Chương 10 - Đời Người Khắc Trên Tinh Tú


Những mái bầu trên các ngọn tháp chói rạng và phản chiếu ánh nắng mặt trời ban mai, những người hành hương xuống tắm gội dưới sông nô đùa vui vẻ, và cảnh tượng tưng bừng rực rỡ đầy màu sắc phương Đông của thành phố Ba Nại La trên bờ sông Hằng linh thiêng diễn ra trước mắt tôi. Tôi ngồi trên một chiếc thuyền lớn, cái lái thuyền chạm hình đầu rắn hổ mang, thả trôi theo dòng sông, do ba người chèo.

Người bạn đồng hành ngồi kế bên tôi là một thương gia ở Bombay. Y cho tôi biết rằng y có ý định giải nghệ về hưu khi y trở về thành phố này. Y là một người rất mộ đạo nhưng cũng là một người rất thực tế. Trong khi y lo lập công bồi đức để tạo một kho tàng tâm linh quý báu, thì tạm thời y cũng không quên dự trữ một số tiền lớn trong ngân hàng. Tôi được biết y từ một tuần nay và nhận thấy rằng y là một người tốt bụng và tánh tình cởi mở. Y giải thích cho tôi nghe:

- Tôi sẽ về hưu đúng vào năm mà Sudhei Babu đã tiên đoán cho tôi biết.

Tôi hỏi:

- Sudhei Babu là ai vậy?

- Ông không biết sao? Y là một nhà Chiêm Tinh giỏi nhất của thành Ba Nại La.

- Có thế thôi à?

Tôi nói với một giọng châm biếm. Vì tôi đã từng thấy hạng người thầy bói ngồi xổm trên lề đường ở khu Maidan tại Bombay, trong những lều quán ở Calcutta, và đón khách qua đường ở những thành phố nhỏ. Phần nhiều là những người có vẻ bẩn thỉu, đầu tóc rối nùi, gương mặt họ lộ vẻ ngu xuẩn và mê tín. Đồ nghề của họ gồm có một vài quyển sách bói cáu bẩn và một cuốn niên lịch chứa đầy những dấu hiệu bí mật, khó hiểu. Họ tự hào là có thể biết rõ và định đoạt vận mệnh sang hèn của người khác, nhưng dường như không nhận thấy rằng họ lại không định đoạt được vận mạng của chính mình.

Tôi nói thêm, với cái giọng của người biết chuyện và khuyên răn kẻ khác:

- Ông làm tôi ngạc nhiên. Một thương gia tại sao lại phó mặc cho các bầu tinh tú điều khiển công việc kinh doanh của mình? Sao lại không dùng cái trí óc suy xét, phân biện, chẳng là hay hơn sao?

Người bạn tôi lắc đầu và mỉm cười một cách khoan dung:

- Nếu vậy, làm sao giải thích được những gì ông ta đã tiên đoán về tôi? Làm sao ông ta có thể biết trước rằng tôi sẽ giải nghệ về hưu vào năm bốn mươi mốt tuổi?

- Có lẽ đó là do sự tình cờ.

- Được rồi, nhưng để cho tôi kể cho ông nghe một chuyện. Mấy năm về trước, tôi gặp một nhà Chiêm Tinh ở Lahore và mở một cuộc kinh doanh theo lời khuyên của ông ta. Hồi đó tôi đang chung vốn với một người khác, nhưng người này cho rằng công cuộc kinh doanh quá mạo hiểm, y không chịu hùn và rút vốn lại. Tôi tiếp tục kinh doanh lấy một mình, việc này thành công bất ngờ và đem lại cho tôi một số tiền lời rất lớn. Tuy vậy, nếu không có lời khuyên của nhà Chiêm Tinh ở Lahore, thì có lẽ tôi đã không dám mạo hiểm lãnh lấy công việc đó.

- Như vậy, ông cho rằng...

Người bạn tôi liền nói luôn hết câu thế cho tôi:

- Đời người là do số mạng định đoạt, mà số mạng của mỗi người, giàu hay nghèo, sang hay hèn, hay hay dở, đều được chỉ định trước bởi vị trí của các ngôi sao.

Tôi nói với một giọng hoài nghi:

- Nhưng các tay thầy bói mà tôi đã gặp đều là những kẻ dốt nát và ngu xuẩn đến nỗi tôi không thể nào tin được những lời bói toán và tiên tri của họ.

- Có lẽ, nhưng ông đừng lầm một nhà Chiêm Tinh lành nghề và xuất sắc như Sudhei Babu với những tay thầy bói kiếm cơm. Ông đã gặp phải những tay bịp bợm rồi. Còn đây là một người Bà La Môn thượng lưu trí thức, y ở riêng một cái biệt thự hẳn hòi. Y đã từng khảo cứu công phu về khoa này từ nhiều năm nay và có nhiều bộ sách rất cổ xưa và rất hiếm.

Dầu sao người bạn đồng hành của tôi cũng không phải là một người ngu. Y thuộc về hạng người Ấn Độ tân tiến, có óc thực tế, và biết sử dụng những phát minh khoa học mới mẻ nhất của Âu Tây. Y còn cấp tiến hơn tôi ở một vài điểm: Y mang theo lên thuyền một cái máy quay phim chớp bóng rất đẹp, còn tôi chỉ có một cái máy chụp ảnh Kodak bỏ túi. Tên gia nhân của y cầm một cái bình thủy Thermos rót ra cho chúng tôi những ly nước cam mát rượi uống giải khát, làm cho tôi nhớ lại rằng tôi đã quên đem theo một vật dụng rất cần thiết trong khi đi đường. Trong khi nói chuyện, tôi được biết rằng ở Bombay, y thường dùng máy điện thoại nhiều hơn tôi khi còn ở Âu Châu. Tuy thế, y lại tin tưởng nơi khoa Chiêm Tinh, tôi lấy làm ngạc nhiên về những điểm trái ngược và dị đồng trong tâm tính của y. Tôi nói:

- Chúng ta hãy tìnm hiểu nhau. Ông bạn tin rằng cuộc đời của mỗi người và mỗi cuộc diễn biến trên thế giới đều được định đoạt bởi các bầu tinh tú, cách xa Trái Đất hằng muôn triệu dặm hay sao?

- Phải, tôi tin như vậy. Y trả lời một cách bình thản.

Tôi nhún vai và không biết nói sao. Y nói tiếp:

- Sao ông bạn không đi xem thử một lần cho biết? Tục ngữ xứ ông có câu: "Muốn biết bánh ngon hay không, hãy nếm thử." Ông bạn hãy thử nghe lời tiên tri của Sudhei Babu một lần xem nào, chính tôi cũng không tin những anh thầy bói nói dựa, nhưng tôi hoàn toàn tin tưởng nơi tài tiên tri của ông này.

- Tôi rất nghi ngờ những kẻ sống về nghề bói toán hay tướng số. Tuy nhiên, tôi nghe theo lời ông. Vậy ông có vui lòng đưa tôi tới gặp nhà Chiêm Tinh này chăng?

- Tự nhiên là tôi vui lòng. Vậy mời ông bạn tới dùng trà với tôi chiều mai, rồi chúng ta sẽ cùng đi.

Chúng tôi cho thuyền đi từ từ trên dòng sông. Trên bờ, những tòa lâu đài, dinh thự, đền chùa nối tiếp nhau diễn ra trước mắt chúng tôi. Tôi nhìn xem những bực đá dọc theo bờ sông, đầy những người hành hương xuống tắm gội, nhưng trí óc tôi vẫn vơ ở chỗ khác. Tôi nghĩ rằng nếu khoa học có thể tự hào đã loại trừ sự dị đoan mê tín, thì một mặt khác, nó cũng không ngăn cấm sự tìm tòi tọc mạch để tìm hiểu mọi vấn đề. Nếu ông bạn tôi có thể đưa ra những bằng chứng cụ thể về sự thật của khoa lý số, nó làm cho phần đông người Ấn Độ tin tưởng ở định mệnh, thì tôi sẽ nghiên cứu vấn đề này với một tinh thần cởi mở và không thành kiến.

