Chương 15 - Sư Phụ Từ Trần Và Phục Sinh


Không hề quên lời yêu cầu của sư phụ tôi về việc viết lại tiểu sự của đức Lahiri Mahâsaya. Trong thời gian tôi ở Ấn Độ, tôi không bỏ qua cơ hội nào để tiếp xúc với những vị đệ tử của ngài. Tôi ghi chép những tài liệu thu thập được và lập thành những tập hồ sơ dày cộm, tôi kiểm chứng lại các sự việc, ngày tháng, và lượm lặt những hình ảnh, thơ từ cũ cùng nhiều tài liệu văn kiện khác. Những tập hồ sơ quá dầy, và tôi đã nhìn thấy trước với sự e ngại rằng công việc soạn thảo đòi hỏi rất nhiều công phu khó nhọc. Tôi bèn cầu nguyện ơn trên cho tôi đủ sức đảm nhiệm vai trò làm người viết tiểu sử của đức Tôn sư cao cả. Nhiều vị đệ tử e ngại rằng trong một bản văn kiện chép lại, hình ảnh của Tôn Sư có thể bị giảm thiểu hay bóp méo. Một vị để tử nói:

- Ngôn ngữ văn tử không đủ diễn tả cuộc đời của một bậc thánh nhân.

Những đệ tử thân tín khác cũng muốn chôn chặt trong đáy lòng những kỷ niệm về vị Tôn sư của họ. Tuy vậy, trung thành với lời tiên tri của Lahiri Mahâsaya về việc chép tiểu sử của ngài, tôi không từ bỏ một cố gắng nào để thu thập những tài liệu từng chi tiết nhỏ nhặt về cuộc đời của ngài.

Ở Brindaban, tu sĩ Keshahâ tiếp đón chúng tôi một cách nồng hậu tại đạo viện của người, một ngôi đền kiến trúc đồ sộ bằng gạch có vườn hoa rất đẹp chung quanh. Tu sĩ đã gần chín mươi tuổi nhưng vẫn còn tráng kiện đầy đủ sức khỏe. Râu tóc dài và trắng như tuyết, đôi mắt tinh anh vui vẽ, tu sĩ giống như một vị tộc trưởng thời xưa. Tôi cho tu sĩ biết ý định của tôi là sẽ nhắc đến tên người trong một quyển sách mà tôi sắp viết nói về các bậc danh sư Ấn Độ.

- Xin đại đức kể cho nghe vài điều về cuộc đời của ngài.

Tôi cố gây cảm tình, vì những bậc tu sĩ cao niên thường ít khi hay nói chuyện. Tu sĩ có một cử chỉ rất khiêm tốn:

- Đời tôi ít có những sự biến cố thăng trầm. Tôi trải qua phần lớn cuộc đời trong những vùng hẻo lánh trên dãy Tuyết Sơn, và đi bộ từ hang này đến động khác. Tôi có trông nom một đạo viện nhỏ trong một thời gian ở gần Hardwar, giữa những rừng cây to lớn. Đó là một nơi lý tưởng, ít có khách viếng thăm vì vùng ấy có rất nhiều rắn hổ mang.

Tu sĩ nói xong bèn cười.

- Về sau, một trận lụt của sông Hằng làm sụp lở cuộc đất, cuốn trôi mất đi cả đạo viện lẫn cả các ổ rắn. Các đệ tử của tôi mới giúp tôi xây cất đạo viện Brindaban.''

Một người trong nhóm chúng tôi hỏi tu sĩ làm cách nào để khỏi bị cọp trên dãy Tuyết Sơn làm hại. Tu sĩ lắc đầu:

- Người Yogi đạt tới một trình độ tâm linh khá cao không còn sợ bị loài thú dữ làm hại. Có một lần ở giữa rừng tôi tình cờ chạm trán với một con cọp. Tôi bèn kêu lên một tiếng vì ngạc nhiên thì con cọp đứng sựng lại và trở nên bất động như một pho tượng đá!

