Chương 2


Tôi đã bắt đầu quen với tiếng chuông của ngôi nhà thờ Chính tòa. Sáng sớm, lúc 12 giờ trưa và buổi chiều. Tiếng chuông ngân nga, khi quyện với sương mù, khi lẫn trong gió, đều đặn vào những giờ khắc nhất định. Tiếng chuông mà có buổi chiều trong cơn ho rũ tôi nghe chính là trái tim mình ngân nga. Tôi đã nhìn rõ hình dáng con gà đứng trên ngọn tháp chuông và tôi vừa nghĩ rằng, rồi cũng có một lần nào đó, có thể cũng là đêm Giáng sinh, như người lính phi công Vincent mất trí nhớ, tôi sẽ leo lên ngọn tháp chuông và bằng sức khỏe bệnh hoạn của mình, bẻ gãy khối sắt ấy đem về làm quà tặng cho Anh Chi. Sao lại có những liên tưởng kỳ cục như vậy? Cũng như ý nghĩ đã trở thành thực tại là tôi đem tôi lên đây. Sống để mà ám ảnh những chuyện gì đâu hoài, như vậy, có thể một ngày nào mình sẽ chết bằng những nổi ám ảnh đó. Chi theo hoài tôi, tôi theo hoài Chi, cũng chỉ loanh quanh trong trí tưởng của tôi. Cho đến khi nào chết đi, tôi đã nghĩ như thế, có lẽ hồn tôi vẫn còn theo Chi. Rong ruổi suốt đời này, suốt đời nhau không bao giờ biết mệt, không bao giờ tuyệt vọng. Phải là như thế.

Buổi sáng chủ nhật tôi đứng ngơ ngẩn ở trước cửa nhà thờ Chính tòa với ý nghĩ là có thể gặp Chi ở đó. Những hồi chuông đầu giờ lễ rồi những hồi chuông tan giờ lễ, tôi lẫn trong đám đông người ra vào nhưng không một lần tôi đã bước vào trong. Ðứng nơi cửa, tôi có thể nhìn thấy những tấm kính màu ở các khuông cửa, trên cao ghép thành hình các vị thánh, những miếng kính rực rỡ màu sắc trong nắng buổi sáng làm tôi nhớ màu sắc trong những bức tranh bằng chì sáp Chi thường nghịch ngợm trong cuốn sách in. Tôi đánh bạo hỏi thăm một soeur áo trắng, khăn màu xanh đậm mới trong nhà thờ bước ra:

- Thưa sơ cho tôi hỏi thăm...

Vẻ mặt của người nữ tu hơi ngỡ ngàng một chút khi đối diện với tôi, nhưng vẫn sẵn một nụ cười cởi mở:

- Ông hỏi gì cơ?

- Sơ có biết nội trú Domaine de Marie ở đâu không ạ?

- Domaine hả, người nữ tu trẻ đưa tay chỉ về hướng phía bên trái nhà thờ, ông đi lối này, hết con dốc kia rồi hỏi thăm thêm, chứ thực ra khó mà nói cho rõ để ông có thể tự tìm được.

- Thưa sơ, chắc xa lắm?

- Không, ông có thể đi bộ được nếu không tiện xe.

Lòng tôi hồi hộp quá. Nơi em ở sẽ êm đềm như một thiên đường hay chỉ là một cổng trường cao như tù ngục vây hãm tuổi chim muông nhảy nhót của em?

Tôi cúi đầu chào người nữ tu trẻ với lời cảm ơn rồi thong thả bước đi. Bây giờ, trên con đường này, chẳng còn là những ngọn me chụm đầu vào nhau, cũng trong buổi sáng chủ nhật nhưng không phải là những buổi sáng chủ nhật của ngày nào tôi thường đến với Chi, với kẹo ngọt lóc xóc trong túi, nghe đã tưởng trưởng thành lắm vậy, cũng là ở cuối con đường kia tôi tin là có Chi dù em chưa biết đợi, nhưng bây giờ tôi đã nghe có chút gì xót xa.

Mẹ Chi hiện ra ở đầu con dốc kia, trong màu áo nâu của củi gỗ, bà chặn đường tôi:

- Em đi đâu vậy Huy?

- Cháu đi tìm em Chi.

- Sao em lại làm vậy?

- Tại cháu nhớ em ấy.

- Nhớ à - mẹ Chi chau mày – đáng lẽ em không nên xử sự như thế mới phải.

