên Chúa.
Nhưng nhờ Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chuộc tội thiên hạ và lập phép Rửa tội. Nhờ đó ta được trở nên con cái Chúa, làm em Chúa Giêsu, làm đền thờ Chúa Thánh Thần. Ô! vinh dự dường nào!

Ta có cảm tạ Chúa vì phúc rất trọng ấy không? Ta có còn giữ được ơn rửa tội không? Thảm hại thay! Biết bao lần ta đã phạm tội trọng làm hoen ố chiếc áo trắng ngày chịu phép rửa tội.
Ta hãy xét mình nếu ta còn mắc tội trọng nào, thì trong tháng này hãy đi xưng tội và dốc lòng từ nay về sau thà chết chẳng thà phạm tội.
Ta hãy giữ lòng thanh sạch để xứng đáng làm đền thờ Chúa ngự. Xưa Chúa đã ngự xuống trong lòng Ðức Mẹ, ngày nay Chúa cũng ngự xuống lòng ta khi rước lễ. Thiên Chúa đã dọn lòng Ðức Mẹ thanh sạch thế nào thì ta cũng phải dọn lòng ta thanh sạch như vậy, mới xứng đáng làm đền thờ Chúa ngự.

Lạy Mẹ, Mẹ đã được ơn trọng vô nhiễm tội truyền. Mẹ quí trọng và đã muốn cho chúng con nhắc lại ơn đó. Vậy chúng con quyết định năng xưng ra Ðức Mẹ chẳng mắc tội truyền. Xin Mẹ phù hộ che chở chúng con được dứt bỏ đường tội. Xin Mẹ nâng đỡ chúng con khi sa ngã. Chớ gì lòng chúng con luôn luôn được thanh sạch xứng đáng làm đền thờ Chúa ngự đời đời.

Thánh Tích:
Năm 1858, ở thành Lộ-Ðức bên Pháp, có một cô bé gái 14 tuổi, tên là Bênađêta đi kiếm củi trên rừng. Ðến gần núi cô thấy một người nữ xinh đẹp hiện ra trên cửa hang. Người nữ ấy mặc áo trắng như tuyết, từ vai rủ xuống đến gót chân, chiếc thắt lưng màu xanh, hai múi rủ xuống đằng trước đến mắt cá. Ðầu trùm khăn trắng rủ xuống đến gót chân, tay đeo tràng hạt.

Người nữ ấy đầy vẻ hiền hậu, nhân từ và vô cùng mỹ lệ. Bênađêta sợ hãi. Nhưng khi thấy Bà làm dấu thánh giá, thì Bênađêta quì xuống lần hạt.
Người nữ ấy hiện ra cùng Bênađêta trước sau 18 lần. Lần thứ 16, Bênađêta xin bà ấy tỏ mình là ai, thì bà ấy trả lời; ta là Ðấng chẳng hề mắc tội truyền. Bấy giờ Bênađêta và mọi người mới biết ấy là Ðức Mẹ. Ðức Mẹ truyền cho Bênađêta trình cha xứ Lộ-Ðức xây đền thờ kính Người ở đấy, rước ảnh Người quanh sườn núi và cho một suối nước chảy ra ở hang núi ấy. Bệnh nhân các nơi kéo đến uống và tắm nước ấy đều được khỏi. Hiện nay người các nước đua nhau đến viếng hang đá Lộ-Ðức. Số bệnh nhân được Ðức Mẹ chữa khỏi, vì uống hay tắm nước suối Lộ-Ðức kể rất nhiều.

Ngày Mồng Ba
Tên Cực Trọng Đức Mẹ


Trên trời dưới đất, đừng kể tên Chúa Giêsu, thì chẳng có tên nào trọng, đáng kính và linh ứng cho bằng tên Ðức Mẹ. Thánh Hiêrônymô nói rằng: "Tên Maria chẳng phải cha mẹ hay người thế gian đặt cho Người, nhưng chính Thiên Chúa soi lòng ông thánh Gioan-kim và bà thánh Anna đặt tên ấy cho Mẹ Maria".

