Chương 2 - Những Yếu Tố Chính Của U Mặc


U Mặc Và Bất Ngờ

Yếu tố quan trọng nhất của văn u mặc là sự bất ngờ, nghĩa là không thể dự liệu trước được.

Sứ mạng của u mặc không phải là ru ngủ với những tập quán, thành kiến cố hữu của con người, mà cốt là thức tỉnh con người bằng nghịch thuyết, một cách tự nhiên và đầy nhân ái.

Phàm việc gì trên đời, có "cùng" mới có "biến", mà có "biến" mới có "thông" như Dịch Kinh đã dạy. Và sự biến ấy là một sự đột biến do sự tiệm biến lâu ngày... Nhờ vậy mới có chỗ "thông". Thông, tức tiếng cười của ta đó.

Tâm tư con người bị trói buộc trong vòng lễ giáo chật hẹp quá, luật pháp và cấm kỵ bủa giăng, phong tục, tập quán và thàng kiến bao vây nghiêm nhặt quá, cho nên văn chương u mặc mang lại sự cởi mở bất ngờ như ngựa thoát yên cương, mới phát ra được tiếng cười chiến thắng: Cái cười "cởi mở" phá lao lung.

Định nghĩa về "cái cười", Marcel Pagnol, trong thiên tiểu luận "Notes sur le Rire" cũng nhận xét đại khái sau đây:

1. Cười là tiếng ca đắc thắng. Nó là biểu hiện của một sự cao cả tạm thời, đột nhiên bị khám phá ra được nơi người cười đối với người bị chế nhạo.

2. Cười có hai thứ, rất kiên quan mật thiết với nhau như hai đối cực của quả địa cầu. Có cái cười tích cực: Tôi cười vì tôi cao hơn anh, cao hơn tất cả thiên hạ hay cao hơn tôi lúc trước. Lại cũng có cái cười "tiêu cực", cái cười gắt gỏng chua cay, cái cười buồn bã, cười về chỗ thấp kém của kẻ khác, cái cười khinh bạc ngạo nghễ đối với người thất thế, cái cười trả thù và hằn học: Tôi cười, không phải vì tôi đắc thắng vinh quang hơn anh, mà tôi cười sự thất bại tủi nhục của anh.

3. Giữa hai cái cười ấy, còn có một thứ cười toàn diện gồm cả hai thứ cười tích cực và tiêu cực.

Để chứng minh, Pagnol đưa ra một thí dụ điển hình về tiếng cười vang của dân lành thành Paris bị quân Đức chiếm đóng, ngày Lecterc dẫn binh nhập thành. Người dân Pháp cười lăng cười lóc, cười đến nước mắt ràn rụa, vì nước Pháp đã được giải phóng và được hoàøn lại địa vị của mình trước vạn quốc. Họ cười sự chiến thắng của mình, mà cũng cười sự chiến bại của quân địch.

Định nghĩa của M. Pagnol, trên đây kể ra cũng đã khám phá được một phần khá lớn cái mật nhiệm của tiếng cười là giải phóng được tâm tư bị mặc cảm tự ty dồn ép đến tận cùng.

Bergson cũng định nghĩa tiếng cười cách khác: Hài hước là đem "hình thức máy móc mà trồng lên sự sống" (du mécanique plaqué sur du vivant). Thuyết ấy khá hay. Nó cũng không nghịch với Pagnol, mà còn chứng minh một cách rõ ràng hơn là khác.

Thật vậy, những cử động của thân thể con người mà gợi cười là khi nào nó không cử động được một cách tự nhiên nữa, mà chỉ hoạt động một cách máy móc, như những hình nộm bị giật dây. Cái khía cạnh đạo mạo và long trọng của đời sống xã hội hằng ngày luôn luôn có ẩn bên trong một cái gì lố bịch, hài hước. Một cuộc lễ trao giải thưởng, một phiên tòa án thường dễ trở thành hài hước khi mà người ta đã quên phần chính mà chỉ chú trọng đến những phần phụ thuộc, những hành động máy móc hình thức. Những sự méo mó của nghề nghiệp thường làm cho ta tức cười, những trường hợp các nhân viên nha quan thuế, sau khi lội xuống biển cứu xong những kẻ bị đắm tàu, quen miệng hỏi: "Các anh không còn gì khai nữa chăng?"

Bất cứ một cá nhân nào hành động như cái máy ở trước mặt ta, phải chăng tự họ đã tỏ ra thấp kém hơn ta nhiều, còn ta đã trở thành một tâm hồn tự do không bị xã hội biến thành một dụng cụ vô hồn.

Cũng nên nói qua về một công dụng khác của văn chương trào lộng: "nói tục". Tục... mà thanh. Cái đó mới khó.

Cái mà xã hội gọi là phạm đến" thuần phong mỹ tục" phải chăng thực sự là những tội lỗi mà ở trong xã hội tự nhiên không có gì gọi là tội lỗi cả! Đó là những thỏa mãn, tự nhiên của con người, nếu bị cấm đoán sẽ bị dồn ép. Ở những xã hội tự nhiên, các sự thỏa mãn nhu cầu tự nhiên không thấy gì đáng cười cả, trái lại, ở những xã hội văn minh giả tạo, thì đó là những câu chuyện buồn cười! Nhà văn Lâm Ngữ Đường cho rằng: "Kẻ giỏi về hoạt kê, là kẻ nói lên được những cái hợp tình hợp lý ngoài dự liệu của mọi người. Và nó sẽ là những lời của kẻ khác không dám nói (...). Do đó, hoạt kê đổi sang "nói tục", vì "nói tục" cũng có tác dụng buôn thả cởi mở sự bị ức chế trong tâm tư. Và trong hoàn cảnh tương đương như vậy, lời "nói tục" cũng hợp với tinh thần khang kiện (...). Bởi vậy ta thường thấy nhiều ông bà thời thường hết sực đoan trang đạo mạo, khi nóng giận bực tức việc chi, hay "văng tục" khinh khủng!

Ngày xưa, bên Trung Hoa, Thuần Vu Khôn đáp lời của Tề Uy Vương: "Hạ thần uống một đấu cũng say, mà uống một thạch cũng say!"