- Tại sao không, tôi mím môi, bác đừng giẫm lên sự chân thành của cháu.

- Tôi tưởng em hiểu những gì tôi đã nói với em một lần rồi chứ.

- Nhưng bác không thể hiểu cháu.

Mẹ Chi cúi đầu, giọng chùng hẳn xuống:

- Em Chi còn nhỏ mà Huy.

- Vâng, cháu biết và cháu luôn nhớ vậy.

Tôi vượt con dốc, đi vào những hàng thông cao vút cao cành lá đan lấy nhau hai bên đường. Màu xanh lá cây là một màu chính của bức tranh vĩ đại vẽ thành phố này. Cũng có những màu đỏ của các mái ngói và những bờ tường trắng của các ngôi biệt thự nổi bật lên. Và màu trời luôn là một màu ôm lấy tất cả thiên nhiên. Tôi cười một mình khi nhớ tới vài mẩu kỷ niệm ngày nhỏ, cũng không xa gì vài ba năm trước, tôi đã lang thang từ buổi sáng, qua một buổi trưa trên những con đường vắng lên dốc xuống dốc của thành phố này. Tôi vừa đi vừa ngậm harmonica thổi vang lừng một khúc đường vắng, ngồi lại ở gốc thông già nào đó và mơ tưởng một vài điều thú vị có thể bất ngờ xảy đến trong đời mình. Nhưng đã không bao giờ tôi nghĩ tới một ngày tôi có Chi và lang thang cũng trên những con dốc nơi đây khi tôi trở lại, cũng lang thang trên lối cũ, có thể không còn gì để mộng tưởng nữa, như tôi đã mất Chi chẳng hạn. Ðời buồn biết mấy khi biết mình chỉ là con số một bơ vơ. Tôi cúi xuống lượm một cành cây khô bên đường tung lên trời, những vòng tròn vẽ ra trong không rồi cành cây khô rơi gẫy vụn dưới chân. Quả thật tôi cũng chỉ là một đứa con trai nhiều ngớ ngẩn.

Ở một khúc quanh tôi thấy một người con trai và một người con gái đi bên nhau, cách tôi một khoảng xa. Họ đi thật chậm nên tôi không thể nhìn thấy họ trước đây, hay họ vừa bước ra từ một ngôi biệt thự nào đó bên đường này, có thế. Cũng có thể họ mới dự thánh lễ buổi sáng chủ nhật với nhau, ở nhà thờ Chính tòa về. Người con trai mặc áo len màu nâu cổ cao bẻ xuống, người con gái khoác chiếc áo măng-tô màu sậm, cổ có quấn thêm khăn len màu đỏ mà một đầu bỏ rơi trên vai sau với mái tóc đen nhánh. Họ đi bên nhau những bước nhỏ và những bàn tay ủ sâu trong nhau. Tôi gọi thầm. Anh Chi, Anh Chi. Và bỗng thấy mình run rẩy, lạnh quá đỗi.

- Anh Huy nè.

- Dạ.

- Ngoan ngoãn nhỉ!

Chi bật cười khi thấy tôi khoanh tay. Chúng tôi nửa ngồi nửa quỳ ở một bờ cỏ non ngoan như hai con chim sẻ ríu rít bên nhau buổi sáng. Buổi sáng làm những ngọn cỏ hồng lên màu hạnh phúc. Chi đặc bàn tay nhỏ bé lên đầu gối tôi:

- Anh Huy nè, thí dụ như mười ngón này là mười ngón thương yêu thì anh thương Chi mấy ngón?

Tôi nắm trọn lấy cả đôi bàn tay của Chi mà siết chặt đến nỗi làm Chi đau đớn khóc òa lên ôm lấy tôi. Nín đi em, tôi dỗ dành, nín đi em. Nhưng tôi đã cùng ôm em mà khóc. Những giọt nước mắt tưới xuống làm cao cây cỏ. Và cỏ cây khôn lớn.

Tôi nhớ một lần Chi đã kể lại em mơ thấy chúng tôi ngồi bên nhau như vậy, nhưng câu trả lời của tôi chỉ là bẻ cong một ngón tay út, mà em tức tưởi khóc không thôi. Em mơ chi mà ác quá, tôi trách móc khi nghĩ lại. Bây giờ chẳng phải là để em mơ nữa, tôi đã tung hết tât cả, cả tương lai nếu cần để có một sự thật là tôi có em.