Tu sĩ Keshabâ lại cười về chuyện kỷ niệm đó.

- Đôi khi tôi cũng rời khỏi chỗ trú ẩn để viếng thăm Sư phụ tôi ở Bénarès. Người thường hay nói đùa về những chuyến đi ta bà của tôi trong những vùng núi non hẻo lánh. Có lần Sư phụ nói với tôi:

- Con có mang ở dưới chân con những ấn chứng của sự phiêu lưu. Thầy cũng mừng vì dãy Tuyết Sơn cũng khá rộng lớn đối với con.

Tu sĩ Keshabâ nói tiếp:

- Có nhiều lần Sư phụ xuất hiện đến với tôi trong thể xác phàm, bằng xương bằng thịt, dù là trước hay sau khi đã từ trần! Đối với Sư phụ không có đỉnh núi cao tột nào mà ngài không thể đến được!

Hai giờ sau, tu sĩ Keshabâ đưa chúng tôi vào phòng ăn. Tôi thốt ra một tiếng thở dài: "Lại một bữa tiệc thịnh soạn sắp dọn ra!" Từ khi trở về Ấn Độ đến nay chưa đầy một năm, tôi đã lên hơn hai chục kilô! Tôi cũng không biết làm sao hơn vì thật là một điều vô lễ mà từ chối những món ăn cao lương mỹ vị được nấu nướng đặc biệt để thết đãi tôi. Ở Ấn Độ, và không một nơi nào khác, than ôi! Lại có sự mâu thuẫn là: Một tu sĩ xuất gia có hình vóc mập mạp, nặng cân, lại được thiên hạ nhìn bằng cặp mắt kính nể!

Sau bữa tiệc, tu sĩ Keshabâ nói riêng với tôi:

- Việc đại đức đến đây không phải là chuyện bất ngờ. Tôi có một thông điệp nhắn với đại đức.

Tôi lấy làm ngạc nhiên vì không ai có thể biết rằng tôi có ý định viếng thăm tu sĩ Keshabâ. Tu sĩ nói tiếp:

- Hồi năm ngoái, tôi đang đi ngao du trên miền bắc dãy Tuyết sơn, gần Badrinarayan. Tôi đi lạc đường và tìm nơi trú ẩn trong một cái động lớn, động ấy hoang vắng, nhưng tôi thấy có một đống than hồng cháy âm ỉ dưới một lớp tro phủ lên trên, trong một lỗ trống dưới đất. Tôi tự hỏi không biết ai là người trong động đá này, tôi bèn ngồi gần bên đống lửa và nhìn về phía cửa hang. Bỗng nhiên có tiếng gọi phía sau lưng tôi:

- Keshabâ, ta rất vui vì con đã đến đây.

Tôi bèn quay đầu nhìn lại, thì lấy làm ngạc nhiên mà thấy đức Babâji! Đức Tôn sư cao cả đã hiện hình ra ở phía sau động đá. Tôi lấy làm hân hạnh mà được gặp ngài trở lại sau bao nhiêu năm xa cách, tôi bèn quỳ lạy dưới chân ngài. Đức Babâji bèn giải thích:

- Ta gọi con đến đây. Bởi đó, con mới đi lạc đường và tìm nơi trú ẩn nơi động đá này, là chỗ tạm thời của ta. Bao nhiêu thời gian đã trôi qua kể từ khi chúng ta gặp nhau lần trước và ta rất vui mà gặp con trở lại.

Tôn sư bất tử ban ân huệ cho tôi và nói thêm:

- Đây là thông điệp mà ta muốn nhắn gửi với Yogânanda, y sẽ đến thăm con khi y trở về Ấn Độ. Y sẽ bận rộn rất nhiều việc liên quan đến Sư Phụ y và những đệ tử còn sống của Lahiri Mahâsaya. Bởi vậy, con hãy nhắn với y rằng ta sẽ không gặp y lần này như y đang nhiệt thành mong ước, mà sẽ gặp y vào một dịp khác.