Uy Vương hỏi:

- Uống một đấu cũng đã say rồi, thì làmsao uống được một thạch?

Thuần Vu Khôn đáp:

- Khi hầu cận bên hoàng thượng, thì chỉ uống một hai đấu là đã say nhừ rồi! Nhưng, nếu khi ngồi lộn xộn với đám trai gái, nắm lấy tay không phạt, liếc mắt không cấm, trước rời hoa tai sau lỏng cài trâm... thì có thể uống tới tám đấu mới chịu say. Cũng như khi trời chiều rượu cạn, cùng tôn kính nhau mà ngồi sát bên nhau, trai gái đồng tịch, giày dép lộn xộn ngổn ngang, trên nhà nến tắt, chủ nhân giữ Khôn lại và màn mở tung ra, nghe hơi hương nồng thắm, trong lúc ấy Khôn quá vui thích, có thể uống cả một thạch!

Trương Vương vẽ mày cho vợ, bị nhà vua cật vấn, trả lời: "Trong khoảng buồng the, việc vợ chồng há chỉ có vẽ chân mày mà thôi đâu!" Đó là hoạt kê, khiến người ta cười, nhất là khi có sự cấm kỵ không nên nghe, mà lại nói ra được một câu hợp tình hợp lý không chối cãi.

Tương truyền có một người đến hỏi một đạo sĩ về thuật trường sinh bất lão. Đạo sĩ bảo phải tiết dục, ăn sương nằm gió, xa lánh đàn bà, cấm ăn cao lương mỹ vị... thì mới có thể trường sinh.

Người ấy nói:

- Như thế thọ đến nghìn năm cũng chả có ích gì! Thà chết yểu còn hơn!

Cái cười như đã định trước đây, là do sự khác biệt về địa vị, về giai cấp sang hèn trong xã hội.

Những rủi ro bất ngờ xảy ra cho những kẻ có một địa vị cao cả, tôn nghiêm dễ làm cho người dân đen cười lắm. Người khùng, không ai cười, mà một vị vua chúa, cao sang tôn quý lại rủi ro khùng khịu, nói lắp. Nói ngọng... sẽ làm cho thiên hạ cười vang.

Cũng như một cái lỗi chính tả, đối với thí sinh tiểu học không làm gì cho người ta cười được, vì cười nó đâu có chứng tỏ sự tài giỏi của ta hơn nó đâu. Trái lại, nếu là một ông giáo sư mà viết sai chính tả, sẽ làm cho học trò cười lên một cách sung sướng.

Chế giễu bọn người nhiều may mắn, nhiều uy quyền, nhiều tài hoa hơn thiên hạ là giúp cho đám người vô thiếu may mắn, thiếu uy quyền, thiếu tài hoa... cảm thấy trong một thời gian ngắn, cao hơn những hạng người trong thực tại cao sang tài giỏi hơn họ kia. Làm cho họ cười là giúp cho họ một cơ hội nhỏ bé và tạm thời lấy lại chút ít lòng tự tin đã mất, trước những thực tế phũ phàng.

Bởi vậy, những vở hài kịch, nhiều ít, đối với số đông khán giả, là một liều thuốc bổ, nâng đỡ tinh thần trong cuộc sống vất vả hàng ngày. Đối với những bệnh nhân vì nản chí, chán chường, mệt mỏi... cười quả là một liều thuốc bổ. Marcel Pagnol bảo rằng: Cười, làm tăng hồng huyết cầu, vì nó làm cho lá lách ta nở lớn hơn. Ông lại còn cho rằng: Những kẻ không còn cười nữa vì những lý do bên ngoài, lần lần sẽ mất sinh lực, mất cả sự nhanh nhẹn và mất cả lòng nhân ái.

Chính vì những lời lẽ nói trên mà ta thấy phần đông người dân rất thích đọc những bài văn chửi người, những bài thơ ngang, trào lộng châm biếm. Người ta không bao giờ cười đối với kẻ mà ta khi, nhưng sẽ cười những chở sơ hở của những kẻ hơn ta về nhiều phương diện. Người ta đâu có cười kẻ si tình tầm thường trong dân gian, mà cười lăn ra khi gặp phải một ông sư cụ mà lại tương tư:

"Sư đang tụng niệm nam mô!
Thấy cô xách giỏ mò cua bên chùa.
Lòng sư luống những mơ hồ,
Bỏ cả kinh kệ, tìm cô hỏi chào
Ai ngờ cô đi đường nào,
Tay cầm tràng hạt ra vào ngẩn ngơ!
Ba cô đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thắm bỏ chùa cho sư.
Cô về, sư ốm tương tư,
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu!
Ai làm cho dạ sư sầu,
Cho ruột sư héo như bầu đứt dây!"

Cái cười trên đây, là cười sự sút kém của kẻ khác.

Bên La Mã ngày xưa, trong những ngày lễ chiến thắng, người ta cho phép các binh sĩ được quyền chế nhạo những vị anh hùng đã lập được chiến công oanh liệt... là để hạ bớt lòng tự kiêu, tự đắc rất có hại cho những kẻ thắng trận.

Những điều nói trên đây, có thể làm sáng tỏ phần nào nguồn gốc và tính chất của tiếng cười nói chung, nhưng đều là những loại hoạt kê uẩn ức theo cơ trí, thú trào lộng châm biếm của những tâm hồn còn phẫn thế.

Một bài văn trào lộng u mặc không phải như vậy. U mặc là châm biếm, nhưng châm biếm một cách tự nhiên và đượm màu ưu ái.

U Mặc Và Tự Nhiên

Đặc điểm thứ hai của văn u mặc là tự nhiên. Đọc văn u mặc thượng thừa, ta không cảm thấy làm văn, không thấy sự đẽo gọt. Đơn giản và tự nhiên là chỗ cao tột của nghệ thuật và u mặc.

U mặc là khách quan mà nhìn xem sự thế, còn cơ kính là chủ quan, bóp tròn bẻ méo việc đời để tha hồ vu khống xuyên tạc. U mặc thì hư không, có mùi lạt lẽo, còn phúng thích thì chua cay và bén nhọn.

