THIÊN THẦN GẪY CÁNH - GABRIEL GARCIA MARQUE (Nobel 1982)
(A Very Old Man with Enormous Wings)
Trịnh Tường dịch


Khi mưa đến ngày thứ ba, cua bò vào nhà nhiều đến nỗi Pelayo giết cũng không xuể nữa. Chàng phải lội qua khoảng sân trước nhà để ném chúng ra biển. Vì vợ chồng Pelayo mới sanh thằng con và họ nghi rằng chính vì mùi cua mà thằng bé bị sốt nặng cả đêm. Từ thứ Ba, thế giới buồn thảm đạm. Biển cũng như trời xám như tro, và bờ biển thường sáng long lanh trong những đêm tháng Ba, bây giờ nhầy nhụa những bùn và mùi cá chết. Dù giữa trưa, ánh sáng mặt trời cũng yếu ớt đến nỗi khi Pelayo sau khi ném lũ cua ra biển trở vào nhà cũng không nhận ra một đống thù lù đang cựa quậy và rên rỉ ở sân sau. Chàng phải tiến lại thật gần mới nhận ra đó là một lão già lụ khụ đang nằm úp mặt xuống vũng bùn, và dù có cựa quậy thế nào đi nữa cũng không trở dậy nổi vì lão ta có một đôi cánh khổng lồ.

Kinh hoàng như gặp cơn ác mộng, Pelayo chạy vào gọi vợ, Elisenda, lúc đó đang đắp khăn ướt lên trán thằng nhỏ, ra xem. Hai vợ chồng đứng đờ ra nhìn hình thù quái lạ đang cựa quậy. Lão già trông như một người đi lượm rác. Đầu hói bóng, chỉ còn lưa thưa vài sợi tóc bạc, và vài chiếc răng lung lay còn sót lại. Trong tình trạng thảm hại này, nếu lão ta có được vẻ uy nghi nào thì cũng không còn nữa. Đôi cánh rộng như cánh chim ưng bẩn thỉu, cụp xuống, bị dính cứng vào đống bùn. Cả hai vợ chồng đứng sững nhìn lão ta thật lâu và khi đã bình tĩnh trở lại, họ thấy ở lão ta một vẻ quen thuộc. Cả hai cùng cất tiếng hỏi, nhưng lão đáp lại bằng một thứ tiếng lạ, với giọng ồm ồm như những tay thủy thủ. Vợ chồng Pelayo cũng bớt sợ, và cho rằng đây chỉ là một tay đi biển nào đó bị đắm tầu trôi dạt vào đây. Tuy vậy, họ cũng gọi bà hàng xóm thông thái của họ sang xem. Bà ta chỉ cần liếc qua là biết ngay họ đoán lầm.

"Thiên thần đấy," bà ta bảo họ với giọng quan trọng. "Chắc ổng được phái xuống để chữa cho thằng nhỏ, nhưng chắc già yếu quá nên bị trận mưa làm cho rớt xuống đây luôn."

Ngày hôm sau, cả làng đều biết là có một thiên thần bằng xương bằng thịt đang bị nhốt trong nhà Pelayo. Dù bà hàng xóm cho biết là ngày nay thiên thần là những kẻ phạm tội trên thiên đình trốn đi, họ cũng không nhẫn tâm đập chết lão già. Cả buổi chiều hôm đó, chàng còn cẩn thận kéo lão ra khỏi đống bùn, và nhốt vào chuồng gà. Cho đến nửa đêm, khi mưa dứt và cả hai vợ chồng Pelayo vẫn còn đang bận giết những con cua chạy lung tung trong nhà, bỗng thằng nhỏ tỉnh dậy, khỏe khoắn như không, lại còn đòi ăn nữa. Hai vợ chồng bỗng thấy "lòng từ bi bất ngờ", và quyết định cho lão ta lên một chiếc bè với lương thực đủ cho ba ngày và thả lão ta ra đương đầu với biển cả. Nhưng khi sáng dậy, cả làng đã kéo đến bu quanh chuồng gà, vừa ngắm nghía vừa chọc ghẹo ông già không nể nang gì cả. Họ ném đồ ăn cho ông lão qua mắt lưới chuồng gà như đối với một con thú trong gánh xiệc, chứ không phải đối với một sinh vật siêu nhiên.