Tôi lấy làm vô cùng cảm động mà nhận được lời hứa hẹn của đức Babâji do tu sĩ Keshabâ chuyển đạt cho tôi. Sự thất vọng của tôi liền tiêu tan, tôi không còn cảm thấy bâng khuâng vì đức Babâji không xuất hiện tại thánh lễ Kumbha Mela như Sư Phụ tôi đã nói trước.

Nhóm chúng tôi ngủ đêm tại đạo viện để sáng ngày hôm sau lên đường đến Calcutta. Vài ngày sau đó, khi về đến Calcutta, tôi rất buồn mà được biết Sư phụ tôi đã rời khỏi đạo viện Serampore để đi Puri, cách đó độ ba trăm dặm về phía nam.

"Hãy đến Puri ngay lập tức. "Bức điện tín đó do một đệ tử Puri gửi ngày Tám tháng Ba năm ấy cho một đệ tử khác của Sư Phụ ở Calcutta. Khi tôi được biết về bức điện tín đó, hoảng kinh, tôi bèn quỳ xuống cầu nguyện Thượng Đế hãy cứu sống cho Sư phụ tôi. Khi tôi sắp sửa rời khỏi nhà để đi ra ga xe lửa, tôi nghe một tiếng nói từ bên trong nội tâm:

- Con đừng đi Puri chiều nay. Lời cầu nguyện của con không được đáp ứng.

Tôi buồn thảm vô cùng, bèn thốt lên mấy lời:

- Ôi Thượng Đế! Ngài không muốn cho con đi Puri bởi vì Ngài bác bỏ lời cầu nguyện của con xin cho Sư phụ được sống. Nếu vậy, cầu xin Sư phụ con rời khỏi cõi trần này để theo đuổi một định mệnh cao cả hơn, nhân danh Ngài!

Tuân theo mật lịnh từ Chân Ngã của tôi vọng ra, tôi không đi Puri chiều hôm ấy. Chiều hôm sau, tôi đi ra nhà ga. Dọc đường tôi thấy một đám mây đen như mực bao phủ khắp nền trời. Sau đó, trong khi chuyến xe lửa chạy về phía Puri, tôi thấy một linh ảnh Sư phụ đang ngồi, nét mặt nghiêm trọng lạ thường, với một ánh hào quang rất sáng chói bên cạnh người.

- Phải chăng thế là hết?

Tôi vừa hỏi, vừa chắp hai tay lên trong một cử chỉ van lơn.

Sư phụ gật đầy, rồi cái linh ảnh tan biến dần.

Chiều hôm sau, tôi bước lên nhà ga Puri, và chấp nhận việc đã rồi. Thình lình, một người lạ mặt bước đến gần tôi.

- Đại đức biết Tôn sư đã mất hay chưa?

Nói xong, y liền đi ngay, không nói thêm gì nữa. Tôi không hề biết y là ai, và do bởi đâu đã tìm thấy tôi.

Tâm thần bấn loạn, tôi dựa vào tường và hiểu rằng Sư phụ tôi muốn loan báo cho tôi biết tin chẳng lành đó bằng đủ mọi cách. Về đến đạo viện, tôi gần như muốn xỉu. Tiếng nói nội tâm lại như nhắc nhở tôi: "Con hãy bình tĩnh lại, và giữ vững tinh thần."

Tôi bước vào phòng, nơi đó tử thi đã lạnh của Sư phụ đặt ngồi theo tư thế liên hoa, vẫn còn vẻ tươi như hồi còn sống. Ít lâu trước khi từ trần, Sư phụ đã lên cơn sốt, nhưng một ngày trước khi viện tịch, người có vẻ hoàn toàn bình phục. Nhìn thi thể Sư phụ lúc ấy, không ai ngờ rằng người đã mất. Da vẫn mịn màng, bóng láng, nhưng nét mặt biểu lộ rõ sự an khang khôn tả. Sư phụ đã bỏ xác hoàn toàn ý thức vào giờ đã điểm, khi Thượng Đế gọi người trở về.

