TỪ BIỆT

Tráng sĩ nói tới đây, Oanh Cơ mới nhìn sang phía đông thì thấy một góc trời sáng sủa, báo hiệu mặt trời sắp sửa xuất đầu trên các ngọn đồi. Lúc đó mới mờ mờ sáng, đủ trông rõ các sự vật trong một bức màn xam xám. Sương trong rừng dầy như khói, có mặt trời lên chăng nữa, cũng còn phải đợi còn lâu mới có ánh nắng chiếu vào cây cỏ ướt đầm.

Từ tối, Oanh Cơ ngồi chễm chệ trong lòng tráng sĩ, ngoan ngoãn như một đứa bé thơ, quên cả sượng sùng, e lệ. Nàng đầu tiên sợ cọp, sau lại sợ ma, sau nữa nghe hai cái xác cười lại càng sợ thêm, hóa nên cứ bám chặt lấy tráng sĩ rúc đầu giấu mặt vào vai chàng. Kịp đến lúc chàng vui mồm kể chuyện nàng nghe, thì nàng mải mê chăm chú vào câu chuyện. Câu chuyện chàng kể lại rùng rợn ghê sợ hết sức, hóa ra nàng càng ôm chặt sát lấy người chàng không nghĩ gì đến thẹn thùng cả. Nàng bị một phen quá khủng khiếp, thần kinh đâm ra suy nhược, chả còn sức lực nào nghĩ ngợi suy tính gì. Đến buổi trời mờ mờ sáng, nàng mới hơi hơi tỉnh ngộ nhưng chung qui vẫn chưa ra khỏi cơn kinh hãi. Gia dĩ ngay dưới sàn lại có hai xác chết cứng đờ ra đó, nàng không đủ can đảm ra khỏi lòng tráng sĩ dẫu biết răng ngồi ôm lấy một người con trai lạ mặt là khó coi và vô luân lý cương thường.

Ngộ biến phải tòng quyền, nàng biết làm sao được? Nàng cứ ngồi lỳ trong lòng tráng sĩ, hai mắt lóng lánh áp vào ngực chàng không muốn nhìn sự vật bề ngoài, sợ hoàn cảnh lại gây cho nàng một nguồn đau đớn hãi hùng thứ hai nữa. Nàng ngồi yên như thế, không cựa, không nói, tuy thức mà như ngủ. Tráng sĩ tưởng nàng vì mệt nên thiếp đi, nên cũng chiều ý nàng; chàng cứ ngồi ôm lấy nàng khư khư, như giữ gìn một bảo vật quý giá. Hai người, chả ai nói với ai một lời nào nữa; cả hai cùng thả hồn vào cõi mơ màng êm dịu, mỗi người đi về một đàng nhưng có lẽ cùng chung một hướng.

Cặp thiếu niên xa lạ mà tự nhiên trời run rủi cho gần sát bên nhau trong trường hợp lạ lùng bi đát ấy, cặp thiếu niên đó cứ ngồi trơ trơ như một pho tượng, thức cũng chẳng phải thức, ngủ cũng không phải ngủ, cho mãi tới khi mặt trời lên rõ cao, rọi ánh sáng vào đám sương lam, làm cho sương biến thành hơi nước bay lên, khiến non sông được sáng láng mà cây cỏ được khô ráo nhẹ nhàng.

Tráng sĩ bấy giờ mới se sẽ vỗ vào vai Oanh Cơ, cúi xuống bảo nàng:

- Bạch nhật rồi, cô ạ! Mặt trời đã chếch quá hai sào! Bây giờ chúng ta có thể xuống được, để còn lo liệu tống táng cho ông cả và cô hai chớ!