1. Maria có nhiều nghĩa:
Maria là Chúa, là Nữ-vương. Kỳ thực nghĩa ấy xứng hợp với Ðức Mẹ, vì Mẹ là Nữ-vương trên trời, các Thiên Thần và các thánh.
Mẹ là Nữ-vương trên trời vì ngày Mẹ lên trời, Chúa đã phong cho Người làm Nữ-vương mọi loài.
Mẹ là Nữ-vương dưới đất, vì Chúa Giêsu là Vua mọi nước thế gian, Ðức Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu thì cũng là Nữ-vương các nước thế-gian. Vả lại trên thế-gian, mọi người đều nhận Ðức Mẹ làm Nữ-vương, và cậy nhờ phó thác trong tay Mẹ.

2. Maria là biển đắng
Nghĩa ấy cũng xứng hợp Ðức Mẹ, vì Mẹ là Mẹ sầu bi, Mẹ đã chịu mọi khổ cực để chung phần cứu chuộc nhân loại. Xưa Adong và Evà đồng tình phạm tội làm hư cả loài người, thì Chúa Giêsu và Ðức Mẹ đã cùng nhau cộng tác trong việc cứu chuộc nhân loại.

3. Maria là sao Bắc-Ðẩu
Sao Bắc-Ðẩu dẫn lối cho kẻ vượt biển về bến. Ðức Mẹ dẫn đưa chúng ta qua biển thế gian về đến thiên đàng.
Ngoài biển, nhờ sao dẫn lối người ta không phải sa chìm siêu bạt. Ngoài biển thế gian, nhờ Mẹ phù giúp, ta được bình an về tới bến.

4. Maria, một tên rất linh ứng
Thánh Phaolô gọi tên Chúa Giêsu là tên cực mầu nhiệm, quyền phép vô cùng. Tên Ðức Mẹ cũng vậy. Nghe tên Maria, các thánh trên trời đều vui mừng, ma quỉ đều khiếp sợ Người, thế gian được cậy trông.
Tên Maria là võ khí hiệu lực, là thuẫn vững chắc, bênh chữa ta khỏi thù địch hãm hại hồn xác. Biết bao kẻ ngoài biển hằng bị phong ba vùi dập, biết bao kẻ hầu bị sa tay thù địch, đã thoát khỏi vì đã tin tưởng kêu tên Maria.

Biết bao kẻ hầu siêu lòng trước những cơn cám dỗ mãnh liệt, đã được thành tâm xám hối, vì đã tin tưởng kêu tên Maria. Trên giường bệnh, trong cơn hấp hối, người ta được mạnh sức cậy trông Chúa, khỏi bị ma quỷ khuấy khuất, vì đã tin tưởng kêu tên Maria.

Lạy Mẹ rất thánh Maria! Tên Mẹ quyền phép linh ứng dường nào! Tên Mẹ có quyền mở cửa thiên đàng hay đóng cửa hỏa ngục lại, tên Mẹ có quyền buộc trói ma quỷ và ban mọi ơn lành cho người thế. Chúng con trách mình vì xưa nay chẳng năng kêu tên cực trọng Mẹ, chúng con quyết cố gắng năng tin tưởng kêu tên Mẹ. Chúng con đã thoát bao cơn nguy hiểm, chúng con đã chống trả được bao chước cám dỗ, chúng con đã tránh được nhiều tội và được nhiều ơn lành xác hồn tất cả vì Mẹ. Chúng con dốc lòng từ nay năng kêu tên Mẹ lúc khỏe mạnh nhất là khi hấp hối trên giường bệnh.

Thánh Tích:
Bên Ý có một cô gái dọc đường giữa một nơi xa vắng, bắt gặp một tên cướp. Tên cướp ấy có tiếng là hung hãn và đã đoạt của cùng giết nhiều người.
Giữa lúc bơ vơ không ai cứu chữa, cô sợ hãi khiếp kinh. Giáp mặt cô, tên cướp bảo rằng: "Cô hãy nghe ta, bằng không ta sẽ giết".

Trong cơn nguy khốn, cô chợt nhớ đến Ðức Me, liền kêu tên cực trọng Maria, cô lạy tên cướp và xin vì Ðức Mẹ mà tha cho mình.
Tên cướp nghe nói đến Maria thì dừng lại, nghĩ một lúc rồi bảo cô ta: "Ðược, vì Ðức Mẹ mà ta tha chết cho cô, nhưng xin cô nhớ cầu cùng Ðức Mẹ cho ta với".
Ta xem tên cực trọng Ðức Mẹ linh ứng dường nào, tên cướp định hãm hại cô gái, nhưng vừa nghe tên cực thánh Ðức Mẹ liền đổi lòng, chẳng những tha cho cô ta, mà lại đưa cô ta qua quãng đường cheo leo ấy nữa

Ngày Mồng Bốn
Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa


1. Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, vì Người đã sinh Ðấng phép tắc vô cùng, dựng nên muôn vật, đã cưu mang Ðấng cao cả, trời đất chứa chẳng hết, đã ẵm bế Ðấng lấy ba ngón tay nâng nổi cả trời đất. Ôi! chức làm Mẹ Thiên Chúa cao trọng dường nào! Thánh Bernadinô quả quyết rằng: "Chức ấy trọng hơn mọi chức, chỉ kém một Thiên Chúa".