Hai đứa con trai nhỏ vừa đuổi nhau vừa cười lớn tiếng chạy ngược về phía tôi. Tôi chặn đứa chạy trước và đứa chạy sau lập tức bắt được bạn. Chúng bỏ trò chơi, ngó tôi. Tôi hỏi:

- Nhỏ biết lối tới Domaine không?

- Domaine hả?

Một đứa hỏi lại tôi. Tôi gật đầu:

- Ừ.

- Em không biết.

Hai đứa rú lên cười và vùng bỏ chạy tiếp tục với trò chơi đuổi bắt nhau. Tôi nhún vai và quay lại với con đường của mình. Hai người đi trước mặt tôi hồi nãy giờ đã rẽ một con dốc khác, có những bậc đá để xuống một dãy nhà xây đồng kiểu nhau theo lối một cư xá. Họ dắt nhau, cụng đầu với nhau cười nói nhìn rất dễ thương. Tôi gọi thầm. Anh Chi, Anh Chi. Với đôi bàn tay lạnh ngắt.

- Nếu em biết có một ngày anh đến.

- Thì em sẽ đợi.

- Anh sẽ đến vào buổi sáng.

- Lúc vườn tâm hồn em vừa nở những nụ hồng đầu.

- Anh có gì để tặng em.

- Ðừng khách sáo.

- Với đôi bàn tay trắng chúng ta vẫy chào nhau.

- Và chúng ta nắm lấy nhau.

- Anh sẽ tới em vào buổi chiều.

- Ðừng là buổi chiều vì chiều mau sập tối.

- Anh sẽ có những vì sao.

- Ðừng là những vì sao, vì sao sẽ trở thành những giọt nước mắt.

- Anh có những kỷ niệm.

- Ích gì anh, vì kỷ niệm chỉ là vết xót xa đau.

- Anh sẽ có những lời hẹn lâu.

- Ðừng anh, mơ tuởng gì nhiều cho khổ tâm.

- Thế anh có gì?

- Một nỗi buồn.

- Ừ, một nỗi buồn, chẳng giữ được nhau.

Im lặng lâu lắm, tôi và Chi tưởng như nghe rõ hơi thở của chính mình. Chúng tôi cùng lớn thêm một chút để cài những câu nói nghĩ ngợi vào tuổi nhau.

- Em Chi à.

- Dạ.

- Nếu em biết không có một ngày nào anh sẽ đến.

- Thì em vẫn đợi.

Tôi hôn lên trán Chi. Cám ơn em. Anh hạnh phúc quá.

Bây giờ chúng tôi đi bên nhau, cười đừa bên nhau. Chi giang rộng cánh tay:

- Nếu là chim trời...

- Thì anh không là một cái ná.

- Chi vậy?

- Một cái ná độc ác có thể bắn chim trời sa rụng.

- Không, anh chỉ xin làm một nhánh cây.

- Chi vậy?

- Ðể đêm chim về đậu ngủ ở đấy.

- Nhưng nếu em là một bông hoa bé tí mọc trên chót vót đỉnh núi.

- Thì anh sẽ làm một tiều phu tiêu pha cả đời mình đi tầm thú hoa lạ đó.

- Nhọc công nhỉ, đáng gì đâu anh.

Chi ngậm hờ ngón tay trỏ giữa hai hàm răng để nghĩ xem mình sẽ là một cái gì thật lạ lùng. Chi reo lên:

- A, em sẽ là một cây kim, mà cây kim rớt xuống biển cơ.

- Khó ơi!

- Khó chứ, ai mà mò kim dưới đáy biển bao giờ.

Tôi không thua được:

- Anh sẽ là một cây kim thứ hai, cũng rớt xuống biển.

- Làm sao tìm được em?

- Nếu sống cùng một kiếp, sống riêng một cõi thì trước sau gì cũng gặp.

- Mà gặp nhau chi vậy?

- Ðể giảng toán cho những người bí lù chứ chi.

Chi vùng vằng. Tôi phải vội nói thêm:

- Và để bóc giấy bóng kẹo cho những người ưa đắng miệng vì thuốc lá nữa.

- Hứ...

Chi cười to với ý nghĩ mới:

- Rồi, nếu em sẽ là một con sâu, con sâu róm ấy nha anh, xấu xí ghê tởm. Nó bò tới anh cho anh quăng sách vở mà chạy.