Oanh Cơ giật mình mở mắt ngơ ngác nhìn tứ phía; hình như lúc này nàng mới rõ biết là vô tình ngồi trong lòng một thiếu mến xa lạ; nàng vùng đứng dậy, ra chỗ khác, hai má ưng ửng đỏ, chỉ biết cúi rạp mặt xuống chứ chả biết nói câu gì. Tráng sĩ cũng đứng dậy vươn vai, duỗi tay duỗi chân răng rắc; đoạn nhìn Oanh cười:

- Bây giờ chúng ta phải trèo xuống, tôi xin đỡ cộ Nếu cô đau chân quá, không leo cành cây được, tôi xin cõng cô đem xuống. Ta hãy nên để tử thi ông cả, cô hai ở đây, chốc nữa mượn ngườii đến mang ra đồng phía ngoài núi cũng chưa lấy gì làm muộn. Thôi, ta xuống đi cô! Cô nên theo tôi!

Oanh Cơ đi cả ngày hôm trớc, chân bị sây sứt sưng lên đau đớn lắm, không leo trèo được. Tráng sĩ lại phải khi bế, khi cõng, đem nàng xuống gốc cây, rồi, xuống đến mặt đất, chàng tháo dải lưng sồi của nàng ra, làm thành một cái võng, cho nàng ngồi, rồi chàng cõng nàng, chạy vèo vèo ra khói thung lũng về quán trọ của chàng.

Chàng đem nàng vào một căn phòng sạch sẽ để nàng nghỉ ngơi dưỡng sức. Rồi một mặt chàng thuê sáu người phu và đốc thúc họ vào rừng ngay để khiêng xác Văn Quản và Huyền Cơ về nhà trọ; một mặt chàng nhờ chủ quán đi mua ngay các đồ khâm liệm cùng hai chiếc quan tài.

Khi đem xác về đến nơi tự tay tráng sĩ và Oanh Cơ tắm rửa cho hai kẻ bạc mệnh, rồi đem khâm liệm ngaỵ Đám ma hôm đó thực là giản dị đơn sơ; càng giản dị đơn sơ trông lại càng thảm thiết. Một tên phu cầm một bó đuốc đi trước, rồi đến hai tên khiêng áo quan Văn Quản buộc vào một cái đòn dài. Tiếp đến áo quan Huyền Cơ cũng hai tên phu khiêng. Sau cùng, đến một tên phu đem thuổng cuốc và xẻng, rồi đến tráng sĩ đỡ Oanh Cơ vừa thất thểu lê bước vừa rũ xuống khóc như gió mưa. Thế là hết: đám tang chỉ có bấy nhiêu người.

Ra đồng, tráng sĩ truyền cho đào rõ sâu vùi rõ chặt, lịch kịch mãi mới xong. Lúc về, hai tên phu phải quàng tay làm kiệu nâng đỡ Oanh Cơ về quán trọ.

Oanh Cơ đưa xong đám ma anh và chị thì ốm liệt giường chiếu, sốt rét li bì, nói mê nói sảng. Tráng sĩ lo ngại lắm, bỏ cả cuộc săn bắn, chỉ lo thuốc thang cho nàng và ngồi bên cạnh giường bệnh của nàng thôi. Ốm nửa tháng ròng, Oanh chỉ ăn có hồ cháo qua ngày, người gầy rạc đi như vẹ Tráng sĩ thương hại lắm, chăm chút nàng như chăm nom em gái, chẳng quản công lao gì cả. Nhờ sự tận lực đó, Oanh khỏi. Tráng sĩ để nàng nằm dưỡng sức mười ngày nữa ở quán trọ; khi nàng đã ăn trả bữa, da thịt bắt đầu tươi tỉnh, lúc ấy chàng mới bảo nàng rằng:

- Nay cô khỏi rồi, tôi xin đưa cô ra Nho Quan, kẻo nữa chậm. Cô định thế nào?

- Bây giờ em ra Nho Quan làm trò gì? Anh chị em thác rồi, em ra đó cũng vô ích; vả chăng nhà quan phủ thết tiệc xong từ non một tháng, nay ra đó thì còn gì nữa!