Viết văn u mặc phải có được một tấm lòng thản nhiên vô tư, nhìn xem thế sự có chỗ vui thích tự nhiên rồi dùng ngọn bút khinh khoái mà mô tả không thấy có gì ngượng nghịu, trở ngại, không gò ép, không lo sợ, không cầu được có kẻ tán thành cũng không sợ có người chỉ trích.

Du khách viếng chùa Hoàng Bích bên Nhật đều không ngớt trầm trồ bức hoành viết ba chữ "Thắng Nghĩa Đế" bằng đại tự, khắc ở cổng chùa.

Tương truyền ba chữ ấy do hòa thượng Kosen viết, cách đây lối hai trăm năm. Hòa thượng bắt đầu viết thử trên giấy rời. Bên cạnh, có một chú tiểu ngồi lo mài mực vừa chê khen. Viết lần đầu, chú tiểu chê xấu. Lần sau chú lại cũng chê xấu. Hòa thượng kiên nhẫn thử đến tám mươi tờ giấy. Chú tiểu cũng kiên nhẫn chê đến tám mươi tám lần.

Chú tiểu có việc ra ngoài

Hòa thượng cảm thấy nhẹ nhàng vì đã thoát khỏi cặp mắt quá quắt của chú tiểu, bèn múa bút, viết một hơi... quên mình, quên chú tiểu, quên cả chung quanh.

Viết vừa xong, thì chú tiểu trở vào.

Chú nhìn đứng sửng một hồi, khen:

- Thật là tuyệt bút!

Tóm lại, văn u mặc, tuy có nhiều hình thức cao thấp khác nhau, nhưng tựu trung đều có ngọn bút nhẹ nhàng, đều lấy tự nhiên là chủ yếu.

Cái u mặc sở dĩ khác với văn chương du hí của Trung Hoa, là không hoang đường, vừa trang trọng vừa hài hòa phát xuất tự chỗ tự nhiên để bàn đến nhân tâm thế sự và tuyệt đối không bao giờ thấy có giọng hề.

Đọc văn u mặc không bao giờ thấy sự cố cưỡng gò ép tử tư tưởng đến văn từ. Trên con đường nghị luận ít có sự ràng buộc, cho nên vui buồn, thương ghét đều phát xuất một cách chân tình. Văn u mắc khác văn trào lộng châm biến ở chỗ kín đáo của nó, thường thì chỉ nhận ở khóe mắt hơn nụ cười cửa miệng.

U mặc có nhiều thứ, có nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo Tây phương thường lại có ý nghĩa bao quát tất cả những gì khiến cho người ta cười, trong đó có những cái cười thô tục, bỉ lậu... Theo nghĩa hẹp, thì u mặc khác xa châm biếm cười đùa. Trong cái cười, có nhiều cách, như cười chua, cười đắng, cười nhạt, cười điên, cười nụ, cười vang... Lại cũng có cái cười lập đức... Nhưng trong tất cả mọi thứ cười, cái cười u mặc là một thứ cười hồn nhiên phát tự một trí huệ tuyệt vời, một tâm hồn siêu thoát, nặng về tình cảm nhẹ nhàng.

Tây phương bàn về u mặc có Aristote, Platon, Kant, nhưng đại để giống với Aristote, cho rằng: Cười, là lâm vào tình trạng khẩn trương đang đợi sự biến đổi thình lình. Tức là chỗ mà Dịch Kinh bảo: "Cùng tắc biến"

Freud, có đưa ra một dẫn chứng rất lý thú: "Một hôm có người bạn nghèo, đến người bạn giàu vay một số tiền. Hôm sau, anh nhà giàu gặp người bạn mượn tiền đang ngồi tại quán ăn trước một món ăn rất sang. Anh bạn giáu đến trách:

- Anh vừa mượn tiền của tôi, lại rồi ra đây ăn uống sang thế à! Vậy, thì anh mượn tiền để đi ăn ngon sao?

Người bạn nghèo đáp:

- Tôi không hiểu anh muốn nói gì cả. Tôi không tiền, nên không thể nào thưởng thức được món ăn ngon này. Vậy khi có tiền, lại cũng không được ăn món ngon này, vậy xin hỏi anh, đến chừng nào tôi mới được ăn món ngon này?

Anh nhà giàu cười, vỗ vai anh bạn nghèo rồi bỏ đi.

Trong khi anh bạn giàu hỏi, tình trạng thật là khẩn trương. Đến khi nghe câu trả lời của người bạn nghèo, thì tình trạng căng thẳng trong tâm tư bèn được giải tỏa, nhẹ nhàng thư thái... Cười, có cái tác dụng giải phóng thần kinh là vậy. "Bí ẩn tắc thông" là thế, như Dịch Kinh đã nói.

U mặc mà càng được bao trùm rộng rãi ra thế nhân bao nhiêu càng lại được nhiều kẻ đồng tình bấy nhiêu, bởi vì trong đám người nghe không ai thấy là chính cá nhân mình bị chỉ trích. Cho nên u mặc mà cao là khéo nói những chuyện bông lông, không nhằm vào một cá nhân hay một đoàn thể nào cả. Lấy việc xưa mà nói việc nay, cũng như lấy mình làm mục tiêu chế nhạo thì không ai nhột nhạt khó chịu và oán ghét. Vì vậy mà thường văn chương u mặc hay có tính cách ngụ ngôn và tự trào

"Sô Kỵ, người nước Tề, tướng cao, mặt mũi khôi ngô. Một buổi sáng soi gương, hỏi vợ:

- Ta đẹp hay Từ công đẹp?

Vợ đáp:

- Tướng công đẹp, Từ công sao sánh được?

Kỵ không tin, hỏi lại người thiếp, thiếp nói:

- Từ công sánh gì nổi Tướng công!

Có khách đến, Kỵ cũng hỏi thế. Khách đáp:

- Từ công đẹp sao bằng ngài!