Giáo-hội thêm rằng: "Chẳng ai suy thấu chức cao cả của Mẹ Thiên Chúa".
Thánh Tômasô còn quả quyết mạnh hơn khi Ngài nói: "Chức Mẹ Thiên Chúa là một chức vô cùng cao cả, loài người chẳng tìm chức nào trọng hơn. Thiên Chúa dù toàn năng cũng không thể dựng nên chức nào trọng hơn chức ấy".
Thiên Chúa có thể dựng nên trời cao hơn, đất mênh mông hơn, nhưng không thể dựng nên Mẹ cao trọng hơn Ðức Mẹ được. Ðức Mẹ đã hiểu thấu ơn rất trọng đó, nên khi gặp Bà thánh Isave, Người đã ca tụng rằng: "Thiên Chúa toàn năng đã ban cho tôi một chức cao trọng".

Có một Ðức Chúa Cha, Ðức Mẹ và Thánh Cả Giuse được gọi Chúa Giêsu là Con mình mà thôi. Ðức Chúa Cha đã sinh ra Ðức Chúa Con trong trí Người từ trước vô cùng như Ðức Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu ở thế gian. Các thiên thần, các tổ phụ, các tiên tri và mọi vị thánh trên trời đều là tôi tớ của Thiên Chúa. Chỉ mình Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Vì thế ta biết Ðức Mẹ trọng hơn thiên thần và các thánh dường nào. Chức làm Mẹ Thiên Chúa, là nguồn ơn lành Chúa ban cho Ðức Mẹ vì từ trước vô cùng Chúa chọn Người làm Mẹ Chúa Giêsu, đã tách biệt Người ra khỏi con cái Adong, giữ Người khỏi mắc tội truyền, và ban cho Người tràn đầy ân phúc ngay từ khi mới dựng thai trong lòng Mẹ.

Vì Ðức Mẹ là Mẹ Chúa Trời, nên Người toàn vẹn khiết trinh. Vì Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nên Người là Nữ-vương trời đất.

2. Chức Mẹ Thiên Chúa cao trọng dường nào! Vậy ta phải tôn kính Ðức Mẹ cho xứng đáng chức rất cao trọng ấy. Xưa nay ta đã kính trọng Mẹ Chúa thế nào? Ta mang áo hay đeo ảnh Ðức Mẹ, tỏ lòng tôn kính Người chăng? Có vào hội Mân-côi, có siêng năng lần hạt chăng? Những ngày lễ Ðức Mẹ ta có làm việc lành, xưng tội rước lễ, lần hạt và dâng mình cho Ðức Mẹ chăng? Trong những ngày rước tượng Mẹ ngày dâng hoa kính Mẹ, ta có thông công sốt sắng làm những việc ấy không? Ta có ra sức bắt chước các nhân đức của Mẹ, ở khiêm nhường, giữ lòng thanh sạch, hết lòng mến Chúa yêu người chăng?

Nếu chưa bao giờ ta làm những việc ấy, đó là dấu ta chưa đủ lòng yêu mến Mẹ cho xứng chức Mẹ Thiên Chúa.

Lạy Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, chức Mẹ thật cao cả vô cùng quí trọng. trên trời dưới đất trừ Thiên Chúa Ba Ngôi, chẳng có ai trọng hơn Mẹ. Xưa nay chúng con chưa đủ lòng mến yêu Mẹ. Nhưng từ nay chúng con quyết định hết lòng tôn sùng cậy trông Mẹ. Chúng con ra sức bắt chước Mẹ, ở khiêm nhường, giữ lòng sạch sẽ, hết lòng Mến Chúa yêu người. Xin Mẹ cho chúng con thêm lòng mến yêu và noi gương Mẹ đến trọn đời.