- Thế cô phải suy tính thế nào chớ! Hay là cô về núi Gội ở với mẹ tôi, mẹ tôi sẽ yêu cô như con, tôi và anh tôi cũng sẽ quí cô như em vậy.

Oanh Cơ cúi đầu suy nghĩ một hồi, nàng ngước mắt nhìn tráng sĩ, rồi bỗng cúi gằm mặt xuống hai má ửng đỏ, nhưng chỉ thoáng một chút mắt nàng đã mờ những lệ, nàng gạt nước mắt thổn thức nói rằng:

- Em đây bây giờ bơ vơ cô độc một thân, chả còn họ hàng thân thích nào nữa, chỉ có một đứa cháu gọi bằng cô hiện còn ở Bàn Thạch. Em đội ơn anh quá nặng, biết lấy gì báo đáp được? Nếu em nhờ ơn Trời Phật còn được sống dai dẳng ít lâu nữa, có ngày em sẽ xin đền đáp nghĩa anh. Nay em đang thụ trọng tang, tâm hồn tan nát, gan dạ héo hon, chưa biết định liệu ra làm sao cả. Em xin anh cứ theo đuổi các việc anh làm, đừng vì em mà phí cả ngày giờ cùng tâm lực. Anh mặc em sống nốt quãng đời thừa này. Nguyện vọng duy nhất của em bây giờ là được ở chốn này cư tang và săn sóc mồ mả cho hai anh chị em mà em cũng coi như là cha mẹ; em sẽ để trở và mặc chế phục sô gai trong hai mươi bảy tháng, họa là vong linh anh chị em đỡ tủi một đôi phần! Chỉ có một điều em đáng ngại là mai đây, khi anh từ biệt em để trở về quê nhà anh, em sẽ chịu lẻ loi thân gái, sống giữa nơi xa lạ chả còn ai thân thích quen thuộc nữa! Em muốn nhắn thằng cháu ra để ở chung với em cho vui, và luôn thể để hầu hạ giúp đỡ em nhưng biết nhắn ai bây giờ? Cháu em tên là Nguyễn Đức Tiêu, nó hiện ở làng Đại Thạch, cũng gần Bàn Thạch là quê quán em, vì bác em từ xa di cư ra ở đấy, đến nay đã ba đời. Làng Đại Thạch cũng như làng Bàn Thạch là nguyên quan của giáo phường; hai làng ấy thuộc về phủ Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa...

Oanh Cơ nói xong, lệ rỏ ròng ròng ướt đẫm cả hai gò má. Tráng sĩ nhìn nàng rất ái ngại, bảo nàng rằng:

- Cô chớ lo ngại! Cứ chịu khó ở tạm đây năm bảy hôm nữa, tôi thu xếp công việc cho cô, lúc đó sẽ về!

Oanh Cơ nghe lời ân nhân, ở lại trong quán trọ. Độ mươi ngày sau, một hôm tráng sĩ đi săn về, vui vẻ bảo nàng rằng:

- Công việc xong rồi, bây giờ cô chỉ còn phải dọn nhà là yên ổn cả!

Chàng đem nàng đến một nơi cao ráo, nàng lấy làm ngạc nhiên thấy, từ lúc nào không rõ, chàng đã sai thợ lợp riêng cho nàng một nếp nhà sàn rộng rãi chót vót đứng giữa một thửa vườn bát ngát mênh mông. Nàng vừa mừng rỡ, vừa ngại ngùng cảm động, bước lên thang vào sàn. Tới nơi, nàng ngã ngửa người ra: đồ đạc nồi siêu và quần áo rương hòm sắm sửa bày biện sẵn sàng cả; và trong hoàn cảnh êm ấm đó, có phải ai đâu xa lạ, rõ ràng cháu ruột nàng Nguyễn Đức Tiêu, ngồi chễm chệ Ở một phòng trên một góc chiếc ghế đẩu!