Qua ngày hôm sau, ông bạn của tôi đưa tôi đến một con đường cũ kỹ, chật hẹp, đi xuyên qua hai dãy nhà nóc bằng. Chúng tôi ngừng trước một ngôi nhà cổ xưa xây bằng đá. Y đưa đường cho tôi đi qua một hàng lang tối tăm và thấp, kế đó chúng tôi lên nhiều nấc thang bằng đá, thang này rất nhỏ hẹp, chỉ vừa một người đi lọt. Chúng tôi đi qua một gian phòng nhỏ và kế đó, đến một hàng ba của một cái sân rộng ở chính giữa, ngôi biệt thự xây chung quanh.

Một con chó lớn sủa dữ dội khi nó nhìn thấy chúng tôi đến gần. Những chậu kiểng sắp thành hàng dọc theo hàng ba. Tôi tự hỏi phải chăng nhà Chiêm Tinh chơi kiểng để giải trí sau những giờ phút khảo cứu mệt nhọc về khoa lý số của ông ta?

Ông bạn tôi cất tiếng gọi vào trong nhà, và chỉ được đáp lại bằng những âm hưởng do những vách tường cũ dội lại tiếng gọi của y. Chúng tôi đợi thêm vài phút. Con chó lại càng sủa dữ dội hơn trước, trong nhà vẫn im lặng dường như một cái nhà hoang vô chủ. Tôi bắt đầu nghĩ rằng chuyến đi hôm nay chắc là vô ích thì nghe có tiếng chân người từ trên thang lầu bước xuống và tiến về phía cửa phòng chúng tôi.

Một người mảnh khảnh, một tay cầm cái đèn cầy và một tay cầm xâu chìa khóa, hiện ra trên ngưỡng cửa. Sau vài câu chuyện trao đổi qua lại trong bóng tối, nhà Chiêm Tinh lấy xâu chìa khóa mở một cánh cửa khác và chúng tôi cùng bước vào. Y lấy tay kéo hai tấm màn lớn và mở một cái cửa sổ ngó ra sân.

Ánh sáng rọi qua cửa sổ chiếu vào gương mặt của nhà Chiêm Tinh. Đó là một người có cái gương mặt xanh xao, thiếu máu dường như là người ở dưới nấm mồ mới chui lên, chỉ có cặp mắt chiếu sáng ngời, phản ảnh một đời sống nội tâm dồi dào. Cái hình dáng như xác chết, sự gầy ốm khác thường, những cử chỉ rất mực chậm chạp của y, gây nên một cái ấn tượng rất lạ lùng cho người chung quanh. Tròng trắng của y lại nhiều hơn tròng đen, điều này lại càng làm nổi bật thêm cái ấn tượng nói trên một cách rõ rệt.

Nhà Chiêm Tinh ngồi bên một cái bàn lớn, trên bàn tay có rất nhiều tờ giấy. Y nói tiếng Anh khá, và bằng lòng nói chuyện ngay với tôi mà không cần một người thông ngôn. Tôi nói ngay vào đề:

- Xin ông hiểu cho, tôi chỉ là một người sưu tầm, chứ không phải là người tin về khoa này.

- Được, tôi sẽ lấy lá số cho ông và ông sẽ cho tôi biết là có đúng không.

- Tôi phải trả ông bao nhiêu?

- Tôi không có giá nhất định. Những người có địa vị khá thường trả tôi sáu chục rupee. Những người khác trả tôi hai chục. Cái đó tùy ông.

Tôi nói cho y biết rằng trước khi nói đến vận mạng tương lai, tôi muốn y nói cái dĩ vãng để thử tài y. Y bằng lòng. Trong một lúc, y ngồi tính toán rất tỉ mỉ về ngày sinh của tôi, sau vài phút, y day lại phía sau ghế của y và lục trong giấy tờ và những tài liệu chép bằng bút tự trên lá buông đã trổ màu vàng. Sau cùng, y lấy ra một mớ là buông nhỏ, tròn dài và rất cũ, đã đóng lại hình như một quyển sách và vẽ trên một tờ giấy một bức đồ hình rất lạ:

- Đây là bản đồ các tinh tú trên trời vào đúng giờ sinh của ông. Và những tài liệu chữ Phạn này giải thích ý nghĩa của mỗi phần trong lá số. Bây giờ tôi sẽ cho ông biết các tinh tú nói gì về ông.

Y xem lá số lại rất kỹ, tra cứu tài liệu trong quyển sách lá buông chép bằng bút tự và nói bằng một giọng trầm trầm:

- Ông là một nhà văn từ Châu Âu đến. Có phải chăng?

Tôi gật đầu. Y nói tiếp theo về thuở thiếu thời của tôi và kể thêm vài sự việc quan trọng đã xảy ra trong thời kỳ đó. Trong tất cả bảy điều quan trọng có năm điều đúng, còn hai điều kia hoàn toàn sai.

Như thế, tôi đã có thể xét giá trị của y tới đâu, còn nói về sự thành thật của y thì điều đó đã hiển nhiên, tôi dám chắc rằng y không bao giờ có ý lừa dối ai cả. Một cuộc thí nghiệm đầu tiên với một kết quả mỹ mãn đến bảy mươi lăm phần trăm cũng đủ để kết luận rằng khoa Chiêm Tinh Ấn Độ đáng được người ta sưu tầm, nhưng nó cũng chỉ rằng đó không phải là một khoa học hoàn toàn đúng đắn.

Một lần nữa, Sudhei Babu lại lục trong đống giấy tờ rải rác của y và miêu tả tánh tình của tôi một cách khá đúng. Kế đó, y nói về những khả năng trí thức của tôi nó đã giúp cho tôi theo đuổi nghề văn. Đến đây, y ngẩng đầu lên và hỏi:

- Tôi nói có đúng không?

Tôi phải biểu đồng tình và không thể chối cãi những lời đoán số của y. Y lại nhìn vào lá số và nói về tương lai:

- Thế giới sẽ là nhà của ông. Ông sẽ đi du lịch khắp nơi, luôn luôn với cây bút trong tay, và sống với nghề nghiệp văn chương.

Y nói luôn một hồi về những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Nhưng tôi không hề xét đoán những lời này, và hãy để đó, để chờ thời gian xác nhận những điều đã được... Viết trên tinh tú.

Sau khi đã nói xong, y lại hỏi tôi rằng có được hài lòng hay chăng? Những lời y đoán khá đúng về dĩ vãng và tánh tình của tôi đã làm cho tôi định thốt ra trước khi đến đây. Tôi tự hỏi: "Phải chăng y chỉ nói càn, cầu may mà thôi? Phải chăng y không làm gì khác hơn là phỏng đoán, rồi cứ nói bừa đi." Nhưng tôi phải thú nhận rằng những lời tiên tri của y đã làm cho tôi ngạc nhiên, tuy thế, chỉ có thời gian mới có thể xác nhận những điều đó.

Còn cái thái độ hoài nghi của tôi đối với vấn đề định mệnh, phải chăng lần này nó sẽ sụp đổ dưới chân tôi như một cái lâu đài bằng cát? Tôi có thể nói gì về vấn đề này? Tôi bước đến gần cửa sổ, đứng nhìn ra ngoài một lúc để tìm những câu hỏi mà tôi có thể chất vấn nhà Chiêm Tinh, nhưng y đã nói trước:

- Hay là ông cho rằng các bầu tinh tú ở cách xa Trái Đất bằng một quãng không gian khá lớn, nên không thể có ảnh hưởng gì đối với chúng ta chăng? Nếu vậy, làm sao có thể giải thích ảnh hưởng của Mặt Trăng đối với nước thủy triều lên xuống, ảnh hưởng của mỗi chu kỳ Mặt Trăng đối với cơ thể của người đàn bà, và phải chăng ánh nắng Mặt trời nhiều hay ít cũng ảnh hưởng đến tình cảm vui buồn của con người?

- Đúng vậy, nhưng bấy nhiêu đó cũng chưa đủ để chứng minh cho khoa lý số. Nếu tôi có bị đắm tàu chết đuối hay không, thì việc ấy có ăn thua gì đến Mộc Tinh hay Hỏa Tinh.