- Em Chi ơi, tôi cúi xuống trên mái tóc mềm của cô bé, anh sẽ là thời gian. Vì sau thời gian đầy đọa sâu róm sẽ hóa kiếp thành bướm. Rồi anh là cây vợt chạy theo em mà “với” em một cái.

- Nhè nhẹ thôi nha anh, nhỡ đau em.

- Ừ, thật nhẹ thôi.

- Rồi em có bị ép vào cuốn từ điển không?

- Không.

- Chứ để em ở đây, nhỡ em bay thì sao?

- Thì cái vợt lại đuổi theo nữa.

- Anh sẽ có một sợi chỉ cột em vào.

- Không đâu đấy.

Chi xịu mặt xuống:

- Em không thích. Em không muốn anh có sợi chỉ.

Tôi dỗ dành cô bé:

- Ừ, anh ném sợi chỉ đi.

- Thế rồi em ở đâu?

- Anh cũng chả biết.

Chi cười:

- Em bay nữa.

Tôi cũng cười:

- Thì cái vợt lại đuổi theo nữa.

- Em bay hoài bay hoài bay hoài...

- Cái vợt lại đuổi theo hoài theo hoài...

- Mỏi cánh quá anh ơi...

- Ừ, anh cũng mỏi tay nữa.

- Ðứng nguyên một chỗ nhé anh, em sẽ buông cánh... buông cánh cho rớt xuống cái vợt. Chà, êm ái quá!

Chi và tôi cùng cười rộ, vui vẻ. Chi nói to:

- Bây giờ tôi là Anh Chi.

Tôi đáp theo liền:

- Và tôi là anh Huy.

Chi đổi giọng, nho nhỏ bên tai tôi:

- Anh Huy ẵm em đi anh Huy.

- Ơ...

- Thiệt mà – Chi vòi vĩnh, anh Huy ẵm em Chi đi.

Tôi ngó sững Chi một giây và biết mình phải chiều Chi thật. Tôi cúi xuống bế thốc Chi lên. Cô bé cười khúc khích thích thú:

- Em nặng không anh?

- Bằng một cái kẹo.

- Em được nhìn thẳng lên trời mà không cần phải mỏi cổ, thích quá.

- Em thấy gì?

- Mây.

- Gì nữa.

- Và mây.

- Anh tưởng em thấy thiên đường chứ.

- Thiên đường ở đâu anh?

- Ở khỏi mặt đất, ở ngoài tâm hồn. Thiên đường là nơi mà mình ao ước.

- Nếu vậy em sẽ nhắm mắt lại.

Rồi Chi nhắm mắt lại trên cánh tay tôi, em ngủ ngoan ngoãn trong lòng tôi. Em sẽ thấy thiên đường, Anh Chi yêu dấu của anh, có một chỗ cho chúng ta. Hãy ngủ mãi trên cánh tay anh. Ngủ cho suốt một đời nhau.

Ðôi trai gái đã khuất ở dưới dốc ngập hoa quỳ vàng. Tôi vẫn còn ẵm Chi trên tay mà đi, cho tới khi choàng tỉnh bởi hai cô gái nhí nhảnh đi ngang. Tôi muốn làm quen với họ để dọ đường nhưng không. Tôi hỏi thăm một người đàn ông mặc áo dạ đen, với chiếc píp phì phà ngậm trên miệng cùng đi tới:

- Thưa ông, ông có biết nội trú Domaine de Marie đi lối nào không?

Người đàn ông ngơ ngác với một cái tên nghe lạ, ông nói không biết rồi lầm lũi bước đi. Hai cô gái đi phía trước quay lại nhìn tôi rồi bấm nhau khúc khích cười. Có lẽ họ biết, đoán chừng thế, nhưng tôi lại không dám đánh bạo bước thêm vài bước để hỏi thăm họ. Tôi lại tiếp tục quãng đường mộng tưởng với Chi trên tay. Bây giờ chúng tôi cùng đi vào một khu rừng mùa đông với những ngọn cây trơ trụi lá, cành gầy guộc ôm nhau không đủ ấm. Sương khói vẽ những vệt dài thật nhẹ nhàng bao quanh lấy chúng tôi, khi nằm dưới chân, khi vương ngang đầu. Ðó là thế giới mà chàng thanh niên mất trí nhớ đã đánh rơi bản tính mình cho những tiếng động sau một thời, về đi dạo với cô bé đội mũ len trắng trong những ngày chủ nhật, ở một thành phố, ven một bờ hồ. Tôi đã sống bằng cả những liên tưởng và mộng tưởng của mình. Tâm hồn tôi, có bao giờ mệt mỏi trong những giấc mơ, mơ trong trạng thái tỉnh táo, và lạ thường nhất, trong cơn bệnh hoạn của tuổi tôi.