Thấy Oanh Cơ, Tiêu mừng quá, chạy tất tưởi lại đón cô, nói tíu tít:

- "Cô ơi! Cô đã mạnh chưa? Cháu nghe bác Hai đây" Tiêu có ý trỏ tráng sĩ "nói rằng chú và cô Huyền cháu thác vì vuốt hổ, lòng cháu đau đớn vô cùng; nhưng biết rằng cô còn sống sót, cháu sung sướng quá! Từ nay cháu ở đây hầu hạ cô mãi mãi không để cho cô phải ở một mình đâu cô ạ!"

- Ai nhắn nhủ cháu ra, mà cháu biết lần mò len lỏi tới nơi đây?

- Mấy hôm trước, có hai người về tận Đại Thạch đón cháu, bảo cháu dẫn sang nhà cô ở Bàn Thạch. Song họ nói cho cháu rõ cô hiện ở Đồng Giao; muốn cư ngụ tại đó, nên cho người về đón cháu và khuân các đồ đạc ra ngoài này. Họ chọn lấy những đồ đạc còn tốt và thường dùng, đem đi, còn bao nhiêu, bỏ lại cả. Đến Đồng Giao, họ đem cháu lại nhà này, cháu được gặp bác Hai mới rõ đầu đuôi câu chuyện...

Mắt Oanh Cơ mờ hẳn đi vì lệ ứa trào ra. Nàng cảm động quá, vuốt ve đầu cháu rồi lại ngồi ở một chiếc ghế thấp. Tráng sĩ ngồi ở một góc giường. Oanh đợi khi tráng sĩ vô tình giữa lúc xuất kỳ bất ý nàng ngồi xệp xuống sàn, ngoảnh về phía chàng ngồi, lạy hai lạy rất cung kính. Chàng luống cuống đứng dậy nhưng không kịp nữa, vội chạy lại đỡ nàng lên, rồi bằng một giọng nghẹn ngào:

- Ô kìa! Sao cô lại làm như vậy, tôi chả tổn thọ mất ư? Bổn phận tôi là phải thế, cô chớ cám ơn tôi làm gì. Người ta ở đời, chả qua nợ đồng lân nhau cả, có chi mà phải bận long! Trong nhà này, tôi đã xếp đặt đủ cả, cô có thể sống nổi trong nửa năm. Trong hòm kia, có tích sẵn vài chục quan tiền, cô cứ việc lấy mà chi dụng. Sáu bảy tháng, tôi sẽ qua một lượt thăm cô, khi nào cô hết tang, thì sẽ di cư đi chỗ khác, đừng ở nơi đây mà bất lợi. Cô phải cho cẩn thận, chớ có đi đêm về tối, lỡ ra có sự khó lòng. Nhà này, tôi đã có ý làm cao, có hai từng sàng. Nếu động dụng gì, cô khá lên gác trên mà ẩn, đừng ở lớp dưới nhé! Thôi công việc của tôi thế này là tạm yên ổn, tôi xin bái biệt cộ Cô nên thận trọng lấy mình, chớ để phụ lòng tôi đó!

Tráng sĩ nói xong, đứng dậy từ biệt, Oanh Cơ lúc ấy không hiểu thế nào, tựa như ngại ngùng quyến luyến, không nỡ chia taỵ Nàng muốn giữ tráng sĩ lại chút nữa, nhưng cũng thẹn thùng không dám. Nàng thổn thức sùi sụt, ứa nước mắt tiễn tráng sĩ xuống gác, muốn nói vài lời tống biệt mà nghẹn ngào không nói được, chỉ thỏ thẻ được một lời:

- Em xin lạy anh!