Thánh Tích:
Ðức Mẹ là Mẹ Thiên-Chúa, nên ta phải tôn sùng Người cho xứng chức cao trọng ấy. Các thánh dạy: có nhiều khi Chúa dung thứ cho những kẻ phạm đến Chúa, nhưng chẳng dung thứ cho kẻ phạm đến Ðức Mẹ.

Năm 1649, quân đội Ðức chiếm đóng một làng nhỏ bên nước Pháp. Có mấy người lính chơi bời suốt đêm, một trong những người ấy thua bạc tức giận, chửi rủa mọi người. Thấy một ảnh Ðức Mẹ treo trên tường, liền nói nhiều điều phạm đến Ðức Mẹ, rồi xé rách ảnh và giầy đạp dưới chân.

Bỗng chốc nó bị ngã vật xuống, cả thân co quắp đau đớn, vật vã suốt đêm ngày. Ðến ngày thứ 5, quân lính nhổ trại, người ta vực anh ta lên ngựa. Dọc đường anh ta bị ngã, miệng sùi bọt, răng cắn lại, được một lát thì chết khốn nạn. Người ta đều tin thật anh bị Chúa phạt vì đã xúc phạm đến Ðức Mẹ

Ngày Mồng Năm
Đức Mẹ là Mẹ các giáo hữu


Ta thường gọi Ðức Mẹ là Mẹ, nhưng chẳng phải là Mẹ phần xác, mà là Mẹ phần hồn. Ðức Mẹ sinh ta phần hồn cũng như mẹ thế gian sinh ta phần xác.
Tội Adong đã làm cho loài người mất ơn cùng Chúa, mất sự sống linh hồn. Nhờ Ngôi Hai Thiên Chúa, loài người được sống lại về phần linh hồn. Vì thế Chúa Giêsu là Cha thật chúng ta về phần linh hồn. Nếu Chúa Giêsu là Cha thật chúng ta, thì Ðức Mẹ cũng là Mẹ thật chúng ta.

1. Ðức Mẹ là Mẹ các giáo hữu vì xưa Người đã vâng lời Sứ thần truyền, nhận chức làm Mẹ Chúa Giêsu.
Ðược ơn Chúa soi sáng, Ðức Mẹ đã hiểu biết Con mình sinh ra sẽ chịu chết để cứu chuộc loài người. Vì thế Ðức Mẹ vui lòng thưa lại cùng Sứ thần: "Tôi là tôi tớ của Thiên Chúa, tôi xin vâng lời Sứ thần truyền".

Trong chốc lát, Người đã chịu thai Chúa Giêsu, và trong chốc lát, Người trở nên Mẹ Chúa Giêsu, cũng là Mẹ chúng ta về phần hồn. Khác một điều là Ðức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu thật, như cưu mang con; còn chúng ta thì Mẹ cưu mang cách thiêng liêng trong tâm trí Người.

Ðức Mẹ là Mẹ các giáo hữu, vì xưa trên núi thánh, Ðức Mẹ đã dâng Con mình làm của tế lễ Ðức Chúa Cha đền vì tội lỗi loài người.
Ðức Mẹ là Mẹ các giáo hữu, vì xưa lúc Chúa hấp hối trên thánh giá, Ðức Mẹ đã nhận chức làm Mẹ cả loài người.

2. Ðức Mẹ là Mẹ ta, ta là con Ðức Mẹ, còn vinh dự nào hơn! Còn ơn phúc nào hơn! Con phải nên giống Mẹ. Ta đã được phúc làm con Ðức Mẹ, là Mẹ trinh khiết. Là con Ðức Mẹ, ta phải xa lánh thói hư nết xấu, chớ theo tính xác thịt, ăn ở buông tuồng. Là con Ðức Mẹ, ta phải trừ diệt những ước muốn xấu xa, những thèm muốn xác thịt lôi kéo ta vào vòng tội.

