1-Thánh giáo sưu tập năm 1965 -Mục lục -VPPTGL (21-3-65)

Thánh giáo sưu tập năm 1965

Mục lục -VP Phổ Thông Giáo Lý

THÁNH GIÁO SƯU TẬP 1965 - ẤT TỴ
MỤC LỤC
1.- VP PHỔ THÔNG GIÁO LÝ, Tuất thời 19.02 Ất Tỵ (21-3-65)
2.- THIÊN LÝ ÐÀN, Tuất thời 30 tháng 2 Ất Tỵ (01/4/65)
3.- NGỌC MINH ÐÀI, Tuất thời Mùng 3 tháng 3 Ất Tỵ (05-4-1965)
4.- THIÊN LÝ ÐÀN, Tuất thời mùng 1 tháng 4 Ất Tỵ (01-5-1965)
5.- HƯỜN CUNG ÐÀN, Tý thời mùng 7 rạng mùng 8.04 Ất Tỵ (07-5-65)
6.- THIÊN LÝ ÐÀN, Tuất thời mùng 10 tháng 04 Ất Tỵ (10.5.1965)
7.- HƯỜN CUNG ÐÀN, 14 rạng Rằm tháng 4 năm Ất Tỵ (14-5-1965)
8.- THIÊN LÝ ÐÀN, Tuất thời, Rằm tháng 4 Ất Tỵ (15/5/65)
9.- HƯỜN CUNG ÐÀN, 30 rạng mùng 1 tháng 5 Ất Tỵ (30-5-1965)
10.- NGỌC MINH ÐÀI, Hợi thời Mùng 10 tháng 5 Ất Tỵ (09-6-65)
11.- HUỜN CUNG ÐÀN, 14 rạng Rằm tháng 5 Ất Tỵ (13-6-1965)
12.- THIÊN LÝ ÐÀN, Tuất thời 20 tháng 5 Ất Tỵ (19.6.1965)
13.- HƯỜN CUNG ÐÀN, 29 tháng 5 rạng mùng 1.6 Ất Tỵ (27-6-65)
14.- HƯỜN CUNG ÐÀN, Tuất thời 14 tháng 6 Ất Tỵ (12.07.1965)
15.- VẠN QUỐC TỰ (Chơn Lý Ðàn), Rằm tháng 6 Ất Tỵ (13.7.1965)
16.- NGỌC ÐIỆN HUỲNH HÀ, Ngọ thời 24 tháng 6 Ất Tỵ (22/7/1965)
17.- HƯỜN CUNG ÐÀN, Tuất thời 29 tháng 6 Ất Tỵ (27-7-65)
18.- MINH ÐỨC ÐÀN, Tuất thời 10 tháng 7 Ất Tỵ
19.- THIÊN LÝ ÐÀN, Tuất thời Mùng 01 tháng 08 Ất Tỵ (27.08.65)
20.- VẠN QUỐC TỰ, Ngọ thời Rằm tháng 8 Ất Tỵ (10.09.65)
21.- THÁNH THẤT TÂN ÐỊNH, Tý thời Rằm rạng 16.8 Ất Tỵ (10/9/65)
22.- TRÚC LÂM THIỀN ÐIỆN, Ngọ thời 20 tháng 8 Ất Tỵ (15.09.65)
23.- HƯỜN CUNG ÐÀN, Tuất thời 29 tháng 8 năm Ất Tỵ (24/9/65)
24.- NGỌC MINH ÐÀI, Tuất thời 14 tháng 9 năm Ất Tỵ (8/10/1965)
25.- VẠN QUỐC TỰ (Chơn Lý Ðàn), 20.11 Ất Tỵ (12-12-1965)
26.- HUỜN CUNG ÐÀN, Mùng 2 rạng Mùng 3.12 Ất Tỵ (24/12/65)
27.- VĨNH NGUYÊN TỰ, Ngọ thời mùng 3.12 Ất Tỵ (25/12/1965)
28.- CHƠN LÝ ÐÀN, Tuất thời 23 tháng Chạp Ất Tỵ (14/01/66)