Thế là hết. Rồi nàng đứng tựa gióng cửa sàn đờ mắt nhìn theo chàng mãi, theo mãi, tới khi bóng chàng khuất sau rặng lau, bụi duối thì thôi. Ra đi, chàng cũng dùng dằng; lúc thất thểu trên con đường, chàng cũng ngoái cổ nhìn lại, thấy bóng nàng dựa cửa trông chàng, một cảm giác êm ái đầm ấm tự nhiên bừng nổi dậy, làm giảm một đôi phần nỗi buồn rầu thấm thía của sự phân lỵ Chàng nện mạnh gót trên đường, cắm đầu đi thẳng, cố xua đuổi trong lòng những ý tưởng bất chính, không xứng đáng với một tay thiếu niên nghĩa hiệp như chàng... Chàng đi, đi được bao xả Cứ hùng dũng tiến được mươi bước, là đã ngại ngùng muốn quay gót lại. Trở lại e bất tiện quá, chàng đành quay đầu trông lại mà thôi. Chàng vẫn thấy bóng nàng như bóng đá vọng phu, còn sừng sững đứng trên thang nhìn theo chàng không ngớt, nhìn mãi, nhìn mãi, lấy luồng nhỡn tuyến đuổi theo chàng...

Muốn cho tâm hồn khỏi bị suy nhược, sa ngã, chàng nhắm mắt lại, vùng cẳng chạy một mạch, không dám ngoái cổ lại nữa.

Tráng sĩ đi rồi, Oanh Cơ ở lại một mình với cháu là Nguyễn Đức Tiêu, tại Đồng Giao. Nhờ có tiền nong tráng sĩ để lại, nàng cùng cháu sống phong lưu lắm. Tuy nhiên, nàng cũng cố làm lụng cho khỏi ăn không ngồi rồi, nàng mở một cửa hàng nhỏ ở trên sàn, nhận vải cắt áo quần để may vá. Nàng đoạn tuyệt hẳn với nghề ca xướng, dẫu rằng cháu nàng cũng có thể đàn tạm để nàng hát được. Có hát nữa, thì ở mạn Đồng Giao buổi đó, đã mặt nào là tay biết thưởng thức cầm cả Kể ra, khâu vá kiếm ăn, cũng đủ chi tiêu sinh hoạt, lọ là phải giở nghề cũ làm gì? Vả có danh giá gì cái nghiệp "xướng ca vô loạI" ấy? Cháu nàng giúp nàng các việc vặt như đi chợ, gánh nước vân vân... Nói tóm lại, Tiêu là tay sai, hễ cứ có việc gì phải ra ngoài thì cậu phải gánh vác cả; còn nội bao công việc trong nhà thì có Oanh đảm đang. Một đàng ngoại giao một đàng nội vụ. Thành ra Oanh Cơ ở đấy đến ba bốn tháng, mà chả biết mặt mũi nàng. Bởi lẽ nàng không bước chân ra khỏi cửa bao giờ cả. Cứ tối đến, cháu nàng ngủ ở từng sàn dưới, còn nàng thì leo lên từng cao nhất để ẩn mình.

Từ độ Oanh Cơ đến trú ngụ Ở Đồng Giao, trong hạt bỗng xôn xao bàn tán về một câu chuyện lạ. Ấy là chuyện làm đầu đề cốt yếu cho bài thuật này đó, chuyện hát ả đảo ở trong rừng. Cứ đêm đêm, quá trống canh hai, trong một thung lũng cách Đồng Giao gần năm dặm người ta nghe có tiếng véo von đàn hát não nùng. Những kẻ táo bạo rủ nhau vào rừng đi xem, lúc về đều thuật đúng như thế cả. Mới đầu tiên, cả vùng kinh dị, nhưng rồi lâu dần cũng quen đi, chả ai nói đến nữa; họ đều cho là một sự dĩ nhiên, không có gì lạ cả.

Chỉ riêng một mình Oanh Cơ biết đó là hồn anh chị mình hiện lên; nàng tin rằng hai anh chị mình linh thiêng nên hết sức chăm chỉ lễ bái, cúng tuần cúng giỗ cho vong hồn kẻ khuất, vả lại sai cháu cứ ba ngày thì ra thăm mả Quản và Huyền một lần.