Là con Ðức Mẹ, ta phải làm việc lành tôn sùng Ðức Mẹ, hằng kêu xin Người phù hộ che chở ta trong mọi cơn gian nan.
Là con Ðức Mẹ, ta phải hoàn toàn phó linh hồn và xác ta cho Ðức Mẹ, để Mẹ ấp ủ nâng đỡ ta trong mọi bước đường ta đi. Ta phải tin thật rằng chẳng phải những ai kêu van: Lạy Ðức Mẹ, lạy Ðức Mẹ, mà được Người ban ơn đâu. Nhưng chỉ những ai thực lòng sùng kính Mẹ, ăn ở xứng đáng kẻ làm con, mới trông Người ban ơn phù hộ.
Lạy Mẹ nhân lành, Mẹ đã ưng nhận làm Mẹ Chúa Giêsu , cùng dâng Người làm của tế lễ Ðức Chúa Cha đền vì tội thiên hạ, thì như Mẹ sinh ra chúng con phần hồn, và là Mẹ thật loài người chúng con. Lại xưa Chúa Giêsu hấp hối trên thánh giá, cũng đã trối Mẹ làm Mẹ chúng con. Mẹ đã nhận chúng con làm con, đã nâng niu ấp ủ chúng con, đã yêu thương chúng con như Mẹ thế gian yêu thương con mình. Xin Mẹ phù hộ chúng con ăn ở cho xứng đáng kẻ làm con Mẹ.

Thánh Tích:
Năm 389, dân Thessalô nổi ngụy phá tượng vua và giết các quan. Ðược tin ấy. Vua thịnh nộ sai quân giết hết mọi người trong thành ấy. Quan quân của vua đến thành Thessalô, lập mưu cho gọi loa mời dân sự đến xem trò ở chợ. Dân thành kéo đến đông đủ, quân lính liền bổ vây xông vào giết hết mọi người chẳng kỳ nam nữ, già trẻ, tất cả hơn bảy nghìn người. Trong số đó có một lão già với hai con trai giầu có sang trọng. Lính muốn tha cho cả ba cha con, nhưng sợ quan, không dám tha cả, anh ta bảo ông bố rằng: "Trong hai thằng này, ông muốn thằng nào sống thằng nào chết thì nói ngay". Người cha lúng túng chẳng biết trả lời ra sao, vì ông thương cả hai con bằng nhau và ông biết rõ một lời ông nói có thể cứu được con này, nhưng lên án giết con kia. Ông chỉ còn biết ôm hai con mà khóc. Lính tức mình chém cả hai.

Trên núi Calvê, Thiên Chúa cũng nói cùng Ðức Mẹ rằng: "Bà có hai con, con cả là Chúa Giêsu, con thứ hai là loài người. Trong hai con ấy, một con phải chết, vậy bà muốn con nào sống, con nào chết".
Ðức Mẹ tuy đầy lòng yêu Chúa Giêsu nhưng thấy cả loài người hư đi vì tội lỗi, Người bằng lòng để Chúa Giêsu chịu chết cho loài người được sống. Ôi Ðức Mẹ thương loài người chúng ta dường nào! Ðức Mẹ là Mẹ thật chúng ta, phải quyết chí mến yêu Người cho đến trọn đời.

Ta phải tin thật Ðức Mẹ có quyền thế cao cả, vì Người là Mẹ Chúa Giêsu. Lời Người xin hiệu lực hơn các thánh. Người bầu cử cho ai kẻ ấy sẽ được.
Ðức Mẹ có quyền thế, lại giầu lòng từ ái. Một khi Chúa Giêsu ban quyền thế cao cả cho Người, thì một trật ban cho Người giầu lòng từ ái. Tình yêu của Ðức Mẹ đối với con cái Người bao la, hơn mọi tình yêu thế gian, Người yêu con mình hơn các mẹ thế gian.

Thánh Bênađô than thở ràng: "Ai suy thấu lòng Ðức Mẹ yêu thương con cái! Tình Mẹ bao la hơn biển cả! Ðức Mẹ yêu con mọi nơi, mọi thời đại! Người yêu chẳng những con hiền, con thảo, lại yêu cả những đứa con bất trung bất hiếu, những đứa con ngỗ nghịch".

Thánh Anphongsô than thở rằng: "Lạy Mẹ, chớ gì Mẹ biết con đầy lòng mến yêu Mẹ: Mẹ hẳn chẳng yêu thương con bằng con yêu mến Mẹ". Ðức Mẹ hiện đến và quở trách dịu dàng rằng: "Ớ con, sao con nói vậy? Tình Mẹ thương con mênh mông như biển cả, con không thể ví được!"

Ðức Mẹ yêu thương ta đến nỗi bằng lòng hy sinh Con một Người để cứu chuộc ta. Ðó là lẽ để ta hiểu biết lòng Ðức Mẹ thương yêu ta dường nào.
Lạy Mẹ, chúng con tin thật Mẹ có quyền thế lại giàu lòng từ ái. Xưa nay Mẹ chẳng hề từ bỏ con cái Mẹ, chúng con hết thảy là con cái Mẹ.