- Em chi này.

- Dạ.

Tôi hơi ngả cánh tay xuống cho mái tóc ngắn của Chi xõa ra. Tôi hỏi Chi:

- Em thích hay không?

Chi chớp đôi mắt sáng nhu sao của bé:

- Em là chim hở?

- Ừ, em bay đi.

Chi dang hai tay rộng:

- Em bay thật cao nhé anh.

- Và thật xa, thật xa...

- Còn anh?

- Anh cũng là chim nữa, cho anh bay theo em.

Tôi nâng Chi lên cao khiến cho mái tóc Chi bay ngược lòa xòa cả vào mặt tôi:

- Anh bay gần Chi nha anh.

- Anh có ngậm được một ngọn tóc của Chi đây.

Và chúng tôi cùng bay trên những cánh đồng mênh mông bát ngát.

- Một dải lụa ai phơi phới dưới kia kìa anh.

- Không phải đâu, một dòng sông đó.

- Ðẹp quá.

- Nếu em thích, chúng ta sẽ đáp xuống đây lập nghiệp.

- Thật nhé anh.

Chi vui mừng quá mà ôm chầm lấy tôi. Chúng tôi cùng rớt xuống. Nhưng chưa đụng thực tế. Bây giờ đôi tay của Chi choàng qua cổ tôi, mặt Chi áp vào ngực tôi.

- Em nghe được trái tim anh đang đập mạnh.

- Rồi một ngày kia sẽ ngưng nghỉ.

- Sao vậy anh?

Bởi tới một lúc nào đó em sẽ trở thành quá cần thiết trong đời sống anh, đó là lúc anh muốn nhắm nghiền mắt lại. Có thế chúng ta mới còn có nhau, vĩnh viễn. Tôi không nói với Chi thế, em ngơ ngác nhìn tôi đang ngửa mặt lên trời. Có thiên đường nào đã mở rộng một lối thênh thang, cho Chi và cho tôi, cho những ai không thể hẹn nhau ở đời sống này?

Vất vả nhiều trong cái đầu mi quá, Huy ạ. Trước mắt tôi, ở đầu con dốc hiện ra một khung cảnh thoạt nhìn tôi đã có cảm tưởng như một người chợt tỉnh dậy, chợt rớt từ trên cao xuống chân vừa chạm mặt đất, một cách nhẹ nhàng. Ðó là hình ảnh một ngôi nhà nguyện nhỏ nằm trong những hàng thông, với các bờ tườn gạch đỏ và các khung cửa vòng cung cùng những bậc đá và cây thánh giá trên ngọn tháp chuông mang vẻ uy nghiêm quen thuộc như ở bất cứ một ngôi nhà nguyện nào cũng có. Tự nhiên tôi linh cảm được rằng, nơi này em đang ở. Anh Chi của tôi đang thở và đi lại, ăn uống và nghỉ ngơi.

Ở đây yên lặng quá. Trong buổi sáng chủ nhật 10 giờ, những cánh cửa lớn của ngôi nhà nguyện đã đóng kín. Tôi làm re vẻ quen thuộc bước lên một bậc đá ở bên hông nhà nguyện và ngồi ở đó, bên cạnh một bụi hồng cao, hoa đã được hái vào chưng ở bàn thờ trong nhà nguyện hay trong phòng nào đó, chỉ còn những cành gầy guộc, đầy gai. Từ đây tôi có thể nhìn sang dãy nhà đối diện, có lẽ đó là khu nội trú. Tôi thầm nghĩ như vậy. Cũng có những khuôn cửa hình vòng cung mang một vẻ dịu dàng và cổ kính như lối kiến trúc của một tu viện, những dãy nhà ngói nằm cách nhau bởi một vuông sân rộng của khu nội trú ấy.