Y nhìn tôi với một vẻ mặt thản nhiên:

- Tốt hơn là ông hãy xem các bầu tinh tú như là những biểu tượng ở trên Trời mà thôi, không phải tinh tú có ảnh hưởng gì đến chúng ta, nhưng chính cái dĩ vãng của chúng ta nó ảnh hưởng đến chúng ta vậy. Ông sẽ không bao giờ hiểu các bí quyết của khoa Chiêm Tinh, nếu ông không chấp nhận thuyết Luân Hồi, theo đó con người tái sinh trở đi trở lại nhiều kiếp ở cõi trần và định mệnh của y theo dõi y trong mỗi kiếp. Nếu y thoát khỏi hậu quả của những ác nghiệp của y trong một kiếp, những nghiệp báo đó sẽ theo dõi y trong một kiếp sau; và nếu y không hưởng được phước lành do kết quả của những nghiệp thiện của y trong một kiếp này thì chắc chắn y sẽ gặt hái những kết quả tốt lành đó trong một kiếp khác. Nếu không có định luật Luân Hồi khiến cho linh hồn con người luôn luôn tái sinh trở lại cõi trần để học hỏi kinh nghiệm và tiến hóa cho đến khi trở nên toàn thiện, thì những điều họa phúc xảy đến trong đời người có vẻ dường như là do sự ngẫu nhiên, tình cờ. Một đấng Thượng Đế rất mực công bình và bác ái làm sao có thể dung túng được điều đó? Không bao giờ. Chúng tôi tin rằng khi một người qua đời, thì tánh tình, dục vọng, tư tưởng và ý chí của y vẫn tồn tại cho đến khi y tái sinh trở lại và khoác lấy một thể xác mới của một đứa hài nhi. Những hành vi thiện và ác của y đã gây ra trong kiếp trước sẽ được đền bồi, thưởng phạt trong kiếp hiện tại hay trong những kiếp sau. Đó là sự giải thích của chúng tôi về ý nghĩa của chữ định mệnh.

Khi tôi nói rằng có ngày ông sẽ bị đắm tàu và suýt bị chết đuối, thì đó là cái định mệnh mà Thượng Đế, do định luật công bằng ẩn vi và huyền diệu của Ngài, đã dành cho ông đã gây ra trong một kiếp quá khứ. Không phải là những bầu hành tinh nó làm cho ông bị đắm tàu mà chính là hậu quả không thể tránh khỏi của những việc làm ác trong dĩ vãng. Những bầu tinh tú chỉ có cái tác dụng là ghi nhận này thì điều đó tôi không thể nói được. Không có một người nào có thể dùng cái trí phàm của mình để phát minh ra khoa Chiêm Tinh bao giờ. Khoa này được truyền lại cho chúng ta đã từ lâu, do các đấng Thánh Nhân thời cổ tiết lộ cho nhân loại được biết về định mệnh của đời người.

Tôi ngồi nghe những lời nói hữu lý của nhà Chiêm Tinh, mà không biết phải đối đáp ra sao. Theo y thì đời người thật là nối liền với định mệnh, nhưng có một người Âu nào với một khối óc sáng suốt lành mạnh lại chịu để cho cuộc đời của y hoàn toàn lệ thuộc ở định mệnh mà không sử dụng được cái quyền tự do ý chí của mình? Tôi ngạc nhiên mà nhìn nhà Chiêm Tinh gầy gò, lả lướt và khổ hạnh này, y ngồi tính toán tới lui qua lại trong các cung Hoàng Đạo một cách tự nhiên và quen thuộc như đi trong nhà của y. Tôi nói:

- Chắc ông cũng biết rằng ở vài vùng dưới miền Nam, các nhà Chiêm Tinh đứng vào hàng quan trọng bực nhì sau các vị Tăng Lữ, và không có một việc làm quan trọng nào được bắt đầu thực hiện mà người ta không dọ hỏi trước ý kiến của nhà Chiêm Tinh. Những người Âu Tây chúng tôi sẽ mỉm cười về điều đó, vì chúng tôi không hề tin tưởng nơi sự bói toán hoặc tiên tri. Chúng tôi chỉ tin rằng con người vốn hoàn toàn tự do chứ không phải là những nạn nhân tuyệt vọng của một cái định mệnh bất di dịch.

Nhà Chiêm Tinh nhún vai mà nói:

- Trong một bộ sách cổ của chúng tôi là sách Hitopadesa có nói rằng: "Không ai có thể chống lại số mạng, nó đã ghi sẵn trên trán của mỗi người." Chúng ta phải gánh chịu hậu quả của mọi việc làm của chúng ta.

Tôi vẫn lộ vẻ hoài nghi. Nhà tiên tri bỏ ghế đứng dậy. Tôi hiểu ý và liền kiếu từ. Y nói nhỏ dường như nói thầm một mình:

- Tất cả đều ở trong tay của Thượng Đế. Không một ai thoát khỏi tay Ngài. Có ai là người hoàn toàn tự do? Dầu cho đi tận chân trời góc bể, chỗ nào mà không có Ngài?

Đến ngưỡng cửa, y nói thêm một cách ngập ngừng:

- Nếu ông muốn trở lại đây lần nữa, chúng ta có thể nói chuyện thêm về vấn đề này.

Tôi cám ơn và bằng lòng nhận lời mời của y. Y liền đáp:

- Được. Tôi sẽ đợi ông chiều mai vào khoảng sáu giờ.

Chiều hôm sau, tôi lại đến nhà của Sudhei Babu. Tôi không có ý nhắm mắt nghe theo tất cả những gì y nói với tôi, nhưng tôi cũng không có lý do để bác bỏ tất cả. Tôi đến để nghe, có thể là để học hỏi, nếu những lời nói của y có thể chứng minh được rõ ràng. Tôi không từ chối một kinh nghiệm, nếu tôi nhận thấy rằng nó có đủ lý do vững chắc. Lá số mà Sudhei Babu lấy cho tôi đã đủ thuyết phục được tôi rằng khoa Chiêm Tinh Ấn Độ không phải là một điều dị đoan, và nó đáng được cho ta khảo cứu và sưu tầm cặn kẽ. Cái thái độ của tôi tạm thời là như thế.

Chúng tôi ngồi ngang nhau nơi bàn viết của y. Một ngọn đèn dầu chiếu ánh sáng lờ mờ trong gian phòng. Hằng triệu gia đình ở Ấn Độ hiện thời vẫn còn thắp đèn dầu trong nhà ban đêm. Nhà Chiêm Tinh nói với tôi:

- Nhà tôi có tất cả mười bốn buồng, tất cả đều chứa đầy những sách cổ chép bằng bút tự, phần nhiều bằng chữ Phạn. Đó là lý do vì sao tôi cần dùng một ngôi biệt thự lớn, mặc dầu tôi chỉ sống có một mình. Mời ông hãy xem kho sách của tôi.

Y cầm cái đèn treo trên vách và đưa tôi vào một phòng kế bên. Những tủ lớn được sắp thành hàng chung quanh những vách tường. Tôi nhìn xem một tủ thì thấy chứa đầy những sách và giấy tờ. Trên sàn gạch cũng bày la liệt những giấy má, những bộ sách cổ mà bìa đã trổ màu vàng. Tôi cầm lên một bó lá buông nhỏ, mỗi tờ đều viết đầy những chữ khó hiểu và đã phai màu. Chúng tôi đi từ buồng này sang buồng khác và buồng nào cũng đầy những tủ sách giống như nhau. Kho sách của nhà Chiêm Tinh có vẻ như ở trong một tình trạng hỗn độn, thiếu trật tự, nhưng y cho tôi biết rằng y đã quen thuộc với mỗi quyển sách và mỗi tài liệu và biết chúng nằm ở đâu mỗi khi y cần đến. Tôi có cảm tưởng rằng tất cả kho tàng minh triết của Ấn Độ đều tập trung trong ngôi nhà này. Sau khi đã xem khắp các buồng sách, chúng tôi trở về chỗ cũ. Nhà Chiêm Tinh nói cho tôi biết:

- Tất cả gia tài sản nghiệp của tôi đều tiêu dùng để mua những bộ sách và lá buông bút tự này. Nhiều bộ sách trong đó rất hiếm và mua rất đắt tiền. Vì thế mà bây giờ tôi mới nghèo như thế này.