Oanh Cơ sống yên ổn và kiên nhẫn quãng đời hiu quạnh lặng lẽ của nàng dưới mái ngôi nhà sàn, không nghĩ gì đến tương lai cả. Thỉnh thoảng nàng cảm thấy tấm lòng dào dạt, vì hình như tráng sĩ tự nhiên bỗng hiện ra rõ rệt trong ký ức nàng, tươi cười, sángsủa, khiến nàng bị trái tim vỗ đập, máu trào lên gò má, nóng bừng. Mỗi lần như thế, nàng lại cố nén lòng, lấy tay để lên ngực, rồi nhắm mắt lại, xua đuổi cái ám ảnh kia. Song nó nhất định không đi, bắt nàng cứ phải luôn luôn trông thấy. Nàng vơ vẩn đứng dậy, nâng tấm liếp con lên, tỳ tay vào thành song thưa vơ vẩn trông trời...

Nàng đứng như thế giờ lâu, bỗng mắt nàng để ý đến những vết gì, tựa như lốt chân một giống vật to lớn, in sâu xuống nền đất cát, ở ngay thềm nhà nàng. Những vết nhiều lắm, không biết bao nhiêu mà đếm được.

Nàng đi vòng gác nhìn ra bốn phía, cũng đều như thế. Lại có vết ở ngoài vườn, trên luống rau, trên luống khoai, rau và khoai bị dẫm nát cả. Có lẽ là vết chân lợn lòi về đào trộm khoai chăng? Nàng đợi cháu đi chợ về, chỉ cho nó xem, nó sợ hãi lắm. Hai cô cháu bàn tán, chả biết vết gì. Tối hôm đó, cả hai cùng không ngủ, đóng cửa ngõ từ trước buổi sâm sẩm tối, lấy bàn ghế và gỗ chặn ngang cửa chính, xong tắt đèn đóm lên tận gác trên, hé liếp ngồi rình, mỗi người một xó. Đêm hôm ấy, có trăng khuyết, ánh sáng mờ mờ thỉnh thoảng mới lọt qua vừng mây ám mà tỏa ra một lúc, rồi mất ngay, trời đất lại tối như mực. Hai cô cháu rình lâu lắm; hết canh hai đầu canh ba bỗng thấy một cái bóng đen dài, lớt đi rất nhẹ nhàng trên thềm cát, đi vòng khắp nhà. Cái bóng ấy có hai con mắt lớn, đỏ rực như hai ngọn đèn; hai cô cháu nhận biết ngay là mắt hổ, vì vẫn nghe các người chung quanh vùng nói như thế.

Oanh Cơ sợ quá hét lên một tiếng, ngã lăn trên mặt sàn. Con quái vật kia, nghe tiếng động, vùng cẳng chạy mất. Thì ra một con hổ vẫn lợn qua nhà nàng, đêm nào cũng vậy. Hai cô cháu nàng rình bốn năm đêm, đều thấy bóng hổ đi lại tuần tiễu quanh nhà, tìm kế leo lên sàn. Cả hai cùng lo ngại cực điểm. Rạng ngày thứ năm. Tiêu chạy ra chợ, tìm một thầy số dắt về. Oanh đặt tiền quẻ, kể đầu đuôi câu chuyện cho thầy số nghe, rồi khóc mà hỏi rằng:

- Nhờ thầy coi giúp cho cháu một quẻ, và xem có cách gì cứu cháu thoát nạn được chăng?

Ông thầy bấm quẻ hồi lâu, nghiêm nghị phán rằng:

- Cô không lọ Thọ mệnh cô vững lắm, chưa có thể chết ngay được. Ít ra, cô cũng còn sống được lâu nữa, bây giờ chưa đáng ngại đâu! Nó không làm gì được cô cả! Cô chỉ nên bỏ tạm chốn này lánh mình xuống thuyền ở vài tháng là tự nhiên nó chán, không theo cô nữa!