Hôm sau Từ công đến chơi. Kỵ nhìn kỹ, biết mình không bằng. Lại soi gương càng thấy mình kém xa"

Ngẫm nghĩ rồi vào triều, tâu với Tề vương:

- Thần vốn biết dung mạo không bằng Từ công, vậy mà vợ thần vì yêu, thiếp thần vì sợ, khách thần thì muốn cầu cạnh, đều nói thần đẹp hơn. Nay nước Tề, đất vuông ngàn dặm, thành quách trăm hai, trong cung không ai là không yêu đại vương, bốn phương không ai là không mong chờ đại vương. Như vậy, đủ thấy người ta đã che mắt đại vương rất nhiều rồi vậy!

Chỗ u mặc của Sô Kỵ, là biết lấy các việc mình bị "che mắt" hoặc tự tạo ra để cảnh tỉnh sự bị "che mắt" của người khác, không riêng gì là của một ông vua, mà tất cả mọi người.

U Mặc Và Tình Thương

Tiếng cười u mặc vì vậy, có thêm một đặc điểm thứ ba la øtình thương

Tiếng cười u mặc là tiếng cười ôn nhu hòa hoãn, phát tự tâm linh siêu thoát, vượt lên xa những cái nhỏ nhen cố chấp của người đời.

Nếu châm biếm hài hước mà có tính cách cá nhân sẽ không còn phải là tinh thần u mặc nữa. Bởi vậy, những câu châm biếm có tính cách chua cay ác độc, hằn hộc nguyền rủa không phải là u mặc.

Tình cảm của u mặc là siêu thoát, là đạt thấu nhân tình đạo lý, người đọc văn không thể không vui mà nhận nó, như trường hợp Tề vương trên đây. Nguyền rủa, trịch thượng thì lời nói nặng nề, thô lỗ, kẻ bàng quan dù có cho là lẽ phải cũng rất khó mà đồng tình. Cười cái điên của một cá nhân nào. Jean Paul Richter nói rất chí lý: "Dưới con mắt của nhà văn u mặc, không có cái điên nào cho ai cả, mà chỉ có lũ con người điên, và cả một thế giới điên loạn mà thôi"

U mặc và phóng thích có nhiều chỗ gần nhau, nhưng không nên xem phúng thích là mục đích của u mặc. Phúng thích hay đi đến chỗ chua cay. Phải bỏ cái vẻ chua cay mà đạt đến một tâm cảnh trống không và hờ hững. Lại còn phải thêm một vài điểm từ bi nhà Phật là khác.

Trào lộng u mặc phải có vẻ ôn hòa thuần hậu, có tính cách thương xót cho số phận của con người. Đùa cợt, nhưng không đùa cợt theo cách hằn thù định làm nhục đối phương, mà đùa cợt một cách âu yếm như bậc cha anh đùa những cái lầm khả ái của con em mình. U mặc là trào lộng với thâm ý làm cho giác ngộ. Công dụng của nó là lập đức, bởi vậy, trong tiếng cười có pha giọt lệ, hay nói cách khác, u mặc là "tương tiếu nhất thinh song lê lạc" là "những giọt lệ trong con mắt đang cười' (des larmes dans un oeil quy rít). Bên Espana, người ta khuyên nên đọc sách trào lộng của Xervantès ba lần: Lần thứ nhất để cười, lần thứ hai để suy nghĩ, lần thứ ba để khóc. Thiết nghĩ, đọc bất cứ văn trào lộng thượng thừa nào cũng vậy, đều cũng phải như thế mới được.

U Mặc Và Nghịch Thuyết

Điểm then chốt của văn u mặc là nghịch luận, nghĩa là nói nghịch mới gây được sự bất ngờ, gây được lòng phẩn uất và bắt người ta phải đặc lại vấn đề. Là vì không có câu nói nghịch nào mà không có phần phải của nó, mặc dù nó không vừa lòng đẹp ý ta. Bất cứ một thứ chân lý nào cũng đều có hai mặt, cuộc biến động nào cũng có hai chiều: Thái cực nào cũng gồm cả hai nghi (lưỡng nghi), nói theo Kinh Dịch. Lão Tử bảo rất đúng: chánh ngôn nhược phản. Lời nói chính giống như là những lời nói nghịch: Nghịch để mà bỗ túc, chứ không phải để phủ nhận hoàn toàn đối phương. Bởi vậy, trong bất cứ chế độ tự do nào, phần đối lập là phần quan trọng nhất, vì thiếu nó, không có tự do. Trên đời này không bao giờ có chân lý tuyệt đối, cũng như không có sai lầm nào là sai lầm tuyệt đối, cho nên có thể nói, không có sai lầm, chỉ có những chân lý phiến diện mà thôi.

Nhà văn trào lộng nào mà hằn học, thù oán đối phươg, nhục mạ mạt sát không tiếc lời, chưa phải là nhà văn trào lộng u mặc. Họ thường muốn tỏ ra rất đạo đức và đóng vai trò "cảnh sát kiểm tục", "thiết diện vô tư"... Nhà văn trào lộng u mặc có khác, họ có cái giọng "khinh thế ngạo vật", chống đối đạo đức, thứ đạo đức giả trên đây. Đạo đức mà khắc nghiệt thường giúp cho tội lỗi càng thêm bành trướg, vì "ăn vụng" bao giờ cũng ngon hơn là bị bắt buộc phải ăn mà không dám cãi. Đúng như câu nói này của người xưa "tương dục phế chi, tất cố hưng chi!" (hòng muốn phê đó, lại làm cho đó hưng lên). Lạ gì cái thú "ăn trái cấm", thủy tổ loài người mà còn phải sa vào tội lỗi đầu tiên ấy là "ăn vụng"! Pascal nói rất đúng: Người đâu phải là một ông thánh cũng đâu phải là một con thú... Và khốn nạn thay, kẻ chỉ muốn làm ông thánh, lại biến thành con thú.