Tôi kêu trong cơn thất vọng:

- Vị Thánh Sư của tỉnh Bengale không còn nữa!

Ngày Mười tháng Ba, tôi đứng ra điều khiển lễ tống táng. Thi hài Sư phụ được đem mai táng theo nghi lễ cổ truyền của dòng tu Swami. (Theo phong tục Ấn Độ, tục hỏa táng áp dụng cho tất cả mọi người, trừ ra những trường hợp rất hiếm mà những vị tu sĩ, đạo sĩ chân tu đắc Đạo có thể đem mai táng sau khi chết, vì thi thể các vị ấy được coi như đủ tinh luyện bằng ngọn lửa minh triết, không cần phải thiêu xác nữa.) Về sau, các đệ tử khắp nơi ở Ấn Độ đều tề tựu đến Puri để tưởng niệm Sư phụ trong những cuộc lễ bốn mùa hằng năm.

Tôi trở về Calcutta. Hằng ngày tôi bận rộn với nhiều công việc: Thuyết pháp công cộng, lớp giảng Yoga, tiếp quan khách bằng hữu. Tuy vậy, tâm hồn tôi đã mang một vết thương sâu đậm sau khi Sư phụ từ trần, và tôi tự hỏi:

- Bây giờ linh hồn sư phụ thiêng liêng tiêu diêu ở cõi nào?

Câu trả lời không thấy đến, nhưng lý trí của tôi thầm nhủ:

- Sư phụ đã phản bổn hoàn nguyên và hợp nhất với Chân Như Đại Thể của vũ trụ, và đó là điều phúc lạc lớn nhất của người. Từ nay, người sống trong cõi Vô Cùng, là nơi mà sự chết không còn nữa.

Đồng thời, tình cảm của tôi lại than van:

- Từ nay, ngươi sẽ không còn gặp lại Sư phụ tại đạo viện cổ kính ở Serampore nữa. Ngươi sẽ không còn đưa bạn bè đến dưới chân Sư phụ mà nói rằng: "Hãy nhìn xem, đó là bậc thánh sư minh triết của Ấn Độ!"

- Đức krishna!

Linh ảnh huy hoàng của đức Krishna xuất hiện đến với tôi giữa một vầng hào quang sáng chói, khi tôi đang ngồi trong phòng khách sạn ở Bombay. Linh ảnh ấy xuất hiện trước đôi mắt kinh ngạc của tôi ngay trên nóc một ngôi biệt thự lớn ở trước mặt, khi tôi nhìn ra ngoài cửa sổ từng lầu ba.

Hình ảnh thiêng liêng ấy vừa mỉm cười vừa ra dấu như thiện cảm đối với tôi. Tôi đang tự hỏi về cái ý nghĩa của linh ảnh ấy, thì đức Krishna liền biến mất, sau khi đã ban ân huệ cho tôi. Trong lòng phấn khởi nhẹ nhàng, tôi cảm thấy linh ảnh này báo hiệu những biến cố quan trọng sắp tới về phương diện tâm linh.

Nhiều buổi thuyết pháp còn giữ tôi lại ơ Bombay trong ít lâu, sau đó tôi sẽ trở về tỉnh Bengale.

Trong ngày mười Chín tháng Sáu, năm 1936, đúng một tuần sau cơn linh ảnh về đức krishna, tôi đang tham thiền trong gian phòng khách sạn nói trên, thì một ánh sáng huyền ảo kéo tôi khỏi cơn tĩnh tọa. Khắp phòng đều biến thành một cảnh giới hư ảo, ánh sáng mặt trời bỗng nhiên biến thành một thứ ánh sang phi phàm.

Giữa lúc đang say sưa ngây ngất, tôi nhìn thấy Sri Yukteswar xuất hiện trước mắt tôi, bằng xương bằng thịt:

- Hỡi con!