Linh mục Gonzaga đến trước bảy giờ sáng, vì ông cũng nghe được những tin đồn vệ sự việc lạ lùng vừa xảy ra. Vào lúc đó những kẻ hiếu kỳ lúc sớm đã bỏ đi hết, những người mới đến sau xúm lại bàn tán chỉ trỏ lung tung, người thì cho rằng lão nên được bầu làm chủ tịch của cả thế giới. Những người khác cho rằng ông ta phải làm một ông tướng năm sao để có thể thắng được mọi trận chiến. Vài kẻ mộng mơ lại nghĩ rằng nên cho ông già này vào lò ngựa giống để có thể tạo ra một giống người thông minh, có cánh để chinh phục thế giới. Nhưng cha Gonzaga, trước khi thành một linh mục, hành nghề thợ rừng cho nên rất thực tế, ông phải ngẫm nghĩ xem nên dụng văn hay dụng võ. Song le, vì "cha là linh mục" cho nên khi đứng bên chuồng gà ông duyệt lại bộ giáo luật và bảo đám người bu xung quanh mở chuồng cho ông "vào trận". Ông nhìn lão già đáng thương đang nằm như một con gà khổng lồ bịnh hoạn giữa đám gà con ngơ ngác. Lão ta nằm trong góc chuồng phơi đôi cánh giữa đống vỏ trái cây và thức ăn sáng còn dư do những người đến từ sáng sớm ném vào. Lạc lõng với thế giới loài người, lão chỉ mở đôi mắt xanh ngắt mầu nước biển, và lẩm bẩm thứ tiếng lạ khi cha Gonzaga cất tiếng chào bằng tiếng La-tinh. Ông cha xứ bỗng đâm nghi cái hình thù trước mặt vì lão ta không hiểu được ngôn ngữ của Thượng Đế, và không biết cách chào vị chủ chăn chút nào hết. Càng nhìn kỹ, ông càng thấy ông già không có chút gì "thiên thần" hết: mùi hôi nồng nặc bốc lên vì nhiều ngày không tắm rửa, đôi cánh bị đầy bọ bám vào, và những chiếc lông vũ bị gió thổi làm xơ xác cả. Sau khi nghiên cứu xong ông bước ra và cảnh cáo đám dân hiếu kỳ không được tưởng tượng ra những điều quái lạ. Ông cũng nhắc cho họ nhớ là quỷ sứ thường mượn các trò như đoàn xiệc để lừa bịp dân khờ.

Ông lý luận rằng nếu đôi cánh không phải là yếu tố chính để phân biệt một con chim và một chiếc máy bay, thì cũng khó nhận ra được một thiên thần chỉ vì đôi cánh. Song le, ông cũng hứa sẽ viết thư cho Cha Bề Trên để Đức Cha sẽ chuyển lên dần cho đến Đức Giáo Hoàng để xem ngài phán như thế nào.

Sự cẩn thận của cha xứ cũng chỉ vô ích cũng như phúc âm gieo vào những kẻ cứng lòng. Tin một thiên thần bị bắt truyền đi mau lẹ, và chỉ trong vài giờ, sân trước nhà Pelayo đã biến thành một cái chợ ồn ào, huyên náo đến nỗi người ta phải gửi lính mang lưỡi lê đến giữ trật tự khi đám đông tràn vào như muốn xô xập căn nhà. Elisenda, sau khi phải còng lưng quét dọn rác, nảy ra sáng kiến làm hàng rào quanh nhà, và bán vé vào cửa mỗi người 5 xu để xem thiên thần.

Những kẻ hiếu kỳ từ mọi nơi xa đều đến xem. Lúc đó có một đoàn xiếc từ xa đến, có màn trình diễn đu bay nhưng chẳng ai thèm xem cả vì cánh bay của họ không phải là cánh thật. Những kẻ tàn tật, bất hạnh đến xin thuốc chữa bệnh: một người đàn bà nghèo bị bịnh cứ đếm nhịp tim của mình từ lúc mới sinh ra và đã đếm hết cả số rồi; một người Bồ Đào Nha bị mất ngủ vì âm thanh của những vì sao quá ồn ào; một kẻ mộng du cứ đêm đêm thức dậy phá hết những gì ban ngày hắn làm được; và còn nhiều những kẻ khác bị bịnh nhẹ hơn. Đoàn người hành hương hỗn độn, ồn ào khiến cho trái đất rung động, nhưng Pelayo và Elisenda vừa mệt vừa vui, vì chỉ trong vòng chưa đến một tuần họ đã chất tiền vô đầy nhà, trong khi đoàn hành hương vẫn còn dài dằng dặc cho đến mãi chân trời.