Trang Tử cười Khổng Tử, đâu phải cười đạo đức của Khổng Tử, mà cười cái thứ đạo đức giả của lũ học trò Khổng giáo, họ "bảo hoàng" hơn hoàng đế! Nietzche nguyền rủa đạo đức, vì ông là một nhà đạo đức thật, thấy rõ cái trò hề giả dối của bọn giả nhân giả nghĩa. Bởi vậy mới có người bảo: "Kẻ nói nhân nói nghĩa là thằng khôn, bọn nghe thuyết nhân thuyết nghĩa là đồ dại"

Nhưng dù "chống đối", u mặc chống đối bằng cách nhẹ nhàng cười đùa chứ không hằn học khắc nghiệt.

Trang Tử viết:

"Có nơm là vì cá,
Đặng cá hãy quên nơm"
"Có dò, là vì thỏ
Đặng thỏ hãy quên dò"
"Có lời, là vì ý,
Đặng ý, hãy quên lời"
"Ta tìm đâu đặng người biết
Quên lời, hầu cùng nhau đàm luận!"

Đọc kinh Kim Cang, ta cảm thấy dường như Phật viết tới đâu, là xé tới đó. Đến cùng, không còn một câu một chữ nào để cho người đời sau bấu víu: Phật đã xé kinh mà nói Pháp. Đọc kinh Phật thượng thừa, phải biết đọc kinh "vô tư".

Cho nên văn u mặc còn lại chỉ những bài văn ngụ ngôn, nói bâng quơ, nói bông lông, không nhắm việc của ai cả, không cổ, không kim, không sách, không vở... Là để nói lên những gì thoát khỏi văn tự, thoát khỏi thời gian và không gian. Danh từ phải có định nghĩa. Mà có định nghĩa là có giới hạn rõ ràng. Cho nên văn tự không phải để nói lên có một khía cạnh nào của chân lý mà thôi. Vì vậy, ta thấy trong những câu văn u mặc có lối ghép chữa lạ lùng: Những danh từ đối lập thường được đôi như cặp âm dương trong đồ Thái cực. Văn u mặc phát lên tiếng cười, tiếng cười của thức giả đã thấy rõ con voi toàn diện, cười lũ mù rờ voi đang tranh luận với nhau om sòm để dành lẽ phải về mình: Một lẽ phải tương đối và phiến diện.

Về văn chương, phần cốt tử là ở những chữ "nhưng", chữ "ma"'... Có những việc dở, nhờ chữ "nhưng" mà trở thành hay, cũng có lắm chuyện hay, chỉ vì chữ "nhưng" mà đâm ra dở.

Trong khi nhà Nho xem quá nặng cái chết, câu chấp trong việc tang lễ, an táng thì lo quan quách mỏng dầy, phục tang thì hạng kỳ nhất định với những nghi lễ vô cùng phức tạp chung quanh một cái xác thúi, thì Trang Tử cất tiếng cười vang... cười về cái chết của mình mà được người người muốn hậu táng:

Trang Tử gần chết. Các đệ tử muốn hậu táng.
Trang Tử không cho:
Ta có trời đất làm quan quách, nhật nguyệt làm ngọc bích, tinh tú là ngọc châu, vạn vật làm lễ táng. Đám táng như thế, chưa đủ sao?
Lại thêm chi lắm việc. Đệ tử thưa:
Chúng con sợ diều quạ ăn xác thầy!
Trang Tử cười nói: Trên thì diều quạ ăn, dưới thì giòi kiến ăn. Cướp đây cho đó, sao có thiên lệch thế?

Cái tiếng cười ấy của Trang Tử đã thức tỉnh không biết bao nhiêu người rồi! Đã giải thoát không biết hàng bao nhiêu tâm hồn đã bị ngộp thở trong sự ràng buộc hình thức của luân lý đạo đức vô cùng khắc khe phức tạp.

U Mặc Và Giả Vờ

Tóm lại có được một tâm hồn siêu thoát, không bị ràng buộc trong cảnh giới nhị nguyên, có nhận rõ đủ mọi khía cạnh của sự đời muôn mặt, có thấy rõ những cái đáng kinh mà thế nhân quá trọng, nghĩa là có thấy được cả bề trái của sự đời, mới viết nổi văn u mặc thượng thừa.

Không có một ai dám vừa quả quyết lại vừa phủ nhận một điều gì: Nhưng thường thường có biết bao việc mà chính mình cho là phải hôm trước, hôm sau lại phủ nhận nó ngay mà mình không hay không biết. Chân lý nào trên cõi tương đối này cũng chỉ là một thứ chân lý tạm thời và phiến diện mà thôi. Vì vậy bậc trí giả ngày xưa ở Đông phương không bao gời dám quả quyết một việc gì, họ thường hay dùng đến những danh từ "dường như" (nhược) như Lão Tử: "Chánh ngôn nhược phản", "đại thành nhược khuyết", "đại doanh nhược xung", "đại xảo nhược chuyết", "đại biện nhược nột"...

Văn u mặc, vì vậy, thường có cái giọng giả vờ: Nói một đàng nghĩ một ngả, giả vờ nói thuận là để nói nghịch, nói nghịch là để nói thuận, nói ít để nói nhiều, hoặc nói huyên thuyên để rồi chả nói gì cả. Là vì, như đã nói ở trên đây. Chân lý có hai chiều, gồm cả thị phi lưỡng diện không thể rời nhau.

Nhà văn Okakura Kakuzo, nhận xét về văn u mặc của người xưa bên Đông phương có viết: "Ngày xưa bên Đông phương, các bậc thánh hiền không bao giờ trình bày học thuyết của mình bằng sự quả quyết một chiều. Họ nói toàn bằng giọng nghịch thuyết, mâu thuẫn... là vì họ sợ đưa ra những thứ chân lý phiến diện... Họ bắt đầu nói chuyện như người ngu, nhưng rồi họ làm cho người nghe tỉnh ngộ"

Nhà văn u mặc vẫn thường dùng phép "nhái văn"(parodie), họ giả vời đóng vai đối phương, nói theo giọng đối phương nên lập trường tư tưởng của họ. Về lối bút pháp này, Trang Tử phải kể là tay cự phách.