Các soeur ở đây mặc áo và màu khăn xanh đậm. Nhìn những nếp khăn và nếp áo của họ khi qua lại ngoài hành lang tôi chợt hình dung đến những con chim. Nhưng là những con chim không còn những tiếng hót ríu rít, bước chân nhảy nhót tung tăng nữa. Những con chim đã tự ý chui mình vào chiếc lồng giam hãm đời mình. Cái đuôi khăn trên đầu của người nữ tu đã thay thế mái tóc con gái cắt ngắn, khi họ đi lại vội vàng đuôi khăn ấy thướt tha, tôi nghĩ thế và một lần Chi nhắc tới các soeur ở trường, trông dễ thương. Tôi nhớ tới những bức tường vôi vàng, những khung cửa sổ lớp học mở ra bốn phiá, nơi trường cũ Chi học, những soeur mặt áo trắng và những bạn bè mà Chi đã bỏ lại ở Sài Gòn. Bây giờ ở đây, cũng bên những người nữ tu, Chi sống với họ ràng buộc nhiều hơn. Và những bạn bè mới, hẳn Chi phải có một đứa bạn thân. Ở nội trú dễ có bạn thân. Tôi không thích Chi có bạn thân, tôi không muốn em chia xẻ thương yêu đậm đà với một ai khác, bất cứ ai. Có lẽ chỉ trừ mẹ em ra.

Tôi chưa tìm thấy một tấm bảng đá nhỏ nào đó chẳng hạn, ở một bờ cổng nơi đây, có khắc chìm hàng chữ Domain de Marie. Nhưng tôi linh cảm thấy rằng đây chính là nơi mẹ Chi đã gởi em. Tôi ngồi ở bậc thềm nhà nguyện lâu lắm, chỉ mong có thể chợt nhìn thấy Chi ở một căn phòng nào đó trong dãy nhà có những khuông cửa hình vòng cung kia bước ra. Em đi ngoài hành lang, em qua sân và tim tôi sẽ ngừng đập khi thấy em băng qua con đường nhỏ trước mặt để bước lên nhà nguyện. Trời ơi, không biết khi nhìn thấy tôi thì em sẽ ra sao nhỉ. Em hoảng hốt bỏ quay đi như một điều sợ hãi. Tôi thắt lòng khi tưởng tượng em sẽ xa lạ và sợ sệt tôi. Ðã một lần tôi làm em sợ trong cơn bệnh hoạn của mình trên những bậc thang của Viện Dục Anh và lần ấy đã đẩy chúng tôi xa nhau, lạ lẫm nhau. Chính lần ấy đã cho thấy mẹ Chi là một cái bóng lớn đứng giữa chúng tôi.

Ðể bây giờ tôi ngồi đây và em Chi đang ở đâu đó trong khu nội trú kia.

Nội trú vắng có lẽ vì hôm nay là ngày chủ nhật. Chủ nhật, những thân nhân tới thăm và đưa các con em của họ về chơi một ngày. Chủ nhật, không biết ở trong phòng giờ này Chi đang làm gì, hay em đang vùi mặt xuống gối tủi thân. Chắc em sẽ khóc. Tôi biết. Em hay khóc lắm.

- Anh đến với em đây, Chi yêu.

- Anh vẫn còn nhớ tới em sao?

- Nhớ chứ, nhớ điên cuồng.

- Anh nói gì mà nghe dễ sợ, anh có lạ lắm không?

Anh đang lạ lắm. Anh biết mình lạ lắm. Nhưng cho đến bao giờ em mới hiểu. Ở một cõi yêu thương có khi chẳng còn một thứ ngôn ngữ nào để đặt tên, nhắc tới. Bởi nghĩa của nó là chính nó, nói ra nó sẽ tan biến rơi mất như một vốc cát nắm chặt trong tay, chẳng còn giữ được gì hay chẳng hiểu biết thêm thì. Rất vu vơ, rất dại dột.

- Nếu em biết...

Chi nhìn tôi, những hạt nước mắt còn đẫm trên mi:

- Anh nói gì ạ?

- Anh vẫn hằng nhớ em.

Chi ngã đầu trên vai tôi:

- Em biết.

Tôi lau khô những hạt lệ trên mắt Chi bằng môi mình:

- Ðừng khóc nữa em.

- Vâng. Nhưng...

Tôi nhìn Chi. Chi gục mặt trên vai tôi:

- Nhưng nếu em nhớ tới mẹ, em sẽ không đừng khóc được.

Tôi vuốt tóc Chi bằng tất cả những khéo léo, nhẹ nhàng nhất của mình. Tôi áp má trên tóc em và ghé môi lên đó. Em yêu dấu, hãy nhớ tới anh.