Trong lúc thiên hạ chộn rộn, bận bịu mua vé vào xem thiên thần như xem diễn viên đóng trò thì thiên thần vẫn mặc kệ. Ông dùng hết thì giờ cố làm sao cho được thoải mái trong "cõi tạm" chuồng gà nóng như quỷ vì những ngọn đèn dầu, và những ngọn nến thánh đặt dọc theo cửa chuồng. Lúc đầu họ thử cho lão ăn những cục long não, vì theo bà hàng xóm thông-thái, long não là thức ăn chính của thiên thần. Nhưng lão không chịu ăn, cũng như không ăn những thức ăn dành cho các bậc tu hành do những kẻ đang ăn năn tội lỗi mang tới. Và họ cũng không thể hiểu nổi không biết vì lão là thiên thần, hay chỉ là một ông già mà cuối cùng lão cũng chỉ ăn những nụ cà pháo. Lão dường như chỉ có một đức hạnh siêu nhiên ấy là sự kiên nhẫn chịu đựng, nhất là trong những ngày đầu khi những con gà mái mổ vào đôi cánh to sù của lão để tìm những con bọ chét bám đầy trong đó, và khi những kẻ tật nguyền kéo những chiếc lông cánh để thoa vào chỗ tật nguyền của họ; ngay cả khi có những tên độc ác ném đá vào mình lão cố làm cho lão đứng dậy để xem hình thù thế nào. Chỉ có một lần họ thành công khi dí một thanh sắt nung nóng, vì lão cứ nằm bất động trong hàng giờ khiến họ nghi rằng lão đã chết. Nhưng lão choàng tỉnh dậy, gừ lên những tiếng lạ, và đôi mắt thì đẫm lệ, rồi vỗ vỗ đôi cánh khiến cho một cơn trốt đầy phân gà, và bụi kèm theo một cơn gió kinh hoàng dường như chưa có trên quả đất bao giờ làm cho họ kinh hoảng. Mặc dù nhiều người cho rằng phản ứng này của lão chỉ vì đau chứ không phải vì giận, họ cũng cẩn thận không dám chọc lão nữa, vì đa số hiểu rằng sự thụ động này không phải của một vị anh hùng sa cơ mà là của ngọn núi lửa đang bị đè nén.

Cha Gonzaga phải dùng chiêu chiều chuộng đám đông như một một người tớ gái để ngăn đám đông đừng làm thêm những hành động bất kính, cho đến khi nhận được phán quyết cuối cùng của Giáo Hoàng về số phận của "lão thiên thần". Nhưng thư từ La-Mã không có gì lộ vẻ khẩn trương cả. Họ nhẩn nha tìm hiểu xem lão có lỗ rốn hay không, ngôn ngữ của lão có dính dáng đến tiếng Aramic, hay chỉ là một người Na-Uy có cánh. Những lá thư này có lẽ sẽ tiếp tục cho đến khi tận thế nếu không có một biến cố khác xảy ra cất đi cái bệnh nhức đầu ông cha xứ mắc phải từ khi thiên thần mắc đọa.

Trong suốt thời gian đó, ngoài các gánh hát đến rồi đi, có một cuộc trình diễn của một người đàn bà bị biến thành một con nhền nhện vì không vâng lời cha mẹ. Vé vào cửa cũng bằng vé vào xem thiên-thần-mắc đọa, nhưng người ta được hỏi bà này và được sờ mó từ đầu đến chân để chứng thực là bà ta bị biến hình thật sự. Bà ta là một con nhện đầu người, to bằng một con cừu đực. Nhưng điều làm cho người ta não lòng nhất không phải vì hình dáng của bà ta mà vì sự đau khổ thành khẩn khi bà ta kể lại chi tiết về nỗi bất hạnh bà phải chịu. Khi còn là một cô bé, cô ta đã trốn nhà đi "nhót". Khi về nhà, sau khi đã nhảy suốt đêm mà không xin phép cha mẹ, cô đi qua một cánh rừng, bỗng một tiếng sấm nổ vang xé bầu trời ra làm hai, và cô bị sét đánh hóa thành một con nhện. Thức ăn của bà ta bây giờ là những viên thịt mà những kẻ hảo tâm quăng vào miệng. Một cảnh tượng như thế, đầy chất "người", và mang một bài học đáng sợ đến thế gần gũi với loài người hơn, và dĩ nhiên, "show" thiên thần không ăn khách nữa. Thêm vào đó, một vài phép lạ xảy ra từ "lão thiên thần" cho thấy lão tâm trí không được bình thường. Một kẻ mù không sáng mắt được mà mọc ra ba cái răng mới, hoặc kẻ què không đi được lại trúng số, và người cùi không hết bịnh mà những vết loét lại trổ những bông hoa hướng dương. Những phép lạ này làm cho lão thần tiên mất hết tiếng tăm khi bà nhện xuất hiện. Khi đó cha Gonzaga mới thực sự hết mất ngủ, và gia đình Pelayo mới trở lại bình thường, vắng vẻ như trong ba ngày mưa dầm với lũ cua bò lúc nhúc trong nhà.

