NGŨ HÀNH

Ðây Thầy phân ra Ngũ-Hành.

Trong chữ Thập ấy, âm dương gát chồng lên nhau mới ló ra bốn cánh mà kêu rằng: "Tứ-Tượng thành hình". Bốn cánh ấy phân ra Nam, Bắc, Tây, Ðông.

Lấy trung tâm cốt là . . . = Mồ Kỉ : Thổ,

Bên tả làm Ðông phương thuộc = Giáp Ất : Mộc,

Bên hữu làm Tây phương thuộc = Canh Tân : Kim,

Trên làm Nam phương thuộc = Bính Ðinh : Hỏa,

Duới làm Bắc phương thuộc = Nhâm Quí : Thủy.

Trời có Tiên-Thiên ngũ khí, Hậu-Thiên ngũ hành. Ngũ khí, Ngũ hành ấy là:

Thiên nhứt sanh Thủy, Ðịa lục thành chi,

Thiên tam sanh Mộc, Ðịa bát thành chi,

Thiên ngũ sanh Thổ, Ðịa thập thành chi,

Ðịa nhị sanh Hỏa, Thiên thất thành chi,

Ðịa tứ sanh Kim, Thiên cửu thành chi,

Ngũ-hành, ngũ-khí giao nhau mới sanh hóa đặng,

Lại Trời cón ngũ-khí, thì Ðất có ngũ-phương, người có ngũ-tạng. Người ngộ Ðạo phải lấy ngũ-hành ấy chế tạo mà luyện kim-đơn cho thành xá-lợi.

Muốn thành xá-lợi cần vận chuyển pháp-luân cho ngũ khí triều-nguơn, tam-huê tụ-đảnh.

Làm sao cho ngũ-khí triều-nguơn, tam-huê tụ-đảnh đặng?

Muốn tam-huê tụ-đảnh phải bảo tinh, dưỡng khí, tồn thần. Luyện chơn chưởng thành đồ cho tinh hóa khí, khí hóa thần, thần huờn hư. Ba báu qui về tại kim đảnh là thành Ðạo.

Còn muốn cho ngũ-khí triều-nguơn phải dụng công phu định cái tâm, gìn cái ý, bế ngũ quan, thì ngũ-tạng hiệp về, tâm hồn thanh tịnh vô-vi thì:

Nam phương Xích-Ðế triều nguơn.

Bắc phương Hắc-Ðế triều nguơn.

Ðông phương Thanh-Ðế triều nguơn.

Tây phương Bạch-Ðế triều nguơn.

Các con khá hiểu.

Trước khi con người chưa tu luyện thì mỗi hành ở riêng mỗi chỗ, xa nhau như vầy:

O

O O O

O

Còn biết tu luyện rồi thì ngũ-khí triều-nguơn như vầy (dính chồng nhau):



Ngũ khí ấy mới xung lên biến hóa vô cùng vô tận:

1 thành 5,

5 đó thành 25,

25 biến hóa ra mỗi 1 thành 5 nữa, là 125 . . . biến hóa mãi thiên hình vạn trạng. Các con ngồi một chỗ mà muốn đi muôn ngàn chỗ thì hóa ra muôn ngàn cái xác thân cũng đặng, đó là "Ngũ-Khí hiệp thành. Tam-Thanh qui nhứt".