1.- VP PHỔ THÔNG GIÁO LÝ, Tuất thời 19.02 Ất Tỵ (21-3-65)
THI :
Quan tước mấy ai được cửu trường,
Âm thầm hành đạo nối tình thương;
Như không biết được phương châm ấy,
Lai học cứu mình thoát nhiễu nhương.
Bần Ðạo chào chư Thiên mạng lưỡng đài, chào chư hiền sĩ, chư hiền muội.
Hôm nay ngày Vía của Bần Ðạo, nên tiện dịp lâm đàn để đôi điều nhắc nhở chư hiền sĩ hiền muội trên bước đường tu học. Bần Ðạo mời an tọa đẳng đẳng.
Giữa lúc thế sự nhiễu nhương, Giáo Hội tranh phân, khiến lòng người hoang mang chẳng ít, chư hiền sĩ hiền muội rất hữu duyên được giác ngộ sớm, tìm học lẽ Ðạo. Thông cảm được mối thiện tâm ấy, nên Bần Ðạo nhắc nhở chư hiền sĩ, hiền muội điều nầy:
THI :
Ðạo mầu vô thượng pháp huyền vi,
Phải biết sưu tầm một lối đi;
Nẻo tắt đường quanh rồi cũng đến,
Lâu mau tùy chí biết tu trì.
PHÚ LỐI VĂN :
Ðời mạt pháp khiến muôn điều đảo lộn,
Cơ điêu tàn xáo trộn khắp nơi nơi;
Bởi chúng sinh xa cách lý Ðạo Trời,
Lòng bác ái lần hồi như mất cả.
Giữ danh lợi kẻ xô người ngã,
Miếng đỉnh chung nhục mạ lẫn nhau;
Chữ nghĩa nhân lòng tục hỡi còn đâu ?
Tình thương mến khó âu tồn tại,
Khiến xô xát bởi điều quấy phải;
Xui tương tàn kẻ lại người đi,
Mãi quẩn quanh trong cảnh hiểm nguy.
Hoài xuôi ngược trong vòng chém giết,
Lòng đạo đức đâu nào có biết,
Chữ quả công như việc mơ hồ;
Lòng nhơn gian tợ thể tơ vò,
Trí nhân loại cùn đồ tan biến,
Từ kẻ ác nhiễu nhương sanh chuyện,
Ðến người lành lương thiện họa lây.
Thế nên cơ Tạo Hóa vần xoay,
Tùy nhân loại định ngày tan biến;
Không lẽ để cho người lương thiện,
Cùng chết oan trong biển lửa đời.
Nên Ðạo Trời mở khắp nơi nơi,
Gọi nguyên vị nghe lời đạo lý;
Sớm tu tỉnh độ thân độ kỷ,
Mau hồi tâm nguyên vị trở về.
Ðể may ra thoát cảnh sông mê,
Ðẻ hữu phước trở về đời lạc thiện;
Cảnh tan biến một hồi luân chuyển,
Máy Thiên cơ hiển hiện bao hồi.
Ðộ nguyên nhân thoát cảnh tơi bời,
Dìu kẻ thiện lập đời Thượng Ðức;
Nếu đủ số về nơi Tây Vức,
Chưa đến căn còn cực với đời.
Cũng sinh tồn ở chốn trần vơi,
Hưởng lạc cảnh một đời Nghiêu Thuấn;
Chư hiền sĩ đức tin cho vững,
Kẻo lạc loài giữa chốn quay cuồng.
Ðời chi vui hoặc những chi buồn,
Phải gìn dạ đừng chạy luông tuồng xuôi ngược;
Buổi nguơn hạ mới biết ai người vững bước,
Cơn nguy vong mới hiểu được kẻ ít phước với nhiều căn
Dẫu nói xa hiền sĩ rán hiểu gần,
Việc thực tại cõi trần đang sống tạm;
Rán tu tỉnh để qua hồi hắc ám,
Khá bền tâm hầu vượt đám mây mù;
Trọng tâm là tu học, học tu,
Việc chánh bởi một câu chánh tín.

Nếu chư hiền sĩ, hiền muội không đủ pháp mầu để ta bà cứu độ, thì ít nhứt phải rán tu mà tự cứu lấy mình.
THI :
Nơi đây nhìn thấy lắm nguyên căn,
Khuyên khá trỗi mau một bước đàng;+
Công quả chung tay kỳ mạt pháp,
Ngày gần sẽ thấy phúc Trời ban.
NGÂM :
Thế gian tuy lắm rộn ràng,
Người tu khá chọn con đàng nghĩa nhân;
Khuyên nhau huynh đệ xa gần,
Phổ Thông Giáo Lý chung phần lập công.
Công cao thì ngộ ân hồng,
Phước dày thì gặp Hoa Long dự kỳ.
Tu đi hãy gấp tu đi,
Thế thời đã vậy còn gì hỏi han.
Ban ơn sĩ muội trung đàn,
Thế trần lo đạo, Niết Bàn đây lui. ( Xin kiếu)