- Sách đó nói về những vấn đề gì?

- Đó là những sách nói về các vấn đề Đạo Lý và Minh Triết cổ truyền, và có nhiều quyển nói về khoa Chiêm Tinh.

- Nếu vậy, ông cũng là một nhà Triết Học?

Y mỉm cười đáp:

- Một người không hiểu về Triết Lý sẽ là một nhà Chiêm Tinh hạng tồi, hay chỉ là một anh thầy bói hạ cấp.

- Xin ông thứ lỗi cho, tôi thấy ông có vẻ mệt mỏi vì đọc sách nhiều quá. Tôi đã ngạc nhiên vì sắc mặt nhợt nhạt của ông khi tôi đến đây lần đầu.

Y thản nhiên đáp:

- Đó không có gì là lạ. Tôi không ăn đã sáu ngày nay rồi.

Tôi tỏ vẻ lo lắng và hỏi han ân cần. Y nói:

- Không, đó không phải là vấn đề tiền. Chị bếp của tôi thường hay đau yếu luôn. Chị ấy nghỉ ở nhà đã sáu ngày nay rồi.

- Vậy sao ông không tìm một người bếp khác?

Y lắc đầu đáp:

- Không, tôi không thể dùng một người đầu bếp thuộc giai cấp hạ tiện. Thà rằng tôi nhịn ăn luôn một tháng còn hơn. Tôi phải đợi đến khi chị bếp của tôi bình phục trở lại, nhưng có lẽ chị ấy sẽ trở lại trong một hai ngày.

Tôi nhìn kỹ thì thấy y đeo ở cổ sợi dây Thánh, tiêu biểu cho giai cấp "Con của Thần Brahma." Sợi dây này kết ba sợi dính liền nhau, được tròng vào cổ của mỗi người Bà La Môn từ khi mới sinh ra, và y đeo luôn suốt đời cho đến lúc chết. Tôi hỏi:

- Sao ông lại chịu khổ thân vì một thành kiến giai cấp như thế? Sức khỏe của ông chẳng phải là quan trọng hơn hay sao?

- Đó không phải là một thành kiến dị đoan. Mỗi người đều có phát ra một thứ từ điển, tuy vô hình nhưng nó vẫn có thật, mặc dầu khoa học Âu Tây chưa khám phá ra. Người đầu bếp làm món ăn phóng từ điển của y vào đồ ăn, mặc dầu y không hay biết chi cả. Một người bếp hạ cấp và tánh tình hèn hạ sẽ ô nhiễm thức ăn với loại từ điển xấu của y, nó sẽ chui vào bụng của người nào ăn những thức ăn đó.

- Đó là một giả thuyết rất lạ lùng.

- Nhưng đó là sự thật.

Tôi nói qua vấn đề khác:

- Ông làm nghề Chiêm Tinh kể từ bao giờ?

- Đã mười chín năm nay. Tôi làm nghề này sau khi tôi lập gia đình.

- À tôi hiểu.

- Không, tôi không phải là góa vợ. Khi tôi lên mười ba tuổi, tôi cầu nguyện đấng Thiêng Liêng ban cho tôi sự hiểu biết, tôi đã học với nhiều Thầy và đọc nhiều sách vở. Tôi hiếu học đến nỗi tôi thường ngồi đọc sách suốt ngày và thức đến khuya. Cha mẹ tôi cưới vợ cho tôi, vài ngày sau đám cưới, vợ tôi nổi giận với tôi và nói: "Tôi không phải lấy chồng, mà lấy nhầm một quyển sách!" Sau đó đúng một tuần lễ, nó bỏ nhà trốn đi với người phu xe của chúng tôi.

Nói đến đây y ngừng một lúc. Tôi không khỏi mỉm cười vì câu nói trắng trợn của bà vợ, sự bỏ nhà ra đi của bà ấy chắc hẳn đã gây nên dư luận sôi nổi ở một xứ bảo thủ như Ấn Độ. Nhưng đàn bà thường có một tâm địa ngoắt ngoéo và rất khó lường. Y nói tiếp:

- Đó là một sự xúc động rất lớn cho tôi, nhưng sau một thời gian, tôi cũng nguôi ngoai dần và quên hẳn việc đó. Tôi càng đi sâu vào việc khảo cứu khoa Chiêm Tinh và Đạo Lý cổ truyền. Chính lúc đó, tôi bắt đầu tham khảo môn học cao nhất của tôi là bộ sách Brahma Chinta.

- Sách đó nói về vấn đề gì?

- Cái tựa của bộ sách ấy có thể dịch là Minh Triết Thiêng Liêng, hay là Minh Triết của Trời. Bộ sách này có đến mấy ngàn trang nhưng tôi chỉ khảo cứu có một phần. Tôi đã phí mất hai chục năm mới góp nhặt được có bấy nhiêu đó, vì bộ sách ấy chỉ gồm những phần rời rạc, lẻ tẻ, phải đi tìm ở khắp nơi mới mua được đủ bộ. Sách ấy gồm có mười hai phần chính và nhiều chương phụ, và giảng về những đề tài như Triết Học, Chiêm Tinh Học, Yoga, đời sống nên kia cửa Tử, và những vấn đề thâm sâu khác.

- Sách ấy có bản dịch Anh văn hay chăng?

Y lắc đầu:

- Tôi không nghe nói có bản dịch đó. Dẫu cho người Ấn Độ cũng ít có người được biết về bộ sách này. Từ trước đến nay, nó vẫn được giữ gìn bí mật. Nó vốn xuất xứ từ bên Tây Tạng, ở xứ này nó được xem như một bộ sách Thần, và chỉ có những vị môn đồ chọn lọc mới được phép học bộ sách ấy.

- Sách ấy được viết ra từ bao giờ?

- Bộ sách ấy được viết ra từ hàng mấy ngàn năm nay do nhà Hiền Triết Bhrigu, vị này sống vào thời kỳ cổ xưa đến nỗi không ai biết vào năm nào. Sách ấy dạy về một môn Yoga hoàn toàn khác hẳn với tất cả những pháp môn khác tại Ấn Độ. Ông cũng thích khảo cứu về môn Yoga phải chăng?

- Sao ông biết?

Để đáp lại, Sudhei Babu lẳng lặng đưa ra lá số mà y đã lấy cho tôi, và cầm cây bút chì chỉ vào những dấu hiệu lạ lùng, nó chỉ những vị trí các tinh tú và các cung Hoàng Đạo.

- Là số của ông làm tôi ngạc nhiên. Nó thật là khác thường đối với một người Âu, thậm chí nó cũng khác thường đối với cả người Ấn Độ. Nó chỉ rằng ông có khuynh hướng rõ rệt về đường Đạo, và ông sẽ được sự dìu dắt của các bậc Hiền Giả để tiến sâu vào vấn đề này. Tuy nhiên, không phải ông chỉ học Yoga mà thôi, mà còn rất ưu tú về các môn học siêu hình và thần bí khác nữa.

Y ngừng một lúc và nhìn thẳng vào cặp mắt tôi. Tôi có cái cảm tưởng rằng y sắp sửa tiết lộ điều gì về đời sống nội tâm của y.

- Ở đời có hai hạng Hiền Giả: Những người giữ bí mật những kiến thức của họ một cách ích kỷ, và những người sau khi đã giác ngộ cho mình. Liền chia xẻ sự giác ngộ tâm linh đó cho những người khác. Lá số của ông chỉ rằng ông đã bước đến gần cửa Đạo và bởi đó những lời nói của tôi sẽ không phải là nước đổ đầu vịt. Tôi sẵn sàng chia sớt sự hiểu biết của tôi cho ông.

Tôi lấy làm ngạc nhiên về điều lạ lùng này. Trước nhất tôi đến nhà Sudhei Babu để thử xem khoa Chiêm Tinh Ấn Độ là như thế nào. Tôi đến lần nữa để nghe y bàn rộng thêm về nền tảng và bí quyết của khoa Lý Số, và bênh vực cho những phép đoán số của y. Và bây giờ, thình lình y tự nguyện làm Thầy tôi về môn Yoga. Y nói tiếp:

- Nếu ông thực hành những phương pháp của Brahma Chinta, ông sẽ không cần có Thầy. Linh hồn ông sẽ là Thầy của ông.