Tuy vậy, chủ nhà cũng chẳng có gì tiếc nuối. Họ đã có đủ tiền để cất một căn nhà hai từng có ban-công, có vườn, có hàng rào cao ngăn không cho lũ cua lọt vào nhà trong mùa đông, và cửa sổ có song sắt để ngăn không cho ông lão chui vào. Pelayo xây một trại nuôi thỏ gần phố, và bỏ nghề làm phú-lít vĩnh viễn. Elisenda cũng sắm sửa giầy cao gót, áo sa-teng, quần lụa lèo để mặc trong những ngày chủ nhật như những người đàn bà khác thời bấy giờ. Chuồng gà là nơi duy nhất không được tu bổ gì hết. Nếu họ có quét dọn bằng dầu thơm, hay xông trầm đều đều, không phải vì họ kính nể gì ông già mà vì phân dính đầy tứ tung, mùi hôi thối không thể tả cứ ám vào căn nhà mới sẽ làm cho nó cũ đi. Nhưng dần dần họ hết sợ, và dần dần quen với mùi khó chịu đó. Trước khi thằng nhỏ mọc chiếc răng thứ hai, nó lẫm chẫm đi vào chuồng gà để chơi, vì các song chắn đã xiêu vẹo, rụng rơi cả rồi. Lão thiên thần cũng chả tỏ vẻ gì thân mật với nó hơn đối với những sinh vật khác, nhưng lão chấp nhận sự nghịch ngợm vô tư của thằng nhỏ với sự kiên nhẫn của một con chó không có một ảo tưởng nào cả. Cả hai đều bị bệnh đậu gà cùng một lúc. Vị bác sĩ chữa cho thằng nhỏ không ngăn được tính tò mò cố nghe tim thiên thần xem nó đập như thế nào, nhưng ông ta chỉ nghe được những tiếng kêu rù rù trong quả tim, và hàng chục thứ tiếng khác nhau trong trái thận, khiến ông không thể tin là lão có thể sống được. Điều làm cho vị bác sĩ ngạc nhiên nhất là đôi cánh. Nó dính vào xác thịt lão già một cách tự nhiên đến nỗi ông ta tự hỏi tại sao những người khác không thể có được.

Khi thằng nhỏ đến tuổi đi học, thời gian và mưa nắng làm cho chuồng gà sụp đổ. Lão ta đi lê thê trong vườn từ nơi này sang nơi nọ như một bóng ma trơi. Thường sau khi dùng chổi quét lão ta từ trong buồng ngủ ra, lại thấy lão ở trỏng rồi. Dường như lão có thể có mặt tại nhiều nơi trong cùng một lúc đến nỗi họ tin rằng lão có phép phân thân làm Elisenda khó chịu như phải sống trong một địa ngục đầy những thiên thần. Hầu như lão không ăn uống gì cả, và đôi mắt mầu xanh nước biển lúc nào cũng như phủ một lớp sương mờ làm cho lão ta hết va đầu vào cột này lại đâm đầu vào cột khác. Quần áo lão đã rách nát hết, chỉ còn trơ trọi những sợi lông khiến cho Pelayo phải cho lão một tấm mền và động lòng trắc ẩn cho lão ngủ trong nhà kho, và chỉ khi đó họ mới biết lão bị sốt về đêm, và cứ lầu bầu thứ tiếng khó nghe như của một lão già người Na Uy. Có đôi lần họ tưởng rằng lão "đi đứt rồi". Ngay cả bà hàng xóm thông-thái cũng không biết phải làm sao với một cái xác thiên thần.

Nhưng không những lão "qua hết một mùa đông" mà còn khỏe ra trong những ngày nắng ấm. Lão vẫn nằm bất động trong vài ngày ở tận một góc vườn nơi ít người để ý. Khi tháng Chạp bắt đầu, một vài chiếc lông vũ mọc trở lại trên đôi cánh, những sợi lông cứng như lông quạ lại càng làm tăng thêm nỗi thảm hại trên một thân hình tiều tụy. Nhưng lão hẳn biết nguyên do của những sự thay đổi này, vì lão rất cẩn thận không để ai chú ý tới, cũng như bài hát về biển lão thường ngân nga dưới những vì sao. Một buổi sáng kia, khi Elisenda đang thái những củ hành cho bữa ăn trưa, thì một cơn gió dường như từ biển thổi vào trong bếp. Nàng chạy ra cửa sổ và bắt gặp lão đang vỗ cánh tập bay, nhưng rất vụng về vì khi té xuống móng tay lão cào thành những luống dài trên những liếp rau, đôi lần suýt nữa làm sụp luôn nhà kho vì đôi cánh chưa đủ sức cản gió. Nhưng sau một lúc lão bay lên được. Nàng thở ra một hơi nhẹ nhõm cho chính nàng, và cho cả lão nữa khi nàng thấy lão từ từ bay bay khuất khỏi những căn nhà cuối cùng với đôi cánh đập như cánh chim ưng. Nàng tiếp tục nhìn theo cho đến khi không còn nhìn thấy nữa, bởi vì lão không còn là một nỗi khó chịu trong đời nàng, mà chỉ như một chấm tưởng tượng ở cuối chân trời.