Ông thầy số đó chính là cậu ruột tôi. Trong khi ông đoán quẻ cho Oanh Cơ, nàng có thuật rõ cho ông nghe trường hợp gặp gỡ tráng sĩ Lê Trọng Việt ra làm sao, tình hình anh chị nàng bị thác ra làm sao, nàng được thoát nạn thế nào, câu chuyện tráng sĩ kể cho nàng nghe thế nào, và sự tráng sĩ giúp đỡ nàng những thế nào v.v… Sau này kể lại chuyện ấy tôi nghe cậu tôi nói:

- Lúc đó cậu thấy nàng bồn chồn kinh sợ quá, cậu cũng động tâm thương nàng, không muốn nói sự thực cho nàng phải lo nghĩ khủng khiếp. Theo quẻ, nàng có số cọp vồ chết chỉ còn sống được dăm bảy năm nữa là cùng!

Không biết về sau nàng bị tuẫn nạn ở đâu, chỉ biết sau khi nghe thầy số bảo thì nàng bỏ tiền dành dụm ra mua một cái thuyền con, thu xếp đồ đạc, rồi khóa chặt cửa nhà lại, mang cháu xuống thuyền, bập bềnh trôi nổi trên mặt một con sông con không xa hạt Đồng Giao mấy. Nàng yên trí lánh nạn như thế độ một hai tháng thì yên. Lúc bấy giờ sẽ trở về nhà cư tang anh chị như cũ, cho hết hạn hai mươi bảy tháng thì thôi, nhiên hậu đi đâu sẽ định liệu cũng không muộn.

Ngờ đâu đến ở trên sông, mà nàng cũng bị hổ theo rình để bắt. ngày ngày nàng ra đầu thuyền vo gạo rửa cá, nhìn lên bờ thấy ông tướng kia ngồi chồm chỗm chõ mắt nhìn nàng. Giá lần đầu, có lẽ nàng thất đảm ngã lăn xuống nước, nhưng lâu nàng cũng quen đi chỉ tất tởi bỏ gạo cá chạy thụt vào khoang thuyền mà thôi. Hổ rình chán, chả làm gì nổi gầm lên cút thẳng.

Oanh Cơ và cháu sợ hãi, nhổ sào đi về khoảng sông rộng hơn, cắm thuyền tận giữa sông, không dám lại gần bờ. Như thế hổ không làm gì ra tận giữa dòng được, hai cô cháu sẽ khỏi bị nạn. Khốn nỗi tránh khỏi cái nạn hổ, lại khó qua nạn phong ba; đã không dám đậu thuyền sát kề bờ, mỗi lần có sóng gió thì còn gì là tính mạng. Nhất là hai cô cháu không phải nòi chài lới, nhỡ bị lật thuyền hẳn là chết ngạt chết trôi thôi! Hai cô cháu đều không biết bơi, thế mới lại càng nguy hiểm! Nghĩ cho kỹ, ở trên đất cũng chết, xuống dưới sông cũng chết, chả thà lên mặt đất còn hơn. Tử sinh hữu mệnh, thầy số đã cho biết mình còn sống được lâu nữa, sợ gì mà chả dám về sàn ở như thường? Ta chỉ việc đóng cửa ngõ cho sớm, chặn cho chắc, lên tận từng cao mà nằm, rút thang đi, nó giỏi mấy cũng không lên được. Ta cứ đừng đi đâu, ở tịt trong buồng kín, dễ thường đã bắt được ta?

Nghĩ như vậy, chọn lúc mặt trời đúng ngọ, nàng cắm thuyền vào một chỗ đông đúc, thu xếp đồ đạc, thuê một toán phu khuân vác và hộ nàng đi ngựa trở về Đồng Giao. Tính đốt tay, hôm nàng lại nhà sàn chính là hôm cách sáu tháng về trước anh chị nàng bị chết nạn trong rừng.