Nhưng độc đáo nhất là giả vờ cười mình để khỏi phải làm ngượng kẻ khác. Lão Tử nói:

"Thượng sĩ văn Đạo, cần nhi hành chi
Trung sĩ văn Đạo, nhược tồn nhược vong
Hạ sĩ văn Đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu, bất túc dĩ vi đạo"

(Bậc cao nghe nói đến Đạo, thì cố gắng làm theo, Bậc trung nghe nói đến Đạo thì thoạt nhớ thoạt quên, hạng thấp nghe nói đến Đạo, thì cười to lên, thì sao đủ gọi là Đạo cả)

"Không cười to lên, sao đủ để gọi đó là Đạo cả!"

U mặc tế nhị làm sao! Cái tiếng cười to của hạng người hạ sĩ khi nghe nói đến Đạo, đâu có làm cho Đạo nhỏ hơn, mà lại làm cho Đạo càng thêm lớn rộng, càng thêm bất khả tư nghị đối với hạng người đầu óc thiển cận như "ếch ngồi đáy giếng". Tiếng cười to ấy là cái ngu xuẩn của những thứ nhãn quan phiến diện, chỉ thấy có cái lợi àm không thấy cái hại của cái lợi ấy, cũng như chỉ thấy có cái hại mà không thấy cái lợi của cái hại ấy.

Trang Tử ở thiên Thiên Địa, cũng cười mình là người mê: "Ôi! Hạng thật mê suốt đời mà không tỉnh. Hạng thật ngu, suốt đời không khôn... Ba người đang đi, mà có một người mê, thì chỗ mình định nói có thể mong đạt tới được, là vì kẻ mê ít mà người tỉnh nhiều. Nếu ba người cùng đi mà có đến hai người mê, thì chỗ mình định nói đến, không thể mong đạt tới được là vì người mê nhiều mà người tỉnh ít. Nay cả thiên hạ đều mê, ta dù muốn chỉ đường cũng không thể nào chỉ được... Biết là sự chẳng được mà vẫn cự gượng làm, đó lại càng mê hơn thiên hạ nữa!"

Văn u mặc chuyên về lối giả vờ: Giả vờ khiêm tốn, giả vờ thơ ngây, giả vờ lú lẫn...

Làm như nhớ đầu quên đuôi, sự việc bất nhất, trật tự hỗn loạn... là để tỏ sự phi lý và mâu thuẫn của cuộc đời, đối với lý trí hẹp hòi thiển cận của con người.

Chân lý thì có tính cách toàn diện, cớ sao vẫn u mặc lại không nhắm vào toàn khối mà cứ nhắm vào một vài khía cạnh đặc biệt nào đó thôi? Là vì nhà văn u mặc Đông phương quan niệm không có gì nhỏ, không có gì lớn: Tuy là một phần tử mà nó vẫn chứa đựng cả toàn thể. Một hột nguyên tử cũng là cả một vũ trụ vô tận vô biên. Họ giả vờ lú lẫn, bỏ sót bỏ quên... là để đừng bỏ sót bỏ quên gì cả. Bởi vậy mới nói: "Đại thang nhược khuyết"

Các nghệ sĩ tài hoa bao giờ cũng tin tưởng nơi óc thông minh nhạy cảm của những người thưởng thức tác phẩm của họ. Sở dĩ ít khi họ chịu nói hết lời là vì họ hiểu rất rõ công dụng của hư ngôn, của cái gọi là "ý tại ngôn ngoại". Cái "hư không" của văn nghệ giống như các lỗ hổng trên không trung: Nó thu hút mạnh không khí chung quanh: "Oa tắc doanh" là thế.

Văn u mặc thường có sự nửa úp nửa mở, giả vờ nói nghịch mà chỉ nói nửa lời thôi, là vì cái gì có vẻ bí mật sẽ có cái sức hấp dẫn lạ lùng. Bí mật mà càng cố giữ kín, là càng kêu gợi óc tò mò. Trong các bài nhạc, thường có những khúc lặng lẽ, những khúc nghe rất nhỏ... là để cho người nghe phải hết sức chú tâm mới nghe rõ được. Bởi vậy sự lặng thinh rất hùng biện, có khi còn hùng biện hơn hùng biện nữa. Thần thoại Hy Lạp có câu chuyện u mặc sau đây: Midas, vua xứ Phrygie, vì làm phật lòng thần Apollon nên bị vị thần này cho mọc hai cái tai lừa. Ông đã giữ kín việc này, nhưng không sao giữ kín được với tên thợ cạo của ông. Ông bắt tên này phải thề độc với ông là cho tới chết không được tiết lộ việc bí mật này. Sợ mắc lời thề, nhưng không sao giữ mãi sự bí mật ấy nó giằng dập tâm tư anh đến phát đau. Anh bèn nghĩ ra một kế: Đào một lỗ dưới đất, rồi kê miệng thì thầm bí mật: Vua Midas có lỗ tai lừa! Bấy giờ anh thấy lòng mình thơ thới nhẹ nhàng... Nhưng, nơi lỗ sâu mà anh đã cẩn thận lấp đất, lại mọc lên một đám sậy... Mỗi khi gió hiu hiu thổi, chúng sậy lại thì thầm tâm sự với nhau: Vua Midas có lỗ tai lừa!!!

Quả cái công dụng của Hư Vô đâu phải tầm thường. Thiện dụng hư ngôn, nói lên được cái không nói (ngôn vô ngôn) mới có thể viết được văn u mặc. Điều quan trọng ở văn u mặc, không phải ở những gì nó đã nói lên, mà quan trọng là ở những gì nó đã khiêu gợi được nơi ta Nếu muốn làm văn u mặc hãy lựa chọn những danh từ nào thật hùng biện, còn chưa tìm ra được, tốt hơn không nên viết gì cả. Bởi vậy cái hay của một bài thơ hay, là ở nơi sự khêu gợi của nó: Một bài thơ hay, vì thế, hay hơn cả một pho triết lý trên hằng vạn lời minh chứng dài dòng và lê thê bất tận.