Tôi liền thấy ngay rằng tôi đã nghĩ lầm và tự hỏi phải chăng y đã đọc được tư tưởng của tôi. Tôi nói:

- Ông làm tôi ngạc nhiên.

- Tôi đã chỉ dẫn cho vài người, nhưng tôi không bao giờ tự nhận là Thầy họ, mà chỉ là một người anh cả hay một người bạn. Tôi không muốn làm Thầy của ông theo cái ý nghĩa thông thường. Cái tinh thần của nhà Hiền Triết Bhrigu chỉ dùng tôi làm cái khí cụ để truyền những giáo lý ấy cho ông.

- Tôi không hiểu bằng cách nào ông có thể phối hợp nghề coi số Chiêm Tinh với việc dạy pháp môn Yoga.

Y đặt hai bàn tay gầy gò của y lên bàn và nói:

- Thì đây. Tôi sống trên thế gian và phụng sự thế gian bằng nghề nghiệp của tôi, tức là nghề coi Chiêm Tinh. Tôi không muốn cho ai xem tôi như một ông Thầy dạy Yoga, bởi vì trong môn phái Brahma Chinta, vị Tôn Sư duy nhất là Thượng Đế. Ngài là vị Thầy duy nhất của chúng tôi mà chúng tôi nhìn nhận. Với tư cách là Đại Thể hay Đại Hồn của Vũ Trụ, Ngài cũng ngự ở trong tâm chúng ta và sẽ dìu dắt chúng ta. Ông hãy xem tôi như một người huynh đệ nếu ông muốn, nhưng đừng xem tôi như một người hướng dẫn tinh thần.

Những người có Thầy thường hay ỷ lại và nương dựa vào ông Thầy thay vì họ phải tự cường và chỉ nghe theo tiếng gọi của lương tri, tức là chính linh hồn của họ.

- Nhưng ông cũng dùng khoa Chiêm Tinh để hướng dẫn cuộc đời của ông phải chăng?

- Ông đã lầm. Tôi không bao giờ dò xem lá số của tôi nữa, thật ra tôi đã xé bỏ nó từ nhiều năm nay.

Tôi lộ vẻ ngạc nhiên về lời tuyên bố này. Y đáp:

- Tôi đã tìm thấy ánh sáng Chân Lý và không cần đến khoa Chiêm Tinh để hướng dẫn cuộc đời tôi. Khoa ấy chỉ hữu ích cho những kẻ còn lần mò đi trong bóng tối. Tôi đã đặt cuộc đời tôi hoàn toàn trong tay Thượng Đế và đã dẹp bỏ mọi điều lo nghĩ ưu phiền về hiện tại hay tương lai. Bất cứ điều gì xảy đến cho tôi, tôi đều chấp nhận như là ý muốn của Thượng Đế. Tôi đã giao phó vận mạng của tôi cho Ngài, luôn cả thể xác, lý trí, tình cảm và hành động.

- Nếu ông bị một kẻ dữ nó định hãm hại ông, và tánh mạng ông bị lâm nguy, ông có nói rằng đó là ý muốn của Thượng Đế và không làm gì để tự vệ chăng?

- Tôi biết rằng trong khi nguy cấp, tôi chỉ cần cầu nguyện là tôi sẽ được Ngài che chở. Cầu nguyện là điều cần thiết, còn sợ sệt chẳng có ích lợi gì. Tôi vẫn thường cầu nguyện và luôn luôn được che chở. Tuy nhiên, tôi cũng đã trải qua những lúc khó khăn, trong những lúc đó tôi đều ý thức được sự giúp đỡ của Ngài và tôi hoàn toàn đặt đức tin nơi Ngài trong mọi trường hợp. Ông cũng vậy, có ngày ông cũng sẽ bất chấp tất cả mọi sự xảy đến trong đời mình và hoàn toàn thản nhiên đối với tương lai.

Tôi tỏ vẻ nghi ngờ:

- Chắc là tôi phải có một sự thay đổi rất lớn lao trước khi đạt tới mức ấy.

- Sự thay đổi đó chắc chắn sẽ đến với ông.

- Ông có chắc như vậy không?

- Tôi tin chắc. Người ta không thể thoát khỏi định mệnh. Sự cải tạo tinh thần đó là một cái ân huệ của Thiêng Liêng, dầu rằng ta có định tìm nó hay không.

- Những điều ông nói thật là lạ lùng, Sudhei Babu.

Ý niệm về Thượng Đế là một điều tôi luôn luôn nghe nói đến trong những cuộc đàm luận của tôi với những người ở xứ này. Người Ấn Độ là một dân tộc có tinh thần tôn giáo rất mạnh, và tôi lấy làm ngạc nhiên mà nghe họ nói đến Thượng Đế một cách quá thông thường. Họ có thể nào hiểu cái quan điểm của một người Âu có óc hoài nghi, thường thay thế cái đức tin đơn giản bằng cái lý trí phức tạp hay chăng? Tôi thấy rằng không có ích gì mà nêu ra vấn đề Thượng Đế để bàn cãi với nhà Chiêm Tinh trong lúc này. Có lẽ y sẽ nhồi sọ tôi với một tràng lý thuyết siêu hình mà hiện thời tôi không có hứng thú muốn nghe chút nào. Tôi bèn xoay chiều câu chuyện qua những vấn đề khác ít phiền phức hơn.

- Chúng ta hãy nói qua cái vấn đề khác thì hay hơn, vì Thượng Đế với tôi chưa từng gặp nhau bao giờ.

Y nhìn thẳng vào tôi không chớp mắt, cặp mắt tinh anh của y dường như tìm cách soi thấu cõi lòng tôi:

- Lá số của ông không nói sai bao giờ, vì nếu không phải như vậy thì tôi đã không thổ lộ những điều hiểu biết của tôi cho một người chưa chuẩn bị sẵn sàng, nhưng các tinh tú vận chuyển đúng phép không bao giờ sai chạy. Những điều mà ông chưa hiểu rõ trong lúc này sẽ nằm trong tiềm thức của ông một thời gian và sẽ xuất hiện trở lại với mãnh lực tăng gấp đôi. Tôi lặp lại lần nữa là tôi sẵn sàng truyền pháp môn Brahma Chinta lại cho ông.

- Và tôi cũng sẵn lòng muốn học pháp môn đó.

Mỗi buổi chiều tôi đều trở lại nhà của Sudhei Babu để thụ giáo về pháp môn Brahma Chinta. Ngọn đèn dầu leo lét chiếu ánh sáng lập lòe trên gương mặt khổ hạnh và trắng như sáp của nhà Chiêm Tinh, trong khi y giảng giải cho tôi nghe những bí thuật của khoa Yoga Tây Tạng cổ truyền. Y không bao giờ lên mặt kẻ cả hay lên giọng thầy đời, mà trái lại y là hiện thân của sự khiêm tốn, và luôn luôn mở đề mỗi bài giảng với câu:

- Trong pháp môn Brahma Chinta có dạy rằng...

Một hôm tôi hỏi y:

- Cái mục đích rốt ráo và tối hậu của pháp môn này là thế nào?

- Mục đích ấy là đạt tới trạng thái xuất thần nhập định vì chỉ trong trạng thái đó, người hành giả mới nhận định rõ ràng rằng y là một linh hồn. Chừng đó, y mới tách rời trí óc của y ra khỏi những vật ở ngoại cảnh; những sự vật ở chung quanh y lu mờ dần và ngoại giới dường như đã biến mất đối với y. Y nhận thấy rằng linh hồn là một điều có thật, và y cảm thấy sự an lạc tuyệt vời cùng quyền năng vô song của nó tràn ngập con người của y. Y chỉ cần có một kinh nghiệm duy nhất đó để có đủ bằng chứng cụ thể rằng trong người y vốn có một sự sống thiêng liêng và bất diệt. Sau khi y có cái kinh nghiệm đó rồi, thì y không bao giờ có thể quên nó được nữa.