Sư phụ nói với một giọng êm dịu, một nụ cười hiền hòa nở trên gương mặt phúc hậu như thiên thần.

Lần đầu tiên trong đời, tôi không quỳ xuống dưới chân Sư phụ như mọi khi, mà tôi đưa hai tay ôm lấy người cứng. Sự bâng khuâng khắc khoải trong những tháng qua thật không có nghĩa gì so với niềm hạnh phúc vô biên của tôi trong lúc ấy.

- Bạch Sư phụ kính yêu, tại sao Sư phụ đã bỏ con?

Sư vui mừng quá trớn làm cho tôi nói đứt đoạn, rời rạc.

Tại sao Sư phụ lại để cho con đi dự Thánh lễ Kumbha Mela? Con đã tự trách mình một cách cay đắng dường nào vì đã bỏ Sư phụ mà đi!

- Thầy không muốn làm trái ý con khi con đang hy vọng gặp đức Babâji ngay tại chỗ ngài đã xuất hiện đến với Thầy. Thầy chỉ bỏ con trong một lúc ngắn ngủi, phải chăng từ nay Thầy vẫn bên cạnh con mãi mãi!

- Nhưng phải có Sư phụ thật chăng? Phải chăng Sư phụ vẫn mang lấy cái thể xác bằng xương bằng thịt mà con đã chôn dưới lòng đất ơ Puri?

- Phải, con hỡi, đây chính là Thầy. Đây là cái thể xác bằng máu thịt của Thầy. Nó vốn tinh anh và tế nhị đối với nhãn quang siêu đẳng của Thầy, nhưng đối với con, thì nó là một thể xác vật chất. Thầy, đã dùng những nguyên tử của vũ trụ để cấu tạo nên một thể xác hoàn toàn mới, giống như cái thể xác mộng ảo hư giả mà con đã chôn ơ Puri, dưới lòng đất lạnh của một thể xác mộng ảo. Thật vậy, Thầy đã hồi sinh, nhưng không phải trên cõi trần thế, mà trên một cõi giới thanh cao hơn, trên đó những nhân vật đều tiến hóa cao hơn nhân loại ở dưới trần. Con và những người thân yêu của con có ngày cũng sẽ thăng thiên lên cõi ấy và sum họp với Thầy.

Tôi nhìn Sư phụ với lòng kính yêu khôn tả trong khi người nói cho tôi biết trạng thái của con người ở bên kia cửa Tử. Tôi nói:

- Bạch Sư phụ mến yêu, thể xác của Sư phụ bây giờ giống y như cái thể xác mà con đã khóc ơ đạo viện Puri.

- Phải đấy, thể xác mới của Thầy làm một bổn sao đúc y như khuôn khổ thể xác cũ. Thầy có thể tạo nó thành hình hay giải thể nó tan biến đi tùy ý muốn, và có thể làm lại như vậy thường xuyên là ở cõi trần. Khi giải thể, trong chớp mắt Thầy có thể di chuyển với tốc lực của ánh sáng từ bầu hành tinh này tới bầu hành tinh khác, từ cõi giới này đến cõi giới khác.

Sư phụ mỉm cười nói tiếp:

- Tuy con thường di chuyển trong những ngày gần đây, Thầy vẫn tìm lại con dễ dàng tại Bombay!

- Bạch Sư phụ, cái chết của Sư phụ đã làm con đau khổ rất nhiều!

- Ta đã chết thật chăng? Thật là một điều vô lý!

Cặp mắt Sư phụ chiếu lóng lánh tình thương và biểu lộ sự vui vẻ. Người lại nói thêm:

- Cõi thế gian là mộng ảo nên con chỉ nhìn thất cái có thể xác hư ảo của Thầy. Kế đó, con đã chôn cái xác đó, vốn là một vật hư giả mộng ảo. Bây giờ, cái thể xác bằng xương bằng thịt này, mà con đang quan sát và ôm chặt lấy nó, đã hồi sinh trên một cõi giới khác, cũng lại là một điều mộng ảo khác nữa. Một ngày kia, cái thể xác tinh anh này và cái cõi giới của nó, cả hai đều là mộng ảo, cũng tan biến đi mất vì tất cả chỉ là phù hoa giả tạm. Bất cứ ảo mộng nào cuối cùng cũng phải tan vỡ khi ta thức tỉnh. Yogânanda con hỡi, con hãy biết phân biệt điều mộng ảo với điều chân thật!