Viết được lối văn u mặc thường thừa, ít lắm phải có một nhân sinh quan rộng rãi, phải biết thoát lên ăn tự, phải có được một tâm hồn siêu thoát khỏi cảnh giới nhị nguyên để nhìn việc đời một cách bao trùm muôn mặt. Lâm Ngữ Đường quả quyết rất đúng: Trang Châu là người rất xứng đáng làm thủy tổ cho văn học u mặc thượng thừa Trung Hoa. Là vì cái nhìn của Trang là cái nhìn của con chim Bằng trên chín từng mây, nhìn sự vật trên đời chỉ có một màu xanh xanh huyền ảo thôi: Hư hư thật thật. Hay nói một cách khác: Văn của Trang nói nghịch là để nói thuận, nói hư là để nói thực: Cái giả nằm trong cái chân, cái chân nằm trong cái giả.

Đọc sách Trang Tử, không sao không liên tưởng đến văn chương của phái Thiền, họ vượt lên rất xa văn tự tầm thường mà bách gia chư tử chưa ai sánh kịp.

Để cảnh tỉnh bọn đệ tử bo bo bấu víu vào văn tự, Thích Ca Như Lai đã phải long trọng tuyên bố:

"Ta thuyết pháp trong khoảng bốn mươi chín năm mà chưa từng nói một lời nào! (...) Kìa đệ tử hãy xem theo ngón tay ta mà thấy mặt trăng, nhưng nên nhớ, ngón tay ta không phải là mặt trăng!"

U mặc dịu dàng sâu sắc làm sao!

Tôi chưa từng thấy một bậc vĩ nhân nào trong tư tưởng giới, dù trang nghiêm đạo mạo bậc nào mà chẳng có ít nhiều tinh thần u mặc. Từ Phật, Lão, Khổng, Mạnh... bên phương Đông, đến Socrate, Platon, Héraclite, Pascal... bên phương Tây, không một người nào là không u mặc. Khi vị nồng nhạt nhiều ít là tùy tính khí, tất cả đều vô cùng thanh nhã và thoát tục. Nhà văn Mallarmé nhận xét rất đúng: "Bất cứ nhà văn hoàn bị nào, rốt cuộc đều trở thành một nhà văn u mặc"

U mặc mà dùng đúng với tinh thần của nó đều có công thay đổi cả một đời tư tưởng sai lầm của chúng ta.

Vậy, tư tưởng cần được cởi mở tự do, triết học cần phải vui tươi và tế nhị, hợp lý và hợp tình, không nên quá thiên về cơ trí. Một thứ triết lý vui vui, tư tưởng tự nhiên và giản dị... là những yếu tố chính của văn học u mặc. Hay nói một cách khác, có vui vẻ, có tự nhiên là vì có u mặc.

Một nhà văn đạo mạo trang nghiêm thường dễ vấp phải sự vụng về và lố bịch, bởi họ đã phải cố gắng rất nhiều để luôn luôn giữ bộ mặc trang nghiêm trong khi đời chung quanh chỉ là một tấn hài kịch không hơn không kém:

Nhộn nhàng trong một lớp tuồng,
Rồi ra ai cũng vô buồng như ai...

Đời không phải chỉ là hài kịch, cũng không phải ròng là bi kịch, mà là một tấn bi hài kịch. Cho nên cố gắng trang nghiêm thành ra trò hề, như Pascal đã nói: "Kẻ muốn làm thánh, lại làm thú". Còn cố gắng, sẽ mất tự nhiên: Nhà văn quá tôn nghiêm đạo mạo giống như một anh nhà giàu mới học làm sang.

Giản dị và tự nhiên, mới thấy tưởng như là tầm thường, kỳ thực đó là biểu thị của sự trưởng thành tư tưởng. Đó là hai đức tính khó đạt nhất trong văn chương nghệ thuật. Nhưng đó là hai yếu tố chính của văn u mặc.

Nhà cách mạng Proudhon, trong ngục thất ở Sainte Pélagie, còn đã phải ca tụng không tiếc lời vai trò của trào lộng châm biếm như sau:

"Ôi! Trào lộng! Mi mới quả thật là Tự do!
Chính mi đã giải thoát ta ra khỏi:

- Lòng tham vọng uy quyền,

- Óc nô lệ đảng phái,

- Óc sùng bái vĩ nhân,

- Thói tôn kính tập quán,
Thái độ kiêu hãnh đổm của bọn người thông thái,

- Những thủ đoạn lừa đảo chính trị,

- Óc cuồng tín của các nhà cách mạng.
"Mi đã khuyên Jésus, khi người sắp trút linh hồn trên cây Thập giá thốt lên lời cầu nguyện cho bọn người hành hạ tàn nhẫn ông: Xin Cha hãy tha tội cho chúng, vì chúng làm mà chẳng hiểu gì cả những việc chúng làm!
Trào lộng dịu dàng làm sao!
Chỉ có mi là trong sạch, trinh khiết, kín đáo mà thôi.
Mi thêm duyên dáng cho cái đẹp,
Mi thêm mùi vị cho tình yêu.
Mi giúp cho lòng nhân nẩy thêm lòng hỉ xả,
Mi làm cho tan đi cái thành kiến giết người.
Mi làm cho hạng người có óc bè phái và cuồng tín hết cuồng!
Và Đạo đức, ôi, lại cũng là mi nữa!"

Jésus đã chết... nhưng đâu phải chết vì sự tàn ác của con người, mà chính vì cái ngu xuẩn của con người: "Họ làm mà không hiểu rõ việc làm của họ!" Ai trong chúng ta, dù là hạng người đại trí, dám tự hào là người đã hiểu rõ lý do những việc mình làm!

U mặc quả có công dụng "phá chấp" đúng như Proudhon đã viết. Nó đã san băng Thị Phi, Vinh Nhục, Đại Tiểu... Cái mà thiên hạ cho là phải, nó chứng minh rằng cái phải ấy chỉ là một cái phải tương đối và phiến diện... Cái mà thiên hạ tôn thờ cho là vinh quang cao cả nhất, nó chứng minh rằng trong cái vinh quang ấy vẫn còn có cái bề trái ẩn khuất rất nhục nhã và đê hèn của nó. Nó có công dụng giải thoát ta ra khỏi lòng tham vọng uy quyền tối thượng, bằng cách khuyên ta "ngoại kỳ thân nhi thân tồn". Trong khi cái thông bệnh của loài người là tưởng rằng đời đục cả, một mình ta trong, đời say cả, một mình ta tỉnh, thì nó khuyên ta: "thông minh duệ trí, thủ chi dĩ ngu, dũng lực chấn thế, thủ chỉ dĩ khiếp" và trong ba cái báu mà người trí nên ấp ủ, nó khuyên ta: "Bất cảm di thiên hạ tiên" (không dám đứng trước thiên hạ) để khỏi phải làm nhục lòng người, khỏi phải vô tình vời họa đến cho mình.