Tôi hỏi với một vẻ hoài nghi:

- Ông có chắc rằng tất cả những điều đó không phải là một hình thức tự kỷ ám thị chăng?

Trên miệng y thoáng hiện một nụ cười:

- Khi một người mẹ sinh ra một đứa con, có khi nào bà ấy lại nghi ngờ rằng đứa con ấy không phải là thật? Và khi bà mẹ ấy hồi tưởng lại khi lâm bồn, có thể nào bà ấy cho rằng đó chỉ là một sự tự kỷ ám thị chăng? Khi bà ấy nhìn đứa con càng ngày càng lớn, có thể nào bà ấy lại nghi ngờ không tin rằng đứa trẻ vẫn còn sống chăng? Giống như thế, sự giác ngộ tâm linh là một biến cố quan trọng trong đời của một người đến nỗi y không thể nào quên được, vì nó làm cho người ấy hoàn toàn thay đổi và trở nên một người mới. Khi người hành giả bước vào trạng thái xuất thần đại định, thì một sự trống không được tạo ra trong trí của y. Khi đó thì Thượng Đế, nếu ông không thích dùng danh từ này, thì linh hồn, hay một quyền năng thiêng liêng chẳng hạn, sẽ tràn vào và chiếm lấy cái khoảng trống không đó. Khi nào việc ấy xảy ra, thì người hành giả cảm thấy tràn đầy một nguồn hạnh phúc vô biên và an lạc tuyệt vời không thể tả. Y cũng cảm thấy tràn đầy một tình yêu bao la rộng lớn và nồng nàn đối với toàn thể chúng sinh trong hoàn vũ. Lúc ấy, người ngoài sẽ nhìn thấy xác thân của người hành giả có vẻ dường như chết, vì mọi sự sinh hoạt đều ngưng hẳn, chí đến hơi thở cũng ngừng luôn, khi y đạt tới điểm cao tột của cơn đại định xuất thần.

- Như thế có nguy hiểm gì không?

- Không. Cơn xuất thần nhập định thường diễn ra ở một nơi hoàn toàn vắng lặng, hoặc một người thâm quyến hay bằng hữu có thể có mặt tại chỗ để canh chừng cho người hành giả. Tôi thường bước vào trạng thái xuất thần và luôn luôn có thể trở về tùy ý muốn. Tôi thường xuất thần như thế mỗi lần từ hai đến ba giờ đồng hồ, và định trước lúc nào tôi sẽ trở về nhập xác. Đó là một kinh nghiệm rất diệu huyền, bởi vì tôi nhìn thấy toàn thể Vũ Trụ bên ngoài bằng cách chỉ nhìn vào nội tâm của tôi, chứ không cần đi đâu cả. Vì thế nên tôi đã nói rằng tất cả những gì mà chúng ta cần học hỏi, đều có thể học hỏi ở tự nơi linh hồn của mình. Sau khi tôi truyền hết pháp môn Yoga Tây Tạng này cho ông, ông sẽ không cần có Thầy, và không cần có một sự dìu dắt hướng dẫn nào từ bên ngoài.

- Còn ông, ông cũng không cần có thầy phải chăng?

- Tôi không hề đi tìm thầy từ khi tôi khám phá được những bí thuật của pháp môn Brahma Chinta. Tuy nhiên, vài đấng Giáo Chủ cao cả thỉnh thoảng cũng hiện đến với tôi, trong khi tôi xuất thần nhập định và trở nên có ý thức trong cõi vô hình. Những đấng Cao Cả đó xuất hiện trước mặt tôi trong những Thể linh diệu của các Ngài và đặt bàn tay lên đầu tôi để ban ân huệ. Bởi đó, tôi lặp lại lần nữa, rằng ông hãy tin cậy ở sự dìu dắt của linh hồn mình, và các đấng Giáo Chủ thiêng liêng sẽ xuất hiện đến với ông trong cõi vô hình.

Nói đến đây, nhà Chiêm Tinh im lặng trong vài phút và có vẻ đắm chìm trong cơn trầm tư mặc tưởng. Kế đó, với một giọng bình thản và khiêm tốn y nói:

- Có lần, trong cơn đại định, tôi thấy đức Jesus.

- Ông muốn nói đùa tôi chăng?

Nhưng y không màng giải thích câu ấy. Trái lại, thình lình y đảo cặp tròng trắng của đôi mắt y xếch ngược lên một cách lạ thường, làm tôi rất băn khoăn lo ngại. Một phút trôi qua trong im lặng và tôi chỉ cảm thấy dễ chịu và bớt lo khi y đem cặp mắt trở lại trạng thái bình thường.

Một nụ cười bí hiểm hiện trên môi của y khi y nói tiếp:

- Trạng thái xuất thần đại định có một mãnh lực phi thường đến nỗi người hành giả không bao giờ sợ chết. Trên sườn núi phía Bắc dãy Hi Mã Lạp Sơn có những người Yogi đã tu luyện pháp môn Brahma Chinta đến mức tuyệt đỉnh. Họ ẩn mình trong những động đá sâu thẳm để xuất thần nhập định đến một mức độ siêu đẳng. Trong trạng thái đó, mạch máu ngừng nhịp, quả tim cũng không còn đập nữa, và máu huyết cũng ngừng lưu thông trong cái cơ thể bất động. Người ngoài nhìn thấy sẽ tưởng rằng họ đã chết. Nhưng người ta đừng tưởng rằng họ ngủ mê, vì họ vẫn hoàn toàn thức tỉnh như mọi người. Họ chỉ bước vào cõi giới siêu hình, trên đó họ sống trải qua nhiều thế kỷ và đã được vài trăm tuổi rồi.

Một lần nữa tôi lại nghe nói đến những chuyện sống lâu, hình như nó sẽ theo đuổi tôi mãi ở bất cứ nơi nào tôi đi đến dưới cái Mặt Trời phương Đông này. Nhưng còn những vị Thần Tiên bất tử đó, có thể nào một ngày kia tôi khám phá ra được một vị để nhìn xem tận mặt được chăng? Chừng đó, có lẽ Âu Tây sẽ tìm ra và chấp nhận pháp môn huyền bí cổ truyền Tây Tạng như một sự góp phần trên địa hạt khao học và tâm lý. Biết đâu?

Buổi học cuối cùng của tôi về những lý thuyết dị kỳ của khoa pháp môn Brahma Chinta đã chấm dứt. Tôi thuyết phục nhà Chiêm Tinh kiêm tu sĩ ẩn độn này hãy bước ra cửa đi dạo một vòng, điều mà y ít khi làm vì y không hề rời khỏi nhà, để cho thân thể của y được vận động đôi chút. Chúng tôi đi bách bộ xuyên qua những con đường hẹp và tránh những khu náo nhiệt ồn ào để đi xuống bờ sông. Mặc dầu thành phố có vẻ cũ kỹ, chật hẹp và kém vệ sinh, nhưng Ba Nại La dành cho người du khách những cảnh tượng tưng bừng rực rỡ và thay đổi liền liền, nhìn xem rất ngoạn mục.

Trưa hôm ấy, ông Chiêm Tinh gia của tôi mang theo một cây dù lớn. Hình dáng mảnh khảnh và những cử chỉ chậm chạp có vẻ mệt nhọc của y làm cho tôi e ngại, nên tôi phải đổi lộ trình để thâu ngắn đường đi. Chúng tôi đi qua con đường Hàng Đồng. Ở đây tiếng búa của các bác thợ đồng đập nghe vang tai không dứt, và những đồ vật dụng bằng đồng như nồi, soong, chói bóng loáng dưới ánh nắng mặt trời. Ở đây, người ta cũng thấy trưng bày vô số những hình tượng nhỏ bằng đồng tiêu biểu các vị thần trong Ấn Độ giáo.

Một người hành khất già đi một cách khép nép dọc theo vách tường phía bên kia đường lộ. Y nhìn tôi với cặp mắt dọ hỏi, hình như cử chỉ của tôi làm cho y được yên lòng, y bèn đánh bạo lại xin tiền.