Cái ý niệm về sự hồi sinh theo triết hệ Védanta đó làm cho tôi thán phục vô cùng. Tôi lấy làm hổ thẹn mà đã khóc Sư phụ ở Puri, khi tôi nhìn thấy cái thể xác bất động của người. Từ nay tôi đã biết rằng Sư phụ vẫn luôn luôn còn sống và thức tỉnh nơi Thượng Đế, đối với người thì kiếp sống vừa qua chỉ là tạm thời, cũng như sự hồi sinh của người trong lúc hiện tại, và tất cả những trạng thái đó đều là những đối tượng trong vòng ảo ảnh của vũ trụ. Sư phụ nói tiếp:

- Bây giờ, Yogânanda con hỡi, con đã biết sự thật về sự sinh tử, và hồi sinh của Thầy. Từ nay con đừng khóc than vì Thầy nữa, mà hãy báo tin về sự phục sinh của Thầy cho mọi người biết. Chừng đó, niềm hy vọng sẽ nhen nhúm trở lại trong lòng thế gian đau khổ, còn mê muội trong vòng vô minh hắc ám, mà sự chết vẫn thường làm cho họ sợ sệt!

- Bạch Sư phụ, con sẽ hứng khởi xiết bao mà chia sẽ với toàn thể thế gian cái niềm vui về sự phục sinh đó!

Sri Yuteswar còn nói cho tôi biết nhiều điều huyền bí khác nữa mà tôi không thể tiết lộ nơi đây. Trong khoảng hai tiếng đồng hồ người xuất hiện đến với tôi trong phòng khách sạn tại Bombay, người đã trả lời hết tất cả những câu hỏi của tôi. Nhiều lời tiên tri về tình hình thế giới đã được thực hiện.

- Bây giờ, hỡi con yêu quý, Thầy phải từ giã con!

Tôi cảm thất Sư phụ từ từ thoát khỏi cái vòng tay ôm chặt của tôi. Giọng nói của Sư phụ vang rền, gây nên một tiếng vọng lại từ trong nội tâm của tôi.

- Mỗi khi con đắm chìm trong cơn đại định, nhập thiền, và con kêu đến Thầy, Thầy sẽ ở bên cạnh con bằng sương bằng thịt, cũng như hôm nay!

Vừa nói dứt lời hứa hẹn thiêng liêng đó, Sư phụ đã biến mất.

Sự buồn thảm vì chia ly nay đã tiêu tan. Sự đau xót. bi thương vì cái chết của Sư phụ, nó làm cho tôi mất sự bằng an trong nội tâm, từ nay không còn nữa. Một niềm phúc lạc triền miên không dứt, tràn ngập hồn tôi làm cho tôi say sưa ngây ngất. Những tư tưởng và cảm nghĩ trong lành, tinh khiết nhất vẫn làm trong tiềm thức của tôi, nay đã có dịp thức động và buộc khởi trở lại do cuộc viếng thăm huyền diệu của Sư phụ.

Trong chương này, tôi tuân lịnh Sư phụ để loan báo cho người thế gian biết cái tin về sự hồi của người, dẫu rằng việc ấy sẽ gặp phải sự thờ ơ lãnh đạm của thế hệ duy, không tin tưởng. Tuy nhiên, bản tính con người vốn không phải là thấp hèn, sa đọa. Trong tương lai sẽ có lúc một sự cố gắng vận dụng ý chí cũng đủ gây cho con người một sự thức động tâm linh, và cứu cánh sẽ thúc đẩy y bước vào đường giải thoát.