Nghịch luận và bất ngờ, đó là hai yếu tố chính của văn u mặc. Nó làm cho con người "hốt nhiên" mà "tỉnh ngộ". Có trí là khó, mà thông minh mới khó hơn. Thông minh cũng còn dễ, thông minh mới khó hơn. Thông minh cũng còn dễ, thông minh mà như ngu mới khó hơn. Văn học u mặc ít thấy nói đến những cái gì vinh quang cao quý, mà chỉ nói đến những cái thấp hèn thấp nhỏ bé nhất của cuộc đời, và nếu có nói đến những gì cao xa vĩ đại là để nói đến những gì mà tự nó không có gì cao xa vĩ đại cả!

Văn học u mặc cũng hay bàn đến các con người "điên", "say" và "ngu", nhưng đều là những cái "điên", cái "say", cái "ngu" của hạng người đại trí không còn mê chấp trong việc lấy cái tương đối làm tuyệt đối. Về loại văn học u mặc này, Trung Hoa có thể gọi là giàu nhất với những bộ truyện trào phúng cao xa, như Tây Du Ký là một và đọc Lỗ Tấn, quả là một kỳ thú!

Đọc văn u mặc, nhất là u mặc Đông phương của Lão Trang hay Thiền Tông, ta sẽ thấy câu định nghĩa sau này của phái Thiền thật là sâu sắc: "Cười là một sự ngạc nhiên đồng tình". Phần đông sở dĩ có sự đồng tình là vì có đồng mới có ứng. Cái cười của Thiền, trước tiên là sự ngạc nhiên, vì nó là một nhận xét nghịch lại với lối suy tư và thành kiến lâu nay của mình. Vừa ngạc nhiên, thì lại vừa tỉnh ngộ. Giác ngộ thường được biểu thị bằng một tiếng cười rất đặc biệt: Cái cười của người đắc Đạo vừa phá được cái vô minh của mình.

Đọc một câu văn u mặc, ta có cảm tưởng đầu tiên gặp một đối thủ, một kẻ thù thân yêu bởi họ dám nói nghịch lại với ta. Nhưng rồi người thù ấy biến thành người bạn, người bạn ấy lại trở thành một người thầy!

Đọc văn u mặc của Thiền sẽ gặp toàn là những nghịch thuyết vô cùng táo bạo. Cho nên mới nói: Thiền mà không có "cười" chưa phải là Thiền.

Các thiền sư thường căn dặn: Mỗi khi một câu hỏi được nêu ra, hãy trả lời nghịch lại hoặc làm thinh... vì chân lý có hai chiều, coi chừng bị kẹt. Nếu ai có hỏi ta về cái Hữu, hãy trả lời bằng cái Vô. Nếu hỏi ta về cái Vô, hãy trả lời bằng cái Hữu... Với phép nói nghịch ngợm ấy, anh sẽ giúp họ hiểu rõ thế nào là Trung đạo. Còn có câu văn u mặc tối thượng thừa nào qua nổi câu này của kinh Kim Cang: "Cái gọi là Phật pháp, tức chẳng phải là Phật pháp, nên gọi là Phật pháp... Phật nói chúng sinh, tức chẳng phải là chúng sinh, cho nên mới gọi là chúng sinh". Không hiểu nổi giọng u mặc này, tụng kinh niệm Phật vô ích.

Bên Nhật có chế ra một món đồ chơi gọi là con lật đật. Con lật đật không có chân, bụng thì tròn mà có đổ chì cho đầu nhẹ đít nặng. Bởi vậy, dù lật ngửa lật nghiêng, nó vẫn ngồi thẳng lên một cách tự nhiên không cần ai giúp cả. Đó là cái tượng của Bồ Đề Đạt Ma. Các thiền sư muốn mách nhỏ với bọn "đầu to" (đại trí giả) Âu Mỹ rằng óc thông minh của con người thực sự không phải ở trên đầu, nghĩa là ở trong những bộ óc thông minh lý trí của con người, và sự gìn giữ lẽ thăng bằng đâu phải chỉ do một đầu óc đầy cơ trí: Trí huệ không liên quan gì đến bộ óc thông thái cả. Đó cũng là muốn nói lên cái chân lý "cao dĩ hạ vi cơ" của Lão Tử. Vật chất là cơ bản của tinh thần, chỉ e kẻ chỉ muốn làm thánh lại biến thành con thú.

Đọc văn u mặc của Thiền chỉ có hai lẽ: Hoặc hiểu, hoặc không hiểu gì cả, chứ không thể bao giờ giải nghĩa được. U mặc mà cố phân tích và giải nghĩa sẽ mất cả ý vị của u mặc. Nhắp một hớp rượu ngon hay uống một ngụm trà. Tàu thượng hạng không thể cắt nghĩa hương vị của nó ra làm sao. Cho nên u mặc mà hay, là ở tại chỗ "ý tại ngôn ngoại". Đọc văn u mặc mà hiểu thì cười, đó là cái cười giác ngộ. Đọc văn u mặc mà không hiểu cũng cười, đó là cái cười của hạng "hạ sĩ văn Đạo"!...

Tóm lại, vai trò u mặc trong văn chương là nhẹ nhàng, nhân hậu, dùng phép nghịch luận để đánh thức con người, chỉ cho họ nhớ rằng sự vật nào cũng có hai mặt và hoạt động hai chiều. Trong cái cười của u mặc bao giờ cũng trang nghiêm, trong cái trang nghiêm, bao giờ cũng có cái ý cười đùa.