Chúng tôi đi qua đường Hàng Gạo, tại đây người ta thấy các cửa hàng bày những đống gạo và thóc lúc màu đỏ và màu vàng. Người buôn thóc ngồi xếp bằng trước cửa hàng, liếc nhìn chúng tôi với cặp mắt tò mò, rồi lại kiên nhẫn ngồi đợi người mua. Trong những con đường khác, những mùi vị pha lẫn một cách hỗn tạp xông vào mũi thành một thứ mùi đặc biệt. Khi chúng tôi đến gần bờ sông, chúng tôi đi thẳng vào một khu hình như là nơi tập hợp của giới hành khất, những người ăn mày gầy còm lê lết dọc theo con đường đầy cát bụi. Một người trong bọn đến gần tôi và nhìn tôi vào tận mắt như để thăm dò. Y có một vẻ mặt đau khổ, nó làm cho lòng tôi se lại. Cách đó một quãng, suýt nữa tôi đạp nhằm một bà già thân thể gầy ốm chỉ còn da bọc xương. Bà ấy cũng ngước mặt lên nhìn tôi. Trong cái nhìn ấy, tôi không thấy lộ vẻ oán hận hay đau khổ, mà chỉ thấy có sự an phận trong âm thầm. Tôi móc túi lấy cái ví tiền, cử chỉ đó làm nhen nhúm lại một tia sáng trong cặp mắt đã hết tinh thần của bà ta. Bà ấy đưa ra một cánh tay gầy gò và nắm lấy đồng tiền bố thí của tôi một cách sốt sắng.

Tôi lấy làm ngượng thầm mà nghĩ đến số phận tốt lành của tôi và tất cả những gì tôi sở hữu, cơm ăn, áo mặc, nhà ở, và nhiều thứ khác. Khi tôi nghĩ đến những cặp mắt tuyệt vọng của những người bần cùng khốn khổ đó, tôi cảm thấy hình như một sự hối hận. Tôi có quyền gì mà sở hữu bấy nhiêu tiền bạc, trong khi những kẻ khốn cùng kia chỉ có những mảnh giẻ rách che thân? Nếu như do một sự tình cờ của định mệnh, mà tôi lại sinh ra làm một trong những người hành khất ấy, thì sao? Tôi không dám suy tưởng lâu hơn nữa về cái ý nghĩ rùng rợn đó.

Vì lý do nào mà một người lại tình cờ sinh ra trên vỉa hè lầm than cát bụi, trong khi số phận lại đặt một người khác trên nhung gấm ở một tòa lâu đài gần bên? Đời người quả thật là một bài toán bí hiểm.

- Chúng ta hãy ngồi đây.

Nhà Chiêm Tinh nói khi chúng tôi vừa đến bờ sông. Chúng tôi ngồi trong bóng mát và nhìn xuống sông, trên bờ là những bực thang đá nhiều nấc, những nhóm người hành hương lên xuống không ngớt. Cách đó một quãng, hai ngọn tháp nhọn, cao gần đến một trăm thước, nhô lên một cách yểu điệu trên nền trời xanh thẳm. Đó là tháp của ngôi đền Hồi giáo, mà nhà vua Aurangzeb đã xây cất tại đây thuở xưa, khi Ấn Độ bị quân Hồi chiếm đóng.

Nhà Chiêm Tinh có lẽ đã nhìn thấy sự phản ứng buồn bực của tôi đối với những người hành khất, nên y day lại và nói:

- Ấn Độ là một nước nghèo, dân tộc xứ này đã đắm chìm trong sự ngủ mê, bất động. Tuy nhiên, việc thịnh suy của Trời Đất nối tiếp nhau như ngày với đêm, âm dương vận hàng theo định luật Tuần Hoàn. Lịch sử của các nước cũng không ngoài cái định luật đó. Ấn Độ đang hồi suy vong, nhưng có lúc nó sẽ quật cường, khi nào những hoài bão tinh thần cao cả của nó thuở xưa được đánh thức dậy trong lòng người, để mở màn cho một giai đoạn tích cực hoạt động và phục hưng xứ sở.

Ngày nay Châu Âu đang sống mạnh với những hoạt động thực tế, nhưng phong trào duy vật mãnh liệt của nó có lúc sẽ trôi qua và nó sẽ quay đầu trở về những lý tưởng cao cả hơn. Nó sẽ đi tìm những hoạt động tâm linh và những hoài bão tinh thần. Cả nước Mỹ cũng ở trong tình trạng đó.

Tôi lẳng lặng ngồi nghe. Y nói tiếp một cách trịnh trọng:

- Bởi lẽ đó, những giáo lý về triết học và tâm linh của Ấn Độ sẽ tràn qua Tây phương như một luồng sóng mới. Các nhà học giả đã phiên dịch vài bộ sách bút tự Phạn ngữ và Thánh Kinh của Ấn Độ ra các sinh ngữ Âu Tây, nhưng có nhiều sách vở tài liệu vẫn còn giữ gìn trong những thư viện bí mật ẩn trong hang núi, ở những sách vở đó có ngày cũng phải được tiết lộ ra cho thế giới biết. Không bao lâu sẽ đến lúc mà nền Triết Học uyên thâm và Đạo Lý cổ truyền của Ấn Độ sẽ phối hợp với những môn khoa học thực tế của Tây phương. Những điều huyền bí của thời đại cổ xưa phải được phổ biến để ứng đáp lại những nhu cầu của thế hệ này. Tôi mong rằng điều đó rốt cuộc sẽ được thực hiện.

Tôi vừa ngồi nghe vừa nhìn dòng nước xám xanh của sông Hằng. Dòng nước yên lặng một cách lạ thường, đến nỗi nước sông đứng yên dường như không chảy. Mặt nước phẳng lặng của nó phản chiếu ánh nắng mặt trời như một tấm gương trong.

Nhà Chiêm Tinh lại nói tiếp:

- Mỗi dân tộc sẽ thực hiện định mệnh của nó cũng như số mạng của mỗi người phải được hoàn thành. Thượng Đế vốn Toàn Năng. Các quốc gia cũng như các dân tộc sẽ không thoát khỏi định mệnh mà họ tự tạo nên, nhưng họ có thể được che chở trong những cơn nguy biến.

- Làm sao con người có thể được sự che chở đó?

- Bằng sự cầu nguyện, bằng cách trở lại ngây thơ và hồn nhiên như trẻ con khi người ra quay đầu về đấng Chí Tôn, và bằng cách nhớ đến Ngài luôn, không phải trên đầu môi chót lưỡi, mà ở tự trong tâm của mình mỗi khi người ta bắt đầu làm một công việc nào đó. Chúng ta hãy đón nhận những ngày vui tươi như một phần thưởng và ân huệ của Thượng Đế, và đón nhận những lúc đau khổ như một phương thuốc mầu nhiệm để cứu chữa những điều lầm lạc của mình. Chúng ta không có gì phải sợ sệt, vì Ngài hoàn toàn từ ái đối với chúng sinh.

- Như vậy ông không tin rằng Thượng Đế ở cách xa chúng ta và dửng dưng đối với những đau khổ của thế gian chăng?

- Không, Thượng Đế là một nguyên lý ẩn vị, ngự trong tất cả muôn loài vạn vật cũng như trong con người. Khi ông nhìn thấy cái đẹp trong thiên nhiên, như một phong cảnh đẹp chẳng hạn, ông đừng quên rằng sở dĩ nó đẹp là vì có Thượng Đế ở trong. Ta hãy tập nhìn thấy cái đẹp trong mọi người và mọi vật, đó là cái tinh thần bên trong nó làm chủ động cho mọi hình thức sinh hoạt trên thế gian.

- Ông có một lối đặc biệt là pha lẫn những lý thuyết về định mệnh, tôn giáo và Chiêm Tinh một cách lạ lùng, Sudhei Babu.

- Sao lại lạ lùng? Những lý thuyết đó không phải của tôi đặt ra, mà nó được truyền lại cho chúng ta từ những thời đại xa xăm nhất trong quá khứ. Những dân tộc cổ xưa nhất cũng đã từng biết rõ về những vấn đề định mệnh, về Thượng Đế và về khoa Chiêm Tinh. Họ không phải là những dân tộc dã man như người Âu Tây vẫn lầm tưởng. Như tôi đã nói, trước khi thế kỷ này kết thúc, Tây phương sẽ khám phá và nhìn nhận có những mãnh lực vô hình trong Trời Đất, ảnh hưởng đến sự sinh hoạt của con người và vạn vật.