Tôi đứng dậy, bỏ bậc thềm nhà nguyện, bỏ khóm hồng gầy guộc bước ra phía cổng. Tôi muốn hỏi thăm một soeur áo xanh ở đây, mới từ phía những ngôi nhà ở phía dưới thung lũng bước lên. Soeur còn trẻ với vẻ đẹp còn nguyên vẹn tuổi con gái, hai má đỏ au, bà bối rối rõ rệt khi phải đứng tiếp chuyện với tôi.

- Thưa soeur đây là nội trú Domaine de Marie?

Người nữ tu gật đầu:

- Phải, khu nội trú của các em ở phía bên kia.

Tôi nhìn theo hướng tay chỉ của người nữ tu và nói:

- Sao có vẻ như chẳng có ai ở đó.

- Hôm nay chủ nhật các em được đón về nhà với gia đình hết cả.

- Thế còn các em ở xa?

- Các em ở xa thì ở lại đây với một số các em mồ côi khác.

Tôi “à” tiếng nhẹ, lẫn một chút lạ khi người nữ tu áo xanh nhắc tới những đứa trẻ mồ côi. Và không khỏi bậm môi khi tôi nhớ tới những mảnh thủy tinh vỡ trong tay mình hôm nào trên những bậc thang của Viện Dục Anh.

Thưa soeur, tôi định hỏi về Anh Chi, có thể soeur biết hết các em nội trú ở đây, nhưng tự dưng lưỡi tôi níu lại. Tôi bỏ lửng câu nói làm soeur nhìn tôi. Sự im lặng, giữa một khoảng cách nhỏ làm tôi và có lẽ khiến cả người nữ tu cũng bối rối. Tự dưng vậy thôi, và cái tâm hồn tôi thì vẫn thường rắc rối, làm phức tạp đời sống mình thêm.

Lúc ấy, tiếng chuông của ngôi nhà nguyện đổ vang, dồn dập. Vào lúc 12 giờ, tất cả những quả chuông của các ngôi nhà thờ đều rung lên để đánh dấu giờ khắc của nửa ngày. Tiếng chuông còn dội lại từ dưới thung lũng những tiếng ngân nga trước khi bặt hẳn âm thanh.

Soeur áo xanh hỏi tôi, vừa sau khi tiếng chuông dứt:

- Chắc ông có người nhà gửi trong nội trú?

Tôi đáp rất tự nhiên:

- Vâng.

- Sao ông không định đón em về chơi?

Tôi bối rối:

- Có lẽ tuần tới tôi sẽ tới thăm em ấy. Hẳn giờ này cũng muộn rồi.

Bây giờ mặt trời đã ở trên đỉnh đầu. Tôi cám ơn người nữ tu trẻ, những người nữ tu mà tôi gặp đều còn trẻ và rất dễ thương. Khi soeur áo xanh đã đi tôi còn đứng lại ở bên này đường ngó sang khu nội trú một lúc lâu rồi mới theo đường cũ mà về.

Hết một buổi sáng chủ nhật, tôi chưa gặp Chi nhưng tôi đã được ẵm Chi trên tay suốt quãng đường tìm đến thăm em. Chưa bao giờ trí tưởng tượng tôi bày vẽ ra những hình ảnh rộn rã đến thế, miệt mài đến thế. Ðó là một cơn say dữ. Nếu sau này khi có dịp trốn về với một thời, như buổi sáng hôm nay, tôi sẽ không quên. Miệng tôi đã ngọt quá vị ngọt để trở thành vị đắng.

Khi xa dần con dốc, tôi còn nghe tiếng Chi mơ hồ vang từ ngọn thông nào bên đường:

- Anh Huy!

Tôi quay lại. Chi nghiêng mái tóc xuống vai. Chi cười:

- Chủ nhật tới anh tới thăm Chi.

Anh đến từ bây giờ. Từ buổi trưa nay cho tới hết đêm của ngày thứ bảy.

Anh sẽ tới thăm em sớm hơn mọi người khác.

Anh sẽ lẫn trong sương của Ðà Lạt mà đi.

Chi cười như một thiên thần dễ thương:

- Và anh sẽ xin phép dẫn em đi chơi nữa nhé anh.

Tôi gật đầu. Khuông mặt Chi nhòa đi, với giọt nước mắt vừa ứa xuống môi cười.