- Thật không dễ gì mà làm cho người Tây phương từ bỏ cái quan niệm về sự tự do ý chí của con người trong việc điều khiển cuộc đời của họ.

- Bất cứ việc gì xảy đến đều do ý muốn của Thượng Đế, và điều mà ta xem dường như là tự do, thật ra chỉ là hành động với cái quyền năng của Ngài. Thượng Đế trả lại cho người những hậu quả lành hay dữ của những tư tưởng và việc làm của họ trong những kiếp khác. Tốt hơn hết là nên chấp nhận ý muốn của Ngài, và con người sẽ không bị ngã quỵ dưới gánh nặng của nghịch cảnh, nếu y biết hướng về Thượng Đế để tìm cái sức mạnh tinh thần hầu chịu đựng được những nghịch cảnh đó.

- Tôi ước mong rằng ông nói có lý, nếu đó chỉ là để an ủi những kẻ hành khất khốn cùng mà chúng ta vừa gặp khi nãy.

- Đó là điều duy nhất mà tôi có thể trả lời cho ông. Nếu ông áp dụng thuật "Hồi quang nhãn chiếu" để đi sâu vào nội tâm theo pháp môn Brahma Chinta mà tôi đã chỉ dẫn cho ông, thì những vấn đề đó sẽ tự nó giải quyết lấy.

Tôi biết rằng y đã đưa tôi đến cái mức giới hạn của những khả năng tranh luận của y, và không còn gì để nói nhiều hơn nữa. Từ nay tôi phải tự tìm lấy con đường đi của mình.

Nằm trong túi tôi, là một bức điện tín nó gọi tôi hãy đáp chuyến xe lửa sắp tới để lên đường. Tôi yêu cầu nhà Chiêm Tinh hãy cho tôi chụp một bức ảnh kỷ niệm. Y lễ phép chối từ, tôi khẩn khoản mời mọc. Y đáp:

- Để làm gì với gương mặt gầy xấu và bộ quần áo xốc xếch này?

- Tôi muốn có vật kỷ niệm này của ông khi tôi đi xa.

Y đáp một cách dịu dàng:

- Cái kỷ niệm hay nhất là những tư tưởng lành và những việc làm vị tha.

Tôi đành phải chìu lòng y một cách tiếc rẻ, và xếp lại máy ảnh. Khi chúng tôi đứng dậy ra về tôi nhìn thấy gần bên có một vị tu sĩ ngồi kiết dà dưới bóng mát của một cây dù lớn. Y đắm chìm trong một cơn thiền định, và tôi nhận thấy, do bộ áo màu vàng sậm rằng đó là một tu sĩ thuộc về một dòng tu khá cao. Khi chúng tôi đến ngã ba đầu đường, tôi kêu một chiếc xe ngựa và chúng tôi chia tay đôi ngã.

Trong những ngày kế đó, tôi ngồi trên xe lửa. Ban đêm, tôi dừng chân nghỉ ở các lữ quán của chánh phủ dựng lên cho khách đi đường dùng làm nơi tạm trú. Một trong những quán trọ ấy không có tiện nghi gì đáng kể, ngoại trừ một đàn kiến rất đông. Sau hai tiếng đồng hồ thao thức trằn trọc và cố gắng đẩy lui cuộc tấn công của chúng nhưng vô hiệu quả, tôi đành phải bỏ giường và ngồi nghỉ trên một chiếc ghế bành. Thời gian trôi qua một cách rất chậm chạp. Tôi suy nghĩ vẫn vơ và hồi tưởng lại câu chuyện triết lý về định mệnh của nhà Chiêm Tinh thành Ba Nại La.

Đồng thời tôi nhớ lại những hành khất đáng thương, lê lết tấm thân tàn trên con đường đầy cát bụi. Cuộc đời không để cho họ sống, nhưng cũng không để cho họ chết! Chiếc xe ngựa đẹp lộng lẫy của một tay phú thương vừa đi ngang qua, làm văng bùn vào mình họ, nhưng họ chấp nhận điều ấy một cách thản nhiên cũng như chấp nhận cái số phận lầm than của họ, hoàn toàn tuân theo ý muốn của Thượng Đế. Trên dải đất nóng gắt này, chí đến một người phong cùi, phế tật hình như cũng bằng lòng với số mạng. Thuyết định mạng của Ấn Độ chắc hẳn là đem đến cho họ một nguồn an ủi giống như ảnh hưởng của chất ma túy làm xoa dịu những vết thương...

Một người Âu chủ trương sự tự do ý chí không thể nào tranh luận được với một người Đông phương tin tưởng nơi thuyết định mệnh bất di dịch. Đối với người sau này, không hề có vấn đề tự do được nêu ra: định mệnh cai quản cuộc đời y và cả gia đình y, đó là tất cả vấn đề, không còn gì phải nói nữa. Nhưng có người Âu nào lại chịu nhìn nhận rằng mình chỉ là một vật thụ động, chịu bó tay dưới sự độc đoán của số mạng nó chỉ định và sắp đặt cuộc đời mình với một bàn tay vô hình? Đến đây tôi liền nhớ lại câu nói bất hủ của Nã Phá Luân, khi đạo binh của ông ta mở đường khai núi vượt qua dãy Alpes:

- Danh từ "Bất khả" không có ở trong tự điển của ta.

Nhưng tôi đã nghiên cứu tiểu sử của cuộc đời ông ta, và tôi cũng nhớ cả những hàng chữ lạ lùng mà ông ta đã viết tại Sainte Hélène trong lúc bị đày ra hải đảo:

"Tôi vẫn luôn luôn tin tưởng ở định mệnh. Những gì đã khắc trên tinh tú là đã quyết định rồi! Ngôi sao của tôi đã lu mờ, tôi cảm thấy tôi không còn quyền hành gì nữa, và tôi cũng không làm thế nào được."

Một người có những ý tưởng trái ngược như thế hẳn là chưa giải quyết xong bài toán của định mệnh, nhưng thật ra có ai đã giải quyết được điều bí hiểm ấy? Có thể rằng kể từ khi con người bắt đầu biết dùng bộ óc để suy gẫm, thì vấn đề cổ lỗ này đã từng được tranh luận ở bất cứ nơi nào trên Địa Cầu. Những người chất phác đơn sơ không màng giải quyết vấn đề đó, còn bậc Hiền Giả thì vẫn luôn luôn do dự không nói dứt khoát giữa bao nhiêu tư tưởng trái ngược.

Vài ngày sau, tôi đã ở cách xa Ba Nại La đến vài trăm dặm, khi tôi được tin cho biết có những cuộc nổi loạn và bạo động xảy ra ở đó. Đó là chuyện xung đột giữa những người Ấn và Hồi giáo, thường bắt đầu bằng những duyên cớ nhỏ nhặt không đáng kể, nhưng có những kẻ bất lương lợi dụng vấn đề tôn giáo để tạo loạn và gây rối hầu có thi hành những thủ đoạn cướp bóc và sát nhân của chúng.

Trong nhiều ngày, thành phố Ba Nại La đắm chìm trong sự hỗn loạn và khủng bố. Người ta thường nghe nói đến những chuyện đầu rơi máu đổ và giết chóc. Tôi lấy làm lo ngại cho sự an ninh của nhà Chiêm Tinh, nhưng không thể nào tiếp xúc được với y. Những người đem thư lại quá sợ hãi không dám ra đường, và không có thơ từ hay điện tín nào được phát trong những ngày loạn lạc đó.

Tôi đành phải đợi cho đến khi tình hình tạm yên trở lại, và gửi một bức điện tín trong số những bức đầu tiên nhận được ở Ba Nại La sau những ngày khủng bố. Vài ngày sau tôi nhận được thư trả lời cảm ơn của nhà Chiêm Tinh, trong đó y cho biết rằng y được bình yên nhờ sự che chở của đấng Toàn Năng. Và ở trang sau, y cũng không quên chép luôn vào đó mười điều quy luật về sự thực hành pháp môn Yoga của phái Brahma Chinta.